Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Chúa Nhật XXI Thường Niên A năm 2014

  1. Ngọc Trong Đá
  2. Đối Với Tôi, Đức Giêsu Là Ai?
  3. Tuyên Xưng
  4. Cái Nhìn Đúng Đắn Về Thầy Giêsu
  5. Thầy Là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống
  6. Hãy Xây Dựng Giáo Hội Bằng Những Viên Đá Sống Động
  7. Các Con Cho Thầy Là Ai?
  8. Giêsu, Ngài Là Ai?
  9. Người Kitô Hữu
  10. Phêrô Tuyên Tín Và Nhận Quyền Lãnh Đạo
  11. Mầu Nhiệm Giáo Hội
  12. Nhiệm Vụ Của Tôi Là Gì?
  13. Phêrô, Người Môn Đệ Được Cất Nhắc Để Làm Đầu Hội Thánh
  14. Hội Thánh Của Chúa
  15. Cơ Chế Hữu Hình
  16. Đá Tảng Thật – Đá Tảng Dỏm
  17. Đức Kitô Là Đấng Cứu Độ Duy Nhất Và Phổ Quát Của Nhân Loại
  18. Phêrô, Đấng Làm Đầu Giáo Hội
  19. Thầy Là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống
  20. Tin Vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống
  21. Phêrô, Đá Tảng Đức Tin Của Hội Thánh

NGỌC TRONG ĐÁ
Mt 16, 13 - 20

Không một quyền bính nào được thiết lập mà không bởi Thiên Chúa. Quyền bính đích thực không phải là để cai trị nhưng là để phục vụ.

Trong bài đọc một được trích từ sách tiên tri Isaia, ta thấy được rằng Thiên Chúa Giavê đã kết án Shebna, một tướng lãnh hùng mạnh và giàu có, người đang cố công xây dựng những thành quách và mộ phần thượng cấp cho mình. Chúa phán sẽ truất phế hắn và hất hắn ra khỏi cương vị của hắn. Thay vào đó, Chúa sẽ đặt Êliakin, con của Hikias vào vị trí đó và sẽ củng cố quyền bính cho ông.

Tin Mừng hôm nay làm nổi bậc lên hình ảnh của Phêrô, người mà Đức Giêsu chọn làm Đá Tảng để xây dựng Hội thánh của Ngài trên đó. Vinh dự đó có phải là vì Phêrô là người xứng đáng hơn những tông đồ khác không, có phải vì Phêrô tài giỏi và đạo đức hơn các người khác không? Chắc chắn, nếu nhìn theo kiểu thế gian thì không phải thế, nhưng Chúa hành động theo cách của Chúa, theo đường lối của Chúa. Chúng ta tin chắc rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều đó nên ngài đã viết trong thư gởi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc 2 rằng: "Sự giàu có, khôn ngoan và thông hiểu của Thiên Chúa sâu thẳm là dường nào! Ai biết được tư tưởng của Chúa… vì mọI sự đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người. Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm hồn mỗi người chứ không nhìn xem vẻ bên ngoài theo cách thế của con người nên Chúa Giêsu đã chọn Phêrô làm đầu Hội thánh ở trần gian để tiếp tục sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Ngài. Phêrô không phải là người thay thế Đức Giêsu nhưng là tôi tớ của Ngài, được Ngài cắt đặt lên để làm công việc được trao phó là chăn dắt đoàn chiên của Chúa.

Cuộc đời của Phêrô được đan kết bởi một chuỗi những tranh sáng và tranh tối. Có những lúc Phêrô tỏ ra can đảm lạ lùng; nhưng cũng có lúc Phêrô yếu nhược vô cùng. Chúng ta hãy nhớ lại xem, chính Phêrô đã nói rõ ràng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" và ông cũng đã lớn tiếng thề thốt rằng: "con sẽ liều mạng sống vì Thầy", nhưng rồi sau đó, chắc cũng không lâu lắm, chính ông đã thề độc là " tôi không biết con người đó". Có phải chăng là đã có 2 Phêrô: một Phêrô thật và một Phêrô giả chăng? Không phải thế. Vẫn là một con người Phêrô ấy, chỉ có một Phêrô đã nói lên những điều rất trái ngược ấy. Điều đó muốn nói gì với chúng ta? Thưa có sự phân chia trong con người của Phêrô cũng như trong con người của mỗi chúng ta. Điều mà thánh Phaolô đã cảm nghiệm rõ ràng: " Điều tốt tôi muốn làm thì tôi lại không làm, còn điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm". Hay cũng như thánh Phaolô đã nói là trong ta có con ngườI sống xác thịt và con người sống theo Thần khí. Do đó, Phêrô có những lúc nhiệt tâm và can đảm thật sự, nhưng cũng có lúc ông nhát đảm và yếu đuối. Và bản thân mỗi người chúng ta cũng thế. Có những lúc chúng ta sốt sắng nên thề hứa với Chúa đủ điều. Không phải là thề hứa giả dối nhưng là thề hứa thật; rồi có những lúc cảm thấy chán nản, thất vọng và muốn buông xuôi tất cả. Không phải chỉ có chúng ta mà thôi nhưng biết bao vị thánh lừng danh cũng ở trong tình trạng đó, tình trạng mà các ngài gọi là " đêm tối đức tin". Những giây phút yếu nhược không quan trọng, không có gì đáng sợ, nhưng điều quan trọng là ta không được phép để cho những khoảnh khắc ấy đè bẹp chúng ta. Hãy nhớ đến Chúa đang ở bên ta. Chúa đang mỉm cười với ta lúc ta cao hứng nhưng Ngài sẽ đỡ nâng và thêm sức cho ta khi ta yếu nhược: "Ơn Ta đủ cho con”.

Việc ý thức mình có những lúc mạnh và có những lúc yếu như thế giúp ta có một cuộc sống quân bình và biết cảm thông, tha thứ đối với người khác. Thông thường, chúng ta thấy dễ dàng phê bình người khác nhưng lại khó chấp nhận những khiếm khuyết của mình; hay ta thấy phấn khởi khi được khen tặng nhưng khó mở lời để khích lệ ai, và điều này đã làm cản trở biết bao những cơ hội tốt trong cuộc đời này.

Phêrô đã phạm nhiều sai lỗi. Điều đó là rõ ràng, ai cũng nhìn thấy được. Những Phêrô cũng có rầt nhiều điểm mạnh như lòng quãng đại, sự nhiệt tâm, tinh thần lãnh đạo…và Chúa Giêsu đã nhận ra những điều đó nơi ông và Ngài đã tin tưởng và tín nhiệm Phêrô.

Cầu nguyện: Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta tập và cố gắng nhìn thấy và khám phá ra những điều tốt nơi ngườI khác để luôn biết nói tốt, nghĩ tốt và làm tốt cho họ. Và chính khi làm những điều ấy thì không những bản thân những người ấy được vui tươi hạnh phúc mà bản thân mình cũng được hưởng. Nhờ những thành quả tốt đẹp ấy. Đó là những viên ngọc mà chúng ta đã tìm thấy được nơi những hòn đá cứng cỏi.

ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC GIÊSU LÀ AI?
Mt 16, 13 - 20

Chúa Giêsu vì yêu chúng ta đã giáng thế trong thân phận con người. Ngôi Hai đã tự nguyện trở nên một phàm nhân, chịu giới hạn như người trần thế, Ngài đã chịu đón lấy những cách đối xử bất công của loài người…Đó là điều thiệt thòi cho Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa chấp nhận những thiệt thòi chỉ vì muốn cho loài người được hạnh phúc, cho tôi được nhận biết Ngài mà được cứu độ.

Nếu ai hỏi tôi về Đức Giêsu, tôi bảo Ngài là Chúa của tôi, tôi tin vào Ngài. Thế nhưng, tôi cứ vấp phạm hoài giới răn của Ngài, chưa thực hành lời Ngài dạy cho đúng mức. Từ đó, tôi biết mình hay nói suông mà chưa biết yêu mến Chúa! Chúa phải nhiều lần nhắc nhở tôi qua những bài giảng giải Kinh thánh, qua những người xung quanh... Ngài hỏi tôi: con đặt Ta ở vị trí nào trong lòng con? Đối với con, Ta là ai ?

Sau một thời gian giáo hoá các môn đệ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ xác định lập trường của mình về Thầy Giêsu, về cách nhìn, sự hiểu biết và sự tiến bộ của họ. Ngài hỏi các Tông đồ: người ta bảo Con Người là ai? Dư luận bên ngoài thì rất mơ hồ, họ chỉ biết Chúa Giêsu là tiên tri, chưa biết chương trình của Thiên Chúa nơi Ngài. Chính Phêrô đã thay mặt các Tông đồ nói lên quan điểm và sự hiểu biết của mình: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Phêrô dường như hiểu được sứ mạng của Thầy mình. Vì thế, Chúa Giêsu khen Phêrô có phúc đã được Chúa Cha thương soi sáng cho ông. Chính trên niềm tin và lập trường đúng đắn, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm tảng đá xây dựng Hội thánh và quyền lực Ác Thần sẽ không thắng được. Sau này, Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô quyền thay mặt Chúa để tháo hay buộc ở trần gian.

Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng niềm tin và được giao cho một nhiệm vụ quan trọng: lãnh đạo Giáo hội, những người đồng tuyên xưng cũng được Chúa sai đi làm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Còn đối với tôi, Đức Giêsu là ai, tôi có tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa của tôi, là Đấng yêu thương tôi không? Đức Giêsu là sức sống và hy vọng của tôi, không có Ngài tôi không có hy vọng, tôi không có khả năng làm việc gì. Ai sẽ cứu chuộc tôi và cho tôi làm con Chúa nếu Đức Giêsu Kitô không đến cứu chuộc tôi. Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy phó thác vào tình yêu và sức mạnh của Ngài.

Khi tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, tôi phải cố hết sức giữ điều răn Chúa, thực hành lời Người dạy, biết kính mến Chúa hết lòng qua việc giữ ngày Chúa Nhựt, đọc kinh cầu nguyện, dâng mọi việc làm trong ngày cho Chúa với lòng tin tưởng và phó thác. Hiện nay, tôi có yêu thương anh em, sống bổn phận bác ái, tương trợ, loan truyền Tin Mừng mà tôi đã nhận lãnh cho mọi người chưa! Chúa Giêsu nói: lòng tràn thì miệng mới nói ra. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi sẽ biểu hiện lòng kính mến của tôi ra bên ngoài, nhưng rõ ràng là hiện giờ tôi chưa hăng hái, chưa nhiệt tình với việc truyền giáo. Nếu tôi có lòng biết ơn Chúa, tin tưởng nơi Chúa thì lòng tôi hân hoan vui sướng khi nói về Chúa, loan báo niềm vui Chúa Phục Sinh cho mọi người cùng hưởng.

Nhiều lúc tôi tưởng mình có đức tin mạnh, nhưng không ngờ sau một biến cố khó khăn, tôi biểu lộ sự kém đức tin của mình, tôi trở nên yếu đuối, nghi ngờ vào tình yêu của Chúa đối với tôi. Tôi cho rằng nếu Chúa thương và quan phòng thì phải để tôi luôn được sung sướng. Tôi đi lễ thường xuyên, không làm phiền ai, không ngỗ nghịch với Chúa… nhưng tôi thiếu lòng tin tưởng vào bàn tay dẫn dắt tài tình của Chúa, đúng ra là tôi muốn sống nhàn hạ theo ý mình chứ không phải tôi muốn theo ý Chúa. Hơn nữa, tôi muốn Chúa phải theo ý tôi, nên khi Chúa để xảy ra những khó khăn là tôi cảm thấy khó ở… qua những biến cố cuộc đời, tôi cảm thấy mình còn kém đức tin, yếu đuối, cần phải cầu xin Chúa thiết tha hơn, quyết tâm yêu Chúa mạnh mẽ hơn, bám chặt vào Chúa hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết nhận ra và chấp nhận ý Chúa. Tôi cần trưởng thành hơn trong đời sống thiêng liêng, trong sự liên kết thâm sâu với Chúa và bác ái với anh em.

Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng con mà Chúa đã phải chịu bao nhiêu sự đối xử bất công của nhân loại và sự tệ bạc của một số người trong chúng con nữa! Xin Chúa thứ tha những sai lỗi của chúng con và ban cho chúng con niềm tin mến Chúa. Mỗi người chúng con sẽ tuyên xưng danh Chúa mạnh mẽ trước mặt thế gian như thánh Phêrô hôm nay để mọi người nhìn vào chúng con đều cảm mến Chúa và được ơn cứu độ.

TUYÊN XƯNG
Mt 16, 13 - 20

Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi: Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Trong cuộc sống, hàng ngày Người vẫn đang hỏi chúng ta câu đó. Người muốn chúng ta phải mạnh dan tuyên xưng về Người. Có rất nhiều người trong chung ta đã nói đúng về Người nhưng hành động của chúng ta lại khác với lời tuyên xưng đó nên nững gì chúng ta nói chính là lời sáo ngữ. Chắc chắn những lời tuyên xưng bằng môi mép như thế Đức Giêsu không muốn chút nào, Ngài muốn lời đó phải được phát xuất từ con tim và hành động.

Xã hội ngày một tiến bộ hơn, con người càng muốn khám phá những điều bí ẩn hơn. Như ta đã thấy đó, trong bài Tin Mừng hôm nay dân chúngï dùng rất nhiều khái niệm để nói về Đức Giêsu, nh7ng không có khái niệm nào có thể nói đúng Ngài là ai. Vì muốn định nghĩa đúng, thì phải có ơn Chúa ban cho “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Nhờ ơn Chúa mà lời tuyên xưng của ông đã trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa qua mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng đó đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục - còn mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu . Nhờ ông mà người tín hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông nâng đỡ đức tin của chúng ta.

Nhờ lời tuyên Phêrô đã đươc nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây “Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá - Quyền lực của tử thần (dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người. Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phán quyết và nghị định của Hội Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chỉ tính cách vững bền của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó... Phêrô là đá tảng mà Đức Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên hẳn cái tên cũ kia”.

Nếu không có nền tảng thì vững chắc thì khi gặp mưa to gió lớn chắc chắn con thuyền Giáo Hội sẽ xụp đổ, nhưng những nền tảng đó có được là do chính Chúa đã lựa và chọn. Vì vậy, hành động tích cực của mỗi người là phải biết cộng tác với ơn Chúa, giúp đỡ cha sở họ đạo cộng tác cùng nhau xây dựng một họ đạo là những con thuyền nhỏ mà cha sở chính là nền tảng.

