Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Định Hướng Việc Dạy Giáo Lý - Tháng 07 năm 2010

LỜI CHỦ CHĂN

TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2 VĩnhLong

Vĩnh Long, ngày 24.06.2010

V/v Định Hướng Việc Dạy Giáo Lý

Mục đích của giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa (Thư chung của HĐGM VN năm 2007, số 3).

1. Mọi người được gọi làm con Thiên Chúa, nên có quyền được loan báo Tin Mừng, quyền được giáo dục đức tin và được hướng dẫn sống đức tin. Tất cả bắt đầu từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: Con Thiên Chúa mặc xác phàm, là để ta có thể trở thành con của Chúa (x. Gioan 1,12; x. 2 Phêrô 1,4) Chúa Kitô Phục Sinh trao cho Hội Thánh sứ mạng phục vụ Tin Mừng:

“Các con hãy đi thu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con” (Mt 28,19; x. Gioan 20,21).

2. Hội Thánh được Chúa Kitô thiết lập và được Chúa Thánh Thần khai sinh vào ngày Lễ Ngũ Tuần, là kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho toàn thể nhân loại trở thành một đoàn dân của Thiên Chúa (x. Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 24)

Để chu toàn sứ mạng nầy, Hội Thánh khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân để nhờ nghe mà họ có thể đón nhận đức tin, và Hội Thánh dùng các Bí Tích để thánh hóa họ. Qua các thời đại, Hội Thánh không ngừng rao giảng cho lương dân và đồng thời chăm sóc cộng đoàn tín hữu.

Thánh Phêrô đã so sánh cộng đoàn tín hữu như những viên đá sống động được xây trên viên đá vững chắc đã được Thiên Chúa lựa chọn là Chúa Kitô (x. 1 Phêrô 2,6.-7). Nếu nhờ tin vào Chúa Kitô Phục Sinh và nhờ quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần, mà chúng ta trở thành Ngôi Nhà thiêng liêng, để loan truyền những kỳ công của Chúa (1 P 2,9), thì chúng ta phải ra sức gìn giữ đức tin và gia tăng đức ái. Bằng cách nào, nếu không phải là chuyên cần với giáo huấn của Hội Thánh, và tham dự Nghi Lễ Bẻ Bánh, như các tín hữu thuở ban đầu? Giữ Đạo không phải là sống với một hình ảnh còn lưu giữ trong ký ức, nhưng là sống với Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện giảng dạy và ban niềm tin, qui tụ dân Chúa, thiết lập sụ hiệp thông, thánh hóa và dẫn dắt (x. Bênêđitô XVI, Bài Giáo lý ngày thứ tư 14.4.2010).

3. Hội Thánh là Cộng Đoàn được chọn để loan truyền những kỳ công của Chúa (1 P 2,9) Ai có thể cứu chữa thế giới và giải phóng con người? Câu trả lời duy nhất mà chúng ta có thể đưa ra: Đức Giêsu thành Nadarét, Người là Chúa và Đức Kitô, Người đã bị đóng đinh và đã sống lại . Nhờ tác vụ của Hội Thánh mà Mầu Nhiệm Kỳ Diệu Đức Kitô chết và sống lại hằng ngày được tái diễn mang lại ơn cứu chuộc (x Bênêđitô XVI, Bài Giáo lý ngày 5.5.2010).

Nhiệm vụ làm chứng không bao giờ là công việc riêng lẻ của một cá nhân, nhưng luôn luôn là công việc chung của cả Giáo Hội, với những trách nhiệm khác nhau và những cách thức hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, cách thức rao giảng cần thiết và chung cho mọi thành phần dân Chúa là làm chứng bằng chính cuộc sống, vì không thể có sự rao giảng Tin Mừng thật sự, nếu các Kitô hữu không lấy đời sống mình làm chứng tá, đi đôi với sứ điệp mà mình rao giảng. “Con người ngày hôm nay tin tưởng các chứng nhân hơn là thầy dạy” ( TH Giáo Hội tại Châu Á, 42).

Bởi vậy, việc dạy và học giáo lý phải đi liền với thực hành. Phải dạy điều mình tin và thi hành điều mình dạy. Phụng vụ của Hội Thánh nối kết việc công bố Lời Chúa với cử hành các Bí Tích, là để cho thấy sức mạnh biến đổi chúng ta đến từ Chúa. Ai có thể làm điều thiện mà mình đã học biết, nếu không có ơn Chúa. Cầu nguyện và lãnh nhận các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể là việc thiết yếu trong đời sống các tín hữu.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
                        Giám mục Vĩnh Long

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: ĐỊNH HƯỚNG VIỆC DẠY GIÁO LÝ

Định hướng cho việc giảng dạy Giáo lý của Hội Thánh Việt Nam trong giai đoạn sắp tới sẽ có nhiều việc phải làm: như đào tạo Giáo Lý Viên, biên soạn Sách Giáo Lý cho dự tòng…tất cả những chuẩn bị đó nhằm giảng dạy Giáo Lý, đào tạo học sinh, học viên trở nên môn đệ của Chúa Kitô. Để kịp thời đáp ứng những đòi hỏi thực tế của thời đại, tất cả những công việc này phải làm song song với nhau vì xã hội Việt Nam và xu hướng chung cả thế giới đang biến đổi sâu rộng và nhanh chóng.

