Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Chúa Nhật XXXIV Thường Niên A năm 2014

  1. Giờ Thưởng Phạt
  2. Sống Với Mọi Người
  3. Để Được Yêu Hơn
  4. Vua Phục Vụ
  5. Đức Kitô Vua Vũ Trụ
  6. Vua Tình Yêu
  7. Tình Yêu Là Thước Đo Duy Nhất…
  8. Chúa Van Cho Người Bé Mọn Sự Hiểu Biết Về Mầu Nhiệm Nước Trời
  9. Thiên Chúa Đã Trở Nên Giống Như Bạn Và Tôi
  10. Vương Quốc Của Chúa Kitô
  11. Dân Vi Quý
  12. Vua Muôn Vua
  13. Lễ Chúa Giêsu Là Vua
  14. Đức Giêsu, Vua Vũ Trụ
  15. Lễ Chúa Kitô Vua
  16. Vua Lòng Tin
  17. Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ
  18. Nào Những Kẻ Cha Ta Chúc Phúc
  19. Chúa Kitô Vua
  20. Chúa Kitô Vua
  21. Ngài Sẽ Đến Ngự Trên Ngai Uy Linh
  22. Lễ Chúa Kitô Vua
  23. Chúa Kitô Vua Vũ Trụ

GIỜ THƯỞNG PHẠT
Mt 25, 31 - 46

Thế giới loài người có khởi đầu và có kết thúc. Chúa Giêsu đã báo trước sẽ có ngày tận cùng thời gian, đó là lúc người lành, kẻ dữ biết rõ số phận của mình. Trong ngày cuối cùng đó, Đức Giêsu chịu đóng đinh sẽ hiện đến trong uy nghi vinh hiển, là Vua xét xử thế gian. Lúc đó, tôi sẽ đứng trong nhóm nào, bên phải hay bên trái của Chúa? Tôi phải làm sao để được Chúa Cha phúc, được Chúa Giêsu tha thứ mọi lỗi lầm dương thế và cho nhập vào hàng ngũ các thánh.

Xưa kia khi Chúa Giêsu xuống trần, Ngài không dùng quyền để xử án thế gian nhưng để tỏ lòng thương xót với những người tội lỗi và cứu độ họ ( x. Ga 3,17), nhưng đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ ngự đến trong uy nghi sáng láng và thưởng phạt công minh. Hiện nay, Ngài tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn để chúng ta có cơ hội phụng sự Ngài nơi đồng loại. Khi chúng ta tiếp nhận những kẻ bé mọn vì danh Chúa tức là đón nhận Chúa và mai sau Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Những kẻ đáng thương là đối tượng tình thương của Chúa. Vì vậy, khi ta giúp đỡ những kẻ đáng thương là chúng ta thể hiện tình thương của Chúa đối với con người. Ngược lại, những kẻ dữ vì không thi hành việc bác ái cụ thể đối với những người đáng thương nên đã cản trở tình thương yêu của Chúa đối với con người và vì vậy là một trọng tội đáng vào lửa muôn đời.

Trong ngày phán xét, những người đã thông phần đau khổ vì Đức Giêsu, đã làm chứng cho chân lý và sống vì hạnh phúc của tha nhân sẽ được vinh thắng, được ở cùng với Vua Giêsu rất đáng mến và hưởng vinh phúc với Ngài. Những kẻ dữ, không biết xót thương ai nên phải bị trầm luân khốn khổ, phải lui ra khỏi mặt Chúa đời đời! Đó là hình phạt lớn nhất cho họ.

Hiện nay, sự dữ còn đang hoành hành trong thế giới, cỏ lùng còn lẫn lộn với lúa, người ác sống chung với người lành và còn coi thường việc thưởng phạt, nhưng đến ngày tận thế, họ sẽ biết rõ quyền năng và sự công thẳng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đối với người lành, Chúa sẽ đối xử nhân từ và cho vào hưởng hạnh phúc đời đời.

Chúng ta biết mình sẽ có ngày ra trước toà Chúa. Vậy, chúng ta hãy lo làm tròn bổn phận của mình, làm nhiều việc lành và dâng những hy sinh hàng ngày cho Chúa để được chúa xót thương. Số phận của chúng ta không phải được quyết định vào ngày tận thế nhưng tuỳ thuộc vào thái độ sống của chúng ta ngay từ hôm nay trong cuộc đời dương thế. Xưa ta cho kẻ đói thì nay Chúa cũng cho chúng ta được no nê, xưa ta tốt bụng với anh em thì nay Chúa cũng sẽ tỏ lòng nhân hậu với chúng ta. Chúng ta đong đấu nào cho anh em thì Chúa cũng sẽ đong lại bằng đấu ấy cho chúng ta mà đong dư tràn nữa. (x. Mt 7,2)

Vào ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta về đời sống đạo (x. Ga 18, 37), về lòng hối cải (x. Mt 12, 41), về việc đón tiếp các đại diện của Chúa (x. Mt 10, 41). Những việc bác ái hy sinh vì Chúa là những hoa trái của đời sống Tin Cậy Mến, là những của lễ đẹp lòng Chúa hơn hết. Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách đối xử của ta đối với tha nhân, nhất là những kẻ đang cần ta giúp đỡ vật chất cũng như tinh thần, mỗi người chúng ta hãy sống thật đúng với lời Chúa dạy, lo làm các việc lành phúc đức và trung thành giữ giới răn Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Chúa rất muốn chúng con hạnh phúc nên đã đến cứu chuộc chúng con. Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn và muốn chúng con yêu thương Chúa qua những người nghèo hèn khốn khổ. Chúng con sẽ cố gắng lo giúp đỡ những người bé mọn, tích cực cộng tác với xã hội trong việc giúp đỡ tha nhân nhất là những người trong hoàn cảnh khổ đau, thiếu thốn để xã hội ngày càng tốt đẹp và mọi người nhận ra Chúa đang hiện diện đặc biệt nơi các môn đệ của Người.

SỐNG VỚI MỌI NGƯỜI
Mt 25, 31 - 46

Chúa nhật cuối cùng cùng của năm phụng vụ, cũng chính là Chúa Nhật nói đến ngày Chúa đến trong vinh quang, nói đến ngày phán xét. Ngày đó sẽ được hiển hiện rõ người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hay ác một cách rõ ràng. Tiêu chuẩn để phân xử là tất cả những gì chúng ta đã thực hiện cho những anh chị em hằng ngày chúng ta gặp gỡ. Vậy chúng ta đã làm gì và chúng ta đã sống thế nào ?

Có thể chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận đó là chính Ngài, vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, sự cảm thông của người khác. Những sự trợ giúp mà chúng ta nhận được từ người khác thuộc cả về phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Những nhu cầu đó đôi khi cũng rất quan trọng, vì nó giúp chúng ta được vui sống .

Rồi sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta cũng có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong một nơi mà chúng ta chưa quen biết ; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một vài ngàn và được người khác cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm…. Những cơ hội đó chính là những niềm vui cho cuộc sống.

Rồi cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người làm ơn. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã có và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Đi đến hoặc gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến của người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi những người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn, trao cho người ăn xin một vài ngàn hay mua cho họ một chiếc bánh, một ly nước, giúp đỡ người lâm nạn trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả những việc đó đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.

Trong thực tế có rất nhiều sự hy sinh, co nhiều cử chỉ cao thượng như việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, chia sẻ cho những ai đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, thăm hỏi những tù nhân …việc làm đó của chúng ta được Chúa nhìn nhận là làm cho chính Ngài, như trong bài Phúc âm hôm nay có nói tới.

Ngược lại, cũng không ít lần chúng ta dửng dưng thờ ờ, để đến nỗi Chúa đã phải trách : "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn ; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta đâu." Đó chính là lời cảnh tỉnh với những ai còn đang vô tình, vô tâm để họ biết đem tình yêu và lòng bác ái đến với mọi người.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống theo lời kinh hòa bình mà mỗi ngày giáo phận chúng con vẫn luôn hát vang: “biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu ”. Amen

ĐỂ ĐƯỢC YÊU HƠN
Mt 25, 31 - 46

“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)

“Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước tòa Chúa Kitô để trả lẽ vể các hành vi của mình” (Giáo lý Hội thánh công giáo). Điều xác tính này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là ngày nào thì không ai được biết nhưng điều gì sẽ xảy ra trong ngày đó thì đã được nói quá rõ ràng. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Người “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25, 31). Người sẽ ngồi trên ngai của Người và theo lẽ chính trực mà xét xử, mà “tách chiên ra khỏi dê”. Ngày ấy Thiên Chúa không hỏi Ta có bao nhiêu hecta đất, giữ chức vụ gì trong xã hội, nói được mấy thứ tiếng hay học hàm, học vị thế nào. Nhưng điều Ngài đặt nặng nhất là “món nợ yêu thương”, là anh đã làm được gì cho đồng loại của mình.

Như Thiên chúa yêu thương. Đức Giêsu cũng muốn con người hãy yêu thương nhau. Trong đó đối tượng được chú ý đặc biệt là những “kẻ bé mọn” tức là những ai xét thấy là cần phải được nâng đỡ trên mọi lãnh vực. Ở đây cụ thể có sáu loại việc: đói cho ăn, khát cho uống; lỡ đường cho nương trọ; trần truồng cho mặc, bệnh tật thì thăm viếng, tù đày thì ủi an. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa. Kể cả là sự giúp đỡ về tinh thần, bão vệ công lý, xây dựng hoà bình… Thiên Chúa muốn chúng ta thương yêu người khác rồi chính Ngài lại là người đứng ra trả ơn cho chung ta. Đây mới chính là điều không ai ngờ tới. Thật vậy, khi làm điều thiện tức là chúng ta không những làm theo lời dạy của Chúa mà còn diễn tả cách sống động tình thương của Thiên Chúa tại trần gian này. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa ham danh lợi, muốn được mọi người biết đến lòng quảng đại của mình. Thiên Chúa không như con ngươì, và Ngài cũng chẳng cần phải muốn thế để làm gì. Điều quan trọng là Ngài muốn con người biết yêu thương, biết chia sẻ cho nhau, nâng đỡ nhau trên cuộc đời vốn đã quá khó nhọc nầy. Và yêu thương chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất của người con biết nghe lời, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Ga13,35). Mặc khác, trong trách nhiệm liên đới, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, chúng ta đâu thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại.

Có lẽ bạn không phủ nhận rằng, bạn cũng có nhu cầu được yêu thương. Vậy nếu bạn thực hành việc yêu thương với người khác cũng là hợp lý thôi. “muốn ăn phải gắp cho người” mà. Kẻ dữ làm sao biết yêu thương và khi hành động thiếu bác ái là ta không muốn yêu thương nơi chính bản thân mình. Như vậy, nếu có phải chịu hình phạt trong lửa hoả ngục cũng không là điều ngạc nhiên.

Hơn nữa, đây còn là chuyện làm cho chính Chúa. Làm cho con người mà Thiên Chúa trả công thì còn mong ước gì hơn.

Muôn thuở Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta bất luận chúng ta tốt xấu. Tuy vậy, một khi chúng ta làm theo lời dạy của Chúa, chúng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn. Vậy, có lý do gì để bạn khước từ tình thương và hạnh phúc đã dành sẵn cho người biết lắng nghe và thực hành lời Chúa?

“Phần gia nghiệp” chỉ dành cho những ai biết sống tinh thần Phúc Âm.

VUA PHỤC VỤ
Mt 25, 31 – 46

Trên đời này, người ta muốn làm vua, làm lớn, là để lo cho bản thân mình, được vinh thân phì da, để ở trên đầu trên cổ mọi nguời. Nói là phục vụ cho dân, thương dân như con đỏ, tất cả chỉ là những từ hoa mỹ, rổng tuếch, cùng lắm chỉ theo nghĩa tương đối mà thôi… Nhìn các ông vua trong chính quyền VN hôm nay, ta cũng đủ biết, họ chỉ lo cho cái ghế của họ, lo tham nhũng móc ngoặc, để lợi cho mình và gia đình trước đã. Còn dân chúng hả, may nhờ rủi chịu, lỡ nghèo ăn cắp ăn trộm con gà con vịt, phải tù rục xương, ráng chịu lấy!!!

Có một vị Vua kinh thánh nói đến, khác lạ hơn các loại vua nêu trên: Vua hòa bình – vua Tình Thương – Vua công lý – Vua của những người nghèo. Các danh xưng đó không phải chỉ là sáo ngữ, mà là sự thật. Chính vị Vua đó đã nói: “Ta đến là để phục vụ, không phải để được phục vụ, và làm giá cứu chuộc cho nhiều người. - Ai yêu sự thật sẽ đến cùng Ta.” Bao thế kỷ qua, có bao nhiêu người theo chân vị Vua đó... Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/.Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ; Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu là Vua, có ý dâng lên Người tất cả công trình cứu chuộc và tuyên xưng Người là đầu và cũng là cuối cùng của thời gian. Bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, vừa nặng phần dụ ngôn, nên không thể nào hiểu được nó chỉ là một bài luân lý suông, mà còn là còn những qui tắc sống con người phải tuân theo để được hạnh phúc…. Đây là khung cảnh ngày cuối cùng của vũ trụ, nơi đây người ta phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa mọi việc mình đã làm cho tha nhân, lại được coi là làm cho Thiên Chúa…

Như trên đã nói, bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, cảnh ngày phán xét cuối cùng của vũ trụ, vừa là một dụ ngôn. Chúa Giêsu, Vua cao cả ngự trên ngai vinh hiển có các thiên sứ hầu cận, Người tách biệt kẻ lành người dữ, như tách biệt chiên với dê. Lúc đó người chúc phúc cho người lành vì họ đã làm mọi điều tốt lành cho Thiên Chúa. Khi đó, người lành nói: có khi nào con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống.v.v.. Vua Giêsu mới trả lời:Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta. Rồi Đức Vua quay sang kẻ dử … cũng nói như thế…

b/. Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa nói: “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Vua Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, đã chúc phúc cho những người lành, và đã mời họ vào Nước Trời, vì khi còn sống, họ quan tâm giúp đỡ kẻ nghèo khó, cơ nhỡ. Hóa ra Chúa quan tâm đến kẻ nghèo, người thấp bé, và Chúa nói: ai giúp đỡ họ, yêu thương họ chính là giúp đỡ, yêu thương chính Chúa.

