Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Củng Cố Ơn Gọi Hôn Nhân - Tháng 04 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN

TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Vĩnh Long, 17.3.2011

V/v Củng cố ơn gọi hôn nhân


"Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân" (Mt 28,19).

Đại Hội Dân Chúa năm 2010 xác tín về sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, mu?n xây dựng Hội Thánh thành một gia đình, trong đó mọi người sống hiệp thông với Thiên Chúa như con với Cha, hiệp thông với  nhau như  anh chị em một nhà.

1. Buổi đầu, trong Vườn Eden, Adong Evà sống với nhau như đôi bạn tri kỷ, gần gũi thân mật với Chúa như con cái trong nhà (St  1,26-127; 2,8-23). Thế nhưng bầu khí hiệp thông nầy đã sớm tan vỡ, khi nguyên tổ chúng ta đã vi phạm lệnh Chúa. Họ đã ăn trái của cây biết lành biết dữ,  mà họ không được phép ăn. Hậu quả là họ sợ hãi trốn tránh mặt Chúa (x St 3, 6-11), rồi tự bàu chữa bằng cách đổ lỗi :

Adong  nói : Người đàn bà mà Chúa đã đặt bên tôi, đã hái trái và cho tôi ăn.

Còn Evà thì nói : con rắn đã phỉnh lừa tôi (St 3,13-14).

Có tội thì có hình phạt. Nhưng cũng có kế hoạch của lòng thương xót vô biên:  Dòng giống người nữ sẽ đạp đầu rắn (St 3,15)

2. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Chúa, Ngài dựng nên họ có đôi có bạn để họ thông hiệp với nhau, nhờ đó họ biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa (Giáo lý của HTCG,1877-1878).

Thế nên, bất chấp tội lỗi của Adong Evà, của thế nhân, Thiên Chúa muốn cho con người sống hiệp thông với Ngài, nên đã tuyển chọn một dân tộc và lập giao ước với họ (x. Xuất hành, đoạn 19). Các tiên tri đã mô tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với Israel như tình nghĩa phu thê. Rồi sự bội phản của tuyển dân bị coi như  thứ tội ngoại  tình đáng ghê tởm (x. Ôsê 1,2b).

3. Như vậy cũng chưa đủ. Chúa tái lập sự hiệp thông với loài người một cách kỳ diệu. Ngôi Hai Thiên Chúa nhận lấy bản tính loài người nơi Đức Maria, để  kết hợp với tất cả mọi người (x.Roma 10,6-13; GL của HTCG 432), để ai thấy và tin Người thì được quyền làm con của Thiên Chúa (Gioan 1,12).

Nhờ hy tế của Chúa Kitô trên Thập Giá, một Giao Ước Mới đã được thiết lập  thay cho Giao Ước ở Sinai (Ad  Haebr. 8,8), để tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa Cha (Eph 2,16), trở thành đoàn dân mới (1 Phêrô 2,9).

Sự hiệp thông giữa Chúa Kitô và Đoàn dân của Người là Hội Thánh được diễn tả như Đầu với Thân Mình  (Eph 1,22; 4,4; 5,23; 1 Cor 12,27), như  tình nghĩa phu thê (2 Cor 11,2; Eph 5,26; Khải huyền 19,8). Và  hôn nhân của những người đã chịu Phép Rửa Tội trở nên biểu tượng của giao ước mới, giao ước vĩnh cửu được ký kết trong máu của Chúa Kitô (Gioan Phaolô II, FC 13). Tertullianô đã diễn tả sự cao cả và vẻ đẹp của đời sống vợ chồng trong Đức Kitô: "Tôi sẽ múc đâu ra sức mạnh để nói cho thỏa về niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được Thánh Lễ củng cố, được lời Chúc Lành niêm ấn, được các Thiên Thần công bố và Cha trên trời chuẩn y..."  (Ad uxorem II,8,6-8 : CCL I,393).

4. Thế nhưng thời đại của chúng ta , gia đình đã bị ảnh hưởng do những biến đổi sâu rộng của xã hội, rất khó trung thành với những giá trị nền tảng của gia đình, nhất là tình yêu không san sẻ, tình yêu chung thủy: có những đám cưới vội vã, đám cưới bất đắc dĩ, đám cưới giả như một dịch vụ kiếm tiền, có những đôi bạn chia tay nhau sau đám cưới ít lâu, những hôn nhân thử nghiệm, những trường hợp chung sống ngoài hôn nhân, vì họ nghĩ rằng cưới hỏi chỉ thêm phiền phức ... Còn đâu sự hiệp thông yêu thương bảo đảm hạnh phúc của đôi bạn, của con cái!  Có tình yêu chân thật nào mà không phải trả giá, không phải hy sinh!

5.  Hội Thánh mang nhiều ưu tư đối với gia đình (Gioan Phaolô II, FC 2), âu lo cho tương lai của các người trẻ, nghĩ đến của xã hội ngày càng suy thoái với nhiều hỗn loạn. Muốn canh tân xã hội, trước tiên phải củng cố nền tảng là gia đình.

Để bước vào đời sống hôn nhân, cần có một sự trưởng thành, không những về tuổi tác, về tinh thần trách nhiệm (Giáo lý về hôn nhân), về  đời sống đạo hạnh (cần lãnh nhận Bí Tích Thêm sức, cần phải cầu nguyện nhiều ) , không thể coi thường gương sáng và sự cố vấn  khôn ngoan của cha mẹ.  Có nên lấy câu tục ngữ "dục tốc bất đạt" làm phương châm  cho tình huống  nầy!

Mong các vị chủ chăn của dân Chúa sẽ đặc biệt quan tâm đến các người trẻ, để hướng dẫn họ; với sự cộng tác của anh chị em giáo dân, sẽ gần gũi và nâng đỡ những gia đình gặp khó khăn. 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
          Giám mục Vĩnh Long


THƯ MỤC VỤ

Tháng 04/2011
CHỦ ĐỀ: CỦNG CỐ ƠN GỌI HÔN NHÂN

Để bày tỏ khuôn mặt Hội Thánh như một gia đình, đại hội kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa hợp tác chặt chẽ với nhau trong tình hiệp nhất yêu thương. Xin anh chị em giáo dân tích cực tham gia vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh bằng những khả năng chuyên môn Chúa ban cho mình.  Các gia đình công giáo được mời gọi giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Kitô giáo, xây dựng gia đình như Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện. Đối với các bạn trẻ, xin các bạn nhiệt thành tham gia vào những sinh hoạt của Hội Thánh để đem sức sống và sự tươi trẻ cho đời sống Hội Thánh (Sứ Điệp Của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Chàng trai gặp cô gái ở một buổi tiệc. Cô rất xinh đẹp, quyến rũ và đến hơn nửa số người trong buổi tiệc đều để ý đến cô. Trong khi chàng trai chỉ là một người rất bình thường, không ai buồn nhìn tới. Cuối cùng, khi buổi tiệc gần kết thúc, chàng trai ngượng ngập mời cô gái uống cà phê với mình. Cô gái rất ngạc nhiên, nhưng vì lời mời quá lịch sự nên cô đồng ý.       

Họ ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong góc phòng tiệc, nhưng chàng trai quá lo lắng, mãi không nói được lời nào, làm cho cô gái cũng cảm thấy bất tiện. Bỗng nhiên, chàng trai gọi người phục vụ:


- Xin cho tôi ít muối để tôi cho vào cà phê!   

Mọi người đứng xung quanh đều hết sức ngạc nhiên và nhìn chăm chăm vào chàng trai. Chàng trai đỏ mặt nhưng vẫn múc một thìa muối cho vào cốc cà phê và uống.            

Cô gái tò mò: 

- Sao anh có sở thích kỳ quặc thế?    

- Khi tôi còn nhỏ, tôi sống gần biển - Chàng trai giải thích - Khi chơi ở biển, tôi có thể cảm thấy vị mặn của nước, giống như cà phê cho muối vào vậy! Nên bây giờ, mỗi khi tôi uống cà phê với muối, tôi lại nhớ tới tuổi thơ và quê hương của mình.        

Cô gái thật sự cảm động. Một người đàn ông yêu nơi mình sinh ra thì chắc chắn sẽ yêu gia đình và có trách nhiệm với gia đình của mình. Nên cô gái bắt đầu nói chuyện cởi mở hơn, về nơi cô sinh ra, về gia đình... Trước khi ra về, họ hẹn nhau một buổi gặp tiếp theo... Qua những lần gặp gỡ, cô gái thấy chàng trai quả là một người lý tưởng: rất tốt bụng, biết quan tâm... Và cô đã tìm được người đàn ông của mình nhờ cốc cà phê muối.   

Câu chuyện đến đây vẫn là có hậu vì "công chúa" đã tìm được "hoàng tử", và họ cưới nhau, sống hạnh phúc.Mỗi buổi sáng, cô gái đều pha cho chàng trai - nay đã là chồng cô - một cốc cà phê với một thìa muối. Và cô biết rằng chồng cô rất thích như vậy. Suốt 50 năm kể từ ngày họ cưới nhau, bao giờ người chồng cũng uống cốc cà phê muối và cảm ơn vợ đã pha cho mình cốc cà phê ngon đến thế.      

Sau 50 năm, người chồng bị bệnh và qua đời, để lại cho người vợ một bức thư:     

"Gửi vợ của anh,        
Xin em tha thứ cho lời nói dối suốt cả cuộc đời của anh. Đó là lời nói dối duy nhất - về cốc cà phê muối. Em có nhớ lần đầu tiên anh mời em uống cà phê không? Lúc đó, anh đã quá lo lắng, anh định hỏi xin ít đường nhưng anh lại nói nhầm thành muối. Anh cũng quá lúng túng nên không thể thay đổi được đành phải tiếp tục lấy muối cho vào cốc cà phê và bịa ra câu chuyện về tuổi thơ ở gần biển để được nói chuyện với em.          

Anh đã định nói thật với em rất nhiều lần nhưng rồi anh sợ em sẽ không tha thứ cho anh. Và anh đã tự hứa với mình sẽ không bao giờ mói dối em một lời nào nữa, để chuộc lại lời nói dối ban đầu.      

Bây giờ anh đã đi thật xa rồi, nên anh sẽ nói sự thật với em. Anh không thích cà phê muối, nhưng mỗi sáng được uống cốc cà phê muối từ ngày cưới em, anh chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc vì mình đã phải uống cả. Nếu anh có thể làm lại từ đầu, anh vẫn sẽ làm như thế để có được em, và anh sẽ uống cà phê muối cả cuộc đời".  

Khi người vợ đọc xong lá thư cũng là khi lá thư trong tay bà ướt đẫm nước mắt. Nếu bạn hỏi người vợ rằng: "Cà phê muối có vị thế nào?", chắc chắn bà sẽ trả lời: "Ngọt lắm".         

(Sưu tầm)


Người ta nói: con tim có lý lẽ của nó! Thế nhưng để đảm bảo một cuộc hôn nhân bền vững còn đòi phải có sự tôn trọng, chung thuỷ  và hy sinh của cả vợ lẫn chồng cho nhau nữa.

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về Chủ đề Củng Cố Ơn Gọi Hôn Nhân sau đây:

  1. Nói hôn nhân, hiểu được là gia đình. Mọi gia đình có thể hiểu được là một thành phần, một tế bào, của Đại Gia Đình Hội Thánh.
  2. Gia đình nhỏ, hay một phần của Đại gia đình, thì phải có một phần bản thể của tổng thể gia đình.
  3. Bản thể của Đại gia đình là Hiệp Thông (liên kết, trao đổi).
  4. Thành phần nhỏ của Đại gia đình phải dùng những đặc điểm riêng biệt: nôi của sự sống, mái ấm của tình thương, ngôi trường đầu tiên...cộng tác cho hiệp thông.
  5. Tuổi trẻ hãy nhiệt thành cộng tác hiệp thông để Hội Thánh được sống mạnh, sống tươi trẻ.

Từ muôn đời Thiên Chúa đã yêu thương và mời gọi ta bước vào cuộc sống làm người và làm con Chúa. "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân" (Gr 1, 5).  "Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người" (Gl 1, 15). Như vậy, ơn gọi là tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người và Chúa mời gọi ta đáp lại tình yêu đó.

"Mỗi đời sống là một ơn gọi" (Thông Điệp Phát Triển Các Dân Tộc, số 15), nên có nhiều ơn gọi khác nhau dành cho bậc sống của mỗi người. Vấn đề là chúng ta phải biết đâu là ơn gọi của mình và toàn tâm toàn ý sống theo ơn gọi ấy.

Ơn gọi làm người là ơn gọi đầu tiên và là nền tảng của mọi ơn gọi tự nhiên. Từ hư vô, Thiên Chúa đã tạo dựng con người "theo hình ảnh mình và giống mình" (St 1, 26).  Ngài đã trao vũ trụ cho con người làm chủ và mời gọi con người bước vào một mối tương quan yêu thương mật thiết với Ngài. "Đặc tính cao cả nhất của phẩm giá con người nằm trong ơn gọi con người được hiệp thông với Thiên chúa. Thiên Chúa khởi sự mời gọi con người đối thoại với Ngài, cùng với sự xuất hiện của họ trên đời. Bởi vì, nếu con người hiện hữu, là vì yêu thương mà Thiên Chúa đã tạo dựng họ, và cũng vì yêu thương mà ngài luôn cho họ được sống. Và con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý, nếu tự do nhìn nhận tình yêu đó và phó thác cho Đấng tạo dựng nên mình" (GS 9).  Mục đích của Thiên Chúa khi dựng nên con người là để con người sống hiệp  thông với Chúa, mà được hạnh phúc. Và hạnh phúc ấy chỉ hoàn toàn viên mãn trong cõi thiêng liêng, vĩnh hằng. Hiểu được như thế về căn nguyên và cùng đích đời người,  con người mới có thể sống theo đúng ơn gọi mà thiên Chúa dành cho mình trong kiếp sống con người. Sống giữa đời nhưng không bám víu vào đời nầy.

Ơn gọi thứ hai và cũng là nền tảng cho mọi ơn gọi siêu nhiên là ơn gọi làm Kitô hữu.  Nhờ Phép Rửa Tội, qua Chúa Kitô Thiên Chúa tái tạo chúng ta từ sự hiện hữu làm người trở thành con cái Thiên Chúa. Thật vậy, qua phép Rửa, chúng ta được tái sinh trong Chúa Kitô, từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cùng vác thập giá với Người để rồi cùng được hưởng vinh quang với Người (x. Rm 6,4).

Để con người có thể sống đúng như con cái Chúa, Thiên Chúa đã sai Con Một Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để hướng dẫn chúng ta nhận biết Ngài là  Cha nhân hậu và chúng ta là con cái của Ngài, là anh em với nhau. Như vậy, chúng ta được tạo dựng trở nên giống Chúa Giêsu, luôn hướng đến sự kết hiệp với Chúa Ba Ngôi. Vì thế, mục tiêu tối hậu của cuộc sống là làm sao trở nên giống như  Chúa Giêsu và theo những lời giảng dạy của Ngài, trong Giáo Hội là gia đình thiêng liêng của Ngài. Sống đạo không chỉ là tin, nhưng quan trọng hơn cả là thuộc về Ngài, thuộc về Giáo hội của Ngài. Sống đạo là sống tình thân hữu với Thiên Chúa và với mọi người.

Tất cả mọi ơn gọi của con người đều xuất phát từ hai ơn gọi căn bản nầy là:  ơn gọi làm người và làm con Chúa. Mà ơn gọi thì luôn gắn liền với sứ vụ. Chúng ta được Chúa kêu gọi là để sống với Ngài và để được Ngài sai đi (x. Mc 3, 13- 15). Chính vì thế sống đời gia đình cũng chính là ơn gọi mà Chúa dành cho những ai đi theo bậc sống nầy phải hoàn hành: "Các gia đình công giáo được mời gọi giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Kitô giáo, xây dựng gia đình như Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện" (Sứ Điệp Của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5).