Việc biên soạn các tài liệu, quy tụ đội ngũ giảng dạy tương đối có thể làm được ở bất kỳ thời điểm nào. Nhưng hai công việc quan trọng mà chúng ta bàn tới sau đây thì đầy thách đố và khó khăn:

Đào tạo Giáo lý viên (GLV).

Đào tạo GLV là công tác cấp thiết vì: Do điều kiện của giáo dân Việt Nam, GLV hiện nay cần phải được đào tạo để họ vượt qua những giới hạn và giúp họ đảm nhận việc giảng dạy giáo lý cách hiệu quả hơn. Đa số GLV Việt Nam là giáo dân, sự hiểu biết của họ về các mặt như giáo lý, kinh thánh, đường hướng linh đạo của giáo lý viên, về nhân bản, các tri thức phổ thông về khoa học nhân văn, và sư phạm giáo lý…rất giới hạn…

Vấn đề tiếp theo là giảng dạy Giáo Lý để đào tạo môn đệ Chúa Kitô. Việc đào tạo này nhắm đến những hướng sau đây:

Thứ nhất cần chú ý hơn đến nền tảng nhân bản, đào tạo lương tâm, đào tạo nhân sinh quan Kitô Giáo. Trong thư mục vụ 2008 bàn về giáo dục gia đình kitô giáo, HĐGMVN đã nêu lên những quản ngại về các khủng hoảng đang xảy ra nơi các gia đình. Như nạn bạo hành, ly dị, người già không có người chăm sóc, trẻ em bị bỏ rơi, nạn phá thai…và đáng buồn thay nhiều khi những sự việc đó cũng đang xảy ra nơi một số gia đình kitô hữu. Tất cả những tệ nạn trên nói lên thực tế con người sống thiếu những đức tính nhân bản cần thiết. Những đức tính này còn phải tựa trên nếp sống lành mạnh của người kitô hữu để tạo nên cuộc sống an bình hạnh phúc cho mình và cho mọi người.

Thứ đến giảng dạy Giáo Lý phải đào tạo học sinh và học viên đạt đức tin trưởng thành. Đức tin trưởng thành làm cho người tín hữu sống đức tin là truyền giáo trong môi trường của mình (TMV số 23-27).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Nữ họa sĩ lặng lẽ ngồi nơi phòng khách. Ngoài trời đang mưa rơi. Cô đưa mắt nhìn qua khung cửa kính rồi trong khoảnh khắc, ánh mắt cô dừng lại nơi bức tranh treo trên tường. Đó là bức tranh mà cô đã có lúc dành cả thời gian dài để vẽ về ngôi trường tiểu học cũ ngày xưa của mình. Cứ mỗi lần ngồi trầm tư nơi phòng khách, cô không thể không ngước nhìn bức tranh ấy. Nữ hoạ sĩ đã theo đuổi nghề vẽ một cách say mê rất nhiều năm, đã vẽ rất nhiều tác phẩm rồi, nhưng bức vẽ về trường tiểu học là bức vẽ duy nhất mà cô chọn để treo nơi phòng khách.

Cứ mỗi lần ngắm nhìn bức tranh, cô lại nhớ về cô giáo ngày xưa của mình. Nếu ngày xưa, cô giáo là người dạy dỗ cô những bài học đạo đức từ trong sách vở, thì ngày nay, cô vẫn còn may mắn được cô giáo ấy gửi trao những bài học đạo đức trong cuộc sống. Cô chợt nghĩ: “Những đứa học trò được may mắn như mình không nhiều lắm! Sau khi ra trường rồi, có mấy người học trò còn có dịp gặp gỡ thường xuyên với thầy cô cũ của mình đâu? Thầy cô không chỉ là một kho kiến thức uyên thâm, mà còn là một kho kinh nghiệm sống quý giá”.

Hai cô trò vẫn thường có dịp gặp nhau và nói chuyện với nhau về mọi thứ. Có chuyện gì băn khoăn, trăn trở trong cuộc sống, cô đều tâm sự với cô giáo ngày xưa của mình. Cách đây không lâu, cô đến thăm cô giáo ngày xưa của mình và hai cô trò đã có những điều trao đổi cùng vời nhau rất tuyệt vời:

- Cô ơi! Sao ngày xưa, cô không nói cho em biết trước về những điều xấu trong cuộc đời? Phần lớn những gì cô dạy em thì đều là những điều tốt đẹp không thôi!

- Bởi vì, không ai nỡ tàn phá những mầm non tươi đẹp nơi tâm hồn mỗi người cả, em ạ! Giáo dục tức là tiếp tục nuôi dưỡng những mầm non tươi đẹp ấy!

- Nhưng cô ơi! Cô biết không? Sự giáo dục từ tuổi nhỏ của cô đã làm cho em tin tưởng quá mãnh liệt vào những điều tốt đẹp trong cuộc đời, cho đến khi em gặp phải những mặt trái của nó thì em có cảm giác mình bị gục ngã!

- Và thực tế là em đã đứng dậy! Chắc chắn là như vậy! Em đang đứng dậy, bằng chứng là em vẫn giữ được những cảm xúc tươi đẹp, vẫn khát khao theo đuổi nghề vẽ mặc dù cuộc sống của em gặp không ít những chuyện đớn đau, phải không em?

