Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Chúa Nhật II Phục Sinh A - Kính Lòng Chúa Thương Xót

  1. Chúng Tôi Đã Xem Thấy Chúa
  2. Biểu Lộ Niềm Tin
  3. Lòng Mến Hỗ Trợ Ðức Tin
  4. Đức Tin Và Lý Trí
  5. Hãy Tin
  6. Tin - Người Có Phúc
  7. Cho Niềm Tin Quay Về
  8. Phúc Cho Ai Không Thấy Mà Tin
  9. Chúa Nhật II Phục Sinh
  10. Gặp Gỡ Đức Kitô Phục Sinh
  11. Niềm Tin Vào Chúa Kitô Phục Sinh
  12. Sống Đức Tin
  13. Đức Tin
  14. Hãy Vững Tin
  15. Nếu Tôi Không Xỏ Ngón Tay Vào Lỗ Đinh
  16. Đức Giêsu, Vị Lương Y Giỏi Của Tâm Hồn
  17. Tôma, Chớ Cứng Lòng Nhưng Hãy Tin!
  18. Trái Tim Người Thầy, Trái Tim Học Trò
  19. Phúc Cho Ai Không Thấy Mà Tin
  20. Bình An
  21. Lửa Thử Vàng, Gian Nan Thanh Luyện Niềm Tin
  22. Chúa Nhật II Phục Sinh
  23. Người Chậm Tin
  24. Đừng Cứng Lòng, Nhưng Hãy Tin

CHÚNG TÔI ĐÃ XEM THẤY CHÚA
Ga 20, 19 - 31

Anh chị em thân mến,

Còn niềm vui nào lớn hơn khi tìm lại được người thân, nhất là khi ta tưởng rằng họ đã chết vĩnh viễn. Thử tưởng tượng: sau trận sập cầu Cần Thơ, ta may mắn vô cùng vì tìm lại được người thân mà họ vẫn còn sống... hay trong trận bão số 5 ngày 02 tháng 11 năm 1997, giữa bao nhiêu ghe tàu bị mất tích, bao nhiêu người mất chồng, mất con, còn ta, ta lại may mắn trong gang tấc tìm được người thân trở về. Những hoàn cảnh nêu trên vô cùng giống với câu chuyện Chúa phục sinh của các tông đồ; họ tưởng rằng đã mất Chúa vĩnh viễn, nhưng bất ngờ sau đó đúng ba ngày, sáng Chúa Nhật, mấy bà nói Chúa đã sống lại. Rồi trong câu chuyện bài Tin mừng hôm nay đây, vào chiều tối Chúa Nhật, chính họ được xem thấy Chúa...Niềm vui nào diễn tả được đây? Trên môi miệng họ chỉ có một câu duy nhất: Chúng tôi đã xem thấy Chúa.... Xin mời anh chị em cùng suy niệm....

a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý:

Khung cảnh câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay: diễn ra ở ba khoảng thời gian rõ rệt.- Thứ 1. Vào chiều ngày Chúa nhật phục sinh; có nghĩa: buổi sáng các bà đi ra mộ và thấy mộ trống; cũng có mấy bà nói đã được xem thấy Chúa sống lại. Chiều tối lại, chính hôm đó, Chúa hiện ra trong nhà Tiệc ly với hết mọi người, không có Tôma.- Thứ 2. Vào một ngày trong tuần đó, Tôma, đi đâu đó và trở về, họ bèn thuật lại cho ông nghe. Ông không tin.- Thứ 3. vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục Sinh, có thể cũng vào ban đêm, Chúa lại hiện ra với họ, có cả Tôma nữa. Chính Chúa đã sửa lòng cứng tin của Tôma...

b/. Lời Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay cũng chính là lời các tông đồ truyền lại bằng câu này: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa.."

Bây giờ chúng ta thử tưởng tượng, như đang ngồi trong căn phòng lớn của một hội đường do thái, và đang nghe một vị tông đồ giảng về câu chuyện Chúa Giêsu vừa phục sinh... Vị tông đồ có thể nói thế này: "Thật vậy, Chúa Kitô đã sống lại. Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúng tôi xin làm chứng về điều này.Trong chúng tôi, cả những người bị coi là cứng tin nhất như Tôma , cũng đã thấy và đã tin, đã nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa, đã tin rằng người đã sống lại. Lời truyền này của chúng tôi cho các bạn hôm nay, không chỉ là lời truyền trên môi miệng, mà còn truyền bằng cả cuộc sống của chúng tôi nữa. Chính niềm vui phục sinh đã biến đổi chúng tôi, từ những con người tham sống, sợ chết, thành những chứng nhân trung kiên cho Chúa Kitô. Hiện nay, trong chính anh em chúng tôi, như Stêphanô, như Giacôbê, đã dám đổ máu đào mình ra, không hề sợ chết, sẵn sàng làm chứng Đức Kitô đã chết, và nay đã sống lại vì chúng ta....Các bạn cũng thế, hãy vui lên, đừng buồn rầu nữa, vì Đức Kitô đã sống lại. Người anh em chúng tôi là Phaolô, tông đồ dân ngoại, đã nói một câu rất chí lý: Nếu Đức Kitô đã chết mà không sống lại, thì niềm tin của anh em thật vô ích...

Dù sao, chúng tôi là các tông đồ, những người xưa kia khi Chúa còn sống, đã cùng ăn cùng ngủ với Chúa, chúng tôi trong vui mừng và hi vọng, xin hết lòng làm chứng cho anh em rằng, Đức Kitô đã sống lại. Anh em hãy vui lên. Anh em đã theo Chúa trên đường Khổ giá, đừng dừng lại ở đồi Golgôtha, mà hãy tiến thẳng lên núi Tabor, nơi Chúa phục sinh vinh hiển....

Câu chuyện trên đây được coi là bài giảng của các tông đồ sau khi Chúa phục sinh, hay sau ngày lễ Ngũ Tuần cũng được. Thực ra, đó không hẳn là bài giảng, mà phải nói đó là những lời chứng hùng hồn, đanh thép, đầy xác tín, đầy niềm vui và hi vọng, vì họ đã thấy Chúa sống lại. Rõ ràng họ muốn trao cho người nghe không phải là những lời nói mà thôi mà cả niềm tin, xác tín..... đúng hơn họ muốn trao niềm vui phục sinh cho hết mọi người....

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa; điều đó các ông gọi là niềm vui phục sinh. Còn chúng ta ngày hôm nay, khi mừng lễ Chúa phục sinh, có phải đó cũng là niềm vui của chúng ta không? Trong bài Phúc âm này ghi, khi Chúa hiện ra, đến với các môn đệ, Chúa đều chúc bình an, và thực sự đã mang lại bình an cho họ. chúng ta có luôn là niềm vui và bình an cho những người chúng ta gặp gở không?

BIỂU LỘ NIỀM TIN
Ga 20, 19 - 31

Anh chị em thân mến.

Trong một đoàn xiếc, có những diễn viên bước ra sân khấu người ta vẫn không biết người đó sẽ biểu diễn trò gì. Nhưng có một người vừa bước ra, thì không ai bảo ai, mọi người đều vui mừng vì họ sẽ được những giây phút thư giãn, được những trận cười thoã thích. Nhìn vào anh hề, người ta biết anh ta sẽ mang đến cho họ một sứ điệp vui mừng. Từng cử chỉ, từng điệu bộ, những lời nói, tất cả mọi hành động đều mang sứ điệp của niềm vui.

Nếu một người nào khác, làm nhiệm vụ thay thế cho anh hề, thì họ cũng phải có phong cách như thế nào để mọi người nhận ra được phong cách vui mừng mà họ thay thế. Nếu không làm được như thế thì họ sẽ khó được mọi người chấp nhận.

Vừa nghe qua bài phúc âm, có lẽ cảm giác đầu tiên đến với mọi người là Chúa Giêsu khó chịu vì Tôma quá cứng tin, không chịu nghe những gì các tông đồ chứng kiến và thông báo lại cho ông. Không phải thế. Chúng ta bình tâm nghe lại lời Chúa Giêsu, một lời nhẹ nhàn thân mật, một lời khiến cho Tôma cảm động và giật mình, một lời đi vào tận cõi riêng tư của ông mà ông cảm nhận được, lời khiến ông không thể nào đứng yên được mà phải quỳ gối xuống để tuyên xưng niềm tin của mình. Những gì Tôma suy tưởng, những gì ông nói, những gì ông làm, Chúa đều biết cả. Ông cảm nhận được đều đó. Cảm động hơn nữa là Chúa Giêsu còn nhớ đến ông đặc biệt hơn những người khác, đáp ứng nhu cầu của ông. Nhận ra như thế ông liền biểu lộ niềm tin của mình.

Còn các tông đồ cũng báo tin cho Tôma: các ông bảo rằng đã nhìn thấy Chúa sống lại, chúc bình an cho các ông, Chúa sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Làm sao Tôma có thể tin được các ông ấy khi các ông vẫn ngồi yên bất động trước lệnh truyền của Đấng đã sống lại. Các ông vẫn hèn nhát, vẫn trốn tránh mọi người, vẫn ưu sầu phiền muộn, vẫn không có gì đổi mới. Làm sao Tôma có có thể tin được những người lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng, nhưng không có một chút nào là vui mừng. Làm sao Tôma có thể tin được nơi những người không có một chút niềm tin nào trong cuộc sống để cho ông nhìn thấy.

Chỉ cần nhìn thấy Chúa Giêsu, Tôma biểu lộ niềm tin của mình ngay: ông không thể ngồi yên bất động, ông quỳ xuống và tuyên xưng "Lạy Chúa Tôi, lạy Thiên Chúa của tôi".

Trong cuộc sống đời người, mỗi người mang lấy một sứ điệp mà Thiên Chúa trao ban, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Mọi người nhìn vào nơi chúng ta và có nhận ra được rằng chúng ta mang đến cho họ sứ điệp như thế nào không? Làm sao người khác nhận được niềm vui nơi gương mặt không có nụ cười, làm sao có được niềm vui nơi một gương mặt giận dữ và những lời nói nặng nề biều lộ sự nóng nãy, giận hờn với những lời chua cay khó chịu. Cũng thế, làm sao có được niềm vui nơi những người chỉ biết trốn chạy, với những lời nói khô khan. Như thế mọi người làm sao có thể tin vào Chúa Kitô được với những sứ giả Tin Mừng như thế.

Mọi người nhìn vào trong chúng ta và họ nhận ra được Tin Mừng, khi họ nhìn thấy được một con người biết đổi mới cuộc sống mình tốt hơn. Mọi người chỉ nhận được Tin Mừng nơi những người sống Tin Mừng thật sự.

Nếu chúng ta vượt qua được những ưu sầu phiền muộn của cuộc sống, với sự bình tâm chấp nhận mà vẫn có được niềm vui khi đón nhận người khác. Nếu chúng ta nhận ra được Chúa Phục Sinh và lắng nghe mệnh lệnh của Ngài để thi hành trong hoàn cảnh sống, để biết đến và giúp đở mọi người khi cần thiết, biết nói những lời động viên an ủi, biết giằng lại một chút nóng giận để có thể cho đi một nụ cười, biết nhẫn nhịn khi bi thiệt thòi chút ít, biết chấp nhận để nâng đỡ người khác làm cho đời sống được nhẹ nhàng hơn. Nếu chúng ta biết quỳ gối cảm tạ Chúa, vì nhận ra hồng ân lạ lùng của Chúa ban cho mình, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó chúng ta không cần phải dùng lời nói mà loan báo Tin Mừng, nhưng chúng ta đã thi hành mệnh lệnh Chúa bằng hành động thật sự. Khi đó chúng ta đáng được lời Chúc phúc của Chúa Giêsu "Phúc cho những ai không thấy mà Tin".

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban đức tin cho mỗi người, để biết sống đức tin bằng chính đời sống hằng ngày, và biết đem Tin Mừng cho những người chung quanh.

LÒNG MẾN HỖ TRỢ ÐỨC TIN
Ga 20, 19 - 31

Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền khoa học phát triển vượt bậc. Ngày nay, người ta đã phát minh ra được nhiều thứ rất tinh vi và hiện đại. Người ta có thể đi lên cung trăng hay xuống lòng biển một cách dễ dàng như đi chợ... Trước tình trạng đó, dường như người ta tưởng là con người có thể kiểm nghiệm được tất cả mọi sự trong thế giới này. Rồi những gì họ thấy được, nghe được, sờ được... nói chung là những gì kiểm chứng được giác quan thì họ mới tin.

Thế là, con người nói chung và cách riêng với người Kitô hữu lại áp dụng điều trên cho cả niềm tin tôn giáo. Cách riêng là họ áp dụng điều ấy vào cho đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Ðiều này đã có từ thời các Tông đồ. Khi nghe các bạn báo tin Thầy Giêsu sống lại, Thánh Tôma đã tuyên bố: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin".

Do đâu mà Thánh Tôma cũng như con người chúng ta lại thường hay muốn đòi kiểm chứng như vậy? Thưa vì chúng ta chưa thật sự mến Chúa hết lòng. Khi thật sự mến Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ tin vào Người cách dễ dàng. Ngay cả, chúng ta sẽ cho là xúc phạm khi nghi ngờ Chúa. Và khi ấy chúng ta mới thật sự được hạnh phúc và bình an.

