Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Chúa Nhật XXII Thường Niên A năm 2014

  1. Xin Chúa Thương
  2. Điều Kiện Theo Chúa Giêsu
  3. Con Đường Theo Chúa
  4. Thà Mất Để Được 
  5. Đường Xưa Chúa Đi
  6. Tiên Báo Cuộc Thương Khó Lần Thứ Nhất
  7. Mất Trước Được Sau
  8. Điều Kiện Phải Có Để Theo Đức Giêsu
  9. Mặt Trái Của Tin Mừng Chúa Kitô
  10. Con Đường Dẫn Tới Sự Sống
  11. Tiền Của
  12. Từ Bỏ Mình
  13. Con Đường Thập Giá
  14. Vinh Quang Phải Qua Đau Khổ
  15. Hiến Mình Vì Người Mình Yêu!
  16. Thập Giá: Con Đường Chúng Ta Đi
  17. Theo Thầy, Mất Đi Được Lại
  18. Theo Chúa Phải Từ Bỏ Mình, Vác Thập Giá Mình
  19. ''Liều Mạng Sống Vì Thầy, Thì Sẽ Tìm Được Mạng Sống Ấy”
  20. Từ Bỏ Mình Để Được Tự Do Thi Hành Sứ Vụ

XIN CHÚA THƯƠNG
Mt 16, 21 - 27

Sau khi thay mặt các Tông đồ trả lời rất đúng về Đức Giêsu là ai :“ Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô được Chúa khen và được Chúa hứa sẽ đặt ông làm nền tảng để xây dựng Giáo hội của Chúa. Có lẽ vì đó mà Phêrô tự thấy mình có vai trò bảo vệ Thầy mình và cố vấn cho Thầy trong mọi sự. Hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các Tông đồ biết sứ mạng của Ngài và cách thức thi hành sứ mạng ấy: “ Đi Giêrusalem, chịu đau khổ, bị giết nhưng sẽ sống lại.” Phêrô không thể chấp nhận đường hướng đó nên “cố vấn” Chúa đừng đi vào con đường đau khổ đó:’ xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy” nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông cách thẳng thừng: Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy!” vì quá nhiệt thành nhưng nông nổi và hàm hồ, Phêrô đã “dám” đi trước Thầy mình. Khi hành động như thế, Phêrô vô tình là viên đá cản lối Thầy, làm Thầy suýt ngã.

Cũng như bao nhiêu con người khác, Đức Giêsu bước vào cuộc đời này và gặp biết bao những cám dỗ vây quanh. Cám dỗ nào nghe cũng ngọt ngào, hấp dẫn. Ma quỉ cám dỗ Ngài trong sa mạc, trong suốt 40 đêm ngày; đám đông đòi Ngài cho xem phép lạ từ trời rồi thách thức Ngài xuống khỏi thập giá… trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Phêrô, người mà Ngài đã chọn làm nền tảng cho Hội thánh cám dỗ Ngài chọn lựa con đường dễ dãi để thực thi sứ mạng của mình. Cơn cám dỗ này có thể nói là cực kỳ nguy hiểm, vì nó đến từ tình thương chân thành của người môn đệ thân tín. Nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ ngọt ngào này. Ngài đã nói với Phêrô cùng một gịong điệu gay gắt như nói với Satan trước đây: “ Satan, lui lại đằng sau Thầy”.

Chuyện kể rằng, vua nước Thục bên Tàu có tính tham lam, ham mê của cải. Vua Huệ Vương bên Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu, rồi phao tin đồn rằng: “ trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho 5 người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.

Huệ vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp nước Thục. Vua nước Thục vừa mất nước, vừa hại mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà mất cái lợi to lớn sao?

Sống ở đời này ai cũng tranh phần được và sợ mất đi quyền lợi của mình. Nhưng vấn đề là phải cân nhắc và xác định đâu là cái được thật sự, lâu bền và trọn vẹn, đâu là cái quan trọng tuyệt đối ? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách thế để được trọn hảo ấy. nhưng trước hết người ta phải biết chấp nhận những cái mất tạm thời: mất công, mất của, mất thời giờ, mất uy tín, mất tương lai và kể cả mất đi mạng sống nữa. Nếu ai vì Đức Giêsu mà chịu mất tất cả những gì mình có ở đời này thì sẽ có lại tất cả. Mất những cái tạm để có được và giữ được những cái mãi mãi. Kitô hữu đích thực là những người say mê những điều vĩnh cửu, say mê một tương lai huy hòang do chính Thiên Chúa ban tặng. Các thánh tử đạo là những người say mê sự sống phục sinh đến nỗi dám chấp nhận cái chết, dám coi cái chết nhẹ như lông hồng.

Lắm người ở đời này tưởng mình được tất cả với những suy tính của mình nhưng lại mất đi tất cả. Câu chuyện của vua nước Thục trên đây là một ví dụ điển hình. Chúng ta hãy nghiêm túc suy nghĩ sâu sắc về cái được và cái mất để có những quyết định đúng đắn và kịp thời kẻo bỏ mất nhiều cơ hội và bỏ mất tất cả.

Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả. Đó là động lực, là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ và hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng và ích kỷ. người dám hy sinh và cho đi sẽ tìm lại bình an, niềm vui, tự do và yêu thương không phải sau khi chết mới thấy được nhưng sẽ được chúng ngay ở đời này.

Xin Chúa thương đến thân phận con người yếu đuối của chúng ta để ban sức mạnh giúp ta hòan thành ơn gọi của chúng ta theo đúng ý muốn của Thiên Chúa. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta biết chọn lựa và gắn bó với những thực tại bền vững trên trời ngay khi còn sống ở trần gian này.

ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA GIÊSU
Mt 16, 21 - 27

Con người bản năng dễ có khuynh hướng vỊ kỷ và tìm sự dễ dãi trong cuộc sống, không muốn cực khổ. Tuy nhiên lý trí và ý chí chúng ta lại có xu hướng vươn lên cao, muốn chinh phục cả những cái xem ra vượt quá sức mình, vượt qua mọi trở ngại và giới hạn của chính mình để đạt tới một tầm vóc cao hơn, siêu vượt thế giới vật chất đầy giới hạn này. Chúa Giêsu biết rõ bản tính con người với những ưu khuyết điểm, Ngài không đến để huỷ bỏ bản năng con người nhưng muốn chúng ta dùng lý trí hiểu biết và ý chí để làm chủ và thăng tiến bản thân, mỗi ngày một nên thánh thiện hơn, tương xứng với tầm vóc làm con Thiên Chúa. Để đạt được tầm vóc ấy, Chúa Giêsu đưa ra điều kiện : từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh.

Trước nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu là người vác Thánh giá đi đầu trong đoàn người tiến về nhà Cha. Mục đích Ngài xuống trần gian là để phục vụ loài người! Thiên Chúa mà lại hạ mình làm người để giúp đỡ, để cứu chuộc loài người khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và sự chết. Đối với tình yêu Thiên Chúa thì con người chỉ chỉ biết ca tụng luôn mãi mà thôi. Tình yêu Chúa ban cho chúng ta không có gì sánh bằng, nhân loại không thể làm gì để đền đáp tương xứng được. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì Chúa chỉ cần chúng ta yêu mến Ngài, thể hiện qua việc vâng phục, sống theo lời Chúa dạy để được ơn cứu độ. Chúng ta không được phí phạm ơn Chúa, nhưng phải cố gắng hết sức để làm phát triển những ơn ban của Chúa nơi cuộc sống trần gian này. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta quá đỗi, Ngài không chỉ đến ở với loài người mà còn hy sinh lãnh lấy tội của loài người nữa, bao nhiêu tội lỗi nặng nề Chúa chịu hết, bao nhiêu sỉ nhục con người đáng phải chịu thì Chúa Giêsu Kitô đã mang lên cây thập giá, không than trách mà bằng lòng chịu vì chúng ta cho đến chết!

Các môn đệ lúc đầu vì chưa hiểu nên còn tranh nhau những sự phù vân ở đời này, họ còn mong danh vọng và hạnh phúc chóng qua. Chúa Giêsu phải nhắc nhở họ, hướng họ đến thực tại cao hơn. Để được vinh quang thật sự, các môn đệ phải chấp nhận vác thánh giá, đi trên con đường hẹp dẫn đến Nước Trời. Đức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ biết: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra. Chúa Giêsu chịu thiệt ở đời này vì yêu chúng ta. Ngài đã chết để cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và chứng tỏ cho chúng con thấy giá trị thật của loài người, giá trị của hạnh phúc bất diệt đời sau.

Chúng ta không bám vào cuộc sống đời này: ngắn ngủi, mau qua, không bền vững. Chúng ta phải ý thức về sự thật này luôn luôn và chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Xưa kia Phêrô không chấp nhận sự hy sinh của Thầy ở đời này, ông đã ra sức ngăn cản nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông về tư tưởng phàm trần này. Ngài tiếp tục dạy cho các môn đệ biết đường về nhà Cha: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai dám liều mình vì Thầy sẽ được sống.

Người đời thường tham sinh huý tử nhưng người kitô hữu có niềm tin thì thắng vượt cái thường tình này, không cố bám víu cuộc sống này. Cuộc sống trần gian vốn bất toàn chóng qua chóng mất. Đó là qui luật của vật chất. Chúng ta không chỉ có thân xác vật chất, mà còn có linh hồn thiêng liêng bất tử, thân xác chúng ta chóng già cỗi nhưng linh hồn không như vậy. Vậy chúng ta phải làm sao? Chúng ta hãy làm theo lời dạy của Thầy Chí Thánh để tìm về căn nguyên của mình, cố gắng về quê thật của mình và sẽ được Cha chúng ta ban cho gia tài không thể tàn phai nhưng có giá trị vô cùng. Lúc đó, chúng ta được hạnh phúc tràn trề, không sợ phải đau khổ nữa. Từ hôm nay, tôi sẽ sống đúng lời Chúa dạy để tâm hồn luôn được an bình ở đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài sẽ thưởng phạt công minh xứng với việc chúng ta đã làm ở trần gian.

Lạy Chúa Giêsu, cách nhìn của chúng con còn đầy giới hạn, thiển cận, chưa biết bám vào Chúa, chưa đầu tư đúng mức cho cuộc sống mai sau. Xin Chúa thứ tha và mở trí cho mỗi người chúng con biết nhìn ra sự thật, dám bỏ mình, vác lấy Thánh giá Chúa trao mà bước trên con đường về nhà Cha, đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con trên Thiên Quốc và được cuộc sống viên mãn bên Ngài mai sau.

CON ĐƯỜNG THEO CHÚA 
Mt 16, 21 - 27

Một người bên lương nhìn lên thấy cây thập giá có tượng Chúa Giêsu treo trên đó; bức tượng này về mặt mỹ thuật khá đẹp, diễn tả được phần nào đau khổ Chúa phải chịu, anh ta liền nói với người bạn cũng là bên lương: “Nè anh, cái ông này làm gì, phạm tội gì mà phải bị đóng đinh ghê gớm vậy, trộm cắp hay cướp vợ con người ta?” Bạn ông nghe vậy liền la lên: “Đừng nói bậy! Đó là Chúa Giêsu của người công giáo. Tôi không hiểu lắm, nhưng tôi nghe người công giáo nói: ông là Chúa, là nguời tốt lắm. Ông không có tội gì cả, nhưng đã sẵn sàng chết để đền tội cho mọi người. Cái chết của ông chính là cái chết vì tình yêu; vì tình yêu mà ông đã chết cho nhân loại, để mọi người biết yêu thương nhau, tha thứ cho nhau…” Câu chuyện của Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn nói lên điều đó: con đường của Đức Kitô đi qua, chính là con đường thập giá. Và người kitô hữu khi muốn theo Chúa Kitô cũng phải đi qua con đường đó…Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Bài Tin mừng hôm nay nằm ở vị trí quan trọng trong Phúc âm, đồng thời cũng là chủ đề then chốt của Tin mừng. Tuần rồi Chúa tự mạc khải cho các môn đệ biết bản tính siêu việt của người: bản tính Thiên Chúa; rồi Người lại nói cho họ rõ hơn nữa; sứ mạng của Người (dù là Thiên Chúa) là phải trải qua đau khổ, phải chấp nhận con đường thập giá. Đó chính là con đường cứu rỗi nhân loại, vì yêu thương. Các môn đệ lúc đó đã không hiểu được lời nói của Chúa Kitô. Họ không hiểu con đường đó cũng chính là con đường họ phải đi..,

b/. Đức Kitô đã đi qua con đường nào, người kitô hữu cũng phải đi y con đường đó: Đó chính là con đường thập giá, con đuờng đau khổ.Trước hết phải xác định: Chúa Kitô hay người công giáo không yêu thập giá, yêu đau khổ, vì đau khổ tự bản chất là điều xấu. Trên đời này có ai không muốn được sung sướng, hay không muốn tránh đau khổ? Nhưng rõ ràng đau khổ là một sự thật gắn liền với thân phận con người, không thể tách rời. Vậy chối bỏ đau khổ, hay diệt khổ là một chuyện không thể làm được. Ngược lại, Chúa Kitô sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tình yêu, và biến đổi nó thành niềm vui, thành hạnh phúc. Vì vậy dù là vô tội, Người lại tự chấp nhận đau khổ để đến nỗi phải chết trần trụi trên thập giá. Thật là một mầu nhiệm! Nếu không phải vì yêu, Chúa Kitô sẽ không chấp nhận con đuờng thập giá đâu… Vì thế người kitô hữu khi muốn bước đi với Đức Kitô, sẽ không thể chọn con đường nào khác hơn…

Thánh Phanxicô Xavier tháng 09 năm 1549 đã đem Tin mừng đến cho người Nhật. Vậy mà 40 năm sau, đã có trên 200.000 người tin Chúa Kitô. Năm 1597, một cuộc bắt đạo dữ dội xảy đến. Số người bị bắt truớc tiên là 26 vị: có 6 tu sĩ Phanxicô; 3 tu sĩ dòng Tên và 17 giáo dân. Trong số đó có 3 em giúp lễ và thầy Phaolô Miki, 33 tuổi. Nhà vua ra lệnh cắt tai, cắt mũi các ngài, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá tại Nagasaki . Thấy các ngài bị gông cùm, mà mặt mày đầy máu không ai là không thương cảm. Phaolô Miki truớc khi chết, thầy được một thị kiến. Thầy nói: “Tôi là người Nhật, thuộc dòng Chúa Giêsu. Tôi bị án tử hình vì đã rao giảng Tin mừng. Tôi vô cùng cám ơn TC vì đã ban cho tôi ơn cao trọng này.” Đó là câu chuyệnthánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, lễ kính ngày 06. 02 hàng năm. Các thánh thực sự cũng đã chọn và đi qua chính con đuờng Đức Kitô đã đi.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Con đường của Đức Kitô đi qua chính là con đường đau khổ, con đường thập giá. Dĩ nhiên đó không phải con đường trơn tru, dễ dàng; ngược lại nó đầy chông gai thử thách, đòi hỏi nhiều hi sinh. Chúa Kitô đã đi con đường đó. Vậy những ai muốn theo Chúa, sẽ không có thể chọn lựa con đường nào khác. Chúng ta là kitô hữu, chúng ta có tin nơi Chúa không? Chúng ta có sẵn sàng theo Chúa bằng con đường này không?