- Vâng! Cô nói đúng, em vẫn vẽ được, em vẫn còn thích vẽ, nhưng em có cảm giác rằng hình như cảm xúc trong em đã khác trước rồi!

- Đúng đấy! Cảm xúc trong em có sự già dặn và trưởng thành hơn, vững vàng hơn, không còn tươi và yếu mềm như một cành cây non. Bây giờ, em như cái cây đã lớn, đứng vững vàng trước gió mưa của cuộc đời…!

Cô học trò đã cảm thấy bị cô giáo của mình thuyết phục rồi. Dù mình có khôn lớn thế nào, thì mình vẫn là cô học trò nhỏ trước sự sâu sắc của cô giáo mình mà thôi! Cô giáo bình thản nói tiếp:

- Em ạ! Những điều tốt đẹp trong cuộc sống thì không phải ai cũng nhìn thấy được! Còn những điều xấu nhan nhản thì bất kỳ ai cũng có thể nhìn thấy. Chính vì vậy, giáo dục ngay từ tuổi thơ phải giúp cho mỗi người có thể phát hiện, quý trọng, nâng niu và gìn giữ những điều tốt đẹp trong cuộc đời. Còn về những điều xấu trong xã hội, khi lớn lên, mỗi người đều tự biết! Em có nhớ không? Thật ra thì, trong những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa cô kể cho lớp mình nghe đấy, đều có sự đấu tranh giữa cái ác và cái thiện. Chỉ có điều là, tuổi thơ của các em ngày ấy vốn rất nhạy cảm với cái tốt, cái thiện, nên những điều tốt đẹp ấy dễ thấm sâu vào tâm hồn các em nhiều hơn mà thôi! Chẳng bao lâu nữa, em cũng sẽ trở thành một giáo viên dạy vẽ, chẳng lẽ em lại dạy cho học trò của mình biết sớm về những mặt trái của cuộc đời hay sao?

- Vâng! Cô nói đúng! Em sẽ phải dạy cho học trò của mình về những điều tốt đẹp trong cuộc sống! Những điều tốt đẹp ấy sẽ trở thành sức đề kháng cho các em sống vững vàng trước những bề trái của cuộc đời sau này!

Nếu ngày hôm nay bạn vẫn còn giữ được những phẩm chất tốt đẹp nhất của tâm hồn, bạn đừng quên cảm ơn những con người vĩ đại đã tạo sức đề kháng cho bạn ngay từ khi bạn còn thơ bé! Và trong cuộc sống, bất cứ ai cũng luôn phải có trách nhiệm tạo sức đề kháng cho chính mình! (Sức Đề Kháng Của Tâm Hồn- Tác Giả: Lại Thế Luyện)

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về chủ đề: Định hướng cho việc đào luyện tín hữu nên môn đệ Chúa Giêsu hôm nay:

1. Trước tiên phải đào luyện Giáo Lý Viên

- Vì Đạo có nhiều điều cao siêu mầu nhiệm, cần biết rõ để dẫn giải;

- Trình độ của tín hữu mở mang hơn trước, nên đòi được dẫn giải rõ ràng hơn, giải quyết được những ngờ vực, nên cần phải nâng cao trình độ Giáo Lý Viên

- Xã hội bị tục hoá, gây ảnh hưởng làm cho tâm hồn thời nay quên Đạo hay ít ra không còn tôn trọng Đạo, nên Giáo Lý Viên phải được đào luyện, không những để nên giáo sư, mà phải là nhà huấn luyện.

2. Cố gắng tổ chức có hệ thống nhằm nhận ra những khuyết điểm để sửa chữa, những ưu điểm để thực hiện. Đó là sống hiệp thông.

Về Sứ Vụ Dạy Giáo Lý, Thư Mục Vụ có hai định hướng: đào tạo người dạy Giáo Lý (Giáo Lý Viên), cũng như soạn Sách Giáo Lý cho dự tòng; còn đối với học viên thì giúp họ có được một đức tin trưởng thành, có một nền tảng nhân bản, sống theo lương tâm và nhân sinh Kitô giáo, để trở thành môn đệ của Chúa Kitô.

Vậy giáo dục nhân bản theo Kitô giáo là gì? Nhân bản (nhân là người; bản là gốc) là cái gốc, cái nền tảng của con người. Giáo dục nhân bản là giáo dục một người từ lúc chưa ý thức mình là người, trở thành một con người có nhân cách, có thái độ sống, có cách cư xử xứng với phẩm giá của một con người.

Thật vậy, con người từ lúc hình hành trong bụng mẹ cho đến khi chào đời, hoàn toàn trong tình trạng tốt lành, chỉ sống theo bản năng, chưa có ý thức, tri thức, dục vọng, chưa bị ảnh hưởng bởi điều tốt xấu của môi trường chung quanh, nên Nho giáo gọi “nhơn chi sơ, tính bản thiện” (người mới sinh, tính vốn lành).