Lạy Chúa, xin cho con can đảm tuyên xưng về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen

CÁI NHÌN ĐÚNG ĐẮN VỀ THẦY GIÊSU
Mt 16, 13 - 20

Người ta thường nói: “Chín người mười ý”. Do đó, đứng trước bất kỳ một con người nào, người ta sẽ có nhiều cái nhìn khác nhau. Có những cái nhìn khách quan bên cạnh những cái nhìn chủ quan, có những cái nhìn đóng góp, xây dựng song song với những cái nhìn xoi mói, có những cái nhìn thán phục và cũng có những cái nhìn ganh ghét…Cho nên, rất khó để ta có thể có cái nhìn đúng về một người nào đó. Vậy đối với Thầy Giêsu làm thế nào ta có cái nhìn đúng đắn về Người.

Ngày nọ, Thầy Giêsu muốn biết người ta nhìn về mình như thế nào nên hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Họ đáp: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ." Đó là những cái nhìn của những người bên ngoài. Giờ đây, Thầy Giêsu cũng muốn biết chính những người thân tín của mình:“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Dầu vậy, cho đến bấy giờ các môn đệ cũng chưa thể hiểu hết về Thầy mình đâu. Nhờ những lời Thầy tự mạc khải về mình và nhất là sau biến cố Phục sinh các ông mới thấu hiểu “Thầy là Đấng Kitô” nghĩa là gì.

Chúng ta còn nhớ khi Thầy Giêsu vào hội đường Nagiaret, Người đã đọc đoạn Kinh thánh của Tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18 – 19). Đọc xong đoạn Kinh Thánh ấy, Người đã không ngần ngại nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4, 21). Nghĩa là những gì họ vừa nghe đọc sẽ được chính Người thực hiện. Bởi vì, Thầy Giêsu chính là Đấng Kitô tôi tớ. Sứ mạng của Người nhận từ nơi Chúa Cha là: “phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10, 45b).

Tất cả chỉ vì thương con người nên Thầy Giêsu đón nhận sứ mạng Kitô tôi tớ. Chúng ta có cảm nghiệm được tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho mình qua Thầy Chí Thánh Giêsu chưa. Hay là chúng ta còn mong một Đấng Kitô nào khác. Hãy xin Thầy Giêsu cho ta có được cái nhìn đúng đắn về Người. Để rồi cách sống đạo của mình sẽ thay đổi cho thích hợp.

THẦY LÀ ĐỨC KITÔ,CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG
Mt 16, 13 - 20

Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857), làm quan dưới thời vua Tự Đức, chức Thái Bộc, hàng tam phẩm, lo việc dệt vải lụa cho cả nước. Ông là quan thanh liêm, rất có uy tín. Năm 1856, quân Pháp đánh phá cảng Đà Nẵng, ông bị bắt, bị kết án tử hình. Ông bị điệu qua các đường phố Huế trong ba ngày. Lính vừa đánh đập vừa rao lên: "Hồ Đình Hy, tên tả đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình, vì thế sẽ bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? Tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"

Thời Pháp thuộc, đạo công giáo bị coi là tả đạo, nghĩa là không phải đạo thật. Ngày nay người cộng sản và cả người không tin, họ coi đạo công giáo là thứ thuốc phiện, ru ngủ dân chúng, một thứ không cần thiết, lại còn có hại cho dân chúng nữa. Dĩ nhiên, Chúa Kitô cũng bị coi là hạng không ra gì, là hạng lường gạt dân chúng. Vậy mà các thánh tử đạo lại tuyên xưng. Qua bài Tin mừng, Phêrô còn tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Ta phải hiểu làm sao? Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Chúng ta thử tìm hiểu vài câu chính yếu:

Người đương thời nói sao về Chú a? – Các môn đệ thưa: là tiên tri Êlia, Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó. Mọi người xung quanh thực ra không biết về Chúa. Họ nghĩ Chúa bất quá là một tiên tri có tầm cỡ như Êlia, Giêrêmia…vì Chúa làm nhiều phép lạ. Họ không nghĩ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, hay ngang hàng với Thiên Chúa. Rào cản là l0 điều răn và việc mạc khải tiệm tiến đã không cho họ hiểu rõ về mầu nhiệm Ngôi Hai này…

Phêrô thay cho các tông đồ tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô,Con Thiên Chúa hằng sống. Lời tuyên xưng này là niềm tin rất xác đáng. Có thể Phêrô cũng không hiểu rõ câu nói này, và cũng không hiểu rõ hơn chúng ta ngày hôm nay, vì như lời Chúa Giêsu nói, đó không phải lời người trần mạc khải cho Phêrô biết đâu.

b/. Suy niệm: Câu chuyện Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ xác định rõ họ tin vào ai, vào Đấng nào. Đấng mà họ tin phải là Con Thiên Chúa, chứ không chỉ là một con người, dù là người Chúa gởi đến. Hơn nữa, Đấng là Con Thiên Chúa đó, lại vui lòng nên giống anh em mình, kể cả đau khổ, chết chóc, để đưa họ lên hàng con cái Thiên Chúa, cùng hưởng hạnh phúc đời này và đời sau.

Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta như thế. Người muốn nhắn gởi mọi người trên thế giới: Người chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Người đến trần gian không phải đi du lịch, mà là dạy chúng ta yêu thương như Chúa, dạy ta dùng tình thương thay cho hận thù, đem chân lý vào nơi tối tăm; vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Người yêu thương hết mọi người không loại trừ ai, và muốn mọi người hạnh phúc như Chúa.

Đức Tổng giám mục Oscar Romero, giám mục tổng giáo phận El Salvador, Nam Mỹ, đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, vì đấu tranh chống lại sự dữ, chống lại tội ác. Khi còn sống, một lần ngài đã phát biểu cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ…Kitô giáo là một con ngườiKitô giáo là Chúa Kitô.” Chính vì tin và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa; đồng thời nhìn nhận cái cốt lõi của kitô giáo là Đức Kitô, không phải cái gì khác, mà Đức TGM Romero phải chết như thế. Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta hiểu đuợc điều nay khi tin vào Chúa Kitô.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Để biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thánh Phêrô cần được ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Để hiểu về đạo, sống đạo, ta cần học hỏi giáo lý, cần ơn Chúa. Để hiểu tha nhân cho chính xác, ta cần có nhiều dữ kiện, cần thời gian…và cả cầu nguyện nữa. Bao lâu nay ta có ý thức điều đó chưa, hay chỉ hời hợt theo trực giác bên ngoài mà thôi.

HÃY XÂY DỰNG GIÁO HỘI BẰNG NHỮNG VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG
Mt 16, 13 - 20

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 “Giáo Hội là mầu nhiệm”;“Giáo Hội là dân Thiên Chúa”. Những khái niệm trên cho thấy Giáo Hội vừa mang tính hữu hình vừa mang tính vô hình. Hữu hình: Giáo Hội là một tổ chức như mọi tổ chức trần gian. Có người lãnh đạo và có những cộng sự khác. Vô hình: vì có Thiên Chúa Ba Ngôi là chủ. Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có sự liên đới với nhau, ta gọi đó là: “Mầu nhiệm hiệp thông”.

Như vậy, khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giêsu muốn thông qua tổ chức hữu hình để Ngài ban ân sủng siêu nhiên nhằm cứu độ con người. Thế nên, trước khi về trời, Đức Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho đến tận thế. Vì lẽ đó, Đức Giêsu đã đặt Phêrô là người thay mặt Ngài ở trần gian để điều hành Giáo Hội. Tuy nhiên, việc trao ban quyền lãnh đạo cho Phêrô, Đức Giêsu muốn Phêrô phải tuyên xưng và xác tín niềm tin của ông nơi Ngài trước khi nhận lãnh sứ vụ. Đồng thời phải có tâm tình khiêm tốn, chân thành của kẻ bé mọn trong việc xây dựng Nước Trời trên trần gian.

1.  Phêrô tuyên xưng đức tin

"Người ta bảo Con Người là ai?" (Mt 16, 13).

Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?

Thưa vì những lý do sau:

Thứ nhất, Đức Giêsu và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê. Đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias: thần thiên nhiên.

Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống của các tiên tri thời Cựu Ước mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu! Vì thế, không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ" (Mt 16, 14). Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó. Mặt khác, nhân đây, Ngài muốn mặc khải cho các ông về con người và vai trò Thiên Sai của mình. Vì thế, Ngài đã hỏi trực tiếp các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 15-16).

Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.

Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.

Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các ông vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin, kiêu ngạo, tự phụ và không hiểu biết gì về mình.

2.  Phêrô đón nhận sứ vụ

Ngay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Ðức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 16, 17)Qua câu nói đó của Đức Giêsu, và lúc khác kết hợp với lời tạ ơn của chính Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25), cho chúng ta thấy rất rõ rằng: sứ vụ mà Phêrô sắp được lãnh nhận ở đây không phải là của người khôn ngoan, trí thức, quyền quý, theo kiểu người đời vẫn hiểu, mà là dành cho những người bé mọn theo ý Chúa. Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù “sự hiểu biết thuộc về con người”, nhưng thuộc về “thế giới siêu nghiệm”,và vì thế, để hiểu được tất cả ý nhĩa của lời tuyên tín trên thì cần phải được mặc khải từ Thiên Chúa, và người đón nhận phải đơn sơ, chân thành.

Thật vậy, sứ vụ mà Phêrô sắp lãnh nhận là trở thành chủ chăn, là người lãnh đạo, nhưng khi thi hành thì phải mang trong mình tâm tình khiêm nhường và phục vụ chứ không được dùng quyền để đàn áp, thống lãnh và ăn trên ngồi trước như người đời... Biết can đảm, trung thành trước mọi thử thách và cuối cùng là biết phó thác nơi Thiên Chúa như những người bé mọn.

Vì thế, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”. Nhắc đến đá, ta nhớ ngay những đặc tính của nó như: cứng; bền; chắc. Và khi Đức Giêsu ví Giáo Hội được xây trên nền đá, Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến những đặc tính siêu nhiên.

Cứng: nói lên sức mạnh của Giáo Hội.

Bền: nói lên sự trường tồn của Giáo Hội.

Chắc: nói lên sự vững mạnh của Giáo Hội.

Khi đổi tên như thế, Ngài đã biến ông từ một kẻ nhát đảm, kém tin, bồng bột trở thành biểu tượng của sức mạnh, trường tồn và bền vững: “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Không những thế, Đức Giêsu còn trao cho Phêrô quyền tuyệt đối khi nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16, 19).

Theo quan niệm của người Do thái vào thời đó, "quyền lực của tử thần"“khả năng giam giữ các kẻ chết". Câu này có ý nói đến uy quyền của ma quỷ, chúng dùng sự dữ để đưa người ta vào con đường tội lỗi, và giam giữ họ trong sự chết đời đời.

Tuy nhiên, cần phải hiểu rộng hơn nữa về thứ quyền lực của thế gian nơi những kẻ bách hại Giáo Hội, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… Nhưng cũng như quyền lực của ma quỷ, chúng sẽ không thể tiêu diệt được Giáo Hội, vì Giáo Hội được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn theo thánh ý Ngài. 

3.  Sứ điệp Lời Chúa

Khi Giáo Hội được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa nhà do chính Đức Giêsu xây dựng trên “tảng đá” Phêrô và mỗi chúng ta: “... như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” ấy (x. 1Pr 2,5). Khi nói đến viên đá sống động, hẳn chúng ta không thể hiểu theo ngôn ngữ chết, mà phải hiểu trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta.

Câu hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: "Người ta bảo Con Người là ai?" cũng là câu hỏi dành cho mỗi người chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải trả lời cho được câu hỏi đó. Nếu trả lời như Phêrô khi xưa: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Thì hẳn chúng ta phải biểu lộ niềm tin của mình vào Đấng đã cứu chuộc mình cách đúng nghĩa.

Thật vậy,  muốn thuộc về Đức Giêsu, chúng ta phải đi lại con đường thập giá của Ngài đã đi và sống nguyên lý của mầu nhiệm tự hủy, khiêm tốn, can đảm, trung thành và phó thác.

Nếu không, đức tin của chúng ta chỉ là thứ đức tin “ấu trĩ” được mua bằng một “giá rẻ”. Nếu quả là vậy, thì mãi mãi vẫn chỉ là một đức tin “nghèo nàn” và thiếu đi “cốt lõi” của niềm tin.

Thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), và thánh Gioan đã quả quyết:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người [...]. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Ðức Giêsu đã đi” (1,Ga 2,3-6).

Như vậy, tin Đức Giêsu thì cũng hành động như Ngài và tuân theo lời dạy yêu thương của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34) và như thế, niềm tin của chúng ta sẽ được lan truyền sang cho mọi người như lời Đức Giêsu đã nói: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 17).

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con ngày càng theo sát Chúa trên con đường thập giá là con “đường độc đạo” con “đường thật” dẫn đến “sự sống”. Xin cũng ban cho chúng con luôn yêu mến, vâng phục đấng thay mặt Chúa, kế vị các tông đồ và sẵn sàng dấn thân xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian. Amen.

CÁC CON CHO THẦY LÀ AI
Mt 16, 13 - 20
Lm D. Nguyễn Ngọc Long
Tạp chí Reader’s Digest - Das Best số tháng 4/1999 trang 116 đăng kết quả Bản thăm dò ý kiến của người dân Đức về Đức Tin vào Thiên Chúa:

50 phần trăm người được hỏi ý kiến vào lứa tuổi từ 14 đến 39 tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau; trái lại chỉ 38 phần trăm người vào lứa tuổi 60 còn tin vào điều này.

70 phần trăm đều cho rằng xã hội bây giờ không tin vào Thiên Chúa nữa. 78 phần trăm những người trẻ thuộc thế hệ từ 14 đến 29 tuổi cảm thấy đời sống tôn giáo càng ngày càng biến mất trong đời sống; và họ cho là tình trạng này xảy đến quá sớm...