Xã hội càng văn minh, càng có nhiều người nghèo đói. Chúng ta thử nhìn ngay xã hội VN chúng ta hiện nay. Hàng ngày báo đài ra rả nói, nào đất nước đang phát triển, vùn vụt đi lên, nào hàng năm bước phát triển kinh tế là bao nhiêu phần trăm đó, thu nhập bình quân đầu người là 700 USD = 14.500.000 $VN. Ta thử nhìn coi: VN hiện nay có trên 80 triệu dân; nhưng nông dân đã chiếm ít nữa là 80%. 10% là nông dân giàu, có của ăn của để, còn lại gần 70% nông dân nghèo ở nông thôn, có cơm ăn hàng ngày, dù chưa đói, nhưng… ta có dám nói họ là giàu không? Cần phải xây nhà để ở, hoặc mua chiếc xe Honda để đi, hoặc cưới vợ cho con, đó là cả chuyện nan giải, nhiều lúc phải đi vay nóng vay lạnh…Vậy mà nói dân giàu, đang phát triển? Vậy mà nói vua quan thương con như trứng mỏng…

Chúa Giêsu, Vua của tình thương; Nước của Người là Nước của tình thương, vì thế mọi việc đều xét định dưới ánh sáng của tình thương. Chúa nói: mọi việc bác ái chúng ta làm cho bất cứ ai, cũng là làm cho Chúa. Chỉ có một mình Vua Giêsu mới đồng hóa mình với thần dân Người, chỉ một mình Người mới hết mình lo cho nhân loại, Người sẵn sàng chết cho họ nữa…vì “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Đáng khâm phục thay…Vua Giêsu! ! !

Câu chuyện: Đức Cha Gioan Cassaigne, làm TGM Saigòn từ 1940 đến 1955. Khi còn là linh mục, ngài rất quan tâm lo cho anh em Thượng K’Hor bị cùi, tại trại cùi Di Linh nhiều năm. Sau khi làm GM Saigon 15 năm, ngài đã về sống chung cùng anh em cùi Di Linh, và ngài đã ở đó 18 năm. Chính Đức Cha vì yêu thương chăm sóc anh em cùi K’Hor, mà ngài mắc phải bệnh cùi như họ và qua đời. Ngài được chôn cất tại đây giữa những người cùi, mà ngài gọi họ là anh em. Một tấm gương cao cả của lòng yêu thương như Chúa Giêsu nói: Điều gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta vậy. Gương của Cha Damien (và nhiều nguời khác), sống giữa những người cùi, rồi cùng chết với họ, đã là những tấm gương sáng ngời sẵn sàng thực hành Lời Chúa nói hôm nay…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Đón nhận Chúa và phục vụ Chúa không khó, nhưng giúp đở người khác vì danh Chúa, nhất là giúp người mà ta không thích, thật là chuyện vô vàn khó khăn. Bài TM hôm nay Chúa nói:“Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Ta có sẵn sàng thực hiện lời Chúa không?

ĐỨC KITÔ VUA VŨ TRỤ
Mt 25, 31-46
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cái trớ trêu của các môn đệ và những người dân Do Thái khi xưa là cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ lên ngai vua như quan niệm con người. Chúa trở thành vua để các môn đệ được chia chác quyền hành và dân nước được hưởng an bình, quyền lợi vv…Thế nhưng, ý nghĩ của con người hoàn toàn trái nghịch với ý nghĩ của Chúa Giêsu. Người đến để hầu hạ, chứ không phải được phục vụ. Chúa Giêsu trở nên vua tôi tớ. Đây là một sự nghịch lý đã làm bao người thất vọng. Vua hiền lành, khiêm nhượng ngồi trên mình lừa…Vua cúi xuống rửa chân cho các môn đệ…

MỘT BỨC HỌA TOÀN CẢNH, BỨC HỌA CHUNG CUỘC: Các môn đệ của Chúa Giêsu đã rất bồn chồn, lo lắng khi Chúa loan tin đền thờ Giêrusalem bị tàn phá. Do đó, các ông hỏi Người:” Khi nào thì những việc đó sẽ xẩy đến ?”. Chúa không trả lời trực tiếp cho các ông những điều các ông mong đợi, trái lại trong bài giảng nói về ngày cùng tận, và ngang qua năm dụ ngôn, Chúa đã dậy các môn đệ và mọi người phải tỉnh thức, sẵn sàng và cầu nguyện, phải làm cho các nén bạc được trao, sinh lời,

sinh lợi. Phần kết thúc, cho chúng ta cái nhìn chung về cuộc chung thẩm, về ngày tận thế và cho chúng ta hiểu rõ thái độ, chí hướng của Chúa Giêsu:” Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi”( Mt 25, 31-33 ). Chính vì thế, có cảnh Chúa đối thoại với những kẻ được chúc phúc, đối thoại với những người bị nguyền rủa, bị chúc dữ và sau đó là án phạt ( Mt 25, 46 ). Bức họa cho thấy cuộc tập hợp lớn lao, vĩ đại của toàn thể nhân loại chung quanh Đấng sẽ”ngự lên Ngai vinh hiển của Người “. Đấng ngự trên Ngai như một Vị có đầy uy quyền, Đấng thuộc về Thiên Chúa, ngự đến xét xử toàn dân thiên hạ. Đấng như mục tử mà ngôn sứ Edêkiên loan báo:” Người sẽ tách biệt họ như Mục Tử tách biệt chiên với dê: chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái “.

Đức Giêsu còn được diễn tả như Đức Vua xét xử thật công minh, đang nói về Cha của mình và tất cả mọi người bị xét xử, thưa với Người” Lạy Chúa “. Đây lành danh xưng

Được gán cho Đức Kitô vinh hiển, sẽ ngự đến trong ngày tận thế, xét xử nhân loại theo lẽ công minh và do lòng nhân hậu của Chúa.

CHÚA HÉ MỞ CHO THẤY : Khi đối thoại với những người được chúc phúc và những quân bị nguyền rủa, nhân loại mới té ngửa Chúa đồng hóa mình với những con người cùng cực, những kẻ khó nghèo. Mỗi lần các con cho một người đói ăn, kẻ khát uống…Mỗi lần các con cho những người rách rưới ăn mặc, những người bị đau khổ, các con an ủi…Mỗi lần các con thăm viếng kẻ tù rạc là các con làm cho chính Ta. Quả thực, Chúa đã đồng hóa với tất cả những người đó, những người thấp cổ bé họng để thấy Vua Giêsu như thế nào. Chúa là Vua nhưng lại là Vua tôi tớ, Vua hiền lành, khiêm nhượng, nhân hậu. Và rồi khi bị phán xét thì đã quá muộn khi con người không làm cho Vua Giêsu những điều mà những người được chúc phúc đã làm. Thế rồi, việc thi hành án diễn ra thật đơn giản:”Thế là bọn này sẽ phải ra đi mà vào chốn cực hình muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được hưởng phúc trường sinh”.

Chúa hé mở cho nhân loại thấy cảnh tượng cuộc phán xét: kẻ lành được hưởng hạnh phúc và kẻ dữ chịu án phạt đời đời. Rõ ràng Chúa muốn cho nhân loại thấy tấm lòng đầy yêu thương của Người. Tấm lòng của Chúa vượt qua lề luật và các ngôn sứ…Người là Vua vũ trụ và là Vua các tâm hồn.

Philatô hỏi:” Ông có phải là Vua không ? Chúa Giêsu trả lời tự ý Vua nói về Tôi hay người ta đã nói về Tôi như vậy ? Chúa Giêsu là Vua nhưng không theo quan niệm Vua của con người mà Người là Vua Vũ Trụ Trời Đất, Vua muôn Vua…

Lạy Chúa Giêsu là Vua xin ngự trị trong cung điện tâm hồn của mỗi người chúng con và của cả nhân loại này…

VUA TÌNH YÊU
Mt 25, 31 - 46
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, các dân tộc thuộc vùng núi Cô-ca-dơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.

Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói : “Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các người đã chảy ra để đền bù cho tội ác này”. Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng hay hối lộ nữa.

Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hóa thân làm người đề cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.

Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết : “Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta”. Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy, và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói : “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu”.

Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết : “Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.

TÌNH YÊU LÀ THƯỚC ĐO DUY NHẤT…
Mt 25, 31 - 46

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Kết thúc năm phụng vụ, Mẹ Giáo hội muốn con cái mình suy niệm về viễn tượng của ngày Thẩm phán- ngày mà Con Người ngự đến trong vinh quang, triệu tập tứ phương thiên hạ đến trước mặt Người để chịu xét xử. Ngày đó cũng là ngày công - tội, thưởng- phạt phân minh rõ ràng, không còn chỗ cho địa vị, cho quyền uy, thế lực hay giàu sang phú quý tác quai tác quái. Ngày đó ai nấy, bất luận là người thế nào, sẽ thấy rõ công việc mình đã thực hiện khi còn sống trên trần gian này và, ngày đó Con Người sẽ dựa vào công trạng để xét xử, số phận được định đoạt hưởng phúc hay hưởng phạt đời đời.

Cảnh tượng ngày thẩm phán tuy được viết theo lối văn thể khải huyền nhưng thánh sử Mátthêu đã trình bày rất xúc tích, rõ ràng và dễ hiểu. Chúng ta có thể thấy đối tượng của ngày chung thẩm không dành riêng người Dothái hay những người thuộc khối Kytô mà còn cho toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, giai cấp. Ngày đó là ngày đại hội toàn dân. Chính Thiên Chúa sẽ triệu tập toàn thể nhân loại đến trước mặt Con Người để chịu xét xử. Ngày đó Chúa Kytô - Vua muôn vua, Chúa các chúa, sẽ ngự trên ngai uy linh của Người để xét xử chư dân. Không một ai trong ngày đó được miễn trừ ngày trọng đại này. Cũng không một ai trong ngày đó tìm được cơ hội để thanh minh hay lập công chuộc tội vì những việc mình đã thực hiện trước đây khi còn sống trên trần gian. Vì thế, tính “nghiệt ngã” của ngày thẩm phán không phải đem ra nhằm hù doạ mà là một sự thật hiển nhiên sẽ xảy đến nếu nhân loại cố tình phớt lờ những gì mình đã gây nên cho đồng loại.

Ngày thẩm phán được sánh ví như ngày vị mục tử tách chiên ra khỏi dê, chiên ở bên phải còn dê ở bên trái. Sở dĩ cần phải tách ra như thế là vì thực tế chiên và dê tuy ban ngày cùng chung một ràn nhưng khi chiều về cần phải tách chúng ra vì dê không thể ở ngoài trời đẫm sương như chiên được. Hình ảnh chiên- dê, tay phải - tay trái mang đầy tính biểu tượng. Chúng ta biết chiên là một loài vật có giá trị, bộ lông mầu trắng của chúng tượng trưng cho sự tinh tuyền, công chính. Còn dê, trái lại, tượng trưng cho sự bất chính, không tinh tuyền; cũng vậy, nếu tay phải tượng trưng cho quyền uy thế lực và giàu sang theo quan niệm của người Dothái, thì tay trái tượng trưng cho những gì xấu xa tội lỗi và hèn nhát.

Tách biệt để thấy sự khác biệt. Tách biệt để thấy hố ngăn cách vô phương cứu chữa. Tách biệt để thấy một sự thật phủ phàng được phơi bày trong chính sự khác biệt này. Tách biệt để thấy công đức được đề cao và cũng để biết đến một hạng người không bao giờ biết đến khái niệm công đức hay việc làm phúc bố thí là gì. Thật vậy, khi tách biệt như thế, chúng ta thấy một bên được vị Thẩm phán hết lời khen ngợi : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; và một bên là lời khiển trách : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ac quỷ và các sứ thần của nó”.

Sự khác biệt này không đến bởi vị Thẩm phán thiên vị, nhận tiền hối lộ để làm lợi cho bên này hoặc bên kia mà đến từ việc thực thi công bình bác ái của chính đối tượng chịu xét xử. Rõ ràng chúng ta thấy Đức Vua chỉ dựa vào mỗi điều này để xét xử. Theo đó những việc được xem là “đáng được chúc phúc” được Đức Vua liệt kê khá chi tiết. Đó là : cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp rước khách lạ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm người đau yếu và viếng kẻ tù đày. Những người được chúc phúc thật sự ngỡ ngàng vì họ cũng không ngờ những việc làm đạo đức lúc trước của mình lại có ngày được Đức Vua ghi nhận không xót một điều. Và càng ngỡ ngàng hơn nữa khi Đức Vua tự nhận khi họ làm những việc lành phúc đức như thế là làm cho chính Người. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.

