Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Chúa Nhật III TN A

  1. Chúa Nhật III Thường Niên A
  2. Con Nguời Phục Vụ  
  3. Theo Như Ý Chúa
  4. Từ Bỏ
  5. Bóng Tối và Ánh Sáng
  6. Đón Nhận Ánh Sáng

CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG THẬT
Mt 4, 12 - 17

Thời gian gần đây người dân Việt Nam liên tục sống trong cảnh bị cúp điện. Những khi bị cúp điện làm cho người dân cảm thấy như ngột ngạt và tối tăm. Vì có người cho rằng thà rằng không có điện mà đã có rồi bị cúp làm cho sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống như tê liệt. Nhất là nhờ có điện mà việc thắp sáng cho sinh hoạt hằng ngày trở nên nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Mà những ngày cúp điện tới khuya làm cho sinh hoạt của người dân vào lúc đầu hôm trở nên khó khăn hơn.

Nói như vậy để cho thấy ánh sáng là một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của con người. Ánh sáng của đèn dầu, của đèn điện, của mặt trời hay của mặt trăng có giới hạn của nó. Nó sẽ tan biến theo thời gian. Vậy có ánh sáng nào tồn tại mãi để soi bước cho người tín hữu chúng ta?

Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong khung cảnh sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa - biến cố Người chính thức ra đi thi hành sứ mạng của mình. Theo văn mạch của Tin mừng theo Thánh Matthêu thì những vùng đất được kể hôm nay là những vùng đất đặc biệt. Dân chúng nơi đang sinh sống trong những vùng đất này đang khao khát Đấng Cứu Thế. Vì Đấng Cứu Thế đến sẽ giải thoát họ.

Đáp lại nỗi lòng khao khát đó Chúa Giêsu đã đến với họ. Như lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Mt 4, 16). Vậy, giờ đây họ đã được chiếu sáng bởi ánh sáng thật là Chúa Giêsu. Người đi đến đâu là sự giải thoát được thực hiện nơi đó.

Tuần trước chúng ta đã được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng đến gánh tội thay cho trần gian (Ga 1, 29). Thật vậy, những ai bước theo Chúa Giêsu và chọn Người làm gia nghiệp đời sẽ được sống dồi dào và hạnh phúc. Chính Người đã tuyên bố: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8, 12)

"Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến". Đó là lời tuyên tín của Thánh nữ Anê trước những lời dụ ngon dỗ ngọt và thậm chí là những lời răn đe của những người bắt bớ thánh nhân. Một thiếu nhi mới 13 tuổi ở độ tuổi mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới mà đã biết dùng chính mạng sống của mình để bảo vệ cho niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật soi dẫn chúng ta trên đường về với Chúa Cha. Hãy bảo vệ niềm tin và sống niềm tin của mình vào Người trong đời sống đạo của mình.

ƠN CỨU ĐỘ CHO MỌI NGƯỜI

Mt 4, 12 - 23

Phật Giáo cho rằng đời là bể khổ. Nhưng tại sao khổ? Tại dục vọng hoành hành nên con người khổ. Mà dục vọng hoành hành do đâu? Phật giáo chưa giải thích rõ nguồn gốc này. Là người Kitô giáo chúng ta biết lý do. Trước kia, khi ông bà nguyên tổ của chúng ta chưa ăn trái cấm thì đời chưa khổ. Loài người lúc đó không phải đau khổ và không phải chết. Loài người lúc đó sống trong tình nghĩa với Chúa, hạnh phúc, tràn đầy sự hiểu biết và kính mến Chúa. Lúc đó, ước muốn của loài người luôn tùng phục ý chí cao thượng, luôn theo ý Chúa muốn. Từ khi loài người bỏ Chúa(ăn Trái Cấm), muốn sống ngoài sự kiểm soát của Chúa thì lý trí con người trở nên mờ tối, ý chí yếu ớt, dục vọng nổi dậy hoành hành.

Và vì nhiều người tìm cách phủ nhận đời sau, chỉ biết đời này, nên dục vọng càng được mạnh thế. Có người để sở thích điều khiển cuộc đời mình, có người coi tiền bạc là trên hết, có người cậy dựa vào quyền lực chóng qua, có người chìm đắm trong lạc thú, vô kỷ luật, bất chấp đạo đức truyền thống. Từ khi con người bỏ Chúa, con người trở nên ích kỷ, chỉ biết có mình, chỉ biết hưởng thụ. Những người này giống như những con thiêu thân. Họ đi tìm bã phù hoa, và họ cho đó là hạnh phúc. Nhưng kỳ thực họ đang lao vào ngõ bí. Tâm hồn họ trống rỗng và họ tìm cách lấp khoảng trống đó bằng những niềm tin không đâu như coi ngày, coi giờ, coi tuổi, coi bói, tìm cái lạ hoặc bỏ tiền vào các cuộc chơi phung phí. Loài người lạc đường, không biết đâu là hạnh phúc thật, đâu là những cái bẫy của ma quỷ hay thế gian đưa ra.