THÀ MẤT ĐỂ ĐƯỢC 
Mt 16, 21 - 27

“Thả con tép, bắt con tôm” dường như là cách sống của nhiều người qua nhiều thời đại. Nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay, người ta lại càng thích theo cách sống này hơn. Người ta sẵn sàng hy sinh cái nhỏ hơn để được cái lớn hơn. Dầu vậy, dường như người ta chỉ quanh quẩn bên những gì chóng tàn. Người ta quên rằng cho dù được cả thế giới này đi chăng nữa rồi cũng có ngày tiêu tan.

“Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”, có thể nói đây là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu muốn nói với tất cả chúng ta. Cách riêng là với những ai chỉ biết quanh quẩn với những gì chóng qua ở đời này. Chắc hẳn lời cảnh báo này ít nhiều gì cũng làm cho ta suy nghĩ.

Nhìn lên Chúa Giêsu ta sẽ thấy chỉ vì yêu thương mà Người sẵn sàng chịu mất tất cả. Là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng Người đã tự nguyện từ bỏ để đến sống trong thân phận con người hèn yếu. Để rồi Người đành chịu mất vinh quang mà chọn lấy thập tự giá. Quả thật, không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi sự hy sinh cao cả đó. Bằng chứng là Phêrô đã đứng ra can ngăn không cho Người lên Giêrusalem.

Chúa Giêsu đã chịu mất tất cả cho ta được hưởng nhờ sự sống. Phần mình, chúng ta có dám chịu mất tất cả vì Chúa chăng? Nếu đã thật sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ dám hy sinh vì Chúa.

Đúng ra những gì chúng ta để mất chỉ là những gì không có lợi cho ta. Sở dĩ, một cô gái dám từ bỏ những chàng trai khác theo đuổi mình để chọn lấy một người ăn đời ở kiếp với mình chỉ vì cô muốn mãi mãi được sống bên người mình yêu. Thánh Augustinô đã nói: “ Lạy Chúa, tâm hồn con băn khoăn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”. Hạnh phúc thật là được sống trong tình yêu của Chúa. Muốn được như vậy không cách nào khác là ta phải đành chịu mất những gì khiến cho ta không được sống mãi trong tình yêu của Chúa.

ĐƯỜNG XƯA CHÚA ĐI 
Mt 16, 21 - 27

Nói đến con đường Chúa đã đi qua không ai dại khờ đến nỗi phải dành nhiều thời gian để hồi tưởng những nẻo đường Chúa đã đi mang tên gì, dài bao xa? Con đường Chúa đi ai cũng biết đó là con đường thập giá. Có nhiều con đường Chúa đi qua, nhưng quốc lộ của Ngài chính là con đường tiến lên đồi Golgotha để chịu án tử. Một con đường quyết định cho nhiều dự định. “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Lời Chúa mời gọi sao nghe ngán ngẫm vô cùng cho những ai đã từng đi qua con đường thập giá.

Ai đã một thời nghêu ngao bài hát “Con đường xưa em đi” chắc hẳn sẽ thấy một sự đối lập giữa đường Chúa đi và đường em đi. Nếu “đường xưa em đi” ngập tràn thư tình và nắng ấm, thì con đường Chúa đi chỉ toàn là lời ngạo nghễ và lạnh giá của lòng người. Nếu “đường xưa em đi” hướng về một tương lai rạng sáng, thì con đường Chúa đi mỗi ngày như khép lại những lối bước mịt mờ. Dẫu nhiều người cho đường Chúa là mịt mờ, là đường chẳng mấy ai đi, nhưng Chúa vẫn không ngần ngại mời gọi nhiều kẻ bước theo Ngài. Bởi lẽ đường Chúa đi là con đường thật, là quốc lộ đưa đến hạnh phúc và sự sống đời đời. Con đường thập giá có nhiều hình ảnh để diễn tả. Trong bối cảnh Tin Mừng ta có thể diễn tả đường thập giá là con đường mang 3 chữ “T”: Từ bỏ - Tự hiến - Tình yêu.

Đường thập giá là đường từ bỏ

Từ bỏ là chủ động đánh mất điều mình đáng được hưởng. Từ bỏ cũng có nghĩa là tự ý tách lìa những gì mình đang quyến luyến để được vươn cao tới sự sống mới. Không ai dại dột bỏ hết để rồi trở nên trống không. Từ bỏ cái cũ để được cái mới hơn, từ bỏ cái nhỏ nhen để được cái lớn lao. Vẫn có quy luật quân bình trong cuộc sống nhưng con người thật khó từ bỏ vì không ai chịu gạt bỏ cái mình đang sở hữu. Người ta vẫn nói cái sở hữu không lớn bằng cái đủ vì vậy mà ai ai cũng tranh nhau ra sức kiếm tìm. Ta vẫn thích chất chứa cho đầy, dự trữ cho nhiều để tìm cảm giác an thân. Nhưng rồi càng chất đầy thì càng thêm gánh nặng, càng tích góp thì càng bị oằn vai.

Từ bỏ mình đó là từ bỏ những toan tính của con người để sống theo tinh thần của Thiên Chúa. Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ. Phêrô muốn Thầy mình thực hiện như điều ông đã nghĩ. Oâng không muốn Thầy lên Giêrusalem, không muốn Thầy mình phải chết như thế. Ông muốn lèo lái Thầy mình đi theo con đường của ông. Nhưng đường lối của con người không phải là đường lối của Thiên Chúa. Tinh thần từ bỏ cao nhất chính là đi tìm và làm theo ý Chúa.

Đường thập giá là đường tự hiến

Đỉnh cao của sự từ bỏ là tự hiến chính mình. Từ bỏ những thứ của mình thật là đáng khen, nhưng từ bỏ ngay chính mạng sống của mình quả là điều đáng nễ phục. Chúa Giêsu thực hiện ý định Chúa Cha cách trọn vẹn chứ không theo kiểu nửa vời. Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tự hiến của Chúa đã khai mở sự sống cho nhiều người. Giá trị của sự tự hiến là tìm được sự bình an cho tâm hồn, niềm vui cho trái tim, niềm xúc cảm trong từng hơi thở.

Lịch sử phải biết ơn những con người đã mạo hiểm, những người dám giã từ cuộc sống yên ổn để dấn thân phục vụ lợi ích cho nhân loại. Nếu không có những người dám liều mình thì những phương thuốc chữa bệnh đã không thành tựu. Nếu không có những bà mẹ sẵn sàng liều mình thì chẳng có đứa trẻ nào được chào đời. Có nhiều của dâng tiến, nhưng của dâng duy nhất có giá trị hơn hết vẫn là sự sống của mỗi người.

Đường thập giá là đường tình yêu

Tự ban đầu thập giá là dấu chỉ của khổ hình ô nhục. Nhưng thập giá có Chúa Giêsu giờ đây đã trở thành thánh giá cho cuộc đời. Một con người luôn từ bỏ và tự hiến cho nhân loại đã biến khổ nhục thập giá thành biểu tượng cho tình yêu. Một tình yêu cao cả nhất trong mọi thứ tình yêu. Chúa Giêsu đã chọn sự ô nhục nhất của con người làm phương thế minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa. Chính tình yêu đã làm cho sự từ bỏ tự hiến một giá trị cứu độ. Nếu không có tình yêu thì tôi sẽ không đi hết con đường Chúa đã đi. Không có tình yêu, con đường thập giá sẽ trở nên vô nghĩa.

Văn hào Victor Hugo đã khẳng định: “Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt”. Khi nhìn lại thập giá đời mình, có khi ta lấy làm tự hào vì đã được đồng hành cùng khổ nạn với Chúa. Có khi ta cuộc đời như tắt lịm vì thánh giá cứ vây quanh. Sự chối từ, ngán ngẫm không phải vì thánh giá quá nặng nhưng chỉ vì ta thiếu tình yêu.

Trên thánh giá máu và nước chảy ra, là dấu chỉ ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại. Từ trên thánh giá hận thù đã xoá bỏ. Từ trên thánh giá tội lỗi con người đã được tha. Từ trên thánh giá Chúa Giêsu gọi mời mỗi người cùng chia sẻ nỗi đau và sứ mệnh vơiù Ngài, bằng cách vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài.

Đường xưa Chúa đi khó khăn không phải vì ngăn sông cách núi nhưng vì đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Trong đó tinh thần từ bỏ, tự hiến và con tim đong đầy tình yêu là điều kiện không thể thiếu. Dù ta có tự hào hay ngán ngẫm thì Chúa vẫn luôn gọi mời hãy vác thập giá mỗi ngày mà bước theo. Lạy Chúa, con biết con không thể làm anh hùng trong phút chốc. Xin cho con biết khiêm tốn với chính mình để tập bước đi trên con đường xưa Chúa đã đi.

TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT
Mt 16, 21 – 27

Lm Đan Vinh

LỜI CHÚA : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
CÂU CHUYỆN : 
a - SỨC MẠNH CỦA CÂY THÁNH GIÁ :
Một người đàn bà đạo đức kia đã được chết bình an trong Chúa như sau :
Bà ta bị bệnh ung thư ngực rất đau đớn nhưng lại sợ đau không dám mổ khối u. Đến khi nó phát triển nhanh thì bà mới bằng lòng mổ, hy vọng kéo dài tuổi thọ thêm một thời gian nữa. Bà ta có một cậu con trai ở tuổi thanh niên. Nhưng trái với mẹ, anh này khô khan việc đạo, đã bỏ không đến nhà thờ từ lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai được chứng kiến mẹ bị giải phẫu và đã được bệnh viện chấp thuận. Thời đó, vì chưa phát minh ra thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua những cơn đau đớn tột độ khi bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng sự đau đớn. Đến khi con dao mổ đụng đến dây thần kinh thì bà oăn mình và kêu to; 'Chúa ơi cứu con !'. Thấy cảnh mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt lên lời phàn nàn xúc phạm đến Chúa. Nghe vậy, bà liền nghiêm khắc nói với con : 'Hãy câm miệng lại ngay ! Con đang làm cho mẹ phải đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này nhiều. Con có biết không ? Con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và niềm an ủi cho mẹ đó'. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con trai thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà ta đã nắm chặt suốt từ đầu đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê có khả năng làm dịu đi cơn đau khủng khiếp của bà.

Sau mấy tháng quằn quại trong sự đau đớn, bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá cho con trai và dặn rằng : 'Con ơi ! Hãy giữ lấy cây thánh giá này, là vật đã giúp mẹ chịu đựng biết bao gian nan và đau khổ trong suốt cuộc đời của mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông khi gặp phải những sự thử thách sau này'. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh luôn đeo cây thánh giá kia, để nhắc nhở anh nhớ đến người mẹ thân yêu, và cũng là vật hộ mệnh giúp anh can đảm vượt qua đau khổ và sóng gió trong cuộc đời. 

b -THEO CHÚA VÌ LÒNG MẾN HƠN LÀ VỤ LỢI :
Thánh ĐÔNG BỐT-CÔ (Don Bosco) lần kia đã thuật lại câu chuyện tưởng tượng, để dạy các học sinh biết quảng đại theo Chúa như sau :

'Một hôm Đức Giê-su bảo hai môn đệ thân tín trong nhóm Mười Hai hãy theo Người lên quảnúi cao. Người dặn họ mang theo mỗi người một hòn đá. Ông thứ nhất quen tính toán hơn thiệt nên chỉ đem một viên nhỏ bằng nắm tay cho nhẹ. Còn ông thứ hai do lòng mến Thầy thúc đẩy nên quảng đại ôm theo một hòn đá to bằng đầu người. Vì vừa leo dốc vất vả, lại vừa phải ôm theo hòn đá to nặng, nên ông thứ hai leo đến chậm hơn và ngồi bệt xuống mặt đất, hơi thở hổn hển vì quá mệt mỏi. Bấy giờ ông thứ nhất mới lên tiếng : 'Này anh bạn, sao anh lại tốn công vác theo một hòn đá to thế kia làm chi ? Cứ như tôi đây, chỉ cần mang một viên đá nhỏ có phải hay hơn không ?' Sau đó tới giờ ăn trưa, Đức Giê-su bảo cả hai ngồi xuống. Người ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng và biến hai hòn đá kia trở thành bánh ăn. Khi ấy người thứ nhất chỉ được ăn một cái bánh nhỏ bằng nắm tay, nên ăn xong vẫn còn thấy đói. May mà được người thứ hai chia thêm cho một miếng bánh từ cái bánh thật to ăn còn dư.

