Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Chúa Nhật XXX Thường Niên A năm 2014

  1. Yêu Như Chúa Yêu
  2. Yêu
  3. Giới Luật Tình Yêu
  4. Yêu Thương Là Đón Nhận Sự Sống
  5. Lý Do Của Tình Yêu
  6. Giới Răn Trọng Nhất
  7. Chúa Nhật Thứ 30 Thường Niên
  8. Giới Răn Mến Chúa và Yêu Người
  9. Giới Luật Yêu Thương
  10. Mến Chúa và Yêu Người
  11. Yêu Thương
  12. Chúa Nhật Thứ 30 Thường Niên
  13. Giới Luật Yêu Thương
  14. Vấn Đề Giới Răn Trọng Nhất
  15. Mến Chúa và Yêu Người
  16. Tình Yêu Là Lẽ Sống
  17. Làm Sao Để Yêu Thương Tha Nhân Như Chính Mình
  18. Để Yêu Chúa Và Tha Nhân, Phải Biết Yêu Mình
  19. Luật Yêu Mến
  20. Giới Luật Yêu Thương
  21. Phải Yêu Mến Thiên Chúa Trên Hết Mọi Sự
  22. Đức Ái

 

YÊU NHƯ CHÚA YÊU
Mt 22, 34 - 40

Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy như bị bao vây bởi “Bức tường luật” kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì càng được coi là công chính.

Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ “đã chất lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng ngón tay vào lay thử”.

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình.

Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông đồ nói: “ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối”; “ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra”.

Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”. Giữ lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa”. Thi hành lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.

Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con người.

“Yêu anh em như yêu chính mình”. Không ai lại ghét mình bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ! Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!

Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt, nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ: “Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời”. Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: “Tôi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba”. Quả thật, yêu người là yêu Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!

YÊU
Mt 22, 34 - 40

Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên "Nhất Cử Nhất Động", con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.

Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.

Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ “cọng tóc ra làm tư” đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?

Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.

Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối”. Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen

GIỚI LUẬT TÌNH YÊU
Mt 22, 34 - 40

Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.

Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha.

Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau : Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". ( Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.

Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.

YÊU THƯƠNG LÀ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG
Mt 22, 34 - 40

Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.

Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.

Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.

Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.

Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.

Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.

Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.

LÝ DO CỦA TÌNH YÊU
Mt 22, 34 - 40

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình”.

Tác giả Lovasik trong quyển “Dụ ngôn đời thường” của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:

Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: “xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây”. Người ăn xin ngước mặt đáp: “ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi”.

Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi – sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.

Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu…, bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận “nó mất hết tính người”. Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.

Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”

(1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. “Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, “với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”( Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa – là đường, là sự thật, và là sự sống.

Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa – Đấng yêu thương.

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
Mt 22, 34 - 40

Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03. 10. 1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: “Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!” Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như “thực vật” không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O’Bara, mẹ cô, vẫn can đãm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80). Bài TM hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của TC quan trọng chính là luật yêu thưong. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:

* Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan trọng hơn hết? Luật củ của người Do thái córất nhiều điều:Bộluật có tất cả 613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.

* Chúa trả lời: Phải yêu mến TC ngươi hết linh hồn, hết trí khôn… Đó là điều răn thứ nhất… Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy yêu tha nhân như chính mình…Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật 6, 5 và sách Lêvi 19, 18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.

b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?

* Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma như sau: “ Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề luật vậy.” (Rm 13, 8-10).

* Giới luật yêu thuơng: Qua bài TM này, Chúa Giêsu xác định luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.

Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người được TC dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như TC. Bản chất TC chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu thương Thiên Chúa và yêu thương nhau….

Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi, đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư, biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.

Bà Keye O’Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả của Tình Yêu…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng ta có tin không?

CHÚA NHẬT THỨ 30 THƯỜNG NIÊN
Mt 22, 34 - 40
Lm Augustine S.J.

Gương mến Chúa và yêu người sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã
Nhật báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ hai.

Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.

Chính cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.

Trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục! Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai.

Trong số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn cướp giật, quấy nhiễu mọi người.

Vị linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.

Thế rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng, trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

Cha nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi "Này, cháu yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?" Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: "Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai, để cháu có thể tin?" Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: "Người đó giống như bác!" Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: "Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!"

Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ đã là một người tân tòng Công giáo.

Chúa Giêsu đưa hai điều răn ấy sống động nơi con tim con người
Câu chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?" (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều răn lớn nhất là "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi" (Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con người. Ngang qua con tim, người tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người đó phải phải yêu người thân cận như chính mình".

Như vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: "Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (4,20).

Nhưng cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.

Mười điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.

Mười điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn "giữ ngày sabát" trở thành điều răn "giữ ngày Chúa Nhật".

Có thể tóm tắt mười điều răn như sau:

Tấm bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4 điều răn là:

1. Không được thờ Thiên Chúa nào khác
2. Không được thờ ngẫu tượng.
3. Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.
4. Phải giữ luật ngày Sabát.

Tấm bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6 điều răn là:
5. Hiếu thảo đối với mẹ cha.
6. Không được giết người.
7. Không được phạm tội ngoại tình.
8. Không được lấy của người khác.
9. Không được làm chứng gian.
10. Không được ước ao của người khác.