Vì thế, Chúa từ trời vì lòng thương xót loài người lầm lạc đã sai Con Một mình là Đức Giêsu Kitô đến dạy cho con người biết đường lên trời, cho con người biết Phúc Thật ở đâu. Phúc thật không phải ở nơi giàu có, tranh chấp, hơn thua, ức hiếp người khác. Nhưng là biết sống tinh thần nghèo, biết thương xót, biết nhận lỗi, là hiền lành tha thứ, là giữ lòng thanh sạch, là hoà thuận thương yêu và dám làm chứng cho chân lý.

Tất cả các mối phúc này thế gian cho là thua thiệt nhưng lại là có phúc thật. Người sống theo 8 mối phúc này thì lương tâm thanh thản, được coi là hiền nhân. Tuy nhiên, đôi khi họ bị thế gian coi là ngu dại hoặc có khi bị oán ghét vô cớ vì làm cho kẻ ác phải hổ thẹn, bị cắn rứt lương tâm vì họ không thông đồng với kẻ gian ác, không ủng hộ cho những hành vi trục lợi của kẻ xấu. Còn những ai biết suy nghĩ thì ca ngợi họ như những mẫu gương đáng cho mình học hỏi.

Con đường theo Chúa Giêsu là con đường bảo đảm dẫn về quê thật. Tuy nhiên, ai muốn đi trên đường này thì trước tiên phải có lòng chân thành, khiêm tốn nhìn nhận sự yếu kém, giới hạn của mình, biết hối cải và mở lòng ra cho Chúa chiếu dọi ánh sáng của Ngài vào lòng chúng ta, giúp chúng ta thắng vượt được tính ích kỷ và những xu hướng xấu.

Chúa Giêsu đã đến trần gian hơn 2000 năm rồi, nhưng nhiều người vì thành kiến đã không muốn tìm hiểu con đường Ngài dạy. Cũng có thể do chúng ta, tuy là môn đệ Chúa nhưng lại chưa sống lời Ngài, chưa làm chứng cho sự Phục Sinh của Ngài. Thế gian này vẫn còn nhiều sai lầm. Ước chi mỗi người biết khiêm tốn nhận ra những sai sót của mình mà chỉnh đốn cuộc sống, làm cho cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa, tràn đầy niềm vui thánh thiện, biết cống hiến những khả năng Chúa ban mà phục vụ anh em mình. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô.

 

CHÚA NHẬT III TN A
Mt 4, 12 - 23

Xét về địa lý thì nước Do Thái chia làm 3 miền. Miền Nam gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc gọi là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm mọi người tuôn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, nơi đây có dinh của thầy cả Thượng phẩm, các luật sĩ, Biệt phái....Người ta coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samaria vì coi Samaria là người ngoại giáo, vì Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch, nhưng bị dân Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Đa số các tín hữu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt quá nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ ngày càng nhiều, càng phức tạp, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Họ coi thường giới răn mến Chúa yêu người.  Các nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ còn là những người thích ăn mâm cao cỗ đầy, hưởng thụ những quyền lợi mà luật lệ tôn giáo đã dành cho (Mt 23, 6 - 7), nhiều khi lại cấu kết với thế quyền để đàn áp bóc lột dân chúng (Mt 23, 14). Họ dạy người khác làm những điều tốt đẹp mà chính họ lại không chịu làm (Mt 23, 3). Nhiều khi họ không biết cái nào là cái chính cái nào là cái phụ trong tôn giáo (Mt 23, 16 -  22) để dạy người ta giữ: nên cái chính yếu thì bị coi nhẹ, còn cái phụ thì lại được quan trọng hóa lên. Vì thế, họ trở thành những kẻ "dẫn đường mù quáng" (Mt 23, 24).  

Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã không Giêrusalem là điểm xuất phát, bởi vì các thầy thượng tế, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa, vì nơi đây là một vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc, đã biết mở rộng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, nhưng mọi người biết đón nhận lẫn nhau, sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa, vì đây là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu  đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp.