Vậy làm sao biết được thánh ý Chúa cho ơn gọi riêng của mỗi người? Dù sống trong bậc sống nào - tu trì hay lập gia đình -  tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi trở nên trọn lành, nên thánh: "Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48). 


Công đồng Vatican II cũng đã khẳng định mọi Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh trong bậc sống của mình và có nhiều con đường để nên trọn lành (x. LG 11, 42), chứ không chỉ qua con đường tu trì.


Ở đây, chúng ta cần phân biệt "nên thánh" trong bậc giáo dân và "nên thánh" trong bậc tu trì: sự thánh hiến phổ quát và sự thánh hiến riêng biệt, ơn gọi phổ quát nên thánh và ơn gọi cụ thể nên thánh theo từng bậc sống.  Trong Cựu ước, có sự thánh hiến của toàn thể dân Chúa và cũng có sự thánh hiến của riêng các ngôn sứ. Cũng vậy, trong Tân ước, ngoài sự thánh hiến phổ quát dựa trên bí tích Rửa tội, còn có sự thánh hiến đặc biệt của bí tích Truyền chức, của bí tích Hôn nhân, của các hình thức tu trì ...


Nói chung, nên thánh là con đường của đức ái. Càng yêu nhiều, càng thánh thiện. Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó.


Dù sống trong bậc sống nào, cần phải hiểu rằng TÌNH YÊU là sức sống nền tảng của mọi ơn gọi: "Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô, với ý thức rằng, không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Người. Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó. Tôi yêu mến Chúa thế nào? Tôi minh chứng tình yêu của tôi cho Thiên Chúa thế nào? Thưa, bằng cách làm thật tốt đẹp công việc được trao phó, bằng cách thực hiện một cách đơn sơ những gì Chúa ủy thác cho tôi dưới bất kỳ dạng thức nào. Như thế, dù bạn được trao phó cho bất kỳ công việc gì, với tư cách một tu sĩ, hay một giáo dân - đó là phương tiện cho bạn để bạn dành tình yêu của bạn cho Thiên Chúa trong một hành vi sinh động, trong một hành vi của tình yêu... Ơn gọi không phải là những gì chúng ta đang làm, hay chúng ta làm được bao nhiêu việc, mà là bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công việc tôi đã được trao phó. Những gì bạn đang làm, có thể tôi không làm được... Những gì tôi đang làm, có thể bạn không làm được, nhưng tất cả chúng ta đều có thể làm cái gì đó thật tốt đẹp cho Thiên Chúa."  (Mẹ Têrêxa Calcutta).


Mỗi bậc sống đều là ơn gọi của Chúa, và ơn gọi nào cũng đều cao đẹp và có giá trị riêng của nó. Thế nào là ơn gọi làm gia đình?


Giáo Hội luôn đề cao và coi trọng đời sống hôn nhân. Cần phải có một nhân đức phi thường, cần phải có những đức tính anh hùng mới có thể chu toàn bổn phận đời sống vợ chồng. "Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng, cần phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ chồng được ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu kiên vững, một tâm hồn đại lượng và tinh thần hy sinh"  (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 49).


Nên thánh trong đòi sống gia đình chính yếu là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa ngay trong chính gia đình của mình. "Gia đình nhận lãnh trách nhiệm bảo toàn, nâng cao và thông truyền tình yêu là một phản ảnh sống động và thông dự thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại" (Tông Huấn Đời Sống Gia Đình, số 17).


Một cách cụ thể, gia đình đảm nhận bốn trách vụ sau:

- Xây dựng cộng đồng tình yêu

- Phục vụ sự sống

- Tham dự vào việc phát triển xã hội

- Tham dự vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.


Cơ bản và quan trọng nhất trong 4 trách vụ trên đây chính là xây dựng cộng đồng tình yêu. Gia đình được thiết lập và sinh động bởi tình yêu là một cộng đồng gồm những con người: vợ chồng, cha mẹ, con cái, bà con thân thuộc.


Tình yêu ấy được trãi ra qua việc:  đón nhận thêm một người con, với biết bao hy sinh và lo lắng; trở thành chổ dựa ấm cúng cho cha mẹ già, để họ không cảm thấy sự hiện diện của mình là thừa thải; xây dựng gia đình thành một mái ấm, chan hoà yêu thương, hy sinh và tha thứ... Từ tình yêu ấy trong gia đình của mình mới có thể lan rộng đến những người chung quanh. Có cố gắng xây dựng gia đình của mỗi người nên tốt đẹp, chúng ta mới có thể góp phần kiến tạo nên một xã hội chan hoà yêu thương.

Thực vậy, người ta không cần phải ra khỏi nhà để làm công tác xã hội từ thiện. Không ai cần được yêu thương giúp đỡ cho bằng chính những người thân trong gia đình. Khi gia đình trở thành một mái ấm thực sự, khi gia đình trở thành một cộng đồng tình yêu thực sự, hơi ấm của tình người sẽ toả lan đến những người bên ngoài gia đình.


Điều nầy đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải học sống yêu thương hàng ngày qua việc cảm thông, khoan dung, tha thứ cho nhau. Lòng quảng đại phải bao trùm lên mọi sinh hoạt của các thành viên trong gia đình với nhau.


Các tu sĩ thường nói với nhau: việc đền tội nặng nề nhất đối với tôi là đời sống chung. Thiết tưởng châm ngôn ấy càng phải áp dụng hơn cho đời sống gia đình. Việc đền tội nặng nề nhất của tôi là cuộc sống chung trong gia đình. Không cần một đặc sủng phi thường, không cần một cuộc sống khắc khổ như các vị ẩn tu trong sa mạc, cũng không cần phải là một tu sĩ mới có thể sống những nhân đức anh hùng. Đời sống hôn nhân và gia đình cũng có đủ những yếu tố để con người tập luyện những nhân đức anh hùng ấy.


Một tiến trình trưởng thành như thế đòi hỏi một sự hy sinh cao độ. Nhưng người tín hữu Kitô nhờ hồng ân của phép rửa và nhất là của bí tích Hôn Phối, sẽ đi vào tiến trình ấy với tất cả hân hoan và yêu thương. Họ biết rằng, khi sống yêu thương là họ ở trong Thiên Chúa.


Các tu sĩ được phong thánh không phải vì những hành động phi thường của họ, mà chính vì đức ái họ thực thi trong đời sống chung, hoặc cho những người khác. Cách tương tự, các đôi vợ chồng cũng đạt được sự trọn lành trong đời sống vợ chồng của mình nhờ những cố gắng thực thi đức ái cho nhau và cho mọi người trong gia đình.


(Nguồn: Ơn Gọi Hôn Nhân của Lm. Minh Anh & Lm. Jb. Trần Hữu Hạnh, fsf).


Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc Củng Cố Ơn Gọi Gia Đình  như thế nào:

  1. Có nhận định "hôn nhân" là một gia đình nhỏ, một thành phần, một tế bào của Đại gia đình là Hội Thánh?
  2. Là một thành phần, dĩ nhiên phải là một thành phần bản thể.
  3. Bản thể của Hội Thánh là hiệp thông. Hiệp là liên kết với nhau nên như một; còn Thông, có thể hiểu là trao đổi những thiện hảo, những tốt lành cho nhau.
  4. Gia đình nhỏ phải có một phẩn bản thể của Đại gia đình.
  5. Biết sống hiệp thông thì cộng tác cho Đại gia đình được tươi đẹp và thăng tiến.


LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu muốn quy tụ mọi người thành một đại gia đình Hội Thánh, được hưởng tình yêu và sức sống của Chúa, nên như gương mẫu và ánh sáng cho trần gian. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện cho mọi người sống đúng bổn phận hôn nhân và gia đình:

1. Chúa phán: "Các con hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, liên kết mật thiết với Chúa Kitô, tích cực giúp đỡ nhau nên trọn lành, như là những người con của cùng một Cha trên trời.

2. Chúa phán: "Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau". Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu luôn thể hiện tình yêu thương nhau, bằng hành động thiết thực, để thế giới hiểu biết về gia đình Hội Thánh.

3. Chúa phán: "Khi thấy anh em lỗi phạm, con hãy khuyên bảo nó, giữa con và nó thôi". Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu, chẳng những không phạm tội, mà còn biết giúp nhau không phạm tội, và hơn nữa, còn biết giúp nhau nên thánh.

4. Chúa phán với Phêrô: "Khi con trở lại, con hãy nâng đỡ đức tin của anh chị em con". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết tin cậy kính mến Chúa trên hết mọi sự, và nhờ đó giúp anh chị em mình sống tròn đạo Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Con Chúa thiết lập cho chúng con một gia đình Hội Thánh hưởng tình yêu và sức sống Chúa. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con giữ trọn bổn phận gia đình nhân loại, và góp phần xây dựng gia đình Hội Thánh, hầu đạt tới Nước Thiên đàng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Ý NGHĨA ĐỜI HÔN NHÂN

Gia đình, một cộng đồng tình yêu đang phải chịu nhiều thách đố trong một xã hội đầy tính ích kỷ và thực dụng. Một câu hỏi mà những người trẻ đặt ra là "ngày nay hôn nhân còn cần thiết nữa không?" khi mà những trào lưu sống chung không cần hôn thú, không cần hôn phối, không cần bất cứ sự ràng buộc nào, những trào lưu đồng tính đang phát triển một cách rộng rãi trong cộng đồng những người trẻ... thì nền tảng gia đình cần phải được đặt lại. Đâu là ý nghĩa của đời sống hôn nhân, đâu là niềm hạnh phúc của đời sống gia đình.


Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc những người trẻ ngày nay ngại có những ràng buộc trong hôn nhân. Có thể vì quá ích kỷ, hay đề cao sự tự do của mình thái quá nên ngại có sự ràng buộc, ngại lãnh trách nhiệm trong đời sống hôn nhân,  có thể trong xã hội đầy dẫy những mưu mô, dối trá người ta cũng thiếu sự tin tưởng nhau kể cả trong hôn nhân, hay cũng có thể người ta chưa thấy được ý nghĩa thật sự cho cuộc sống mình đặc biệt trong ơn gọi hôn nhân....Những lý do trên đã đưa đến một hệ quả là đời sống gia đình đang bị thử thách một cách khắc nghiệt đòi hỏi phải trả lại cho nó giá trị cao cả và niềm vui trong ý định ngàn đời của Thiên Chúa.

Trong phạm vi bài viết này, xin được giới hạn trong khuôn khổ hôn nhân của người Kitô hữu để thấy được đâu là ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo.


Trước hết, hôn nhân của người tín hữu là một bí tích, là một dấu chỉ qua đó Thiên Chúa ban ơn cho những ai sống trong đời sống hôn nhân, những hành vi, những cử chỉ diễn tả tình yêu trong hôn nhân điều được Thiên Chúa qua dấu chỉ bí tích biến đổi thành phương thế nên thánh. Như vậy, bí tích hôn phối làm cho người tín hữu trở nên thánh thiện nhờ Thiên Chúa thánh hoá đời sống hôn nhân của họ.


Thứ đến, hôn nhân của người tín hữu là được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã sáng tạo và Ngài không ngừng sáng tạo trong dòng lịch sử bằng việc cho con người được cộng tác bằng việc sinh sản con cái trong đời sống hôn nhân. Đây là một ơn ban lớn lao cho con người, một loài thụ tạo lại được cộng tác với Đấng tác thành mình mà sáng tạo vũ trụ, một loài thụ tạo hữu hạn lại được cộng tác với Đấng Vô Hạn sinh ra những con người có sự sống đời đời.


Sau cùng, hôn nhân của người tín hữu là cái nôi cho con người trở nên con Thiên Chúa. Sinh ra làm người trong cuộc đời, con người cần được nuôi dưỡng, bao bọc, chở che, được giáo dục...thì chính môi trường đức tin của gia đình Kitô hữu là mảnh đất tốt cho đức tin con cái được phát triển. Chính Con Thiên Chúa làm người cũng đã từng được sự hướng dẫn trong niềm tin của dòng tộc, của gia đình, của cha mẹ...mà ta có thể nói một phần nào đó đã ảnh hưởng trên sứ điệp rao giảng của Đức Giêsu sau này.


Với những gì đã được nói trên đây ta thấy rõ rằng hôn nhân là một ơn gọi cao quý, một sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa tình yêu muốn cho con người cộng tác với Người trong việc thánh hoá vũ trụ.


Ước mong những người trẻ, những người đã, đang và sẽ bước vào trong đời sống gia đình dám mạnh dạn tiến bước khi thấy được ý nghĩa của đời sống mình. Sứ mạng nên thánh trong đời sống hôn nhân là một sứ mạng cao cả nhưng cũng đầy chông gai, xin Chúa thêm sức nâng đỡ để các gia đình tìm được ý nghĩa và hạnh phúc trong đời sống theo như ý định của Thiên Chúa.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 4 : PHÚC ÂM THEO THÁNH MARCÔ (Mc)


1/ Thánh Marcô là ai?

Theo thư Côlôssê (4, 10) thì Mc là anh em họ của Barnaba. Mẹ ngài là Maria có một ngôi nhà tại Giêrusalem, nơi qui tụ các Kitô hữu tiên khởi ( Cv 12, 12).


Ngài đã theo Thánh Phaolô và Barnaba trong một số hành trình truyền giáo (Cv 12, 25), nhưng Mc đã trở về khi các ngài tiến  vào Tiểu Á (Cv13,5-13). Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã khước từ không cho ngài tháp tùng lại nữa. Sau này Thánh Barnaba đã đem ngài đi Cyrus (Cv15, 37-39). Trong thư thứ II Timôthêô (4,11) Thánh Phaolô đã làm hòa với Mc. Tác giả của thư thứ I Pr (5,13) thích gọi ngài là "người con của tôi".


2/ Còn chính ngài giới thiệu về mình như thế nào trong Phúc âm?

Theo Tin Mừng của ngài (14, 51-52) thì ngài chính là chàng thanh niên "tẩu thoát mình trần" ngài cũng còn được cho là  "người đội vò nước" (Mc 14, 13) mà Chúa Giêsu đề cập tới lúc sai hai môn đệ đi dọn bữa lễ Vượt qua.


3/ Thánh Mc đã chọn nguồn gốc nào để soạn Phúc Âm?

Theo tài liệu rất cổ của Papias (khoảng năm 138) và của Thánh Irênê (khoảng năm 202) thì Thánh Mc là thông ngôn của Thánh Phêrô nên ngài viết Phúc âm dựa vào lời rao giảng và ký ức của Thánh Phêrô.


4/ Thánh Mc viết Phúc âm nhằm độc giả nào?

Ngài viết cho dân ngoại, đặc biệt những người ở La mã. Chính vì vậy mà Mc đã loại bỏ những gì quá riêng tư của người Do Thái và ngài ít trích dẫn Cựu ước.


5/ Marcô viết Phúc âm lúc nào và ở đâu?

Theo tài liệu của Papias thì Thánh Mc viết Phúc âm sau cuộc tử nạn của Thánh Phêrô, nghĩa là khoảng năm 64-65, có lẽ ngài viết tại La Mã, vì có những kiểu nói của La tinh trong Phúc âm của ngài, như viên bách quản (Mc 15,19-44) chẳng hạn.


Lời Chúa: Chúa Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người nầy!". Thần ô uế lay mạnh người ấy, hét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. (Mc 1,26-27b)


Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dùng lời Chúa để giải thoát con khỏi ách nô lệ tội lỗi, xin cho con biết chăm chú học hỏi,  lắng nghe và biết thực hành lời Ngài để trở nên con cái đích thực của Chúa. Amen

SỐNG ĐẠO

CON NGƯỜI CÓ TỰ DO KHÔNG? 