Sau đó ít lâu, Đức Giê-su lại bảo hai ông theo Người lên núi cao như hôm trước, và mỗi người cũng phải mang theo một hòn đá. Rút kinh nghiệm lần trước, môn đệ thứ nhất suy tính và đã mang theo một hòn đá to hơn người thứ hai. Đến nơi ông ta cũng ngồi thở hổn hển và chờ đợi Đức Giê-su sẽ biến cục đá thành bánh ăn như lần trước. Nhưng Người chỉ ra lệnh : 'Nào bây giờ mỗi anh hãy ngồi trên hòn đá của mình. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh ăn đâu'. Rồi Người quay sang nói riêng với ông thứ nhất rằng : 'Con hãy nhớ; Lòng quảng đại thực sự phải phát xuất từ tình yêu, chứ không phải do sự tính toán thiệt hơn đâu nhé'.

c- MẦU NHIỆM ĐAU KHỔ :
Ơ-DEN Ô-RƠ-VÍCH (Eugene Orowitz) là một học sinh năm thứ năm của một trường trung học ở tiểu bang NIU-DƠ-SI (New Jersey) Hoa Kỳ. Cậu ta có thân hình gầy ốm và chỉ cân nặng không đầy 45 ki-lô. Một hôm học sinh trong lớp có giờ tập ném lao. Sau khi nghe giáo viên hướng dẫn xong, học sinh lần lượt phải thực tập ném lao lần đầu tiên. Mỗi cây lao dài khoảng 2 thước. Các học sinh trung bình chỉ ném xa được khoảng từ 25 đến 27 thước. Bấy giờ giáo viên đòi Ơ-den ném lao. Cậu phải làm trước những cặp mắt khinh dể của bạn bè về thân hình gầy ốm của cậu. Đáp lại, Ơ-den mím môi im lặng và quyết tâm phải ném lao đi thật xa. Sau khi chạy lấy đà, cậu đã phóng mạnh cây lao về phía trước và nó đã vượt xa tới 50 mét, gấp đôi các bạn khác. Trước kết quả bất ngờ này, bao nhiêu nụ cười khinh dể và những tiếng nói chế diễu đột nhiên im bặt và Ơ-den được giáo viên hết lời khen ngợi. Từ đó, biết khả năng của mình, mỗi ngày Ơ-den đều dành ra 6 giờ đến bãi đất trống phía sau nhà để tập phóng lao. Chỉ sau mấy tháng khổ luyện, Ơ-den đã nâng tầm ném lao của cậu lên 62 thước, thánh tích mà không một học sinh trung học nào khác trong cả nước đã đạt được. Sau đó, cậu còn dành được học bổng và được tuyển thẳng vào một trường đại học danh tiếng ở Nam Ca-li-phóc-ni-a (South California). Từ đây, anh sinh viên Ơ-den được khuyến khích tập luyện để chuẩn bị thi Ô-lym-pic quốc tế. Nhưng rồi một điều không may đã xảy ra; Một hômtrong một lần ném lao, Ơ-den đã bị tê bại tay và phải vào bệnh viện điều trị vì bị đứt dây thần kinh vai. Thế là chấm dứt phóng lao, chấm dứt học bổng và cũng chất dứt luôn mọi ước mơ của Ơ-den ! Ơ-den buộc lòng phải bỏ đại học và trở thành nhân viên bảo vệ một kho chứa hàng. Rồi một hôm, anh tình cờ gặp được một nghệ sĩ đạo diễn của một đoàn kịch hát rong. Ông đạo diễn cho Ơ-den diễn thử và thấy anh có năng khiếu nên đã thâu nhận làm thành viên của đoàn. Nhận thấy nghề diễn viên hợp với sở thích, nên Ơ-den xin ghi danh theo học khóa đào tạo cấp tốc tại trường kịch nghệ. Sau đó, Ơ-den đã diễn vai một cậu bé hồn nhiên vui tính trong một vở kịch rất thành công, được mời diễn đi diễn lại nhiều lần ở khắp nơi trong suốt thời gian dài 14 năm trời. Từ thành công bước đầu đó, Ơ-den đã trở thành một đạo diễn thay cho ông thầy cũ về hưu để tiếp tục điều khiển trọn cả chương trình tạp kỹ. Chương trình này được khán giả mến mộ và được báo chí hết lời ca ngợi. Từ một diễn viên, Ơ-den Ô-rơ-vích đã hóa thân thành một đạo diễn xuất sắc.
Đó là đạo diễn Mai-kôn Len-đơn (Michael Landon ). Chính ông đã thuật lại câu chuyện về cuộc đời mình như đã nói trên. Nhờ bị tai nạn đứt dây thần kinh vai lúc đó bị coi như một thảm kịch, nhưng nó lại là một khúc quanh của cuộc đời. Nó giúp ông tìm thấy một nghề mới phù hợp và vượt xa mọi ước mơ của ông. Như vậy : Đau khổ tuy khó hiểu, nhưng sẽ ngày càng trở nên dễ hiểu hơn sau này. Còn chúng ta, mỗi khi gặp đau khổ trái ý, thay vì kêu trách Chúa, chúng ta hãy khiêm tốn cầu xin và cậy trông phó thác vào tình thương của Chúa Cha, Đấng hằng quan phòng và luôn muốn chúng ta được hạnh phúc.

3 ) SUY NIỆM: 
a- ĐỨC GIÊ-SU, TÔI TRUNG ĐAU KHỔ VÀ NGƯỜI CON HIẾU THẢO CỦA THIÊN CHÚA:
Theo Tin Mừng Mát-thêu, Sau khi Si-mon Phê-rô tuyên xưng đức tin, Đức Giê-su bắt đầu hé mở con đường cứu thế của Người : 'Người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại' (Mt 16,21). Hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn Sứ I-sai-a về 'Người tôi trung đau khổ của Đức Chúa' (x Is 42,1-4.7). Nghe Thầy tiết lộ điều đó thì Phê-rô, một người vừa tuyên xưng đức tin, đã lập tức phản đối mạnh mẽ. Ông kéo riêng Người ra và can Người rằng : 'Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !'. Đức Giê-su liền quở mắng ông: 'Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người' (Mt 16,22-23). Đức Giê-su đã phản ứng mạnh mẽ trước tư tưởng của Phê-rô. Người đã xua đuổi ông như đuổi Xa-tan cám dỗ trước đây : 'Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy !'. Phê-rô đã quên vị trí đi sau Thầy của người môn đệ. Ông không ngờ mình lại trở nên viên đá gây vấp ngã cho Thầy. Tư tưởng của Phê-rô tuy rất 'người', nhưng không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Sau này ông đã từng bước hiểu ra, và sẵn sàng đi con đường thập giá để cùng chết và sống lại với Thầy.

b- ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA CHÚA:
Sau đó, Đức Giê-su nói : 'Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo' (Mt 16,24). Qua đó, ta thấy điều kiện để đi theo làm môn đệ là phải sẵn sàng hy sinh : hy sinh từ bỏ mình, hy sinh vác thập giá mình và hy sinh đi sau Người. Người không ép buộc, nhưng chỉ mời gọi người ta theo làm môn đệ Người. Người cũng không bảo người ta phải tìm kiếm thập giá, nhưng là vui lòng vác cây thập giá mà mình phải mang. Đức Giê-su cho biết đau khổ không phải là một sự đày đọa con người khiến họ phải cam tâm chịu đựng, nhưng chính là một phương thế hữu hiệu để giúp họ nên thánh. Mỗi người đều mang thập giá khác nhau và 'ngày nào có sự khốn khó của ngày đó'. Ai trong chúng ta cũng đều mang nơi mình một sự đau khổ về tinh thần hay thể xác được coi như thập giá. Ước gì nhờ được khổ đau thanh luyện, mà chúng ta sẽ ngày một kết hiệp mật thiết và nên giống Đức Giê-su hơn.

c- CÙNG ĐI LÊN GIÊ-RU-SA-LEM VỚI ĐỨC GIÊ-SU:
Các tín hữu là những người say mê được sự sống vĩnh cửu, nên sẵn sàng chấp nhận những mất mát tạm thời như : mất công sức, mất tiền của, mất thời giờ, mất tương lai và cả mất mạng sống ở đời này nữa. Nhưng chúng ta tin rằng : cuối cùng chúng ta sẽ được Chúa ban lại những điều ta đành bị mất vì danh Người. Đó là sự mất mát tạm thời để sẽ được lại mãi mãi. Các thánh tử đạo vì ham sống, nên sẵn sàng đổi mọi vinh hoa, giàu sang, quyền lực, và chịu mọi cực hình đau khổ, vác thập giá mình hằng ngày mà chịu chết vì Chúa để được sống lại với Người.

Nếu chúng ta là một thanh niên có mơ ước vào đại học, nhưng rồi bị thi rớt, thì ta đừng vội nản lòng. Hãy cứ chấp nhận vác cây thập giá đó để theo chân Đức Giê-su. Người có thể dẫn chúng ta đến một cuộc sống mới tốt đẹp hơn và thích hợp hơn. Nếu ta là người đã có tuổi từng mơ ước giàu sang, mong có một gia đình hạnh phúc, nhưng rồi thực tế đã bị thất bại, thì ta cũng đừng thất vọng. Vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành mưu ích cho ta là con cái Người. Nhất là ta phải tín thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Thiên Chúa Cha, Đấng chỉ muốn những điều tốt lành cho chúng ta như lời Đức Giê-su : 'Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người' (Lc 11,13).

4) THẢO LUẬN : 
1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giê-su thì đòi người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn phải từ bỏ những gì ? Bạn cũng phải vác thập giá mình hằng ngày là vác những gánh nặng nào ? Bạn phải đi theo Đức Giê-su cách nào trong hoàn cảnh hiện tại của bạn ? -

2) Gặp một người đau khổ đang chán sống, bạn sẽ khuyên họ thế nào để họ phấn khởi vui sống ?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con nhận biết Chúa thật bình tĩnh trước đau khổ thập giá. Chúa đã sẵn sàng nhận phần thua thiệt để cho nhân loại chúng con được cứu độ. Ngày nay, chúng con cũng rất mến phục sự hy sinh quên mình của một số nữ tu. Các chị đã tận hiến đời mình đi theo Chúa và chấp nhận phục vụ Chúa nơi những người đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi. Các chị sống gần những bệnh nhân mắc chứng bệnh nan y như HIV-AIDS, ung thư hay phung cùi. Các chị tình nguyện phục vụ nuôi dạy các trẻ em bụi đời mồ côi bất hạnh, những cô gái bị lợi dụng, hoặc giúp đỡ an ủi những người khuyết tật : mù què câm điếc bại liệt, những cụ già neo đơn không nơi nương tựa.

LẠY CHÚA. Nhìn lại mình, chúng con thật xấu hổ khi thấy chúng con chỉ biết nghĩ đến mình, và bịt tai nhắm mắt trước những mảnh đời bất hạnh. Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con sống theo lời dạy của Chúa là 'bỏ mình' : bỏ đi những lo toan ích kỷ, để luôn sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin cho chúng con biết chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải, và sẵn sàng vác thập giá Chúa trao mà theo chân Chúa. Chúng con hy vọng sẽ được Chúa liệt vào hàng tôi trung và là môn đệ tốt lành trung tín của Chúa, khi đứng trước tòa phán xét sau này và sẽ được hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời muôn đời.

LẠY MẸ MA-RI-A. Xưa Mẹ đã theo con thân yêu là Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn, và Mẹ đã trở thành một trong những môn đệ trung thành nhất khi đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút hấp hối của Chúa, và để được Chúa trối trăn làm mẹ của Gio-an là đại diện của loài người chúng con.

LẠY MẸ. Xin cho chúng con hôm nay cũng biết noi gương Mẹ : Luôn chấp nhận đau khổ như người con hiếu thảo, sẵn sàng xin vâng thánh ý Thiên Chúa. Xin cho chúng con năng hiệp cùng Mẹ để suy niệm chặng đàng thánh giá, lần hạt Mân Côi miệng đọc lòng suy, theo mười lăm mầu nhiệm kinh Mân Côi, như Mẹ đã ra lệnh cho ba trẻ em ở làng Pha-ti-ma nước Bồ đào nha vào năm 1917. Đó chính là những phương thế hữu hiệu giúp chúng con cải thiện đời sống và tôn sùng yêu mến trái tim Mẹ để kết hiệp với Mẹ yêu mến Chúa Giê-su. Nhờ đó, sau này chúng con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

MẤT TRƯỚC ĐƯỢC SAU
Mt 16, 21 – 27

Gm Giuse Ngô Quang Kiệt

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều.

Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.

Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Đức Giê su dạy ta : Ai muốn theo Thày, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. 

Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa. 

Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Đức Giêsu, Thày Chí Thánh là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết treo trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.

Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.

Nhưng nếu đường của Đức Giê su chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Đức Giê su kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang. 

Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phao lô đã hiểu biết tường tận con đường của Đức Giêsu nên đã nói : Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Pl 2:6-11).

Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp : Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy

Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu. 

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ : Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con. 

ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ THEO ĐỨC GIÊSU
Mt 16, 21 – 27
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thày gặp phải chuyện ấy !" Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đằng sau Thày ! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ:"Ai muốn theo Thày phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì. Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình. Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm".

SUY NIỆM: CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ
1. CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LÀ CON ĐƯỜNG VÔ CÙNG KHÓ KHĂN:
Trong thần học và mục vụ Ki-tô giáo ngày nay, "tính cách môn đệ" hay "môn đệ tính" ( discipleship ) được Giáo Hội xem là tính cách quan trọng nhất của người Ki-tô hữu. Bất cứ ai: giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được mời gọi trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô. Và để trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô, người ta không có con đường nào khác ngoài con đường hẹp, Con Đường Thập Giá, bỏ mình vì Thày, bỏ mình theo Thày. Bỏ mình càng nhiều chúng ta càng trở thành môn đệ của Thày. 