 Ngay từ buổi ban đầu Đức Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ,... Đó là đi sứ mạng của Đức Giê-su, sứ mạng canh tân tôn giáo trên tình yêu. Thế nên, các môn đệ mà Ngài chọn để làm cộng sự viên với Ngài trong cuộc canh tân này, cũng không phải là người Giuđêa mà đều là người Galilê. Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không chọn lựa môn đệ trong đền thờ, Người lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không lựa chọn bậc trí thức, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền  chày đơn sơ. Ý định truyền giáo của Người rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không do dự. Người lựa chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.

Các ông là những ngư dân ít học, mặc dù theo đạo Do Thái, nhưng biết rất ít những kiến thức tôn giáo. Đức Giê-su đến đã làm thay đổi: tinh thần mới, quan niệm mới, lề luật mới, cơ cấu mới, v.v... Sự thay đổi này đã gây nên một sự phản kháng mạnh mẽ nơi giới trí thức, giới lãnh đạo trong Do Thái giáo. Chắc chắn họ có lý của họ, và cái lý ấy cũng dựa rất chắc chắn trên nền tảng Kinh Thánh! Điều đó cho thấy không phải cứ có lý, có nền tảng Kinh Thánh là đủ, mà còn phải có tinh thần của Thiên Chúa, có tình yêu và sự chân thật (Mt 23, 23),

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: vừa được Đức Giê-su mời gọi, thì Phê-rô và An-rê " lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người". Gia-cô-bê và Gio-an cũng vậy: "lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người". Họ mau mắn, không chần chừ tính toán ẩn tàng  một chút liều lĩnh, phó thác, tin tưởng vào Đức Giê-su. Chính nhờ những đức tính này mà khi được Thánh Thần tác động, các ông trở nên có đủ mọi thứ đức tính, mọi thứ tài năng hơn người, trở nên những tông đồ can đảm, luôn luôn mạnh dạn làm chứng cho Đức Giê-su, không chút sợ hãi (Cv 4, 29. 31; 9, 27 -  28; 18, 26; 19, 8; 28, 31).

Những sự lựa chọn của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta thấy: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hiền hoà, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Chỉ những thửa đất tốt đó cho hạt giống Tin Mừng nẩy mầm, đơm bông kết trái.

Ngày nay, Đức Giê-su vẫn tiếp tục cần rất nhiều người cộng tác với Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi tất cả mọi Ki-tô hữu làm điều ấy. chúng ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi trong thẳm sâu tâm hồn không? Và chúng ta đáp lại thế nào? Chúng ta "lập tức" chấp nhận, hay còn phải suy nghĩ xem mình có đủ khả năng, có đủ thì giờ, có đủ đức độ không? Nếu chúng ta có đủ khả năng, đủ thì giờ, đủ đức độ như các kinh sư Do Thái xưa, thì chắc hẳn Ngài đã chẳng kêu gọi chúng ta đâu, vì chúng ta sẽ cậy vào sức riêng mình, chứ không nhờ cậy vào Ngài nữa! Chính vì biết chúng ta thiếu tất cả những thứ ấy Ngài mới kêu gọi chúng ta, như đã từng kêu gọi các tông đồ xưa. Điều quan trọng khi đi theo Ngài là chúng ta phải biết rằng mình thiếu những thứ ấy để chúng ta khiêm nhường cậy dựa vào sức của Ngài, chứ không phải sức của mình.  Điều lạ lùng và hết sức nghịch lý nhưng lại là thực tế, đó là ta sẽ làm được tất cả khi thật tình nghĩ rằng "không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15, 5), nhưng "tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Pl 4,13), vì "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1, 37).

Lạy Chúa Giêsu,  xin cho chúng con bắt chước các tông đồ xưa, nghe Đức Giê-su kêu gọi là "lập tức" bỏ tất cả mà đi theo, không suy nghĩ, đắn đo, tính toán. Xin ban cho chúng con tinh thần tin tưởng và phó thác nơi quyền năng vô biên của Cha trong mọi sự. Amen.

CON NGƯỜI PHỤC VỤ     
Mt. 4, 12- 17.

Anh chị em thân mến.            
Trong thời buổi kinh tế thị trường, con người được phục vụ tối đa, vì người ta rất tôn trọng khách hàng, xem khách hàng như Thượng Đế, nên sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.