Nhà đạo, sống trong khuôn khổ giáo lý, xem ra không còn tự do, có đúng không? Chúa tạo dựng con người, ban cho tất cả, có gì mình có mà không do Chúa ban. Đặc biệt Chúa cũng ban cho con người được tự do, chúng ta hiểu tự do như thế nào?

Tự do là muốn gì thì muốn, làm gì thì làm. Hiểu như thế không đúng. Tự do luôn có hạn hẹp. Đối với Chúa, tự do của con người không đi ngoài ý Chúa được, đi ngược ý Chúa là có tội.

Còn đối với người khác cũng không có quyền tự do đối chọi với ý người khác, phải tìm dung hoà   hiệp thông. Ngay đối với vạn vật nếu chúng ta tự do sử dụng sai ý Chúa thì cũng kể được là lỗi với vạn vật. (Ví dụ: dùng cây đánh đập, dùng dao đánh chết người ta....)

Tự do là một thành phần quan trọng trong bản thể con người. Không tự do thì không còn là con người. Không biết dùng tốt tự do thì con người không còn giá trị.

Tự do có thể hiểu như trước nhiều đối tượng,  giống trong gian hàng trưng bày nhiều đồ vật, khách hàng tự do lựa chọn: sang hèn, quý tiện, xấu tốt, lành dữ... Về mặt luân lý thì lành dữ xen nhau. Tình trạng xen lẫn nhau vẫn còn mãi đến khi con người lìa trần mới chấm dứt.

Con người thường không nhớ mình tự do, kể đó như một thứ cảm xúc, đụng chuyện rồi mới hay. Không rèn luyện cho con người tự do thành một chiến sĩ chuyên nghiệp, biết lánh những nguy hiểm, không bao giờ ham muốn điều tội, tập cho ham muốn điều lành, nhiệt thành thể hiện.

Có thể nói: giữ đạo tốt là sống tự do tốt. Sống giống Chúa, giống Chúa !

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

CHA SỞ
(Giáo luật điều 519-544)

3. Việc Bổ Nhiệm Cha Sở (đ. 523-527)

Với ước muốn của Công đồng Vat. II (CD.31), bộ Giáo luật hiện hành đã đưa ra một nguyên tắc tổng quát: "việc bổ nhiệm vào những giáo vụ trong Giáo Hội địa phương là việc tự ý trao ban thuộc quyền của Giám mục Giáo phận" (đ.157). Từ nguyên tắc nầy, điều 523 phát biểu như sau:                                               

Miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 682§1, việc chỉ định giữ giáo vụ cha sở thuộc về Giám mục Giáo phận, qua việc tự ý trao ban; trừ khi có người nào được hưởng quyền đề cử hoặc bầu cử.

Quy định của điều 682§1, nếu họ đạo được trao cho một dòng tu phụ trách, thì Bề trên của Dòng có quyền đề cử một linh mục lên cho Giám mục bổ nhiệm; cũng tương tự vậy, Giám mục có quyền bổ nhiệm một linh mục tu sĩ làm cha sở của một họ đạo không thuộc về Dòng, miễn là được sự thoả thuận của Bề trên.

Trao ban giáo vụ cha sở là một việc làm quan trọng không những vì lợi ích của các linh hồn, mà còn là việc quản trị Giáo phận nữa. Cho nên cách thông thường, việc bổ nhiệm nầy thuộc thẩm quyền của Giám mục Giáo phận (x.đ.523, 157). Tuy nhiên, nếu có uỷ nhiệm đặc biệt thì vị Tổng Đại diện cũng có thể làm việc bổ nhiệm nầy (x.đ.134§3).

Trong trường hợp toà Giám mục trống toà hay cản toà, vị Giám Quản  Giáo phận được quyền thiết lập hay phê chuẩn người đã được đề cử hoặc bầu cử hợp lệ (trường hợp họ đạo được trao cho một dòng tu,   Bề trên Dòng đề cử người để được bổ nhiệm); hoặc trường hợp đã trống hay cản toà quá một năm, vị Giám Quản Giáo phận có quyền bổ nhiệm cha sở. Nếu vì nhu cầu cấp bách phải bổ nhiệm cha sở trước hạn kỳ đó, Ngài phải xin phép Toà thánh chuẩn (x.đ.525).

Một luật trừ (hiếm khi) là ở đâu còn được hưởng đặc ân đề cử hoặc bầu cử cha sở thì Giám mục Giáo phận phê nhận hoặc duyệt nhận (x.đ.163,179). Việc phê hay duyệt nhận đều có giá trị pháp lý như việc bổ nhiệm. Điều nầy phải được hiểu là một đặc ân vì tục lệ nầy đã được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngỏ ý bãi bỏ (x. Ecclesiae Santae I,18,1, ngày 06. 8.1966).

Sau cùng là một lời khuyên: "Giám mục Giáo phận phải uỷ thác một họ đạo khuyết vị cho một người mà ngài xét thấy có đủ khả năng xứng hợp để chu toàn trách nhiệm mục vụ ở đó" (đ.524), đừng để họ đạo khuyết vị lâu vì ảnh hưởng đến lợi ích các linh hồn (x.đ.151). Cũng vậy, trong những giải pháp tạm thời Đức Giám mục chỉ định một cha sở láng giềng kiêm cha sở họ đạo mà cha sở vừa mới mất hay bị ngăn trở; hoặc là chỉ định một vị giám quản họ đạo (x.đ.539), thì Đức Giám mục Giáo phận nên bổ nhiệm cha sở thực thụ cho họ đạo sớm, đừng để tình trạng nầy kéo dài quá lâu, vì tâm lý bình thường chỉ có cha sở thực thụ mới có thể toàn tâm toàn trí cho họ đạo và đoàn chiên của mình. 

4. Thời Hạn

Giáo vụ cha sở được luật ưu đãi, vì thế giáo vụ nầy được trao ban không thời hạn. Tuy nhiên, Giám mục Giáo phận có thể trao ban có thời hạn khi sắc lệnh của Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) quy định như vậy, điều 522 nói:

Cha sở phải được hưởng sự ổn định, vì thế ngài phải được bổ nhiệm cho một thời gian vô hạn; Giám mục Giáo phận có thể bổ nhiệm cha sở cho một thời gian hữu hạn, nếu Hội Đồng Giám mục đã chấp nhận điều đó qua một sắc lệnh.

Cụm từ "một thời gian vô hạn" cho giáo vụ cha sở không có nghĩa là làm cha sở ở một họ đạo nào đó bất di bất dịch, nhưng là "cha sở được tại chức lâu bền như ích lợi của các linh hồn đòi hỏi" (CĐ/Vat. II. CD.31,c), cho tới khi nào Giám mục Giáo phận muốn thay đổi cách khác vì những lý do lợi ích chung. Điều 1740 cũng lưu ý rằng: 

Khi thừa tác vụ của một cha sở trở nên nguy hại hay ít là không có hiệu quả vì một lý do nào đó, dù không phải là lỗi nặng của ngài, thì ngài có thể bị Giám mục Giáo phận giải nhiệm khỏi họ đạo.

(Chúng ta sẽ trở lại việc giải nhiệm khi đến mục bãi chức hay thuyên chuyển các cha sở).

Ý muốn của Công Đồng và Giáo luật muốn cha sở được "hưởng sự ổn định" là vì để cho cha sở có thời gian quen việc và quen người. Công việc của cha sở không chỉ lo việc hành chánh của họ đạo, nhưng trên hết ngài là một mục tử: lý tưởng của người mục tử là biết đích danh từng phần tử của đoàn chiên được trao phó cho mình (x. Ga.10,14). Mặc khác, cha sở sẽ gắn bó hơn, cũng như có những chương trình mục vụ dài hạn cho họ đạo nếu biết rằng mình sẽ ở lại đây lâu dài, chứ không phải là người ở tạm hay kẻ qua đường. 

Tuy nhiên, nếu lợi ích của "sự ổn định" cho chức vụ cha sở như trên, thì sự bất lợi của "sự ổn định" nầy cũng không kém. Một cha sở ở quá lâu tại một họ đạo nào thì càng thấy khó khăn để thuyên chuyển đi nơi khác; dễ sinh ra tâm trạng xem họ đạo như được trao ban cho riêng mình; không còn nhậy cảm với những đổi mới cần thiết của đời sống với thời gian; những sáng kiến tổ chức cho họ đạo ngày càng giảm đi. Thêm nữa, giáo dân thường "được" nghe những bài giảng không thay đổi từ năm nầy sang năm khác; cũng như những người thiếu thiện cảm với cha sở đã bỏ nhà thờ cũng không có cơ hội trở lại...

Với sự khôn ngoan ngàn đời của Giáo hội, để dung hoà cho những điều lợi hại nêu trên, các nhà lập pháp đã dự liệu rằng: "Giám mục Giáo phận có thể bổ nhiệm cha sở cho một thời gian hữu hạn, nếu Hội Đồng Giám mục đã chấp nhận điều đó qua một sắc lệnh" (đ.522). Luật phổ quát quy định như thế nên một số HĐGM đã ra sắc lệnh chung: HĐGM Pháp thời hạn Sáu Năm, sắc lệnh chung 13/6/1984; HĐGM Tây Ban Nha Sáu Năm, SL chung 26/11/1983; HĐGM Ý thì Chín Năm, SL chung 06/10/1984. HĐGM Việt Nam thì sao? Không thấy nói gi! Tuy nhiên, dù Hội Đồng Giám Mục có ra sắc lệnh chung để các Giám mục Giáo phận có thể bổ nhiệm cha sở có thời hạn, nhưng HĐGM không có thẩm quyền buộc các Giám mục phải bổ nhiệm cha sở có thời hạn cho hết mọi cha sở. Điều nầy giúp cho Giám mục quản trị Giáo phận được dễ dàng hơn, tuỳ vào hoàn cảnh mà ngài chọn giải pháp có thời hạn hay không có thời hạn khi bổ nhiệm cha sở. Nơi nào và đối với linh mục nào không sợ gây rắc rối, thì Giám mục cứ bổ nhiệm cha sở cách ổn định; nơi nào và đối với linh mục nào sợ gây rắc rối, thì ngài sẽ áp dụng sắc lệnh chung của HĐGM, để nếu gặp rắc rối thì bãi nhiệm luôn khi mãn nhiệm kỳ. Tuy nhiên, khi mãn nhiệm kỳ Giám mục Giáo phận có thể tái bổ nhiệm một hay nhiều nhiệm kỳ nữa, nếu vì lợi ích chung của Giáo phận và lợi ích cho các linh hôn (bomun animarum) đòi hỏi, là luật tối thượng phải được tuân thủ (x.đ.1752).

(Nguồn: Cha Nguyễn Ngọc Thử, Chú giải mục vụ và pháp lý; Phan T. Thành, Giải thích Giáo luật; John P. Beal et al., New Commentary on the Code of Canon Law).

TRANG LINH MỤC


NHU CẦU TÌNH YÊU

Trong cuốn phim Bóng chim diều hâu (Shadow of the Hawk), một cặp vợ chồng trẻ và một hướng dẫn viên người Da đỏ đang trèo lên một sườn núi.  Có một lúc người đàn bà trẻ quỵ xuống đất và nói:  "Tôi  đi hết nổi rồi."  Chàng thanh niên đỡ cô đứng dậy và nói:  "Nhưng em à, mình phải tiếp tục đi.  Mình không có lựa chọn nào khác nữa."  Nàng lắc đầu:  "Không, em không đi được nữa."  Lúc ấy người Da đỏ hướng dẫn bảo anh:  "Cậu hãy ôm sát cô ấy.  Hãy để cho sức mạnh và tình yêu từ người của cậu tỏa sang người của cô ấy."  Chàng làm theo như vậy và chỉ trong ít phút cô mỉm cười và nói:  "Bây giờ thì được rồi.  Em có thể đi tiếp."

Chúng ta tất cả đều thấy câu truyện đó có thể áp dụng cho mình.  Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng nghĩ rằng mình không thể tiếp tục tiến tới được nữa.  Rồi một người nào đó đã ôm chúng ta sát lòng họ và để cho tình yêu cùng sức mạnh của họ thấm sang thân thể chúng ta.

Tình yêu là sức mạnh lớn lao nhất trên đời

Quyền lực mạnh mẽ nhất trên đời này là tình yêu.  Thần học gia Teilhard de Chardin đã nghĩ như vậy khi cha viết:  "Một ngày nào đó, sau khi làm chủ được gió, sóng biển, thủy triều và trọng lực, thì chúng ta sẽ khai thác cho Thiên Chúa những năng lực của tình yêu, và lúc ấy cũng là lần thứ hai trong lịch sử nhân loại chúng ta khám phá ra lửa."

Việc khám phá ra lửa 80.000 năm trước đây đã cứu nhân loại khỏi nạn tuyệt chủng.  Khám phá này đã gợi ý cho Jean-Jacques Arnaud thực hiện cuốn phim Tìm lửa (Quest for Fire).  Cuốn phim này diễn lại việc tìm ra lửa và nuôi ngọn lửa đã cứu nhân loại khỏi bị hủy diệt như thế nào.

Cũng như nhiều người hôm nay, cha Teilhard de Chardin đã lo lắng nhân loại có thể lại rơi vào nguy cơ diệt vong.  Lần này thì không phải vì không có lửa, mà là thiếu vắng một điều cơ bản hơn cả lửa, đó là tình yêu.  Sức mạnh của hạch nhân và việc con người mất khả năng yêu thương nhau chính là nguyên nhân đe dọa sự sinh tồn trên mặt đất này.

Nếu chúng ta không tái khám phá tình yêu và nuôi dưỡng năng lực của nó, thì chúng ta khó mà qua khỏi một thế kỷ nữa.  Nhiều người băn khoăn tự hỏi:  Liệu có ai trong tương lai sẽ làm một cuốn phim gọi là Tìm tình yêu (Quest for Love) để mừng việc khám phá ra tình yêu mà cứu vớt nhân loại không?

Đức Giê-su đã lấy tình yêu làm tâm điểm của giáo huấn

Nếu chúng ta phải chọn một lời để tóm tắt tất cả giáo huâán của Đức Giê-su, thì đó phải là tình yêu.  Đức Giê-su nói:  "Đây là điều răn của Thầy:  Anh  em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15:12).

Tình yêu là sức mạnh duy nhất có thể cứu rỗi nhân loại và biến đổi thế giới.  Đó là sức mạnh duy nhất có thể đổi ngược "sóng triều của sự dữ" mà tội của A-đam đã làm dâng lên.  Chúng ta thử lấy một thí dụ đơn sơ để giải thích sức mạnh của tình yêu thắng điều dữ.  Một phụ nữ sắp sửa bước lên một xe buýt đông người.  Bất chợt một người đàn ông chen lên xe trước bà và suýt làm cho bà té xuống vỉa hè.  Người đàn bà nói với giọng thực mỉa mai:  "Xin ông thứ lỗi vì tôi đã chắn lối ông!"  Người đàn ông khựng lại sau câu nói của bà ta và ông nói với giọng thành thực thực sự:  "Tôi xin lỗi bà!  Tôi thật hết sức vô ý tứ!  Không hiểu đầu óc tôi đang nghĩ gì đâu đâu. Tôi thật đáng trách."

Bây giờ đến lượt người đàn bà khựng lại.  Ông ta đã đáp lại, không nghĩ câu nói của bà là mỉa mai nhưng là thật lòng.  Trong khoảnh khắc ông ta đã thay đổi hẳn.  Thế rồi những gì đã xảy ra khiến cho bà cũng thay đổi.  Tình yêu có sức mạnh khủng khiếp.  Nó có thể thắng vượt sự dữ.  Nó có thể chặn đứng ngọn sóng sự dữ trong thế giới này và biến đổi thành ngọn triều sự thiện (Rm 12:21).