Bài học Thập Giá mà Chúa Giê-su đưa ra không dễ hiểu, dễ nuốt chút nào. Tông Đồ Trưởng Phê-rô vừa mới hôm trước nhận được mặc khải từ Thiên Chúa mà tuyên xưng một cách long trọng: "Thày là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống" thì hôm sau đã bị Chúa Giê-su quở trách nặng nề khi ra sức cản ngăn Người đi vào thập gía mà Người đã chọn: "Xa-tan, lui lại đằng sau Thày ! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." 

Mà không chỉ có một mình Phê-rô mà toàn bộ Nhóm Mười Hai đều không muốn chấp nhận Con Đường Thập Giá là con đường từ bỏ ! Chúng ta đọc kỹ các trang Phúc Âm tường thuật ba lần giáo huấn về con đường thập giá và tường thuật về chuyến lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su và các môn đệ lần cuối cùng thì thấy ngay điều ấy. Hơn nữa, Con Đường Thập Giá, chẳng những Chúa Giê-su đã chọn cho riêng mình, mà Người đã chọn cho tất cả những ai muốn theo Người: "Nếu ai muốn theo tôi, thì..." 

Kinh nghiệm tâm linh của mỗi người cũng cho chúng ta thấy rằng con đường hy sinh, từ bỏ là con đường vô cùng khó khăn. Thông thường, chúng ta muốn được hơn là muốn mất; thậm chí nhiều lúc chúng ta chỉ muốn được mà không muốn mất !

2. TẠI SAO CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LẠI ĐẶT ĐIỀU KIỆN KHÓ KHĂN NHƯ VẬY ? 
Chắc có nhiều lý do giải thích tại sao Chúa Giê-su lại đặt điều kiện khó khăn như vậy cho những người muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người. Trong giới hạn của bài viết này chúng ta hãy suy nghĩ về hai lý do, một có tính nhân bản, một có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo: 

Lý do có tính nhân bản: Con người chỉ có thể phát triển và trưởng thành qua rèn luyện, tu dưỡng, tập tành. Nếu không chịu khó đi học và học bài, không ai trong chúng ta có thể trở thành một người có học thức, văn hóa. Nếu không chịu khó tập luyện gian khổ, không một cầu thủ bóng đá nào có thể trở thành một cầu thủ có đẳng cấp trong làng bóng đá. Chúng ta có thể áp dụng quy luật ấy cho mọi lãnh vực của cuộc sống con người. 

Chỉ có hy sinh, từ bỏ, rèn luyện, tu dưỡng con người chúng ta mới phát huy những khả năng tiềm ẩn trong mình và mới loại bỏ được những tính xấu có sẵn trong người. Vì thế việc Đức Giê-su đòi các môn đệ phải hy sinh từ bỏ, đi vào con đường hẹp của thập gía, của khổ chế là một đòi hỏi lành mạnh, đầy tính nhân bản. Cha ông ta thường dạy: "Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" : Có khổ luyện thì con người mới thành người !

Lý do có tính thần học và tư đức Ki-tô giáo: Ngoài lý do có tính nhân bản trên, còn có lý do có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo nữa. Lý do này quan trọng hơn lý do trước gấp triệu triệu lần. Chỉ có con đường khổ luyện mới là con đường giúp chúng ta trưởng thành về mặt tâm linh. Trong chúng ta có nhiều khuynh hướng xấu cần phải thay đổi. Lý do sâu xa nhất là khi chúng ta đi vào con đường thập gía là chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su Ki-tô. "Hai người yêu nhau thì nên giống nhau" 

Đó là qui luật tự nhiên và cũng là qui luật siêu nhiên. Trong lãnh vực thiêng liêng, nên giống Chúa Giê-su Ki-tô là chúng ta đạt tới sự thánh thiện Ki-tô giáo. Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy một số vị thánh ( như cha Pi-ô mới được phong thánh, như thánh Phan-xi-cô At-xi-di ) được in năm dấu thánh trên ngực và trên hai bàn tay hai bàn chân y như những vết thương của Chúa Giê-su khi Người bị đóng đinh và bị lưỡi đòng thâm lủng ngực trên thập gía xưa. Đó là dấu chứng của một Tình Yêu tuyệt đỉnh của Chúa Giê-su Ki-tô dành cho các vị ấy !

3. ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? 
Để hiểu và can đảm chấp nhận Con Đường Thập Giá mà Chúa Giê-su Ki-tô mời gọi, chúng ta phải thực hiện một số việc sau đây:

Trước hết chúng ta phải xác tín rằng chỉ có con đường hy sinh, từ bỏ mới đưa chúng ta đến cuộc sống tốt đẹp thực sự và trường tồn. 

Thứ đến là chúng ta phải ra sức rèn luyện, một cách kiên trì và liên tục. Không ai mới bước vào nghề mà đã thành thợ giỏi. Chúng ta cũng chỉ có thể đi vào con đường thập giá nếu mỗi ngày chúng ta bước một hai bước vào con đường ấy, bằng những hy sinh, từ bỏ tự nguyện.

Sau cùng là chúng ta phải cậy dựa vào sức mạnh của Chúa vì không có Ơn Chúa chúng ta sẽ không làm được gì và nếu có Ơn Chúa chúng ta sẽ làm được những việc vĩ đại, như chính Chúa Giê-su đã nói trong Phúc Âm. Muốn có Ơn Chúa thì mỗi ngày chúng ta phải nài xin Người. Xin Ơn gì thì không biết chúng ta có được Chúa ban hay không, chứ nếu chúng ta xin Ơn thấu hiểu ý nghĩa Thập Giá và Ơn đi vào con đường ấy, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta. Vì xin Ơn như thế là chúng ta xin Ơn nên giống Chúa mà cha mẹ nào mà lại không muốn con cái nên giống mình.

Lạy Chúa Giê-su, đọc Tin Mừng Mc 10, 46 - 52, chúng con thấy anh mù Bác-ti-mê ở Giê-ri-khô, sau khi được Chúa cho sáng mắt, đã đi theo Chúa trên con đường Chúa đi, tức đã đi theo Chúa trên con đường Chúa tiến về Giê-ru-sa-lem để bị bắt, bị tra tấn, bị kết án và bị giết trên thập giá. Xin Chúa ban cho chúng con Ơn Sáng Mắt, Sáng Lòng, Sáng Trí và Ơn Sức Mạnh để chúng con hiểu được bài học mà Chúa dạy chúng con hôm nay, để chúng con bước đi theo Chúa, trở thành môn đệ và chứng nhân của Chúa trong gia đình và Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Amen !

MẶT TRÁI CỦA TIN MỪNG CHÚA KITÔ
Mt 16, 21 – 27

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Tại Xêdarê Philípphê, ngay sau khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết “mặt trái của Tin mừng”- điều mà các ông không hề hay không muốn nghĩ đến, bởi nó đi ngược lại cách suy nghĩ thông thường của con người. Mặt trái của Tin mừng là gì nếu không phải là việc vinh quang nước Thiên Chúa chỉ được thiết lập trên thập giá thông qua khổ hình và cái chết của Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rõ chân lý nền tảng này hầu các ông hiểu rằng bước theo Thầy là bước theo thập giá, là vác lấy thập giá, là từ bỏ chính mình chứ không phải bước trên con đường thênh thang trải đầy hoa hồng, được lát gạch danh vọng, vinh hoa và phú quý…

Việc Chúa Giêsu cho các môn đệ biết hành trình lên Giêrusalem chịu khổ hình đánh dấu một giai đoạn mới trong sứ vụ của Người ở trần gian. Chắc hẳn từ sau khi Phêrô tuyên xưng niềm tin và được Chúa Giêsu đặt tên mới đồng thời được cất nhắc lên làm viên đá tảng có đủ quyền “cầm buộc và tháo cởi”, ông cũng như các môn đệ khác đang say đắm, đang ngụp lặn trong ánh hào quang quyền uy và danh vọng. Các ông nghĩ rằng đã đến lúc Thầy của mình “dấy binh khởi nghĩa”, thâu tóm quyền bính, đánh đuổi quân xâm lược, đem lại nền thái hoà thịnh trị cho dân tộc Israel. Và khi đó, dù không nói ra nhưng các ông biết là, các ông sẽ có đầy đủ vương quyền và vinh hoa phú quý để cùng với Thầy cai trị nước Israel vĩ đại. 

“Thầy phải lên Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Lời loan báo của Chúa Giêsu khác nào gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt đang rạng rỡ, đang ngập ánh hào quang của các môn đệ khi vừa mới đây thôi, câu nói của Thầy vẫn còn đó. Đây qủa là đại hoạ, các ông nghĩ thế. Bởi lên Giêrusalem khác nào đi vào chỗ chết vì nơi đó là kinh thành, là cơ quan đầu não của các kỳ mục, thượng tế và kinh sư - những người vốn chẳng ưa thích gì cách giáo huấn của Thầy mình. Cần phải can thiệp thôi trước khi quá muộn. Phêrô chắc bẩm rằng lời khuyên của mình đương nhiên là lời khuyên của kẻ “cầm buộc và tháo cởi” nên chắc cũng có trọng lượng trong lúc này. Vì thế ông dõng dạc lên tiếng, mượn danh Thiên Chúa để xin Thầy suy nghĩ lại, đừng để chuyện ấy xảy đến.

Chúng ta thấy, nếu câu nói đầu của Phêrô là lời tuyên xưng, là lời của Thần Khí thì câu nói sau lại là lời của loài người, lời cản trở và cám dỗ. Câu nói trước đưa Phêrô lên tột đỉnh vinh quang, còn câu nói sau đưa ông trở về đúng với thân phận của một người bước theo Thầy. Chúa Giêsu gọi Phêrô là Xatan, bởi lời can ngăn của ông gợi lại câu chuyện xảy ra trong hoang địa- nơi Chúa Giêsu bị Xatan cám dỗ để thờ lạy nó (x. Mt 4, 1-11). Xét cho cùng, tội Xatan cản lối của Phêrô cũng xuất phát từ tấm lòng nhiệt thành và lối suy nghĩ rất con người - một lối suy nghĩ xuất phát từ tính ích kỷ mang đậm nét của ý tưởng loài người và, vô hình trung, đó cũng là đường lối mà Xatan ưa thích để khuyên dụ con người.

Chúa Giêsu không chỉ khiển trách Phêrô, Người còn minh thị rõ ràng về điệu kiện cần phải có để theo Chúa. Theo đó, những ai muốn bước theo Chúa, cần phải từ bỏ chính mình và vác lấy thập giá. Chúng ta chú ý đến hai động từ “đi theo” và “vác”. Trước hết người môn đệ cần phải đi theo Chúa bởi nơi Chúa, họ mới tìm thấy một vị tôn sư đích thực- điều không hề tìm thấy nơi các vị kinh sư Dothái lúc bấy giờ; họ đi theo Chúa bởi chính Người đã chọn gọi họ để họ cộng tác với Người, làm chứng cho chân lý và cùng nhau xây dựng một trời mới đất mới. Thế nhưng đi theo kiểu như thế cũng chưa đủ mạnh, cần phải bỏ mình và “vác” thập giá của mình nữa. Vác thập giá là gì nếu không phải là từ bỏ cái tôi ích kỷ, những tư lợi nhỏ nhen thấp hèn để mặc lấy chiếc áo của sự công chính và tình yêu hầu có thể hiến thân phục vụ tha nhân cách vô vị lợi; Vác thập giá là gì nếu không phải là chấp nhận những sỉ nhục, những hiểu lầm, những mất mát hy sinh, những khốn khó của cuộc đời để cho danh Chúa được hiển vinh; và, cuối cùng, vác thập giá là gì nếu không phải là hướng đến cùng đích cuối cùng là sự sống hiển vinh, là cùng với Chúa Kytô sống lại trong vinh quang của Người.