Còn đối với “quân bị nguyền rủa” họ cũng lấy làm ngỡ ngàng vì có bao giờ họ thấy nhà Vua vi hành, xuống với thường dân để họ có cơ hội tiếp rước đâu. Cố để phân minh thôi, nhưng thật sự họ biết rõ hàng ngày có biết bao con người cần đến sự trợ giúp của họ, thế mà họ vẫn phớt lờ. Bao nhiêu kẻ túng nghèo, rách rưới, bệnh hoạn tật nguyền qua lại trước mắt họ, nhưng họ vẫn làm ngơ không đoái hoài. Như thế bị liệt vào hạng “quân bị nguyền rủa” không bởi vì họ không phải là người Dothái hay Kytô hữu mà là vì họ không có lòng nhân hậu, không biết xót thương, không giúp đỡ đồng loại. Cho hay, đối với Tin mừng Chúa Kytô, không yêu thương, không giúp đỡ anh em đồng loại là một trọng tội và hậu quả là sẽ bị liệt vào hàng “quân bị nguyền rủa” và tệ hơn nữa sẽ rơi vào lửa cực hình muôn kiếp.

Đọc và suy niệm đoạn Tin mừng về ngày Thẩm phán trong ngày cuối cùng của năm phụng vụ giúp mỗi người Kytô chúng ta duyệt xét lại thái độ sống của mình đối với anh em đồng loại. Hãy nhớ rằng điều kiện duy nhất để được vào “thừa hưởng Vương quốc” muôn đời không nằm ở việc chúng ta là ai, địa vị thế nào, thuộc giới tư sản hay vô sản mà nằm ở chỗ chúng ta đã đối xứ với anh em đồng loại như thế nào. Tiêu chuẩn của ngày Thẩm phán dựa trên tình yêu và chính điều này sẽ là thước đo chuẩn xác định đoạt số phận của mỗi người. Tình yêu mới là thước đo duy nhất xác định kẻ tốt người xấu trong ngày Con Người quang lâm.

CHÚA VAN CHO NGƯỜI BÉ MỌN SỰ HIỂU BIẾT VỀ MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI
Mt 25, 31 - 46

Lm Trần Bình Trọng

Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha đã ban cho những người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời. Còn những người khôn ngoan thông thái lại không lãnh hội được. Ðiều được tiết lộ cho những người này thì lại bị giấu kín khỏi những người khác. Vậy đâu là sự khác biệt và tại sao có sự khác biệt? Việc Thiên Chúa bày tỏ cho loài người qua Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nghĩa là ai cũng có thể mua cuốn Thánh kinh để đọc, nếu có tiền.

Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, chỉ có những người khiêm tốn trước Ðấng tối cao, mới có thể lãnh hội được lời Chúa. Ðó chính là ý nghĩa lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan và thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25). Chẳng thế mà văn hào Pascal mới nói: Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và Giacóp, không phải là Thiên Chúa của các triết gia và những nhà thông thái. Pascal là nhà toán học, vật lý học và triết học mà đã nói lên điều đó.

Vậy có phải Thiên Chúa giấu, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời không? Nếu Chúa xử với bậc khôn ngoan và thông thái như vậy thì có vẻ Chúa không công bình với họ vì chính Chúa đã tạo dựng nên người khôn ngoan và thông thái. Và nếu như vậy thì kể là cũng tội nghiệp cho họ. Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.

Ðể có thể đến với Chúa và đặt niềm tin phó thác vào Người như trẻ con phó thác vào cha mẹ, người ta cần có những đức tính của trẻ nhỏ: đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác. Khi lớn lên với những của cải giàu sang, sự hiểu biết sâu rộng và quyền hành, người ta có thể bớt tùy thuộc vào Chúa hay không còn muốn tuỳ thuộc vào Chúa hoặc vẫn muốn tuỳ thuộc vào Chúa tuỳ theo mức độ người ta gắn bó với của cải, quyền thế hoặc tài trí. Ðặc biệt hôm nay Chúa mời gọi loài người: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).

Có khi nào ta cảm thấy vất vả vì công việc bổn phận trong gia đình và trách nhiệm ngoài xã hội, khiến ta muốn thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống không? Có khi nào ta phải mang những gánh nặng của cuộc đời như bệnh tật nan trị trong thân xác hoặc những vết thương về tinh thần và tình cảm khiến tâm can ta bị hao mòn, héo hắt không? Có bao giờ ta gặp cảnh khổ đau, sầu não, phiền muộn, âu lo, sợ hãi, chán nản, thất vọng không? Có khi nào người khác thấy ta có vẻ hạnh phúc, nhưng thực sự ta đang phải mang tủi hổ về bản thân và gia đình, ta phải ngậm đắng, nuốt cay và khóc thầm trong lòng không? Có khi nào ta không có ai hoặc không tìm được ai để thổ lộ nỗi lòng cho vơi nhẹ, vì sợ không được lắng nghe và không được giữ kín không?

Nếu vậy thì hôm nay Chúa mời gọi ta đến với Chúa để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút gánh nặng của cuộc sống vào lòng từ ái của Chúa, để hoà lẫn những đau khổ của đời ta với những khổ đau của Chúa trên thập giá mà dâng lên Thiên Chúa Cha, hầu làm giá đền tội cho chính mình và cho loài người. Chúa không hứa cất đi những gánh nặng khỏi cuộc sống của ta, nhưng còn mời gọi ta mang lấy ách của Người: Hãy mang lấy ách của tôi và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Vậy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng như thế nào? Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Ðấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9:9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21:7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Ðiều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.

Và Chúa bảo đảm với ta: Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng (Mt 11:30). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma nêu lý do tại sao ách ta vác không được êm ái, và gánh ta mang không được nhẹ nhàng là vì ta không sống theo Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8:10). Ta cảm thấy mệt mỏi trong cuộc sống khi ta dựa vào sức riêng mà không cậy dựa vào ơn Chúa giúp cho ta vượt qua. Có bao giờ ta phàn nàn rằng Thiên Chúa và đạo giáo không đem lại ích lợi gì cho cuộc sống không? Nếu đạo giáo không mang lại được gì ích lợi cho cuộc sống, thì đạo phải tới ngày tàn lụi. Tuy nhiên đạo vẫn đứng vững được cho tới ngày nay và đã đem lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống muôn vàn người tín hữu. Nếu người ta không đạt được lợi ích thiêng liêng đó, thì lỗi tại đâu?

Vậy ta cần xét đâu là động lực thúc đẩy khiến cho ách mà ta vác trở nên êm ái, gánh nặng ta mang trở nên nhẹ nhàng? Thưa chính tình yêu của Ðức Kitô đã khiến cho ách của Người trở nên êm ái, và gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô cũng đã nhận ra hệ quả của tình yêu khi đặt bút viết: Ðâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như người ta vẫn cảm thấy khổ, người ta lại chấp nhận cái khổ đó vì yêu. Ðến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.

Lời cầu nguyện xin được bổ sức:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa bồi bổ sức mạnh và nghị lực,
cho những ai vất vả và mang gánh nặng của cuộc sống.
Xin dâng lên Chúa những người đau khổ về thân xác và tâm hồn;
những người lo lắng sợ hãi; những người mỏi mệt và chán sống;
những người phải mang tủi hổ và mặc cảm trong cuộc đời.
Xin ban cho họ thêm can trường và hi vọng.
Còn những khó khăn và khắc khoải của đời con,
con cũng xin dâng lên Chúa với lòng trông cậy. Amen.

THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG NHƯ BẠN VÀ TÔI
Mt 25, 31 - 46

Lm Jos Tạ Duy Tuyến

Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu nữa mình hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để hai người có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.

Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”.Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?

Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen

VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA KITÔ
Mt 25, 31 - 46

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Trên thế giới ngày nay, chỉ còn một số nước có vua, nhưng vua thực ra chỉ để cho có vị và hình thức, chứ thực quyền nằm ở tay tổng thống hoặc thủ tướng mà thôi. Do đó, danh từ vua thực sự không gây được ấn tượng cho chúng ta được bao nhiêu. Bởi vì xưa thời phong kiến đã có những vị vua tàn bạo, làm khổ dân lành. Chính vì thế, lễ Chúa Giêsu Vua thoạt nghĩ, xem ra khó gây cảm hứng và ấn tượng khi chúng ta nghĩ tới những vị vua chúa đã có một thời làm mưa làm gió trên nhiều đất nước. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Vua lại hoàn toàn khác, bởi vì Vương Quyền của Ngài không thuộc trần gian này. Chúa là Vua vì Ngài là Thiên Chúa và Ngài là Tình yêu.

Chúng ta vẫn còn nhớ rất kỹ trong vụ án của Chúa Giêsu. Philatô sau khi trao đổi với người Do Thái ngoài phủ đường. Ông vào trong và cho truyền điệu Đức Giêsu Kitô đến. Ông hỏi Chúa Giêsu :” Ông mà lại là Vua dân Do Thái ? “. Câu hỏi này của Philatô minh chứng Ông đã biết trước điều mà người Do Thái cáo tội Chúa Giêsu. Đối với Philatô cũng như trong bản cáo trạng của người Do Thái đã tố Chúa Giêsu, thì tước hiệu “ Vua Do Thái “ mang ý nghĩa chính trị. Đáp lại lời của Philatô, Chúa Giêsu đặt câu hỏi :” Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về Tôi ? “. Chúa Giêsu muốn phân biệt từ Vua về tôn giáo và từ Vua có nghĩa chính trị. Nếu Philatô hiểu theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu sẽ phủ nhận, còn nếu Philatô hiểu theo nghĩa tôn giáo, tức là Vua Mêsia của dân Do Thái, thì Ngài sẽ nhận. Chúa Giêsu nói rõ cho Philatô biết Ngài có một Nước, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này.Nước của Chúa Giêsu không mang sắc thái chính trị như Philatô và người Do Thái nghĩ.” Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của Tôi đã cố chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái “. Philatô hỏi tiếp:”Vậy thì ông là Vua sao ? “. “ Ông nói đó : Tôi là Vua !”. Đây là lời khẳng định hết sức long trọng và quan trong của Chúa Giêsu vì Ngài xác nhận :” Tôi là Vua “.Chúa Giêsu cứ từ từ giải thích cho Philatô ý nghĩa Vương quyền của Ngài :” Chính vì lẽ này mà Tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà Tôi đã đến trong thế gian : Ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng Tôi “( Ga 18,37 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi vì chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến thế gian:” Quả vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế ( đó ) đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa độc nhất, vô cùng thánh thiện, vô cùng công minh, Ngài luôn chạnh thương và giầu lòng thương xót.

Thánh Gioan đã nói “ Thiên Chúa là Tình Yêu “. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua khiêm nhượng, hiền từ, Ngài ngồi trên lưng lừa để vào Giêrusalem. Ngài tạo lập một Vương Quốc toàn Kitô hữu sống tình yêu. Ngài là Vua Tình Yêu, Vua phục vụ, không ai trên thế gian này yêu thương như Ngài. Bởi vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Đức Giêsu đã gánh hết tội cho thế gian, chết cho thế gian để nhân loại được giải thoát, được ơn cứu độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu yêu thương như người cha đón nhận người con hoang đàng, phung phá trở về ( Lc 15, 11-13 ). Chúa hy sinh cho đàn chiên, bảo vệ đàn chiên ( Ga 10, 11 ). Ngài đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Ngài yêu thương tha thứ cả người tội lỗi bị con người kết án tử hình ( Ga 8, 1-11 ).Chúa Giêsu yêu thương cả kẻ thù ( Mt 5, 43-48 ). Chúa Giêsu quảng đại tha thứ và tha thứ không giới hạn, tha thứ không ngừng. “ Tôi đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ mọi người “ ( Mc 10, 42-45 ). Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa duy nhất như trong mười giới răn, Ngài dạy nhân loại :” Thờ phượng một Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự “ ( Giới luật thứ I ). Tuy là Thiên Chúa tối cao, nhưng Ngài đã hủy mình ra không, nhận kiếp người phàm, ngọai trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-8 ). Chúa Giêsu chính là Tình Yêu vì Ngài luôn vâng lời Thiên Chúa Cha, tự nguyện phục vụ nhân loại, rửa chân cho các môn đệ. Chúa là Tình Yêu nhưng Ngài luôn muốn mọi người đáp trả lại Tình Yêu của Ngài.

Vương Quốc của Chúa Giêsu là Vương Quốc của sự thật, công lý. Do đó, mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở nên một bí tích tình yêu cho Vương Quốc của Chúa Giêsu, trở nên một dấu chỉ cho thế giới về những gì mà Vương Quốc sự thật của Thiên Chúa làm trong trần gian này.Vương Quốc của Chúa Giêsu thuộc về mỗi Kitô hữu, và chính Vương Quốc của Chúa Giêsu sẽ mang lại cho con người, cho mỗi Kitô hữu, cho Giáo Hội sự sống mới, sự sống hoàn hảo khi Chúa Kitô đến lần sau hết trong vinh quang của Ngài. Do đó, Chúa nhật Chúa Kitô Vua mời gọi mọi Kitô hữu, mời gọi Hội Thánh trung thành với Đức Kitô.