Tuy cái gốc của con người là tốt lành, nhưng vì con người là một sinh vật có lý trí, có tăng trưởng, nên theo thời gian lớn lên, sẽ dần hình thành nhân cách theo ảnh hưởng của môi trường chung quanh, bắt đầu từ gia đình, đến trường học và xã hội. Cũng giống như “cây cam trồng ở bờ nam sông Hoài thì ra trái ngọt, nhưng đem trồng sang bờ bắc sông Hoài thì ra trái chua” (Ngụ ngôn Trung quốc). Cái gốc “thiện” của con người sẽ dần biến đổi hoặc tốt hơn mà cũng có thể xấu hơn và định hình theo năm tháng, gắn bó với con người suốt cuộc đời.

Từ đó xã hội đặt ra vấn đề giáo dục nhân bản nhằm giúp con người sống đúng với bản tính thiện của mình, cũng như đề ra những quy định về nhân quyền, đặt ra những biện pháp răn đe, để sửa chữa những lệch lạc, sai lầm.

Các tôn giáo đi xa hơn, khi nhìn nhận con người phát xuất từ Một Vị Thần Linh Tối Thượng (Ông Trời, Đấng Tạo Hoá, Đấng Tối Cao…) và vì được sinh ra từ thần linh, con người có thần tính, nên mới thiện hảo. Do đó, giáo dục nhân bản là làm sao cho con người trở nên hoàn thiện giống như thần linh.

Còn theo Nhân Bản Kitô giáo, thì nguồn gốc của con người (nhân bản) xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Vì thương yêu Chúa đã dựng nên con người, nên con người là biểu tượng, là hình ảnh của Tình Yêu Thiên Chúa. Nhân bản con người không tự nhiên mà có, mà là do Thiên Chúa – Đấng chí nhân, chí thánh – ban tặng khi dựng nên loài người.

Do vậy, giáo dục nhân bản Kitô giáo là dạy người ta biết sống yêu thương như Thiên Chúa là Tình Yêu đã dựng nên con người. Yêu thương ở đây có hai chiều kích vừa đối thần, quy hướng về Chúa: “Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí không ngươi” (Mt 22,37); lại vừa đối nhân, hướng về người khác, vì con người sống trong cộng đồng xã hội: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Như vậy, Nhân bản Kitô giáo bao hàm ý nghĩa sâu rộng hơn nhân bản xã hội.

Vì ai yêu thương, thì người đó ”được sinh ra từ Thiên Chúa và biết Thiên Chúa” (x.1Ga 4,7), nên có thể nói nhân bản Kitô giáo gồm tóm trong việc dạy người tín hữu biết sống yêu thương: yêu Chúa và yêu người.

Đức mến là nhân đức – ơn ban của Chúa giúp ta có khả năng đáp lại lòng yêu thương của Chúa – nhờ đó con người yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, con người sẽ yêu mến anh em như chính bản thân mình. Đây cũng chính là lệnh truyền và là Giới Luật mới của Chúa “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Đức Mến thúc đẩy ta sống con thảo với Cha trên trời, và là anh em của mọi người.

Để có thể “yêu tha nhân như chính mình” (x. Mt 22, 39), trước tiên chúng ta phải biết yêu chính mình một cách có trách nhiệm, để khỏi sa đà vào các đam mê xấu và hoàn thiện dần chính mình, nhờ việc năng thực hành các nhân đức và tránh điều xấu. Cần phải tôn trọng chính mình, mới có thể tôn trọng người.

Chẳng những yêu người như yêu mình, Chúa còn dạy chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (x. Ga 13, 34). Yêu anh em như Chúa đã hạ mình phục vụ và chịu chết vì chúng ta. Tình yêu anh em đã được Đức Giêsu nâng lên một tầm cao vượt bậc!

Như vậy, theo Kitô giáo, giáo dục nhân bản trước hết là giáo dục tình yêu, theo mẫu gương mà Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Yêu thương là chu toàn mọi Lề Luật!

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc dạy Giáo lý của mỗi người như thế nào?

  1. Là tín hữu, dầu vậy chúng ta có nhận ra bổn phận dạy Giáo Lý của mình không?
  2. Có ý định làm Giáo Lý Viên không?
  3. Có tự phụ cho mình thừa khả năng làm Giáo Lý Viên?
  4. Đạt kết quả, có nghĩ đó là công trình mình, mà không nhớ đó là ân huệ Chúa ban, chúng ta nghĩ thế nào?
  5. Tất cả đều là ơn Chúa!

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Mỗi sự việc hay sự vật trên đời này đều có mục đích và hướng tới của nó. Mục đích và hướng đi càng cao, thì càng phải được huấn luyện kỹ lưỡng hơn. Vậy chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện cho việc định hướng dạy giáo lý:

  1. Chúa phán: “Tiên vàn các con hãy tìm những sự cao siêu trên trời”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết định hướng cho lý trí, ý chí và cuộc đời mình tiến tới Nước thiên đàng.
  2. Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu, nhất là các giáo lý viên biết giúp nhau kết hợp với Chúa Kitô, đi trên con đường Chúa Kitô, mà đến cùng Chúa Cha hằng sống.
  3. Chúa phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu, biết định hướng việc dạy giáo lý theo gương mẫu mà Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ Chúa.