Mọi người đều được mời gọi sống tình yêu.  Cuộc sống chúng ta trên trần gian này sẽ không bị xét xử theo danh vọng hoặc tiền tài chúng ta đạt được, nhưng được đánh giá trị theo tình yêu chúng ta đã sống.  Mẹ Tê-rê-xa Calcuta đã nói:  "Vào giờ chết khi đến trước mặt Chúa, chúng ta sẽ chịu xét xử về tình yêu;  không phải chúng ta đã làm được bao nhiêu, nhưng là chúng ta đã làm với bao nhiêu tình yêu."

TRANG TU SĨ

MÁI ẤM

Về phương diện xã hội: Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có  lành mạnh thì xã hội mới vững chắc. Đối với Giáo Hội thì gia đình là một Hội Thánh thu nhỏ một Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện.

Trong Hội Thánh Công Giáo ơn gọi Hôn Nhân được nâng lên hàng Bí Tích: "điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly." Tình yêu phải là động lực chính trong gia đình. Tình yêu trong hôn nhân mang màu sắc cảm xúc rất nhiều nhưng để tiến  đến cuộc sống hôn nhân bền vững và dài lâu tình yêu đó phải đạt đến mức độ hoàn hảo hơn đó là tình yêu bác ái. Khi chứng kiến một câu chuyện cảm động của một gia đình nghèo trong họ đạo con hiểu thêm về ý nghĩa gia đình và ơn gọi hôn nhân:

Anh Chị Năm có 3 đứa con nhỏ: Bé Mai tám tuổi học trường cấp I ở xã, Bé Tuyền bốn tuổi - được Quý Dì nhận nuôi dùm như trẻ nghèo mồ côi vì thấy gia đình em quá thiếu thốn - và Bé Thịnh chỉ hơn một tuổi.  Nhà nghèo không có đất cất nhà phải cất một cái chòi nhờ đất của người anh.  Thấy hoàn cảnh quá khó khăn nên một người bà con bán chịu cho anh một chiếc ghe nhỏ để đi đăng cá. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chị Năm chạy đến với các Dì ở nhà trẻ mồ côi:

- Dì Hai ơi làm ơn cho con gởi bé Mai ở đây với Bé Tuyền để nó đi học, được không Dì? Vì vợ chồng con phải đi làm cá ở xa, con không thể đem theo Bé Mai vì Bé phải đi học, con đem theo Bé Thịnh thôi, với lại sống trên ghe sông nước mênh mong con sợ rũi có chuyện gì chắc con không sống nổi.

- Bé Thịnh còn nhỏ quá đi ghe vậy có được không? Dì Hai thấy chiếc ghe nhỏ xíu, hai vợ chồng với đứa con nhỏ, rồi còn chài, lưới nữa ...

- Dạ, không sao Dì ơi, mặc dầu ghe nhỏ chật hẹp chút đỉnh nhưng cũng ở được, vả lại con đi theo cũng đỡ đần cho ảnh để ảnh đi ghe có một mình thấy tội nghiệp quá, không có ai nấu nướng tự ảnh nấu nên ăn uống thất thường lắm. Đem Bé Thịnh theo ảnh cũng vui nữa, bởi vì ảnh nói có nó ảnh làm không biết mệt.

- Rồi bây giờ bỏ hai đứa nhỏ ở đây rồi nhớ nó thì làm sao?

- Dạ, tụi con sẽ cố gắng để hai tuần về một lần thăm chúng nó. Tụi con đi ghe cực khổ nhưng biết nó ở đây với quý Dì có chỗ ăn chỗ ngủ đầy đủ là tụi con mừng lắm, cực khổ bao nhiêu cũng chẳng sao! Vợ chồng con ráng làm kiếm tiền để cho các con ăn học với người ta.

- Vậy cũng được, để nó ở đây chung với Bé Tuyền cho có chị có em. Nhưng còn ở dưới ghe việc đi Lễ lạc ngày Chúa Nhật vợ chồng anh chị tính làm sao?

- Dạ, tới Chúa nhật thì chúng con tìm chỗ có nhà thờ gần bờ sông để đi lễ. Dì Hai an tâm, vợ chồng con tuy nghèo nhưng không bao giờ bỏ lễ Chúa nhật để đi làm thêm. Con cũng nhắc ảnh đi Lễ để Chúa ban ơn, gìn giữ gia đình bình an.

Chị năm ra về, nhìn theo chị tôi bâng khuâng tự hỏi, anh chị dốt nát, nghèo khổ cực nhọc quá mà thấy không có than vãn gì cả, cứ lo làm ăn để nuôi con ... trong khi có những gia đình khác có đầy đủ tiền của mà cứ than vãn bất hạnh và tìm kiếm người có thể mang hạnh phúc lại cho mình.  Qua gia đình anh chị Năm tôi có thể tìm thấy những lý do:

- Vợ chồng giữ đạo, sống tin tưởng vào Chúa, vâng giữ luật Chúa yêu thương nhau là điều kiện cốt yếu để có một cuộc sống bình an, hạnh phúc.

- Vì sống theo luật Chúa một vợ một chồng nên không nghĩ tới vấn đề ly thân hoặc ly dị, có những khó khăn đau khổ thì giải pháp của họ là cố gắng chấp nhận nhau, nhường nhịn nhau, rồi từ từ những bất hòa cũng được giải quyết.

- Họ có những đứa con, bây giờ tình yêu đôi lứa của họ thăng hoa tiến đến tình yêu cho những đứa con của họ, những đứa con đem lại cho họ niềm vui và hạnh phúc mà những người ích kỷ chỉ sống cho mình không tìm thấy được. Họ không sống cho mình mà cho những đứa con, nên họ cũng dễ dàng chấp nhận những đau khổ, buồn phiền của hai vợ chồng mà chung sức lo cho con mình. Những đứa con là những gạch nối hòa bình của hai vợ chồng.

Vì thế trước những vấn đề được đặt ra ở trên đôi vợ chồng nầy đã giải quyết ổn thỏa, vợ chồng không đòi quyền lợi cho mình mà nghĩ đến quyền lợi và hạnh phúc của người phối ngẫu và của những đứa con.  Họ không mơ ước cao sang chỉ chấp nhận những gì ban đến cho họ và cố gắng hết sức mình.  Nếu hai vợ chồng sống với nhau trong tình yêu thương vị tha, đơn sơ, chân thật thì có ai còn tìm gì khác ngoài tổ ấm gia đình mình nữa.  Hôn Nhân như thế sẽ là một ơn gọi cao đẹp xứng đáng để theo  đuổi và giữ gìn. 

NÊN THÁNH TRONG BẬC SỐNG GIA ĐÌNH

"Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48).

Ơn gọi nên thánh là lời mời gọi của Chúa dành chung cho hết mọi người. Thế nhưng, do định kiến từ thời xa xưa, nhiều người cho rằng việc nên thánh chỉ dành riêng cho những ai sống đời tận hiến như hàng Linh mục,Tu sĩ. Mỗi bậc sống đều là ơn gọi của Chúa ban, ơn gọi nào cũng cao đẹp và mang lại lợi ích riêng cho bậc sống của chính mình..

Những năm gần đây, chúng ta thấy nhiều họ đạo trong Giáo phận tổ chức Lễ tạ ơn, dịp mừng Ngân khánh, Kim khánh và Ngọc khánh của các đôi hôn nhân: mừng kỷ niệm 25 năm, 50 năm hay 60 năm hôn phối. Đây là dịp nhìn lại đoạn đường của đôi bạn đời đã đi qua, để tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao hồng ân Chúa đã ban xuống trên gia đình, để hâm nóng lại tình yêu lứa đôi mà bao nỗi thăng trầm, bao sóng gió của thời gian đã làm phai nhạt. Phải chăng đây còn là dịp để củng cố ơn gọi hôn nhân được bền vững hơn.

Cách đây 4 năm, tôi được tham dự Thánh lễ tạ ơn mừng Kim và Ngọc khánh của nhiều đôi Hôn phối tại họ đạo Cái Mơn. Tuy là Thánh lễ mừng kỷ niệm, nhưng được tổ chức long trọng không kém lễ Hôn phối của ngày cưới năm xưa. Đặc biệt, niềm vui trong Thánh lễ được nhân lên vì sự hiện diện của nhiều con cháu, đây là những hoa trái tình yêu Chúa ban cho gia đình. Mỗi đôi "Hấp hôn" đều có con cháu đại diện cầm đèn, cầm hoa đưa cha mẹ lên cung thánh giữa tiếng hoan ca tạ ơn Thiên Chúa của Ca đoàn. Bài chia sẻ trong Thánh lễ của Cha chủ tế, nói lên ý nghĩa của đời sống hôn nhân thật sâu sắc.Tư tưởng vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi qua bài giảng trong Thánh lễ nầy: "Ơn gọi hôn nhân là hồng ân Chúa ban cho Quí Ông Bà, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì tình yêu là quà tặng Chúa ban, Trải qua biết bao nỗi thăng trầm trong bậc sống, có những khi thuyền đời hòng như sắp chìm do " sóng đơ Chúa đã dẹp yên, để rồi hôm nay Quí Ông Bà được hiện diện trước Bàn thờ, thêm một lần nữa dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và công khai nói lên tình yêu của mình trước mặt Hội Thánh. Đây chính là dịp để củng cố ơn gọi đời sống hôn nhân..."

Hôn nhân đã hình thành ngay khi Thiên Chúa tạo dựng nên loài người trong Sáng thế ký (2,19). Thế nhưng, cho đến hôm nay, nhiều người vẫn chưa nhận ra giá trị và hiểu rõ "Hôn Nhân" là ơn gọi của Thiên Chúa, nên đã coi thường bậc sống gia đình. Thánh Giáo Hoàng Piô thứ X khi còn là Hồng Y, Ngài về quê thăm Mẹ và khoe với Mẹ chiếc nhẫn Hồng Y của mình. Bà cố cũng đưa chiếc nhẫn cưới mà đáp lại: "Nếu không có chiếc nhẫn hôn phối của Mẹ, làm sao hôm nay có nhẫn Hồng Y của con".

Đời sống gia đình có trách nhiệm chung. Vì thế, để có sự hiệp thông và tình yêu chân thành; mọi phần tử trong gia đình cần phải có sự quảng đại, khoan dung, cảm thông và tha thứ cho nhau, nhất àl người cha, người mẹ cần pảhi làm gương cho các con của mình.

Mỗi gia đình đều có thể nên thánh bằng đời sống đạo đức. Biết lắng nghe Lời Chúa qua những giờ kinh hôm, kinh mai; nhất là siêng năng tham dự Thánh lễ, Rước lễ và lãnh nhận Bí tích Hòa giải sẽ nuôi dưỡng đức tin, trợ lực những khi đối đầu với gian nan, thử thách. Khi biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau, ân sủng Chúa ban sẽ củng cố ơn gọi hôn nhân và hâm nóng tình yêu gia đình, gia đình sẽ trở thành mái ấm an vui, hạnh phúc.

Nếu mỗi gia đình Công giáo biết xây dựng hôn nhân bằng tình yêu kính trọng, tình yêu hy sinh; xây dựng gia đình như Hội Thánh tại gia, thì gia đình sẽ trở thành cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và sẽ là ngôi trường đào tạo con người toàn diện. Khi hôn nhân được xây dựng như thế, thì chắc chắn gia đình sẽ bền vững, sẽ trổ sinh hoa trái thánh thiện cho Giáo hội và những con người tốt cho xã hội tương lai.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TÌM HIỂU ƠN GỌI TU TRÌ

Thật khó khăn để biết chính xác rằng ta có ơn gọi tu trì hay không; bởi vì ơn gọi, trước hết, là một mầu nhiệm. Thiên Chúa không nắm lấy chúng ta và lôi chúng ta đi, nhưng Ngài dùng những phương tiện thông thường để cho chúng ta biết Ngài đang gọi chúng ta. Đây luôn là việc nhiệm mầu và có tính cách riêng tư đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn tôn trọng chúng ta và đối xử với chúng ta như những con người tự do. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người và Ngài muốn chúng ta sử dụng lý trí của mình để nhận thức về ơn gọi của chúng ta.

Trong lịch sử Giáo hội, nhiều nhà thần học cũng như nhiều tác giả viết về đời sống thiêng liêng, đã nhận định rằng Thiên Chúa sử dụng những dấu hiệu tự nhiên để hướng chúng ta hoặc để thu hút chúng ta đến một ơn gọi nào đó. Bạn sẽ không bao giờ biết một cách chắc chắn, nhưng bạn nên tự hỏi xem bạn có nhận được những dấu hiệu mà giúp bạn phán đoán bạn có ơn gọi tu trì hay không?

Ba dấu hiệu căn bản của một ơn gọi tu trì:

Có ba dấu hiệu căn bản, nhưng cũng rất là đơn giản, của một ơn gọi tu trì. Đó là: ao ước sống đời sống đó, động cơ đúng đắn cho đời sống đó và sự thích hợp cho đời sống đó.

a. Trước tiên, để tìm hiểu xem bạn có ao ước sống ơn gọi đó không, bạn cần tự hỏi xem bạn có ý thích, có hướng chiều vể ơn gọi đó không? Tôi có cảm thấy say mê, thỏa mãn, vui mừng hay có những tình cảm tích cực tương tự như thế khi nghĩ về ơn gọi đó không? Bạn cần nghiêm túc xét mình như thế, bởi vì Chúa không muốn thu hút bạn về một ơn gọi mà nó lại đi ngược với ý muốn của bạn. Nhiều người nghĩ rằng họ muốn đi tu, bởi vì Thiên Chúa muốn như vậy. Nếu họ không làm theo ý Chúa, họ sẽ bị phạt hoặc sẽ gặp bất hạnh. Thiên Chúa không hành động theo cách đó. Ngài lôi kéo chúng ta theo chiều hướng tự nhiên của chúng ta. Nếu chúng ta có chiều hướng về một ơn gọi nào đó, đó là một dấu hiệu tốt. Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta và Ngài muốn lôi cuốn chúng ta.

b. Ao ước không thôi chưa đủ, bạn cần có thêm những dấu hiệu khác nữa. Dấu hiệu thứ hai là muốn sống đời sống đó vì những lý do chính đáng. Đây là vấn đề "động cơ thúc đẩy." Động cơ nào nằm sau sự thích thú và quan tâm của tôi? Có những lý do tinh thần tích cực như: muốn phục vụ Chúa cách trực tiếp, muốn biết và yêu Chúa nhiều hơn, muốn mở rộng nước Chúa, muốn hoàn toàn sống cho Chúa và tha nhân,... Đây thực sự là những động cơ tốt đẹp. Chúng dựa trên đức tin, động lực tinh thần, chứ không phải là những ao ước tự nhiên. Có những lý do vụ lợi hoặc ích kỷ như: được người ta kính trọng, có nhiều cơ hội để thăng tiến, cuộc sống được bảo đảm,... Không ai có thể nói là mình có động cơ trong sáng trong tất cả những công việc mình làm. Thường có sự pha trộn giữa những động cơ tốt và những động cơ không tốt trong cuộc sống chúng ta. Cũng có những động cơ pha trộn như thế trong việc ao ước sống đời tu trì, nhưng động lực hướng dẫn ban đầu phải thật sự trong sáng và vô vị lợi. Thật không luôn luôn dễ dàng để nhận thức về những động cơ của chúng ta. Bởi đó, chúng ta cần cầu nguyện để biết được thánh ý Chúa và cần có những vị linh hướng để giúp chúng ta nhận định rõ hơn.

c. Dấu hiệu thứ ba là sự thích hợp. Đó là khả năng để sống đời tu, sống một cách thoải mái, vui vẻ, rộng lượng. Bạn phải thích hợp với đời sống đó và đời sống đó phải thích hợp với bạn. Đây là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên giúp bạn tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong đời dâng hiến. Đi tu là tu cả con người. Ơn thánh không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên của ta, nhưng chỉ thăng hoa và thánh hóa nó. Bản chất tự nhiên của ta không chết đi và với thời gian có thể bùng lên. Bởi đó, việc nhận định ơn gọi cần căn cứ vào những khả năng đạo đức, tâm lý và thể lý. Giáo luật điều 642 nhấn mạnh đến yếu tố sức khoẻ, tính tình thích đáng và có đủ các đức tính của sự trưởng thành. Nhiều người thích đời tu nhưng lại không thể sống thích hợp với nó được. Cũng vậy có nhiều người thích hợp với đời sống tu trì, nhưng họ lại không muốn bước vào con đường đó. Họ không bị nó thu hút. Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người và tôn trọng cái cách mà họ là.