Cùng đích của người Kytô chính là cuộc sống hạnh phúc trên nước Trời sau khi trải qua cuộc đời lữ thứ này. Chúng ta tạ ơn Chúa vì hôm nay, Chúa cho chúng ta biết được chìa khoá đích thực để mỗi người có thể tự mở lấy cánh cửa thiên đàng mai sau. Chìa khóa đó là chúng ta được Chúa kêu mời bước theo Chúa. Chìa khóa đó là từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mỗi ngày. Chìa khóa đó là “mặt trái của Tin mừng”- vinh quang của những người trung thành bước theo Chúa Kytô. Chìa khoá đó đang nằm trong tay chúng ta. Vấn đề là, chúng ta có biết cách để mở lối vào thiên quốc hay không…

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG
Mt 16, 21 – 27

Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Theo Chúa Giêsu, các môn đệ cứ tưởng họ sẽ được nhiều lợi lộc, nhiều đặc quyền đặc lợi. Do đó, đã có cuộc tranh luận gay gắt giữa các môn đệ về việc xem ai làm lớn, xem ai làm bé trong nội các của Chúa Giêsu. Cái trớ trêu của các môn đệ xem ra vẫn luẩn quẩn ở những việc thuộc về trần gian hơn là những việc thuộc Nước Trời. Phêrô đã nhanh nhảu tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống trong miền Xêsarê Philíp trước khi lên đường đi Giêrusalem. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đặt cho Phêrô một tên mới, tượng trưng cho sứ mạng quan trọng Chúa trao cho Ông:” Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Tuy nhiên, trước lời loan báo của Chúa Giêsu về cuộc thống khổ của Người phải chịu. Phêrô và các môn đệ không hiểu gì về ý định của Thiên Chúa. Ông đã cản ngăn Chúa. Phêrô chưa biết con đường thập giá sẽ đưa Ông và nhân loại tới sự sống vĩnh cửu…

MỘT CON ĐƯỜNG. MỘT SỨ MẠNG : Chúa Giêsu đã bất ngờ nói với các môn đệ về ý định của Thiên Chúa Cha sau khi Ngài khen Phêrô đã tuyên xưng đức tin:” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Kitô đã xác quyết với Phêrô:” Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”( Mt 16, 17 ). Phêrô đáng được Chúa khen. Tuy nhiên đứng trước lời loan báo về cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu phải chịu theo ý của Thiên Chúa Cha. Phêrô và các môn đệ chưa làm sao hiểu nổi, chưa có thể chấp nhận, chưa cảm nghiệm được. Do đó, Phêrô cương quyết cản ngăn Chúa bằng lời dân dã, tự phát:” Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy phải chuyện ấy ! “( Mt 16, 22 ). Phêrô và các môn đệ nào có hiểu thế nào là con đường Thầy mình phải đi. Con đường ấy là con đường dẫn tới đồi Canvê, con đường thập giá:” Chúa phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.Đây là sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu: một sứ mạng tình yêu, sứ mạng cứu độ thế gian mà Chúa Cha trao phó cho Ngài. Chúa Giêsu phải thực hiện sứ mạng ấy ngang qua thập giá. Chỉ nơi thập giá mới có ơn cứu rỗi, chỉ nơi thập giá Chúa mới qui tụ toàn thể nhân loại lại với Ngài. Chúa vạch ra con đường. Chúa thực hiện một sứ mạng cao cả nhất của Thiên Chúa Cha. Chúa chỉ thực hiện được sứ mạng ấy qua thập giá. Chúa mời gọi Phêrô và các môn đệ cũng hãy vác thập giá để đi theo Người…

CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ MỌI NGƯỜI ĐI THEO NGƯỜI: Phêrô can ngăn Chúa, Phêrô trách cứ Chúa. Đối lại Chúa nghiêm khắc khiển trách Phêrô. Sở dĩ Chúa Giêsu có thái độ nghiêm nghị, cương quyết như thế đối với Phêrô vì Phêrô bỗng trở thành người cản đường Chúa. Phêrô gợi ý cho Chúa một con đường theo ý của Ông, theo ý người đời, chứ không phải theo ý Thiên Chúa. Việc Phêrô cản đường Chúa làm chúng ta liên tưởng đến một Đấng cứu thế như kiểu người Do Thái mong đợi. Họ mong một Đấng cứu thế bách chiến bách thắng, đánh Đông dẹp Bắc, một Đấng Messia làm toàn những chuyện phi thường, những cuộc phô trương lực lượng.

Chúa Giêsu lại là một con người hoàn toàn khác với người ta tưởng, một vị Vua khiêm nhượng, hiền từ cưỡi trên mình lừa.Giờ đây Phêrô làm sống lại điều những người Do Thái mong chờ, Phêrô làm sống lại sự hiện diện của Satan, nhưng Chúa đã hoàn toàn thắng Satan như Chúa đã thắng sự cô đơn ở vườn cây dầu giữa lúc các môn đệ trung tín đều ngủ và đám đông đều lánh xa Người. Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả và thập giá là cái giá Chúa Giêsu phải trả để cứu độ nhân loại. Do đó, tất cả những ai muốn làm môn đệ của Chúa đều phải vác thập giá mà theo Người. Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một mẫu mực. Người không cắt nghĩa về cội nguồn của khổ đau, nhưng Người đã đón nhận khổ đau và biến đau khổ thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá đã được Chúa biến thành biểu tượng của tình yêu. Đi theo Chúa là phải từ bỏ, vác thập giá của mình mà theo Người. Điều Chúa đòi hỏi Phêrô:” Chúa cũng đòi hỏi các môn đệ và nhân loại phải làm như vậy “. Chúa Giêsu quả quyết với các môn đệ và mọi người rằng:” Không có con đường nào khác để nhận ơn cứu độ ngoài thập giá của Người “ và ” cũng không có con đường nào dẫn tới sự sống ngoài con đường thập giá của Đức Kitô “.

Xin cho lời Chúa và sức sống của Chúa giúp chúng ta can đảm vượt thắng mọi sự mà theo chân Chúa Giêsu.

TIỀN CỦA
Mt 16, 21 – 27

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn : “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này ? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại Niu-Gioóc, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội phạm tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình. 

Bức tranh trên đây không hẳn là số phận tất yếu cho sự giàu có nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tiền bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn, trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho cuộc đời, nghĩa là chúng ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, một lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở : “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ?”, hoặc “Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích gì ?”. Qua những lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm lại, hãy dùng tiền của và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống hiện tại mà cho cả linh hồn và cuộc sống mai sau nữa.

Đối với sự vật, người ta có thể nhìn bằng hai cách khác nhau : người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thỏa mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa. Trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người. 

Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt họ vào. Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá hủy giá trị và ý nghĩa của chúng, đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình. Thực vậy, vì tiền bạc, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác; vì tiền bạc, người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. 

Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm tiền bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những người anh em túng nghèo khốn khổ hơn. 

Được lợi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn thì ích gì ?”. Chúng ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó : không bao giờ được quên mối tương quan giữa của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao giờ được quên mới tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau : sẵn sàng hy sinh của cải vật chất để bảo đảm linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược lại : sẵn sàng hy sinh đời này chứ không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cữu. Chúa không cấm chúng ta làm giàu, không cấm chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, bằng một cuộc sống quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là cách đầu tư bảo đảm cho gia nghiệp đời mình mai sau.

TỪ BỎ MÌNH
Mt 16, 21 – 27

Sr Mai An Linh, OP

Đây là chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 22 năm A này. Bài đọc I Tiên tri Giêrêmia đã thốt lên: “ lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày” (Jer.20,7-9). Sứ mạng Ngôn Sứ của ông là một Thập giá vì ông bị người ta chống đối, lên án nhiều lần và còn bị người ta âm mưu sát hại. Thế nhưng ông vẫn luôn kiên trì với sứ mạng vì “ Chúa đã khuyến dụ được con”(c.7). Sang bài đọc II Thánh Phaolô cũng mời gọi Tín Hữu Rôma “ Hãy hiến thân mình làm của lễ sống động” (Rm.12,1-2), của lễ đẹp lòng Chúa nhất chính là bản thân mình, đồng nghĩa với lời khuyến dụ của Chúa Giêsu “ Hãy từ bỏ mình và vác Thập Gía mình mà theo Ta”(Mt.16,21-27).

Vậy từ bỏ mình và vác Thập Giá theo Chúa là những điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ Chúa. Từ bỏ tự nó đã là một qui luật và cần thiết : Muốn mặc áo mới phải bỏ áo cũ, muốn đến nơi kia phải bỏ nơi này, muốn hóan cải thành người tốt phải bỏ những gì xấu xa…Sự từ bỏ là điều thiết thân với cuộc sống, nên muốn làm môn đệ Chúa Ngài cũng ra điều kiện, mà điều kiện tiên quyết là từ bỏ.

Chúng ta từ bỏ cha mẹ, người thân, từ bỏ tài sản và quê hương xứ sở để làm môn đệ Chúa, điều đó tốt và hẳn nhiên, mặc dù những từ bỏ ấy cũng làm cho chúng ta đau sót vì phải chia lìa những gì đã gắn kết với chúng ta nhiều năm. Sự từ bỏ ấy qủa là anh hùng và đáng thưởng như Chúa Giêsu đã trả lời cho Phêrô khi ông hỏi : “ Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì?” Chúa Giêsu nói: “ Chúng con sẽ được cai trị 12 chi tộc Israel”(Mt.19,28). Thế nhưng điều quan trọng là phải từ bỏ mình vì từ bỏ mọi thứ mà không từ bỏ mình thì kể như không từ bỏ gì cả.

Thật vậy, khi từ bỏ mọi sự mà không từ bỏ mình thì chúng ta sẽ từ từ lấy lại tất cả những gì chúng ta từ bỏ. Chỉ khi cái phần “mình” được bỏ đi, lúc ấy cái phần “Chúa” mới lấp đầy. Càng từ bỏ phần mình bao nhiêu thì phần Chúa càng gia tăng bấy nhiêu. Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Chúa từ bỏ mình hòan tòan để trở nên một Kitô khác như lời Thánh Phaolô nói: “ Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Từ bỏ mình tức là khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân và từ bỏ mọi thói hư tật xấu.

Từ bỏ mình còn mang ý nghĩa là vác Thập Giá mình, là hòan tòan vâng phục Thánh Ý Chúa trong mọi sự, là chấp nhận đồng số phận tôi tớ với Thầy trong cuộc sống và cái chết. Lời mời gọi này đòi hỏi người môn đệ Chúa một đàng phải liên tục và kiên nhẫn thanh tẩy đời sống và thánh hóa bản thân, đàng khác phải mỗi ngày mỗi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn.

Từ bỏ mình vác Thập giá theo Chúa là đi con đường của Chúa, con đường hiến thân phục vụ, đó là con đường của tình yêu, cho đi chính mình, sự hiến thân mang ý nghĩa tự nguyện như Đức Kitô, vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, hiến thân làm của lễ đền tội. Trong ý nghĩa này người môn đệ cũng dám liều mạng sống vì Chúa và vì anh em. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói: “ yêu là trao ban chính mình”. Trái tim chúng ta được tạo nên để mở ra, để yêu thương, nhưng nên nhớ rằng chúng ta không thể yêu thương nếu chúng ta không trao ban chính mình.

Con đường Thập Giá của Đức Kitô đã trở thành cửa ngõ dẫn vào cuộc sống sung mãn nên Ngài mời gọi chúng ta “ Ai liều mạng sống mình Thầy sẽ tìm lại được nó”(Mt.16,25). Như người ta kể rằng : Có hai người đi trong sa mạc tuyết, họ phải dựa vào nhau mà đi để tìm hơi ấm kẻo bị chết cóng. Đang đi trong giá lạnh, siêu vẹo thì cả hai đều nghe tiếng rên khe khẽ đâu đây…thì ra một người bị rét cóng quị xuống không lê gót được nữa, nằm chờ chết. Người này bàn với người kia : “ chúng ta khiêng anh cùng đi” nhưng người kia nói : “ Mình cũng sắp chết đến nơi rồi mà còn đòi giúp ai, hãy đi mau cho kịp qua sa mạc này” và người đó cứ đi còn người kia được thúc đẩy bởi tình yêu đồng lọai, anh đến vực người đó lên vai và đi, đi trong sương tuyết. Nhưng nhờ vác anh ta mà hơi ấm của anh lan tỏa vào mình, và vì phải dùng sức mạnh nên sức nóng tóat ra, anh đã vác người gặp nạn khỏi sa mạc tuyết, cả hai cùng sống, còn người kia vì không chịu nổi cái lạnh giáđã nằm chết cóng tự bao giờ.

Lạy Chúa, chúng con là những người tình nguyện sống theo Chúa, xin giúp chúng con luôn hướng lên Chúa như động lực thúc đẩy chúng con vượt thắng bản thân và mọi thử thách trong đời sống Kitô hữu, dám chấp nhận đánh đổi mọi sự dù là cả bản thân để được chính Chúa. Như thế chúng con mới có thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ
Mt 16, 21 – 27
Lm Trần Thanh Sơn

Có lẽ không mấy ai trong chúng ta thích nói đến thập giá, và nếu có nói đến thì cũng là để than thở: “Sao mà thập giá của tôi nặng nề thế!”. Vâng, thập giá quả là đáng sợ. Hình phạt thập giá là một khổ hình nặng nề và ô nhục nhất dành cho các phạm nhân thời Chúa Giêsu. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corinthô cũng đã nói, thập giá chính là: “cớ vấp phạm cho người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cr 1, 23), nhưng thánh nhân cũng đã xác tín: “Lời giảng Thập giá, đối với những kẻ đang hư đi, là một sự điên rồ; còn đối với chúng ta, những người đang ở trên đường cứu thoát, lại là quyền năng của Thiên Chúa.” (1 Cr 1, 18). Và hôm nay, Đức Giêsu lại khẳng định: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Điều đó, cho thấy, nếu muốn trở thành người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, chúng ta không thể đi con đường nào khác hơn con đường thập giá, con đường mà Đức Giêsu, vị Thầy của chúng ta đã đi.

Do đó, trong giờ chia sẻ hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em tìm hiểu đôi nét về con đường thập giá của Đức Kitô.

1. CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ CỦA ĐỨC GIÊSU : 
Ngay sau lời tuyên tín của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà chúng ta vừa nghe trong tuần vừa qua. Hôm nay, Tin mừng tiếp tục thuật lại lời Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài. Khi loan báo điều này, Đức Giêsu muốn đánh tan ảo tưởng cũng như những suy nghĩ sai lạc của các tông đồ về sứ mạng của Ngài. Ngài đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, chứ không là một Messia Quân Vương giải thoát dân Israel về mặt chính trị. 

Và để làm điều đó, Ngài phải đi con đường thập giá. Đó là con đường của sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha cho dù phải chịu đau khổ, sỉ nhục. Ngài nhắc nhở Phêrô: “Con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Tuy nhiên, thập giá không là cùng đích của Chúa Giêsu, nghĩa là Đức Giêsu không tìm đến cái chết, nhưng là ngang qua cái chết để đạt đến một sự sống mới trong Thiên Chúa như lời Ngài quả quyết: “ngày thứ ba thì sống lại”. Chính nhờ tình yêu mến nồng nàn, lòng vâng phục tuyệt đối, cùng với sự khiêm hạ thẳm sâu, Đức Giêsu đã biến thập giá, một công cụ của hình phạt trở thành Thánh giá, một biểu tượng của ơn cứu độ.

Như thế, con đường thập giá, một con đường xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường đưa tới sự sống vĩnh cửu. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta cùng đi vào con đường này để nhận được sự sống đó.