Lạy Chúa Kitô Vua, xin cho chúng con được trung thành với Ngài.
Xin cho chúng con nhận biết Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc Tình Yêu, Sự Thật và Ân Sủng.

Xin cho chúng con càng lúc càng nhận ra Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc của Sự Thánh Thiện và Vương Quốc của Sự Sống, Vương Quốc của Bình An, Công Bình và Chân Lý.
Amen.

DÂN VI QUÝ
Mt 25, 31 - 46
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Col 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, giáo hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.

Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền “xẩy ra như vậy”. Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi nó được dựng nên “giống hình ảnh” của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Col 1,15).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, giáo hội không chỉ khẳng định quyền tối thượng của Chúa Kitô trên mọi loài mà còn tuyên xưng Chúa Kitô chính là khuôn mẫu, là lẽ sống của mọi hiện hữu, nhất là của loài người. Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà giáo hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.

“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đinh dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.

Mối tương quan “cùng-với” này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó…, khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng “người rừng” đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại…là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.

Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quảng thời gian rao giảng Tin mừng và đích diểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).

Hình ảnh của một vị minh quân theo quan niệm người xưa đó là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ.
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.

Dỏng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: “Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Col 1,20).

Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy…( Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27).Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi “ngự trên ngai vinh hiển của Người” sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em “bé mọn” (x.Mt 25,31-46).

VUA MUÔN VUA
Mt 25, 31 - 46

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Thế giới này còn một số giữ lại chức vị Vua. Tuy nhiên, Vua chỉ đứng cho có vì bởi vì thực quyền vẫn là Tổng Thống hay Thủ Tướng. Chúa Giêsu được tung hô là Vua nhưng là Vua vũ trụ loài người theo mặt thiêng liêng.

Trước mặt Philatô, Philatô hỏi Chúa Giêsu:” Ông có phải là Vua không ? “. Thực tế, Philatô chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu. Ông nghe nói nhiều về Ngài, Ông biết Chúa là Đấng vô tội, nhưng sự nhát đảm, hèn yếu và sợ bị mất ngai vàng đã làm cho Ông tối mắt lại. Quả Đức Giêsu không nói rõ mình là Vua, Ngài cũng tránh và lẩn trốn để dân chúng không tôn vương Ngài, nhưng Chúa lại nói nhiều đến Nước của Ngài. Nước của Chúa là Nước Trời, không thuộc thế gian này. Do đó, Philatô chẳng có gì phải sợ, chẳng có gì phải e dè vì Chúa đâu có làm Vua theo kiểu thế gian. Nước của Ngài không phải là một cơ cấu chính trị, có quân đội, có lãnh thổ trên bản đồ. Tuy nhiên, ai nghe tiếng Ngài, thực hiện lời Ngài và đứng về phía sự thật thì thuộc Nước của Ngài.

Chúa Giêsu là Vua khiêm nhượng, Vua tình yêu. Sống yêu thương là sống trong Vương Quốc của Ngài. Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay mô tả cho các môn đệ về ngày tận thế. Vào ngày cánh chung, Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, Chúa sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Muôn dân, muôn nước sẽ qui tụ chung quanh Người, Chúa sẽ phân chia họ như mục tử tách biệt chiên và dê. Bên phải, Người sẽ để các chiên đứng, ngồi và bên trái là dê.. Chúa vừa là Vua, vừa là thẩm phán. Người phân xử họ theo lẽ công bằng và theo đường chính trực. Người tuyển chọn công dân của người một cách thật hoàn hảo, nhưng cũng hoàn toàn bất ngờ đến nỗi những người được chọn cũng không hề bao giờ biết tới: ” Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ? “ ( Mt 25, 37-39 ). Vua tình yêu là như thế. Ngài đã đồng hóa với những kẻ bé nhỏ, những kẻ đau ốm, những kẻ tù đầy, những kẻ đói khát, trần truồng. Và mỗi khi chúng ta làm một nghĩa cử yêu thương là chúng ta làm cho chính Chúa bởi vì Chúa đã nói: ” Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta “ ( Mt 25, 40 ).

Vâng, người Kitô hữu muốn trở nên công dân Nước Trời thực sự khi họ biết thực hiện những nghĩa cử yêu thương đối với những người nghèo khó, bé nhỏ, cơ cực. Đối với Chúa thưởng hay phạt, bị coi là dê, hay được xếp vào loại dê hay không là do con người có làm hay không làm những nghĩa cử yêu thương, những việc bác ái cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.

Vua Giêsu luôn sống hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, Người sống cho dân, vì dân và sống trong dân. Người đồng hóa với những con người cùng cực nhất, bé nhỏ nhất. Nên, mỗi lần từ chối giúp đỡ, hay từ chối làm những nghĩa cử yêu thương đối với những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ khó nghèo là tự chuốc lấy án phạt muôn đời…

Chúa là Vua yêu thương, Người xét xử thần dân của Người bằng tình yêu thương, bằng lẽ công chính, thần dân của Ngài cũng phải đối xử với nhau, với tha nhân bằng tình yêu thương chân thật.

Lạy Chúa:” Chúa là Vua ngự trị muôn đời. Người tuôn đổ phúc lành cho dân hưởng bình an “ ( Tv 28, 10-11 ). Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng “ (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ ).

LỄ CHÚA GIÊSU LÀ VUA
Mt 25, 31 - 46
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Năm phụng vụ bao giờ cũng kết thúc bằng lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ. Bởi vì, năm Phụng vụ trình bầy xuyên suốt cho chúng ta hiểu về lịch sử ơn cứu độ từ ngày Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, tạo dựng con người cho đến khi Ngài hoàn tất Vương quyền của Ngài trong Đức Giêsu Kitô. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mô tả cho các môn đệ, cho chúng ta về ngày Cánh Chung. Chúa sẽ ngự trị trong vinh quang.Muôn dân sẽ qui tụ chung quanh Ngài. Ngài sẽ tách biệt kẻ lành, người dữ…Chúa là Vua tình yêu, Ngài sẽ xét xử nhân loại theo lẽ công minh của Ngài…

Chúa Giêsu là Vua nhưng là Vua lòng mọi người. Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian này. Nước của Ngài là nước tình thương. Do đó, ngày Chung Thẩm, Thiên Chúa sẽ ngự trị trong vinh quang, có các thiên thần theo hầu Ngài. Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển và xét xử muôn dân nước theo lòng nhân từ của Ngài. Ngài sẽ tách biệt họ như Mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.Đức Giêsu ừa là Vua Vũ Trụ, vừa là Vị Thẩm Phán thế gian. Chúa công minh chính trực tuyển lựa những thần dân của Ngài một cách bất ngờ đến nỗi những người hiền lành, khiêm nhượng, ngoan đạo cũng không hề ngờ tới :” Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ? “ ( Mt 25, 37-39 ). Chúa đồng hóa với những người thấp hèn, nghèo khổ, Ngài đồng hóa với những người đói, người khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đầy. Xem ra những người này, hằng ngày chúng ta vẫn được tiếp xúc, cận kề, những nhiều khi chúng ta lại làm ngơ, giả điếc, nhiều lần chúng ta đã nhắm mắt, làm ngơ, để mặc họ. Thế nên, tiêu chuẩn để được cứu rỗi, tiểu chuẩn để vào Nước Trời thật giản đơn : chúng ta hãy đối xử tốt, thực hành những nghĩa cử yêu thương, những cử chỉ tốt đẹp đối với những kẻ khó nghèo, neo đơn, cô thân cô thế bởi vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ:” Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta “ ( Mt 25, 40 ).

Ngày phán xét, Chúa sẽ tách biệt chiên, dê, người lành kẻ dữ, người thánh, kẻ gian ác, người hiền, kẻ hung ác vv…Tất cả những người này đều được Chúa đo lường, phán xét vì việc sẵn sàng làm hay không làm những việc thiện, những cử chỉ yêu thương cho những người đang cần giúp đỡ. Người ta có được cứu độ hay bị trầm luân trong lửa hỏa ngục đời đời cũng dựa vào tiêu chuẩn làm hay không làm những nghĩa cử bác ái, yêu thương đối với những người nghèo, những con người cùng khổ. Vâng, xa rời người nghèo, những kẻ đói khổ, cùng cực, không chạm đến nỗi đau của họ, không làm một nghĩa cử yêu thương đối với họ là một trọng tội. Người ta chỉ có thể nhận lãnh phần thưởng nếu biết nhận ra Chúa nơi những con người nghèo, nơi những con người cô thân cô thế và sẵn sàng giúp đỡ họ.

Xin mượn lời của Olivier Lebouteux để kết luận bài suy niệm này :” Đã là người thì dù là Kitô hưu hay không, dù là người có tín ngưỡng hay người không nhìn nhận có một Thần nào, ai ai cũng sẽ chạm mặt với Đức Kitô: hoặc là lúc bình sinh nhờ đức tin, hoặc là vào thời sau hết.Bấy giờ, sự thật về con người chúng ta sẽ hiển hiện trong ánh sáng chan hòa.Mỗi một hành vi của chúng ta sẽ được xét theo thực chất của nó. Điều lạ là cảnh phán xét này có vẻ dành nhiều bất ngờ cho cả những ai nghĩ mình đã nhận biết Chúa rồi lẫn những ai tưởng chừng đang khám phá ra Chúa. Mỗi một hành vi trong đời chúng ta đều đưa chúng ta hướng về Đức Giêsu hoặc là đẩy chúng ta ra xa Người. Chính Người là nguyên thủy và cùng tận của mọi sự, và điều này là đúng cho toàn thể nhân loại. Đôi khi chúng ta tự hỏi, chung cục nào được dành cho nhân loại trong kế hoạch của Thiên Chúa, do có nhiều tín ngưỡng như thế ; cuối cùng, chính trên cơ sở tấm lòng nhân ái thời bình sinh mình đã tỏ ra trong lối sống của mình, mà mỗi người sẽ được mời tham dự ( hay không ) vào sự sống của Thiên Chúa. Khi đến chia sẻ cuộc sống của chúng ta, Đức Giêsu đã kết thân với mỗi một người trần thế, đã trở nên hiện diện nơi kẻ nhỏ bé nhất, nơi mọi kẻ đói khát.Nhưng chúng ta thì khó lòng nhận ra Người qua những khuôn mặt bị biến dạng, chịu lăng nhục, bởi chúng ta không tự mình nghĩ ra đó là những hình ảnh của Người. Đừng tìm Người ở những nơi Người không có mặt, e rằng chúng ta có thể đi bên cãnh Người mà không thấy Người “.

Lạy Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ, xin giúp chúng con luôn biết tin nhận Chúa là Vua tình yêu nhưng cũng là Vị Thẩm Phán chí công luôn xét xử muôn dân theo lẽ công minh và lòng nhân từ. Amen.

ĐỨC GIÊSU, VUA VŨ TRỤ
Mt 25, 31 - 46

Lm Augustine S.J

Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái mong chờ Đấng Mêsia. Đây là một vị vua sẽ đứng lên giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của người Roma. Trong niềm háo hức cuồng nhiệt đó, có lúc người ta đã tưởng Đức Giêsu chính là vị vua mà toàn dân trông đợi. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài lại rút lui trên núi một mình (Ga 6,15). Khi ở trước toà, Philatô hỏi: "Ông có phải là vua của người Do Thái không?" Đức Giêsu chỉ đáp lại: "Chính quan nói điều đó." (Lc 23,3). Như thế Đức Giêsu không nhận mình là vua theo nghĩa chính trị. Ngài không phải là người gây rối trong nước hay ngăn cản nộp thuế cho Xê-da (Lc 23,2). Ngài chẳng bao giờ công khai xưng mình là Vua Mêsia, vì tước vị này có thể gây ra nhiều hiểu lầm trong dân chúng. Vậy mà Ngài đã bị đóng đinh trên thập giá với bản án "Đây là vua của người Do Thái" (Lc 23,38). Ngài đã chết như một tội phạm chính trị.

Hôm nay khi mừng lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu bị treo trên thập giá giữa hai kẻ gian phi. Đức Giêsu phục sinh hôm nay là Vua theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Ngài không chỉ là Vua dân Do Thái, Ngài là Vua của cả vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Đức Giêsu phục sinh vẫn không ngừng xây dựng Nước của Ngài, vẫn không ngừng thu hút cả nhân loại về với Ngài (Ga 12,3). Bất cứ ai "đứng về phía sự thật" thì nghe tiếng Ngài và trở nên thần dân của Ngài (x. Ga 18,37). Rồi đến ngày tận thế, Đức Kitô sẽ trao lại vương quyền cho Thiên Chúa Cha sau khi đã tiêu diệt mọi thế lực chống đối Thiên Chúa, và cuối cùng Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (x. 1C 15,24-28).

Một Vị Vua vâng phục

Đức Giêsu trên thập giá là vị Vua bị lăng nhục, là đấng Mêsia bị thách thức. Trong cái nhìn của Luca, dân chúng không góp phần vào việc kết án Đức Giêsu. Trên đường lên Núi Sọ, có đám đông dân chúng đi theo, trong số đó có các phụ nữ khóc than và đấm ngực (Lc 23,27). Khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh, thì thái độ của dân là "đứng nhìn" trong sự lặng lẽ kính cẩn (Lc 23,35).