Thật vậy, một đứa con trong gia đình khi đã yêu mến cha mẹ thật lòng thì nó sẽ biết tin và làm theo những điều cha mẹ khuyên dạy. Lúc ấy, chắc chắn nó sẽ được cha mẹ yêu thương và chăm sóc cho nhiều hơn nữa. Cũng vậy, vợ chồng khi đã yêu nhau thì sẽ tin nhau chứ không nghi ngờ nhau. Bao lâu họ còn yêu và tin nhau thì bấy lâu gia đình họ sẽ còn hạnh phúc và đầm ấm.

Như vậy, lòng mến hổ trợ rất nhiều cho đức tin. Nó cũng sẽ là một trong những điều quan trọng làm nên sự hạnh phúc cho chúng ta đời này lẫn đời sau. Chúa Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà tin!". Hơn nữa, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không phải là điều hão huyền. Vì nếu đây là chuyện phù phiếm thì chắc là niềm tin ấy đã tan rã từ lâu rồi.

Chúng ta đã theo Chúa từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta đã long trọng mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh cách đây đúng một tuần. Thử hỏi chúng ta có thật sự mến Chúa và thật sự tin vào Người chưa. Hay là chúng ta vẫn còn nghi ngờ như Thánh Tôma. Chúng ta hãy luôn nhớ bao lâu còn sống trong tâm trạng nghi ngờ thì bấy lâu đời sống của ta sẽ còn luôn bất ổn.

Như chúng ta biết, đoạn Tin mừng này được Giáo hội chọn đọc trong cả 3 năm Phụng vụ của Chúa nhật cuối tuần bát nhật hôm nay. Dĩ nhiên là có lý do. Ðó là Giáo hội muốn cũng cố lòng tin và lòng mến vào Chúa Giêsu Phục sinh của mỗi người chúng ta ngày càng trở nên chắc chắn hơn. Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục ban thêm lòng tin và lòng mến cho mỗi người chúng ta.

ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ
Ga 20, 19 - 31

Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không những là chuyện khó tin, khó hiểu đối với người thời đại nhưng nó vẫn luôn là một thách thức cho niềm tin của mọi Kitô hữu và ngay cả các tông đồ là những người sống cùng thời với Chúa. Mà đại biểu cho niềm tin yếu kém ấy chính là tông đồ Tôma.

Chúng ta phải công nhận rằng, dù sống cách chúng ta hằng 20 thế kỷ nhưng Tôma có tâm trạng và lối suy nghĩ giống với suy nghĩ của con người sống trong thời đại khoa học hôm nay. Ông thuộc mẫu người có đầu óc thực tế. Ông chỉ xác nhận những gì là chân lý khi được kiểm chứng bằng giác quan. Tuy nhiên, ông quên một điều quan trong là không phải tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống là tuyệt đối và chắc chắn, điều có thể kiểm chứng bằng giác quan, nhất là trong lãnh vực tinh thần. Khổng Tử có nói: "những gì mắt thấy, tai nghe chưa hẳn là sự thật".

Qua thật, kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy, có quá nhiều vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết với kiến thức khoa học. Khoa học không phải là tất cả và sự hiểu biết của con người vẫn luôn là giới hạn. Khoa học không thể cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống này, cũng như không thể cất đi những đau khổ mà con người đang phải đương đầu gánh chịu. Nhưng câu hỏi: Con người từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Đằng sau cuộc sống đầy những nuớc mắt và hạnh phúc là gì...? Vẫn luôn là một dâu chấm hỏi thách thức các nhà khoa học.

Chúng ta tưởng rằng khi khoa học phát triển đến một cạnh giới rực rỡ thì chúng có có thể xóa hết mọi đau khổ của kiếp người. Nhưng thực tế cuộc sống hôm nay cho chúng ta câu trả lời chính xác: có qua nhiều chiến tranh, quá nhiều bệnh tật, quá nhiều vũ khí giết người tối tân do con người tạo ra...một sự thật là con người có nguy cơ là nạn nhân của khoa học: vũ khí hạt nhân, bom nguyên tử... Đương nhiên chúng ta không phủ nhận những giá trị và những cống hiến của khoa học cho công ích con người nhưng nếu khoa học không được đặt trên nền tảng ý nghĩa của cuộc sống con người thì nó trở thành thảm họa cho nhân loại.

Với cách suy nghĩ cá nhân và với đầu óc khoa học của mình, Tôma có quyền đặt nghi vấn cho sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu do các Tông đồ thuật lại. Ông đòi được thấy và chạm vào Chúa. Và rồi Chúa đã hiện ra, có mặt Tôma. Chúa chê ông cứng lòng tin trước những lời chứng của anh em. Nhưng Ngài cũng đáp ứng khát vọng của ông. Đểø rồi ông cũng đượcthấy và tin như anh em.

Xung quanh chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người như Tôma, thậm chí còn cứng lòng hơn Tôma. Họ đòi được thấy và chạm đến những thực tại vô hình như: Thiên Chúa, linh hồn, đời sau... rồi mới tin. Nhưng liệu khi thấy và chạm đến thì đức tin có còn cần thiết và có ý nghĩa gì nữa không?

Thật ra đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau. Nhưng bổ túc cho nhau: chính đức tin làm cho chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn và cũng chính nhờ lý trí mà niềm tin của chúng ta thêm vững chắc.

Trước những tực tại vô hình thì sự tuân phục của đức tin vẫn luôn cần thiết. Chính nhờ sự tuân phục của đức tin mà những người phụ nữ viếng mồ Chúa nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và trở thành nhân chứng cho Người. Các Tông đồ cũng thế. Cách nào đó họ có diễm phúc hơn chúng ta. Nhưng đức tin của họ cũng không được trang bị hơn chúng ta bao nhiêu khi đứng trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại và hiện ra. Sự khác biệt giữa Tôma và các Tông đồ khác chính là sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường mà trước tiêm là một gặp gở trong đức tin. Chỉ có trong đức tin con người mới nhận ra phép lạ, và cũng chỉ trong đức tin chúng ta mới có thể gặp được Đức Kitô phục sinh.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói lên rằng Chúa đã sống lại. Vì thế, chúng ta cũng phải giúp người khác thấy và chạm đến Chúa. Muốn thế, chúng ta cần phải sống như người đang thấy Chúa. Thấy Chúa phục sinh khi sống thanh thoát, không bám díu vào những danh lợi thấp hèn. Tin Chúa phục sinh khi nhận ra ý nghĩa của thập giá đau khổ chỉ là chặng đường tiến đến sự sống vĩnh cữu. Tin vào Chúa Phục sinh là dám hiến thân vì hạnh phúc nhân loại. Vì nếu tin vào Chúa phục sinh mà con tha thiết với cuộc sống trần thế đến nỗi sợ thiệt thân, ngại hy sinh... thì đó là niềm tin giã tạo.

Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm trí, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con nhận ra được giới hạn của lý trí và sự yếu kém của đức tin để cần được Chúa gia tăng đức tin và mở mang trí hiểu. Ước gì sự hiểu biết của con không làm cho con rời xa Chúa mà kéo chúng con đến gần Ngài hơn để chúng con nhận ra tình thương của Chúa hiện diện quanh con trong từng phút giây của cuộc sống.

HÃY TIN
Ga 20, 19 - 31

Khi bị quân dữ bắt và tra tấn, mọi Tông đồ đều bỏ và chối Chúa, chỉ trừ một mình thánh Gioan. Trên cây Thánh Giá Chúa cũng chỉ nhìn thấy một Thánh Gioan bên cạnh và mẹ Người. Khi Chúa sống lại thì các tông đồ lại không tin, dù những người phụ nữ ra mồ trông thấy và đã nói một cách khẳng định cho họ, nhưng họ vẫn không tin. Nhưng Chúa vẫn không hề bực tức hay khó chịu, còn tỏ ra khoan hồng đến nỗi hiện ra với họ, để cho họ trông thấy mà không còn nghi ngờ nữa. Và hơn thế, khi nói chuyện, Người không một lời la rầy, mắng nhiếc cũng không, và nhất là không nhắc đến sự hèn nhát, bội phản và yếu tin của họ. Chắc chắn lần hiện ra này không phải chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh, mà tất cả mọi người chúng ta ai cũng nghĩ tất cả các Tông đồ không còn ai dám nghi ngờ hay yếu tin nữa. Nhưng không phải thế! Chúa hiện ra và ban cho các Tông đồ ơn huệ được "mắt thấy" , "tai nghe". Má những ân huệ đó chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được khi chúng ta có đức tin.

Than ôi! đức tin là cái mà con người ta thường không có. Phúc âm hôm nay kể lại sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Khuýnh hướng đó cũng chính là khuynh hướng của những con người đang sống trong thời đại hôm nay. Ai ai cũng muốn sống bằng thực nghiệm bằng kiểm chứng, chỉ muốn tin cái gì mắt mình trông thấy, trí mình hiểu được. Còn cái gì mà người khác thuật lại, phải nhờ người khác cho biết thì khó tin, và cho là nhảm nhí. Vì thế, sự thật mà nói ai ai trong chúng ta cũng muốn được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa thì mới tin ở Người.

Người cứng tin nhất chắc chắn là Tôma và người được may mắn nhất chắc cũng là ông, được thỏa tính tò mò, được đặt tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa. Vì chính ông đã đòi hỏi đích thân động đến Chúa thì ông mới tin, nên Chúa đã phán với ông: "Vì đã thấy nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin". Do đó, Chúa muốn đòi mỗi người chúng ta hãy rút ra bài học kinh nghiệm từ Tôma. Khi thấy thì mới tin thì chẳng còn gì lạ, mà hãy tin khi chưa thấy. Đó mới là đức tin Chúa cần nơi mỗi người.

Thật ra tin chính là chấp nhận có một cái gì đó mà ta chưa thấy, nhưng phải phó thác vào một người thật đáng tin cậy. Như thế, đức tin của chúng ta là phó thác vào sự chân thật của Thiên Chúa để mà chấp nhận những chân lý đã được Người truyền dạy. Mặc dù lúc đó ngũ quan ta không cảm thấy và trí khôn ta không hiểu được. Nhưng cũng đừng hiểu lầm tin như thế là mù quáng, nhưng mù quáng sao được khi ta tin vào một người rất đáng tin cậy, vì thế lòng tin của ta thật có lý.

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng đã phải tin nhiều điều chúng ta không thấy rồi. Như ông bà ổ tiên, chúng ta cũng đâu thấy các ngài, cũng đâu sờ được các ngài, cũng đâu trò chuyện được với các ngài, nhưng chúng ta vẫn tin trong quá khứ vẫn có các ngài. vậy ai có thể quả quyết chỉ tin những điều mình trông thấy, và coi tất cả những người nói cho mình biết điều mình không trông thấy là dối trá, thì người ấy không thể sống trong xã hội loài người được. Vì trong xã hội loài người mối tương thân tương trợ, chỉ bảo, nương tựa tin tưởng lẫn nhau là điều cần thiết. Ngược lại, người không tin tưởng vào bất cứ ai, chứng tỏ họ không có một nhân cách thật sự, chỉ biết cố thủ trong ốc đảo ích kỷ nghi ngờ, nhìn người khác với cặp mắt giả dối, vì chỉ có người dối trá mới không tin vào lời người khác nói là sự thật, chỉ có người hà tiện mới không tin người rộng rãi. Một người không dám đặt niềm tin vào ai, chứng tỏ mình thiếu hẳn các đức tin của một con người. Đó là nhìn vào phạm vi tự nhiên. Trong phạm vi siêu nhiên sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa còn sâu xa hơn sự lệ thuộc của ta vào xã hội nhiều. Vì thế đức tin không những cần thiết mà còn đánh giá sự thánh thiện của mỗi người, vì người thánh thiện chắc chắn phải có một đức tin chuyển được núi, vì người ấy nhận biết Thiên chúa toàn năng và đặt cả niềm cậy trông của mình vào Người.

Lạy chúa, chúng con không được may mắn như các tông đồ, được trông thấy Chúa, sờ đến Chúa, nói cùng Chúa và ăn uống với Người. Nhưng chúng con lại được may mắn chứng kiến rất nhiều người đã sống cho Chúa và chết cho chúa. Vì chỉ có Chúa Phục Sinh thật sự mới là động lực như thế. Xin cho con biết vững tin. Amen.

TIN - NGƯỜI CÓ PHÚC
Ga 20, 19 - 31

Chuyện kể rằng: Một môn đệ của Khổng Tử hỏi sư phụ: "Thưa thầy, đâu là yếu tố cơ bản của một chính quyền vững chắc?". Sư phụ đáp: "Đủ lương thực, binh khí và lòng tin của dân". "Nhưng giả sử thầy phải cắt giảm một trong ba thứ đó, thầy sẽ bỏ cái nào?". "Binh khí". "Giả sử chỉ chọn một trong hai thứ còn lại, thầy sẽ bỏ cái nào?". "Lương thực. Chết là phần số của mọi người. Nhưng dân tộc không còn lòng tin vào lãnh đạo, dân tộc ấy sẽ tan rã!".