Tóm lại, để xác định ơn gọi tu trì, bạn phải có cùng lúc ba dấu hiệu căn bản trên. Tuy nhiên, bạn vẫn phải tìm hiểu và suy xét kỹ, vì nhiều khi "thấy vậy mà không phải vậy." Chẳng hạn, việc thích sống đời sống độc thân có thể là dấu hiệu của ơn gọi tu trì, nhưng chúng ta phải tìm hiểu xem động lực của việc thích sống độc thân là gì? Đó có phải là vì thích sống khép kín và lập dị? Hay là không thích những người chung quanh? Tu là dâng hiến, là cho đi, là phục vụ nên không thể chấp nhận lối sống đó được. Thích cầu nguyện cũng có thể là dấu hiệu của ơn gọi, nhưng phải tìm hiểu xem nguyên nhân nào thúc đẩy ta đến việc cầu nguyện. Có phải vì ta sống cô đơn, không bạn bè, không có người tâm sự, không biết chia sẻ cùng ai nên ta cầu nguyện để tìm nguồn an ủi? Đời tu là tận hiến cho Thiên Chúa, sống thân tình với Ngài, chứ không phải là nơi tìm an ủi cho bản thân. Có những người nhút nhát, sợ trách nhiệm, sống dựa vào người khác, nên muốn tìm đến đời sống tu như một nơi nương tựa, bảo đảm cho cuộc sống. Đó không phải là dấu hiệu của một ơn gọi.

Ơn gọi là một ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho một số người nào đó. Chúa có nhiều cách để gọi chúng ta mà chúng ta không thể ngờ tới được. Điều quan trọng là chúng ta cần phải ý thức và sống theo ý Chúa. Ơn gọi tu trì là một ân huệ, nên chúng ta cần tìm hiểu, khám phá ra và nuôi dưỡng ơn gọi đó.

Ngoài ra, chúng ta còn cần dựa trên nhưng yếu tố chính của một ơn gọi tu trì:

- Một niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Giáo hội và giáo huấn của Giáo hội.

- Yêu thích đời sống cầu nguyện.

- Sẵn sàng từ bỏ và hy sinh theo bước Chúa Kitô.

- Sống vị tha và có khả năng hiến thân phục vụ tha nhân, nhạy cảm trước những nhu cầu của thời đại.

- Có ý chí vươn lên, khắc phục mọi khó khăn hiện tại trước những đòi hỏi của Tin mừng.

- Có tinh thần đối thoại, cởi mở và biết lắng nghe tha nhân.

SỰ ĐÁP TRẢ CỦA CON NGƯỜI

Tất cả chúng ta đều phải nghiêm chỉnh tìm ra ơn gọi cho cuộc đời của mình, như phần quan trọng nhất của thánh ý.

Ơn gọi chính là một mầu nhiệm, vì đó là sự gặp gỡ giữa tự do của ơn Chúa và sự tự do đáp trả của con người. Con người có toàn quyền tự do để đáp lại lời mời gọi của Chúa. Khi dựng nên ta, Chúa không hỏi ý kiến ta. Ngài dựng nên ta vì Ngài yêu ta, Ngài muốn điều tốt đẹp cho ta. Ngài ban cho ta điều qúi giá nhất, đó là sự tự do. Nhưng khi muốn cứu chuộc ta, Ngài cần sự cộng tác của ta, Ngài tôn trọng sự tự do của ta. Vì tự do, chúng ta có thể phản bội Ngài, chống lại Ngài. Sự tự do lựa chọn này luôn tạo ra những giằng co, những thử thách, những hy sinh, đắng cay và đôi khi cả  tủi nhục nữa.

Ơn gọi là một mầu nhiệm. Nếu Chúa mời gọi mà ta không đáp trả, Chúa cũng phải chịu, vì Ngài tôn trọng tự do của ta. Nhưng, nếu ta muốn mà Ngài lại không gọi, ta cũng phải hiểu rằng, Ngài có lý do của Ngài. Bởi đó, ta luôn phải tìm hiểu thánh ý Ngài: "Anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa." (Eph 5, 17) Để biết được thánh ý Chúa, ta luôn phải tỉnh thức và sẵn sàng, cầu nguyện và lắng nghe.

TRANG GIỚI TRẺ

Giới trẻ cộng tác vào việc củng cố ơn gọi hôn nhân

Là con người thì ai ai cũng đều được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Do vậy, đời sống hôn nhân gia đình là nền tảng căn bản cho xã hội loài người. Vì định chế hôn nhân là do chính Thiên Chúa thiết lập nên những ai đã, đang và sẽ sống bậc sống hôn nhân gia đình được mời gọi sống tốt ơn gọi của mình.

Từ xưa, đời sống hôn nhân gia đình trên đất nước Việt Nam được bảo kỹ lưỡng: Đối với người đàn ông thì phải tuân giữ tốt Tam cương - Ngũ thường; Còn đối với người phụ nữ thì Tam tòng - Tứ đức cũng không được xem nhẹ; Nhiều gia đình sống theo hình thức tam hay tứ đại đồng đường nên dễ dàng nhắc nhở và học hỏi những điều tốt lẫn nhau để gìn giữ hạnh phúc gia đình của mình; Gia đình có nhiều con nên sự hy sinh cho nhau đã được rèn luyện thuần thục từ nhỏ... Nhờ vậy, đời sống hôn nhân gia đình ít có nguy cơ tan vỡ.

Tiếc thay, những điều trên đây theo thời gian lẽ ra phải được duy trì và phát huy nhưng lại ngày càng tuột dốc. Thấy được điều này nên những người có trách nhiệm trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội đã và đang rất lo ngại.

Do ảnh hưởng bởi lối sống hưởng thụ cá nhân nên nhiều gia đình trẻ ngày nay có khuynh hướng tan vỡ. Lối sống hưởng thụ cá nhân này làm cho con người ta thiếu sự hy sinh cho người khác. Cách sống thiếu hy sinh này cũng phát xuất từ những gia đình có số con ít quá. Mô hình gia đình hạt nhân đã thay thế hình thức gia đình theo kiểu tam hay tứ đại đồng đường.

Vì thế, hơn bao giờ hết ngày nay mọi thành phần đều được kêu mời ra sức củng cố ơn gọi đời sống hôn nhân gia đình. Cách riêng với người trẻ, chúng ta được mời gọi tập sống hy sinh và quan tâm đến người khác. Đây là hai đức tính cần thiết cho đời sống hôn nhân gia đình của các bạn sau này. Hạnh phúc đời sống hôn nhân gia đình được bảo vệ và gìn giữ bởi những vợ chồng biết hy sinh và quan tâm cho nhau cũng như cha mẹ biết hy sinh và quan tâm lo cho con cái.

Đồng thời, các bạn trẻ cũng hãy biết học hỏi nơi những người đi trước những điều căn bản trong luân lý tự nhiên về bổn phận của người đàn ông hay người nữ trong đời sống hôn nhân gia đình.

 TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

TẠI SAO CHÚA CHO PHÉP ĐAU KHỔ XẢY RA?

1. Vấn đề sự dữ

Một chiếc phà chở xe của Anh bị lật tại một hải cảng ở Bỉ: có chừng 10 người bị nạn. Một chiếc xe bị gài thuốc nổ ở Beyrouth: những hành khách vô tội bị chết. Đối với ai biết mở mắt quan sát, thì sự dữ thể lý lẫn luân lý có mặt khắp nơi trên thế giới: các bệnh ung thư hay sida; các trẻ mồ côi bị bỏ rơi, các nạn nhân chiến tranh hay đói kém trên thế giới, nỗi cô đơn của những người lớn tuổi, các đau khổ thể xác và tâm hồn.

Vấn đề sự dữ là một trong số các vấn đề làm con người sợ hãi nhất, đồng thời thật hữu lý khi nó làm cho giới trẻ vấp phạm nhiều nhất.

Vì không biết giải quyết vấn đề này như thế nào, người ta thường có khuynh hướng đi tìm cho ra một thủ phạm. Thế là Thiên Chúa là người đầu tiên bị đưa lên ghế bị cáo. Phải chăng sự dữ mạnh hơn Thiên Chúa, và nếu vậy thì Thiên Chúa có còn là Đấng Toàn năng không? Cớ sao Người để cho đau khổ và sự dữ xảy ra, và nếu thế thì Người có còn đáng gọi là Đấng Nhân lành chăng?

Chúng ta hãy bình tĩnh, cùng nhau xem xét vấn đề một cách kỹ lưỡng hơn. Trước hết là hãy tìm cho ra nguồn gốc của đau khổ.

2. Các định luật trong vũ trụ

Thế nhưng trước khi bắt đầu tra cứu, chúng ta đừng quên rằng vũ trụ cũng mang lại cho ta rất nhiều niềm vui. Chẳng hạn như thân xác ta có thể rút ra từ vũ trụ không biết bao nhiêu cái để nuôi sống và phát triển. Chúng ta đang ăn uống các hoa quả của mặt đất. Chúng ta đang an tâm bước đi trên vỏ trái đất. Để đáp ứng các nhu cầu của mình, chúng ta sử dụng nhiều đồ vật cứng hoặc mềm, bằng sắt, len, gỗ hay thuỷ tinh. Nếu vũ trụ không tặng cho ta những món quà này thì ta sẽ phải chịu thiếu thốn thôi.

Biết nói gì về những niềm vui mà giác quan, con tim và tâm trí của ta tìm được trong thế giới! Các tia sáng phản chiếu trên mặt nước, cảnh hoàng hôn đỏ ửng, khúc hát của chim muông, hương thơm của bông hoa, tiếng trẻ bi bô, một gương mặt tươi cười, hết thảy đều là nguồn đem lại niềm vui. Được vậy là do có vũ trụ vật chất. Ngay cả đến các hình thức cụ thể biểu lộ tình yêu cũng sẽ không có được nếu không có những thân xác vật chất.

Tuy nhiên, cái vũ trụ này cũng đồng thời là nguồn sinh ra đau khổ. Chính vì thế cần phải nhớ rằng các định luật vật lý nhất thiết phải luôn luôn như vậy, dù đem lại điều tốt hay điều xấu. Cho nên thật là may mắn khi đá phải nặng, và không thể thay đổi bản chất tuỳ tiện được. Vì nếu các nguyên vật liệu có thể thay đổi theo những luật lệ thất thường thì nhà cửa và cầu cống sẽ sụp đổ tan tành.

Thế nhưng khi một viên đá, tuân theo luật trọng lượng, rơi ra khỏi mỏm đá, đập vào một khách qua đường thì lúc ấy người này trở thành một nạn nhân của các định luật trong vũ trụ. Cũng thế, nước sôi giúp ta nấu nướng nhưng một khi đổ xuống trên cơ thể của đứa trẻ, có thể làm cho nó chết vì bỏng.

Cái mà người ta gọi là các thiên tai - như động đất, núi lửa phun, sóng thần - chỉ là hậu quả của các định luật vật lý chi phối vũ trụ. Thí dụ như chuyển động của thuỷ triều là do lực hấp dẫn nhau của các tinh tú. Các cuộc động đất là do vỏ quả đất trượt mà ra, vì vũ trụ vẫn tiến hoá mà! Nhờ trí khôn, con người càng lúc càng có khả năng hiểu biết các sức mạnh mù quáng của thiên nhiên, chế ngự và sử dụng chúng. Thác nước từ trên núi đổ xuống tàn phá tất cả mọi thứ. Nhưng khi được kỹ thuật thu lấy, nó sẽ cung cấp điện và các lợi ích khác nữa.

Ta đã thấy rõ rằng có nhiều đau khổ xảy ra là do ta tham gia vào trong vũ trụ vật chất, một vũ trụ mà nếu không tuân theo những luật lệ bất biến thì sẽ chẳng ích lợi gì cho ta.

Các bạn muốn có một vị chúa cứ luôn can thiệp để làm xáo trộn sự vận động bình thường của các định luật vật lý hay không?  Làm như thế là đòi có phép lạ xảy ra liên tục. Ta sẽ tha hồ bất cẩn vì đã có một đấng quan phòng luôn canh chừng để loại trừ mọi hậu quả đáng tiếc. Người lái xe chở khách hành hương đi Lộ đức có thể sẽ vi phạm mọi dấu hiệu đi đường một cách vô tội vạ, người thợ mộc sẽ chẳng cần đội nón bảo hộ, vì Chúa sẽ bắt chiếc xà đang rơi xuống đầu anh ta phải dừng lại ngay. Người ta sẽ chẳng cần đến bác sĩ giải phẫu nữa, bởi Chúa sẽ cho ống chân bị gãy được lập tức liền lại.

Nếu có một Đấng Tạo hoá can thiệp bất cứ lúc nào, một cách không hợp thời vào đời sốg con người, thì thử hỏi còn đâu là tinh thần lo xa, là ý thức trách nhiệm và, đơn giản hơn, đâu là phẩm giá con người?

(còn tiếp)

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt

Imprimatur: Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

CỦNG CỐ ƠN GỌI HÔN NHÂN

Tháng ba kính Thánh Cả Giuse, Người gia trưởng của gia đình đạo đức

Có một bà thuộc hạt Sađéc phát biểu tại nhà thờ Cái Lóc: "Con vẫn đọc kinh tối hằng ngày, không đọc liên gia, mà chỉ đọc một mình, vì không ai đồng tâm nhất trí cùng đọc với con. "Có lẽ những người nghe thắc mắc: chồng vợ ở đâu mà không cùng đọc với chị. Thuận vợ thuận chồng tát Biển Đông mới cạn! Chị biết có người thắc mắc nên tâm sự thêm (tôi thấy ông chồng của chị ngồi bên chị): "Thưa Cha và anh chị em, chồng con ngoại mới trở lại, anh ấy nguội lạnh khô khan lắm. Hôm nay anh đi với con đến đây con mừng lắm, (Chị rưng rưng nước mắt cảm động muốn khóc). Con muốn chồng con sốt sắng cùng con nhiệt thành thờ phượng Chúa, củng cố gia đình tốt đẹp mọi mặt !". Nghe vậy, tôi thầm thĩ với Chúa Giêsu Thánh Thể, đang ngự trong hào quang trên bàn thờ: "Trong sứ điệp Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010 ở số 5 có ghi "Các gia đình công giáo được mời gọi giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Kitô giáo, xây dựng gia đình như:

- Hội Thánh tại gia

- Cái nôi của sự sống

- Mái ấm của tình thương

- Và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện.

Giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Kitô Giáo là một tích cực đóng góp của các gia đình vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Lạy Chúa, chính Chúa đã cùng với Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria xây dựng gia đình Nazareth tuyệt vời: hôn nhân một vợ một chồng bền vững, yêu thương, bổ túc, an ủi, nâng đỡ, chỉ lo mang lại hạnh phúc cho nhau, quên bản thân mình trong mọi hoàn cảnh. Ước gì các gia đình Công Giáo Vĩnh Long theo gương gia đình Nazareth."

Sau giờ chầu, một gia đình trẻ đến hỏi tôi: "Thưa Cha, xin cha chỉ cho chúng con xây dựng gia đình như một Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương, ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện."