2. LỜI MỜI GỌI ĐI CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ CỦA CHÚA GIÊSU :
Sau khi đã cho Phêrô thấy rõ ý tưởng của ông chẳng phải là ý tưởng của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã lên tiếng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Mời gọi chúng ta theo Ngài, Đức Giêsu đã không hứa cho chúng ta giàu sang phú quý, hay danh vọng, nhưng là mời gọi “vác thập giá mà theo Thầy”. Một lời mời gọi xem ra chẳng thích hợp chút nào với con người thực dụng hôm nay, nhưng lại là một chân lý vĩnh cửu.

Thật vậy, con đường thập giá là con đường ô nhục, khờ dại trước mắt người đời. Hay nói theo cách nói của con người hôm nay, đó là con đường của những người không “cù lần”, thì cũng “man man”. Bước đi theo con đường thập giá là chấp nhận việc đi ngược với mọi lề thói suy nghĩ của mọi người. Vì thế, người môn đệ của Chúa đôi khi cảm thấy thật lẻ loi, cô đơn. Ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc một đã cảm nghiệm thật sâu sắc điều này khi ông nói: “Suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi... Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày.”. Dưới áp lực của cuộc sống, và sức nặng của thập giá, người môn đệ cũng có lúc chao đảo như muốn buông xuôi tất cả. Trong đời sống của mình, chắc cũng có lần chúng ta có cùng tâm sự với ngôn sứ Giêrêmia: “Tôi đã nói rằng: “Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa”. 

Quả thật, với sức riêng mình, chúng ta không thể vác nổi thập giá. Thế nhưng, với ơn Chúa, chúng ta sẽ có thể đi trọn con đường thập giá như lời tạ ơn của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Chúa đã ra tay trợ phù tôi, để tôi được hoan hỷ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn tôi bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người tôi” (Tv 62, 8-9).

Ngày hôm nay, có lẽ không ai trong chúng ta phải đưa vai ra vác một khúc gỗ thập giá, nhưng Thập giá của chúng ta hôm nay, chính là việc bổn phận hàng ngày. Khi chúng ta chấp nhận người khác làm phiền, làm mất giờ của chúng ta, những khi chúng ta bị hiểu lầm, chống đối…Thập giá đó còn là gánh nặng trong đời sống gia đình: thập giá có thể là một người chồng say sưa, là một người vợ lắm điều, là đứa con khó dạy. Thập giá cũng còn là công việc làm ăn thất bại thua lỗ. Thập giá đó còn là việc rớt một kỳ thi, là trắc trở trong đường tình duyên… và còn nhiều, nhiều nữa. Nhưng trong hết mọi sự, chúng ta hãy kiên trì phó thác cho Chúa, bởi vì Ngài đã hứa: “Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm” (Mt 16, 27). Đồng thời, chúng ta cũng hãy vác đỡ thập giá cho nhau bằng sự cảm thông, nâng đỡ trong cuộc sống hàng ngày.

Đức Giêsu đã đi con đường thập giá và đã trở nên hiến tế đẹp lòng Chúa Cha, đồng thời đem lại ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Do đó, khi đi con đường thập giá của mình chính là lúc chúng ta theo chân Đức Kitô, hiến thân mình làm của lễ dâng lên Thiên Chúa như lời thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1a). Không những thế, thánh nhân còn khẳng định: “Đó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm.”(Rm 12, 1b).

KẾT :
Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo theo Thầy
Kính thưa quý OBACE. lời mời gọi này của Chúa Giêsu không chỉ được gởi đến cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm, nhưng còn là một lời mời gọi được gởi đến cho từng người chúng ta, đang hiện diện nơi đây. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi từng người chúng ta vác thập giá mình mà theo Chúa. Ý thức sự giới hạn và yếu đuối của mình, giờ đây hướng về Thánh Thể, chúng ta xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta có đủ can đảm gánh lấy thập giá đời mình, bằng cách chu toàn những việc bổn phận hàng ngày. Ngõ hầu, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta cũng được sống lại vinh quang với Chúa trong Nước của Ngài. Amen.

VINH QUANG PHẢI QUA ĐAU KHỔ
Mt 16, 21 – 27
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta gặp rất nhiều chương, nhiều đoạn nói lên cái nghịch lý của cuộc đời, của con người hay nói cách khác gợi cho con người thấy trước những nghịch cảnh mà họ phải đương đầu. Đặc biệt người môn đệ Chúa phải chấp nhận những điều kiện một cách hoàn toàn tự do, tự nguyện để theo chân Đức Kitô. Tin Mừng Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ lần thứ nhất rằng Ngài phải chịu đau khổ, chịu chết và nêu lên những điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài:” Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy “ ( Mt 16, 21).

CHÚA GIÊSU LOAN BÁO SỰ KHỔ NẠN VÀ CÁI CHẾT CỦA NGÀI :
Đoạn Tin Mừng Mt 16, 21-27 được viết ngay sau việc Chúa Giêsu đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội. Chúa khen ngợi Phêrô vì lời tuyên tín của Phêrô :” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “ ( Mt 16, 16 ). Lời tuyên xưng của Phêrô do Chúa Cha từ trên mạc khải. Tuyên xưng của Phêrô : Đức Kitô là Đấng Mêsia, Đấng cứu thế, Đấng giải thoát con người, loài người khỏi tội lỗi. Ngay sau lời tuyên tín của Phêrô và Chúa đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội. Chúa loan báo cho các môn đệ về sự đau khổ, về cái chết và sự sống lại của Người. Đây là khúc ngoặt của đời sống của Chúa Giêsu, khúc quanh của đời sống rao giảng của Người. Từ nay, Chúa sẽ dành nhiều thời giờ cho các môn đệ. Bởi vì, các môn đệ đã tuyên xưng : “ Người là Đức Kitô nghĩa là Đấng cứu chuộc, Đấng muôn dân hằng trông đợi, Người là Con Thiên Chúa”. Chính vì thế, Chúa phải làm cho các môn đệ hiểu được, Người phải chu toàn sứ mạng Thiên Chúa Cha trao phó qua cái chết trên thập giá của Người. Thế nhưng, Tin Mừng lại cho chúng ta thấy sau cuộc loan báo của Chúa Giêsu về sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Người, các môn đệ chẳng hiểu gì cả đến nỗi Phêrô can gián Người :” Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy phải chuyện ấy ! “ ( Mt 16,22 ). Qủa thực, ngay cả Phêrô còn chưa hiểu nổi con đường của Chúa phải đi, huống hồ các môn đệ khác làm sao có thể hiểu con đường thập giá của Chúa được. Và, ngay sau khi loan báo cuộc khổ hình của Chúa, Chúa Giêsu lại cho các môn đệ biết chính các ông cũng phải đi con đường thập giá như Người. Chúa đã dọn trước, đã nói trước cho các môn đệ về sứ mạng của Chúa và cũng loan báo con đường các môn đệ phải trải qua như Chúa để các môn đệ đỡ bị vấp phạm, đỡ sa ngã. 

ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA :
“ Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 ). Lời tuyên bố của Chúa Giêsu là điều kiên cho người môn đệ muốn đi theo Chúa. Đây là một đòi hỏi hoàn toàn tự do, tự nguyện và do ý chí của mỗi người. Chúa không ép ai, không cưỡng ai đi theo Người. Chúa để cho con người hoàn toàn tự do chọn lựa con đường theo Chúa và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình. Nếu đã lựa chọn đi theo Chúa, thì phải chấp nhận điều kiện Chúa đề ra :” Ai muốn theo Thầy, thì phải chấp nhận từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Thầy “. Ở đây, Chúa muốn dạy cho các môn đệ và mọi người thấy rõ hơn những gì họ tin và phải trả giá bằng sự từ bỏ, vác thập giá và hy sinh ngay cả mạng sống. Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải đi vào con đường của Chúa đã đi. Con đường của Chúa là con đường từ bỏ mình và vác thập giá. Từ bỏ mình là từ bỏ con người yếu hèn, tội lỗi, ích kỷ, tỵ hiềm, ti tiện, nhỏ nhen, hẹp hòi, sai trái của mình, từ bỏ hết những gì con người muốn mà Chúa không muốn để tất cả dành cho một mình Chúa. Còn vác thập giá mình là chấp nhận và chịu đựng tất cả các đau khổ thể xác cũng như tinh thần của đời sống làm người của mình. Đau khổ thì ai cũng có.Đau khổ không chừa ai, ai cũng phải vác đau khổ của mình để chịu đựng, để vượt thắng. Chúa không bảo người môn đệ Chúa và những người theo Chúa phải đi tìm thập giá để vác vì làm thể đạo Kitô giáo sẽ trở thành bệnh họan, con người tự đầy đọa mình. Chúa bảo mỗi người hãy vác thập giá của mình. Chúa không bao giờ đặt trên vai ai thập giá nặng hơn đôi vai của họ.

THEO CHÚA ĐƯỢC GÌ ? : 
Chúa Giêsu dạy :” Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thây, thì sẽ tìm được mạng sống ấy “( Mt 16, 25 ). Thực tế, người môn đệ của Chúa phải liều mất đi những của cải, vật chất, danh vọng, những cái phù vân, mau qua ở đời để được lại sự sống đời đời. Các tông đồ, các môn đệ đã bỏ nhà cửa, vợ con, bỏ tất cả mọi sự để đi theo Chúa nên đã được gấp trăm ở đời này và đời sau. Các thánh tử đạo đã bỏ mạng sống ngắn ngủi ở đời này để được sống vĩnh cửu bên Chúa. Nhiều vị thánh đã bỏ mọi sự, đã chấp nhận cuộc sống khó nghèo để được lại tất cả sự giầu sang là được Nước Trời. Người Kitô hữu chấp nhận sự thiệt thòi khi không thỏa hiệp với sự dữ, khi không sống dễ dãi để được quyền lợi thế gian, họ sẽ được cái cao quí gấp bội là được Chúa hứa ban sự sống đời đời và được Chúa làm gia nghiệp.

ÁP DỤNG THỰC TẾ : 
Khi đi làm mục vụ cho người Dân tộc thiểu số Kơho, tôi đã học được nhiều bài học thực tế để đời bởi vì có những người Dân tộc rất nghèo nhưng họ chấp nhận cuộc đời không tham lam, không lấy của người để sống mà hoàn toàn làm việc vất vả để sống qua ngày. Tôi đã gặp nhiều gia đình dù nghèo nhưng không muốn sống dễ dãi, thỏa hiệp để kiếm lợi nhuận bất chính.Tôi đã phát kẹo cho các em Dân tộc, mỗi em hai cái kẹo đồng đều, các em không tham lam xin thêm hoặc lấy hơn hai cái đã chia. Đó là hình ảnh thật đáng quí, đáng suy nghĩ cho những người làm môn đệ Chúa và đang làm mục vụ, làm việc truyền giáo cho anh chị em Dân tộc.

HIẾN MÌNH VÌ NGƯỜI MÌNH YÊU!
Mt 16, 21 – 27

Anmai, CSsR

Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại thấy nó làm sao ấy ? Đang vui vẻ với nhau vậy mà Thầy lại nói đến cái chuyện chết chóc rồi đến thập giá rồi đến chuyện vác thập giá rồi thêm nữa là thiệt mạng. 

Thật ra, chẳng ai muốn nghe chuyện chết chóc và nhất các môn đệ nghe thầy mình báo trước một cái điềm “gỡ” mà chẳng ai mong đó là thầy mình phải chết trong đau khổ do các kỳ mục và thượng tế. Bởi vậy, Phêrô do yêu Thầy quá nên kéo Thầy riêng ra một bên và thỏ thẻ với Thầy : “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy phải chết như vậy ! Chúng con, những môn đệ của Thầy không thích và không muốn Thầy phải chết như thế đâu ?”. Nếu như chúng ta có mặt ở đó với Thầy Giêsu, chúng ta cũng sẽ làm như ông Phêrô vậy nhưng quê quá ! Sau khi nói thế, tưởng Thầy sẽ khen nhưng ngược lại, Thầy đã mắng Phêrô. Sau khi mắng xong, Thầy lại nói thêm về chuyện vác thập giá. Thử hỏi ai trong chúng ta - những môn đệ của Chúa – mong vác thập giá không ? Chưa dừng lại ở chỗ đó, Chúa Giêsu còn đòi hỏi mỗi người chúng ta, như các môn đệ phải đi thêm một bước nữa là phải hiến mạng sống mình. Phải nói thật với nhau rằng lời này nghe sao mà “chói” tai thế ? Thế nhưng, chính khi sống những lời “chói” tai ấy mới đích thực là môn đệ của Chúa và được hưởng nước Trời như Chúa hứa.

Chúa Giêsu rất thẳng thắng : một là một, hai là hai chứ không lập lững trong lập trường về Nước Trời. Chúng ta còn nhớ : nào là không được làm tôi hai chủ, nào là thà cụt một tay một chân mà được vào Nước Trời và hôm nay Chúa mời gọi môn đệ của Chúa đi đến mức đỉnh điểm : Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ?

Nhìn lại cuộc đời, nhiều lúc chúng ta lại bé cái lầm, chúng ta lại cứ muốn vun vén cho mình nhiều quá để rồi đánh mất đi cái điều căn cốt của cuộc đời. Chưa nói đến cái cùng đích của cuộc đời, chưa nói đến cái Nước Trời mai hậu, chỉ cần nhìn lại cái thực tại của cuộc sống ngày hôm nay chúng ta sẽ thấy được chúng ta là ai ? Chúng ta sống như thế nào với anh chị em đồng loại ?