Vâng, không chỉ trong cộng việc lãnh đạo đất nước, mà bất cứ mối quan hệ nào cũng cần phải có lòng tin. Vợ chồng tin nhau, trò tin thầy, bạn bè tin tưởng nhau, tin tưởng đối tác làm ăn... Nếu mất niềm tin lẫn nhau, chẳng thể giao tế gì với nhau được nữa. Do đó, mỗi người phải tạo uy tín cho mình nơi người khác dựa trên sự thật.

Tin mừng về "Đức Kitô đã bị giết đi và Thiên Chúa đã cho Người sống lại" (x. Cv 2,23-24) không phải là tin đồn nhảm. Đây cũng không phải là chuyện bịa đặt lừa dối thiên hạ. Chính các Tông đồ đã thấy và đã làm chứng. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại biến cố Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ, cho các ông tận mắt xem thấy thân xác sống lại của Người và sai các ông đi loan báo cho mọi người, để mọi người "nhờ tin mà được sống nhờ danh Người" (Gn 20,31).

Đức Giêsu không bao giờ lừa dối chúng ta. Hơn nữa, việc nầy chẳng mang lại cho Người ích lợi gì. Nhưng vì phần rỗi của chúng ta, Người đã hiện ra với các Tông đồ, những người bảo tồn và loan báo niềm tin Phục Sinh. Như vậy, niềm tin của chúng ta không đơn độc, không mù quáng. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy tin vào Đức Kitô Phục Sinh là chuyện hoang đường, phù phiếm. Có hay chăng chỉ là những suy nghĩ thiếu đức tin mà thôi. Thử hỏi những kẻ chối bỏ niềm tin Phục Sinh giờ ở đâu? Tất cả đã qua đi với thời gian. Đức Kitô Phục Sinh vẫn ngời sáng từ lúc bước ra khỏi huyệt mộ cho đến ngày nay. Điều đó được minh chứng bằng Tin Mừng Phục Sinh của Người, Tin mừng ấy đã - đang và sẽ vang mãi cho đến tận cùng thời gian.

"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (Gn 20,25). Sự cứng lòng của Tôma phản ánh lại thử thách đức tin mà mỗi người chúng ta thường gặp phải. Rất nhiều lúc chúng ta rơi vào tình cảnh của Tôma, "không thấy, không tin", một đòi hỏi về tính chắc chắn. Nhưng nếu đã thấy rồi thì chỉ chấp nhận sự thật thôi, khi đó không cần đến lòng tin nữa. Như thế, tin là chấp nhận những điều mình không thấy; và tin như thế mới thật là có phúc (x. Gn 20,29).

"Vì đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin" (Gn 20,29). Lời phê bình nhắm vào sự bướng bỉnh của Tôma, lại là lời khích lệ đối với chúng ta, là những người được đòi hỏi phải tin vào Đức Kitô Phục Sinh, mặc dù không có khả năng nhìn thấy hoặc đụng chạm vào Người. Người ta nói: "Muốn xem thấy cầu vồng, phải biết chịu đựng cơn mưa". Thiên Chúa để chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin là vì yêu ta và để ta chứng tỏ tình yêu dành cho Ngài. Giữa những thử thách mà ta vẫn giữ được lòng tin của mình thì ta càng xứng đáng hơn với tình yêu Chúa dành cho ta.

CHO NIỀM TIN QUAY VỀ
Ga 20, 19 - 31

Sau cái chết của Thầy Giêsu, thì kể như mọi hy vọng và kế hoạch âm thầm nơi các môn đệ của Ngài cũng tan thành mây khói. Giờ đây, ngẫm nghĩ "sự đời", chắc các ông hơi nuối tiếc và hối hận vì đã chọn lựa sai lầm khi bước theo một người thầy có tên gọi Giêsu! Giờ đây, các ông phải sống trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do thái; sợ họ làm khó dễ một phần, nhưng chắc cũng sợ miệng đời thị phi! Tôma, người hay vắng mặt nơi cộng đoàn bé nhỏ này chắc cũng vì đang mang tâm trạng buồn chán và thất vọng ấy. Tôma ra đi kéo theo cả niềm tin đã tắt lịm hay đã lệch hướng theo mình.

Nhưng rồi mọi sự đã thay đổi trong chớp mắt, vượt quá sức mong đợi hay nghĩ tưởng của các môn đệ Đức Giêsu. Ngài đã hiện đến với các ông mang theo niềm vui, hy vọng và bình an tràn đầy tâm hồn các ông. Aùnh sáng đã bừng lên giữa màn đêm tăm tối. Cộng đoàn bé nhỏ ấy đã bừng lên ánh sáng tin yêu và hy vọng. Nhưng niềm vui của các ông cũng còn chút gì đó chưa trọn vẹn bởi còn một thành viên đang vắng mặt. Rồi Tôma trở về, về thăm anh em mình nhưng cũng trong tâm trạng buồn hiu và thất vọng của ngày nào. Niềm tin của ông vẫn còn tắt lịm hay đang lạc lối nơi nao. Nghe các anh em bạn mình nói là đã thấy Thầy hiện ra và Thầy vẫn đang sống, ông cho đó là chuyện đùa của trẻ con. Niềm tin tắt lịm đã không cho ông tin nhận điều đó. Ông đã phủ nhận những gì các anh em mình nói lại bằng những lời đầy thách thức: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (Ga 20, 25).

Rồi 8 ngày sau đó, Tôma đã chứng kiến được điều ông đã liều lĩnh nói trong lúc chán nản vì thiếu vắng niềm tin. Và khi đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã thốt lên rằng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi". Lời nói của một con người tuyệt đối tin tưởng được thốt ra. Niềm tin của Tôma giờ đây đã sống lại, đã quay về với ông cách mãnh liệt nhất. Tôma là môn đệ cuối cùng tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng ông đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cách mãnh liệt nhất và cao độ nhất. Phải chăng, có lạc lối thì khi trở lại mới thấy mình hạnh phúc; có sai lầm thì khi hồi tâm mới nhận ra trọn vẹn ý nghĩa của tình yêu! Cho nên điều quan trọng không phải là tôi phạm tội, nhưng là tôi biết nhận ra tội lỗi để tôi hồi tâm quay về và cố gắng hết mình để sửa chữa. Cũng vậy, điều quan trọng không phải là lạc lối, nhưng biết mình lạc lối và can đảm quay về mới là quan trọng trước mặt Thiên Chúa.

Dù các môn đệ đã nhận ra sự thật là Thầy Giêsu của mình đã Phục sinh và không ai còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng niềm tin của các ông vẫn còn là niềm tin của những con người tin ở cấp độ thấp: thấy mới tin. Niềm tin đòi có dấu hiệu để kiểm chứng là niềm tin còn yếu kém và ở mức độ thấp. Đức Giêsu muốn nâng đức tin và tâm hồn của các ông lên một mức độ cao hơn "Phúc cho những ai không thấy mà tin" Và lời chúc phúc này là dành cho chính chúng ta đó. Đức tin không cần kiểm chứng mới thật là đức tin trọn hảo và vững mạnh.

Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang hiện diện với từng người chúng ta trong cách thức siêu nhiên. Ngài không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa. Cũng như Đức Giêsu đã đến với các môn đệ đang họp nhau trong căn nhà tiệc ly đang đóng kín sau ngày Ngài Phục sinh, thì hôm nay, Ngài cũng vượt qua các bức tường và rào cản trong hay ngoài chúng ta để đến với chúng ta, để hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau.

"Phúc cho những ai không thấy mà tin". Lời hứa này của Chúa Giêsu đảm bảo với chúng ta rằng: Không một thế hệ nào sẽ bị kém ưu ái hơn so với các môn đệ ngày xưa. Chúng ta hãy thắp lửa tin yêu lên trong lòng chúng ta để cho niềm tin của chúng ta quay về. Vì rất có thể, với những quyến rũ của trần gian, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng ta đã tắt lịm hay còn lạc lối ở phương trời xa xôi nào đó. Sống đạo đích thực là làm cho niềm tin quay về trong ta và làm cho niềm tin đó bừng sáng lên trong ta mỗi ngày, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta vẫn hiên ngang tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa của chúng ta. Amen.

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm John Trần Khả
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.

Gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa." Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.

Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!"

Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài. Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin." Giống như các tín hữu của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.

Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội thuở ban đầu:

- Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ.
- Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.
- Các tông đồ làm được những việc phi thường.
- Họ để mọi sự làm của chung.
- Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.
Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.

Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin
Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.

Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, "Làm ơn cho tôi xem tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!" Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Ngài?

Một Câu Truyện
Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh. Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:

-"Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ nầy?"
Người môn sinh đó trả lời, "Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn."

Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh. Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân chứng đáng tin cậy.

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê

Phụng vụ trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Nhật hôm nay lại trình bày cho ta đặc biệt lời đáp trả của con người đối với mầu nhiệm ấy: một niềm tin tràn đầy hân hoan. Ong Tôma đôi lúc là hình ảnh của con người: đi từ hoài nghi đến tin tưởng vào Chúa Phục Sinh, đi từ việc tìm chứng cứ cho đến việc tuyên tín cách thâm sâu (Tin Mừng).

Cộng đoàn Giêrusalem tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh khi họ họp nhau vào các ngày Chúa Nhật để nghe các Tông đồ giảng và cử hành việc bẻ bánh trong tình hiệp thông huynh đệ, dấu chỉ của mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).

Những lời giảng của Thánh Phêrô như đang vang vọng bên tai chúng ta: "Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người." (Bài đọc 2)

Sứ Điệp Niềm Tin
Tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh là nền tảng của lòng tin kitô giáo. "Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy thì...cả đức tin của anh em cũng trống rỗng....và chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người," thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Corintô (1 Cor 15,12-19). Hơn nữa, nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng tôi là những chứng nhân giả của thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết. Tuy thế, Thánh Phaolô tiếp tục xác quyết: "Đức kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu." Nhờ sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã xác nhận sự thật về toàn bộ cuộc sống và sứ mạng của Đức Kitô, những lời rao giảng, những việc Ngài làm để mạc khải và cứu độ con người. Phục sinh chính lời xác quyết rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ nhân loại.

Khi giải thích đoạn thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Corintô, ta có thể nói rằng, bởi vì Đức Kitô đã sống lại, nên kitô hữu chúng ta là những người có phúc nhất trên đời. Việc cộng đoàn kitô hữu tiên khởi họp nhau quanh các Tông Đồ và Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu Kitô, để cử hành việc bẻ bánh, chứng tỏ niềm hạnh phúc tràn đầy ấy của các tín hữu. Lý do rất rõ: Đức Kitô sống lại là hoa quả đầu mùa, mở đường cho việc sống lại của các kitô hữu: hơn nữa, người kitô hữu tuy còn lữ hành trần thế, nhưng đã thông phần sự sống mới với Đức Kitô phục sinh rồi. Làm sao lại không vui niềm vui vĩnh cữu đó được?

Đó chính là điều Thánh Phêrô nêu lên trong bài Thánh ca phép rửa: "Chúa tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai.(Bài đọc 2)

Trở lại với Thánh Phaolô, ta có thể nói: Làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là chúng ta dâng lòng kính phục con thảo lên Chúa Cha, Đấng là Chân Lý và Trung tín. Thiên Chúa tín trung, và vì thế nên Ngài đã không bỏ Con của Ngài dưới quyền sự chết; Ngài cũng sẽ chẳng bỏ một ai trong chúng ta, là những nghĩa tử của Ngài. Thái độ của Đức Giêsu đối với Tôma, Vị Tông Đồ (được gọi là cứng tin) phản ánh sự trung tín của Thiên Chúa dành cho những kẻ hoài nghi để dẫn đưa họ đến niềm tin, một niềm tin vững mạnh loại trừ mọi nghi vấn: "Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con." (Tin Mừng). Hội Thánh không ngừng tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu Kitô qua suốt hai mươi thế kỷ, và ngày ngày vẫn tiếp tục minh chứng lòng yêu thương và trung tín của Ngài.

Gợi Ý Mục Vụ
Lời đáp trả của con người cho mầu nhiệm phục sinh luôn bất ngờ, dù con người có đón nhận như một dấu chỉ của ân sủng hoặc khước từ do sự giới hạn của tri khôn của mình. Dù được đáp trả bằng bất cứ cách nào, mầu nhiệm phục sinh vẫn luôn "như thế", không chút phai mờ hoặc bóp nghẹt. Với tư cách là linh mục, mục tử, ta đừng ngạc nhiên rằng, một đàng có nhiều đáp trả khác nhau cho chính mầu nhiệm cao sâu này.

Đàng khác, ta phải không ngừng rao giảng, làm chứng và làm sáng tỏ mầu nhiệm ấy như là điều duy nhất thiết yếu cho nhân loại, cùng cảm nghiệm niềm vui với các anh chị em chúng ta đón nhận và sống mãnh liệt mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh. Ta cần rao giảng rõ ràng niềm tin vào sự sống lại là quà tặng, là "dấu lạ" của Thiên Chúa thương ban. Ta lãnh nhận món quà này qua bí tích thánh tẩy, nhưng ta cần nuôi dưỡng nó, bảo vệ nó, và đánh giá một cách đúng đắn, để không có gì và không ai có thể nhỗ bật rễ niềm tin ấy ra khỏi lòng các tín hữu được.