Mười điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: "Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu" (Ðnl 5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời hưởng được tình thương của Thiên Chúa.

Ðức Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng. Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình.

Con đường của các mối phúc
Vậy mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn "(Mt 22,37). Người đó không còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu dạy: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu nói với con cả trong Tin Mừng Luca: "Con à, lúc nào cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 15,31).

Ðiều mà mối phúc thứ hai nhắm là "được đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp" (Mt 5,4). Ðất hứa nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại, người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính mình.

Ðiều mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó, người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu.

Ðó chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.

GIỚI RĂN MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI
Mt 22, 34 - 40

Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm

Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).

Đức Giêsu nói đến "lòng" theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. "Yêu mến Chúa hết lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến "hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống; "hết trí khôn" bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.

Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: "yêu mến người thân cận như chính mình". Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.

Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v... Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.

Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình... Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.

Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG
Mt 22, 34 - 40
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Con người có thể làm được nhiều điều vượt quá sự tưởng tượng của người khác. Con người có thể phát minh, làm ra những người máy, những robot máy làm được rất nhiều việc như mời khách, canh gác và có thể xếp hàng vào giỏ, vào xách tay. Người máy Robot có thể làm được mọi sự. Nhưng chỉ có một điều và điều này cực kỳ quan trọng: đó là người máy Robot không biết yêu thương, không có cảm giác như con người. Đây là một thất bại vì con người không thể phát minh ra được tình thương. Nên, Robot không biết yêu và cũng chẳng bao giờ có thể làm được sự yêu thương như con người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định cho nhân loại hay rằng Đạo do Chúa thiết lập là Đạo tình thương. Con người chỉ có thể sống trọn Đạo khi họ biết kính mến Chúa và yêu thương đồng loại.

LUẬT BÁC ÁI CỦA CHÚA GIÊSU
Tin Mừng Matthêu 22,34-40 chỉ ra rằng luật tối thượng vẫn là kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn và giới răn thứ hai cũng không kém phần quan trọng là phải yêu mến đồng loại. Đây là cuộc tranh luận, đối chất quan trọng nhất của Tân ước giữa Chúa Giêsu và nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu và mọi người thời đó đều hiểu rõ về luật của Maisen.Tuy nhiên, giữa Chúa Giêsu và nhóm Pharisiêu lại có một cái nhìn rất khác nhau về Thiên Chúa, về con người. Luật cũ nặng nề về hình thức, thiên về bề ngoài, tỉ mỉ trưng ra các khoản luật lệ rườm rà, nhưng quên mất tâm tình bên trong. Luật sĩ và Biệt phái lại làm cho lề luật trở nên lệch lạc, lấy cái phụ làm cái chính và lấy cái chính làm cái phụ. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến cái trọng tâm của Đạo Kitô là bác ái: Mến Chúa yêu người. Luật bác ái của Chúa Giêsu không thu hẹp nơi bà con, thân thích, láng giềng, đồng hương như những người Do Thái quan niệm xưa, Chúa Giêsu đưa ra cái hướng phải mở rộng, phải thu góp mọi người, kể cả dân ngoại và cả kẻ thù. Vì thế, Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm của dân Do Thái và đặc biệt của nhóm Pharisiêu. Chúa đưa ra hai luật không thể lìa nhau ( Mt 12,9-14; Mc 2,27-3,6 ).. Đối với Chúa Giêsu giới luật yêu thương: kính Chúa và yêu người không thể tách rời nhau được. Vì nói kính Chúa mà không yêu người là nói láo. Chúa nói: "Điều Ta truyền là các con hãy yêu thương nhau" ( Ga 15,17 ). Hoặc " Các con nhỏ bé của Ta, đừng yêu thương ngoài môi miệng, nhưng bằng việc làm và sự thật" ( 1Ga 3, 18 ) hay " Ích gì, thưa anh em, tôi có đức tin mà không có việc làm"( Giacôbê 2,14-27 ). Chúa Giêsu đã trả lời cho người luật sĩ tới hỏi Ngài về giới luật trọng nhất và Chúa đã trả lời một câu duy nhất gồm tóm hai điều nhưng thực tế chỉ là một. Đây là cuộc cách mạng của Chúa Giêsu. Một cuộc cách mạng lớn nhất làm đảo lộn quan niệm của người Do Thái và các phe nhóm chống Chúa Giêsu.