Tôi nhìn đôi bạn với lòng trìu mến và nói; "Chúng con thân yêu, ngày chúng con cử hành Bí Tích Hôn Phối trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, chúng con bắt đầu trở thành Hội Thánh tại gia vì:

* Chúng con hiệp thông với Chúa Ba Ngôi trong lòng tin, cậy ,mến, Chúa ở với chúng con, chúng con ở với Chúa, Chúa đã liên kết chúng con với Chúa và với nhau trong Chúa. Gia đình chúng con là cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến.

* Ơn Chúa tràn đầy gia đình chúng con nhờ việc cầu nguyện sốt sắng hằng ngày nhiều lần chung với nhau và cầu ơn Chúa cho nhau, cùng nhau tham dự Thánh Lễ sống động và hiệu quả, lãnh nhận các bí tích sốt sắng.

* Gia đình chúng con đón nhận, tìm hiểu Lời Chúa, cụ thể, chúng con dẫn đưa anh em nguội lạnh về với Chúa, anh em lương dân sống với Chúa đúng tình nghĩa cha con. Làm như vậy, chúng con sẽ thấy Hội Thánh tại gia ở ngay trong nhà chúng con."

Anh chồng thắc mắc: "Làm thế nào gia đình chúng con là cái nôi của sự sống?" Tôi ân cần hướng về người chồng và nói: "Ngày Hôn Phối là ngày chúng con độc chiếm lẫn nhau, vợ cho chồng và chồng cho vợ hoàn toàn cả thể xác  lẫn tâm hồn. Chúng con sống vì nhau, cho nhau và đem lại niền vui và hạnh phúc cho nhau. Lạc thú hôn nhân làm chúng con yêu nhau và gắn bó với nhau nên một trong lý trí, ý chí, tình cảm, con tim và thân xác. Chính lạc thú thể xác ấy làm cho mầm sinh nẩy nở, gia đình chúng con sẽ đón nhận những đứa con nhờ ơn Chúa ban. Tặng vật yêu thương này được chúng con yêu thương, bảo vệ, chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục. Sự sống tự nhiên và siêu nhiên của mỗi thành viên trong gia đình được chăm lo, bảo vệ, tăng trưởng bởi mọi người cùng sống chung trong mái ấm yêu thương. Như vậy, gia đình chúng con là cái nôi đón nhận, bảo vệ nuôi dưỡng, làm cho sự sống luôn luôn tăng trưởng như ý Chúa."

Chị vợ tươi cười nói: "Thưa Cha! Gia đình của chúng con là mái ấm tình thương, khi vợ chồng và con cái chúng con tìm thấy tình thương thể hiện tình thương cho nhau ngay trong bầu khí ấm áp, tươi mát của gia đình. Chúng con ai cũng muốn yêu và được yêu qua ánh mắt, cử chỉ tôn trọng, chăm sóc cho nhau theo khả năng, chỉ muốn điều tốt cho nhau, nói năng lễ độ, trọng kính, êm ái, ngọt ngào, chỉ nhằm cầu phúc và xây dựng cho nhau. Con nhớ câu nói: "Anh em xum họp một nhà - Bao là tốt đẹp bao là sướng vui". Có tình yêu là có tất cả, không có yêu thương thì chẳng có gì."

Tôi cám ơn chị vì phát biểu chính xác đơn sơ, mộc mạc và dễ thương ấy, như vậy anh chị đã thoả mãn chưa ? Cả hai mau miệng: "Chưa, còn ngôi trường nữa cha".

"Chúng con thân yêu, tình yêu vợ chồng mặn nồng thắm thiết không chỉ sinh con mà còn phong phú hơn nhiều khi cùng nhau cộng tác đào tạo con cái nên người lịch sự, khôn khéo, đạo đức, biết sống đẹp lòng người và sống vui lòng Chúa. Chúng con là những nhà giáo dục đầu tiên căn bản về nhân bản, về luân lý, về đạo đức thiêng liêng. Nơi ngôi trường gia đình nầy, cha mẹ là thầy cô không thể thay thế, giáo dục con bằng lời lẽ dịu dàng, rõ ràng dễ hiểu, dễ thực hành và bằng gương sáng đời sống vì lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Chúng con nên nhớ, ngày nay người ta không thích thầy dạy mà thích đời chứng nhân, gương mẫu sống động. Để xây dựng gia đình tốt,  mọi người cần có lòng yêu thương, tha thứ, tôn trọng lẫn nhau, phục vụ vô vị lợi, thật thà, ngay thẳng, trung thuỷ. Để rèn luyện đức tín: giúp con cái bỏ mình, hy sinh, biết tự chủ, phán đoán lành mạnh, biết nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi, không ích kỷ tìm tư lợi, không quá đề cao vật chất hưởng thụ, biết sống nội tâm và tinh thần hướng thượng, sống tình liên đới và trách nhiệm. Để rèn luyện đời sống đạo, chúng con có rất nhiều việc phải làm. Dạy con từ mới sinh cho đến lớn: sống với Chúa, với bản thân, với mọi người, với Hội Thánh, trách nhiệm với xã hội...Vì không đủ thời giờ nên cho phép cha ngừng ở đây, hẹn có dịp thuận tiện cha với chúng con sẽ tiếp tục trò chuyện với nhau. Thông cảm cho cha nhé!"

Gia đình trẻ cám ơn tôi, vui vẻ ra về, nhưng không hài lòng lắm vì còn nhiều thắc mắc trong lãnh vực hôn nhân và gia đình. Đối với tôi điều này dễ hiểu vì muốn nên người tốt phải luôn luôn học hỏi. Cổ nhân nói: "Đi một ngày đàng học một sàng khôn". Đối với những người tự mãn không muốn học hỏi thì "Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vun".             

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

Bài 4. ĐỔI MỚI HÌNH ẢNH NGƯỜI GIÁO LÝ VIÊN

I. Tại sao phải đổi mới:

Ở Việt nam ngày nay, vì hoàn cảnh, hình ảnh người giáo lý viên ở nhiều nơi không được tốt đẹp cho lắm, vì họ ít được huấn luyện chu đáo, lại chỉ giữ vai trò, nhiệm vụ phụ thuộc: người giáo sĩ hay tu sĩ thường giữ vai trò chính và người giáo dân cũng tín nhiệm giáo sĩ hay tu sĩ hơn. Vì thế, không thể không nghĩ tới việc đổi mới và tăng cường hình ảnh người giáo lý viên cho đúng căn tính của họ.

     1. Trong quá khứ:

Mọi người đều nhận thấy hoạt động của giáo lý viên nhiều khi khiêm tốn và kín đáo, nhưng nhiệt thành, hăng hái và quảng đại. Đó là hình thức tuyệt vời của việc tông đồ giáo dân. Họ rất xứng đáng nhận danh hiệu là giáo lý viên hơn hết, đặc biệt là các xứ truyền giáo. Riêng ở Việt Nam trước đây, qua nhiều hình thức khác nhau như: thầy giảng, quớiù chức, ông quản, bà quản, ông Trương, bà Trương ...

Trong xứ đạo: họ đã góp phần tích cực để thiết lập và phát triển những giáo xứ mới, họ đạo mới. Nhiều người đã hiến cả mạng sống vì nhiệm vụ của giáo lý viên như: thầy giáo Chân phước Anrê Phú Yên chẳng hạn. Họ là niềm tự hào của Hội Thánh truyền giáo, mà nếu không có họ thì nhiều người giáo đoàn thịnh đạt ngày nay có lẽ sẽ không được thành lập.

2. Ngày nay:

Hội Thánh đang muốn dốc toàn lực về việc truyền giáo, mà việc truyền giáo cho thế giới hôm nay cần được đổi mới khác xưa rất nhiều. Riêng ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ là thiểu số giữa đa số rất lớn dân chúng (93%). Có những người theo những tôn giáo lâu đời như Phật giáo, Khổng giáo đã có những ảnh hưởng sâu rộng trong dân tộc. Hơn nữa, có những người chịu ảnh hưởng của xã hội ngày nay rất nhiều. Xã hội ngày nay rất dửng dưng với tôn giáo có khi coi tôn giáo là một cản trở tiến bộ con người, như thế, việc truyền giáo cho xã hội chắc chắn đòi hỏi giáo lý viên phải được chuẩn bị và nâng cấp cho thích đáng: không những thấm nhuần đạo lý của Tin mừng mà còn phải hiểu đúng về các tôn giáo ở địa phương mình. Việc truyền giáo cho xã hội ấy, chắc chắn đòi hỏi giáo lý viên phải sống thánh thiện, có lòng can đảm và nhiệt tâm truyền giáo.

II. Dành ưu tiên tuyệt đối để nâng cao phẩm chất:

Muốn củng cố và nâng cao phẩm giá người giáo lý viên hôm nay, việc đầu tiên là phải dành ưu tiên tuyệt đối để nâng cao phẩm chất của họ. Vì việc dạy giáo lý chưa được đạt hiệu quả tốt là do thiếu giáo lý viên được chuẩn bị thích đáng.

Muốn chuẩn bị cho thích đáng thì phải tuyển chọn, huấn luyện và thực tập, rồi bồi dưỡng thường xuyên. Nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh rằng: "Dạy giáo lý là việc dạy Phúc âm căn bản, cần có nhiều thợ về số lượng và nhất là phẩm chất".

III. Chú trọng hơn đến việc nhiệt tâm truyền giáo:

Việc thứ hai phải suy nghĩ và củng cố người giáo lý viên là chú trọng đến việc nhiệt tâm truyền giáo là lòng sốt sáng hăng say muốn đem Tin mừng đến cho tất cả mọi người để họ nhận biết Thiên Chúa và tình yêu mến Ngài, lòng hăng say truyền giáo phải phát xuất từ lòng yêu mến Chúa.

1. Lý do:

Ngày này Hội Thánh đặc biệt hướng đến muôn dân, nhất là ở các xứ truyền giáo thì nhiệt tâm truyền giáo càng cần thiết hơn. Giáo lý viên Việt Nam ở các xứ truyền giáo sống giữa 93% người chưa biết Kitô giáo, riêng ở Giáo phận Banmêthuột là 97%, thế mà thiếu nhiệt tâm truyền giáo là chuyện bất thường. Giáo lý viên phải ý thức mình đang mang trách nhiệm của người tông đồ giáo dân tiền tuyến. Do đó, giáo lý viên Việt Nam phải được huấn luyện để làm nổi bật nhiệt tâm truyền giáo như đã có trong thời trước đây.

2. Để thực hiện nhiệt tâm truyền giáo:

Giáo lý viên đã tình nguyện dạy giáo lý là muốn cho Chúa được yêu mến và hiểu biết hơn. Nhưng nếu có nhiệt tâm truyền giáo thì giáo lý viên không thể bằng lòng chỉ giới hạn trong việc dạy giáo lý cho trẻ em có đạo, nhưng phải luôn sẵn sàng dùng mọi cơ hội có thể.

- Để đích thân mình làm việc truyền giáo như: cầu nguyện gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với người chưa biết Kitô giáo.

- Ngay khi dạy giáo lý cho học viên, cũng hướng dẫn học viên cầu nguyện cho việc truyền giáo và tập cho các em truyền giáo cho các bạn bên lương, bằng cách nêu gương chăm học, kính trọng thầy cô, yêu thương bạn bè, sẵn sàng giúp bạn vượt khó...

IV. Chọn lựa những phương thế thích đáng:

Để đạt được hai mục tiêu trên, tức là nâng cao phẩm chất và củng cố nhiệt tâm truyền giáo cho giáo lý viên, ta cần chọn những phương thích đáng như:

- Soạn thảo chương trình huấn luyện cụ thể để chuẩn bị cách tốt nhất.

- Tổ chức cơ cấu cho thích hợp, tìm kiếm kinh phí.

- Tìm những huấn luyện viên chuyên môn.

Mỗi địa phương phải tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng đạt tới những mục tiêu trên. Nhưng tất cả đều phải cố gắng đạt được ít là tối thiểu bất chấp mọi khó khăn.

V. Củng cố các nhân sự nòng cốt: (nhân sự khung)

1. Ý nghĩa:

Nòng cốt là bộ phận chủ yếu, làm chỗ dựa vững chắc cho những bộ phận khác xung quanh, như: cái khung nhà, khung cửa, khung xe... Nhân viên nòng cốt là người có vai trò thực hiện công tác chủ yếu để xây dựng và làm chỗ dựa cho những người khác.

2. Hoạt động.

Nhân sự nòng cốt trong giáo lý phải hoạt động như: giáo lý viên chuyên nghiệp được huấn luyện trong những trung tâm thích đáng: "Dưới sự chỉ đạo của các mục tử hầu đạt được ở những vị trí then chốt trong tổ chức dạy giáo lý. Giáo lý viên nòng cốt phải lo đào tạo những thế hệ mới, phải khai thông cho họ và phải hướng dẫn để họ hoàn thành nhiệm vụ. Nhân viên nòng cốt phải có mặt ở các cấp bậc: Giáo xứ, Giáo phận, Quốc gia". Đây là một điểm thật mới mẻ đối với giáo lý viên Việt nam hôm nay. 

VI. Phát triển một vài loại giáo lý viên mới:

Chúng ta hãy nhận dạng và xác định căn tính của họ để mọi người quan tâm và chuẩn bị.

1. Các giáo lý viên viên có tinh thần truyền giáo nổi bật:

Cần động viên các giáo lý viên này để họ trở thành những linh hoạt viên về truyền giáo cho các cộng đoàn Giáo hội. Nếu được Chúa Thánh Thần mời gọi và các mục tử sai đi, họ sẵn sàng rời khỏi địa sở của mình ra đi loan báo Tin mừng. Chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận phép thánh tẩy và góp phần vào xây dựng các giáo đoàn mới.

2. Các giáo lý viên dấn thân tích cực vào việc dạy giáo lý:

Cần tăng số các giáo lý viên này vì có nhiều giáo đoàn trẻ đang trên đà phát triển và đang đòi hỏi nhiều việc tông đồ giáo dân khác với việc của giáo lý viên. Vì thế cũng cần có giáo lý viên đặc biệt chẳng hạn như:

+ Các giáo lý viên dấn thân để làm hồi sinh các cộng đoàn mà đang số đã được rửa tội nhưng vì giáo lý và đời sống đức tin là yếu kém.

+ Các giáo lý viên sẵn sàng đáp ứng những thách thức mới ngày nay như:

a. Việc đô thị hoá, tức là việc dân tộc tập chung ngày càng đông ở các đô thị làm cho vai trò của đô thị ngày càng tăng cao, có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.

b. Việc mở các trường học gia tăng, sinh viên, học sinh ngày càng đông.

c. Vấn đề giới trẻ, vấn đề di dân.

d. Vấn đề thế tục hoá làm cho mọi người rời bỏ tôn giáo, rời bỏ tu trì không muốn bị Hội Thánh chi phối.

e. Vấn đề văn nghệ quần chúng được các phương tiện thông tin đại chúng cổ vũ.

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

Bài 4. ĐỔI MỚI HÌNH ẢNH NGƯỜI GIÁO LÝ VIÊN

I. Tại sao phải đổi mới:

Ở Việt nam ngày nay, vì hoàn cảnh, hình ảnh người giáo lý viên ở nhiều nơi không được tốt đẹp cho lắm, vì họ ít được huấn luyện chu đáo, lại chỉ giữ vai trò, nhiệm vụ phụ thuộc: người giáo sĩ hay tu sĩ thường giữ vai trò chính và người giáo dân cũng tín nhiệm giáo sĩ hay tu sĩ hơn. Vì thế, không thể không nghĩ tới việc đổi mới và tăng cường hình ảnh người giáo lý viên cho đúng căn tính của họ.