Anh chị em giáo dân chúng ta, những người mà ta nhằm đến khi thi hành công tác mục vụ, chăm sóc, bảo vệ, cần phải làm gì để nhận thức đúng món quà đức tin, nhất là niềm tin vào Chúa phục sinh?

Là linh mục tôi phải làm gì, để giúp cho các anh chị em của tôi nuôi dưỡng, bảo vệ và trân trọng niềm tin này?

Ta cần giải thích cho các tín hữu niềm tin vào sự phục sinh không phải là điều phi lý, là điều ngược lại với những nguyên tắc tri thức của con người hoặc là điều xa lạ với cuộc sống đời thường. Có biết bao thực tế trong đời sống nhân loại mà con người đâu có hiểu được, thế mà vẫn tin như sự thật trước mắt?

Chẳng có gì là phi lý khi tin vào một ai đó có "hiểu biết", từ đó ta cần tin tưởng Thiên Chúa, là Đấng khôn ngoan tuyệt đối. Nếu không thể đặt đời sống con vật ngang bằng với đời sống con người thì sự sống lại phải là điều hết sức quan trọng. Nhưng con người không cảm thấy trong lòng rằng mình không thể bị hủy diệt sao (chết)?

Chẳng phải là một người ngoại đạo như thi hào Horace cũng đã thốt lên (Tôi sẽ không phải hoàn toàn bị hủy hoại (chết) đó sao?) Sự sống lại của Đức Giêsu Kitô chẳng những không xa lạ với cuộc sống con người nhưng còn là nền tảng vững chắc mang lại ý nghĩa đích thực tròn đầy cho nó nữa. Đức Kitô đã chỗi dậy, và tử thần đã bị chôn vùi.

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
Gm Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật II Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây :

1. Cảm nghiệm đầu tiên là : Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syria, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.  Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài.

Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông : "Bình an cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói : "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần". Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định. Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được. Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Cảm nghiệm cuối cùng là Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông : "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta. Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian : trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát. Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người. Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

NIỀM TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Chúa nhật thứ 2 Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục khám phá thực tại mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu qua lăng kính của một môn đệ vốn được mệnh danh là "ông tổ thực nghiệm" - Tôma Đyđymô, để xác tín niềm tin vào Chúa Phục sinh cách mạnh mẽ; đồng thời tuyên xưng niềm tin đó cho muôn người.

Tôma "sinh đôi" hay còn gọi là Đyđimô, người làng Galilê, một trong số 12 môn đệ của Chúa Giêsu. Tin mừng nói rất ít về người môn đệ này. Tôma trong Tin mừng Gioan chỉ xuất hiện vỏn vẹn bốn lần, nhưng có đến ba lần ông xuất hiện trong những trường hợp rất đặc biệt, để lại những dấu ấn khó phai mờ.

Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu muốn lên đường tiến về Giuđê, về làng Bêtania thăm lại người bạn Ladarô "đang yên giấc" của Người. Trong khi các môn đệ can ngăn vì cho rằng điều đó hết sức nguy hiểm bởi người Dothái đang tìm cách trừ khử Chúa, thì Tôma dỏng dạc tuyên bố: "Chúng ta cùng đi (lên Giuđê) để cùng chết với Thầy" (Ga 11, 16b). Rõ ràng Tôma là con người rất nhiệt thành, tận tuỵ và dám hy sinh. Tính cách của ông so với các môn đệ kia là rất riêng, rất đặc trưng, nó chứng tỏ ông là con người dám nghĩ, dám nói và dám làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Lần thứ hai trong diễn từ Biệt ly của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ đừng xao xuyến và lo lắng vì sự ra đi của Người. Bởi việc Người ra đi là có lợi cho các ông. Người đi để dọn chỗ cho các ông. Các ông vốn không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, giờ lại nghe Người "bồi" thêm một câu nữa : "Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi", làm các ông rối tung cả lên, chả hiểu gì thêm được nữa. Trong lúc các môn đệ vừa buồn phiền vừa chẳng hiểu Thầy nói gì, Tôma lại lên tiếng : "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga 14, 5). Câu hỏi của Tôma là nguyên nhân dẫn đến câu trả lời bất hủ của Chúa Giêsu, tóm trọn đạo lý của Thầy : "Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống".

Lần thứ ba là câu chuyện sau khi Chúa sống lại. Lần hiện ra đầu tiên, Tôma vắng mặt. Tin mừng không nói lý do nhưng chúng ta có thể hiểu tâm trạng của Tôma cũng như của hầu hết các môn đệ trước biến cố xảy đến cho Thầy. Như hai môn đệ Emmau, chắc hẳn Tôma cũng buồn phiền, lo lắng, thậm chí chạy trốn nữa, nhưng ông không thể rời xa cộng đoàn thân yêu của mình. Chính vì thế, ông đã quay về, ở lại để rồi chứng kiến việc Chúa Phục sinh hiện ra cho riêng cá nhân ông. Nghe các môn đệ thuật lại câu chuyện Thầy sống lại, Tôma thấy có điều gì đó không ổn. Không ổn là bởi vì Tôma cho rằng các môn đệ vì quá thương nhớ Thầy, tâm trí căng thẳng nên sinh ra những tưởng tượng chứ thực tế làm gì có. Theo ông việc này chớ vội vàng, cần phải kiểm nghiệm rõ ràng. Vì thế, ông dỏng dạc tuyên bố chính kiến của mình : "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin". Các môn đệ khác thì im lặng, đuối lý, còn Tôma thì ra sức chờ đợi và hy vọng...

"Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". Chúa Phục sinh hiện đến, đáp ứng những đòi hỏi, những lý luận mang tính thực nghiệm của Tôma. Chúng ta thấy phản ứng tức thời của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng như để chuộc lại lỗi lầm vì đã không tin vào điều các môn đệ truyền lại : "Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!". Lời tuyên xưng của Tôma là nguồn cảm hứng được vang vọng trong kinh Tin kính của cộng đoàn Kytô tiên khởi và lưu truyền mãi đến muôn đời. Đây cũng là lời tuyên xưng của một con người tận mắt chứng kiến Đấng từ cõi chết sống lại để rồi trọn đời, Tôma đã sống và đã chết với lời tuyên xưng ấy.

Niềm tin vào Chúa Kytô Phục sinh không phải là một niềm tin ảo tưởng, mụ mẫm, rẽ tiền mà là niềm tin được chính Chúa Phục sinh hiện ra nhiều lần cho các môn đệ và đặt biệt, được chính Tôma "kiểm chứng" bằng phương pháp thực nghiệm rõ ràng. Chính vì thế, chúng ta- những người thừa kế di sản Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Chúa Phục sinh do các môn đệ truyền lại, nguyện sẽ không ngừng sống, loan báo và làm chứng niềm tin đó cho nhân loại.

SỐNG ĐỨC TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa : "Phúc thay những người không thấy mà tin".

Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến. "Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao ? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma : ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.

Vậy đức tin là gì ? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con". Phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta ? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khác hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên ?

Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa hỏi các môn đệ : "Người ta bảo Thầy là ai ?", thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên : "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin : "Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha trên trời".

Cũng vậy đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết : "Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời", nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi : "Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không ?". Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô : "Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".

Với Mác-ta, chị của Ladarô, Chúa đã hỏi bà : "Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không ?" Mác-ta trả lời : "Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian". Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.

Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì ? là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức Tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.

Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì ? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của Người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế. Chẵng hạn Tê-lê-cân là một thành phố thuộc bang Ca-li-phoóc-ni-a, nổi tiếng vì cảnh đẹp, nhưng họ cũng nổi tiếng vì những phát minh và ứng dụng về điện tử và điện toán. Chỉ trong vòng 15 năm gần đây, thành phố đã trở thành kiểu mẫu của tinh thần thực tiễn của dân Mỹ. Chủ trương kinh tế và kỹ nghệ đi song song với nhau. Do đó, tất cả những ai có phát minh mới đều được các nhà kỹ nghệ đỡ đầu với tất cả mọi giúp đỡ để phát triển và tìm kiếm tiến bộ chung.

Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không ? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không ? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không ? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không ?

Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.

Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.

ĐỨC TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm Trần Thanh Sơn

Bài Tin mừng này thuật lại hai lần hiện ra của Đấng Phục Sinh với các tông đồ sau khi Ngài sống lại. Lần đầu tiên không có sự hiện diện của tông đồ Tôma. Rồi sau đó tám ngày, lúc "các tông đồ họp nhau lại trong nhà, và có Tôma ở với các ông", thì Đấng Phục Sinh lại hiện ra với họ một lần nữa. Khi nghe đọc đoạn Tin mừng này, chắc có lẽ trong tâm trí mỗi người chúng ta đều nghĩ tới sự cứng tin của tông đồ Tôma. Mặt khác, kết thúc đoạn Tin mừng này, thánh sử Gioan cũng viết: "Những điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người".

Như thế, đức tin chính là chủ đề quan trọng của phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta cùng xem lại các bài đọc Kinh thánh mà chúng ta vừa nghe.

1. Đức tin, ân ban của Thiên Chúa:
Khởi đầu bài Tin mừng, thánh Gioan thuật lại: "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kính, vì sợ người Do-thái". "Ngày thứ nhất trong tuần", nghĩa là ngày thứ ba kể từ khi Đức Giêsu chịu chết trên cây thập giá, ngày mà Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho các môn đệ là Người sẽ Phục Sinh (x. Mt 16, 21-23; 17, 22-23; 20, 17-19). Vậy mà các ông vẫn ở trong nhà "cửa đóng kín vì sợ người Do-thái". Điều đó cho thấy: mặc dù đã đi theo Đức Giêsu, cùng ăn, cùng ở với Ngài suốt ba năm, đã nghe Đức Giêsu giảng dạy chung với dân chúng, cũng như nhiều lần tâm sự riêng với Ngài. Thế nhưng, các tông đồ vẫn chưa thật sự xác tín vào Đức Giêsu. Họ còn nghi ngờ, không biết lời Ngài nói có thật không. Tâm hồn họ đang hoang mang, xao xuyến.

Thế rồi ngay giữa lúc họ đang bối rối, băn khoăn như thế, Đấng Phục Sinh đã đến với họ. Ngài đã đi ngang qua "cửa nhà còn đóng kín" để đến với họ. Vừa gặp họ, Ngài liền nói: "Bình an cho các con". Đức Giêsu Phục Sinh đã đến và ban cho các tông đồ sự bình an, nghĩa là Ngài đến để ban và củng cố niềm tin của các ông, giúp các hiểu thấu tất cả những gì Ngài đã nói, đã thực hiện. Thậm chí, Ngài còn chiều lòng để hiện ra lần nữa với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".

Như thế, chúng ta có thể thấy được: đức tin trước hết là một ân ban của Thiên Chúa. Ngay sau khi Phục Sinh, vào ngày thứ nhất trong tuần, chính Đức Giêsu đã chủ động đến với các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông. Rồi sau đó, Ngài còn hiện ra lần nữa để củng cố lòng tin cho tông đồ Tôma, và qua Tôma, Ngài cũng muốn ban ơn đức tin cho mỗi người chúng ta.

Các tông đồ là những người đã chứng kiến tận mắt, sờ tận tay, nghe tận tai lời của Đấng Phục Sinh (1 Ga 1, 1-2). Các ngài chính là những chứng nhân sống động cho sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Mặt khác, nhận được ơn đức tin, các tông đồ cũng không giữ cho riêng mình, theo lệnh của Đấng Phục Sinh, các ngài đã ra đi khắp nơi, loan báo cho muôn dân về Tin mừng Phục Sinh của Đức Giêsu. Như thế, đức tin của mỗi người chúng ta hôm nay, trước hết là một ân ban của Thiên Chúa, kế đến đức tin đó còn được đặt nền tảng trên các tông đồ là những thị chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục Sinh.

Tuy nhiên, để đức tin này dù sao, cũng chỉ là một khởi đầu, để đức tin đó thực sự sống động, mỗi người chúng ta cũng cần đóng góp phần mình để mầm đức tin đó ngày càng được phát triển một cách sung mãn hơn.

2. Phương thế phát huy đức tin:
Sách Công vụ tông đồ thuật lại: "Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các tông đồ, việc hiệp thông huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện...Họ bán tài sản tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người". Nhờ đó, "Hằng ngày, Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi".

Dựa vào đó, chúng ta có thể nói rằng: đức tin của của các tín hữu ban đầu đã được nuôi dưỡng, và phát triển nhờ việc họ thường xuyên kết hợp với Chúa và chia sẻ với anh chị em.

Trước hết là việc kết hợp với Đấng Phục Sinh. Đây là điều hết sức quan trọng và cần thiết, nếu chúng ta muốn đời sống đức tin của mỗi người chúng ta ngày càng lớn mạnh và vững chắc, chúng ta cần thường xuyên kết hợp với Đấng Phục Sinh, bởi lẽ Ngài chính là Đấng ban ơn đức tin cho chúng ta. Các tín hữu thuở ban đầu đã kết hợp với Chúa bằng cách "bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các tông đồ, việc bẻ bánh và cầu nguyện chung với nhau". Lúc đó, chưa có Thánh Lễ như chúng ta hôm nay, nhưng họ vẫn thường xuyên tụ họp với nhau để nghe lời giáo huấn của các tông đồ, rồi sau đó, họ đã cùng tham dự việc "bẻ bánh", nghĩa là các tín hữu đã cùng tham dự sốt sắng bàn tiệc Lời Chúa, lẫn bàn tiệc Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể chính là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi người tín hữu. Chính vì thế trong tông thư "Mane nobiscum Domine!" về Năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã mời gọi chúng ta: "Hãy cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật một cách trọng thể, biến ngày đó thành ngày của Chúa và ngày của Giáo Hội" (Sđd, số 23).