VẪN SỰ ĐÒI HỎI CỦA CHÚA LÀ PHẢI YÊU THƯƠNG NHAU
Con người thường yêu thương kẻ mến, kẻ chiều mình và ghen ghét kẻ thù, kẻ ghen ghét mình. Đó là sự thường tình của con người ở trần thế này. Luật Cựu ước có đoạn đã viết: "Mắt thế mắt,răng đền răng". Còn Chúa Giêsu lại nói khác: " Ai vả má phải, giơ má trái..." Đây là sự nghịch lý của Tin Mừng Đức Giêsu. Các luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu là những con người đạo đức, nhưng họ đạo đức giả hình, nên không có cốt lõi yêu thương. Họ giống như những người máy, làm được nhiều chuyện, nhiều việc, nhưng không có tâm hồn để yêu thương thực sự. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm: "Mến Chúa yêu người" ( Ga 13,34;13,35 ). Chúa Giêsu không chỉ nói xuông cho qua chuyện, chính Ngài đã làm gương cho mọi người, cho nhân loại về yêu thương. Cái chết của Chúa đã nói lên lòng yêu thương và tha thứ cao vời của Ngài đối với mọi người không phân biệt ai. Trên thập giá, quân dữ xỉ nhục Chúa Giêsu, nhưng Ngài vẫn tha thứ cho họ(Lc 23,34 ). Yêu người sẽ gặp Chúa và ngược lại. Yêu thương chính là cái hồn, cái cốt lõi của Đạo Đức Kitô. Hồn của Đạo Kitô là yêu thương, không yêu thương, không nhạy cảm, không có trái tim, con người chỉ là cái máy, chỉ là Robot không hồn. Thế giới như một sa mạc khô nước, sống yêu thương, sống lành, sống tốt, sống cảm thông,tha thứ cho nhau là đã làm cho sa mạc trở nên mát rượi. Một cử chỉ chia sẻ, cảm thông, quảng đại, một nụ cười, một ánh mắt thương yêu sẽ làm vơi đi biết bao nhiêu nhọc nhằn. Chúa Giêsu chính là Tình Yêu. Nên, thánh Gioan đã giải thích: " Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghen ghét anh em là kẻ nói dối...". Thiên Chúa là Đấng vô hình, còn anh em là người đang sống chung quanh ta.. Không yêu mến anh em làm sao dám nói yêu mến Thiên Chúa là Đấng vô hình, ở xa ta muôn trùng, muôn dặm, ta nào có thấy.

Xin Chúa giúp mọi người biết sống cái cốt lõi của Đạo Kitô là Yêu Thương.

MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI
Mt 22, 34 - 40
Lm. VIKINI

Mẹ Têrêxa Calcutta kể : "Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói : Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được".

Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là : "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy : ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình".

Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.

Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.

Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm : hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng : Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta : Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta ! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này : "Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con" (Kn. 8, 19-21). "Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người" (Kn. 16, 26).

Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình ? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi ? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I - Xh. 22, 21-22)

Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.

Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là : hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào ?

Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v... ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình "thì anh em còn được công chi ?" (Mt. 5, 46).

Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.

Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt.. . thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.

Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói : "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo ? như có lời chép : chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm. 8, 35-37).

Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.

YÊU THƯƠNG
Mt 22, 34 - 40

Lm JB. Nguyễn Minh Hùng

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".

Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đầng. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối. Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.

Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.

Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.

Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.

CHÚA NHẬT THỨ 30 THƯỜNG NIÊN
Mt 22, 34 - 40

Lm Nguyễn Bình An

Vì yêu bà goá Simpson, Vua nước Anh Edward Đệ Bát đã bằng lòng bỏ ngai vàng để sống đời dân giả hạnh phúc với người yêu. Đây là cuộc tình lý tưởng và chân thật. Kẻ cho, người nhận thấu hiểu và thực thi lời Chúa Kitô dạy “tình cao thượng nhất là tình dám thí mạng cho người yêu” (Ga 15,13). Thế nào là thí mạng? Edward hy sinh và can đảm cởi bỏ vương miện và hoàng bào. Ông trả đời tiện nghi, rời cung điện, bằng lòng sống đơn giản và đạm bạc với người yêu. Nhiều người lắc đầu tắc lưỡi: “thằng khùng!” vì nhà cao bát vàng không hưởng. Nhưng Edward và Simpson đã hân hoan và sung sướng rũ sạch công danh và đời đời có nhau.

Chúa Kitô đã lấy thánh giá làm bằng chứng độc đáo nhất diễn tả tình của Ngài. Chúng ta sống trong hiểm họa và đang lao đầu vào cõi chết. Chúng ta thích thành công với danh, chức và tiên của. Chúng ta chen lấn, tranh giành, lật lọng, mưu mô và chà đạp trên mạng người. Chúng ta đánh giá tình bằng vẻ hào nhoáng và giả tạo bên ngoài. Chúng ta đang hôn mê trong bả phủ vân dẫn đến hư vô và tuyệt vọng. Các hình thức trên bộc lộ cái tình nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn một chiều và ích kỷ của nhân loại.

Chúa lấy thánh giá bắc qua miệng lửa, che đậy hố sâu nguy hiểm và thân thương dìu chúng ta bước qua hố an toàn. Chúa lấy máu và tình thương giập tắt ngọn lửa vô tình và bất nhân. Chúa dùng khổ đau đem lại sự thanh thản, an vui cho nhân loại. Một lần Chúa chết đi cho ức triệu người thoát vòng liên lụy và được giải thoát. Tình yêu cao vời này đã là nguyên nhân cảm hóa và dụ dẫn nhiều tâm hồn can đảm dấn thân theo Chúa. Họ kê vai san sớt gánh nặng và vui bước với Chúa. Họ là những chứng nhân sống, là hiện thân của Giêsu giữa đời. Họ đang nằm rên siết bên đường, đang hấp hối trong rừng sâu, đang thành công giữa đời và nhân ái trong mọi lãnh vực. Họ là những vị tử đạo vô tên tuổi và âm thầm hiến dâng. Nhờ họ mà đức tin được trưởng thành, tình yêu được thăng hoa và Lời Chúa được loan truyền.