Hội Thanh Thiếu Niên Công giáo thuộc Giáo phận Munich thăm dò ý kiến 1200 bạn trẻ về vai trò Chúa Giêsu trong đời sống tinh thần của họ... Phần đông cho biết Chúa Giêsu Kitô không còn chiếm địa vị trung tâm đời sống tinh thần họ nữa! Bản đúc kết đi kết luận: Trong đời sống tôn giáo của người trẻ ngày nay, niềm tin Kitô giáo không còn hấp dẫn hay gây nhiều ảnh hưởng nơi họ. Chúa Giêsu dần dần ít được nhắc tới trong các buổi thuyết trình, hay nếu có cũng chỉ được nêu ra như một nhân vật lịch sử.

Như thế có thể nói hình ảnh về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu, trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo không còn ăn rễ sâu nơi tâm thức con người, ít là nơi những người trẻ tương lai của xã hội, Giáo hội nữa!

Vậy đâu là ý nghĩa câu hỏi của Thầy Giêsu năm xưa cho chúng ta ngày nay: “Các con cho Thầy là ai?”

Ông Phêrô xưa kia nhân danh anh em môn đệ trả lời Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”

Tôi không tin Ông Phêrô trả lời theo cách suy tư lý luận thần học khúc mắc khô cứng với nhiều trích dẫn dài dòng ngày nay. Nhưng câu trả lời đó do Thần Linh Thiên Chúa đánh động tâm hồn Ông nói ra. Câu trả lời ngắn gọn biểu lộ niềm xác tín của tâm hồn đơn sơ mộc mạc của bác sống nghề thuyền chài lưới ngoài sông biển!

Vậy niềm tin đó từ đâu mà ông có? Lòng tin đó không phải tự dưng từ trời rơi xuống, nhưng là kết quả của năm tháng ngày giờ tiếp xúc, nghe nhìn tận mắt Thầy Giêsu.

Lúc đầu các môn đệ theo Thầy Giêsu cũng nghĩ Thầy mình là một nhà giáo có nhiều tài năng thu hút con người, hay một Tiên Tri như các tiên tri thời Cựu ước, và cũng có thể là một Gioan Tẩy Giả! Nhưng với thời gian gần Thầy, các Ông nhận ra Thầy mình không phải như vậy. Thầy Giêsu giảng dậy không căn cứ vào luật lệ truyền từ xa xưa, vào sách vở. Nhưng lời Ngài nói phát ra luồng mãnh lực, một Người đầy uy quyền: "Các con nghe nói, luật xưa truyền dậy rằng... nhưng Thầy bảo cho các con hay...(Mt 5,21...) Ngài quả quyết, chính Ngài có quyền trên ngày Sabbath (x.x.Mt 12,8). Và dân chúng kính phục uy tín quyền năng Ngài, chính lời Ngài đã đi sâu vào tim óc người dân (x.x. Mt 7,29).

Đời sống, lời giảng dậy của Ngài hoàn toàn khác biệt với các Tiên tri thời Cựu ước. Lời Ngài không phải chỉ là mớ điều khôn ngoan, điều răn đe, kêu gọi phải ăn năn sám hối, nhưng là lời ban ơn tha thứ làm hoà, khoan dung nhân ái, điều này ai có thể làm được, nếu không phải chỉ một mình Thiên Chúa! (Mt 9,2).

Mối liên hệ giữa Ngài với Thiên Chúa Cha không phải là tôi tớ, nhưng là liên hệ thân tình cha con. Ngài là sứ giả rao giảng tình yêu Thiên Chúa, nhưng vị Sứ giả đó lại chính là trung tâm của sứ điệp tình yêu (Mc 8,35; Mt10,37).

Các môn đệ thán phục Thầy mình, ngày càng nhận ra và tin vào Ngài. Dân chúng kính phục đổ xô đến nghe ngài giảng thuyết. Nhưng những lời quả quyết về Ngài phát xuất từ chính Ngài làm cho người nghe không khỏi bất mãn khó chịu đến nghi ngờ.

Phêrô và các môn đệ tin vào Thầy mình không qua do hiểu biết nghiên cứu học hỏi lý luận, nhưng qua gặp gỡ, đối thoại, nghe Ngài giảng thuyết. Chính từ mảnh đất đó Thần Linh Thiên Chúa tác động soi chiếu tâm hồn các ông nhận ra Thầy mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa.

Tò mò theo Chúa để tin vào Ngài, hay tin vào Chúa để theo Ngài. Cả hai thái độ đều biểu lộ một tâm hồn sẵn sàng gặp gỡ Chúa, qua việc đọc Lời Chúa, nghe Lời Chúa và ngắm nhìn Chúa trong thiên nhiên, nơi con người.

Và qua đó tìm ra trả lời cho câu hỏi: "Các con cho Thầy là ai?"

GIÊSU, NGÀI LÀ AI?
Mt 16, 13 - 20

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Paneion là tên gọi nguyên thuỷ của thành phố mà vào năm 2 trước công nguyên, tiểu vương Hêrôđê Philípphê II tái thiết và đặt tên là Xêdarê để kính nhớ hoàng đế Augustô. Chúng ta gọi thành này là Xêdarê Philípphê nhằm phân biệt với một thành Xêdarê khác ở miền duyên hải. Chính tại thành phố đa nguyên tôn giáo này, Phêrô - nhờ ơn mạc khải đến từ Thiên Chúa, đã dõng dạc tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống- một tước vị độc nhất vô nhị trong Tin mừng.

Căn tính của Chúa Giêsu từ lâu luôn là câu hỏi lớn không chỉ đối với thời đại của Người mà còn cho mọi thời đại: “Giêsu, ông là ai?”. Trên đường rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu luôn là đối tượng để mọi thành phần trong dân chúng thắc mắc và không ngừng tìm hiểu. Ngay Gioan Tẩy giả cũng không hiểu nổi người anh em của mình là người thế nào. Từ trong ngục tù, ông đã phái môn đệ đến hỏi xem ông em họ có phải là “Đấng phải đến” hay không (x. Lc 7, 20). Dân chúng thì lại thắc mắc : “Ông này là ai mà lại tha được tội” (x. Lc 7, 49). Ngay cả Hêrôđê vốn là một ông vua gian dâm, độc ác, xem thường luân thường đạo lý cũng phải suy nghĩ : “ Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế” (x. Lc 9,9). Thế nhưng sự thật về con người Giêsu vẫn chưa có câu trả lời xác đáng cho đến khi chính Chúa Giêsu đặt vấn đề này với các môn đệ. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ nói lên chính kiến của mình chứ không dựa theo dư luận quần chúng lúc bấy giờ. “Thầy là Đấng Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Câu trả lời của Phêrô không chỉ là lời tuyên xưng niềm tin vào “Đấng được xức dầu”, vào tôn hiệu Thiên Sai của Chúa Giêsu mà còn là chìa khoá mở vào đường chân lý cho hết những ai muốn thắc mắc và tìm hiểu cuộc đời và giáo huấn của Người. Tước hiệu “Con Thiên Chúa hằng sống” mà Phêrô tuyên tín không chỉ nói lên niềm tin của Giáo hội thời sơ khai mà còn nói lên mối dây liên hệ phụ tử giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu, đồng thời cho thấy đó chính là sứ mệnh mà Chúa Giêsu lãnh nhận từ Thiên Chúa hầu đem ơn cứu độ cho nhân trần.

Chúng ta thấy sở dĩ Chúa Giêsu không cho các môn đệ loan báo điều Phêrô vừa tuyên xưng không phải vì Người chối từ danh hiệu đó mà vì vào thời ấy, sử dụng tôn danh đó còn quá sớm; hơn nữa trong dân chúng, tôn hiệu đó được hiểu rất hàm hồ. Thật thế, trong quan niệm của dân chúng lúc bấy giờ, Đấng Mêsia là người được Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Người khỏi nô lệ, khỏi áp bức của ngoại bang, thiết lập vương quốc tại thế khởi đi từ Giêrusalem. Các môn đệ cũng hiểu như vậy. Chỉ khi chứng kiến cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Thầy, các ông mới hiểu rõ ý nghĩa “Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống” là gì.

Thật vậy, Đấng Mêsia của Thiên Chúa không theo nghĩa mà từ lâu dân chúng vẫn áp đặt, là đến để khôi phục vương quốc bằng sức mạnh, bằng quân sự, bằng tiền tài; trái lại, đó là Đấng luôn luôn lấy hoà bình, lấy yêu thương và lòng khiêm nhường làm kim chỉ nam cho hết những ai muốn mưu cầu xây dựng một vương quốc thánh thiện, công bình, bác ái và phục vụ tha nhân. Công dân của vương quốc đó phải là những ai biết “từ bỏ mình, vác lấy thập giá hằng ngày, liều mất mạng sống mình” bước theo Đức Vua khiêm nhường và tự hạ. Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống là Đấng không đến để được người ta cung phụng mà là Đấng đến để phục vụ, đến để từ bỏ chính mình, để hiến dâng mạng sống mình vì nhân loại.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” vẫn là câu hỏi mà Chúa Giêsu muốn chúng ta trả lời. Đó chính là cách thế để chúng ta duyệt xét lại đời sống đức tin của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Câu hỏi của Chúa Giêsu không ngừng vang lên trong tâm trí mỗi Kytô hữu như một lời mời gọi để họ luôn sống sao cho xứng đáng là môn đệ của Chúa ngõ hầu những ai đến với họ đều nhận ra căn tính đích thực - căn tính Kytô hữu, là hiện thân của Chúa Kytô nơi trần thế này.

NGƯỜI KITÔ HỮU
Mt 16, 13 - 20

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, vị cố Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa : thế nào là một người Ki-tô hữu chân chính như sau : “Mỗi một tín hữu trong thế giới của chúng ta là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Ki-tô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên, quả thật người Ki-tô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản, cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người tín hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Ki-tô.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về cuộc sống ấy. Trong những việc làm của mình, và nhất là cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã không ngừng là một câu hỏi cho tất cả chúng ta : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Câu hỏi đó Chúa không ngừng đặt ra cho chúng ta và yêu cầu chúng ta sống đúng với niềm tin của mình. Ai trong chúng ta cũng trả lời được Chúa Giêsu là ai ? Là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa đến trần gian để dạy bảo Tin Mừng, để cứu chuộc chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta, qua cuộc sống của mình, chúng ta cũng luôn là câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm ẩn dật đến đâu, dù bé nhỏ vô danh đến đâu, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh. Nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Thực vậy, giữa một xã hội đầy giành giật, đầy bon chen, lấy tiền bạc làm khuôn vàng thước ngọc, người Ki-tô sẽ vẫn là một câu hỏi, nếu chúng ta sống trong tinh thần khó nghèo, chấp nhận thua thiệt, mất mát hơn là bán đứng lương tâm để chạy theo điều phi pháp. Có một số người lấy hận thù, ăn miếng trả miếng làm luật sống, người Ki-tô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn yêu thương với mọi người, sẵn sàng tha thứ và theo Chúa cho đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi, thất vọng, người Ki-tô vẫn mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu trong lịch sử con người. Giữa xã hội mà sự thành thật với nhau đã trở thành, một thứ xa xỉ phẩm, người Ki-tô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sống thành thật, sống tử tế, tốt đẹp với mọi người, ngay cả đối với chính kẻ thù của mình …Sống như thế quả là không dễ, là một đòi hỏi cam go, nhưng Chúa đòi chúng ta phải cố gắng sống được như thế nếu chúng ta muốn là một Ki-tô hữu đúng danh, nếu chúng ta muốn làm chứng cho Chúa.

Trong tiểu sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng : sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi : “Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đơ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế : anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Na-da-rét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi : tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng ? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện.

Mọi Ki-tô hữu chân chính đều phải tự hỏi mình : tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế. Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giêsu đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày : “Con đã làm được gì cho Cha ?”, cũng có nghĩa là “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha ?”. Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời.

PHÊRÔ TUYÊN TÍN và NHẬN QUYỀN LÃNH ĐẠO
Mt 16, 13 - 20
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, ta vẫn thấy có sự xuyên suốt từ đầu chí cuối. Có những chuyện xem ra dí dỏm, có những chuyện nực cười và có những chuyện thương tâm chảy nước mắt. Một Phêrô tuyên tín ra vẻ oanh liệt, nhưng lại một Phêrô yếu mềm, chối Chúa. Tuy nhiên, Phêrô dạn dĩ, Phêrô yếu đuối, Chúa vẫn thương Phêrô vì Ông thành thật, dân dã, biết ăn năn sám hối. Phêrô quả thực đã được Chúa chọn làm đầu Giáo Hội tiên khởi…

Các môn đệ đã theo chân Chúa Giêsu, đã học hỏi nơi Đức Kitô, đã tìm hiểu Người. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn biết các đệ tử của Người nghĩ gì về Người. Bởi vì, có rất nhiều dư luận bàn tán xôn xao về Chúa Giêsu.

Kẻ cho Người là Élia, người cho là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào khác…Nếu các môn đệ cũng chỉ nghĩ như dư luận đã nói về Người thì thật uổng công Chúa Giêsu đã dậy, đã huấn luyện các môn đệ. Chúa Giêsu nhấn mạnh:” Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? ” ( Mt 16, 15 ).

Vẫn là con người bộc trực, nhanh nhảu và nông dân, Phêrô thay mặt các bạn thưa với Chúa Giêsu:” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.(Mt 16, 16 ).

Phêrô đã trả lời hoàn toàn khác với các dư luận đã nghĩ về Người. Phêrô nhận ra dưới nhân tính của Chúa Giêsu, Đấng Messia của Israen, Vua của Nước Trời mà Cựu Ước đã loan báo. Việc tuyên tín của Phêrô khiến Chúa Giêsu nhận ra ngay 12 môn đệ là nhóm còn lại mà các ngôn sứ đã loan báo và như thế, Người thiết lập Giáo Hội tiên khởi mà chính Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, cai quản Hội Thánh hoàn vũ. Giáo Hội sơ khai, với tác động của Chúa Thánh Thần quả thực đã nhận ra rằng họ thuộc về Giáo Hội tông truyền của Đức Kitô, họ khám phá ra chủ đích thâm sâu của Đức Kitô và qua câu tuyên xưng của Phêrô Chúa muốn thiết lập Giáo Hội.