Và rồi cũng giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, sau khi đã đón nhận được lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, các tín hữu thuở ban đầu đã nhiệt thành "bán tài sản tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngày, họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau". Nhờ đó, "Hằng ngày, Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi". Như thế, đời sống bác ái chia sẻ, cùng với sự hiệp nhất yêu thương của mỗi người chúng ta từ trong gia đình cho đến cộng đoàn giáo xứ trong cuộc sống thường ngày, sẽ là một dấu chứng sống động cho thấy mức độ kết hợp của chúng ta với Đấng Phục Sinh. Cũng trong Tông thư nói trên, lấy lại lời của thánh Phaolô, Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã nói tiếp: "Việc cử hành Thánh Thể sẽ thiếu sót nếu không thực thi việc chia cơm, sẻ áo cho những người túng nghèo" (Sđd, số 28).

Cuối cùng, theo cái nhìn của thánh Phêrô trong bài đọc hai, đức tin của chúng ta còn được phát triển nhờ chính những thử thách, gian truân trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Những khó khăn trong cuộc sống của chúng ta chính là "ngọn lửa" Thiên Chúa gởi đến để tôi luyện đức tin của chúng ta, để nhờ đó chúng ta "được ngợi khen, vinh quang và danh dự".

Từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được nhận lãnh hồng ân đức tin. Giờ đây, noi gương các tín hữu thuở ban đầu, chớ gì từng người trong giáo xứ chúng ta cũng nhiệt thành, sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ và hiệp lễ mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật, để nhờ đó, đức tin của chúng ta ngày càng vững chắc hơn. Đồng thời, khi rời ngôi Thánh Đường này trở về nhà, chúng ta hãy sống yêu thương, hiệp nhất với nhau, như là một cách thế cụ thể nhất để biểu lộ niềm tin của chúng ta. Amen.

HÃY VỮNG TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc câu chuyện về vị tông đồ Toma, có lẽ mỗi người đều có suy nghĩ nào đó. Thánh Toma vẫn được người đời kháo láo là vị tông đồ yếu tin, kém tin và sống với Chúa mà chẳng hiểu biết gì. Tuy nhiên, Chúa phục sinh từ khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ 3 lần và lần nào trên môi miệng của Ngài cũng vang lên câu:" Bình an cho anh em ". Lẽ dĩ nhiên, sự bình an thật quan trọng và thật cần cho các tông đồ, đồng thời cũng cần cho mỗi người chúng ta ở muôn thời muôn buổi.

MỘT CÂU CHUYỆN XEM RA BUỒN CƯỜI NHƯNG CÓ THẬT :
Toma một trong nhóm 12, ông cũng rất nhiệt thành, có lúc ông đã nói với các môn đệ khác :" Nào chúng ta cùng đi Giêrusalem để cùng chết với Thầy". Trong cuộc hành trình truyền giáo Toma cũng như các môn đệ khác đều được Chúa Giêsu huấn luyện kỹ càng và hết mực yêu thương. Nhiều lần Chúa đã nói bóng, nói rõ về con đường của Chúa đi và ý định Thiên Chúa Cha đã định về Ngài. Trong bữa Vượt Qua cuối cùng tại một căn phòng ở Giêrusalem, Chúa Giêsu đã tâm sự, đã bộc bạch tất cả mọi sự với các môn đệ và con đường của Ngài phải trải qua giờ này đã rõ. Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ của Ngài bài học yêu thương khiêm nhượng và đã trao ban quyền linh mục, giám mục cho các môn đệ khi Ngài lấy chính Thịt Máu của Mình nuôi dưỡng nhân loại. Rồi sự việc đã xẩy ra khi Giuđa Iscariốt ra đi thắt cổ tự vận. Chúa bị bắt và kết án và bị treo trên thập giá. Các môn đệ tan tác như rắn mất đầu. Mọi môn đệ đều đứng xa xa, lẩn trốn để xem sự việc ra sao. Chúa được mai táng trong mồ và đúng như lời tiên báo trước sau ba ngày bị chôn Chúa đã phục sinh khải hoàn. Để củng cố niềm tin còn yếu ớt của các môn đệ, sau khi phục sinh Chúa đã hiện ra với các ông nhiều lần. Sở dĩ lần nào Chúa cũng nói:" Bình an cho các con" bởi vì các môn đệ đang trong cơn lo sợ hoang mang. Thầy đã bị giết, họ sợ biết đâu nay mai sẽ lại tới phiên mình. Chúa Giêsu đã hiện ra và chúc bình an cho các ông. Và để củng cố niềm tin cho các ông và để làm chứng cớ, làm bảo chứng cho các ông, Chúa Giêsu đã chỉ cho Ngài các vết thương nơi thân xác của mình. Các môn đệ khác nói với ông:" Chúng tôi đã được thấy Chúa!".Ông Toma đáp:" Nếu tôi không thấy những dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin". Hôm nay, sau tám ngày sống lại, Chúa lại hiện ra có cả Toma nữa. Chúa nói:" Toma đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin "( Ga 20,27 ). Đứng trước sự thật hiển nhiên, Toma chỉ có thể thưa:" Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" ( Ga 28 ). Câu chuyện Tin Mừng vềToma xem ra buồn cười vì tấm lòng thương Chúa nhưng lại không dễ tin vào những lời nói của các bạn khác. Đúng là Toma, con người đòi phải xem rõ ràng...Chuyện nực cười nhưng lại giúp mọi người kiểm nghiệm lại đức tin của mình.

NIỀM TIN CHÂN THẬT :
Tôma không phải là người thiếu niềm tin nhưng niềm tin của Toma là niềm tin thực nghiệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, việc gì cũng đòi phải thấy và chạm đến mới tin. Nhưng thực ra đâu có phải chỉ những gì ta thấy mới tin. Người ta thường tin vào các sự kiện người khác thấy. Chúng ta đâu có thấy mặt mũi bằng xương bằng thịt của nhiều nhà bác học nổi danh, hay các bác sĩ danh tiếng nhất trên thế giới. Chúa bị bắt, bị kết án, bị treo trên thập giá ta nào có thấy. Nhưng niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào Kinh Thánh,dựa vào Huấn quyền và đặc biệt dựa vào lời chứng của các tông đồ:" Chúng tôi đã được thấy Chúa"(Ga 20,25 ). Do đó, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan bên ngoài, mà còn phải dựa vào đức tin của những kẻ đã thấy và đã tin". Biết bao anh hùng tử đạo đã làm chứng cho niềm tin của mình. Toma là người hạnh phúc vì đã được Chúa chiều cho thấy và còn mời cho chạm vào cạnh sườn, các vết đinh của Chúa nữa. Toma đã quá được đặc ân cao vời, nhưng trước ân huệ ấy ông chỉ biết cúi sạp xuống và thưa:" Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con"( Ga 20, 28 ). Niềm tin của Toma cũng phải là niềm tin của chúng ta. Nhờ Toma mà chúng ta những người ở muôn thời được Chúa khen:" Phúc thay những người không thấy mà tin"( Ga 20, 29).

Lạy Chúa Giêsu sống lại, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con chỉ một niềm tin vào Chúa, sống và chết cho Chúa. Amen.

NẾU TÔI KHÔNG XỎ NGÓN TAY VÀO LỖ ĐINH
Ga 20, 19 - 31
Lm Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ

Có thể nói thánh Tôma là một người rất hiện đại. Ngài đòi hỏi phải thấy, phải chạm vào, phải chứng nghiệm được mới tin. Đó chính là não trạng khoa học đang rất phổ biến trong thế giới ngày nay.

Tất nhiên không phải ai cũng như vậy. Thánh Gioan chỉ cần thấy ngôi mộ trống thì hiểu Thánh Kinh và tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Các môn đệ khác hầu hết nhờ thấy Chúa Giêsu phục sinh nên tin. Có những người chỉ cần lời chứng của các tông đồ cũng đủ để tin. Ngày nay hầu hết chúng ta không thấy Chúa Giêsu hiện ra cho xem chân tay và ăn cá nướng để chúng ta tin. Lời chứng của các tông đồ và của cả Hội Thánh trong 20 thế kỷ qua được chúng ta coi là đủ để tin. Đó là những người Chúa Giêsu gọi là "không thấy mà tin".

Nhưng thời nay cũng như thời xưa, vẫn có những người đòi hỏi như thánh Tôma. Chúa Giêsu đã từng đáp ứng những đòi hỏi xem ra quá quắt ấy của thánh Tôma ngày xưa. Còn những "thánh Tôma" ngày nay thì sao? Họ chờ mong được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào vết giáo trên cạnh sườn nơi thân thể Đức Kitô phục sinh là Hội Thánh. Đã từng có những chi thể của Đức Kitô mang thương tích vì yêu mến tha nhân, thương tích trên chân tay hay trong trái tim. Và ngay ở đầu thế kỷ XXI này, những thương tích ấy vẫn khá rõ ràng.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã "cho thánh Tôma xem năm dấu mình", nay xin cũng cho các môn đệ Chúa biết yêu mến đến phải mang thương tích để thỏa mãn những người đòi hỏi phải thấy bằng chứng yêu thương qua những dấu tích nơi Hội Thánh và từng môn đệ Chúa.

ĐỨC GIÊSU, VỊ LƯƠNG Y GIỎI CỦA TÂM HỒN
Ga 20, 19 - 31
Phạm Yên Thịnh, SVD

Phương pháp chữa bệnh của Đức Giêsu:

  • 1. Tiếp xúc - đồng hành
  • 2. Lắng nghe.
  • 3. Hồi đáp - phân tích
  • 4. Gợi ý một lối thoát (một hướng giải quyết)
  • 5. Để người được chữa trị tự quyết định lối đi (đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình)

Câu chuyện hai môn đệ đi đường Emmau là một câu chuyện hết sức nổi tiếng, và thông thường khi đề cập đến câu chuyện này chúng ta thường nhấn mạnh đến vai trò truyền giáo trong Giáo hội, hay nói cách khác là tinh thần sẵn sang trở về Giêrusalem với anh em mình để loan báo tin vui Phục sinh của hai môn đệ sau khi được chính mắt gặp Đức Giêsu. Còn ở đây, nếu đứng về khía cạnh tâm lý hay đứng về khía cạnh chữa trị nội thương thì ta thấy Chúa Giêsu quả là một chuyên gia chữa trị vết thương lòng hết sức tài tình.

Khi biết 2 môn đệ buồn phiền rời bỏ Giêrusalem đi về nhà, với bước chân nặng nề uể oải, thì Chúa Giêsu liền xuất hiện giữa họ. Thông thường người gặp chuyện buồn ít có sẵn sàng để ý đến người khác, không dám để ý đến người xung quanh mà âm thầm chịu đựng mặc dầu trong thâm tâm của họ rất cần đến người khác quan tâm. Biết được tâm tình của họ lúc này, biết được sự thất vọng của họ khi niềm hy vọng về vị ngôn sứ Giêsu không giống như ý họ muốn, thấy được đôi chân nặng nề của họ thì Đức Giêsu đã chủ động "đến với họ, Ngài đồng hành với họ" (Ga 20: 15). Đây là hành động rất cần thiết đầu tiên của người bác sỹ tâm lý, khi muốn giúp người đang gặp chuyện buồn, thì việc cần thiết trước hết là tạo được mối tương quan thân thiện, làm sao để họ thấy mình sẵn sàng chia sẻ nỗi buồn với họ.

Bước tiếp theo Đức Giêsu đã thực hiện, đó là giúp họ nói ra được vấn đề họ đang gặp khó khăn, giúp họ chia sẻ nỗi đau trong cõi lòng của mình. Lúc này một chuyên gia giỏi sẽ là người biết gợi ý cho họ nói, nhưng đồng thời chuyên gia đó lại là người cần biết lắng nghe. Nhiều lúc vai trò của họ như là một "chiếc máy ghi âm biết phân tích". Điều này Đức Giêsu thật là một chuyên gia, chỉ cần một câu hỏi "các anh đang bàn tán với nhau chuyện gì thế?" đã khiến họ có chút lý do để đi vào câu chuyện. Mặc dầu ban đầu 2 môn đệ có một chút kháng cự: "họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu (Ga 20: 15). Thông thường đó là phản ứng của những người "bệnh", vì tự nhiên có người muốn xâm nhập vào thế giới đau khổ của họ, nhưng đó cũng là lúc họ bắt đầu tỏ lộ, nếu chuyên gia chữa trị biết cách xử lý thích hợp và khéo léo. Và quả thật, trước phản ứng đó Đức Giêsu rất bình tĩnh, im lặng trong chốc lát, để họ mở miệng ra mà hỏi lại Ngài. Như thế cũng là để con bệnh có cơ hội để nhận biết kẻ muốn nói chuyện với mình là ai, có đáng tin cậy hay không. Quả thật, Chúa hiểu điều họ muốn nói nhưng Ngài vẫn để cho họ tự nói ra, vì thế Ngài muốn hỏi lại: "Chuyện gì vậy?" Và thế là một câu chuyện dài về nỗi đau của họ bắt đầu. Có nhiều chuyên gia biết đại khái vấn đề của người bệnh, nhưng họ vẫn để cho con bệnh của mình tự miệng nói ra tất cả, bác sĩ không bao giờ dùng kinh nghiệm của mình để đoán về diễn biến tâm lý và tinh thần của người gặp khó khăn.