Nhìn những người lính thủy quân lục chiến Hoa kỳ thực tập tại căn cứ 29 cây dừa (29 Palm), California: ngày ăn lương khô, uống nước lạnh, mặt mũi và áo quần dính đầy bụi, tay chân nứt nẻ, đêm nằm co ro trong túi ngủ trên bãi cát trong góc đá, và dưới đụm cây làm tôi cảm phục sự hy sinh cao độ của họ và chợt xót xa khi nghĩ đến cả trăm triệu người vô tình quên họ. Vì họ mà quốc gia này thành cường quốc. Vì họ mà dân chúng sống an ninh, tự do và độc lập. Vì họ mà trật tự thế giới được ổn định. Vì họ mà điện Capitol và Nhà Trắng tại Hoa thịnh Đốn thời danh và có thế giá trước Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới.

Người không có thánh giá là người chết. Người trốn chạy thánh giá là thiếu tài cao, đức trọng. Người rủa thánh giá là chưa hiểu ý nghĩa và mầu nhiệm thâm sâu của tình yêu. Người lợi dụng thánh giá là kẻ “đục nước béo cò” và “mượn đầu heo nấu cháo”. Họ giỏi khích lệ ai đó vác và vui chịu. Bản thân họ thì đong đưa ăn trên ngồi chốc. Tình chính chuyên và lý tưởng phải là tình như Đức Kitô, bằng lòng chết đi cho người mình yêu và trước khi vĩnh biệt còn gắng rán sức “tha cho họ, vì họ không ý thức việc họ làm.”

Phim “Người chết đang đi” (Dead-man walking) giới thiệu một nghĩa cử cao thương của chị dòng. Chị nhận diện Chúa trong tên tử tội. Chị chối bỏ thù oán của Cựu Ước và loan báo ơn tha thứ của Tân Ước. Chị cảm hóa được tù nhân và yêu cầu tử tội trước giờ thứ 24, nhìn vào chị, hiện thân của tình Chúa hầu an bình ra đi. Chị lên án chính sách giết người man rợ bằng ghế điện, hơi ngạt, thuốc độc và xử bắn. Theo chị, tình chân thật phải là tình tái sinh bằng mọi giá, như Chúa trên thập tự, đã thăng tiến và công chính hóa nhân loại thay vì kết án và nguyền rủa.

Như vậy tình “ông ăn chả, bà ăn nem” là tình ích kỷ. Tình “ong bướm” là tình tắc trách và trốn chạy. Tình “ly dị” là tình hèn nhát và thiếu thủy chung. Những mẫu tình này hình thành do sự bất toàn, đam mê, ích kỷ và hưởng thụ của con người. Đồng thời nó đang phá hủy tận gốc tình yêu cao đẹp Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn. Bài học sống và chết cho tình yêu cần được mổ xẻ, phân tích, suy tư và thực hiện trong đời mỗi tín hữu. Nhờ đó mà tình của “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy” sẽ “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG
Mt 22, 34 - 40

Sr M. Catherine Lê Trang, OP.

Phim “The Beauty and the Beast”, tạm dịch là “Mỹ Nhân và Người Thú”, rất được ưa chuộng cách đây mấy năm. Truyện phim nói về mối liên hệ giữa con người cũng như đề cao những giá trị tinh thần mà chỉ có tình thương mới thực hiện được.

Phim kể truyện một hoàng tử giàu có, trẻ tuổi tài cao nhưng tính tình kiêu căng, ngạo mạn. Lần kia có một bà lão đến trao tặng hoàng tử một đóa hồng thật đẹp. Chẳng những không thèm nhận bông, hoàng tử lại còn xua đuổi bà lão ấy nữa. Trước thái độ đầy khiếm nhã đó, bà lão kia đã làm phép tiên biến chàng hoàng tử trẻ thành một người thú trông thật xấu xí. Tội nghiệp cho hoàng tử bởi vì nếu như cho đến ngày chiếc cánh cuối cùng của đóa hồng bùa phép kia rụng xuống mà hoàng tử vẫn không được ai yêu thương thì chàng sẽ phải mang hình dạng xấu xí của một người thú suốt đời. Từ đó người thú sống xa cách mọi người; hắn tự đóng kìn đời mình trong lâu đài và cảm thấy được an toàn ở đó. Vì thế mà người thú không muốn bất cứ ai xâm nhập vào toà lâu đài của mình. Bỗng nhiên một hôm có người khách lạ tìm đến lâu đài của người thú, khiến hắn giận dữ ra lệnh tống giam kẻ lạ mặt. Khi hay tin cha bị bắt giữ, cô Belle đã tự nộp mình thế mạng cho cha. Thoạt đầu, Belle rất khó chịu với người thú bởi vì tính cộc cằn của hắn. Nhưng rồi vì lòng trắc ẩn, Belle đã quyết tâm giúp người thú sửa mình. Nhờ vào tình thương, sự dịu dàng, nhẫn nại, lòng tha thứ và cảm thông của Bell, người thú dần dần biến đổi. Hắn trở nên dễ thương hơn mỗi ngày và sau cùng đã được trở lại làm người như xưa.