     1. Trong quá khứ:

Mọi người đều nhận thấy hoạt động của giáo lý viên nhiều khi khiêm tốn và kín đáo, nhưng nhiệt thành, hăng hái và quảng đại. Đó là hình thức tuyệt vời của việc tông đồ giáo dân. Họ rất xứng đáng nhận danh hiệu là giáo lý viên hơn hết, đặc biệt là các xứ truyền giáo. Riêng ở Việt Nam trước đây, qua nhiều hình thức khác nhau như: thầy giảng, quớiù chức, ông quản, bà quản, ông Trương, bà Trương ...

Trong xứ đạo: họ đã góp phần tích cực để thiết lập và phát triển những giáo xứ mới, họ đạo mới. Nhiều người đã hiến cả mạng sống vì nhiệm vụ của giáo lý viên như: thầy giáo Chân phước Anrê Phú Yên chẳng hạn. Họ là niềm tự hào của Hội Thánh truyền giáo, mà nếu không có họ thì nhiều người giáo đoàn thịnh đạt ngày nay có lẽ sẽ không được thành lập.

2. Ngày nay:

Hội Thánh đang muốn dốc toàn lực về việc truyền giáo, mà việc truyền giáo cho thế giới hôm nay cần được đổi mới khác xưa rất nhiều. Riêng ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ là thiểu số giữa đa số rất lớn dân chúng (93%). Có những người theo những tôn giáo lâu đời như Phật giáo, Khổng giáo đã có những ảnh hưởng sâu rộng trong dân tộc. Hơn nữa, có những người chịu ảnh hưởng của xã hội ngày nay rất nhiều. Xã hội ngày nay rất dửng dưng với tôn giáo có khi coi tôn giáo là một cản trở tiến bộ con người, như thế, việc truyền giáo cho xã hội chắc chắn đòi hỏi giáo lý viên phải được chuẩn bị và nâng cấp cho thích đáng: không những thấm nhuần đạo lý của Tin mừng mà còn phải hiểu đúng về các tôn giáo ở địa phương mình. Việc truyền giáo cho xã hội ấy, chắc chắn đòi hỏi giáo lý viên phải sống thánh thiện, có lòng can đảm và nhiệt tâm truyền giáo.

II. Dành ưu tiên tuyệt đối để nâng cao phẩm chất:

Muốn củng cố và nâng cao phẩm giá người giáo lý viên hôm nay, việc đầu tiên là phải dành ưu tiên tuyệt đối để nâng cao phẩm chất của họ. Vì việc dạy giáo lý chưa được đạt hiệu quả tốt là do thiếu giáo lý viên được chuẩn bị thích đáng.

Muốn chuẩn bị cho thích đáng thì phải tuyển chọn, huấn luyện và thực tập, rồi bồi dưỡng thường xuyên. Nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh rằng: "Dạy giáo lý là việc dạy Phúc âm căn bản, cần có nhiều thợ về số lượng và nhất là phẩm chất".

III. Chú trọng hơn đến việc nhiệt tâm truyền giáo:

Việc thứ hai phải suy nghĩ và củng cố người giáo lý viên là chú trọng đến việc nhiệt tâm truyền giáo là lòng sốt sáng hăng say muốn đem Tin mừng đến cho tất cả mọi người để họ nhận biết Thiên Chúa và tình yêu mến Ngài, lòng hăng say truyền giáo phải phát xuất từ lòng yêu mến Chúa.

1. Lý do:

Ngày này Hội Thánh đặc biệt hướng đến muôn dân, nhất là ở các xứ truyền giáo thì nhiệt tâm truyền giáo càng cần thiết hơn. Giáo lý viên Việt Nam ở các xứ truyền giáo sống giữa 93% người chưa biết Kitô giáo, riêng ở Giáo phận Banmêthuột là 97%, thế mà thiếu nhiệt tâm truyền giáo là chuyện bất thường. Giáo lý viên phải ý thức mình đang mang trách nhiệm của người tông đồ giáo dân tiền tuyến. Do đó, giáo lý viên Việt Nam phải được huấn luyện để làm nổi bật nhiệt tâm truyền giáo như đã có trong thời trước đây.

2. Để thực hiện nhiệt tâm truyền giáo:

Giáo lý viên đã tình nguyện dạy giáo lý là muốn cho Chúa được yêu mến và hiểu biết hơn. Nhưng nếu có nhiệt tâm truyền giáo thì giáo lý viên không thể bằng lòng chỉ giới hạn trong việc dạy giáo lý cho trẻ em có đạo, nhưng phải luôn sẵn sàng dùng mọi cơ hội có thể.

- Để đích thân mình làm việc truyền giáo như: cầu nguyện gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với người chưa biết Kitô giáo.

- Ngay khi dạy giáo lý cho học viên, cũng hướng dẫn học viên cầu nguyện cho việc truyền giáo và tập cho các em truyền giáo cho các bạn bên lương, bằng cách nêu gương chăm học, kính trọng thầy cô, yêu thương bạn bè, sẵn sàng giúp bạn vượt khó...

IV. Chọn lựa những phương thế thích đáng:

Để đạt được hai mục tiêu trên, tức là nâng cao phẩm chất và củng cố nhiệt tâm truyền giáo cho giáo lý viên, ta cần chọn những phương thích đáng như:

- Soạn thảo chương trình huấn luyện cụ thể để chuẩn bị cách tốt nhất.

- Tổ chức cơ cấu cho thích hợp, tìm kiếm kinh phí.

- Tìm những huấn luyện viên chuyên môn.

Mỗi địa phương phải tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng đạt tới những mục tiêu trên. Nhưng tất cả đều phải cố gắng đạt được ít là tối thiểu bất chấp mọi khó khăn.

V. Củng cố các nhân sự nòng cốt: (nhân sự khung)

1. Ý nghĩa:

Nòng cốt là bộ phận chủ yếu, làm chỗ dựa vững chắc cho những bộ phận khác xung quanh, như: cái khung nhà, khung cửa, khung xe... Nhân viên nòng cốt là người có vai trò thực hiện công tác chủ yếu để xây dựng và làm chỗ dựa cho những người khác.

2. Hoạt động.

Nhân sự nòng cốt trong giáo lý phải hoạt động như: giáo lý viên chuyên nghiệp được huấn luyện trong những trung tâm thích đáng: "Dưới sự chỉ đạo của các mục tử hầu đạt được ở những vị trí then chốt trong tổ chức dạy giáo lý. Giáo lý viên nòng cốt phải lo đào tạo những thế hệ mới, phải khai thông cho họ và phải hướng dẫn để họ hoàn thành nhiệm vụ. Nhân viên nòng cốt phải có mặt ở các cấp bậc: Giáo xứ, Giáo phận, Quốc gia". Đây là một điểm thật mới mẻ đối với giáo lý viên Việt nam hôm nay. 

VI. Phát triển một vài loại giáo lý viên mới:

Chúng ta hãy nhận dạng và xác định căn tính của họ để mọi người quan tâm và chuẩn bị.

1. Các giáo lý viên viên có tinh thần truyền giáo nổi bật:

Cần động viên các giáo lý viên này để họ trở thành những linh hoạt viên về truyền giáo cho các cộng đoàn Giáo hội. Nếu được Chúa Thánh Thần mời gọi và các mục tử sai đi, họ sẵn sàng rời khỏi địa sở của mình ra đi loan báo Tin mừng. Chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận phép thánh tẩy và góp phần vào xây dựng các giáo đoàn mới.

2. Các giáo lý viên dấn thân tích cực vào việc dạy giáo lý:

Cần tăng số các giáo lý viên này vì có nhiều giáo đoàn trẻ đang trên đà phát triển và đang đòi hỏi nhiều việc tông đồ giáo dân khác với việc của giáo lý viên. Vì thế cũng cần có giáo lý viên đặc biệt chẳng hạn như:

+ Các giáo lý viên dấn thân để làm hồi sinh các cộng đoàn mà đang số đã được rửa tội nhưng vì giáo lý và đời sống đức tin là yếu kém.

+ Các giáo lý viên sẵn sàng đáp ứng những thách thức mới ngày nay như:

a. Việc đô thị hoá, tức là việc dân tộc tập chung ngày càng đông ở các đô thị làm cho vai trò của đô thị ngày càng tăng cao, có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.

b. Việc mở các trường học gia tăng, sinh viên, học sinh ngày càng đông.

c. Vấn đề giới trẻ, vấn đề di dân.

d. Vấn đề thế tục hoá làm cho mọi người rời bỏ tôn giáo, rời bỏ tu trì không muốn bị Hội Thánh chi phối.

e. Vấn đề văn nghệ quần chúng được các phương tiện thông tin đại chúng cổ vũ.

TRANG QUỚI CHỨC


BIỆN SỞ

Trong hàng ngũ Quới Chức có phân cấp: Trùm, Câu, Biện. Trong cấp Biện thì có phân biệt: Biện Việc, Biện Sở, Biện "Đặc Trách" các công việc khác

Người ta thường ví Biện Sở là Thổ địa, vì ông là người lãnh trách nhiệm trong một khu vực được cha sở giao (mà ông là người phải biết rõ), để khi cần cha sở sẽ tham vấn ông về những vấn để liên quan đến (giáo dân) thuộc khu vực đó, bởi lẽ cha sở không thể biết rõ tất cả mọi sự. Cụ thể ông phải chịu trách nhiệm về những việc đã được qui định ở điều 12 trong Điều lệ Quới Chức:

 Về Bí Tích Rửa Tội:

1. Giới thiệu cho cha sở người sắp lãnh nhận bí tích rửa tội. Đây là việc mà đích thân Biện sở phải làm để nói lên sự quan tâm và vai trò của mình đối với những người mà mình phụ trách, vì thế ông phải làm một cách chu đáo, cẩn thận bao gồm các việc :

1.1. Điền đầy đủ và chính xác thông tin của người xin lãnh bí tích rữa tội vào Đơn xin rửa tội để cha sở lưu vào sổ họ .

1.2. Chính Biện sở đó phải ghi chứ không để họ tự ghi, để nói lên sự quan tâm, đồng thời những gì người khácï tự ghi thường không đầy đủ, không chính xác...

1.3. Nhắc nhở họ về những thủ tục về rửa tội như: Cha mẹ,Vú bỏ đở đầu cần phải có mặt khi xin đức tin cho con cái. Phải biết đáp, biết thưa khi trả lời những câu hỏi trong nghi thức rửa tội. (điều nầy chứng tỏ cha mẹ, người đở đầu có thật sự quan tâm đến đức tin con cái hay là không). Về Sổ Gia Đình Công Giáo, cha sở sẽ kiểm tra thông tin đã được ghi trong đơn xin rửa tội để xác nhận và lưu vào sổ họ cách chính xác hầu dễ dàng cho việc trích lục sau này.

1.4. Biện sở cũng nên ghi lại ngày rửa tội của họ vào sổ của mình để dễ dàng cho việc lấy sổ họ hàng năm và để biết được những em nào đã đến tuổi học giáo lý mà nhắc nhở cha mẹ chúng lo cho con cái đi học đạo.

2. Khi cần kiếp mọi người ai cũng có thể rửa tội được, nhưng có thể có những người không biết rửa tội hay rửa không đúng công thức. Vì thế nếu có mặt thì biện sở phải lãnh trách nhiệm đó.

3. Hàng năm Giáo hội địa phương phải báo cáo với Toà Thánh tình hình phát triển của Giáo hội mình, vì thế mỗi họ đạo phải báo hiện trạng tại họ đạo để có số liệu cụ thể, xác thực. Cho nên việc lấy sổ họ không được làm qua loa, lấy lệ. Việc này cũng giúp Biện sở hiểu biết thêm về hiện trạng tại sở biện mình nhờ đó giúp cha sở tìm ra phương thế mục vụ thiết thực và hữu ích.

4. Với vai trò "Thổ Địa", Biện sở không những phải biết rõ những anh em đồng đạo mà còn phải biết đến những người chưa là Kitô hữu. Nhờ mối quan hệ hàng xóm láng giềng, sống gần gũi, thân thiết, Biện sở là người có điều kiện thuận lợi nhất trong việc mời gọi anh em trở thành con Chúa.

SỐNG ĐẸP

Một câu chuyện cảm động về cậu bé 9 tuổi ở Nhật đã dạy cho tôi (một cảnh sát Nhật, gốc Việt) bài học làm người trong lúc khốn khó nhất.        

Tối hôm qua tôi được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc áo thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt của em thì chắc chẳng còn thức ăn nên mới lại hỏi thăm. 

Em kể khi đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha của em làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường em nhìn thấy chiếc xe và cha bị nước cuốn trôi, nhiều khả năng đã chết.           

Hỏi mẹ đâu, em nói nhà em nằm ngay bờ biển, mẹ và em em chắc cũng không chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe hỏi đến thân nhân.

Nhìn thấy em nhỏ lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người em nhỏ. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói". Cậu bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, cậu bé ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng.    
Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".        

Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác khóc, để mọi người không nhìn thấy. Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi mới học lớp 3 đã có thể dạy tôi một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh. Một dân tộc với những đứa trẻ 9 tuổi đã biết nhẫn nại, chịu gian khổ và chấp nhận hy sinh cho người khác chắc chắn là một dân tộc vĩ đại.  

Đất nước này đang đứng ở trong những giờ phút nguy cấp nhất của sự điêu tàn, nhưng chắc chắn nó sẽ hồi sinh mạnh hơn nhờ những công dân biết hy sinh bản thân ngay từ tuổi niên thiếu.

Báo Tuổi Trẻ

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Những câu chuyện cảm động từ nước Nhật

Giữa cảnh tượng hoang tàn, đổ nát và hàng loạt con số thương vong đáng sợ sau thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản, những câu chuyện về sự sống sót kỳ diệu và ý thức cộng đồng cao trở thành sự xoa dịu lớn lao...

Nhìn trên khắp thế giới, cảnh cướp bóc không phải là hiếm trong các thiên tai gần đây. Sau siêu bão Katrina, người New Orléans đã chứng kiến nạn cướp bóc trên một quy mô mà nhiều người Mỹ cũng phải bất ngờ. Sau trận động đất tại Chilê hồi năm ngoái, nạn cướp bóc diễn ra nghiêm trọng tới nỗi quân đội phải can thiệp.  

Nạn cướp bóc tràn lan đã xảy ra tại Haiti sau trận động đất hồi năm ngoái và trong trận lũ lụt tại Anh năm 2007. Tại New Zealand, tại cướp bóc và hôi của cũng xảy ra sau trận động đất hồi tháng 3/2010.

Nhưng ở Nhật Bản tại những nơi hàng hóa từ các tổ chức cứu trợ được đưa tới, mọi người xếp hàng đúng trật tự, lịch sự, bình tĩnh và không có thông tin về các cuộc ẩu đả, xô đẩy hay tranh giành. Các siêu thị Nhật đã giảm giá mạnh và các chủ sở hữu máy bán hàng tự động đã mở cửa các máy bán hàng của họ và phân phát nước uống miễn phí cho các nhân viên cứu trợ, các nhân viên khẩn cấp và những người tình nguyện tham gia trợ giúp trong thảm họa.

Và đặc biệt nhất là bất chấp sự tàn phá và sự khan hiếm hàng hóa, không xảy ra cảnh cướp bóc. Sự vắng bóng của nạn cướp bóc tại Nhật Bản đã khiến nhiều người phương Tây bất ngờ. Đối lập với các thảm họa thiên nhiên gần đây trên khắp thế giới, người Nhật có vẻ như rất đoàn kết và cư xử có trật tự, thay vì tận dụng cuộc khủng hoảng để tư lợi cá nhân.

"Tinh thần đoàn kết đặc biệt cao tại Nhật Bản. Sức mạnh xã hội có thể còn ấn tượng hơn sức mạnh công nghệ của Nhật Bản", nhà báo Ed West viết trên tờ Telegraph của Anh. "Tại sao một số nền văn hóa đối phó với thảm họa bằng cách biến của cải của người khác thành của chính mình nhưng các nền văn hóa khác, đặc biệt là người Nhật, lại chứng tỏ lòng vị tha thậm chí trong thảm họa?".