Bởi thế, Đức Giêsu đã hết sức chú tâm lắng nghe họ nói, Ngài không hề cắt đứt, không hề xen kẽ vào câu chuyện của họ. Điều quan trọng trong công tác điều trị vết thương lòng của bệnh nhân ở đây là nếu để họ nói ra thì là lúc họ giải toả được những sức ép, những cảm giác buồn phiền bị dồn nén trong lòng. Khi họ nói chúng ta cũng cần lắng nghe như thế mới hiểu được vấn đề của họ ở đây là gì, với lại mỗi người gặp khó đều có lý do và diễn biến nhiêu khi không giống nhau.

Như thế vấn đề của 2 môn đệ ở đây, cũng có thể nói điều khiến họ đau lòng ở đây là nỗi thất vọng về vị ngôn sứ Giêsu, cũng là Thầy của họ, là một người có uy thế trước mặt người đời và trước mặt Thiên Chúa, họ đã sẵn sàng theo Người để làm môn đệ của Người nhưng các thượng tế đã kết án sử cho Người, Người đã chết được 3 ngày và hôm nay có mấy bà trong nhóm họ ra thăm mộ thì không thấy xác Người nữa.

Như thế trong khi họ nói ra câu chuyện thì Đức Giêsu thấy được vấn đề lớn của họ là hiểu sai về Đức Giêsu. Trước mắt họ Đức Giêsu chỉ là người sẽ là Đấng cứu chuộc Israel, là người lãnh đạo dân kiến tạo lại Vương Quốc Israel đã bị tàn phá. Như vậy, bước tiếp theo của Đức Giêsu là giúp họ nhìn nhận đúng vấn đề, giúp họ giải thoát được sự đau khổ và nỗi thất vọng trong lòng và giúp họ lấy lại được niềm tin và sự vui mừng về Đức Giêsu phục sinh.

Thông thường, khi người ta gặp chuyện buồn, hay nội tâm bị thương hại thì người ta khó nhận ra được sự thật của vấn đề, người ta hay có chiều hướng suy nghĩ tiêu cực, trước mắt họ điều xảy ra với mình chính là những điều tồi tệ, chống lại họ. Khi biết được vấn đề này của bệnh nhân, khi nghe biết mọi chuyện liên quan đến căn bệnh của họ, thì đây là lúc người chữa trị cần có những lời phúc đáp thích hợp, chính xác. Trước tiên Đức Giêsu phân tích cho họ về sự thật vấn đề, về hiện tượng Đức Giêsu, người mà họ cho là một ngôn sứ đã bị giết chết, và nay đã mất hết tăm tích. Các môn đệ chỉ dùng bằng con mắt của người đời hay cụ thể hơn là của người Do thái lúc đó để nhìn về Đức Giêsu, vơi họ, Đức Giêsu chỉ là một vị ngôn sự bình thường, kẻ không chỉ không hồi phục được đất nước Israel mà chỉ là người thất bại, lúc này chình là người mang lại sự thất vọng cho người đời. Rồi Đức Giêsu giúp họ thay đổi một cái nhìn, Ngài dùng lời Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa để giúp họ thấy Đức Giêsu không phải là nhân vật như họ muốn, mà là Con Thiên Chúa, Người được sai đến để cứu muôn dân ra khỏi vòng tội lỗi, Đức Giêsu là "Người phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Thiên Chúa" (Ga 20: 26".

Thực ra trong công tác trị liệu này, khi chúng ta cho những người bệnh những lời phân tích không có nghĩa là họ hiểu ngay được vấn đề, chúng ta không thể giải quyết ngay vấn đề cho họ được. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một cách thức mà sau đó khiến hai môn đệ đã nhận ra "ánh sáng", đó là Người đưa họ trở về với cuộc sống thường nhật. Người chữa trị vết thương cho người khác cũng cần đưa ra tình huống bình thường trong cuộc sống, để họ không thất vọng về cuộc sống của họ mà cho họ thấy được nét dễ thương, ý nghĩa của những việc mà họ thường làm. Điều này cũng giúp họ thấy những việc họ làm đều có ích, bản thân họ đóng vai trò quan trọng trong những công việc thường nhật đó. Chúa Giêsu đã dùng chính nghi thức bẻ bánh, dùng chính bữa ăn để giúp các môn đệ nhận ra Người. (xem Ga 20: 30).

Sau khi đồng hành với "bệnh nhân", sau khi nghe họ "hàn huyên", sau khi "hồi âm", phân tích hay lý giải vấn đề và ngay cả đã gợi ý cho họ một lối ra, người bác sĩ không phải là người quyết định một lối giải quyết. Hay nói cách khác người chữa trị không nên đưa ra những lời khuyên phải làm thế này thế kia mà cần phải để cho người ta tự quyết định: "Đức Giêsu lập tức biến mất" (Ga 20: 31) cũng đã nói lên điều này. Khi các môn đệ đã nhận ra đường ánh sáng bên kia đường hầm, khi họ nhận ra người mà họ vừa đồng hành, vừa đồng bàn chính là Thầy mình, người mà họ từng thất vọng đã Phục sinh thật rồi, sự kiện đã mang lại cho họ một niềm vui hết sức lớn lao. Họ biết ngay việc gì họ phải làm. Họ biết tâm hồn họ lúc đó đang rạo rực, hân hoan, vì thế không ai ngăn cản, họ tức tốc chạy trở lại Giêrusalem để báo tin cho anh em mình.

TÔMA, CHỚ CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN!
Ga 20, 19 - 31
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Có một điều xem ra rất kỳ diệu, ngộ nghĩnh, khó chịu một chút, nhưng cũng lại thật dễ thương nơi con người của thánh Tôma tông đồ. Bởi vì, các môn đệ đồng môn, các người phụ nữ loan tin rằng: " Chúa đã sống lại rồi ". Tôma vẫn cứng đầu muốn kiểm chứng những lời bạn bè, đám đông đang ồn ào kháo láo và loan truyền về Thầy Giêsu đã sống lại có thật hay không, có đúng hay không và những điều các tông đồ khác nói chúng tôi đã thấy, chúng tôi đã gặp Chúa Phục Sinh đúng như thế nào ?

Trước thái độ của Tôma, Chúa đã nói: " Phúc cho những ai không thấy mà tin ". Do đó, đức tin đòi khiêm nhường. Chỉ có sự khiêm hạ thẩm sâu, lòng tín thác tuyệt vời nơi Thiên Chúa, người ta mới dễ dàng chấp nhận. Thánh Gioan đã thấy mồ trống, các băng vải, khăn liệm, Ngài đã tin. Thánh Gioan đã tin Chúa sống lại như lời chúa nói trước và Kinh Thánh đã dạy. Maria Mácđala và maria khác tuy chưa thấy rõ nhưng các bà đã nhận ra dấu chỉ Chúa sống lại, nhất là khi Chúa gọi tên Maria, bà đã thưa " Rabboni " ( lạy Thầy ). Tôma một cách nào đó muốn nhõng nhẽo với Chúa Phục Sinh, nên Ngài cứ khăng khăng phải gặp được Chúa sống lại và ngón tay của mình phải xỏ vào lỗ đinh nơi tay, nơi chân Chúa và bàn tay của mình phải thọc vào cạnh sườn Chúa thì Ngài mới tin. Thái độ của Toma hoàn toàn khác với những người Pharisêu và những người khác. Chúa khiển trách Toma cách dịu dàng, chỉ bảo. Toma không cố chấp để rồi chối từ tin, nhưng là để thấy rõ hơn và rồi tin mãnh liệt hơn.

Đức tin là tiếng kêu. Nó phát xuất từ cõi sâu thẳm của trái tim, của cõi lòng con người. Tôma đòi điều kiện nhưng khi đứng trước mặt Chúa Phục Sinh, Toma sợ run, đó chính là nét dễ thương của Tôma và Tôma kêu lên: " Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ". Tin Mừng cho chúng ta thấy khi Chúa hỏi các môn đệ nghĩ sao về Chúa ? Phêrô đã thưa: " Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống ". Chúa đã lập tức nói với Phêrô: " Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta ở trên trời ". Chúa xác định đó là tiếng nói của đức tin. Các môn đệ khi thấy đám đông bỏ đi vì Chúa Giêsu nói tới Bánh trường sinh, các Ngài vẫn một mực thưa với Chúa qua tiếng của Phêrô: " Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời ". Mácta cũng một lần tuyên xưng nơi Chúa: " Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian ".

Đức tin là tiếng phát xuất từ đáy lòng và rồi con người nhận biết Chúa và nhất quyết sống niềm tin ấy qua đời sống hằng ngày. Người Kitô chỉ có thể sống niềm tin ấy khi họ thể hiện đức tin qua những việc làm cụ thể hằng ngày. Tình thương, đức bác ái và những cử chỉ tốt đẹp sẽ là những ánh lửa thắp sáng niềm tin, minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Kitô.

Như một vận động viên cầm ngọn đuốc Olympic chuyền qua tay vận động này tới vận động viên khác cho tới lúc anh châm ngọn đuốc sáng vào nơi để lửa Olympic chính thức đốt cháy suốt thời gian tranh tài...Đức tin phục sinh của mỗi Kitô hữu cũng phải được chuyền đi như ngọn đuốc Olympic...

Chúa Nhật II Phục Sinh được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là Chúa Nhật kính nhớ lòng thương xót của Chúa. Chúa luôn yêu thương nhân loại, yêu thương mỗi người, Ngài đã đổ máu của mình trên Thập giá để cứu độ con người. Ngài đã nói: " Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ) " Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta ". Tình thương của Chúa được thể hiện trọn hảo nơi chính cái chết tự nguyện của Chúa trên Thập giá. Nữ tu Faustina đã được Chúa hiện ra và mạc khải: " Lòng Thương xót của Chúa ".

Cử hành thánh lễ Chúa nhật II Phục Sinh, chúng con luôn tín thác nơi Chúa và luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn một lòng tin tưởng vào Chúa. Amen.

TRÁI TIM NGƯỜI THẦY, TRÁI TIM HỌC TRÒ
Ga 20, 19 - 31
Lm. Minh Anh

Thiên Chúa là tình yêu, một khi đã yêu, Ngài yêu cho đến cùng. Thật ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đấng Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ nhân Chúa Nhật "LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA". Trong vài phút, chúng ta thử quan chiêm Trái Tim Giêsu, trái tim người Thầy; đồng thời cũng thoáng qua trái tim Tôma, trái tim học trò; nhờ đó, có thể hiểu được đôi chút lòng Chúa, đôi chút lòng ta. Trái Tim Giêsu, một trái tim chan chứa yêu thương mà Tin Mừng không ngừng lặp đi lặp lại đã bao lần "Ngài chạnh lòng thương" trước cảnh cùng khốn của con người: Thấy dân chúng tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn, "Ngài chạnh lòng thương"; thấy người ta khiêng đi chôn con trai duy nhất của một bà goá, "Ngài chạnh lòng thương"; thấy những người phong cùi tiến đến từ xa, "Ngài chạnh lòng thương"; thấy hai người mù đang dò dẫm lại gần, "Ngài chạnh lòng thương"... Và chắc hẳn các tông đồ, kể cả Tôma, cũng đã ít nhiều cảm nhận cái thổn thức "chạnh thương" đó nơi Thầy mình. Cũng trái tim đó, bởi đã chạnh thương cho đến cùng nên bị đâm thâu, để giọt máu sau hết và chút nước cuối cùng nhỏ xuống mà có lẽ Tôma đã chứng kiến xa xa hay ít nữa đã nghe thuật lại chiều ngày thứ Sáu hôm ấy vì ông không dám lại gần. Trái Tim Tôma, một trái tim nhát đảm và ngờ vực. Thầy mất, không ai biết vì lý do gì, "Đi Đi Mô" rời bỏ cộng đoàn. Phải chăng trái tim Tôma đang tan nát vì thương tích, vì những vết đau dù không nhìn thấy nhưng là những thương tích có thật và đau thật. Một trái tim ngờ vực khủng hoảng đến tội nghiệp, "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin". Ôi, còn đâu bao lời tiên báo và giáo huấn của người Thầy khả ái? Còn đâu những cảm nghiệm đầy thán phục khi chứng kiến bao phép lạ của Con Đức Chúa Trời? Thật là mỉa mai, thật là chua xót cho người môn sinh tuyệt vọng. Thật là thất đoạt, thật là vô ích cho người Thầy luống công. Sự ngã lòng của Tôma xúc phạm đến Thầy đâu kém việc bán Thầy hay chối Thầy của hai bạn đồng môn! Có khi còn tệ hơn; bởi lẽ, Giuđa và Phêrô tránh né liên luỵ đến một người sắp từ giã cõi sống trong khi Tôma lại đan tâm chối nhận một Đấng vừa trở về từ cõi chết. Vì thế, cũng bởi "chạnh thương" nên tám ngày sau, Vị Thầy lại phải hiện ra một lần nữa và trái tim đã yêu dấu loài người quá bội đó đã biết lựa lời khôn khéo nhẹ nhàng trách yêu người học trò. Ngài dỗ dành chứ không mắng mổ, chìu chuộng chứ không phỉ báng, "Hãy đặt ngón tay con vào đây, hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Thôi, đừng cứng lòng nhưng hãy tin". Lạ thay, Tin Mừng không nói đến việc Tôma có sấn tới thọc tay vào lỗ đinh Thầy, đặt tay vào cạnh sườn Thầy mà trong đó cũng có một trái tim hay không. Nhưng chúng ta có thể đoan chắc, chính Đức Giêsu Phục Sinh đã một lần nữa "chạnh thương chạm đến" và băng bó trái tim thương tích của người môn sinh.