Truyện phim trên đây tuy chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng, nhưng chứa những bài học thật quý. Đó là bài học về sự khiêm nhường, về lòng quảng đại hy sinh vì tha nhân, bài học tha thứ, chấp nhận, chân thành, cảm thông và nhất là bài học yêu thương. Đức Kitô đã minh định tầm quan trọng của giới luật yêu thương trong bài Phúc Âm hôm nay khi Người trả lời các luật sĩ rằng : “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi...(và) yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Qua câu trả lời ấy, Đức Kitô đã đặt ra ba đối tượng để dạy chúng ta sống yêu thương, đó là Thiên Chúa, chính mình và tha nhân.

1) Thiên Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Chúng ta không nên hiêu câu nói này như một sự xác định giới luật của tình yêu. Ngược lại đó là lối diễn tả để nói lên tích cách toàn diện giữa tình yêu của ta đối với Thiên Chúa. Nghĩa là trong mọi sự, mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng về tình yêu Thiên Chúa mà thôi.

2) Chính mình: “Như chính mình ngươi”. Yêu mình là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết. Bởi vì đó chính là khuôn mẫu mà Đức Kitô muốn chúng ta rập theo khi thực hành yêu tha nhân. Như vậy có nghĩa là nếu không yêu mình thì chúng ta cũng không thể nào yêu tha nhân và chu toàn giới răn yêu người của Chúa được. Có nhiều thái độ yêu mình. Có nhưng thái độ yêu mình đúng và cũng có những cách yêu mình sai. Yêu mình theo quan niệm của Phúc Âm chẳng những sẽ làm tăng trưởng toàn diện con người ta mà còn dẫn đưa chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời nữa. Yêu mình theo tinh thần Đức Kitô là tin và chấp nhận sự thật về mình cũng như về người khác. Sự thật đó là chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, hằng được Thiên Chúa yêu thương và tặng ban những ơn lành, tài năng để chúng ta cùng được cộng tác vào công cuộc tạo dựng và cứu độ của Ngài. Sự thật này đòi buộc chúng ta phải nhìn nhận, yêu thương, kính trọng phẩm giá cùng nhân vị của mình và của tha nhân. Những đức tính như khiêm nhường, bao dung, công bình, trung liêm, chính trực là những đặc tính tiêu biểu cho thái độ yêu mình thật. Trái lại tự tôn hay tự ti mặc cảm đều mang tính cách yêu mình sai lạc. Hoàng tử trẻ trong truyện phim kể trên đã yêu mình bằng những thái độ ấy và hậu quả là bị biến trở nên một người thú, sống lìa xa mọi người. Guston, một nhân vật khác trong truyện phim, cũng đã yêu mình qua những hành vi kiêu căng, hách dịch, tham lam, chỉ trích và tiêu diệt người khác để rồi đáp lại, mọi người đều sợ hãi và xa lánh hắn. Còn chúng ta thì sao, chúng ta đã yêu thương mình bằng thái độ nào? Đã có lần nào chúng ta biết mở lòng để Đức Kitô đến và dạy chúng ta bài học sống yêu thương chưa? Hay là chúng ta vẫn sống khép kín và hài lòng với tính ích kỷ, tự mãn, bất công... trong lâu đài “cái tôi” của chúng ta?

3) Tha nhân: “Ngươi hãy yêu mến kẻ khác...” Thử hỏi đã có lần nào chúng ta thưa với Chúa rằng: “Vâng, con yêu Chúa nhiều lắm! Nhưng còn tha nhân thì... lạy Chúa, con xin chỉ yêu ti tí thôi” chưa? Có lẽ không ai trong chúng ta lại chẳng muốn được người khác yêu thương và chấp nhận như ý ta. Nhưng trong thực tế chắc chúng ta chưa yêu thương và chấp nhận tha nhân như ý Chúa muốn. Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình, kẻ nào không hợp thì chúng ta nghỉ chơi hay có khi còn... “cho biết tay” nữa. Một cách nào đó lối sống đức tin như thế chưa đúng với tinh thần Đức Kitô. Đức tin ấy còn hời hợt, hạn hẹp và nghèo nàn lắm. Đức tin ấy vận còn quanh quẩn trong hình thức, trong câu kinh, nơi nhà thờ và tượng ảnh. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để sống một đức tin vượt trên mọi hình thức, mọi biểu tượng, đó là sẳn sàng tha thứ lỗi lầm của tha nhân, tìm cách giúp họ trở nên tốt hơn cùng chấp nhận tha nhân như họ đang là. Đấy là yêu thương như ý Chúa muốn rồi đó.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm để dám dứt bỏ những sai lầm và quyết tâm thực thi giới luật của Chúa mỗi ngày. Amen.

VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
Mt 22, 34 - 40

Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Người Biệt phái và Pharisiêu luôn tìm cách ám hại Chúa Giêsu. Họ tìm đủ mọi cách, mọi lý do, mọi cơ hội để gây hấn với Chúa Giêsu. Họ tranh luận với Chúa Giêsu không phải để tìm hiểu học hỏi, nhưng để tìm cách gày bẫy Ngài, đưa Ngài vào chỗ bí với âm mưu giết Ngài. Họ đặt cho Ngài câu hỏi mà các Rabbi đem ra để tranh cãi: “Điều răn nào là điều răn lớn nhất ? “.

GIỚI RĂN NÀO LỚN NHẤT? :Trước mọi vấn đề người Do Thái, đặc biệt là những người Pharisiêu, luật sĩ, biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu.Chúa Giêsu không bao giờ chịu lùi bước bất cứ một câu hỏi hóc búa nào.” Của Xê-da hãy trả cho Xê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Một câu trả lời đã khiến cho đối phương hết sức ngạc nhiên:” Họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi “. Phái Sadducée, nhóm không tin có sự sống lại. Đã đem ra một câu chuyện hết sức ấm ớ, muốn lập lòe Chúa Giêsu về kẻ chết sống lại. Nhưng Chúa Giêsu đã làm họ câm miệng, khi Ngài trưng câu Xh 3, 6:” Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống “. Nghe tin những người Sadducée đã câm miệng, những người Pharisiêu lại tiếp tục vào cuộc, tranh luận với Chúa Giêsu. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người: ”Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ? “. Vào thời Chúa Giêsu, sách luật gồm, không hơn không kém 613 điều răn, các kinh sư phân ra 365 điều cấm tương đương với mỗi ngày trong năm và 248 điều truyền.

Đối với Chúa Giêsu câu trả lời của Người rất thẳng thắn. Người đi thẳng vào điểm chính. Người trưng ra câu sách Đệ nhị luật 6, 4-5: “ Nghe đây, hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…” . Điểm độc đáo của Đức Giêsu là Người liên kết: “ giữa điều răn thứ nhất: yêu mến Đức Chúa, với điều răn thứ hai: yêu mến người lân cận thành một giới răn”. Chúa Giêsu đã gồm tóm được luật của Môsê và các ngôn sứ. Như thế, Chúa Giêsu đã qui các giới răn khác vào hai giới răn thành một: yêu mến Chúa và yêu tha nhân.Chúa Giêsu cho nhân loại thấy cái mầu nhiệm thẩm sâu trong cuộc đời Người, một cuộc đời tự hiến vì ý Chúa Cha, yêu mến Chúa Cha và yêu thương đồng loại.

CHÚA GIÊSU ĐÃ GÂY CHO ĐỐI PHƯƠNG SỰ NGẠC NHIÊN, SỬNG SỐT:Trước Câu hỏi xem ra hốc búa, một lần nữa Chúa Giêsu đã gây cho họ sự ngạc nhiên lớn lao. Chúa không trả lời họ trên bình diện thông thường, trên bình diện người ta hỏi Người, nhưng Người đã đi vào chiều sâu và khái quát: hai lề luật nhưng tựu trung chỉ là một lề luật mà thôi. Người Do Thái lúc đó vì bị ảnh hưởng của các nhóm: Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ, Sadducée vv…họ tưởng giữ luật vì đó là lề luật mà thôi. Thánh sử Matthêu đã nhắc nhớ cho họ rằng cốt lõi của lề luật mới là tình yêu. Yêu Chúa sẽ gặp người và yêu người sẽ gặp Chúa. Đối với Chúa giữ luật mà thiếu hồn, chỉ dựa trên những điều luật chết mà giữ thì không hề có giá trị gì. Người ta không chỉ đi lễ, giữ vài ngày chúa nhật, đọc kinh cho có lệ là xong đâu, nhưng Matthêu vạch rõ con đường phải đi, cốt lõi đạo phải giữ: đạo tình thương và con đường tình yêu.

Trong muôn thời vẫn còn hai loại người: một loại người cứ tưởng giữ tỉ mỉ mọi khoản luật một cách máy móc, một cách không hồn là nắm chắc phần rỗi. Loại thứ hai đã đi đúng đường, đã giữ đạo tình thương một cách sâu xa, làm mọi sự vì tình yêu mến. Họ đã gặp Chúa trong những người nghèo, người cô đơn, bệnh hoạn, người đói ăn, kẻ rách rưới, trần truồng. Tất cả những hạng người này là hình ảnh của Chúa cứu thế như Tin Mừng Matthêu chương 25 đã mô tả.

Xin Chúa ban cho chúng con tâm hồn nhiệt thành để chúng con tìm thấy Chúa nơi mọi người.

MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI
Mt 22, 34 - 40

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cái kỳ diệu của đạo công giáo vẫn là luật” mến Chúa và yêu Người “. Đó là cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu. Điều nghịch lý của đạo Chúa Giêsu thiết lập là phải yêu như Chúa yêu, và yêu cả kẻ thù nữa. Thánh Augustinô đã viết một câu rất ý nghĩa :” Vâng, hãy yêu đi, rồi anh muốn làm gì thì làm “. Tình yêu giải phóng con người khỏi luật lệ, nhưng cũng đồng thời giúp con người chu toàn luật lệ một cách xuất sắc.