Ngược lại với thái độ của dân là thái độ của ba hạng người khác: các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi nhục mạ Đức Giêsu, chúng ta cần cảm mến nỗi đau trên thân xác Đức Giêsu, nhưng cũng không được quên nỗi đau tinh thần của Ngài. Những lời chế giễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Đây là cơn cám dỗ cuối cùng trong đời Đức Giêsu, không phải là cám dỗ vui hưởng lạc thú êm đềm của bậc sống hôn nhân, nhưng là cám dỗ về sự vâng phục và tín thác đối với Cha.

Ba lời nói mỉa mai trước Đức Giêsu chịu đóng đinh khiến ta nhớ đến ba cơn cám dỗ vào buổi đầu sứ vụ "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến viên đá này thành bánh" (Lc 4,3). "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi" (Lc 4,9). Đó là cơn cám dỗ của ma quỷ. Còn bây giờ là cơn cám dỗ của con người. "Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn", "nếu ông là Vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi" (Lc 23,35.37). "Tự cứu mình", đó là cơn cám dỗ vẫn thường xảy ra. Cứu mình khỏi cơn đói cồn cào hay cứu mình khỏi nỗi đau và cái chết. Dùng quyền năng Cha ban để tự cứu mình, tự lo liệu cho đời mình, đứng ngoài sự xếp đặt của Thiên Chúa.

Đức Giêsu bị cám dỗ xuống khỏi thập giá để minh chứng cho mọi người thấy Ngài thật là Đức Kitô, là Mêsia mà bao người mong đợi. Cơn cám dỗ quá đỗi tinh vi và hấp dẫn! Chỉ cần xuống khỏi thập giá là chinh phục được bao con người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin. Chỉ cần xuống khỏi thập giá là gặt hái ngay được một chiến thắng huy hoàng, một thành công rực rỡ, nhờ đó Cha được tôn vinh nơi Con; ở lại thập giá là làm tan vỡ biết bao hy vọng đã được thắp lên trong những năm qua, là làm tắt đi niềm tin mới được nhen nhúm.

Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi thập giá, như trước kia Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ. Cả hai đều là những hành vi ngoạn mục và gây ấn tượng. Đức Giêsu không muốn chúng ta xây đức tin trên cái ngoạn mục, vì như thế vẫn còn là ở bình diện tự nhiên. Ngài muốn chúng ta tin vào Ngài, dù Ngài là kẻ đã chết trơ trụi trên thập giá. Đức Giêsu không tự cứu mình, chính vì Ngài thật là Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì Ngài là Con mà Ngài không tự lo liệu cho mình, Ngài buông đời mình trong tay Cha. Bởi thế, việc Đức Giêsu ở lại trên thập giá trong sự vâng phục đầy tình con thảo lại là một dấu chỉ hùng hồn cho thấy Ngài thuộc trọn về Cha: Ngài không tìm mình nên Ngài là người đáng tin. Đức Giêsu "đã cứu người khác" (Lc 23,35), kể cả việc cải tử hoàn sinh, vì đó là ý Cha. Nhưng Ngài không tự cứu mình, vì Cha muốn Ngài cứu độ nhân loại qua việc hiến dâng mạng sống. Đức Giêsu là vị Vua Mêsia đầy lòng vâng phục trước Thiên Chúa, vâng phục đến chết (Pl 2,8)

Một vị Vua nhân hậu

Chính vào lúc Đức Giêsu hấp hối trên thánh giá, giữa những lời lăng nhục và thách thức, thì tiếng nói của anh "trộm lành" bất ngời vang lên, làm ta ngây ngất. Anh chấp nhận hình phạt: "chúng ta chịu như thế này là đích đáng". Anh nhìn nhận tội mình đã phạm: "vì xứng với việc đã làm". Anh tuyên xưng sự vô tội của Đức Giêsu: "Còn ông này đâu có làm điều gì trái". Điều lạ lùng hơn nữa là anh đã tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu, tin Ngài là Đấng Mêsia-Vua vào lúc mà mọi sự dường như sụp đổ: "Ông Giêsu ơi! Khi ông trở lại trong tư cách là vua, xin nhớ đến tôi." Như thế trong cái nhỉn của người trộm lành, cái chết nhục nhã của Đức Giêsu trên thập giá không phải là một dấu chấm hết. Anh vẫn tin có ngày Ngài đến trong nước của Ngài, và anh mong được dự phần trong ngày đó.

Đức Giêsu đã ban ơn quá lòng anh ước ao. Ngay khi còn ở trên thánh giá, vị vua bị đóng đinh đã hé lộ vương quyền của Ngài qua một lời hứa long trọng. Bossuet đã viết: "Hôm nay: nhanh biết mấy! Ở với tôi: thân tình biết mấy! Thiên đàng: nơi an nghỉ miên trường." Như thế người trộm lành là người đầu tiên được hứa ban ơn cứu độ; Kẻ gian phi lại là người đầu tiên được hưởng hoa trái của cái chết trên thập giá của Đức Giêsu. Tất cả nói lên lòng nhân hậu của Vua Giêsu đối với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vị Vua bị đóng đinh đã bắt đầu cuộc chinh phục của Ngài trên các tâm hồn. Sau khi Ngài tắt thở, viên bách quản đã nhìn nhận Ngài là người công chính, và dân chúg cũng đấm ngực mà lui về (Lc 23,47-48).

Đức Giêsu làm vua một cách khác thường. Ngài không thống trị bằng sức mạnh nhưng Ngài phục vụ bằng yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Ngài vẫn thu hút con người đến với Ngài. Thập giá là nơi vương quyền Ngài tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm. Chúng ta cần ngắm nhìn Đức Giêsu chịu treo, để biết cách chinh phục thế giới. Thế giới hôm nay dễ rung động trước lòng tha thứ, yêu thương và sự phục vụ của chúng ta. Chẳng cần thi thố những hành vi ngoạn mục và đạt được những thành công vượt mức, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức Kitô bằng sự vang phục và kiên nhẫn trong khổ đau.

Mừng lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để cho Ngài chiếm trọn từng khoảnh khắc của cuộc đời, từng rung động nhỏ của con tim. Ước gì qua chúng ta mà Chúa Kitô có mặt ở mọi lãnh vực khoa học, ở mọi nền nghệ thuật, ở giữa chốn chợ đời xô bồ và bon chen. Ước gì chúng ta cộng tác với Ngài để làm cho vũ trụ này càng ngày càng trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.

LỄ CHÚA KITÔ VUA
Mt 25, 31 - 46

John Nguyễn
1. Viễn cảnh cánh chung: phân biệt chiên và dê
Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: «cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm» (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?

2. Tiêu chuẩn để phân loại
Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:

- ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.

- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.

- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.

Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã
làm gì không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.

3. Đó là tiêu chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai không tin
a) Tin vào Đức Giê-su là điều kiện để được cứu độ

Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.

b) Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm

Người ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích thực: «Quả thế, có
tin thật trong lòng mới được nên công chính» (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại «đức tin rẻ tiền», là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ «đức tin đắt giá», không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: «Đức tin không việc làm là đức tin chết» (Gc 2,14.17).

c) Việc làm của đức tin là việc làm gì?

Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giê-su chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.

Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su bên cạnh chúng ta. Đức Giê-su xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.

Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giê-su nói: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giê-su với những người khác.

Cầu nguyện

Tôi nghe Đức Giê-su nói với tôi: «Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy».

VUA LÒNG TIN
Mt 25, 31 - 46

Lm. D. Nguyễn Ngọc Long

Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả... Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.

Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa - cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia... - nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.

Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác?

Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: "Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!"

Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.

Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34).

Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)

Vị Vua này tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành" (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.

Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng.

Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.

Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông.

Vua- lòng- tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.

ĐỨC GIÊSU KITÔ, VUA VŨ TRỤ
Mt 25, 31 - 46

Lm Augustine S.J.

Chữ "ngờ" trong cuộc sống
"Ở đời, mấy ai học được chữ "ngờ!": hẳn ai trong chúng ta cũng kinh nghiệm ít nhiều về điều ấy. Liên quan đến chủ đề này, đại thi hào Ta-go của Ấn Ðộ có thuật một câu chuyện đầy thi vị như sau:

Có một người hành khất nọ ngày ngày vác bị đi xin bố thí. Một lần nọ, đang trên đường hành khất, người ấy trông thấy xa giá của Ðức Vua đi kinh lý đang tiến về phía ông. Lòng người hành khất bỗng khấp khởi mừng vui hy vọng: "Phen này, với của bố thí vua ban, ta sẽ không còn phải ngày ngày lê gót hành khất nữa!" Thế nhưng khi giáp mặt với người hành khất, Ðức Vua đã chẳng bố thí gì; trái lại, ngài ngửa tay xin ông chia sẻ điều ông có trong bị. Quá bất ngờ, người hành khất lúng túng thọc tay vào bị, bốc đại một hạt lúa, rồi đặt vào tay Ðức Vua. Ðoạn Ðức Vua ngự trở lại lên xa giá tiếp tục cuộc kinh lý.

Chiều đến, khi trở về túp lều dột nát của mình, người hành khất kiểm kê những gì đã xin được. Trước sự ngạc nhiên vô cùng của ông, ông nhìn thấy lấp lánh dưới đáy túi một hạt gạo bằng vàng. Thì ra khi ông trao cho Ðức Vua một hạt lúa, ngài đã kín đáo đặt trở lại vào túi của ông một hạt vàng. Lúc ấy người hành khất bật khóc và tiếc nuối: "Phải chi tôi đã dâng cho vua tất cả những gì tôi có cho rồi!"

Tương tự như câu chuyện trên, bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy những bất ngơ
ong ngày phán xét: cả hai nhóm người lành, dữ đều được xét xử dựa trên điều họ không ngờ tới; chỉ khác một điều là nếu sự bất ngờ đó đem lại mối phúc cho nhóm này, thì nó lại mang đến sự bất hạnh cho nhóm kia. Cũng như trường hợp của người hành khất, sự bất hạnh đã rơi xuống trên nhóm người, do không ngờ, đã bỏ sót điều lẽ ra họ nên làm, khi hãy còn thời giờ và cơ hội. Nhưng bây giờ thì... đã muộn!

Ðức Vua của người nghèo

Bài Tin Mừng của ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trình bày hình ảnh Chúa Kitô như vị Vua của người nghèo; tự đồng hoá mình với người nghèo và xét xử mỗi người theo thái độ của họ đối với người nghèo.

Thực ra hai hình ảnh "chiên" và "dê", biểu trưng cho hai nhóm người trong dụ ngôn, được vay mượn từ một thực tế quen thuộc với nhóm thính giả Do Thái của Ðức Giêsu. Thông thường, một mục tử chăn dắt cả chiên lẫn dê trong đồng cỏ. Chiều đến, họ thường tách chiên ra khỏi dê, để đưa chúng vào trú đêm ở nơi kín gió hơn, còn dê thì có thể để bên ngoài, vì chiên chịu lạnh kém hơn dê. Ðể phân chia đàn vật, người mục tử thường dựa vào màu lông của mỗi giống: chiên thường màu trắng; dê thường màu đen. Còn trong ngày chung thẩm, đâu là tiêu chuẩn phân chia người sẽ được đưa vào cõi phúc và kẻ sẽ bị bỏ lại?

Ðối với những kẻ đi theo Người, Ðức Giêsu đã nhiều lần nói về tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: đó là những người thi hành ý muốn của Cha, Ðấng ngự trên trời, chứ không phải là những kẻ chi thưa thốt ngoài môi miệng: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" (Mt 7,21-22); đó là những ai mạnh dạn tuyên xưng Ðức Giêsu trước mặt người đời, vì chính Người sẽ tuyên xưng họ trước mặt Thiên Chúa (Mt 10,32-33); đó là những người chịu bách hại vì Danh Ðức Giêsu và bền đỗ đến cùng (Mc 13,13). Tất cả những tiêu chuẩn trên đều liên quan đến giới luật "kính mến Chúa trên hết mọi sự" và chấp nhận mọi hệ quả của việc sống theo giới luật đó. Còn trong dụ ngôn hôm nay, Ðức Giêsu đề cập đến một tiêu chuẩn xét xử khác, chung cho mọi dân nước (c.32), tức là cho kẻ tin lẫn kẻ chưa nhận biết Chúa Kitô. Tiêu chuẩn này liên quan đến một giới luật liên hệ chặt chẽ với giới luật trước, đó là "yêu tha nhân như chính mình."

Khi bày tỏ tiêu chuẩn thứ hai này, Ðức Giêsu đã minh chứng Người là Ðức Vua của người nghèo, luôn quan tâm đến hoàn cảnh đáng thương, cần được giúp đỡ của những người bé mọn. Quan tâm ấy của Người không chỉ thể hiện trong ngày chung thẩm, nhưng chính Người đã sống mối bận tâm đó từng ngày, trong cuộc đời dương thế của Người. Các Tin Mừng có thể cho ta nhiều bằng chứng về điều ấy: Người đã cho đám đông đói lả được no nê cơm bánh và Lời Chúa (Mt 14,13-21); đã giải tỏa cơn khát khao chân lý của người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4); đã tiếp rước một Giakêu thu thuế bị đồng bào khinh miệt và kể như người xa lạ (Lc 19,1-10); đã mặc lại chiếc áo nhân phẩm cho người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang (Ga 8,1-11); đã làm biết bao phép lạ xoa dịu cơn đau của những người đau yếu; cuối cùng, Người cũng đã giải thoát nhiều trường hợp bị giam cầm trong xiềng xích của quỉ dữ (Mt 18,28-34) v.v... Tóm lại, khi mang đến cho những con người nói trên những ích lợi về phần xác, Ðức Giêsu còn đồng thời làm thỏa mãn những nhu cầu tinh thần và tâm linh của họ.