Tim đụng tim, lòng chạm lòng! Nhờ đó, bình an lại đến với tâm hồn người môn đệ; và thay vì reo lên Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, cách nào đó, Tôma đã phải cất cao Credo, Tôi tin! Bởi lẽ, trước tiên là phải tin, sau đó mới có thể ca khen Đấng mình tuyên xưng. Vậy là tim chữa lành tim, lòng cảm mến lòng. Tim Thầy chữa lành tim trò, lòng Thầy khoả lấp lòng môn đệ. Nhờ lòng Thầy chạnh thương mà từ đây, lòng người môn đệ xác tín thay cho ngờ vực; yêu mến thay cho hững hờ; chứng tá, thay cho trốn chạy; và bình an thay cho bất an.

Hơn lúc nào hết, có lẽ mỗi người trong chúng ta hôm nay, dù ở đấng bậc nào, cũng đều cảm thấy cần đến lòng Chúa xót thương hơn bất kỳ ai. Vì chỉ có Chúa mới là Đấng xót thật và thương thật; chỉ có Chúa mới biết được mỗi người cần đến lòng Ngài xót thương biết bao; chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa lành, có thể hàn gắn, có thể băng bó, có thể đem về và trao tặng bình an, một sự bình an không ai lấy mất. Vì bình an của Chúa là chính Chúa. Mừng kính Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta không quên cầu nguyện cách riêng cho các mục tử của mình và cho cả đoàn chiên được Chúa trao phó cho các ngài. Vì nhiều lúc, cả đoàn chiên lẫn chủ chiên cũng đang "đi đi mô", bất an vì ngờ vực, hững hờ vì thiếu lòng mến, trốn chạy vì nhát đảm.

"Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục".
"Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục".
"Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục".

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT " LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA " (Đức thánh Cha Phanxicô phong thánh cho hai Chân phước Gioan XXIII và Gioan-Phaolô II).
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã biểu lộ hoàn toàn tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với con người. Việc Chúa sống lại đã củng cố lòng tin cho nhiều người. Các tông đồ sau khi được Chúa Phục sinh hiện ra, đặc biệt khi các Ngài lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đức tin của các Ngài lúc đó mới rực rỡ, sáng tỏ. Đức tin ấy là bằng chứng không bao giờ mất của những con người suốt đời dấn thân theo Chúa. Hôm nay, khi Chú hiện ra, không có mặt của tông đồ Tôma, do đó, Ông đã nói với các tông đồ bạn:" Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người , nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng tin ".

Chúa Giêsu Phục sinh đã minh chứng rõ ràng lời của Ngài loan báo trước. Các người phụ nữ, mồ trống và bằng chứng của các tông đồ đã nói lên tất cả sự thật về Chúa sống lại. Tôma muốn có chứng cớ: được sờ vào vết thương và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa Phục sinh. Đó là lý luận bình thường của tất cả mọi con người bình thường bởi vì ai cũng muốn được thực nghiệm, ai cũng muốn thấy rồi mới tin. Chúa sống lại bất ngờ hiện ra và ban bình an cho các tông đồ, bình an của Chúa Phục sinh là niềm hạnh phúc, niềm vui của những ai có đức tin. Chúa ban bình an và nói :" Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em ". Rồi Chúa trao cho các môn đệ quyền tha tội bằng một lời nói và bằng hơi thở của Ngài :" Ngài thổi hơi trên họ và nói : Hãy chịu lấy Thánh Thần.Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha; các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại ". Thổi hơi là sinh khí, là thần khí Thiên Chúa đã ban cho nguyên tổ Adam...hơi thở ấy thần khí Chúa, là hoa quả của sự bình an, Chúa sống lại trao ban cho các môn đệ của Ngài.

Trong nhà đóng kín, hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến có cả Tôma và các tông đồ. Chúa nhắc lại cho Tôma về điều kiện, khúc mắc mà Tôma đặt ra để có thể tin vào Chúa Phục sinh. Đứng trước Chúa sống lại, Tôma chỉ có một thái độ, một hành động duy nhất là phủ mình trước mặt Chúa không dám nói gì. Tôma cũng không dám xỏ tay vào lỗ đinh nơi chân tay của Chúa Phục sinh hay dám cả gan thọc bàn tay vào cạnh sườn của Chúa sống lại. Tôma chỉ có thể thốt lên :" Lạy Chúa là Chúa trời tôi ". Đó là đức tin, lời tuyên xưng thật trong sáng mà Tôma đã bầy tỏ với Chúa Phục sinh. Jean-Claude Dunand viết :" Lòng ngờ vực mà ông Tôma nói lên thật ra là chính đáng.Chúng ta thử ở chỗ của ông xem ! Người ta kể cho ông rằng một người đã chết nay hãy còn sống ! Đó là điều làm sao tin được chứ ! Xét theo lẽ thường thì không thể được. Thầy Giêsu mà người ta đã thấy chết trên một cây thập giá, đã đặt trong một ngôi mộ, đóng lại với một tảng đá lớn, giờ lại là một người sống sao ? Làm sao tin được một chuyện như thế ?...Đức tin không liên hệ với một điều mắt thấy hay cảm nhận với giác quan, cũng không liên hệ với những gì người ta hiểu.Tin là đặt tin tưởng...Được tin dựa
trên lòng tin tưởng vào một lời nói, một lời được nghe một cách trung thành và đều đặn".

Vâng, đức tin là đặc ân Thiên Chúa trao ban cho con người. Không có đức tin, con người sẽ chẳng nhận ra được điều gì cả ! Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài đã trở về với Chúa Cha, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha để cùng hiển trị với Chúa Cha.Chúa Phục sinh đã ban cho chúng ta một mối phúc, mối phúc mà chúng ta tuy ở xa Ngài hơn các tông đồ, nhưng lại rất gần gũi Ngài vì chúng ta không thấy Ngài như các tông đồ nhưng chúng ta vẫn tin :" Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.Phúc cho ai đã không thấy mà tin " (Ga 20, 29).

Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật "Lòng thương xót Chúa ". Đức Thánh Cha Phanxicô phong thánh cho hai Chân phước Gioan XXIII và Chân phước Gioan-Phaolô II. Đây là hai vị thánh sống rất gần gũi chúng ta. Một Vị thánh đã triệu tập Công đồng Vaticanô II khi tuổi đã già, nhưng lại là một Vị thánh đã làm tái diễn lại ngày Lễ Hiện Xuống mới. Thánh Gioan XXIII là Vị thánh đã làm cho Công đồng Vaticanô II trở nên Công đồng của Lễ Ngũ Tuần mới.Còn thánh Gioan-Phaolô II là thánh của giới trẻ. Cả hai Vị thánh Gioan XXIII và Gioan-Phaolô II đều là những Vị thánh hết sức đặc biệt nói lên Lòng thương xót của Chúa. Thánh Gioan-Phaolô II đã chọn Chúa nhật II Phục sinh để kính " Lòng Thương Xót Chúa ".Chúng ta tạ ơn Chúa vì hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nâng hai Chân phước Gioan XXIII và Gioan-Phaolô II nên bậc hiển thánh để tất cả Giáo Hội hoàn vũ tôn kính các Ngài...

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại khải hoàn và chiến thắng sự chết vinh quang, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa sống lại.

Xin cho chúng con luôn biết noi gương hai thánh Gioan XXIII và Gioan-Phaolô II yêu mến và tôn sùng " Lòng Thương Xót Chúa ". Amen.

BÌNH AN
Ga 20, 19 - 31
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chứng kiến cảnh mồ trống, thánh Gioan đã thấy và đã tin. Gioan cùng với Đức Maria và một số Tông đồ tiếp tục họp nhau cầu nguyện. Sau khi Chúa Giêsu chết, lúc còn tranh tối tranh sáng, những người đi theo Chúa tản mát, tâm trạng mỗi người phản ứng một cách khác nhau. Có người bỏ về quê, có người muốn quay lại nghề cũ, có người rơi vào sự hoài nghi và có những vị nhiệt thành tín trung và âm thầm dõi theo. Khi sống lại, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài có thể hiện diện với bất cứ ai và bất cứ nơi đâu mà Ngài muốn. Ngài cũng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau, khi thì giống như người làm vườn, lúc thì giống như khách bộ hành, khi thì giống người chài lưới và có lúc là hình ảnh Chúa với chân tay còn dấu tích. Hôm nay Chúa đến với các Tông đồ một cách rất bất ngờ, vì cửa còn đóng kín. Chúa chúc bình an cho các ông và Chúa chứng thực chính mình: Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa (Ga 20, 20). Niềm vui vỡ òa hân hoan, các Tông đồ được gặp lại Thầy của mình trong sự sống vinh quang.

Chi tiết câu truyện của ông Tôma giúp chúng ta hiểu rõ hơn và tin hơn. Tuy Tôma có thái độ hoài nghi, nhưng ông rất thực nghiệm. Sự đòi hỏi của Tôma, đôi khi cũng là sự đòi hỏi của mỗi người chúng ta. Tôma muốn được diện kiến, được đụng chạm và sờ mó vào các vết thương của Chúa. Chúa thấu tỏ lòng tin của Tôma, Chúa cho ông được toại nguyện: Đoạn Chúa với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng nhưng hãy tin (Ga 20, 27). Hiện diện trước mắt các Tông đồ, Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kito Phục Sinh. Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Qua các sự kiện đã xảy ra với các Tông đồ, Chúa Phục Sinh đã củng cố lòng tin của các ông bằng nhiều cách. Các ông đã từ từ xác tín niềm tin và bắt đầu xả thân để làm chứng nhân cho Chúa Kitô sống lại.

Các Tông đồ bắt tay thực hành ngay sứ mệnh được trao phó, khởi đầu là qui tụ các tín hữu, tụ họp các gia đình và gầy dựng các nhóm nhỏ cầu nguyện, nâng đỡ nhau và làm nghi thức bẻ bánh. Nghi thức Bẻ bánh là trọng tâm, mang một ý nghĩa rất quan trọng. Các Tông đồ nhớ lời Thầy: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã hình thành qua những nhóm nhỏ thông hiệp trong tình liên đới: Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện (Tđcv 2, 42). Các tín hữu sơ khai hoàn toàn được tự do chọn lựa sống theo giáo lý mới và tin vào Chúa Giêsu Kitô. Các nhóm nhỏ tiên khởi là rường cột thông truyền các lời giảng dậy của Chúa và của các Tông đồ. Họ là những nhân chứng sống động mắt thấy, tai nghe và chứng kiến các biến cố đã xảy ra trong đời. Họ đã thấy và đã tin.

Các Kitô hữu thời sơ khai đã phải đối diện với sự thay đổi cuộc sống về các truyền thống và việc tôn thờ. Họ từ từ tách ra khỏi cách thế hành đạo của Do-thái Giáo. Giáo hội tiên khởi xây dựng một tổ chức riêng thờ phượng Thiên Chúa trong ngày Thứ Nhất trong tuần. Ngày Chúa Kitô Phục Sinh từ cõi chết. Họ đồng tâm hiệp ý trong đức tin, đức cậy và đức mến: Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ (Tđcv 2, 46). Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã thổi hơi trao quyền cầm giữ và tháo cởi cho các Tông đồ để các ngài xây dựng và cai quản Hội Thánh. Các ngài đã ra đi làm nhân chứng rao truyền Tin mừng và tìm kiếm các con chiên lạc Israel để qui về một mối.

Với lòng thương xót vô bờ, Chúa Giêsu cư xử rất nhẹ nhàng và cảm thông sự yếu đuối và chậm chạp của các Tông đồ. Chúa đã chọn gọi họ trong khả năng và tính khí riêng biệt. Chúa Giêsu kiên nhẫn dẫn dắt các Tông đồ từng bước đi vào sứ mạng mới. Chúa loan báo trước với các Tông đồ là sẽ phải đối diện với nhiều sự gian nan, khốn khó, bắt bớ và tù đầy. Muốn làm môn đệ của Chúa là vác thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Cánh đồng lúa chín thì nhiều và sứ mạng truyền giáo thì bao la, các tông đồ đã can đảm dấn thân ra đi như chiên vào giữa bầy sói. Từng vị, từng vị đã lần lượt hiến thân mình đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Cái chết của các ngài là hạt giống sinh mầm đức tin.