4. Chúa phán: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng. Thầy ở cùng các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn ý thức Chúa đang hiện diện trong mình, mà hằng luôn rao giảng Tin Mừng.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Xin cho chúng con được tràn đầy Thánh Thần Chúa, mà định hướng việc dạy giáo lý, hướng về những sự cao siêu trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

Có dịp đi thăm những người nguội lạnh, những người bệnh tật, những người xa nhà thờ lâu năm cùng với các nhóm tông đồ tôi thấy có điều gì đó mà từ trước đến nay tôi chưa từng được học. Cách nói chuyện với người bệnh, với người nguội lạnh của những người tông đồ giáo dân khác xa những gì tôi nghĩ trước đây. Tôi nghĩ những người xa nhà thờ lâu năm, những người bệnh thì phải nói cho họ biết về Chúa như thế nào, Chúa sâu sắc ra sao, Chúa quyền phép như thế nào theo kiểu thần học mà tôi được đào tạo tại ghế nhà trường. Vì như thế là củng cố đức tin cho họ. Nhưng thật sự không phải như thế. Chính cách nói gần gũi, thông cảm, chia sẻ… cách nói về Chúa đang hoạt động trong cuộc đời của họ như thế nào đã làm cho họ nhận ra Chúa thật là gần gũi, sống động, gắn liền với cuộc sống họ nên họ đã tin và quay trở lại với Chúa.

Do hoàn cảnh địa lý, kinh tế, chính trị… mà ngày nay đa số anh chị em giáo dân ở các vùng tạm chiếm, các vùng chiến tranh ác liệt xưa ít có dịp đi đến nhà thờ, ít có dịp tham dự vào các nghi lễ phụng vụ nên dần dần lòng đạo đức cũng xuống cấp một cách trầm trọng. Họ không biết phải sống thế nào cho hợp lẽ đạo, họ phải chịu ảnh hưởng của những người chung quanh… trong những hoàn cảnh như thế rất cần những người tông đồ giáo dân, người anh chị em giáo lý viên đến động viên an ủi, hướng dẫn họ sống theo đường lối của Chúa.

Tuy nhiên, những người làm công tác tông đồ giáo dân ở vùng Sông nước Miền Tây có những khả năng, kiến thức còn rất hạn chế. Nên trong cách khuyên bảo còn nhiều điều có vẻ như vụ lợi, xem Thiên Chúa như vị thần tài, theo Chúa chỉ để được ban ơn, theo Chúa thì được giàu có, sức khoẻ… Vì vậy, trong Sứ Vụ Dạy Giáo Lý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nêu lên định hướng cho việc dạy giáo lý là Đào tạo Giáo Lý Viên, những người cộng tác đắc lực để truyền giảng Tin mừng Chúa cách hiệu quả và đúng với đường hướng của Giáo hội.

Thánh Phaolô Tông đồ trong Thư Rôma ngài viết: “Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15;17). Vì thế, Giáo hội rất cần nhiều người cộng tác vào trong công việc rao giảng Tin mừng. Hơn nữa, người Việt nam rất trọng tình, nên việc có những người luôn bên cạnh quan tâm chia sẻ, đồng cảm thân thương với họ thì công việc rao giảng Tin mừng sẽ mang nhiều thành quả. Nhưng ai làm được công việc này một cách hiệu quả nếu không phải là những người tông đồ giáo dân, những người giáo lý viên.

Ngoài việc người tông đồ giáo dân được mời gọi đồng hành với anh chị em mình, Giáo hội còn mong muốn cho những người làm công tác tông đồ có những kiến thức hết sức cơ bản về giáo lý, kinh thánh, nhân bản, tri thức phổ thông… để có thể chia sẻ đức tin một cách đúng mực. Những điều ấy cần được các Giáo phận, các họ đạo quan tâm đào tạo nhân sự cho chính giáo phận, họ đạo mình.

Làm linh mục, tu sĩ thì được đào tạo qua các đại chủng viện, các nhà tập trong một khoảng thời gian nhất định, làm tông đồ giáo dân, làm giáo lý viên cũng cần được đào tạo một cách có hệ thống và được quan tâm đúng mực. Muốn có người cộng tác trong công cuộc truyền giáo của họ đạo thì chính Cha sở phải là người chọn lựa, quan tâm dạy bảo, nung đúc tinh thần, hướng dẫn đường huớng… không thể khoáng trắng cho một lớp, một khoá nào đó mà quên đi trách nhiệm chủ chăn của mình.

Cuối cùng, cũng phải nhìn nhận rằng “trăm năm trồng người” nên không thể ngày một ngày hai mà có được những người tông đồ, những thầy cô giáo lý viên thực thụ. Vì thế, việc đào tạo thường xuyên và xin ơn Chúa hướng dẫn nên luôn được thực hiện trong đường hướng mục vụ của họ đạo. Trong Tin mừng nhiều lần Chúa đã làm cho những cái không thể thành những cái có thể chỉ cần con người tin và cộng tác với Chúa. Trong công cuộc rao giảng tin mừng cũng vậy, những cái hèn kém, những cái thiếu sót, những sự cộng tác nhỏ nhoi của ta… nhưng khi ta tin tưởng vào Chúa, khi ta cộng tác với Chúa hết sức lực thì Chúa sẽ cho sinh hoa kết quả.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 54: SÁCH ĐANIEL (Đn)

1/ Nội dung sách như thế nào?