Khi tuyên xưng công khai với đầy lòng tin, với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Phêrô nhận được ơn huệ của Chúa. Lời tuyên tín của Phêrô do Chúa Cha mạc khải chứ không phải phàm nhân:” Này anh Phêrô con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 16, 17 ). Chúa xây dựng Giáo Hội của Người trên nền tảng Phêrô và các môn đệ khác. Giáo Hội do đó không phải thuộc về Phêrô mà là thuộc về Đức Kitô vì chính Người đã qui tụ, điều khiển, xây dựng Giáo Hội. Tuy nhiên, Phêrô là nền đá tảng và Chúa ban cho Phêrô quyền cầm buộc. Trong cuộc lữ hành trần thế, Hội Thánh gồm những vị thánh, nhưng cũng có những con người tội lỗi. Chính Phêrô được Chúa ủy thác sứ vụ phân biệt kẻ lành người dữ…

Chúa Giêsu đã chẳng nói với Phêrô:” Thầy sẽ trao cho Anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, Anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, Anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” ( Mt 16, 19 ). Rõ ràng, con người không thể tự mình tới với Đức Kitô mà không qua Giáo Hội vì Giáo Hội vừa là một tổ chức xã hội, vừa siêu nhiên. Chính vì thế, họ phải ngang qua Hội Thánh. Bởi vì nếu đơn độc, trực tiếp đến với Chúa, con người dễ vẽ ra một Chúa theo kiểu của mình, dễ tưởng tượng ra một Chúa hoàn toàn theo trí loài người chứ không phải Đức Kitô đã tự mac khải chính mình. Giáo Hội được Chúa Giêsu xây dựng là để giúp con người khám phá ra bộ mặt thật của Đức Kitô mạc khải, phát hiện ra những hành động, những việc làm của chính Đức Kitô trong ta và trong thế giới con người. Giáo Hội dù có lúc đan xen bóng tối và ánh sáng, nhưng Giáo Hội vẫn là Giáo Hội công giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền. Giáo Hội sẽ luôn vững mạnh vì luôn có Chúa ở cùng. Do đó, Giáo Hội sẽ là con đường giúp đưa con người đạt tới Nước Trời.

Chúa Giêsu đã loan báo cái chết và phục sinh của Ngài. Chúa mời gọi các môn đệ hãy vác thập giá của mình mà theo Ngài. Theo Chúa Giêsu là lời mời gọi khẩn thiết của Hội Thánh. Người Kitô hữu chỉ có thể được hạnh phúc, được tồn tại khi họ bám chặt vào Đức Kitô, Người là Tin Mừng duy nhất của con người, Người là nguồn mạch sự sống của con người. Thập giá luôn là thách đố cho con người. Người ta muôn thời đã vẽ ra những mẫu thập giá theo ý của họ, nhưng chỉ có một thập giá: thập giá của Đức Kitô nghĩa là cái chết và phục sinh của Đấng đã hoàn toàn tự nguyện theo ý Chúa Cha để cứu rỗi con người.” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, thánh Phaolô đã nói như vậy, và Ngài đã sống như vậy. Thánh Phaolô cũng đã từng viết:” Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”. Thánh Phaolô và thánh Phêrô đã sống trọn vẹn ý nghĩa của cuộc nạn ấy. Các Ngài cũng đang mời gọi chúng ta sống sự sống, cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô.

Xin Chúa ban cho chúng ta kiên vững để luôn tuyên xưng lòng tin của chúng ta bất cứ trong trạng huống nào.
 

MẦU NHIỆM GIÁO HỘI
Mt 16, 13 - 20

Lm Trần Thanh Sơn

Hôm thứ Năm 18/7/2002, toà án tại quận Ambikapur thuộc bang Chhattisgarh, miền Trung Ấn Độ đã ra lệnh phạt tù Sr. Bridhi Ekka, 56 tuổi, thuộc dòng Ursula, 6 tháng tù giam vì tội đã dám chiêu dụ tín đồ Ấn Giáo trái phép.

Sr. Bridhi bị kết án theo một đạo luật đang gây ra rất nhiều tranh cãi tại Ấn Độ, khi một người muốn được rửa tội theo Công Giáo, người đứng ra rửa tội cần phải báo với đồn cảnh sát gần nhất và chờ đợi cho đến khi nào đồn cảnh sát cho phép thì mới được rửa tội cho người muốn xin theo đạo. Thông thường, trong các trường hợp như vậy, cảnh sát sẽ mời người muốn xin theo đạo lên để hăm dọa, kể cả đánh đập để họ từ bỏ ý muốn xin theo đạo.

Sr. Bridhi Ekka đã rửa tội cho một người đang lúc hấp hối. Sr. đã không báo cáo với cảnh sát và cũng không chờ cho đến khi cảnh sát có ý kiến. Đó là lý do tại sao quan toà bỏ tù Sr. Ngay sau khi quan toà kêu án, Sr. Ekka đã bị lôi ngay vào nhà giam.

Như thế, chúng ta thấy từ khi Đức Kitô, Đấng sáng lập ra Kitô giáo chịu chết treo trên thập giá cho đến tận bây giờ. Giáo Hội của Ngài vẫn liên tục bị bách hại. Thế nhưng, Giáo Hội ấy vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mạnh mẽ đúng như lời của Đức Kitô đã nói trước với Phêrô: “Con là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được” (Mt 16, 18). Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em cùng nhau nhìn lại Mầu nhiệm Giáo Hội dưới ánh sáng của phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

1. Giáo Hội được chính Đức Kitô thiết lập

Sau những bài giảng và dụ ngôn cùng với những phép lạ, chúng ta thấy công cuộc rao giảng của Đức Giêsu có vẻ thất bại nhiều hơn là thành công. Tin mừng Gioan còn ghi lại rõ sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhất là sau bài giảng về “Bánh Hằng Sống” (Ga 6). Nhiều người đã bỏ Ngài mà đi. Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu đã đưa các tông đồ đến miền Césarée Philipphê, tách khỏi đám đông dân chúng, để Ngài có thời gian nhiều hơn cho việc huấn luyện các tông đồ. Chính tại nơi đây, sau khi lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội trên Tảng đá Phêrô, Ngài nói với Phêrô: “Con là Đá, trên đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Tuy nhiên, Ngài cũng khẳng định rõ, lời tuyên xưng của thánh Phêrô không do bởi Phêrô, nhưng là do ơn Chúa tác động: “Hỡi Simon, con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17).

Như thế, chúng ta cũng có thể kết luận rằng, Giáo Hội là do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, Giáo Hội luôn có Chúa ở cùng. Và nếu có Chúa ở cùng, Giáo Hội đó chắc chắn sẽ bền vững như lời Đức Kitô đã hứa: “và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Nói đến đây, tôi nhớ đến tác phẩm “Quo Vadis” của một nhà văn Ba Lan, Sionkievich. Trong đó, ông kể lại câu chuyện tình của (Vinius), một sĩ quan dưới triều đại của Néron và nàng Ligia, một thiếu nữ Công giáo. Câu chuyện tình này được đặt nền trên bối cảnh lịch sử của cuộc bách hại đẫm máu người Công giáo dưới thời vua Néron. Khi kết thúc tác phẩm, ông viết: “Thế là qua đi Néron như đã qua đi cơn lốc, như đã qua đi giông bão, hoả hoạn, chiến tranh hay một cơn ác mộng. Còn nhà thờ lớn của ông Phêrô, cho tới nay vẫn đang ngự trị thành đô Roma và thế giới, từ trên ngọn đồi Vatican.”. Vâng Néron đã qua đi, nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển cách vững mạnh.

Thế nhưng, Giáo Hội ấy lại được đặt nền trên những con người không những rất bình thường mà còn yếu đuối nữa như Elyakim, như Phêrô. Nhưng cho dù bình thường và yếu đuối, những con người ấy có một đặc điểm chung là hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Tể tướng Sobna, trong bài đọc một, khi đứng trước sự đe doạ của nước Assirie, ông đã không tin tưởng vào Thiên Chúa, nhưng lại muốn liên kết với Ai Cập để chống đỡ. Vì thế, ông đã bị mất chức. Quyền hành của ông được trao cho Êlyakim, một người hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa theo sự hướng dẫn của ngôn sứ Isaia. Đức Chúa phán: “
Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó
”. Êlyakim đã tin lời Chúa và đã cứu dân khỏi chết. Còn Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin vào con Thiên Chúa, nên đã được chọn làm nền tảng cho Giáo Hội của Đức Kitô.

Tất cả những điều này cho thấy ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa khác xa đường lối của con người, như lời lời Ngài phán trong sách ngôn sứ Isaia: “Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi,.. Vì trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi (bấy nhiêu).” (Is 55, 8-9). Chính thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng cảm nghiệm điều đó khi thốt lên: “Ôi sâu thẳm thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Ngài làm sao hiểu được, và đường lối của Ngài làm sao dò được

(Rm 11, 33). Như thế, Thiên Chúa chọn ai tuỳ Ngài muốn, chứ không do công trạng hoặc tài năng của chính người được chọn.

2. Bổn phận của chúng ta:
Ý thức, Giáo Hội được Đức Kitô thành lập, và chính Ngài mới thực sự là người điều khiển và ban sức sống cho Giáo Hội. Đồng thời, Ngài đã dùng những con người có khi thật yếu hèn để thay Ngài hướng dẫn chúng ta. Hơn nữa, Giáo Hội không chỉ được xây dựng trên nền đá Phêrô, nhưng mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động góp phần xây dựng nên toà nhà Giáo Hội như lời thánh Phêrô: “cả anh em nữa, ví thể những viên đá sống; hãy để Ngài xây cất anh em làm toà nhà thiêng liêng” (1 Pr 2, 5). Do đó, là thành phần của Giáo Hội, tôi nghĩ chúng ta cần đóng góp phần mình để xây dựng Giáo Hội đó ngày càng thánh thiện hơn như Thiên Chúa là Đấng Thánh. Để làm được việc này, có lẽ điều cần thiết và quan trọng nhất là cầu nguyện cho hàng Giáo phẩm, nhất là Đức Thánh Cha của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện để ngài luôn gắn bó với Chúa, và được đầy tràn Chúa Thánh Thần để các ngài thật sự là những người thay mặt Chúa hướng dẫn chúng ta sống theo ý Chúa. Điều này được phụng vụ Giáo Hội nhắc nhở thường xuyên trong mỗi thánh lễ, nhưng không biết chúng ta có để ý không: “Lạy Cha, xin nhớ đến Hội Thánh Cha lan rộng khắp hoàn cầu, và làm cho Hội Thánh nên hoàn hảo về đức mến, trong niềm hiệp thông với Đức Thánh Cha …, Đức Cha….giám mục giáo phận chúng con, và toàn thể hàng giáo sĩ.”.

Kế đến là tâm tình vâng phục trong đức tin. Xác tín, hàng giáo phẩm là những người được Chúa đặt lên để thay mặt Chúa hướng dẫn chúng ta. Chúng ta cần khiêm tốn đón nhận những giáo huấn của Hội Thánh với tâm tình con thảo. Không chỉ nghe theo những giáo huấn của Đức Thánh Cha, của Đức Giám Mục, nhưng chúng ta còn có bổn phận vâng theo những hướng dẫn của Cha Xứ, người được Đức Giám Mục giáo phận đặt thay mặt ngài ở cạnh chúng ta, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Chính khi thi hành những việc xem ra rất nhỏ này, chúng ta đang góp phần làm nên sự hiệp nhất của Giáo Hội và xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian này.

Trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta được sinh ra và lớn lên trong Giáo Hội của Ngài. Giờ đây, xin mời cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin.

NHIỆM VỤ CỦA TÔI LÀ GÌ?
Mt 16, 13 - 20
Sr Mai An Linh, OP

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay : Qua bài đọc I, Thiên Chúa trao nhiệm vụ cai quản đền thờ cho Eliakim(Is.22,19-23). Bài Tin mừng, Chúa Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh cho Phêrô “Thầy sẽ trao chìa khóa Nước Trời cho con…”(Mt.16,13-23). Xét về khả năng thì những người được Thiên Chúa chọn phần lớn là những người tầm thường, nhiều khi còn tội lỗi, nhưng Thiên Chúa lại chọn để làm nổi lên sức mạnh của Thiên Chúa. Chính vì thế mà qua bài đọc II, Thánh Phaolô đã kêu lên “ Ôi thẳm sâu thay sự thượng trí và thông biết của Thiên Chúa, phán quyết của Người làm sao hiểu được, đường lối của Người sao dò được…”( Rm.11,33-36 ). Vậy trong kế họach của Thiên Chúa thì nhiệm vụ của tôi là gì?

Đã là con người sống trong xã hội thì ai cũng có nhiệm vụ, quả thế trong đất nước có chính quyền, trong Hội Thánh có giáo quyền, trong Giáo Xứ có cha xứ và mọi người có nhiệm vụ xây dựng Giáo Xứ. Cũng như trong gia đình cha mẹ, con cái…người nào cũng có trách nhiệm riêng. Như thế, không ai được quyền chỉ lo cho mình hoặc chờ người khác lo cho mình, ai cũng có nhiệm vụ “Mọi người vì mình và mình vì mọi người”.

Chúng ta hãy nhìn qua việc Chúa Giêsu trao quyền cho Phêrô mà chúng ta vừa nghe: Trước khi trao nhiệm vụ cho Phêrô Chúa Giêsu muốn ông phải nhìn nhận người trao quyền cho mình là ai nên Ngài hỏi “ phần các con, các con bảo Thầy là ai?” và Đức Giêsu chỉ trao nhiệm vụ cho Phêrô khi ông tuyên xưng niềm tin vào Chúa, hay đúng hơn là lúc Chúa Cha tỏ cho Phêrô biết rõ Chúa Giêsu là ai, vì Cha đã mạc khải cho Phêrô theo ý Cha.

Chúa Giêsu trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho Phêrô, với quyền này Phêrô tha nhận hay lọai trừ một ai đó khỏi Nước Trời hay hơn nữa đó là quyết định những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đòan Thiên Sai đòi hỏi. Y như trong sách Daniel, các thánh của Đấng tối cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này do Thiên Chúa thông ban dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.

Tuy nhiên khi Thiên Chúa trao nhiệm vụ cho ai thì Ngài cũng ban cho người đó ơn trợ giúp cần thiết để chu tòan nhiệm vụ, chúng ta vẫn thường nói đó là ơn ban theo bậc. Như bài đọc I khi Thiên Chúa trao cho Eliakim “áo chòang, đai lưng” một thứ y phục mà khi nhìn vào ai cũng phải nhìn nhận đấy là dấu hiệu của người lãnh đạo, và cũng trao cho Eliakim “chìa khóa” là thẩm quyền để hành xử, một sự trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm.