Tất cả sứ mệnh rao giảng đều qui về Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa Cha: Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại. Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống (1Petr 1, 3). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được tái sinh làm con cái Chúa trong niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Chúa Kitô sống lại vinh hiển đã mở cửa nước trời cho những ai đặt niềm tin tưởng nơi Ngài. Chúa Nhật thứ hai mùa Phục Sinh, đặc biệt dành để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Chúa rất giầu lòng từ bi thương xót với mọi kẻ khốn cùng, tội lỗi và xa lạc muốn trở về. Vì Chúa đến là để kêu gọi và chữa lành những tâm hồn bị đau thương và dập nát tâm can.

Truyện kể: Một người đàn ông đang đi thăm viếng Đất Thánh. Vào một đêm nọ, ông một mình vào trong vườn Gethsemani. Đêm tối rất đẹp, bầu trời đầy trăng sao tinh tú và khung cảnh thật thanh tịnh. Suy gẫm về cơn hấp hối của Chúa trong vườn Cây Dầu, ông cảm thấy bị xúc động mạnh và bắt đầu khóc. Ông quỳ gối xuống và cầu nguyện: Lậy Chúa, xin đừng để con bao giờ phạm tội phản nghịch cùng Chúa nữa. Lắng nghe một giọng nói từ đáy lòng: Hỡi con, con xin Cha đừng bao giờ để con phạm tội nữa. Nếu Cha ban điều con xin đó cho tất cả các con cái của Cha, làm thế nào Cha có thể tỏ bày lòng thương xót của Cha cho chúng sinh?

Lòng Chúa Xót Thương là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta vào vòng tay yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu dậy chúng ta hãy thương xót, thì sẽ được xót thương. Trái tim thương xót là không kết án, nhưng tha thứ và quên lãng lỗi lầm, bởi vì Chúa đã tha thứ và quên đi tội lỗi của chúng ta. Chúng ta đều là tội nhân. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện rằng xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nếu chúng ta không tha cho anh chị em, chúng ta bị tách ra khỏi cuộc chơi (out of the game). Sự tha thứ cần đến lòng khoan dung độ lượng và trái tim nhân hậu. Sự khiêm tốn chân thật sẽ giúp chúng ta nhận biết thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình để nài xin lòng Chúa xót thương.

Trong thơ, thánh Phêrô khuyến khích các tín hữu đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Phúc cho ai không thấy mà tin: Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả (1Petr 1, 8). Các Tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng với hành trang là niềm phó thác cậy trông và uy quyền chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Trong khi đi giảng đạo, người ta xin thánh Phêrô bố thí, Phêrô chẳng có qùa bánh gì để cho họ, nhưng với danh nghĩa Đức Kitô sống lại, ngài đã truyền cho nhiều người được ơn khỏi bệnh.

Lạy Chúa, Chúa giầu lòng thương xót nhưng chậm bất bình. Xin Chúa xót thương chúng con là những kẻ tội lỗi đang dõi đường tìm về bên Chúa. Xin cho niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ sự bình an trong tâm hồn chúng con. Alleluia!

LỬA THỬ VÀNG, GIAN NAN THANH LUYỆN NIỀM TIN
Ga 20, 19 - 31
Sr. Margareta Maria Hiền

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi còn có tiếp tục quỳ gối không?

Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: "Tại sao chỉ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao?"

Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến nhưng cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ với các bạn khác.

Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi không cho rằng tôi là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. (Tuyển tập chuyện hay- Phương Tây)

Trong cuộc sống đức tin hằng ngày chúng ta phải đương đầu, phải chiến đấu với bao nhiêu thử thách nơi chính bản thân cũng như nhưng ngoại cảnh. Chính vì thế có nhưng lúc chúng ta đi mò mẫm trong đường hầm tăm tối; chúng ta hoài nghi niềm tin của mình.

Sống trong một thế giới hưởng thụ, vật chất dồi dào, tiện nghi đầy đủ, khoa học đang trên đà tiến triển mạnh mẽ, con người đòi hỏi mọi cái phải được chứng minh rõ ràng như 2+2=1 rồi mới tin. Cũng như thánh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với các môn đệ: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Cũng như người thời đại ngày nay ông muốn những gì các môn đệ nói với ông về sự sống lại của Chúa Kitô thì chính mắt ông phải nhìn thấy, tay ông phải sờ vào vết thương của Ngài thì ông mới tin. Có nghĩa là niềm tin phải được chứng minh. Sau đó Chúa đã hiện ra với ông để củng cố lòng tin của ông, ông đã được toại nguyện, lúc đó ông mới vội vã thưa: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con." Nhưng Chúa đã bảo: "Vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Vậy chúng ta là những người được Chúa chúc phúc vì chúng ta phải làm sao đức tin đó luôn sống động nơi chúng ta sống, môi trường chúng ta hoạt động. Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta vẫn trung kiên; những khi phải tuyên xưng đức tin của mình chúng ta không e ngại nhưng phải can đảm và cương quyết như Arthur Jones trong truyện và cũng có lúc chúng ta kiên tâm cầu xin Chúa tỏ một tia sáng niềm tin đến trong đời sống để chúng ta nhận ra Ngài như Ngài đã đến với thánh Tôma xưa. ??

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
John Nguyễn

1. Tôma là một mẫu người có tính thực nghiệm.
Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Đức Giêsu, thì ngoài Tô-ma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng Tôma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói rằng Tôma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.

Đối với người như Tôma, Đức Giêsu đã không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Và Đức Giêsu đã cho phép Tô-ma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tô-ma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.

2. Con người thời nay và nhất là những thế hệ sau sẽ càng ngày càng có tính thực nghiệm giống như Tôma.
Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650): "Chỉ tin sau khi đã chứng minh". Và tinh thần ấy được thể hiện thành chủ trương "nghi ngờ có phương pháp và phổ quát" (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).

Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tô-ma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tô-ma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tô-ma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.

3. Đối tượng phúc âm hóa trong tương lai là những thế hệ có đầu óc khoa học thực nghiệm như Tôma.
Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước, người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi "nói có sách, mách có chứng". Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Ki-tô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng tính giáo điều được.

Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v... vì người giáo dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Điều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.

4. Hội nhập văn hóa theo chiều dọc.
Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. Trái lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế hệ phúc âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được phúc âm hóa (thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc phúc âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.

5. Rao giảng bằng việc làm đi đôi với rao giảng bằng lời nói .
Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Độ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?

Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta - những ai còn tha thiết với tiền đồ của Ki-tô giáo - cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Ki-tô giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, "đức tin" mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tô-ma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.

NGƯỜI CHẬM TIN
Ga 20, 19 - 31
Lm Nguyễn Hữu Lượng

Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Thôma thất vọng. Đức tin của ngài đã suy yếu đến độ mặc dầu với nhiều chứng tích, mọi người đã tin Chúa sống lại, nhưng ngài vẫn đòi cho bằng được những bằng chứng cụ thể rồi mới tin: "Nếu tôi không thấy các dấu tích nơi tay Ngài, và cho tay tôi vào lỗ đinh cùng cho bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!"

Đã có bằng chứng cụ thể như Thôma đòi thì cần gì phải tin. Bởi vậy tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các tông đồ, mục đích để sửa lại lòng tin yếu kém của Thôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin."

Tuy nhiên, ta đừng quên rằng biến cố Phục sinh là một biết cố quá phi thường vượt trên sức tưởng tượng của loài người. Không riêng gì Thôma, các tông đồ khác cũng đã không tin khi vừa nghe Chúa sống lại. Chúa biết vậy nên đã đến cứu đức tin của Thôma, và cũng nhờ đó các thế hệ sau nầy có được một công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ phát ra từ đáy lòng thống hối của thánh Thôma, làm mẫu mực cho chúng ta: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi."

Trong lời nói đột xuất trên kia, thánh Thôma đã gọi Đức Kitô là Chúa, điều đó bao hàm rằng Chúa Kitô có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài có quyền lực để tự phục sinh từ cõi chết. Thôma đã xưng tụng Chúa Kitô là Thiên Chúa của ngài vì tin tưởng lòng Chúa bao dung, sẵn sàng tha thứ cho sự chậm tin của ngài.

Đó là một công thức đức tin đầy đủ và gọn gàng mà Phúc Âm ghi lại từ cửa miệng của một kẻ chậm tin như Thôma.

Và cũng để sửa lại sự chậm tin của mình, sau khi Chúa về trời, tông đồ Thôma đã mạnh mẽ tận hiến cả đời mình cho Tin Mừng Phục Sinh, ngài đã chết để làm chứng cho chân lý ngàn đời đó.

Đức Tin là một trong ba nhân đức Đối Thần, giúp ta chấp nhận mọi điều Chúa mặc khải về những mầu nhiệm vượt quá sự kiểm soát của trí khôn loài người, và thánh Phaolô đã cho ta một định nghĩa thực hành của Đức Tin như sau: " Tin là chiếm hữu nhiều điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận ra các thực tại người ta không thấy. Vì nhờ đó, tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho." (Dt 11,1-2)

Mỗi ngày Chúa Nhật, đi tham dự thánh lễ là chúng ta có cơ hội diễn lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Ta phải sống niềm tin đó, đem Chúa Phục sinh vào đời, nghĩa là đem niềm tin cho những ai đã mất lòng tin, đem sự vui tươi, niềm hy vọng sống lại cho những người ưu sầu vì tang tóc. Và chính chúng ta hãy thể hiện trên nét mặt và môi miệng niềm vui đó.

ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Ga 20, 19 - 31
Sr Rosemary Nhàn, MTGQN

Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Chúa Giêsu trao tặng cho các môn đệ không phải là những gì kiêu sa, huy hoàng hay lộng lẫy, mà là một câu nói đơn sơ chất chứa tấm lòng chân thành thương yêu và săn sóc: "Chúc anh em được bình an". (Jn 20,19)

Chính vì yêu thương mà Chúa đã đi bước trước và sớm nhận ra nhu cầu thiết yếu của các môn đệ trong hoàn cảnh lúc đó. Chúa Giêsu đã trấn an, củng cố niềm tin và ban Thánh Thần để gìn giữ các ông. Một trong những điểm nổi bật khiến cho mỗi người chúng ta nên dừng lại và cùng suy tư tại sao Chúa Giêsu đã lặp đi lặp rất nhiều lần lời chúc bình an trong đoạn Tin mừng hôm nay.

Phải chăng Ngài muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết ý nghĩa thâm sâu của nguồn bình an đích thực? Không có bình an của Đức Kitô, cuộc đời các môn đệ khi xưa cũng như chính mỗi người chúng ta hôm nay sẽ dễ dàng bị lún sâu trong phiền muộn, chán nản thất vọng và dần dần sẽ đánh mất đi niềm tin của mình.

Chính vì thế mà biến cố hiện ra của Chúa Giêsu là một niềm vui bất ngờ đối với các môn đệ. Trong lúc các ngài đang hoang mang lo lắng, sợ hãi vì mất Thầy, Chúa Giêsu đã kịp thời đến với họ, an ủi và đồng thời ban cho một niềm vui mới, một nguồn sinh lực mới.

Tuy nhiên để được đón nhận bình an đích thực của Chúa, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có một đức tin. Đức tin là điều kiện tiên quyết để chúng ta có thể nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đức tin vượt trên sự hiểu biết của con người. Qua đức tin, chúng ta mới nhận ra ánh sáng, chân lý, sức sống và niềm hoan lạc vĩnh cửu.

Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã phán : "Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Jn 20,29). Đức tin là một ân huệ Chúa ban cho chúng ta, nhưng tự nó sẽ không lớn lên được nếu không có sự cộng tác của mỗi người trong việc xây dựng một nền tảng của lòng tin vững chắc. Do đó, đức tin đòi hỏi nơi con người trong việc xây dựng và một sự chấp nhận hoàn toàn khi trí khôn loài người không thể giải thích được. Hình ảnh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã diễn tả cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Với lối suy nghĩa và lý luận của con người, Tôma đã không thể tin, cũng như không thể chấp nhận những lời nói của đồng bạn: "Chúng tôi đã thấy được Chúa" (Jn 20,25). Tôma cảm thấy thật phi lý và có vẻ hoang đường! Để củng cố niềm tin, Chúa Giêsu đã trách Tôma: "Con hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sườn Thầy; đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin." (Jn 20,27).

Trong cuộc sống, có khi chúng ta khó chấp nhận những lời nói hoặc hành động của những người là chứng nhân tình yêu của Chúa. Vì lòng cứng cỏi, vì kém lòng tin, vì hoàn cảnh khó khăn, đau khổ vì cuộc đời lắm lúc như trong ngõ cụt không lối thoát..., ta tưởng chừng như Chúa không hiện diện trong đời ta. Nhưng không phải, Chúa vẫn ở bên cạnh từng người chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra Người mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban thêm niềm tin cho chúng con, xin thánh hóa và hướng dẫn cuộc đời chúng ta luôn biết bước đi trong ánh sáng đức tin, hầu chúng con không dừng lại ở trí hiểu biết và lý luận nông cạn của con người. Xin giúp chúng con biết trao tặng bình an cho những người chúng con gặp gỡ cũng như những người hiện diện trong cuộc đời chúng con. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

1930    23-04-2014 21:28:09