Nội dung sách gồm hai phần có tính khác nhau và một phụ lục:

a. Phần 1: thuật truyện về Đaniel và hai bạn của cậu phục vụ vua Nabucôđônôsor bên Babylon (chương 1-6). Cậu là một thiếu niên người xứ Giuđa bị lưu đày sang Babylon, được tuyển vào phục vụ trong triều vua Nabucôđônôsor. Cậu thông minh biết giải thích các điềm mộng, luôn trung thành với Đức Chúa, không chịu thờ lạy các thần của vua nên gặp nguy hiểm, nhưng được Thiên Chúa giải cứu.

b. Phần 2: Thị kiến do Đaniel kể (chương 7-12). Có 4 thị kiến ngụ ý nói: các quyền lực sự ác (tượng trưng bằng các con quái vật) sẽ dấy lên chống lại Thiên Chúa và dân của Ngài, nhưng sau cùng Thiên Chúa sẽ thắng.

c. Phụ lục: (chương 13-14), chỉ còn bằng tiếng Hy lạp: truyện bà Susanna, Đaniel và các tư tế thành Ben, Đaniel và con rồng.

2/ Niên đại quyển sách

Sách nầy có lẽ đã được biên soạn trong thời Antiôkhô Êpiphan khủng bố và trước khivua nầy từ trần, trước cả khi nhà Macabê khởi nghĩa chiến thắng, nghĩa là giữa các năm 167 và 164.

3/ Sứ điệp sách Đaniel bao gồm những gì?

Sứ điệp sách Đaniel gồm các điểm chính như sau:

Sách được dự định dùng vào việc nâng đỡ niềm tin và lòng hy vọng của người Do thái bị vua Antiôkhô Êpiphan bách hại.

Tác giả nhấn mạnh chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Ngài làm chủ vũ trụ và là Chúa trên mọi vua chúa. (7, 9).

Qua các biến cố Thiên Chúa vẫn hướng dẫn lịch sử về cùng đích là thiết lập Nước Thiên Chúa. (2, 44; 6, 27).

Sách còn đề cặp đến những cá nhân chết sẽ sống lại, tức mạc khải về sự sống đời sau để được thưởng hay bị phạt đời đời tùy theo tội phúc của người đó (12,1-3). (Trong Cư chỉ có sách Đaniel, Macabê và Khôn ngoan nói đến sự sống đời sau).

Lời Chúa: “Các hiền sĩ sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ dạy đàng công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời” (Đn 12, 3).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con đức tin và trí khôn để nhận ra Chúa. Xin cho chúng biết dùng trí khôn Chúa ban để ngày càng khám phá tình yêu của Chúa trong đời sống để luôn chúc tụng tôn vinh Chúa. Amen

SỐNG ĐẠO

THÁNH LỄ – BÍ TÍCH TÌNH YÊU TUYỆT ĐỐI

Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngôi Ba là Ngôi Tình Yêu, là Ngôi tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tại nội nơi bản tính Chúa.

Còn công trình tại ngoại, đúng là cả Ba Ngôi đều tác động. Chúa Ba Ngôi nhưng Chúa cũng duy nhất và dĩ nhiên, Chúa là Tình Yêu cho nên các tác động bên ngoài phải phát khởi do Tình Yêu và cũng phải kết cuộc do tình yêu.

Chúng ta cố gắng suy niệm để nhận thấy Chúa tạo dựng con người bởi tình yêu, do tình yêu như thế nào?

Tình yêu nơi Chúa Ba Ngôi đã có đối tượng rồi, nhưng ngoài bản thể Chúa, thì Chúa Tình Yêu, Chúa Ba Ngôi chưa có đối tượng, nên nói được, đòi Chúa tạo thành cho có đối tượng để yêu. Chúa đã tạo dựng con người có hữu thể đáng Chúa thương và cũng ban cho con người có khả năng đáp tình yêu Chúa. Chúa tạo nên con người không những ban cho có hữu thể, có thể xác, có cảm giác… mà lại ban cho có linh hồn, có hiểu biết và yêu thương: nghĩa là có được hình ảnh giống Chúa, có bản vị riêng biệt, có thể lân cận và tiếp xúc với Chúa. Đặc biệt hơn nữa là Chúa ban cho có cái sống, giống như sự sống của Chúa. Biết Chúa như Chúa tự biết, yêu Chúa như Chúa tự yêu, để phần nào đáng cho Chúa yêu và cũng phần nào con người có thể đáp lại tình yêu của Chúa.

Nhìn vào tạo dựng, chúng ta thấy được tình yêu của Chúa tuyệt vời.

Nhìn vào Thánh lễ, chúng ta có thể thấy Tình yêu của Chúa tuyệt đối.

Về phương diện đền tội, chết trên Thánh giá không thể có việc nào có hiệu lực hơn được.

Việc phượng thờ, cao trỗi nhất là trọn hiến ý chí, thân thể, tác động… nghĩa là toàn thân cho Chúa.

Không dấu chỉ nào tỏ tình yêu cao siêu hơn là chết vì yêu.

Bí tích Thánh Thể – Bí tích Tình yêu tuyệt đối!

Việc Tuyệt Đối ?