Trở về quá khứ không xa lắm, mọi người rất vất vã trong việc trang trí nhà cửa, hay mua sắm những thứ hơi nặng nhọc thì cũng rất e ngại. Ngày hôm nay, tất cả mọi sự đều được phục vụ đến nơi đến chốn. Đồ đạc dù nặng nề đến đâu cũng có người mang đến tận nhà khi có nhu cầu. Việc phục vụ như thế có lợi cho cả hai. Trước tiên có lợi cho người phục vụ: họ được trả công xứng với công việc họ làm. Kế đến là khách hàng được đáp ứng đúng với những gì mình mong muốn. Mọi người biết đáp ứng nhu cầu cho nhau thì tất cả cùng có lợi.

Chúa Giêsu cũng đã nhìn thấy nhu cầu của con người, nên Ngài cũng đã đáp ứng. Không phải chỉ trong những ngày của thời đại hôm nay, mà đã từ rất lâu và rất lâu. Ngài đã đến với con người, không phải chỉ những người ưu tú nhất, nhưng đến với tất cả mọi người, kể cả những người bị khinh dể, bị chê bai và bị chà đạp. Ngài đã đến với họ, đến với những người còn trong u tối. Để như thế, Ngài từ bỏ kinh thành Jérusalem, từ bỏ noi cao sang quyền quý, từ bỏ cả nơi Ngài sinh sống để đến với tất cả mọi người. Đến để mang lợi ích đến cho người khác, đến mà không tìm lợi ích cho mình, đến để phục vụ, để mang ánh sáng chân lý, để cho con người được sống. Ngài đến vì yêu thương nên Ngài bất chấp tất cả. Đó là sứ mạng của Ngài đến trần gian. Những ai biết hối lỗi, biết lắng nghe và biết đón nhận ánh sáng chân lý thì họ sẽ được đáp ứng tất cả. Còn nếu những ai cứ ngoan cố trong pháo đài mình dựng nên, để rồi tự hào, kiêu căng không lắng nghe, không hối cải, thì Ngài đành phải rời bỏ nơi đó mà ra đi.

Là con người ai cũng đều mong ước được phục vụ theo nhu cầu. Nhưng nếu con người không có nhu cầu thì làm sao người phục vụ có thể đáp ứng được, hoặc con người không cần đến người phục vụ, mặc dù nhu cầu vẫn cần thiết nhưng con người không thấy, cũng không muốn được sự cần thiết, vì ngỡ mình đang đầy đủ, đang dư thừa, đang có tất cả nên không cần phải nhờ đến ai. Chính lúc đó, con người đang chết lần chết mòn trong sự thiếu thốn mà họ không biết. Họ bị xa rời tất cả: xa rời môi trường sống, không phải vì môi trường không đáp ứng được cho họ. Nhưng vì họ không cần đến môi trường. Xa rời những người thân, không phải vì những người thân không quan tâm đến họ, nhưng vì họ không cần đến người khác. Xa rời hạnh phúc và bình an. Không phải vì những điều đó không đến với họ, nhưng họ không nhận ra mình thiếu thốn, nên không biết đón nhận. Đó là tâm trạng của những con người mà Chúa Giêsu đã phải đau buồn mà rời xa để đến nơi khác. Họ đang ngoan cố trong sự lầm lạc của mình để không còn nhận ra điểu gì phải lẽ nữa hết.

Mỗi người trong chúng ta đang sống trong thời đại văn minh, chúng ta cũng được một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển tài năng trí tuệ. Chúng ta cũng có những niềm tự hào về bản thân và về tất cả những gì mình đang có. Cũng chính vì những gì đang có đó mà nhiều khi chúng ta không còn nhìn thấy được những gì mình không có hoặc chưa có, nên cứ ngỡ rằng mình đang có đầy đủ và không còn thiếu gì hết, vì thế nên không cần phải thay đổi hay thêm điều gì nữa. Chính những lúc đó, chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy mình nữa, mà cứ ngỡ rằng mình đang tuyệt đối. Khi đó chúng ta đang mang tâm trạng của những người không chấp nhận Chúa Giêsu và Ngài đành buồn bã như nổi buồn đối với những người cách đây 2000 năm. Ánh sáng mang đến, nhưng không được tiếp nhận. Bình an mang đến, nhưng không có nhu cầu để cho sự bình an được phục vụ. Hạnh phúc bên cạnh, nhưng không ai biết dùng đến. Không lẽ chúng ta là những người tự hào đang sống trong thời đại mới, thời đại văn minh, mà không nhận ra được những nhu cầu cần thiết như thế sao? Như vậy lời kêu gọi: hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến; không phải là nói với chúng ta sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận ra được nhu cầu cần thiết của mình, để biết lắng nghe Tiếng Chúa và đến gần Chúa hơn.

1521    09-02-2011 21:21:28