Một nhân chứng tại Miyagi, gần tâm chấn của động đất, cho hay: "Khí đốt và nước đã bị cắt tại Miyagi và thành phố Sendai. Ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, điện cũng bị cắt. Nhưng không có sự hoảng sợ trên đường phố cũng như trong các cửa hàng".

Có nhiều nguyên do dẫn đến thái độ của người dân Nhật trước thảm hoạ mất mát, đói lạnh, chết chóc... nhưng điều cốt lõi vẫn là ý chí, sự tự tin của người Nhật Bản. Họ được dạy ngay từ nhỏ một ý chí can trường, tin vào chính mình; tin vào lòng tốt của người khác và nhất là sống biết sẻ chia cho mọi người.  Quan tâm đến người  khác, như là lẽ sống đương nhiên của mọi người.

Từ Internet

MỘT CHÚT TÂM TÌNH


Lấy chồng kỹ tính

"Sống với ông chồng quá kỹ, quá sạch đôi khi có cảm giác như đang sống với... cái máy soi, soi đến đâu cũng thấy chưa sạch...'' - một người vợ than thở!

Đối với đa số phụ nữ, lấy một ông chồng sống ngăn nắp, sạch sẽ, cẩn thận thì hạnh phúc gấp bội phần so với ông chồng ở dơ, bừa bộn. Nhưng thực tế, không ít phụ nữ chỉ mong sao chồng bớt sạch, bớt kỹ tính một chút để còn thấy cuộc đời vẫn đẹp!   

Sạch... từng centimet

Hôm rồi, chúng tôi được Hưng, bạn học cũ, mời đến dự thôi nôi con trai đầu lòng. Chơi với nhau bao năm cũng hiểu phần nào tính bạn vốn ngăn nắp, sạch sẽ, không thích ồn ào nhưng khi được mục sở thị nơi ở của Hưng, chúng tôi mới thực sự... nể. Nhà có con nhỏ mà mọi thứ sạch bong, đồ đạc ngăn nắp, đúng vị trí trong khi việc nhà chỉ có  vợ chồng Hưng tự gánh vác. Tấm tắc một hồi mà chỉ thấy Kim, vợ Hưng, tủm tỉm cười. Lấy làm lạ, khi phụ Kim làm thức ăn, tỉ tê nói chuyện, tôi mới... hãi bởi không ngờ ông bạn mình kỹ tính đến vậy.

Chỉ vào chiếc tủ kính bày rất nhiều bình hoa đẹp và lạ mắt, Kim nói: "Coi vậy chứ bình nào việc đó, để nhầm phòng, cắm không đúng loại hoa dành cho bình là không được với ổng đâu. Càm ràm miết cho coi''. Thấy tôi lắc đầu lè lưỡi, Kim kể tiếp: Chén, bát, muỗng, đũa sau khi rửa phải phơi nắng, lau sạch rồi mới úp vào chạn, loại nào theo loại đó. Nhà hai tầng lầu nhưng ngày nào cũng phải lau sàn bằng tay, nhất định không được dùng cây lau "vì như thế làm sao mà sạch được?".

 Chưa hết, từ cái vòi nước đến mọi ngóc ngách, đồ đạc trong nhà đều không được dính một hạt bụi. Con còn nhỏ, đôi khi chưa xong việc này lại phải quay qua chuyện khác, chưa kịp dọn, chồng thấy vướng mắt, vừa dọn vừa càu nhàu; đồ chơi của con vừa lấy ra đã bị ba nó nhìn chằm chằm, chỉ muốn cất đi vì... không thích bừa bộn. Chuyện tắm cho con cũng đôi khi khiến vợ chồng cãi nhau vì chồng thì lau từng kẽ ngón tay, ngón chân, còn vợ thì sợ con cảm lạnh.

"Sống với ông chồng quá kỹ, quá sạch đôi khi có cảm giác như đang sống với... cái máy soi, soi đến đâu cũng thấy chưa sạch. Vậy nên nhà sạch, đẹp nhưng thực sự mình không có thời gian để hưởng thụ cái sạch, cái đẹp đó...'' - Kim than.

Đem chuyện này kể với chị Lan, một đồng nghiệp, không ngờ tôi lại được chị chia sẻ thêm chuyện của chính mình. "Chị vốn thích cái gì cũng qua loa thôi, không ngờ ông trời khéo ghép, tặng ngay cho chị một ông chồng có con mắt rất... tinh, vừa kỹ tính vừa xét nét. Từ chuyện kem đánh răng phải bóp từ dưới lên trên, tiền trong bóp phải xếp ngăn nắp, thẳng thớm, theo giá trị đồng tiền, đồ để đâu phải đúng vị trí đó đến chuyện giặt, ủi, rửa chén, lau nhà..., tất tần tật anh ấy đều có cớ kiểm tra xem có sạch không.

Không ít lần quần áo chị đã giặt anh lôi ra, săm soi một hồi cũng tìm ra được một vết nhờ nhờ nào đó. Chén bát rửa xong úp lên chạn, anh mà soạn chén thế nào cũng phải bỏ ra vài cái vì... chưa sạch. Đi làm về vừa phải lo cơm nước, giặt giũ vừa tranh thủ dạy con học, vậy mà anh ấy vừa bước chân vào nhà đã chê nào là nhà nhám chân quá, tập vở con sao bày tùm lum (thằng bé đang học chớ có phải đã xong đâu!), chai nước trong tủ lạnh đã lưng sao chưa đổ đầy... "Mỗi lần như vậy, anh lại càu nhàu, cằn nhằn, mệt kinh khủng'' - chị Lan than thở.

Phản ứng và thích ứng

Hồi quen nhau, biết anh ấy sạch sẽ, kỹ tính, mình rất thích vì tính mình cũng ghét sự lôi thôi, luộm thuộm. Nhưng lấy nhau rồi, nhiều lúc mình thấy quá mệt mỏi, khổ sở bởi tính quá ưa sạch sẽ của chồng, nhất là sau một ngày làm việc căng thẳng về nhà, con quấy khóc còn chồng thì cứ chực  moi ra cái gì đó để mà vừa làm lại vừa cằn nhằn. Những lúc như vậy, mình chỉ mong giá mà chồng mình... lười và ở dơ một chút'' - vợ Hưng nói.

 Tuy nhiên, chị Kim cũng thừa nhận trong cuộc sống, có những cái có thể thay đổi được nhưng có những cái thuộc về bản chất không thể thay đổi được hoặc có thay đổi cũng phải từ từ. "Dù cực nhưng đi làm về được sống trong căn nhà sạch sẽ, ngăn nắp vẫn thích hơn. Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm mà'' - vợ Hưng kết luận.

Tuy nhiên, chị Lan lại áp dụng cách trị bệnh kỹ tính của chồng với chiêu bài "không nghe, không thấy". Càu nhàu chán mà chị vẫn... không thay đổi, anh buộc lòng tự làm lấy cho vừa ý mình. Dần dần, anh cũng nhận ra với một núi công việc phải làm trong một ngày, không thể mọi cái đều phải tuyệt đối như ý mình được.

Chị Lan đúc kết: "Thật ra mà nói, từ lúc gặp phải ông chồng kỹ tính, chị cũng học được cách sống ngăn nắp, cẩn thận hơn. Điều đó rất có lợi trong cuộc sống và trong việc dạy con. Nhưng một ngày làm việc căng thẳng ở cơ quan, về nhà lại phải lau chùi từng chút và từng thứ một, từ ngày này qua ngày khác, sức đâu mà chịu nổi? Phải... bớt kỹ tính một chút thôi!".

Nếu không thay đổi được chồng, cũng không thể thay... chồng khác thì hãy thay đổi chính mình, học cách sống chung với cá tính của anh ấy. Xác định tâm thế như vậy rồi cũng nhẹ lòng.

Tố Trâm (Báo Người Lao Động)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

 "Người Trộm Lành, Giuđa Phản Bội và Phêrô Chối Thầy" dạy cho con người những bài học gì?

Hỏi: Nhân Mùa Chay, xin cha giải thích trường hợp của Giuđa phản bội người trộm lành sám hối và Phêrô chối Chúa như được ghi lại trong trong các Tin Mừng.

Trả lời: Mùa chay là thời điểm thuận lợi nhất để Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm sâu xa hơn nữa về tình thương bao la của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi đau khổ, xỉ nhục và chết trên thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội và có hy vọng được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Nước Trời.

Mùa chay cũng là mùa sám hối, thúc dục mọi tín hữu nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin Chúa nhân lành khoan dung thứ tha vì Người "muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (Tm 2:4).

Tin Mừng Matthêu, Marcô, Luca và Gioan đêu ghi lai sự kiên Phêrô chối Thầy, Giuđa Ít-ca-ri-ốt, một trong 12 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã phản bội Thầy, bán Thấy và tuyệt vọng đến mức treo cổ tự tử (Mt 27: 5).

Riêng Tin Mừng Luca ghi lại sự kiên "Người gian phi sám hối và được vào Thiên Đàng với Chúa Giêsu."

1- Trường hợp của Giuda:

 Giuđa tượng trưng cho lớp người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa để phản bội người khác. Giuđa là một trong Nhóm 12 Tông Đồ nòng cốt mà Chúa Giêsu đã chọn lựa cho tham gia vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa lúc ban đầu. Giuđa đã được diễm phúc sống bên Chúa suốt 3 năm, đã được trực tiếp nghe lời giảng dạy của Chúa về Nước Trời, về tinh thần khó nghèo và chứng kiến đời sống khó nghèo của Chúa đến mức "con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Mt 8: 20). Vậy mà Giuđa đã không được cảm hóa theo gương khó nghèo của Thầy. Vì thế Giuda đã cam tâm bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Nhưng khi chứng kiến cảnh Thầy mình bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Giuđa đã hối hận đem tiền trả lại bọn thượng tế và kỳ mục Do Thái rồi đi thắt cổ chết. Hắn tự tử vì quá tuyệt vọng, không còn tin tưởng gì vào lòng sót thương, tha thứ của Chúa nữa.

Vì thể, Giuđa đã trở thành gương xấu không những vì tham mê tiền của, phản bội mà nhất là tuyệt vọng về lòng sót thương của Chúa. Đây là điều đáng nói nhất về người môn đệ phản bội này, vì y đã mất hết niềm tin vào Thiên Chúa nhân lành có thể tha thứ hết mọi tội lỗi của con người trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội tuyệt vọng không còn muốn xin tha thứ nữa.

Chúa Giêsu đã than thở như sau về sự phản bội của Giuđa:

" ... Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Ga 17: 12).

 lại nữa:

" ... đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn"  (Mt 26: 24; Mc 14: 21).

Dầu vậy, Giáo Hội cũng không dám kết luận chắc chắn về số phận đời đời của Giuđa. Việc này chỉ có một mình Thiên Chúa biết vì Người đã phán đoán Giuđa theo lượng từ bi và công bằng của Người.

Ngược lại, Giáo Hội chỉ lưu ý con cái mình về gương xấu của Giuđa mà thôi. Gương xấu vì Giuđa đã tham tiền hơn yêu mến Thầy, nên đã phản bội Thầy khi bán Người lấy 30 đồng bạc của các Thượng Tế và kỳ mục Do Thái. Nhưng gương xấu nhất của Giudda là tuyệt vọng, không còn muốn sám hối để xin Chúa tha thứ nữa, khi treo cổ tự tử (cf. Mt 27:5). Đây là gương xấu mà mọi tín hữu phải xa tránh vì thực chất của nó là mất hết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, là Cha nhân từ luôn sẵn lòng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối và xin tha thứ.

2- Phêrô chối Chúa

Ngược lại với Giuđa là kê nêu gương xấu về tham tiền và tuyệt vọng, Phêrô lại dạy cho chúng ta bài học quý giá về lòng ăn năn sám hối.

Phêrô cũng có khuyết điểm là quá tự tin nơi mình khi tuyên bố lúc ban chiều trước khi Chúa Giêsu bị bắt: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy"  (Mt 26:35)

Nhưng đúng như lời Chúa đã nói trước là đêm đó gà chưa gáy sáng thì Phêrô đã chối Chúa ba lần. Chối xong và nhớ lại lời Chúa đã nói trước, Phêrô"ra ngoài khóc lóc thảm thiết" (cf. Mt 26: 75; Lc 22: 62 ) ông khóc vì ăn năn hối hận đã hèn nhát chối Thầy trước những kẻ bắt bớ và hành hạ Người cách tàn nhẫn. Chính vì thật sự thống hối ăn năn mà Chúa đã tha cho Phêrô tội công khai chối Chúa và còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh "chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy" (Ga 21: 15-16).

Như thế đủ cho ta thấy là dù tội lỗi con người có nặng đến đâu, nhưng nếu biết sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa thì sẽ được tha thứ và nối lại tình thân với Người sau khi đã lỡ sa ngã vì yêu đuối của nhân tính do hậu quả của tội nguyên tổ còn để lại.

3- Người gian phi sám hối: (Lc 23: 40-42):

Tin Mừng Luca kể rõ hai tên gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu, một đứa bên phải, một đứa bên trái, trong khi Matthêu nói đó là hai tên cướp (Mt 27: 38). Chúng bị đóng đinh vì tội trôm cướp, và một trong hai tên gian phi này đã nhận biết tội của mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 42-43)

Như thế, chỉ có lòng ăn năn sám hội thực sự là điều đẹp lòng Chúa và Người sẽ tha hết mọi tội lỗi cho những ai nhận biết mình có tôi và xin Chúa thứ tha. Người gian phi sám hối hay còn được gọi là "kẻ trộm lành" đã vào Thiên Đàng bằng đường tắt nhanh chóng chỉ vì biết ăn năn sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa để xin tha thứ.

Người trộm lành này đã đi đàng tội lỗi không biết là bao nhiêu năm, nên bị đóng đanh vì những trọng tội mà xã hội Do Thái phải trừng phạt bằng cực hình đóng đanh. Nhưng Chúa đã tha thứ cho anh mọi tội, từ tội nguyên tổ cho đến mọi tội cá nhân anh đã phạm cho đến ngày bị đóng đanh chung với Chúa, là Người lành vô tội, nhưng đã cam lòng chiu khổ hình thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội.

Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước "người trộm lành" bằng cách cứ sống tội lỗi rồi cuối cùng sám hối xin Chúa tha thứ để được vào Nước Trời. Ta chỉ có thể noi gương tốt của anh về lòng sám hối và tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để xin Người tha thứ mọi tội cho ta đã lỡ sa phạm vì yếu đuối của bản chất và vì ma quỉ cám dỗ. Nhưng ta không thể bắt chước anh ta làm những việc sai trái hay đối nghịch với tình thương, sự thanh thiện và công bằng của Chúa để chờ xin tha thứ vào phút chót. Không ai có thể biết ngày giờ nào mình phải ra đi, nên không thể liễu mình sống trong tội chờ ngày sám hối được. Cố ý sống như vậy là lợi dụng lòng thương xót, tha thứ của Chúa Và nếu những ai cố ý liều lĩnh như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo nghiêm khắc như sau:

"Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn đi, nhưng vì người hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta."  (Kh 3: 15-16).

Tóm lại, điều thiết yếu là ta phải cố gắng xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội là cản trở duy nhất cho ta sống đẹp lòng Chúa mỗi giây phút của đời mình trên trần thế này. Tuy nhiên, vì bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, nhất là vì ma quỉ luôn rình rập để lôi kéo ta vào vòng tội lỗi, nên cần thiết cho ta phải xin ơn Chúa giúp sức để có thể đứng vững, sống theo đường lỗi của Chúa để được hạnh phúc, an vui ngay trên đời này trước khi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

1691    24-04-2012 20:20:00