Cũng vậy Đức Giêsu trao “ chìa khóa Nước Trời” cho Phêrô, nghĩa là ông được quyền cai trị Hội Thánh mà Ngài sẽ thành lập, Ngài sẽ hỗ trợ ông bằng cách “ Điều gì con cầm buộc dưới đất trên trời cũng cầm buộc, điều gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi”. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng người lãnh đạo thì luôn luôn phải là người hòan hảo xứng đáng. Thật ra đã là con người thì vẫn có những thiếu sót, những yếu đuối như chúng ta thấy Phêrô vừa được trao nhiệm vụ cao cả thì ông lại can gián Chúa Giêsu chịu tử nạn, nên ông đã bị Ngài quở “Satan hãy lui ra đằng sau Thầy”(c.23).

Nơi Phêrô người được chọn làm đá tảng để xây dựng Hội Thánh và mỗi người chúng ta những người Kitô hữu cũng là những viên đá sống động để xây nhựng Hội Thánh(x.1Pr.2,5). Phêrô không dành độc quyền ấy mà thông chia cho các Kitô hữu. Vì thế, mỗi người chúng ta đều có nhiệm vụ xây dựng Hội Thánh, xây dựng xã hội và gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng này phải đặt nền trên sự lắng nghe và sống Lời Chúa. Trong khi cùng nhau làm việc không thể không có những bất đồng, nhưng mỗi người hãy nghĩ tới nỗi khổ của người khác khi phải chịu đựng mình, để thông cảm, tha thứ. Có như thế mới san sẻ gánh nặng cho nhau, người này trở thành chỗ dựa cho người khác.

Lạy Chúa, chúng con mỗi người đều có trách nhiệm Chúa trao phó, nhưng chúng con chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, nên thường hay sao lãng bổn phận, đôi khi còn trốn tránh. Xin cho chúng con tinh thần phục vụ của Chúa để chúng con làm tròn bổn phận một người con, một người cha, một người mẹ, một ngừơi Kitô hữu và một người công dân.

PHÊRÔ, NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐƯỢC CẤT NHẮC ĐỂ LÀM ĐẦU HỘI THÁNH
Mt 16, 13 - 20

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc lại lịch sử cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta không khỏi vừa buồn cười, vừa khâm phục, vừa cảm thông với người môn đệ Chúa Giêsu:”có lúc xem ra ông cương quyết, nhất định theo Chúa tới cùng, nhưng có lúc ông lại tỏ ra yếu ớt, nhát đảm và tỏ ra sợ sệt ”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cảm thấy như có một cái gì đó thật lạ lùng, thật dễ thương nơi con người của Phêrô. Do đó, thay vì Chúa truất phế Phêrô, Ngài lại chọn Phêrô làm đầu Giáo Hội của Chúa ở trần gian này. Đi vào cuộc đời của Phêrô, chúng ta sẽ hiểu con người thật lạ lùng của Ông.

Phải đọc đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 16,13-20 cách thật thong thả,chăm chú và suy nghĩ chúng ta mới nghiệm ra được cốt lõi đời của thánh Phêrô. Thật vậy, các môn đệ là những người được Chúa kêu mời, tuyển chọn giữa nhiều thành phần Do Thái lúc đó. Các Ngài đã được chính Chúa Giêsu uốn nắn, dậy dỗ, hun đúc để trở thành những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, để biến họ trở nên những ngư phủ bắt người. Sau một thời gian ở với Chúa Giêsu tương đối đã khá lâu, Chúa muốn trắc nghiệm về sự hiểu biết của các môn đệ thân tín nghĩ sao về mình, trong khi đó dư luận của quần chúng có người cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, có người nói Ngài là Êlia, là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào khác. Điều ấy mới chỉ nói lên một khía cạnh rất nhỏ bé của con người Chúa Giêsu mà thôi. Phêrô vẫn là một con người bộc trực nhưng rất đỗi dễ thương, đã được Chúa Cha mạc khải, Phêrô mạnh dạn thay mặt các môn đệ khác, thưa với Chúa Giêsu:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “ ( Mt 16, 16 ). Một câu nói Chúa Giêsu đã chờ đợi từ lâu nơi các môn đệ của Ngài. Phêrô tuyên xưng:” Thầy là Đức Kitô “. Như thế, Phêrô đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Tin nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống là đã diễn tả được cả sứ mạng lẫn con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Chúa sai tới trần gian để cứu chuộc nhân loại, cứu độ con người. Chúa Giêsu trở thành trung tâm để Chúa Cha quy hồi vạn vật :” Nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành. Mọi vật, mọi người đều quy hướng về Ngài “. Liền sau câu tuyên tín của Phêrô, Chúa Giêsu khen ông là người có phúc và cất nhắc Phêrô, trao cho ông quyền bính trên Giáo Hội :” Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy, dưới đất anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy “ ( Mt 16, 18-19 ).Rõ ràng, Chúa đã chọn, đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Ngài đổi tên Simon tên cha mẹ đặt thành Phêrô do chữ Kêpha tiếng Aram là Tảng Đá. Chúa đã xây dựng Hội Thánh của Người trên Đá Tảng Phêrô và hứa bao bọc, chở che Hội Thánh khỏi các cuộc tấn công của ma quỷ, của sự dữ, của satan. Chúa trao cho Phêrô chìa khóa tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền bính ấy, Phêrô cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh trong phục vụ yêu thương, sẵn sàng hy sinh để chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).

Rõ ràng không phải Chúa chọn Phêrô vì Phêrô trí thức, giỏi giang hay hoàn toàn thánh thiện, nhưng Chúa chọn Phêrô là một con người bộc trực, nóng nảy, ít học, là một dân chài lành nghề, một con người đầy khuyết điểm và phản bội. Chúng ta thử xem con người của Phêrô, Ông tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa đấy, được Chúa khen ngợi nhưng liền sau đó Ông cản Chúa, đã bị Chúa mắng cho một cách thậm tệ:” Satan, lui lại đằng sau Thầy ! anh cản lối Thầy “( Mt 16, 23 ). Phêrô nhát đảm, sợ như thỏ đế dù trước đó Ông đã xác quyết với Thầy :” Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã “ ( Mt 26, 33 ). Tuy nhiên Ông đã nhát đảm ngay trước mặt một cô đầy tớ của vị thượng tế : “ Tôi không biết người ấy là ai “ ( Mt 26, 74 ). Phêrô đã phản bội, chối Chúa tới 3 lần. Con người của Phêrô là vậy nhưng Chúa hiểu thấu tâm can của Phêrô : Ông luôn có tâm tình, thái độ khiêm tốn sâu thẳm và lòng sám hối thật chân thành, Phêrô đã khóc lóc, đấm ngực vì con người yếu đuối, tội lỗi của mình. Ông nhận ra Chúa đã tha thứ cho Ông như Chúa đã dậy :” Thầy không bảo là phải tha đến 7 lần mà là 70 lần 7 “( Mt 18, 21 ). Phêrô quả thực đã cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót vô bờ của Chúa. Nên, Ngài đã sống cái cảm nghiệm tha thứ của Chúa khi Ngài lãnh đạo Giáo Hội. Ngài đã luôn nhiệt thành chăn dắt chiên con, chiên mẹ mà Chúa đã trao phó cho Ngài.

Theo Chúa Giêsu, người môn đệ Chúa dầu nhiều hay ít cũng cảm nghiệm được lòng chạnh thương của Chúa. Chúa yêu thương con người, xót thương đoàn lũ dân chúng đi theo Người :” Chúa chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền. Chúa làm cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân chúng “. Chúa yêu thương từng con chiên:” Bỏ chín mươi chín con chiên mà đi tìm một con chiên lạc “. Người môn đệ Chúa đều tin Chúa là Con Thiên Chúa. Nhưng liệu người môn đệ Chúa có luôn trung thành với Chúa hay đã có rất nhiều lần hồ nghi tình thương của Chúa và đã không dám tuyên xưng đức tin trước mặt người khác ? Người môn đệ Chúa tin Chúa trên đầu môi chóp lưỡi, hay đã dám sống cho Chúa bằng cả cuộc đời của mình.

HỘI THÁNH CỦA CHÚA
Mt 16, 13 - 20

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.

Đó là một Hội Thánh cho con người.

Chúa Giê su xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả tòa nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phê rô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cá suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thày trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.

Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.

Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giê su xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.

Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.

Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.

Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, nhưng để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô : “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32).

Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô tuyên xưng đức tin nhờ ơn soi sáng của Chúa Cha. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khoá nhưng chính Chúa gìn giữ toà nhà.

Lạy Chúa, xin thánh hóa Hội Thánh Chúa. Amen.

CƠ CHẾ HỮU HÌNH
Mt 16, 13 - 20

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Đã có lần người ta giật mình vì câu nói của một vị Bộ Trưởng Việt Nam tại diễn đàn Quốc Hội : “Với cơ chế này thì ai cũng có tội cả” ( ông Đào Đình Bình ). Chuyện đời là thế. Còn chuyện nhà đạo, thì ta thỉnh thoảng có nghe câu nói : “Tôi tin Chúa, nhưng tôi không thích Hội Thánh”. Hay nói như Voltaire : “Chúa Kitô hứa ban Nước Trời, thì Hội Thánh lại đến”. Những kiểu nói như trên hầu hết đều nhắm đến Hội Thánh cơ chế hữu hình. Thật vậy, cảm giác như bị tù túng, mất tự do hay thiếu thoải mái là cám dỗ triền miên của kiếp người, một tạo vật có lý trí và tự do. Cảm giác ấy càng tăng thêm khi người ta đối diện với một hệ thống tổ chức chặt chẽ, với một hệ thống luật lệ nghiêm minh và nhất là với một đôi vị nắm quyền có cung cách hành xữ như “ ông kẹ”.

Dù thích hay không thích, dù tích cực tham gia hay hoạt động cách cực chẳng đã, thì Kitô chúng ta vẫn phải nhìn nhận hiện thực : Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh. Ngoài thực thể siêu nhiên thì Hội Thánh vẫn có đó và phải có đó cơ chế hữu hình. Đã nói đến cơ chế thì không thể phủ nhận phẩm trật hay luật lệ. Đã nói đến cơ chế thì cần chấp nhận những con người cụ thể trong phận “bất thập toàn”. Thế mà Chúa Kitô như đồng hóa chính Người với Hội Thánh Người thiết lập, với cả những con người của cơ chế ấy đến nỗi Người đã từng nói : “Ai nghe anh em là nghe Thầy…Ai đón tiếp anh em là đón tiếp chính Thầy…Anh em cầm buộc điều gì thì trên trời cũng cầm buộc. Anh em tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi ( x.Mt 16,19 ). Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh. Điều này nói lên sự hiện hữu của Hội Thánh là cần thiết như tất yếu. Là Kitô hữu ít có ai nghi ngờ sự thật này. Nhưng vấn đề đặt ra là tính hữu hình với cơ chế của Hội Thánh.

Đã là người trong thân phận có xác và hồn, có tinh thần và thể chất, có bên trong và bên ngoài…và có tính xã hội, thì cơ chế hữu hình là điều tất yếu cần thiết. Tính xác thể đòi hỏi có cái hữu hình và tính xã hội đòi hỏi có các quy chế, luật lệ. Phẩm trật, quyền bính, luật lệ…của Hội Thánh cơ chế hiện hữu là do bởi yêu cầu của đoàn dân Thiên Chúa đang còn lữ thứ. Sự tồn tại khách quan của cơ chế hữu hình có nền tảng trên các chức năng mà nó đảm nhận. Ngoài chức năng tổng quát là phục vụ, xin được đề cập một số chức năng cụ thể của các cơ chế hữu hình.

1. Chức năng chuyển giao thông tin : Hội Thánh phẩm trật, cơ chế, đặc biệt qua các Đấng bậc được trao quyền bính chính là phương thế Chúa dùng để bày tỏ thánh ý của Người. Một trong các nhiệm vụ hàng đầu mà Chúa Kitô trao cho các tông đồ là rao giảng tin mừng cho mọi người ( x. Mt 28,19-20; Lc 24,47 ). Giáo luật buộc các linh mục trong ngày Chúa Nhật và Lễ buộc, nếu không có lý do nghiêm trọng thì phải giảng Lễ ( GL 767.2 ). Cơ chế phẩm trật Hội Thánh còn là phương thế Chúa dùng để chuyển giao thông tin giữa con người với nhau và từ con người lên đến Thiên Chúa. Trong Thánh lễ, cách riêng Thánh lễ Chúa Nhật, đoàn tín hữu tụ họp không chỉ để lắng nghe Lời Chúa mà còn để lắng nghe nhau và cùng nhau dâng lên Thiên Chúa tâm tư ước nguyện của mình. Điều này được thực hiện rõ nét trong phần “kinh nguyên đại đồng”( lời nguyện giáo dân ).

2. Chức năng trung gian của sự hiệp thông : Hội Thánh hữu hình là nơi ta gặp gỡ nhau, là nơi tập thể này mở lòng với tập thể khác trong tình một Cha trên trời. Cơ chế hữu hình của Hội Thánh giúp đoàn tín hữu có điều kiện thuận lợi để thông phần sự sống Chúa ban tặng, đặc biệt qua các cử hành phụng vụ và sự sẻ chia trong đức ái. Điều này được thể hiện cách cụ thể khi ta cùng tham dự Nghi Lễ Tạ Ơn ( cử hành Thánh Thể ). Chính khi cùng chia một tấm bánh và nâng cùng một chén, chúng ta được nên một với nhau trong Đức Kitô (x. Cor 10,15-17 ).

3. Chức năng gìn giữ sự công bằng, đặc biệt bảo vệ những người yếu thế, cô thân : Các tổ chức, luật lệ có ra là nhằm nâng đỡ, gìn giữ chúng ta những lúc ta yếu đuối, buông thả. Cái cơ chế hữu hình một cách nào đó chính là dây cương giữ ta khỏi ngã bên này, nghiêng bên kia theo cám dỗ của sự xấu, của ác thần. Ngoài ra, sự hiện hữu của các luật lệ, các tổ chức là một sức mạnh bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi những bất công do cảnh cá lớn nuốt cá bé. Như thế, quy tắc luật lệ hay quyền bính hữu hình vừa đảm nhận vai trò gìn giữ sự công bằng xã hội vừa gìn giữ và đòi hỏi chúng ta mãi vươn lên và lướt thắng chính mình.