Đời sống gia đình : là cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, ngày hôm nay chúng ta có thật lòng sống để hiến mạng sống mình cho gia đình nho nhỏ của chúng ta hay không ? Chúng ta có dám dẹp bỏ cái tự ái, cái tôi của chúng ta để chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình hay không ? Hay là chúng ta cứ khư khư giữ lấy cái ích kỷ của chúng ta để chúng ta phá vỡ hạnh phúc gia đình, phá vỡ hạnh phúc của “nước trời” trong trần gian này ?

Ngày hôm nay, đời sống gia đình đã đánh mất đi cái nền tảng của nó là đơn hôn và vĩnh hôn. Vì sao ? Vì lẽ mạnh chồng chồng sống, mạnh vợ vợ sống, không còn ai dám hiến mình cho nhau nữa. Cái ngày mà họ đưa ra nhà thờ cam kết, tuyên bố và thề hứa sao mà hay quá : “…Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương anh (em) suốt đời em (anh)” nhưng thử hỏi còn bao nhiêu gia đình sống đúng cái lời mà mình tuyên hứa trước mặt Chúa qua sự chứng kiến của Hội Thánh ? Chủ nghĩa mackeno (mặc kệ nó) ăn sâu vào mỗi người để rồi chẳng còn ai dám hiến mình cho ai nữa.

Một gia đình nọ về đời sống kinh tế khá vững vàng, đời sống danh vọng tạm gọi là có tiếng và nhìn bên ngoài có vẻ đạo đức lắm vì vẫn còn trong vòng lễ giáo của cha mẹ hai bên, vẫn còn tham gia ban hát, ca đoàn nhưng bên dưới của nó đang dần dần rạn nứt và có thể đi đến chuyện ly hôn bất cứ lúc nào. Nguyên nhân ? Nguyên nhân là vì hai vợ chồng chẳng còn ai sống cho nhau nữa, không còn hiến mình cho nhau nữa. Chồng đổ cho vợ, vợ đổ cho chồng. Chồng đổ cho vợ là suốt ngày chỉ ham đi kiếm tiền, cắm cúi đi kiếm tiền còn chồng thì đổ cho vợ là không lo cho gia đình, không lo cho vợ cho con. Xét ra thì ai cũng có cái lý cả, ai cũng cho mình là đúng cả nhưng thực tế thì vấn đề của gia đình này quá căng thẳng vì họ không biết hiến mình cho nhau. Đi sâu hơn một chút : họ không hiến mình cho con cái theo đúng nghĩa của nó. Đành biết đồng tiền rất cần cho cuộc sống nhưng đâu phải có tiền là có tất cả để rồi người vợ cứ cắm cúi đi tìm tiền mà không lo cho hạnh phúc gia đình. Lẽ ra hai vợ chồng phải tạm gọi là “dừng lại cuộc chơi” tìm tiền để mà lo cho hạnh phúc gia đình, lo hiến mình cho gia đình của mình. Không phải chị không biết hậu quả của việc lao đầu vào kiếm tiền, không phải anh không biết hậu quả của việc sống thờ ơ với việc bổn phận gia đình nhưng hình như hai người đã không tìm được tiếng nói chung : tiếng nói của sự hiến dâng cho nhau thật sự.

Nhìn vào hai đứa trẻ của gia đình ấy, tôi thật sự e ngại. Nếu như cha mẹ chúng không thay đổi lối sống, không thay đổi lập trường thì tương lai của chúng không biết sẽ đi về đâu khi cha mẹ chúng chia ly ?

Đời sống tu cũng thế, người ta không còn biết sống hiến mình cho nhau nữa. Không phải là nhiều, không phải đi tu ai cũng thế nhưng có vài trường hợp đáng tiếc đã xảy đến. Một vị nữ tu tuổi đời mới ngoài ba mươi, được lợi thế hơn các “sơ già” một chút là được ăn được học và được học cái ngành “thầy cãi” nữa nên cãi lý rất hay. Chuyện đáng tiếc đã xảy đến đó là khi nghe “tin hành lang” là vị nữ tu ấy sẽ thay thế vị trí của vị bề trên đương nhiệm để rồi từ đó cách hành xử của vị nữ tu trẻ chẳng ra làm sao cả. Chịu không thấu, vị phụ trách đã trình bày với vị hữu trách và cuối cùng hậu quả vị nữ tu trẻ ấy phải rời cộng đoàn để về nhà Mẹ của Tỉnh Dòng !

Chắc có lẽ vị nữ tu ấy đã quên đi lời khấn hứa trong ngày khấn dòng, lời khấn hứa vâng phục bề trên, lời hứa sẽ cộng tác với chị em để phục vụ, để hiến mình cho người nghèo. Chính vì đánh mất tâm tình dâng hiến nên mới có trục trặt, có đổ vỡ trong cộng đoàn.

Bên cạnh những người quên đi việc hiến mình cho anh chị em đồng loại, cho chồng, cho vợ cho con trong gia đình chúng ta vẫn gặp đâu đó những hình ảnh đẹp chứ không phải là ai ai cũng ích kỷ cả ! Trận động đất xảy ra cách đây hơn chục năm ở ácmênia thuộc Liên Xô cũ chắc chúng ta còn nhớ, sau trận động đất tan thương đấy người ta lại phát hiện ra tình mẫu tử thật tuyệt vời. Dưới đống gạch vụn đổ nát bi thương của một toà nhà bị sập, người ta nghe được tiếng của một đứa trẻ oe oe khóc. Gỡ đống gạch vụn đó lên người ta thấy được một đứa bé đang ngậm tay mẹ của nó, nó đang mút từng giọt máu từ ngón tay của mẹ nó. Hoá ra là trước khi chết, mẹ nó đã khứa tay của mình vào mảnh chai để cho con mình bú những giọt máu từ tay của mình. Chính những giọt máu ấy đã cứu đứa bé sống sót cho đến lúc đội cứu hộ tìm thấy cháu. Một kỳ tích của tình người, một thiên tình sử của tấm lòng mẹ con.

Với tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ai ai cũng biết về Cha Thánh Lập Dòng của mình. Cha Thánh Anphongsô đã phải nhục nhã, cay đắng bị trục xuất ra khỏi tu viện mà chính mình sáng lập vì bị hiểu lầm, bị chà đạp. Ngài đã sống tâm tình “Hiến mình cho ơn cứu độ” một cách viên mãn. Vì Chúa, vì Nhà Dòng, vì anh em, Ngài đã hiến mạng sống mình cho đến chết. 

Hiến mình cho Chúa, hiến mình cho ơn cứu độ, hiến mình cho nhau là cử chỉ rất đẹp, cử chỉ tuyệt vời nhất mà con người dành cho Chúa, cho anh chị em đồng loại. Cử chỉ đó được Thánh Phaolô nhắc cộng đoàn Rôma cũng như nhắc mỗi người chúng ta : “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1a). Ngài còn kết luận một cách xác tín : Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người (Rm 1,1b). Hoá ra là cách thờ phượng xứng hợp mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đó là hiến dâng thân mình chúng ta cho Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa gần nhất đó là Thiên Chúa đang hiện diện nơi anh chị em đồng loại của mình.

Ngài quả quyết với chúng ta rằng : vì Thiên Chúa thương xót chúng ta. Nếu chúng ta thấy Thiên Chúa thương xót chúng ta thì chúng ta mới có thể hiến dâng cho Chúa cũng như cho anh chị em đồng loại được. Ngài còn nhắc chúng ta rằng : Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình (2 Cr 5,15).

Vấn đề còn lại là của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta cảm nhận, chúng ta xác tín rằng Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, chết vì tội lỗi chúng ta và chết để đền bù tội lỗi chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống cho chính mình nhưng chúng ta sẽ sống lại cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. Đấng đó đang ở đâu ? Xin thưa : Đấng đó ở ngay trong gia đình bạn, Đấng ấy hiện diện ngay trong chính con người của vợ, của chồng, của con của bạn và Đấng đó đang ở trong cộng đoàn tu trì của bạn, là anh chị em cùng lớp, là anh chị em cùng trong Tu Viện, trong cộng đoàn của bạn.

Thử nhìn lại đời sống của chúng ta, chúng ta có hiến mình vì anh chị em đồng loại hay chúng ta lại bắt anh chị em đồng loại hiến mình vì chúng ta ?

THẬP GIÁ: CON ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI
Mt 16, 21 – 27

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẩm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là : “ Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16,-,24 ).

“Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc”. Giáo lý Hội Thánh Công giáo mở đầu bằng chân lý này và cũng là câu trả lời cho vấn nạn muôn thưở rằng ta sống ở đời này để làm gì. Kitô hữu vốn nằm lòng câu giáo lý của một thời : Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời. Như thế hạnh phúc đời đời hay sự sống vĩnh phúc chính là mục đích tối hậu của đời người. Khi sinh thời, để trả lời cho một chàng thanh niên đạo hạnh vốn đã giữ các giới răn từ thưở bé, muốn có sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói rằng hãy về bán tất cả của cải, phân phát cho kẻ khó, rồi đến mà theo Người. ( x. Mt 19,16-22 ). Thế thì ta có thể khẳng định rằng theo Chúa Kitô là cách thế để có hạnh phúc vĩnh cửu. Hay nói ngược lại, muốn có hạnh phúc vĩnh cửu là phải theo Chúa Kitô. Và muốn theo Chúa Kitô là phải vác thập giá mình.

Theo Chúa Kitô là theo Con Đường Sự Thật, Sự Sống, và Tình Yêu. Nguyên chỉ với những thiện hảo chóng qua đời này cũng đòi hỏi phải trả giá. Tomas Edison, ông tổ phát minh bóng đèn điện đã khẳng định một tất yếu của cuộc sống : một lần thành công là kết quả của chín mươi chín lần thất bại. Để trung thành với sự thật và công bố sự thật, ngôn sứ Giêrêmia đã phải hứng chịu bao truân chuyên, khốn khó, và có khi, tưởng như sẽ bị mạng vong. Số phận các sứ ngôn khác và những người công chính cũng chẳng hơn gì ( x. Mt 23,29-32 ). Để làm phát triển sự sống với hoa trái tốt xinh thì trước đó hạt giống phải chịu cảnh thối rửa đi ( x.Ga 12,24 ). Để thực sự là yêu trong sự phục vụ người mình yêu đến cùng thì tất yếu phải bỏ mình, hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Những gì phải trả ở trên, đó chính là thập giá mà Chúa Kitô muốn đề cập.

Tuy nhiên, chúng ta cần ý thức rằng thập giá không phải là đối tượng ta muốn cách trực tiếp. Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá ? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.

Lật giở các trang Tin Mừng, chúng ta cần chân nhận sự thật này : Chúa Kitô không bao giờ trực tiếp kiếm tìm thập giá. Điều mà Người luôn kiếm tìm đó là thánh ý Chúa Cha. Ngay phút giây nhập thể vào đời, tác giả thư Do Thái đã cảm nhận tâm ý của Ngôi Lời : “Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, này con xin đến để thực thi ý Chúa” ( Dt 10,5 ). Lễ vật hy sinh thì Chúa Cha không muốn và Chúa Cha cũng chẳng thích gì khi Con mình phải đổ máu. Điều Chúa Cha muốn là Chúa Con nhập thể, tìm cách bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu bao la vô bờ và hoàn toàn nhưng không của Người.

Thập giá chính là đối tượng trực tiếp mà giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ kiếm tìm để đặt trên vai người mà họ cho là “phản động”, xách động quần chúng đi ngược với tập truyền tiên tổ, dám phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa duy nhất… “Chẳng thà một người chết cho toàn dân được nhờ” ( Ga 11,50 ), và bên cạnh đó, vị thế và quyền lợi của những bậc vị vọng như tư tế, biệt phái, luật sĩ cũng khỏi bị lung lay và sứt mẻ. 

Thế mà Chúa Kitô vẫn không ngần ngại lên Giêrusalem để đón nhận khổ hình thập giá, không phải vì chính thập giá nhưng là để vâng phục Chúa Cha tìm cách bày tỏ cho nhân gian thấy tình yêu cua Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện và đến cùng. Cho dù các ngươi có đặt thập giá trên vai ta, cho dù các ngươi có đâm thủng trái tim ta, cho dù các ngươi có giết chết ta cách nhục nhã, thì ta vẫn không hề bỏ các ngươi mà còn đứng về phái các ngươi để cầu bàu cho các ngươi (x.Lc 23,34). Chúa Kitô đón nhận thập giá không phải vì thập giá mà là để mình chứng rằng không có gì có thể ngăn cản được việc Người yêu thương chúng ta ( x.Rm 8,38-39 ).

Như thế thập giá không phải là đích đến, mà chỉ là một cái giá cần phải trả, một thách đó cần vượt qua của hành trình yêu thương. Khi ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Giêrusalem, thực ra Phêrô có ý tốt với Thầy. Thế nhưng, ông đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Tưởng rằng Phêrô bị quở trách nhưng không phải ông mà chính là Satan bị quở trách. Satan lợi dụng ý tốt của Phêrô để cám dổ Chúa Giêsu. Ma quỷ thật lắm tinh ranh. Chúng sử dụng cả những điều thiện hảo thường tình để cám dổ ta đứng lại và không đạt đến sự thiện hảo cuối cùng.

Dẫu biết rằng chẳng có một sự thiện hảo nào mà không đòi phải trả giá nghĩa là đòi phải có sự nỗ lực, gắng công. Thế nhưng thập giá vẫn mãi còn đó sự thách đố cho người tự nguyện sống đạo yêu thương, cho người can đảm làm chứng cho sự thật, cho người tích cực gìn giữ và làm phát triển sự sống. Nếu cứ chăm chăm dán mắt hay quy lòng vào sự khó khăn đầy nghiệt ngã của thập giá thì e rằng nhiều khi chân ta sẽ chùn bước. Ước gì Kitô hữu chúng ta trên đường theo Chúa Kitô biết ngước nhìn đến chân trời tươi sáng, nơi mà tình yêu, sự thật và sự sống hiển trị, thì sẽ có cơ may vượt qua các trở ngại cần phải vượt qua là thập giá, cho dù khó khăn, vất vả, đau thương vẫn có đó. Hiểu được sự thật này thì chúng ta không chỉ biết lắng nghe lời nhận định của Franklin : “ Đường đến thành công không hề có bước chân của người ngại khó, sợ khổ”, mà cần phải xác tín rằng “ đường đến Nước Trời sẽ chẳng hề có bước chân của người không quyết tìm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân”.