Ngoài việc quan tâm đến những người bé mọn, Ðức Giêsu còn tự đồng hoá mình với những con người ấy, đến độ nếu ai đó làm một việc lành cho họ, thì là làm cho chính Người (c. 40). Với việc tự đồng hóa trên, Người cũng đã biến hai giới luật Mến Chúa và yêu người nên một. Kể từ đó, kẻ mến Chúa cũng phải yêu thương tha nhân, vốn được dựng nên theo hình ảnh Chúa; còn kẻ làm một điều tốt cho tha nhân cũng chính là làm cho Ðấng đã tự đồng hóa mình với những người bé mọn. Tiêu chuẩn phán xét giờ đây, đã rõ: "Thiên Chúa sẽ đong lại cho mỗi người bằng chính "đấu tình thương" mà người ấy đong cho tha nhân (Mt 7,2). Tiêu chuẩn này cũng am hợp với mối phúc thứ Năm: "Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương." (Mt 5,7)

Tình yêu sẽ không sợ những bất ngờ

Mẫu gương của nhóm người thứ nhất trong dụ ngôn (chiên) cống hiến cho chúng ta một bài học quí giá: đó là nếu luôn sống theo thúc đẩy của lòng mến, ta sẽ không phải sợ hãi những bất ngờ; kể cả những bất ngờ trong ngày chung thẩm. Hơn thế, một nếp sống theo thúc đẩy của Tình Yêu cũng sẽ giải phóng ta vượt qua mọi nỗi sợ, ngay cả nỗi sợ lớn nhất là phải xóa mình, như câu chuyện sau của Bích Hà minh chứng.

"Chỉ còn mấy ngày nữa là Bích Hà đi khám sức khỏe. Ðã nhiều năm mòn mỏi ở trại tị nạn, cô trông mong từng giờ từng phút, ngày sẽ được đi định cư ở một nước thứ ba. Từ lâu nay, cô có thói quen mỗi chiều nấu một bát cháo nhỏ để đi thăm một người bệnh lao, phải sống cách ly trong một túp lều ở cuối trại. Nhưng chiều nay cô bỗng thấy lưỡng lự. Cái ý tưởng sẽ bị nhiễm vi trùng lao và sẽ "rớt" trong lần khám sức khoẻ tới khiến cô rùng mình: hy vọng được đi định cư của cô lúc đó ắt hẳn sẽ sụp đổ. Bỗng nhiên lời phán xét của Chúa trong bài dụ ngôn hôm nay vang lên trong tai cô: "Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm." Suy gẫm lời đó, cô lấy lại được can đảm để tiếp tục cuộc thăm viếng mỗi ngày: cô đã nhận ra được nơi người bệnh lao bị bỏ rơi đó, hình ảnh của chính Chúa Giêsu đang cần đến sự ủy lạo của cô. Kể từ sau kinh nghiệm này, Bích Hà không còn sợ hãi gì nữa; ngay cả ý nghĩ phải hy sinh mạng sống vì tình yêu tha nhân cũng không làm cô sợ sệt. Hiện nay, Bích Hà là một điều động viên năng nổ của phong trào Focolare (do chị Chi-Lan Lưu Bích sáng lập) ở miền Ðông Canađa."

NÀO NHỮNG KẺ CHA TA CHÚC PHÚC
Mt 25, 31 - 46
Sr. Margareta Maria Hiền

Người thầy thuốc giả trang Hoàng đế nước Phổ, Joseph đệ nhị, là con của hoàng hậu Marie Thérèse và vua Francois đệ nhất. Ông vốn là vị hoàng đế giầu lòng bác ái, luôn gần gũi với người nghèo. Ông mất năm 1790.

Sau đây là một trong những câu truyện được truyền tụng về ông lúc sinh tiền.

Một hôm hoàng đế giả trang làm một người thường dân thả bộ ra phố ngay giữa kinh đô Vienne. Bất ngờ có em bé chạy đến vừa khóc vừa nài xin ông bố thí cho một đồng, để em có thể chạy đi mời thầy thuốc đến khám bệnh cho mẹ em hiện đang đau nặng. Em mếu máo nói: Thưa ông, cháu đã thử đi mời nhưng bác sĩ lại đòi phải có một đồng trả tiền khám bệnh mới chịu đến nhà cháu. Vậy mà vị hoàng đề liền lấy ngay một đồng bạc đưa cho em bé, ông không quên hỏi địa chỉ nhà em. Em bé cảm ơn ông khách lạ nhưng tốt bụng, rồi vội chạy đi mời bác sĩ. Còn ông thì rảo bước đi tìm ngôi nhà người bệnh đáng thương. Khi ông bước vào bà mẹ em bé cứ ngỡ đây là bác sĩ mà con mình mời đến, nên cứ thật tình kể lể bệnh trạng của mình. Ông lẳng lặng nghe, cũng xem mạch, rồi lấy một mảnh giấy trong túi ra kê một đơn thuốc, dặn cứ thế mà mua thuốc uống. Xong xuôi ông từ biệt ra về ngay. Được một lúc thì em bé mới chạy về cùng với ông thầy thuốc thật sự. Bà mẹ ngạc nhiên vì sao lại có tới hai ông thầy thuốc đến khám cho mình. Bà vốn dĩ mù chữ nên lấy tờ giấy đơn thuốc ban nãy ra đưa cho ông thầy thuốc đến sau xem. Ông ta vừa đọc lướt qua đã vội kinh hồn la lên: "Thôi chết tôi rồi, hoàng đế của chúng ta vừa mới ghé qua đây. Bà cứ bảo cháu bé cầm lấy tờ giấy này đến ngân hàng để nhận 250 đồng tiền vàng chi phí thuốc men và chăm sóc bồi bổ cho khoẻ mạnh. Số tiền này quá lớn, đủ để bà làm ăn buôn bán và cho cháu bé ăn học đến lớn! Còn phần tôi, tôi không dám nhận tiền của cháu bé đã trả cho tôi nữa đâu, tôi xin hoàn lại ngay. " Dứt lời ông bác sĩ tham tiền vội đưa lại đồng bạc, cẩn thận khám bệnh cho người mẹ, kê đơn thuốc đầy đủ kỹ lưỡng và từ giã ra về, hẹn sẽ còn đến chăm sóc cho đến khi người bệnh khỏi hẳn chứng ho lao. Từ đó, ông bác sĩ hồi tâm và hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ đòi tiền trước khi chữa bệnh, nhất là những đồng tiền khó nhọc của những người dân lao động đang gặp phải cơn hoạn nạn bất hạnh.

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn cho ta thấy có hai lớp người trên trần gian này với hai thái độ sống cũng như hai cái nhìn dưới con mắt đức tin khác nhau. Để rồi khi triều đại của Ngài đến họ cũng sẽ được phân xử khác nhau. Vì như Ngài đã nói khi vương quốc của Ngài xuất hiện thì Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển chứ không phải là một người bình thường để cho dân chúng đội mạo ngai xỉ vả, nhạo cười, cuối cùng đã chết ô nhục trên thập giá. Nơi trần gian này, Ngài sống tàng hình dưới mọi lớp người, nếu ai hiểu biết và yêu mến Ngài thì họ sẽ có đôi mắt đức tin rất bén nhậy dễ dàng nhận ra Ngài như ông bác sĩ trong câu truyện và rồi đời sống họ sẽ thay đổi mau chóng. Để khi Con người đến trong vinh quang của Người thì những người này sẽ được chọn làm dân của Ngài như lời Ngài hứa Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết nhận ra Chúa nơi tha nhân để chúng ta biết nhìn ra nhu cầu của họ và tùy theo khả năng sẵn sàng giúp đỡ những người anh em trong cùng một dân nước- Đó là Nước Trời.

CHÚA KITÔ VUA
Mt 25, 31 - 46

Lm Vikini

Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói : Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.

Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ Vua Nghiêu, Vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.Kinh Thư viết : "Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ : Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư" (Thái hệ thượng 7).

Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng, hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết " chỉ vì phục vụ Thượng Đế giúp nhân dân bốn phương : "Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phương" (Thái thượng 7). Người ta đã gọi thời đó là Hoàng kim thời đại : dân được tôn trọng : "Lấy dân làm gốc : Duy dân bang bản". "Gốc kiên cố, nước được an ninh thịnh vượng : Bản cố, bang minh". "Khắp nơi bốn bể thông thương, hòa hợp : Tứ hải hội thông" (Ngũ Tử 4 và Vũ Công 30).

Do đó về sau, các Vua Tầu, Nhật và Việt Nam đều được gọi là con Trời : Thiên Tử, Quân Tử, tuy nhiều kẻ bất xứng. Bên Tây phương, Ba Tư, Ai Cập, Hy Lạp hay La Mã, đều coi vua là con Thần Trời.

Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi Tiên tri Samuel : "Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi" (1Sm. 8,19). Và ai được chọn làm Vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa : Thiên Chúa nói với Sứ ngôn Nathanael : Hãy đi nói với Đavít : "Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta" (2Sm. 7, 5.14 và Tv. 2,7). Nếu Vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ Vua khỏi tay quân thù (Tv. 20, 21 và 45, 4-8).

Nhưng ngay cả Đavít được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn đầy bất xứng, bất trung. Loài người dù Nghiêu, Thuấn, Đavít hay Tổng thống, Thủ tướng không thể làm vua xứng đáng với ơn Thiên Chúa, và sự mong muốn của nhân dân. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến cứu vãn nhân loại. Chỉ có Người Con duy nhất đó mới chính là vua thật của nhân loại đến muôn đời : Đó là Đức Giêsu Kitô. Vua Giêsu khác với vua thế gian ở hai lĩnh vực trần thế và nước Trời.Ở trần thế, Ngài là Vua như mục tử nhân lành, Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài I - Êz. 34, 11-17).

Chính Đức Giêsu đã tuyên bố : "Tôi là Mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi" (Ga. 10, 10. 11-14) Tôi đến để cho chiên Tôi được sống và được sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ : Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền, khả ái : "Đây là tôi trung Ta đã tuyển chọn, rất yêu dấu, rất đẹp lòng Ta. Thần khí Ta ngự trên Người. Người loan báo công lý trước muôn dân, Người không cãi vã, kêu to, chẳng ai nghe thấy tiếng Người ngoài phố xá. Người không đành bẻ gẫy cây lau đã giập, chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét, cho đến khi Người đưa công lý toàn thắng và muôn dân hy vọng danh Người ".(Mt. 12, 18-21).

Ngài làm Vua chỉ chuyên chăm lo phục vụ và hy sinh, Ngài nói : "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người", "chứ không như vua thế gian lấy quyền thống trị dân bắt dân phục vụ mình" (Mt. 20, 25. 27-28)

Từ hơn 700 năm trước, tiên tri Isaia đã loan báo về Người Tôi Trung đau khổ đã hy sinh đến cùng cực : "Ngài đã bị khinh bỉ như đồ phế thải, bị trừng phạt đầy đọa, bị đâm, bị tra tấn, bị nghiền nát làm hy lễ tạ tội, Ngài chịu đựng, không mở miệng, ngậm câm như chiên cừu bị dẫn đến lò sát sinh ". Ngài bị liên lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi để giải án tuyên công nhiều người (Is. 53, 1-11) và Thiên Chúa đã đặt Ngài làm "Cố vấn kỳ diệu, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền binh Ngài bao la vô tận, cho nước được bền vững kiên cố từ nay cho đến muôn đời, nhờ công minh đức nghĩa Ngài" (Is. 9, 5-6)

Ở nước Trời, Đức Giêsu là vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung, làm mục tử, vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về tôn vinh Thiên Chúa Cha trong nước vinh phúc hằng sống, "chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hỏa ngục phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu" (Phil. 2,6).

Ở trên trời, "Ngài ngự trên ngai vinh quang, có các Thiên Thần hầu cận, để đón rước chúc phúc cho những ai cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách lạ, cho kẻ trần truồng mặc, thăm nom kẻ đau yếu, tù đầy. Ai có lòng trong sạch, hiếu hòa, hy sinh vì nước Trời, Ngài thưởng công cho họ được thừa hưởng vương quốc, được Cha Ngài ban phúc hưởng sự sống muôn đời. Còn kẻ không biết thương người đói khát, rách rưới, đau yếu, đau khổ, không biết hy sinh vì nước Trời bị Ngài loại bỏ, chúng phải vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 31-46)

Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin cho các vị lãnh đạo biết sống theo gương Chúa là Mục tử nhân lành và Tôi Trung đau khổ để họ sáng suốt phục vụ và hy sinh cho đồng loại. Xin cho con tận tâm chăm lo cho kẻ đói ăn, khát uống, giúp đỡ những ai rách nát nghèo hèn, an ủi những người đau khổ, bệnh tật để họ được sống lại trong tình thương muôn đời của Chúa. Amen.