Cũng như các cơ chế hữu hình khác trong xã hội, Hội Thánh phẩm trật với quyền bính, luật lệ…hiện hữu là tất yếu theo thánh ý của Thiên Chúa, đặc biệt theo ý định minh nhiên của Đức Kitô. Hội Thánh hiện hữu là để tiếp tục công trình cứu độ của Đức Kitô cho đến tận cùng thời gian và không gian. Tuy nhiên một điều chúng ta cần chân nhận với nhau rằng không phải một sớm một chiều mà cơ cấu tổ chức hữu hình của Hội Thánh có ngay và hình thành xem ra khá hoàn bị và có vẻ cồng kềnh như hiện nay.

Nếu nhìn Hội Thánh dưới chiều kích bí tích thì chúng ta cần xác nhận Hội Thánh là một phương thế, một công cụ Chúa Kitô thiết lập, Chúa Kitô dùng để tiếp tục chương trình cứu độ của Người. Đã là phương thế, là công cụ thì không phải cho chính nó nhưng là cho mục đích cần đạt tới, đồng thời cần được chỉnh sửa và hoàn bị luôn mãi. Điều này được lịch sử minh chứng rõ nét. Cả đến cơ cấu tổ chức, quyền bính, cả đến luật lệ và cách thế vận hành của Hội Thánh hữu hình không bao giờ ở mãi một trạng thái nhất định, nghĩa là chỉ có một cách, một kiểu duy nhất không thay đổi. Tuy nhiên dù có thay đổi hay chỉnh sửa Giáo Luật, cơ cấu tổ chức, cách hành xử quyền bính, thì đều nhắm để phụng sự Chúa và phục vụ con người cách hữu hiệu hơn, để thực thi các chức năng chuyển giao thông tin, làm trung gian sự hiệp thông, bảo vệ sự công bằng…cách tốt đẹp hơn.

Chúa Kitô khẳng định chính Người xây dựng Hội Thánh. Vì thế, chúng ta vững tin vào sự cần thiết và sự trường tồn của Hội Thánh trong thời gian lữ thứ này. Thế nhưng niềm tin ấy không loại trừ bổn phận của mỗi người chúng ta trong việc góp phần hoàn thiện Hội Thánh xét về phương diện hữu hình qua cơ cấu tổ chức, quyền bính, luật lệ, thể chế. Con người và các hình thái xã hội ngày mỗi đổi thay không ngừng. Chính vì thế các mối tương quan giữa người với người, giữa tập thể này với tập thể kia cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Các Đức Thánh Cha gần đây đã khẳng định rằng : “con người, chính là con đường của Hội Thánh”. Lời khẳng định này đòi hỏi chúng ta không chỉ chuyên chăm cầu nguyện cho Hội thánh, cho các Đấng bậc mà còn phải tích cực góp phần cách cụ thể, cho dù là bé nhỏ. Công đồng Vatican II đã lật ngược “tòa nhà Kim tự tháp” của quan niệm xưa khi đề cao khái niệm Hội Thánh là đoàn Dân Thiên Chúa. Không phải vì thế mà tín hữu chúng ta thừa cơ tung hoành kiểu “ phép vua thua lệ làng” nhưng phải làm sao để cho chuyện “ ý dân là ý trời” được thể hiện một cách nào đó dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang đồng hành với Hội Thánh, Đấng đang cùng với Hội Thánh khẩn khoản nài xin Đức Kitô lại đến ( x. Kh 22,17).

ĐÁ TẢNG THẬT – ĐÁ TẢNG DỎM
Mt 16, 13 - 20

LM Anmai, CSsR

Lẽ thường tình, khi mà khoa học - kỹ thuật - công nghệ phát triển thì phẩm chất cũng tăng theo nhưng hình như ngược lại. Nói không biết có quá đáng hay không nhưng hầu hết các kết qủa của công trình thời hiện đại này đều kém chất lượng. Thử nghĩ xem từ giáo dục, y tế, xây dựng… cho đến tình người với người trong cuộc sống hiện tại nó cứ làm sao đó !

Với giáo dục thì không thể nào biết được là Việt Nam có bao nhiêu cái bằng giả và bao nhiêu cái bằng thật. Và trong cái đống bằng thật có đó nhưng chắc có mấy cái có chất lượng, mấy cái đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo thống kê thì chỉ có 30% sinh viên ra trường đáp ứng được nhu cầu của các công ty, các đơn vị sử dụng lao động. Vậy thì 70% những bác sĩ, kỹ sư và thậm chí là tiến sĩ, thạc sĩ sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp, sau khi cầm bằng trong tay ? Phụ huynh ngày nay không còn đơn giản là chạy cơm chạy áo nữa mà còn phải chạy trường !

Y tế thì có ai vào bệnh viện mới hay ! Chẳng hiểu sao những ai vào bệnh viện về đều chỉ xin một điều là “xin Chúa cho tôi ra đi nhanh chóng chứ đừng để tôi phải vào bệnh viện”. Hỏi lý do thì chẳng ai chịu nói cả. Chỉ có ai vào viện mới hiểu được lý do mà thôi.

Tình người với người ngày hôm nay quả là một thực trạng thật đáng buồn thật bi đát. Người ta không còn yêu nhau, đến với nhau bằng mối tình thật nữa nhưng mà bằng tình dỏm. Nó cũng giống như con chuồn chuồn vậy : khi vui thì đậu – khi buồn thì bay. Tình yêu đôi lứa, tình cảm trong gia đình cũng thế, nó nhạt nhạt, nhẽo nhẽo làm sao đó ! Có khi nhìn bề ngoài rất đẹp nhưng mà bên trong đang đứng trước bờ vực của ly tan mà người ngoài không tài nào thấy được.

Ngoài đời là thế ! Gia đình là thế ! Còn trong nhà tu thì sao ? Thật ra nhà tu ngày nay do ảnh hưởng của tục hoá tràn ngập vào bốn bức tường của tu viện để rồi tình cảm của những người đi tu, của những người dâng hiến không còn tinh tuyền, không còn đẹp như xưa nữa. Chuyện này là chuyện hết sức tế nhị và nhạy cảm, không nên nói ra. Chỉ có mỗi người tự vấn trước mặt Chúa và trước mặt lương tâm thì mới thấy mà thôi. Và cười ra nước mắt khi nói đến chuyện Chúa và lương tâm. Hình như “gần chùa gọi bụt bằng anh” hay sao đó nên ở gần Chúa nên người ta quá xem thường Chúa và coi Chúa ngang hàng ngang lứa. Nếu có Chúa thật thì tu sĩ, linh mục đâu có cư xử như thế với anh chị em cùng đi tu với mình, cùng dâng hiến với mình như thế !

Một lãnh vực hết sức gần gũi với con người đó là chuyện xây dựng. Nhan nhản các công trình bị rút ruột, bị ăn sắt, ăn thép nên chất lượng chẳng ra làm sao cả. Có những phóng sự trình chiếu trên tivi thật nực cười : cọc bê tông nhưng ở trong thay vì cốt thép người ta làm bằng tre !

Một lần đang ngồi học trong nhà dòng, cả thầy và cả trò giật bắn người khi nghe một tiếng nổ cái “đùng”. Tưởng cái gì, hoá ra là gạch dưới nền chẳng hiểu sao bỗng nhiên bị nổ tung lên hết. Mọi người đến xem, hoá ra là ở dưới nền người ta trộn hồ toàn là cát chẳng thấy xi măng đâu cả. Ngước mắt nhìn lên toà nhà tu viện được xây trước ngày “miền Nam hoàn toàn giải phóng” sao mà nó vững chải thế, sao mà nó kiên cố thế ! Lẽ ra với máy móc hiện đại, kỹ thuật tiên tiến thì phải tốt hơn ngày xưa chưa có nhiều máy móc như bây giờ chứ !

Thì ra là ngày hôm nay, người ta đánh mất cái nền tảng, cái đá tảng của căn nhà, của tâm hồn và của cuộc đời.

Trang tin mừng khá ngắn mà Thánh Matthêu vừa thuật lại cho chúng ta thấy rõ sự chọn lựa, sự cắt đặt của Chúa cho nền tảng của Giáo Hội.

Sở dĩ Giáo hội luôn bền vững và tồn tại dù trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu bão tố là vì Thiên Chúa đã biết và đã chọn đúng nền móng cho toà nhà Giáo Hội. Thiên Chúa là một chủ đầu tư thật tuyệt vời, Chúa không phải như những nhà đầu tư trần gian đã không biết “chọn mặt gửi vàng”. Chúa nhìn người và Chúa biết người, dẫu rằng một Phêrô thật mong manh và mỏng dòn, nóng tính và vồn vập nhưng Phêrô đã sống trọn vẹn niềm tin của mình vào Chúa và vẹn tròn niềm tin của Chúa đặt nơi Ngài.

Vì sao như thế ? Vì chính Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi tín hữu Rôma một lần nữa minh xác cho chúng ta rằng : “Sự giàu có, sự khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ? Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ?” (Rm 11, 33-35). Chính vì Thiên Chúa khôn ngoan và thông suốt, Ngài thấy rõ lòng của con người nên Ngài quyết định. Ngài đã ra nghị quyết nào là nghị quyết ấy thật chính xác, thật khôn ngoan chứ không phải ra rồi lại đổi. Ngài giàu lòng thương xót, chậm bất bình và giàu ân sủng. Thiên Chúa đã tin Phêrô và giao con thuyền Giáo Hội cho Phêrô. Thiên Chúa khôn và Phêrô cũng khôn. Nếu như Phêrô tự cao tự đại, tự mãn thì Phêrô không kê cuộc đời của mình vào Chúa nhưng đàng này Phêrô đã tín thác vào Chúa và để cho Chúa quan phòng cuộc đời của mình. Thật sự “đá tảng” Phêrô đã quá tuyệt vời, đã quá khôn ngoan để dựa cuộc đời mình vào cuộc đời của Chúa. “Đá tảng” Phêrô đã quá khôn ngoan để dựa vào “viên đá thợ xây loại bỏ đã trở thành đá tảng góc tường” là chính Chúa Giêsu.

Chính “viên đá thợ xây loại bỏ” mà Phêrô đặt vào là viên đá thật làm cho nền tảng Giáo hội được bình an, được vững chắc !

Nhìn lại những thực tại của xã hội, của con người chúng ta thấy đau đau làm sao đó trong cõi lòng, đau nhưng mà không nói được và có nói ra thì cũng bị người đời xỉ vả dèm pha thôi. Lý do thực tế nhất đã đưa đẩy xã hội, đưa đẩy con người, đưa đẩy người kitô hữu, đưa đẩy tu sĩ linh mục sống mất phẩm, mất chất phải chăng là đã không biết đặt cuộc đòi của mình vào tảng đá thật là chính Chúa.

Thay vì đặt vào đá tảng thật là Chúa thì con người lại đặt cuộc đời của mình vào những tảng đá như quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc … Với con người, cứ tưởng chừng đá tảng tiền bạc, địa vị, danh vọng là đá tảng thật nhưng thật ra tất cả là đá dỏm. Tin hay không tin còn ở quan niệm của mỗi người. Có ai mang được quyền lực, tiền bạc, địa vị mà bao nhiêu năm tháng đổ mồ hôi, sôi con mắt và thậm chí phải thức trắng đêm để mưu mô tính toán chiếm đoạt được của người khác xuống mộ phần chăng ?

Một câu chuyện có thật được một Cha trong Dòng kể lại sau khi đi Tây về kể lại là có an viện nọ ở bên Pháp. Chẳng hiểu sao mà du khách đến đan viện thấy cảnh trong tu viện buồn tẻ và u uất đến thế ! Thấy cảnh tượng như thế ai cũng buồn nản. Đan Viện Trưởng bắt đầu cải tổ lại đời sống trong đan viện bằng cách lấy lại đời sống thiêng liêng, đời sống đạo đức, cầu nguyện thì tình hình bắt đầu thay đổi. Từ ngày ấy các vị ẩn sĩ thay đổi đời sống, họ yêu thương nhau hơn và chính tình yêu của họ đã lan toả đến tất cả những người đến thăm đan viện.

Lý do chính để đánh mất đi cái bầu khí yêu thương hiệp nhất trong đan viện đó chính là vì các đan sĩ đã không còn bám vào Chúa nữa. Khi và chỉ khi người ta đánh mất Chúa, đánh mất đá tảng thật của mình thì mới đâm ra đố kỵ, hơn thua, tranh giành, chà đạp, nói hành nói xấu nhau. Nếu có Chúa thật ở trong mỗi đan sĩ của đan viện thì chắc có lẽ không xảy ra tình trạng bi đát trước kia.

Ngày nay đan viện ấy khá nổi tiếng với nhiều du khách khi đặt chân đến thăm viếng đan viện. Đan viện ấy không phải nổi tiếng vì sầm uất, vì hoành tráng nhưng đan viện ấy nổi tiếng vì đã có một đời sống mật thiết gắn kết với Chúa.

Là giáo dân, tu sĩ hay linh mục cũng mang trong mình cái phận người mỏng dòn, mong manh và yếu đuối như Phêrô nhưng chúng ta có biết chỗi dậy sau những lần vấp ngã, sau những lần chối Chúa như Phêrô hay không ? Chúng ta có dám thỏ thẻ với Chúa như Phêrô đã từng thỏ thẻ với Thầy : “Thầy ơi, tin con đi con yêu mến Thầy, tình con tuy phôi pha nhưng chân thành thiết tha !”.

Với Chúa, với anh chị em đồng loại cũng vậy, nếu như chúng ta sống với nhau bằng một lòng tin chân thành, một lòng tin thiết tha thì dù tình chúng ta có phôi pha đi chăng nữa nhưng cuối cùng Chúa cũng như anh chị em đồng loại sẽ tin và yêu chúng ta như Chúa vẫn tin và yêu Phêrô như vậy. Chỉ ngại chăng là chúng ta cứ theo cái thói tục của thế gian là sống không chân thành với anh chị em đồng loại đã đành mà còn không chân thành với Chúa nữa mới chết !