Dưới đời này vẫn có nhiều công trình kể được là vĩ đại như xây Kim Tự Tháp, đắp Vạn Lý Trường Thành, cất nhà chọc trời, hoặc những công trình khám phá những kỳ bí của vũ trụ như tìm biết những hành tinh, vật cực lớn, hay tìm biết vật cực bé như vi trùng chẳng hạn.

Nhưng chúng ta có bao giờ nghĩ: con người đơn thường hèn kém mà có thể thực hiện công việc không những vĩ đại mà có thể nói tuyệt đối nữa.

Chúng ta hãy cố gắng nhìn sâu vào Thánh Lễ để nhận thấy đó là một công trình vĩ đại, tuyệt vời, nói được là tuyệt đối nữa.

Chúng ta biết Thánh lễ là một việc tôn thờ, vật thọ tạo tôn thờ Đấng Tạo Dựng. Đối với Chúa thì việc dùng những vật thọ tạo, việc tìm biết vật thọ tạo thì làm sao sánh được với việc tôn thờ liên kết với Đấng Tạo Dựng.

Để tỏ lòng tôn thờ thì không việc nào cao trọng hơn việc cúng kiến. Cúng kiến là dâng lên Chúa lễ vật để tỏ lòng thờ phượng nghĩa là nhìn nhận Thiên Chúa cao cả tuyệt đối.

“Con người vì u tối, không nhận rõ Thiên Chúa.. cho nên lầm lạc tôn thờ hình thân, hình thú, linh vật… và ngây ngô cúng kiến”.

Vật lễ dâng hiến trong Thánh lễ đúng là tuyệt đối.

Đồ cúng dân chúng thường dùng là hoa quả, là vàng hương, hay cả thú vật không thể bằng được những chi thuộc con người (vì dầu sao con người vẫn là vua, là chủ của vũ trụ). Cái chi thuộc chính bản tình của vua thì phải kể là có giá trị hơn cả vương quốc.

Vật lễ trong Thánh lễ là đời khổ nhọc và chính đời sống kết hợp với nhân tính của Chúa (nhờ Người, với Người và trong Người) con người được kết hợp với Chúa Kitô và vật lễ và nhờ Chúa Kitô dâng lên cho Chúa.

Thánh lễ do chính con người dưng mà đúng thật là Chúa dâng.

Do đó, có thể quả quyết việc dâng Thánh lễ là một công trình tuyệt đối.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- TỔ CHỨC NỘI BỘ CỦA GIÁO PHẬN tt–

I. TỔ CHỨC GIÁO PHỦ

1. Ngành Tài Chánh (x. Nguyệt San Tháng 5)
a. Hội đồng Tài chánh
b. Quản lý Giáo phận

2. Ngành Hành Chánh
a. Tổng Đại Diện (x. Nguyệt San Tháng 6)
b. Các Đại Diện Giám mục (nt)
c. Chưởng ấn và Lục sự

Chưởng ấn (Cancellarius) và Lục sự (Notarius - công chứng viên)

“Tại mỗi toà giám mục, phải đặt một chưởng ấn mà nhiệm vụ chính là soạn thảo, gửi và lưu trữ các văn thư trong văn khố của toà giám mục, nếu luật địa phương không ấn định thể khác” (đ.482§1)

Những công việc hành chánh tại giáo phủ rất quan trọng. Vì vậy, điều 482§1 đòi buộc Giám mục Giáo phận phải bổ nhiệm một Chưởng ấn để soạn thảo, gửi các văn thư của Giám mục trong việc điều hành Giáo phận (x.đ.469); lưu giữ các văn thư, tài liệu của Giáo phận trong văn khố (x.đ.482,486 tt); ngoài ra, chữ ký của Chưởng ấn mang tính pháp lý của văn bản khi được các Đấng Bản Quyền ban hành (x.đ.474).

Tên gọi của Chưởng ấn được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau, tuỳ vào mỗi Giáo phận: có Giáo phận gọi là Chưởng ấn, có Giáo phận gọi là tổng thư ký, cũng có Giáo phận gọi là chánh văn phòng. Tên gọi nào cũng đuợc, miễn là có người được bổ nhiệm để thi hành những vai trò chính yếu mà luật phổ quát đã đòi hỏi.

Trong khi Giáo luật buộc Giám mục Giáo phận phải đặt Chưởng ấn trong mỗi Toà giám mục, thì vai trò Lục sự chỉ là một gợi ý: “ngoài chưởng ấn, có thể đặt thêm những công chứng viên khác, chữ viết và chữ ký của họ có giá trị chứng thực đối với tất cả các văn thư, hoặc đối với các văn thư toà án mà thôi, hoặc đối với các án từ của một vụ kiện hay một công việc nhất định” (đ.483). Trước đó điều 482§3 quy định: “chưởng ấn và phó chưởng ấn đương nhiên là công chứng viên và thư ký của toà giám mục”. Vì vậy, nếu Chưởng ấn đảm đương công việc lục sự được thì vai trò Lục sự sẽ không cần thiết nữa.