CHÚA KITÔ VUA
Mt 25, 31 - 46

"Hoàng tử và người hành khất" là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.

Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém.

Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.

Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.

Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.

Bạn đừng ngạc nhiên vì Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không ? Tin Mừng hôm nay là một trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô - Tin Mừng cho những người giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ý đến những nhu cầu của người khác.

Hôm nay bạn hãy xét mình đi. Bạn có bao giờ cung cấp của ăn cho người túng đói không ? Có lẽ bạn chưa bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói. Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp đỡ gì qua các cơ quan từ thiện không ? Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không ? Không phải chỉ là những người ở sau hàng giậu sắt, nhưng còn là những người ở sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu khổ.

Bạn đã làm gì cho những người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần, bị giam hãm về tinh thần ? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm gì, thì bạn hãy nghe lệnh truyền "Khởi hành".

Tin Mừng còn đi xa hơn, những gì bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hãy lưu ý: "Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ". Những gì các con làm hay không làm, là các con đã làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua chúng ta bị cầm tù.

Phải, chúng ta phụng sự và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi Ngài sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. "Hãy đến".

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

NGÀI SẼ ĐẾN NGỰ TRÊN NGAI UY LINH
Mt 25, 31 - 46

Giữa công trường thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng Đế Caligula, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu sau đây:

Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.

Ngày hôm nay, Giáo Hội cũng đọc lại ba câu khắc trên đá tạc vào lòng đó, để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, nhân ngày bế mạc năm phục vụ.

Từ trên chóp đỉnh năm Phụng Tự, Giáo Hội cho chúng ta thấy vị trí cao sang của Con Thiên Chúa là vua toàn thể vũ trụ.

Trong Cựu Ước, các vua được gọi là mục tử dân Chúa, vì các vị lãnh đạo đầu tiên như Abraham, Moisê, Đavít là những người chăn chiên. Trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Ezechiel mô tả Thiên Chúa là một vị vua chăn dắt đoàn chiên. Ngài tập họp đoàn chiên tan tác vì tội lỗi của chính mình cũng như của các nhà lãnh đạo. Ngài giải cứu chúng khỏi miệng sói dữ. Ngài tận tình phục vụ đoàn chiên cách riêng những phần đau yếu bé mọn. Ngài đối xử với đoàn chiên như bà mẹ săn sóc con cái: "Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau" Ta sẽ chăm sóc và sẽ chăn sóc nó trong sự công chính". Thật là hình ảnh cảm động của Thiên Chúa, một nhà Vua Mục Tử.

Thánh Phaolô trong Thánh Thư gửi giáo đoàn Corintô, đề cập đến Vương quyền cao cả và vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô Phục sinh là Alphavà Omêga, nghĩa là khởi điểm và cùng tận. Nhờ Ngài, mọi sự đã phát sinh thì nhờ Ngài vạn vật sẽ trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài đã Phục sinh, đã toàn thắng sự chết thì con người cũng không phải hoảng sợ trước sự chết. Chúa Kitô chính là Thầy, là Vua. Ai tin ở Ngài sẽ không phải chết: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống". Ngài thật là Vua, là Chúa, có quyền trên sự sống và sự chết.

Bạn đã có dịp đến Vatican kính viếng Thánh điện Sixtine và chiêm ngưỡng bức danh họa vĩ đại của Michel-Ange về ngày Thẩm phán theo Phúc Âm Thánh Matthêô? Thật là lớn lao vĩ đại. Họa sĩ để ra một năm, nằm trên sàn vẽ, vừa vẽ vừa suy niệm về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu, Đấng Thẩm phán, đến trong vinh quang để xét xử công tội của mỗi người. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy nói đến cuộc giáng lâm của Chúa, nhưng trước tiên là nói đến số phận của mỗi người: "Ngài sẽ đến ngự trên ngai uy linh, có hết thảy mọi Thiên Thần hầu cận và Ngài sẽ phân chia họ ra".

Trước mặt Ngài chỉ có những người đã sống trong Tình yêu và những người đã chối bỏ Tình yêu. Con người lộ diện trần trụi, giờ sự thật đã điểm.

"Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta".

Cuộc Thẩm phán là một cuộc xét xử về Tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, vì Thiên Chúa là Vua, Vua Tình yêu vậy.

Ngày mồng1 tháng 10 năm 1989, Giáo Hội đã long trọng phong Chân Phước cho Nicéphore Diez (1893-1936) và 25 bạn tử đạo thuộc Dòng Thương Khó, tử đạo trong cuộc nội chiến 1936 ở Tây Ban Nha. Phần đông các vị đã đồng thanh kêu lớn tiếng: "Vạn Tuế Chúa Kitô là Vua", trước khi ngã gục trước họng súng.

Chúng ta cùng với Giáo Hội lớn tiếng hôm nay tuyên xưng: Christus vincit- Christus regnat- Christus imperat.

LỄ CHÚA KITÔ VUA
Mt 25, 31 - 46

Chúng ta hãy tưởng tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến Kitô giáo là gì, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài ở đâu? Làm sao có thể gặp Ngài được?". Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời thật hay, thật ý nghĩa. Nào là Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cõi chết sống lại. Nào là Ngài đang hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, vì Ngài đã tạo dựng vũ trụ này cho con người.

Đó là những câu trả lời đúng nhưng chưa đủ, vì chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được Ngài?. Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc nào và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang khao khát muốn tìm gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.

Với niềm tin đích thực của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị xã hội ruồng bỏ và quên lãng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những người nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những ngươi bệnh hoạn tật nguyền đang mất hết ý vị của đời sống mà hằng ngày phải chết dần, chết mòn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị bạc đãi và bị hiểu tầm, vì là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ vì khác ý thức hệ, đang lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng ai. Ngài hiện diện nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang tìm kiếm một cách vô vọng một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác để lớn lên và phát triển.

Thật vậy, nước Ngài sẽ bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn đau khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng vòng tay đón nhận những đứa trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công bình và bác ái ngự trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "Tình Yêu". Tình yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu Kitô, Vị Vua Chí Tôn Chí Thánh.

Khi đọc Tin Mừng của Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một vị Vua luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau sống yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường sinh đời sau, nơi nước tình yêu không bao giờ tắt.

Là con dân của nước Thiên Chúa, nước của tình yêu, chúng ta hãy cùng nhau làm tròn bổn phận công dân của mình là góp phần xây dựng cho tình yêu được ngự trị lên mặt đất này. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong đời sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi đang cần đến tình yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được gì thêm cho Chúa cả, vì Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần dân trong nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái gì và đó chính là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về tình yêu đối với đồng loại.

Vì thế, nếu tôi chỉ biết thu mình trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi không cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đã không thiết tập lại công bình". Rồi còn bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người không biết thương xót.

Yêu ai thì giống người ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua Tình Yêu, khi tôi không giống Người là Đấng hay thương xót. Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa là chiêm niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát. Cho nên khi đã nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng đáng là công dân của nước Người, nước của tình yêu.

CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
Mt 25, 31 - 46

Lm Đan Vinh

1. LỜI CHÚA :
"Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy" (Mt 25,45).

2. CÂU CHUYỆN :
NHỮNG SỨ GIẢ CỦA NHÀ VUA :
ỐT-CA OAI-ĐƠ (Osca Wilde) đã viết một câu chuyện tựa đề là : "Vị hoàng tử hạnh phúc". Câu chuyện kể về một hoàng tử con vua. Từ nhỏ đến lớn, hoàng tử luôn sống trong tình yêu thương và sự che chở của cha. hoàng tử muốn làm nhiều việc bác ái chia sẻ giúp những người nghèo khó tàn tật bất hạnh, nhưng không thể được, vì hoàng tử không có tiền riêng. Thế rồi không may, hoàng tử lâm cơn trọng bệnh và qua đời trong sự thương tiếc của triều đình và dân chúng. Người ta đã làm một bức tượng của hoàng tử này được phủ bằng vàng, với hai viên ngọc bích ở trong mắt và một viên hồng ngọc to lớn được gắn vào đầu cán gươm.

Một hôm thời tiết lạnh lẽo, một chú chim én bé nhỏ trên đường về phương nam nắng ấm, đã dừng chân đậu lại trên bệ đặt tượng của hoàng tử. Bấy giờ có vài giọt nước rớt xuống trên mình chim. Nhìn lên thì chim én thấy đó là những giọt nước từ khóe mắt của bức tượng hoàng tử rơi xuống. Chim én liền hỏi: "Tại sao ngài lại khóc?". Hoàng tử trả lời: "Khi sống, tôi luôn ở trong hoàng cung kín cổng cao tường, nên không nhìn thấy được những nỗi đau khổ khốn cùng của nhiều người nghèo khó. Nhưng từ khi tôi được đặt trên chiếc đài kỷ niệm này, thì hằng ngày tôi đã chứng kiến không biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh. Tôi rất muốn làm những việc chia sẽ giúp đỡ cho những người nghèo đói cùng cực kia. Nhưng tôi lại không còn đi lại được như trước. Vậy tôi có thể nhờ chim làm giao liên được không?" Chim én trả lời: "Nhưng cháu còn phải đi sang Ai Cập tránh thời tiết lạnh giá của mùa đông khắc nghiệt. Nhưng trước sự khẩn khoản mời gọi của hoàng tử, cuối cùng chim én đã nhận lời làm giao liên giúp hoàng tử một đêm. Hoàng tử cám ơn chim và công việc đầu tiên anh giao cho chim làm là "hãy mang viên hồng ngọc to gắn ở đầu cán gươm bên mình hoàng tử, đến trao tặng cho một bà mẹ có đứa con mang bệnh rất nặng. Nhưng bà ta không có tiền để tìm thầy chạy thuốc chữa bệnh cho con gái cưng". Chim én liền dùng mỏ lấy ra viên hồng ngọc và mang đến địa chỉ hoàng tử đã nói, và đặt nhẹ vào tay của bà mẹ khốn khổ kia. Bà rất vui mừng khi nhận được món quà quý giá và nhờ chim cám ơn hoàng tử. Sau khi có tiền, nhờ được mang đến bác sĩ chữa bệnh kịp thời, nên cô gái đã hồi phục rất nhanh. Chim én liền bay về báo cáo kết quả công việc với hoàng tử. Hôm sau, hoàng tử lại yêu cầu chim én ở lại thêm một ngày nữa, và đêm hôm đó, đã nhờ chim lấy ra một viên ngọc bích từ trong mắt của mình, đem đến trao cho một người nghèo đang bị đói khát nằm trên hè phố chờ chết. Một lần nữa, chim lại làm đúng theo yêu cầu của hoàng tử. Trong lúc đi làm việc thiện, chim én đã có dịp nhìn thấy biết bao hoàn cảnh đáng thương trong các nhà ổ chuột, dưới hầm cầu hay tại các nơi tập trung người vô gia cư vô nghề nghiệp. Nên sau đó, chim én đã bằng lòng ở lại làm giao liên cho hoàng tử. Ngày qua ngày, theo sự chỉ đạo của hoàng tử, chim én đã gỡ dần những lớp vàng lát bên ngoài quần áo của hoàng tử và đem đi tặng cho những người bần cùng.

Rồi vào một đêm trời rất lạnh, chim én bay về sau một chuyến công tác từ thiện. Lúc này bức tượng của hoàng tử đã trở thành trơ trụi. Bao nhiêu vàng ngọc trang điểm trên bức tượng đã không còn nữa. Sáng hôm sau, người ta thấy chim én nằm chết dưới chân bức tượng. Chim đã chết sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cao cả do hoàng tử trao cho. Còn hoàng tử thì quảng đại cho đi tất cả những gì mình có. Công việc hoàng tử làm mang lại hiệu quả thiết thực là cứu giúp nhiều người vượt qua khó khăn. Nhưng thử hỏi, nếu không nhờ chim én cộng tác, thì liệu hoàng tử có làm được như vậy hay không?

Ngày nay Đức Giê-su đang ở trên cây thập giá cũng nhờ mỗi người chúng ta trở thành giao liên cho Người. Tay chân Người bị đóng đinh vào thập giá. Người cần chúng ta đại diện Người mà chia sẻ và phục vụ tha nhân. Người muốn chúng ta cho Người mượn đôi chân để có thể đến với người nghèo, cho mượn đôi tay để có thể rửa chân phục vụ cho họ, cho mượn miệng lưỡi để có thể nói lời khuyên bảo, an ủi và động viên họ. Nói tóm lại, mỗi tín hữu chúng ta được Đức Giê-su mời gọi để chia sẻ tình yêu của Người cho tha nhân. Để làm được như vậy, chúng ta cần phải có một trái tim biết chạnh lòng xót thương như Đức Giê-su, phải sẵn sàng mở rộng đôi tay để trao tặng cơm áo, cảm thông với những người đau khổ. Vậy chúng ta sẽ làm gì để trở thành người giao liên của Chúa Giê-su như con chim én trong câu chuyện trên?

NẾU CHÚNG CON BIẾT ĐÓ LÀ CHÚA :

NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela), vị tổng thống da đen đầu tiên tại một nước có tệ phân biệt chủng tộc là Nam Phi, khi còn là một thanh niên, đã trở nên lãnh tụ của quốc hội Châu Phi bị cấm đoánn (ANC). Vì đang trong giai đoạn đấu tranh với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để dễ dàng hoạt động chính trị. Nói chung, ông cố tình ăn mặc lôi thôi và hóa trang thành nhiều người khác nhau. Ong biết rằng với cách hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, và điều này thực sự đã nhiều lần xảy ra.