TIN MỪNG HÔM NAY MUỐN NÓI GÌ ? :
Cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu vẫn là yêu thương. Không hiểu được cái chính yếu, cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa, của đạo do Người thiết lập, người môn đệ của Chúa vẫn chưa hiểu gì về Chúa cũng như những lời dạy của Người. Lề luật hay nói nôm na giới răn lớn nhất của Kitô giáo là “ Mến Chúa, yêu Người “. Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay muốn nói lên sứ điệp rõ ràng nhất và chính yếu nhất của đạo công giáo. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người thông luật Do thái :” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi “. Đó là điều răn trọng nhất, và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là :” ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình “ ( Mt 22, 37-39 ). Người môn đệ của Chúa luôn phải hiểu rõ điều răn thứ nhất trong thập giới của Thiên Chúa:” thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Đó là giới răn thực quan trọng vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất, muôn loài và tác tạo nên con người. Bởi thế, con người phải biết ơn Người và thờ phượng, kính mến Người. Tuy nhiên, đạo của Chúa Kitô đòi hỏi con người phải vươn xa hơn nữa, vươn tới mọi người để yêu thương mọi người như Chúa đã yêu, không loại trừ ai ngay cả kẻ thù. Đó là cái kỳ diệu của đạo công giáo. Nếu nói yêu mến Chúa mà không yêu thương người thì chưa phải là người có đạo, chưa phải là người của nước Thiên Chúa.

MẾN CHÚA, YÊU NGƯỜI LÀ MỘT GIỚI LUẬT :
Nếu đã nói mến Chúa mà không yêu người thì vẫn chưa phải là Kitô hữu. Người môn đệ Chúa thường đeo thánh giá hay vì dấu thánh giá hàng ngày là dấu hiệu được mời vươn lên tới Thiên Chúa để kính mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Và người môn đệ Chúa cũng được mời gọi vươn tới mọi người để yêu thương họ kể cả kẻ thù nữa. Như thế, mến Chúa yêu Người chỉ là một giới răn mà thôi. Bởi vì, nói mến Chúa mà không yêu tha nhân là người nói dối, nói láo mà thôi. Hai giới gồm tóm thành một giới răn. Đó là cái mầu nhiệm của đạo công giáo. Mến Chúa đã khó mà yêu người lại càng khó hơn. Tuy nhiên, thực hành được hai giới răn mến Chúa yêu Người mới là điều Chúa muốn người môn đệ Chúa thực hiện và sống.

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :
Thường chúng ta yêu những người có thiện cảm với chúng ta dễ hơn những người ghen ghét chúng ta. Chính vì thế, chúng ta chỉ có thể yêu thương những người khác như chính mình khi chúng ta tránh làm thương tổn đến những tình cảm, những quyền lợi của họ, khi chúng ta không đè bẹp họ, chà đạp họ. Chúng ta chỉ có thể yêu thương những người khác khi chúng ta biết nghĩ đến những người già yếu, những người neo đơn, những người nghèo đói, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng. Chúng ta chỉ có thể yêu thương người khác như chính mình khi chúng ta biết hy sinh xả kỷ, biết phục vụ cách vô vị lợi những người đang gặp thử thách, đang gặp gian nan, đang chờ bàn tay nhân ái, và tấm lòng quảng đại của chúng ta trợ giúp.

TÌNH YÊU LÀ LẼ SỐNG
Mt 22, 34 - 40
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Đã có lần Đức Hồng Y FX Nguyễn văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang bóc lột chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giê-su khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giê-su dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giê-su.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen

LÀM SAO ĐỂ YÊU THƯƠNG THA NHÂN NHƯ CHÍNH MÌNH
Mt 22, 34 - 40
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.

Chúa Kitô đã khẳng định : Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.

Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.

Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.

Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).

Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ : Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).

Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd : đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)

Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây ? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi ? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu ? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa ? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.

Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).

Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.

Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).

Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa - yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.

ĐỂ YÊU CHÚA VÀ THA NHÂN, PHẢI BIẾT YÊU MÌNH
Mt 22, 34 - 40

Lm Trần Bình Trọng

Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Ðồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.

Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Ðức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Ðệ nhị Luật (Ðnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. . là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.

Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Ðức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Ðã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).

Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Ðó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).

Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.

Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Ðọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.

Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.

Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.

Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.

LUẬT YÊU MẾN
Mt 22, 34 - 40

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Do thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy lề luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi, Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng : LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.

1- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.

Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.

Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.

2- Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau :

Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.

Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói : “Nếu ai nói : Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người : ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21).

Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng : “Ta bảo thật cho các người : mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Tất cả mọi điều răn khác đều qui về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn lề luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi đầu của thiên đàng mai sau.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG
Mt 22, 34 - 40
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn “ Giới Luật Yêu Thương “ của Đức Cha Bùi Tuần, Giám Mục Giáo phận Long Xuyên, một cuốn sách thu thập lại một số bài giảng, Đức Cha đã giảng tĩnh tâm cho các chủng sinh. Thú thực, tôi rất thích cách phân tích và truyền đạt tư tưởng của Ngài cho các chủng sinh. Và hôm nay, Chúa nhật XXX thường niên năm A, Tin Mừng lại đề cập tới giới răn quan trọng nhất:” Mến Chúa Yêu Người “. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập là Đạo Yêu Thương. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan định nghĩa.Do đó, truyền giáo cũng có nghĩa là truyền đạt Đạo Yêu Thương và loan báo Chúa là Tình Yêu.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng ngày hôm nay đã trả lời cho người thông luật: ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình “ ( Mt 22, 37-39 ). Đó là cốt lõi của Đạo Công Giáo bởi vì nói cho cùng mến Chúa mà không yêu người là nói láo. Nên, yêu người sẽ gặp Chúa và mến Chúa sẽ gặp người. Vâng, có người sẽ nói tôi yêu mến Chúa thế là đủ vì tôi hằng ngày vẫn đọc kinh, vẫn đi lễ, vẫn làm những điều Hội Thánh dạy mà. Nói thế mới chỉ được một vế vì Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Do đó, nếu nói mình mến Chúa mà lại ghen ghét anh em thì đâu có phải là con Chúa.

Yêu thương là kiện toàn lề luật.Yêu thương là cốt lõi của đạo. Yêu thương là linh hồn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rất rõ về Giới Luật Yêu Thương mà Ngài đề ra. Hai mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra là một giới răn duy nhất, vì con người không thể mến Chúa mà lại ghét bỏ, khinh chê hình ảnh của Ngài là con người do Ngài tạo dựng nên. Và thực ra người ta cũng không nói yêu thương con người mà lại không nhận ra Thiên Chúa là nguồn mạch mọi yêu thương, là nguồn sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài. Khi con người tách biệt hai giới luật ấy là con người tự chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ, biệt phái, tư tế, đầu mục, kinh sư thời Chúa Giêsu quả thực là những con người đạo đức theo quan niệm của họ: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ vẻ bề ngoài yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết đến nỗi khi cầu nguyện trong đền thờ họ dám đứng thẳng kể công với Chúa và chê người người anh em cùng cầu nguyện với mình nhưng không dám ngẩng đầu lên vì tự nhận ra mình tội lỗi, bất xứng. Chúa Giêsu đã điểm mặt những hạng tự cao, tự đại, tự mãn là những hạng giả hình: họ chỉ nói cái miệng, họ đặt ra đủ thứ lề luật để bắt người khác gánh, nhưng mình thì không hề đụng tới, không hề giữ luật vv…Chúa ví họ như mồ mả tô vôi bề ngoài, nhưng bên trong thì toàn hôi thối, rữa nát vv…Chúng ta ngày hôm nay có thể ví họ như người máy, người máy có thể làm được nhiều việc, nhưng không có tâm hồn để biết yêu thương thật.

Thánh Gioan đã giải thích “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, thì không thể yêu mến Đấng nó không thấy “. Chúa đã đưa ra giới luật và giải thích giới luật. Sau khi hiểu được Lời của Chúa, chắc chúng ta không ít thì nhiều cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Hoặc chúng ta ít nhiều cũng hám danh vọng, cũng thích khoe khoang, tự cao, tự nâng mình lên và muốn hạ người khác xuống vì ích kỷ tự cho mình là hơn người.

Chúa Giêsu quả là con người vĩ đại đã thẳng thắn vạch trần thói giả hình của con người và Ngài cương quyết đẩy lùi, tiêu diệt thói giả hình ấy. Ngài cho đó như một thứ ung nhọt phải loại trừ. Ngài cho chúng ta thấy chúng ta để chúng ta chân thành và khiêm tốn hơn.

Ngày nay, người ta thích những chứng nhân sống hơn là những thầy dạy chỉ nói suông, chỉ sống bề ngoài. Chúa muốn mọi người phải biết sám hối, ăn năn và canh tân đời sống. Trong nội tâm mỗi người, ai cũng có một chút tham vọng, một chút háo danh muốn tự đề cao mình và đè bẹp kẻ khác. Chúa dạy và làm gương cho chúng ta:” Trong anh em, ai làm lớn, phải làm người phục vụ anh em “ ( Mt 23, 11 ) và “ Ta đến phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ “,

Đỉnh cao của Đạo Công Giáo là Tình Yêu. Hãy yêu như Chúa vì Yêu người sẽ gặp Chúa và kính mến Chúa sẽ yêu mến anh em, yêu thương con người, yêu thương ngay cả kẻ thù. Và cuối cùng, đó là truyền giáo, là loan báo một Đấng Thiên Sai: ” Đức Giêsu Kitô đầy chạnh thương và nhân hậu ”.

Thánh Phaolô viết: ” Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt “ ( Ep 5, 2 ).

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật XXX thường niên ).

PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ
Mt 22, 34 - 40

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình : “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?

Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại : "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".

Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận : "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có : thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương : Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu " Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất"(Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật"(Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế : Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ; nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy ? Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta " (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì : " Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là " kẻ khác" Chúa phán : "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi " (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào ? "Yêu như chính mình ngươi".

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không ? Thưa : Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như : cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ : Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9); người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

ĐỨC ÁI
Mt 22, 34 - 40
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.

Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.

Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.

Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.

Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).

Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.

Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.

Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.

Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

Nguồn vietcatholic.org

 

1581    22-10-2014 19:55:21