THEO THẦY, MẤT ĐI ĐƯỢC LẠI
Mt 16, 21 – 27

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu ra điều kiện và đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ của Người: ” Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo “ ( Mt 16, 24 ) hay “ Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy “ ( Mt 16, 25 ). Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo. Người môn đệ Chúa chỉ hạnh phúc thực sự khi đành bỏ mất cuộc đời tạm bợ mau qua để được sự sống vĩnh cửu mai sau…

Chúa Giêsu loan báo cuộc thống khổ của Ngài. Và Ngài cho biết phần của Ngài trong Giao ước. Ngài quyết định lên đường lên Giêrusalem. Thánh Phêrô quả chưa hiểu gì về ý định cứu thế của Thầy, nên Phêrô tìm cách cản ngăn Chúa Giêsu. Tôma cũng vậy, Ông không hiểu chút nào về con đường cứu độ của Chúa, do đó, Tôma đã rất thành thực thưa với Thầy: ” Đường của Thầy làm sao chúng con biết mà đi “. Chúa Giêsu đã trả lời cho Tôma: ” Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “. Ý định cứu rỗi của Chúa, con đường cứu thế của Chúa ngay các môn đệ cũng chẳng một sớm một chiều mà hiểu được. Chúa lên Giêrusalem là để thi hành thánh ý Chúa Cha, cứu rỗi nhân loại, cứu độ con người. Khi loan báo cái chết, Chúa Giêsu cũng đồng thời mời gọi các môn đệ, và mọi Kitô hữu hãy vác thập giá của mình để bước đi theo Ngài. Theo Chúa Giêsu là lời mời gọi khẩn thiết của Đạo Đức Kitô. Điểm chính yếu của Tin Mừng do Chúa Giêsu rao giảng là chính Ngài, một Con người, một Vị cứu tinh, một Đấng cứu độ. Kitô giáo chỉ có thể tồn tại khi nó được nuôi dưỡng bằng chính con người của Đức Kitô. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không phải là nỗi ô nhục, là sự thất bại theo sự suy nghĩ của thế gian, nhưng là sự chiến thắng sự chết. Chúa đành mất cái tạm bợ, cái hào nhoáng, cái mau qua ở trần gian này để vinh thắng sự chết và về ngự bên hữu Chúa Cha. Chính vì thế, chính trong mầu nhiệm thập giá chúng ta đón nhận khổ đau, gian khó, chính trong mầu nhiệm đau khổ của Đức Kitô, con người, nhận loại, Kitô hữu, môn đệ Chúa đón nhận đau khổ với tất cả lòng tin, sự đau khổ của chúng ta sẽ có ý nghĩa cứu độ. Chính trong Đức Kitô chúng ta sống mầu nhiệm đau khổ của thập giá như thánh Phaolô đã viết: ” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Đức Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công cuôc cứu rỗi của Ngài. Thánh Phaolô cũng tiếp tục cho chúng ta thấy:” Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô “.

Theo Chúa Kitô không phải là một việc ngẫu hứng, hay tùy tiện muốn theo hay không theo. Theo Đức Kitô là một đòi hỏi hết sức gắt gao và là một việc nghiêm túc, cẩn trọng. Thánh Phaolô, Vị Tông đồ dân ngoại, đã được Chúa cho hiểu rõ về Ngài…Chúa đã mạc khải cho thánh nhân và Ngài đã nắm bắt, cảm nghiệm sâu xa cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Nên, thánh nhân đã khẩn nài những người tín hữu Roma hãy dâng hiến thân xác mình như “ một lễ hy sinh sống động thánh thiện và đáng cho Thiên Chúa chấp nhận “. Bởi vì, theo Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha của Ngài sẽ thưởng phạt ai nấy xứng viêc họ làm ( Mt 16, 27 ).

Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta đều nhận ra: “ Ai muốn cứu mạng sống của mình thì sẽ mất. Ai liều mất mạng sống vì Chúa, thì sẽ tìm được mạng sống “. Đây là một nghịch lý. Một sự trớ trêu của Tin Mừng: “ Cho “ sẽ “ Được “. “ Tìm “ sẽ “ Gặp “. “ Gõ “ sẽ “ Mở “. Các môn đệ của Chúa đã bỏ tất cả mà theo Chúa, nên Ngài đã cho họ gấp bội ở đời này và được cả đời sau.

Các thánh là những người đã sống Tám Mối Phúc, chính vì thế các Ngài đáng được Chúa thưởng công. Các thánh tử đạo đã hy sinh mạng sống vì Chúa, đã hy sinh cái tạm bợ để được Quê Trời vĩnh cửu.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã hy sinh cho người nghèo, Mẹ đã được thưởng công và lãnh triều thiên Thiên Quốc.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã từ bỏ cái tạm bợ trần gian để hiến thân cho Chúa trong đời sống thánh hiến. Nên, thánh nữ đã trở nên một vị thánh thời danh.

Chúa Giêsu cũng đã nêu gương cho nhân loại bằng chính cái chết cao cả của Ngài và Ngài đã được tôn vinh: ” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Tất cả Kitô đều có những cái phải từ bỏ, đó là từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính hư nết xấu của mình, tính ngạo mạn, tính ích kỷ của mình để được Chúa Kitô ở cùng.

Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn ( Lời nguyện nhập lễ, Chúa nhật thường niên XXII, năm A ). 

THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH
Mt 16, 21 – 27

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau lời tuyên xưng : "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) Simon con ông Giona được khen là người "có phúc" (Mt 16, 16), vì được Chúa Cha, "Đấng ngự trên trời mạc khải cho" (Mt 16, 16-17). Lời khen kèm theo lời hứa : "Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời". Nhưng liên sau đó ông bị khiển trách nặng nề vì đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế : "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người "(Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa.

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được ý tưởng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết : "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).

Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, họ thực sự không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, họ nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Vì đã đọc Tin Mừng, nên chúng ta thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia đến hiến mạng trên thập giá vì chúng ta như lời tiên tri Isaia đã báo trước. Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải "đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba" (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao "Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng : "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy" (Mt 16, 22). 

Đúng là : "Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi" (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm"(Mt 16, 23).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không cho để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : " Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống" (Mt 16, 24). 

Chúng ta tự hỏi : "Từ bỏ" mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình? 

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Chúng ta đang sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đã đi và sống trong hy vọng. 

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ "điều chúng ta là", nhưng điều "chúng ta đã trở nên". Chúng ta là những hình ảnh Thiên Chúa, chính Thiên Chúa thầy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như : kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là "ảnh dưới đất", ngược với "ảnh trên trời", giống như Chúa Kitô. Do đó "từ bỏ chính chúng ta", là từ bỏ ý loài người mà mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ : Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra làm sao giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đanh. Con đường "đánh mất chính mình", để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường "đánh mất chính mình", là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình" (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính minh, vác thập giá mình và theo Thầy" (Mt 16, 24). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, "đánh mất đi sự sống" là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: "Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận ... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo" (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

''LIỀU MẠNG SỐNG VÌ THẦY, THÌ SẼ TÌM ĐƯỢC MẠNG SỐNG ẤY”
Mt 16, 21 – 27

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Các môn đệ xưa theo Chúa Giêsu, vẫn có quan niệm sai lầm rằng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen và rồi các Môn đệ sẽ được chia chác ghế ngồi trong nội các của Chúa. Tuy nhiên, chân tướng của Vị Cứu Tinh không phải như Phêrô và các bạn của ông lầm tưởng mà “ lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ, bị giết và ngày thứ ba mới sống lại “ (Mt 16, 21), vì “ chỉ ai liều mất mạng sống mới được sống “ ( Mt 16, 25 )…

Các môn đệ, đặc biệt là thánh Phêrô đã tuyên xưng lòng tin nơi Chúa. Lòng tin của Phêrô đã cho hay chính Thiên Chúa Cha mặc khải để ông nói lên điều kỳ diệu ấy. Tuy nhiên, liền sau lời tuyên tín của tông đồ Phêrô, Chúa Giêsu đã tỏ lộ sứ vụ cứu thế của Ngài gắn liền với đau khổ và phục sinh của Ngài.Việc này xảy ra đang khi Chúa Giêsu ở Galilêa đến thủ đô Giêrusalem.Đi Giêrualem với Chúa Giêsu còn là chấp nhận cái chết như các ngôn sứ.Ở đây, thánh Phêrô không thề nào hiểu nổi Thầy mình là một Vị Cứu Tinh làm sao lại có thể bị chết ô nhục như thế. Do đó, Phêrô cản ngăn Thầy. Và Chúa Giêsu đã mắng Phêrô thậm tệ, coi Phêrô có ý tưởng như là Satan. Phêrô và các bạn vẫn chưa hiểu được thế nào là con đường của Thầy. Bởi vì con đường của Chúa Giêsu không giống với lối suy nghĩ của con người, lối tính toán hơn thiệt của con người, nhưng muốn đón nhận Giáo Lý của Người, họ phải bỏ chính họ, lối suy nghĩ, cái nhìn trần gian để chính Chúa soi đường dẫn lối họ đi theo Người, theo ánh sáng đạo lý chân thật, vững chắc của Chúa. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ở đây, Chúa nói đến người nào chỉ khư khư giữ lấy sự sống mau qua, tạm bợ trần gian. Còn ai liều mạng sống nghĩa là người dám hy sinh, từ bỏ để theo Chúa thì sẽ được sự sống vĩnh cửu. Tin Mừng đoạn này cũng cho thấy được lời lãi thế gian ( Mt 16, 26 ) so với Nước Trời, so với sự sống đời đời không thể nào sánh ví được.Chúa sẽ trở lại trần gian trong ngày cùng tận để phán xét con người theo lẽ công thẳng của Người.

Chúa Giêsu tin tưởng các tông đồ, do đó, Ngài đã biến hình trên núi Tabôrê để các ngài nhìn thấy vinh quang của Chúa và như thế các ngài càng bám chặt lấy Chúa, tin sâu thẳm vào Chúa. Chính vì tin tưởng các tông đồ, Chúa Giê su đã thổ lộ tất cả, bộ bạch tất cả cho các tông đồ mà Ngài quí mến về con đường Ngài sẽ đi và mời gọi các tông đồ cũng đi theo con đường của Ngài. Các tông đồ và các tín hữu của Chúa ‘ hẳn không khác Thầy mình ‘ (Mt 10, 24 ). Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể đi con đường nào khác được. Bởi vì, sống như Chúa là hy sinh, từ bỏ,dám liều mạng sống vì tha nhân dù rằng có nhiều thiệt thòi theo cái nhìn của người đời.

Xin mượn lời Nữ tu Véronique Thiébaut để kết thúc bài chia sẻ này :” Trong các bài đọc ngày hôm nay, chúng ta thấy rất nhiều người mang một bầu tâm huyết sôi sục : Ông Giêrêmia đã để Lời Thiên Chúa quyến rũ và nắm bắt toàn diện con người mình; ông Phêrô và những người khác đã bỏ hết mọi sự để đi theo Đức Kitô; chính Đức Giêsu thì được thánh ý Chúa Cha huy động, bởi được tình yêu Chúa Cha chiếm hữu.Tương quan với Thiên Chúa khởi đầu như thế đó: phải để cho người chạm đến trái tim và đi vào đời của chúng ta.Điều này đòi hỏi một sự chuyển dời mình đi nơi khác. Bấy giờ, có chuyện gì xảy ra ? Cả một sự biến đổi con người mình.Như các tín hữu Rôma, chúng ta được mời đổi mới cách suy tư và hành động.Ông Giêrêmia lên tiếng, mặc cho nguy cơ có thể ập xuống đầu mình. Ông Phêrô chưa vượt sang một cách hiểu biết khác về Đức Kitô, nhưng đang được mời gọi. Nếu được biến đổi nhờ gặp gỡ Thiên Chúa, thì mọi người, cả nam lẫn nữ, sẽ có khả năng trở nên dũng cảm. Họ ước muốn sống có trước có sau : lòng nhiệt tình nung nấu họ từ bên trong, thôi thúc họ sống theo Tin Mừng, giúp đỡ anh chị em mình cũng sống như vậy...Để cho tha nhân đến với mình, để cho tha nhân biến đổi mình, can đảm sống có trước có sau, biết rằng con đường hãy còn dài phía trước, không bao giờ dứt điểm thật sự : cuộc đời người môn đệ là thế đó ! “.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã luôn hiếu thảo với Thiên Chúa Cha, luôn tuân theo thánh ý Cha và luôn hy sinh vì người khác để đem lại hạnh phúc cho họ. Xin cho chúng con biết sống như Chúa để dám quên mình, hy sinh, từ bỏ và liều thân vì người khác miễn là đem lại hạnh phúc cho họ và làm cho họ nhận ra lòng nhân từ của Chúa, tin Chúa và theo Chúa. Amen.

TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐƯỢC TỰ DO THI HÀNH SỨ VỤ
Mt 16, 21 – 27

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan. 

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). 

1. Từ bỏ mình, có mất tự do không? 

Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?

Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh. 

Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. 

Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng. 

Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ..., để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác. 

Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai... Con đường đó là con đường của từ bỏ: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. 

2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?

"... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.

Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi. 

Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. 

Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). 

Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời. 

Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.

Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.

Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất. 

Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác. 

3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi. 

Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành. 

Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ. 

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý. 

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài. 

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa. 

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

1084    29-08-2014 14:17:37