/Một lần kia, khi đến tham dự một buổi họp mật ở một vùng quê miền GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg). Một vị linh mục đã đứng ra thu xếp một cuộc họp mặt để NEN-SÂN có dịp nói chuyện với một số thanh niên. Tuy nhiên khi ông đến nơi, người phụ nữ ra mở cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi của ông, đã nói : "Ở đây chúng tôi không đón tiếp những người lôi thôi như ông". Nói rồi bà ta đóng sầm cửa lại ngay trước mặt ông. Sau đó, khi biết người gọi cửa khi nãy là ai, bà đã quay trở lại trong sự xấu hổ và nói với ông : "Nếu tôi biết là ngài, thì tôi đã dành một cănphòng tốt nhất trong nhà cho ngài, và phục vụ ngài thật chu đáo".

Tuy nhiên, dù ông giả dạng thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người là bạn thân đã nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một tài xế ở Gio-han-nét-bớc, đang đứng đợi đón khách ở một góc phố, trong áo khoác ngoài bụi bặm và trên đầu đội chiếc mũ nhàu nát, thì ông nhìn thấy một người cảnh sát đang sải bước tiến về phía mình. Ông nhìn quanh để tìm lối thoát thân. Nhưng viên cảng sát kia đã mỉm cười chào ông, anh ta lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC. Rồi anh ta bước đi hướng khác. Những sự cố như vậy xảy ra khá nhiều lần, và NEN-SÂN yên tâm vì biết rằng có nhiều người châu Phi thực tâm ủng hộ ông và con đường đấu tranh với tệ phân biệt chủng tộc của chính quyền người da trắng. Cuối cùng NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử và lên làm tổng thống của Nam Phi.

Đức Giê-su ngày nay cũng đang ẩn mình dưới nhiều hình dạng khác nhau. Vậy làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Người. Chúng ta hãy nghe những.

ĐỨC VUA ĂN XIN

Ngày xưa, có một ông vua lớn tuổi mà không có một đứa con nối dõi ngôi báu của mình. Nhà vua liền tìm cách tuyển chọn con nuôi để phong lên làm hoàng tử kế vị sau này. Nghe được thông cáo tuyển nhân tài làm hoàng tử, rất đông thanh niên tình nguyện khăn gói lên đường trực chỉ kinh thành ứng thí. Điều kiện nhà vua ra là thí sinh ngoài văn tài võ giỏi, còn phải có lòng mến Chúa yêu người.

Có một thanh niên kia rất khôi ngô tuấn tú, vừa giỏi nghề cung kiếm, lại vừa văn hay chữ giỏi. Nhất là anh lại có lòng mến Chúa yêu người trổi vượt các chúng bạn đồng trang lứa với anh. Anh được thầy dạy và cha mẹ khích lệ ứng thí. Có điều nhà anh lại nghèo, nên không đủ tiền may sắm quần áo, và không cả lương thực đi con đường tới kinh thành dài cả ngàn cây số. Sau khi cầu nguyện xin ơn soi sáng, anh quyết định ra đi, vừa đi vừa nhờ sự giúp đỡ của những mạnh thường quân ở dọc đàng. Sau một tháng ngày đi đêm nghỉ, anh đã tới được kinh thành, và từ đàng xa anh đã trông thấy cung điện nhà vua thật nguy nga tráng lệ. Trên đường đến cung điện nhà vua, anh gặp thấy một người ăn xin nghèo khổ, quần áo rách nát đang ngồi bên vệ đường. Ông lão chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Lão ăn mày nói : "Đã hai hôm nay già này không có một hột cơm trong bụng, và rét run vào ban đêm vì trời bắt đầu vào mùa đông. Cậu có thể cho tôi chiếc áo khoác cậu đang mặc, và số lương thực cậu đem theo hay không ?" Nhìn thấy hoàn cảnh ông lão đáng thương, anh thanh niên liền nói mấy lời an ủi động viên ông, và cởi chiếc áo khoác anh đang mặc phủ lên người ông cho đỡ lạnh. Anh cũng cho luôn cả túi lương thực cho cuộc hành trình quay trở về nhà, mà anh đã được một số người hảo tâm hết lòng giúp đỡ. Rồi trong bộ đồ cũ rách, anh bước vào cung điện nhà vua. Anh được người phụ trách ứng thí dẫn đến ở trọ tại một phòng lớn trong cung điện. Hôm sau, anh được dẫn đến các quan giám khảo chấm điểm các môn thi văn võ, và ở chỗ nào anh cũng đều đạt được điểm cao. Cuối cùng là phần trình diện ra mắt đức vua tại một đại sảnh trong hoàng cung. Khi đến trước ngai rồng, anh khấu đầu thật sâu để chào và rồi quỳ gục đầu xuống sát đất để tỏ lòng kính trọng đức vua. Rồi khi được đức vua cho phép, anh nhìn lên thì thấy đức vua đang ngồi trên ngai kia không ai khác hơn là chính ông lão già ăn xin bên vệ đường mà anh mới giúp đỡ hôm trước. Anh thưa rằng : "Có phải tiện dân mới được vinh dự gặp đức vua tại con đường gần hoàng cung vào chiều hôm qua chăng ?" Đức vua liền đáp : "Đúng như vậy !" Anh thanh niên tiếp tục hỏi : "Tại sao đức vua lại giả làm một người ăn xin như thế ?" Đức vua liền trả lời : "Bởi vì Ta muốn thử lòng của ngươi để biết xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người theo tiêu chuẩn chọn lựa của ta hay không". Cuối cùng chàng thanh niên vừa tài giỏi, lại vừa hiền lành đạo đức kia đã được chấm đậu và được nhận làm hoàng tử con vua. Và sau khi lên ngôi, ông vua này nổi tiếng là một vị vua vừa có lòng đạo đức là mến Chúa, lại vừa có lòng thương yêu và khoan dung xót thương thần dân của mình.

Câu chuyên này rất phù hợp với tư tưởng trọng tâm trong Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Giê-su Làm Vua hôm nay. Đó là : Vào lúc cuối đời, sau khi chết, mỗi chúng ta đều phải ra trước tòa Chúa phán xét, và sẽ được Chúa xét xử công minh. Số phận đời đời của chúng ta sẽ được định đoạt tùy theo ta đã làm hay bỏ không làm các việc tốt hữu ích cho tha nhân.

3) SUY NIỆM :

Nữ tu Tê-rê-sa Can-cút-ta (Tê-rê-sa Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng này. Bà đã bị cuốn hút bởi những người đau khổ. Dưới mắt của bà, họ không những là người đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Tình yêu Chúa và tình yêu thương người đồng loại hòa quyện vào nhau. Vì yêu Chúa nhiều, nên bà lại càng phải yêu người. Bà thường nhắc nhở chị em nữ tu Thừa Sai Bác Ai như sau : “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su trong mỗi con người chị em gặp mặt, dù họ có đang kinh tởm đến đâu đi nữa”.

Đoạn Tin Mừng hôm nay sở dĩ được chọn để đọc trong ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, vì Đức Giê-su được diễn tả như một Ông Vua Thẩm Phán. Người sẽ tái lâm vào ngày tận thế cùng với các thiên sứ hầu cận chung quanh. Người ngồi trên ngai vinh hiển, mà xét xử muôn dân. Người tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như mục tử tách chiên ra khỏi dê vào mỗi buổi tối trước khi cho chúng vào chuồng. Người ban thưởng kẻ lành và ra phạt kẻ dữ cách công minh. Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên những việc họ đã làm hay không làm những việc bác ái cho những kẻ nghèo hèn, mà họ không hề hay biết là đã làm hay không làm cho chính Chúa. Vua Giê-su không ở trong cung vàng điện ngọc, nhưng ở trong những kẻ nghèo đói khốn cùng. Người tự đồng hóa với những kẻ đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù mà chúng ta vẫn có thể gặp được hàng ngày.Dù đã được Chúa Cha tôn lên làm Chúa tể muôn loài, nhưng Người không ngần ngại nhìn nhận những kẻ nghèo hèn yếu đuối làm anh em của mình. Từ đây, chúng ta không cần phải đi tìm Chúa ở nơi đâu khác : không những Người hiện diện trong nhà thờ, trong các bí tích. Nhưng Người còn hiện diện trong những người đang cần được trợ giúp. Có những lần Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng ta mà chúng ta không nhận ra Người, giống như ông vua kia đã cải trang làm người nghèo khóngồi ăn xin bên vệ đường. Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên hành động thế nào đối với những kẻ nghèo đói đau khổ. Tội lớn nhất ở đây có lẽ là tội đã thiếu sót bổn phận yêu thương cụ thể, khi chúng ta không làm điều lẽ ra phải làm cho một người anh em bất hạnh.

Hôm nay Đức Giê-su vẫn đang ngửa tay xin chúng ta giúp đỡ trong những kẻ bé mọn : Những người mù lòa cần được chúng ta mang đến bệnh viện chữa trị để được sáng mắt; những kẻ mù chữ u mê cần được chúng ta giúp đưa đến học trong các lớp học tình thương, các lớp bổ túc văn hóa. Các trẻ em mồ côi cần được nuôi dạy trong những nhà mở chan hòa tình người. Những cụ già neo đơn cần được một chỗ ổn định và được nuôi dưỡng tử tế. Những người đang tự nhốt mình trong ngục tù đam mê, và những cô gái nghèo đang kiếm sống nhờ việc bán đi thân xác và đức hạnh của mình. Chúng ta phải làm một việc gì cụ thể giúp đỡ tha nhân, để Nước Chúa ngày một lớn lên nơi môi trường chúng ta đang sống. Tóm lại, cần làm gì cụ thể để thế giới mà chúng ta đang sống ngày một an bình trật tự hơn, công bình nhân ái hơn, và nhờ đó, Đức Giê-su sẽ thực sự trở nên Vua của vũ trụ bên ngoài, và nhất là làm vua vũ trụ là chính cõi lòng của chúng ta.

4) THẢO LUẬN :

Để cụ thể hóa chủ điểm của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, một giáo sư đại học thành phố Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên của ông câu hỏi như sau : “Bạn hãy cho biết : Gần đây nhất, bạn đã quan tâm giúp đỡ cho một người đang cần đến bạn vào lúc nào ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi tối chúng ta cần đặt ra cho mình, để hồi tâm sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để được hạnh phúc đời sau.

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU.

A)
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Vua vũ trụ.

Nếu Chúa thật sự là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, hơn tám trăm ngàn nữ tu. Nếu Chúa thực sự là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đây đã biến đổi nên thiên đàng trần gian từ lâu rồi. Chúng con không làm dậy lên khối bột xã hội không phải vì lượng men còn ít, nhưng là vì men đã bị mất phẩm chất. Chúng con phải gánh chịu một phần trách nhiệm về sự dữ đang tràn lan trên địa cầu, và có nhiều sự dữ lại do chính chúng con đã gây ra. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau trị đến, nhưng lại không chịu tích cực xây dựng nước ấy trong khả năng của mình.

LẠY CHÚA. Chúng con thường cố tình thu nhỏ lại vũ trụ của Chúa. Cố tình giam hãm Chúa trong phạm vi nhà thờ, nên nhiều nơi trên thế giới và trên tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng con hiện đang vắng bóng Chúa. Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn. Ước gì một tỉ người tín hữu công giáo chúng con chịu mời Chúa đến làm vua trong tâm hồn và nơi nhà của mình, và đưa Chúa đến những nơi người ta chưa hề biết Chúa, để làm cho vũ trụ này thực sự là vũ trụ thuộc về Chúa trọn vẹn.

X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

B)
LẠY MẸ MA-RI-A.,

Nhiều lần con đã tự biện hộ cho những thiếu sót bổn phận bác ái của mình khi nói rằng : “Lực bất tòng tâm :Làm sao tôi có thể vào trong nhà tù để thăm nuôi các tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ dường không mang giấy tờ tùy thân vào trọ trong nhà mình được ? Tôi lấy đâu ra tiền bạc để làm những việc lớn lao như chăm sóc những người bệnh phong cùi, nuôi dưỡng các em mồ côi bụi đời, phục vụ những người già yếu neo đơn không ai nuôi dưỡng?”.

LẠY MẸ.

Nếu con cứ lý luận như thế thì con sẽ chỉ còn biết khoanh tay đứng nhìn và không làm gì nữa. Nhưng có biết bao công việc trong tầm tay mà con có thể làm được để đỡ gánh nặng cho một người anh em, giúp đỡ phần nào cho những người nghèo đói qua được hoàn cảnh ngặt nghèo, giúp đỡ gánh nặng cho một người trong gia đình ruột thịt, nhặt một cái đinh nhọn gặp phải trên đường đi, thăm viếng chia sẻ Chúa cho một người bạn thân như Mẹ đã làm với bà chị họ Ê-li-sa-bét...Và còn biết bao công việc khác tương tự. Xin cho con biết quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu con xứng đáng là người môn đệ thực sự của Chúa Giê-su và đáng được Người ban thưởng Nước Trời đời đời như Mẹ đang được hưởng.

X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Nguồn vietcatholic.org

 

2348    20-11-2014 21:02:28