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt cuộc đời chúng ta vào đá thật hay đá dỏm.

Nguyện xin Thánh Phêrô giúp chúng ta biết bắt chước như Ngài là đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng là Thầy Chí Thánh như thánh nhân đã từng đặt.

Nguyện xin Chúa Giêsu là viên đá góc, viên đá tảng giúp mỗi người chúng ta biết đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng thật là Chúa.

ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT VÀ PHỔ QUÁT CỦA NHÂN LOẠI
Mt 16, 13 - 20

LM Phêrô Nguyễn Hương

Nếu chúng ta còn nhớ cách đây không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci code, nó trở thành cuốn sách bestseller, được đóng thành phim, và được phổ biến khắp thế giới, trở thành «hiện tượng Da Vinci code» và làm nhiều người công giáo bị sốc. Bởi vì trong đó Dan Brown giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với Đức Giêsu ở trong kinh thánh. Ngài là một người bình thường như mọi người, đã có gia đình, có vợ có con và giòng giống của ngài vẫn tồn tại cho đến hôm nay. Và Giáo hội chỉ là một tổ chức chính trị và quyền lực hoàn toàn nhân loại. Nhiều người công giáo bị sốc và lung lay đức tin và có người đã nói rằng: mấy chục năm theo đạo, tôi đã bị lừa... bây giờ người ta find out ra thì mới biết Chúa Giêsu chỉ là một người đàn ông bình thường... vvv.

Tôi nhắc lại sự kiện đó để chúng ta thấy rằng: Câu hỏi của Chúa Giêsu với các tông đồ hôm nay vẫn còn mang tính thời sự: Người ta bảo Thầy là ai ? Thời Chúa Giêsu dư luận dân chúng cũng biết mù mờ về Ngài: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêremia hay một tiên tri nào đó”. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta : Người ta bảo thầy là ai? Nhiều người mang danh là kitô hữu nhưng biết rất mơ hồ về Ngài. Chúng ta thưa : Dạ thưa Chúa: kẻ thì nói Chúa là một nhà sáng lập tôn giáo, một nhà cách mạng tinh thần... còn Ông Dan Brown bảo Chúa lấy bà Mađalêna và có quan hệ với bà nên có vợ con đề huề....

Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong một thế giới bùng nổ thông tin và của thị trường tự do. Tất cả mọi thứ người ta có thể rao bán và quảng cáo. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình. Đức Kitô cũng nhào nặn, được make up theo sở thích và lợi nhuận của họ để rao bán khắp nơi. Nói như Cha Cantalamessa, ngày xưa Chúa bị bán bởi Giuđa, còn hôm nay Chúa cũng bị bán bởi các nhà viết sách và làm phim, mà lợi nhuận không phải ba mươi đồng bạc nhưng là cả triệu dollar!

Nhưng chúng ta phải tĩnh thức, vì đó không phải là Đức Kitô của Kinh Thánh, của niềm tin Giáo hội, mà là Đức Kitô của «người ta»: một Đức Kitô của tưởng tượng và sự hiếu kỳ của họ. Chúng ta không cần phải hoang mang và lo sợ gì!

Niềm tin của chúng ta vào đức Kitô được gói ghém trong câu hỏi thứ hai của Chúa Giêsu “Còn các con bảo Thầy là ai?” Anh chỉ Em và tôi bảo Đức Giêsu là ai? Câu này mới là quan trọng. Nhân danh tất cả Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là mạc khải và là trung tâm điểm niềm tin chúng ta vào Đức Kitô và kể từ năm 325 (Công Đồng Nicée) trở thành định tín kitô học của Giáo hội mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh tin Kính: «Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng. Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Cha, nhờ người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thể... ». Nghĩa là Đức Kitô đó là Thiên Chúa thật và người thật, vrai Dieu et vrai homme. Ngài cũng biết khóc biết cười, ngài cũng có nhu cầu ăn uống và nghĩ ngơi, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi thôi. Nhưng Ngài là “Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, nghĩa là ngài là chính Thiên Chúa. Ngài nhập thể để cứu độ chúng ta nên Giáo hội tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Và nói như thánh Gioan : Ai tin vào con của người thì cứu độ (x. Ga 3,14). Chỉ nhờ Ngài mà chúng ta được cứu độ. Chỉ qua Ngài chúng ta tới Thiên Chúa.

Đức tin đó không phải là một sự hiểu biết suông, nhưng là một sự gắn bó đời mình với Đức Kitô. Người kitô hữu là người xây dựng cuộc đời và những dự phóng đời mình trên Đức Kitô, lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm của cuộc sống. Bởi vì nơi Ngài chúng ta tìm được tất cả những giải đáp cho những thắc mắc, những khát vọng sâu thẳm nhất về ý nghĩa cuộc đời. Đó là một đức tin trưởng thành, mang tính cá vị và không bị lung lay trước thử thách.

Một lần nữa, cùng với Phêrô và các tông đồ: Chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống qua kinh tin kính.

PHÊRÔ, ĐẤNG LÀM ĐẦU GIÁO HỘI
Mt 16, 13 - 20

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Trong ba năm đi rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã tuyển chọn một số môn đệ đi theo Ngài. Chúa Giêsu đã dạy dỗ dân chúng, đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền cho dân, đã làm nhiều phép lạ. Tiếng tăm và danh thơm tiếng tốt của Ngài đã lan tỏa khắp nơi. Nhiều tiếng đồn đoán về lai lịch, sự nghiệp của Ngài. Có người cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, có người nói Ngài là Isaia, Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó. Thực tế, Chúa rất muốn biết suy nghĩ của các môn đệ về Ngài…

Chúa Giêsu tin tưởng các môn đệ và muốn biết quan điểm của các môn đệ về Ngài khi đã có rất nhiều đồn đoán của dân chúng về lai lịch của Ngài, Phêrô được Thiên Chúa Cha mạc khải, đã nhanh nhảu thay các môn đệ khác, thưa với Chúa Giêsu: ” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “ ( Mt 16, 16 ). Chúa Giêsu đã công khai khen Phêrô là người có phúc và trao trao cho Ông quyền trên Giáo Hội: ” Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy “ ( Mt 16, 18-19 ).

Chúa đã tuyển chọn và đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội của Ngài dưới trần gian này. Và Ngài đã đổi tên Simon thành Phêrô, tiếng Aram Phêrô, Kêpha nghĩa là Đá Tảng. Chúa đã xây Giáo Hội của Ngài trên Tảng Đá Phêrô vững chắc, trường tồn và Ngài hứa bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi cuộc tấn công của ma quỷ. Chúa Giêsu lại trao cho Phêrô chìa khóa tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền Chúa trao ban, Phêrô cai quản, điều khiển, giáo huấn và thánh hóa Giáo Hội của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên được Chúa trao phó.

Phêrô được Chúa thương đó, được Chúa cắt nhắc làm đầu Giáo Hội nhưng chỉ ít phút sau đó, Đức Kitô đã phải nặng lời với Ông: ” Satan, lui lại đằng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người “ ( Mt 16, 23 ). Phêrô yêu mến Chúa nhưng Phêrô lại rất bộc trực, nóng nảy. Chúa Giêsu biết rõ Phêrô, đã chọn Ông là một dân chài, nóng nảy, bộc trực, ít học, hay sa ngã và cả phản bội nữa. Tuy nhiên, Chúa đã nhìn tận tâm can của Phêrô, thấu suốt con người của Phêrô. Phêrô yếu đuối, sa ngã đó, nhưng Phêrô lại có tâm tình khiêm tốn tột cùng và có lòng sám hối chân thành.

Chúa Giêsu hiện ra trên bờ hồ Ghennêxarét khi Phêrô và các môn đệ suốt một đêm thả lưới, mệt nhoài, vất vả nhưng không hề bắt được một con cá nào, dù rằng Phêrô và các bạn là những dân chài chuyên nghiệp: họ biết chỗ nào cá hay ăn, chỗ nào nông, chỗ nào sâu, tuy nhiên, nghe lời Chúa bảo các Ông chèo thuyền ra xa bờ và bỏ lưới bên mạn phải thuyền. Phêrô và các bạn kéo lưới lên, một mẻ quá lớn đến nỗi lưới muốn rách và các môn đệ đã bắt được 163 con cá lớn. Phêrô không mừng, Phêrô cũng chẳng hồ hởi vì phép lạ vừa xẩy đến với Ông, với các bạn đồng môn. Phêrô nghĩ ngay tới thân phận bất xứng, tội lỗi của mình. Phêrô liền tới sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà thưa: ” Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi “ ( Lc 5, 8 ). Và trước sự khiêm tốn thẩm sâu của Phêrô, Chúa Giêsu đã không ngần ngại tuyển chọn Phêrô: ” Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người chài lưới người ta “ ( Lc 5, 10 ).

Phêrô là một con người biết ăn năn hối cải, biết quay trở về với Thiên Chúa. Khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc thống khổ của Ngài, Phêrô không hiểu gì về cái chết của Chúa. Ông cứ tưởng Chúa Giêsu thiết lập Vương Quốc và khôi phục dân Israen. Phêrô không thể nào tưởng tượng được Thầy mình sẽ phải đau khổ, phải chết. Nên, Phêrô đã cản ngăn ý định cứu thế của Chúa. Chúa đã mắng Phêrô thậm tệ. Phêrô không dám cãi lại vì yêu Thầy, biết mình sai, Phêrô im lặng, âm thầm ăn năn sám hối. Trong cuộc thương khó của Chúa, trước đó Phêrô rất hăng, thưa với Chúa: ” Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã “. Phêrô quả thực là con người thật mau mắn, rất chân thực, tuy nhiên ngay sau đó Ông đã phản bội Chúa, chối Chúa tới ba lần. Phêrô đã khóc khi Chúa nhìn Ông và Ông đã thật lòng sám hối ăn năn. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, nên trong chức vị làm đầu Giáo Hội, Phêrô đã luôn củng cố đức tin của các tín hữu và rao giảng về lòng tha thứ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết cảm nghiệm sâu xa lời khuyên bảo của Thánh Phêrô, Vị Tông Đồ Trưởng lãnh đạo Giáo Hội của Chúa: ” Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em “ ( Cv 3, 19 ).

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG
Mt 16, 13 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sau khi đã qui tụ, huấn luyện các môn đệ một thời gian tương đối dài, Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì và các môn đệ nghĩ gì về Chúa. Đồng thời,đã đến lúc Chúa phải nói rõ cho các môn đệ biết mình là ai. Do đó, Chúa Giêsu đưa riêng các ông ra một nơi thanh vắng, rồi qua lời lẽ của thánh Phêrô, cho nhân loại biết ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, và chính Đấng ấy lại chịu đau khổ, chịu chết, phục sinh…

Vâng, Chúa Giêsu đã kết nạp 12 môn đệ, dạy dỗ, huấn luyện các ông để các ông sẽ tiếp nối sứ mạng của Ngài sau này. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ về lòng mến, về kỷ luật, về sạch, về dơ và cả những mưu mô của ma quỉ chống đối. Sau một thời gian dài khi Chúa Giêsu đã có danh tiếng trong xã hội, Ngài đã nghe nhiều người xì xào về Ngài: người thì cho Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, người cho Ngài là một Ngôn sứ nào đó.Tất cả những danh hiệu đó mới chỉ nói lên một phần nào sứ vụ của Ngài mà thôi. Hôm nay, Chúa Giêsu đưa các ông lên một miền thật xa, một nơi hoang vắng, tĩnh lặng để giúp các ông nhận rõ hơn niềm tin của các ông và cũng cho các ông thấy rõ Ngài hơn và sứ vụ của Ngài. Chúng ta có thể coi đây là một cuộc tĩnh tâm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Và đây mở màn cho những tiết lộ. mặc khải bi quan về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, về điều kiện để theo Chúa, về cuộc biến hình trên núi vv…

Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 16,13-23, Chúa Giêsu đã dùng từ ‘ Con Người ‘ để ám chỉ về mình. Ngài muốn nói mình vừa là Con Thiên Chúa, vừa là người. Êlia và Giêrêmia là hai vị ngôn sứ lớn đã sống vào thế kỷ 9 và 7 trước Công nguyên. Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.Cụm từ này thật rõ ràng vì ở nhiều nơi dùng từ “Con Thiên Chúa“, còn ở đây dùng‘ Người Con của Thiên Chúa ‘, nên được nối tiếp các câu sau. Lời tuyên xưng của Phêrô là do Thiên Chúa Cha mặc khải, còn tự ý Phêrô không thể nào nói được. Chính vì niềm tin của Phêrô mà tên của Phêrô được đổi ( tên này cũng có nghĩa trọng trách, sứ mạng của Ông ), đồng thời chính Phêrô là nền tảng cho một công trình lớn, công trình vĩ đại sau này.Phêrô có môt niềm tin cứng như đá tảng, nên không một sức mạnh, một quyền lực, kẻ thù nào có thể phá được.

Khi đã ca ngợi Phêrô và các môn đệ về niềm tin vững chắc, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về tương lai của mình, Con Thiên Chúa mà phải chấp nhận cái chết tang thương theo ý của Chúa Cha để cứu độ nhân loại, cứu chuộc con người. Thánh Phêrô can ngăn Chúa vừa nói lên tấm lòng yêu mến Chúa, vừa nói lên ý nghĩ trần gian thì khác với ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi quay lại cuộc hành trình của Phêrô, chúng ta hết sức ngạc nhiên vì con người này. Cả đêm thả lưới không được con cá nào.Nhưng nghe lời của Chúa, Phêrô đã vâng lời thả lưới, Ông và các bạn đã bắt được mẻ cá lớn 153 con. Phêrô quá ngạc nhiên vì mẻ cá này, Ông vội nghĩ đến con người yếu kém, bất xứng, tội lỗi của mình, Ông sấp mình dưới chân Chúa mà thưa “ Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi “ ( Lc 5, 8 ).Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Phêrô, Chúa đã tuyển lựa Ông :” Đừng sợ, từ nay Anh sẽ là người chài lưới người “ ( Lc 5, 10 ). Sau này, Phêrô lại chối Chúa, nhưng con người của Phêrô luôn biết ăn năn, sám hối, do đó Chúa luôn yêu thương Ngài, cắt nhắc Ngài :” Hãy chăn dắt chiên Mẹ, chiên Con của Thầy “.

Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ rằng tin Ngài là Con Thiên Chúa, chứ không chỉ tin một con người được Chúa gửi đến. Đấng Con Thiên Chúa lại hóa kiếp làm người, hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, chịu đau khổ, chịu chết để đưa con người lên hàng Con Cái Thiên Chúa để con người cùng hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Lời Chúa cũng nói với chúng ta hôm nay: tin vào Thiên Chúa không phải như bất cứ một con người nào hay bất cứ Đạo nào. Đạo của Thiên Chúa phát xuất từ trời cao, có sức mạnh, sức cuốn hút làm cho mọi người được hạnh phúc.

Xin mượn lời của Jean-Yves Garneau để kết luận bài chia sẻ hôm nay :” Tác giả Tin Mừng làm nổi bật nhân vật Phêrô.Chính Ông và chỉ có mình Ông, tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa Hằng Sống.Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Chúa Giêsu ban cho một cái tên mới ( Người là Phêrô, Kepha-Tảng Đá ). Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Người giao chìa khóa Nước Trời. Những chìa khóa ấy dành cho việc cầm buộc và tháo cởi, nghĩa là nó trao cho Ông Phêrô cái quyền bắt buộc phải có để đem một người gia nhập cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, hay loại người ấy ra khỏi đó.Còn có nghĩa là nó cho ông được phép quyết định điều gì là tương hợp hay không tương hợp với giáo huấn của Đức Kitô.Ở những điểm cơ bản, đức tin của toàn thể Hội Thánh luôn luôn phải lấy đức tin của Ông Phêrô làm điểu qui chiếu “.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lòng thương tha thứ của Chúa để chúng con noi gương bắt chước Phêrô khiêm nhường thẳm sâu nhận ra tình thương thứ tha của Chúa và quyết tâm bước theo Chúa tới cùng.Amen.

TIN VÀO ĐỨC KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG
Mt 16, 13 - 20 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phêrô là người lãnh nhận lời hứa từ Chúa Giêsu quyền chăm sóc anh em. Trước đó ít lâu, ông là người đã đi trên mặt nước, bị Chúa Giêsu quở trách là "người hèn tin" (Mt 14, 31). Trong thực tế, có lẽ Chúa Giêsu đã can thiệp và thách thức ông kêu cầu, đòi hỏi ông phải lớn lên trong đức tin, ông có thể xấu hổ trước mặt đồng nghiệp của mình, cũng như các môn đệ khác, vì "hèn tin", nhưng ông vẫn tự tin, lời tuyên xưng đức tin địa hạt thành Xêsarêa Philipphê của Phêrô là một bằng chứng. Ông đã được Chúa Cha ban cho hồng ân đức tin, nhờ ánh sáng Thần Linh mạc khải, ông biết được căn tính đích thực của Chúa Giêsu; ông tuyên xưng : "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), nhờ đó ông có thể làm cho anh em khác vững tin.

Hành trình đức tin của Phêrô

Đối với Phêrô, đức tin là một hành động lớn dần. Như bào người trẻ Do thái, ông đã nghe nói về Đấng Mêssia, dùng thánh vịnh của Đavid để cầu nguyện, nghe các thầy Do thái tại Capharnaum hát về niềm hy vọng của dân Israel. Hạt giống rơi vào đất tốt, hôm nay, bén rễ nhờ Lời Chúa Giêsu.

Hành trình ấy khởi đi từ lần đầu tiên gặp gỡ Chúa Giêsu qua Anrê, em ông, cũng là môn đệ của Gioan Baotixita làm trung gian bên bờ sông Giorđan. Anrê là người tìm Chúa : "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia" (Ga 1, 41). Không phải Phêrô là người được gọi trước, nhưng là Anrê. Điều này không cản trở ông thành người lãnh nhận trách nhiệm củng cố đức tin cho anh em mình.

Thứ đến, tại tiệc cưới Canna, chính Phêrô là người chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu và "các môn đệ đã tin vào Người" (Ga 2, 11).

Sau một đêm trắng lưới, Phêrô và em ông là Anrê được gọi: "Hãy theo Thày và Thầy sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ lưới người" (Mt 4, 19). Ngày hôm đó, họ để lại tất cả mọi thứ, gia đình và nghề nghiệp để đi theo Chúa.

Và trên một ngọn núi cao, Phêrô đã được Chúa Giêsu cho thấy vinh quang Thiên Chúa (x. Mt 17, 1-9). Ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu của bộ ba, những người sẽ trực tiếp chứng kiến sự phục sinh một cô gái nhỏ (x. Mc 5, 37). Một sự kiện đánh dấu bước tiến đức tin của Phêrô !

Phêrô uyên xưng đức tin

Được cứu khỏi chết đuối trong một cơn bão khi đi trên mặt nước, lần đầu tiên Phêrô tuyên xưng đức tin: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).

Thời gian sau, trên đường từ địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các ông : "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?" (Mt 16, 15). Nhân danh các môn đệ kia, Phêrô trả lời : "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Đức tin của Phêrô cũng là của các môn đệ kia, ông thừa nhận và khẳng định lời đầu tiên của Anrê (x. Ga 1, 41), khi nhận lãnh trách nhiệm trong Giáo hội.

Điều này không can ngăn được Chúa Giêsu từ chối đi lên Giêrusalem chịu chết (Mt 16, 22). Chính vì là Con Thiên Chúa, nên thập giá và cái chết của Chúa Giêsu là thử thách nặng nề đối với đức tin của Phêrô. Chúa Giêsu bảo Phêrô: "Con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người" (Mt 16,19).

Đức tin đòi hỏi người ta gắn chặt với thánh ý Thiên Chúa, cho dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa. Biến cố biến hình trước Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ là sự bảo đảm : "Đây là Con Ta yêu dấu " (Mt 17, 5).

Lời tuyên xưng thật sâu xa

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn còn hỏi: "Người ta bảo Con Người là ai ?
(Mt 16, 13) "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?" (Mt 16, 15) Đây không phải là một cuộc thăm dò ý kiến để biết lòng dân, nhưng là câu hỏi về vị trí của Thầy trong các môn đẹ. Đối với ông, Chúa Giêsu là ai ?

Khởi đầu sứ mạng công khai, trước các phép lạ và lời giảng có uy quyền của người thợ mộc thành Nazareth, một câu hỏi hiện lên trong đầu các môn đệ : "Người này là ai? " (Mt 8, 27).

Chúa Kitô không yêu cầu các môn đệ phản ánh ý kiến của người khác, Người hỏi dồn và đợi câu trả lời cá nhân của các ông. Và Phêrô đã trả lời Chúa Giêsu mà không liệt kê lại ý kiến của dân chúng như : Ê-li, Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri. Ông đi thẳng vào vấn đề. Lời tuyên xưng này còn đi xa hơn trước bởi được long trọng tuyên xưng : "Vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17).

Với Thiên Chúa, hành động đức tin không đến từ sự suy tư nhân loại theo kiểu lý trí, triết học, hay tìm kiếm sự hợp lý, những cần phải có ơn "mạc khải từ Thiên Chúa" để tôn thờ bản tính Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu. Người đã nói với họ : "Không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho " (Mt 11, 27).

Chính lúc Simon đã trả lời đúng về sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng là lúc ông được tiết lộ một ơn gọi đặc biệt. Simon trở thành "Kepha" nghĩa là "tảng đá", "đá". Simon, con người bằng xương bằng thịt, mỏng giòn, dao động như bao nhiêu người khác, nhờ ân sủng đã vượt qua đượcgiới hạn của chính mình. Nếu ông là "đá", là vì Chúa Kitô là đá tảng. Đức tin của ông chỉ lớn lên, khi đặt nền tảng trên Chúa. Thử thách trong cuộc Khổ Nạn của Thầy đụng chạm tới cùng sự mỏng giòn của Phêrô, lúc ấy, ông phải dựa vào sức mạnh của Chúa, xây dựng đời mình trên Chúa.

Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Người sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.

PHÊRÔ, ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH
Mt 16, 13 - 20

Lm. Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).

2. CÂU CHUYỆN:
1) MẨU CHUYỆN VỀ THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện, đã từng được Chúa Giê-su hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa ? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phê-rô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phê-rô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót.

2) HỘI THÁNH XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ LUÔN TRƯỜNG TỒN:
Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp đến nay, Hội thánh do Chúa Giê-su thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức tin của Phê-rô vào Chúa Giê-su như sau:

Dưới thời Hoàng đế Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Ki-tô. Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt”. Nhưng rồi sau đó Hội Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế gian.

Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu. Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công giáo sẽ hết thời”. Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người !” Đến năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt !”.

Quả thật, thời nào cũng có những người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận số ! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau mãi”.

3. SUY NIỆM:
Các Đức Giáo hoàng là những đấng kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên Hội thánh. Các ngài cũng được Chúa Giê-su trao quyền tối thượng là không thể sai lầm khi chính thức công bố điều gì về đức tin và luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa ban cho Tông đồ Phê-rô: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).

1) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng nghĩ gì về Người, các ông đã trả lời: Họ cho Người là ngôn sứ Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại... Riêng ông Si-mon Phê-rô khi được Thầy hỏi lập trường đức tin, đã đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông thật có phúc vì đã được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đã đổi tên Si-mon thành ra Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh ấy luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban quyền tối thượng qua việc trao chìa khoá Nước Trời, để Phê-rô có quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19).

Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng như chỉ mình Người mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7). Nhưng tông đồ Phê-rô nhờ đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su nên đã trở thành tảng đá Đức Tin của Hội Thánh. Ông còn được Chúa Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời để thay Người cầm buộc và tháo cởi ở trần gian.

2) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: MỤC TỬ TỐT LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU.
Phê-rô không những tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần tuyên xưng lòng mến Thầy: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên với Người. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để Phê-rô khỏi bị mất đức tin hầu chu toàn sứ vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn chứng tỏ là một mục tử tốt lành khi sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi Phê-rô đang cai quản giáo đoàn Rô-ma, cơn bách hại các tín hữu do hoàng đế Nê-rông nổ ra, tông đồ Phê-rô đã phải cải trang và trốn thoát được ra ngoài thành. Nhưng bất ngờ ông nhìn thấy Chúa Phục Sinh đang đi ngược chiều vào thành. Khi Phê-rô hỏi : “Thầy đi đâu ?” thì được nghe Thầy trả lời: “Thầy đi vào trong thành để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Người biến mất. Phê-rô đã hiểu ý Chúa Giê-su nên ông lập tức quay vào thành Rô-ma rồi bị bắt và chịu đóng đinh thập giá chung với các tín hữu, để củng cố đức tin cho anh em trong cơn bách hại. Phê-rô đã yêu cầu được chịu đóng đanh ngược đầu xuống đất để theo Thầy “đến nơi ông không muốn đến” đúng như Chúa Phục Sinh đã từng tiên báo (x. Ga 21,18-19).

3) BỔN PHẬN CỦA CÁC TÍN HỮU ĐỐI VỚI CÁC MỤC TỬ TRONG HỘI THÁNH.
Công đồng Vatican II đã khẳng định: Mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh. Mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh và khả năng mà xây dựng Hội Thánh. Cần xác tín rằng Hội thánh được xây trên nền đá đức tin của tông đồ Phê-rô nên luôn vững bền, cho dù gặp phải muôn vàn trở lực. Mỗi tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động xây nên ngôi nhà Hội thánh, nên cũng có nhiệm vụ phải yêu mến và bảo vệ Hội thánh. Cụ thể là xây dựng Hội thánh cụ thể là gia đình mình, giáo xứ và môi trường xã hội mình đang sông ngày một an toàn sạch đẹp và hạnh phúc hơn.

Ngày nay Hội Thánh vẫn gặp không ít những khó khăn do các thế lực thù địch bên ngoài, và ngay cả trong lòng Hội thánh: Nhiều tín hữu tại các nước Âu châu đã bỏ dự lễ Chúa Nhật ở nhà thờ; Một số khá đông các tín hữu các nước Nam Mỹ đã rời bỏ Hội thánh Công giáo để chạy theo các lạc giáo; Số tu sĩ chủng sinh giảm sút ở nhiều nơi; Nhiều vị mục tử bị báo chí công kích về tội ấu dâm; Ngay Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô cũng bị giới truyền thông chỉ trích vì cho rằng ngài đã bao che cho tội lỗi của một số giáo sĩ; Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng như đòi phong chức linh mục cho phụ nữ…

Ước gì mỗi tín hữu chúng ta hôm nay biết cảm thông với những khó khăn của các vị mục tử. Hãy năng cầu nguyện xin Chúa biến đổi các linh mục trở thành những mục tử tốt lành đúng theo ý Chúa muốn, để các ngài thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên với tấm lòng bao dung nhân hậu như Mục Tử nhân lành Giê-su. Mỗi người chúng ta cũng hãy luôn trung thành với việc thực hành đức tin qua các giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tích cực học sống Lời Chúa hằng tuần và năng xưng tội rước lễ. Hãy liên kết thành những cộng đoàn nhóm nhỏ để sống tình huynh đệ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cùng nhau phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi noi gương cộng đoàn Hội thánh sơ khai. Luôn kết hiệp với Đức Ma-ri-a cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa các tín hữu, biến đổi các gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận… và môi trường mình đang sống ngày một xanh sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn và an bình hạnh phúc hơn.

4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay, trong đó có các tín hữu chúng ta, có những khuyết điểm nào cần phải phải cấp thời sưả đổi canh tân ?

2) Muốn cho việc canh tân bản thân, gia đình và xã hội hữu hiệu, chúng ta cần áp dụng các phương cách nào ?

3) Bạn có yêu mến và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha chưa? Bạn quyết tâm trong những ngày sắp tới sẽ làm gì cụ thể để cảm thông với những nỗi lo của Hội Thánh ?

5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và ban cho ông trở thành Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội thánh trên Tảng Đá đức tin của tông đồ Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa hơn các anh em.

- LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ của Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô, để chúng con sẵn sàng đến với anh em lương dân rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho họ. Xin cho chúng con quyết tâm loại bỏ những mặc cảm tội lỗi trong quá khứ, hồi tâm sám hối và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa để hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân như thánh Phê-rô và các tông đồ.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Nguồn vietcatholic.org

1529    22-08-2014 13:22:53