Theo tinh thần của điều 482§2: “nếu xét thấy cần, có thể đặt thêm phụ tá cho chưởng ấn, với chức danh phó Chưởng ấn”, trong giáo phận của chúng ta, văn phòng giáo phủ có một Chưởng ấn và hai Phó Chưởng ấn. Các ngài đảm đương những công việc mà điều 484 cũng như những khoản luật liên hệ của Bộ Giáo Luật và luật địa phương đề ra:

soạn thảo các văn thư và tài liệu liên quan tới các sắc lệnh, các quy định, các nghĩa vụ hoặc các văn kiện khác cần đến sự can thiệp của họ;

lập biên bản cách trung thực về những việc đã tiến hành;

cung cấp các văn thư và tài liệu được rút ra từ sổ cái cho những người xin cách hợp lệ, miễn là giữ những điều phải giữ mà luật quy định về văn khố, và chứng thực các bản sao là phù hợp với bản chính.

thông tin liên lạc trong giáo phận qua internet và các công việc khác;

lập biên bản việc nhận chức của: Giám mục Giáo phận (x.đ.382§3); Giám mục phó và phụ tá (x.đ.404§1,2 và 3);

lập một bản thống kê hay một thư mục về tất cả các tài liệu có trong văn khố, với một bản tóm lược của mỗi tài liệu đó (x.đ.486§3);

dĩ nhiên, nếu không có lệnh của thẩm phán, Chưởng ấn không được phép cấp phát bản sao những án từ tư pháp và những tài liệu thu tập trong các vụ án (x.đ.1475§2).

Văn khố (archivum)

Như đã nói trên, một trong những nhiệm vụ được luật trao phó cho Chưởng ấn là lưu giữ các văn kiện vào văn khố của Giáo phủ (x.đ.482§1). Văn khố của Giáo phủ gồm có ba loại: văn khố chung, văn khố mật và văn khố lịch sử. Lần lượt chúng ta xem từng loại văn khố nầy:

1. Văn khố chung (đ.486-48 )

Văn khố chung là văn khố lưu trử các văn kiện, tài liệu liên hệ đến Giáo phận và Giáo xứ. Ngoài những giấy tờ liên quan tới mọi công việc thiêng liêng hay hoàn cảnh của Giáo phận, văn khố Giáo phận còn lưu giữ bản sao của các văn kiện thuộc nhà thờ chính toà, các hợp đoàn, các giáo xứ, các nhà thờ trong lãnh thổ của Giáo phận. Đây là việc làm có tính cách an toàn, phòng khi thiên tai hoả hoạn…các tài liệu không bị thất lạc hoàn toàn (x.đ.486§1-2).

Những tài liệu khác cũng thường được lưu giữ tại văn khố chung: danh sách các tiến chức (x.đ.1053§1), phép chuẩn hình thức giáo luật cho hôn phối (x.đ.1121§3) và danh sách các em được phép thêm sức (x.đ.895).

Văn khố nầy luôn luôn được khoá, chỉ có Giám mục Giáo phận và Chưởng ấn có chìa khoá của nó mà thôi (x.đ.487§1); những người liên hệ có quyền xin nhận bản sao tài liệu có liên hệ tới mình, nếu tài liệu đó tự bản chất là công khai (x.đ. 487§2).

2. Văn khố mật (đ.489-490)

Văn khố mật không nhất thiết phải lập thành một phòng riêng như hai loại văn khố kia, có thể chỉ là một cái tủ hay một cái hộc có khoá kỹ lưỡng, đặt bên trong văn khố chung, nhưng không để cho di chuyển cách dễ dàng (x.đ.489§1).

Các tài liệu được gọi là mật là do bản chất của sự việc hoặc do qui định của luật. Nói khác đi, nó là nơi lưu giữ tất cả những văn kiện nào cần giữ bí mật thì được để vào đây. Điều nầy do chính Giám mục Giáo phận xác định. Cách thông thường các tài liệu đó là:

  1. Các vụ kiện hình sự liên quan tới phong hoá (x.đ.1719).
  2. Các vụ hôn phối kín (x.đ.1130-1133).
  3. Các chuẩn miễn liên hệ đến toà trong không bí tích do bộ Xá giải ban (x.đ.1082).
  4. Các văn thư cảnh cáo hay khiển trách có tính biện pháp hình sự (x.đ.1339§3).
  5. Các án từ điều tra và những sắc lệnh của Đấng Bản Quyền để bắt đầu hay kết thúc cuộc điều tra (x.đ.1719).
  6. Những ghi chú có tính cách mật riêng về chủng sinh và linh mục…mà không nên để lộ ra vì thanh danh của họ.
  7. Danh sách các ứng viên có khả năng làm giám mục (x.đ.377§2).
  8. Danh sách những người đứng ra quản trị Giáo phận khi cản toà (x.đ.413§1)

Chỉ có một mình Giám mục Giáo phận có chìa khoá của văn khố nầy (x.đ.490§1); trong thời gian trống toà, nếu thật sự cần thiết thì chỉ có Giám quản Giáo phận đích thân mở văn khố (x.đ. 490§2); dĩ nhiên, không được lấy tài liệu ra khỏi văn khố mật dù chỉ một thời gian ngắn (x.đ.490§3).

3. Văn khố lịch sử (đ. 491)

Văn khố lịch sử là văn khố lưu giữ những tài liệu cổ xưa. Theo nguyên tắc tổ chức văn khố, thì những tài liệu nào thường hay sử dụng vào công việc hành chánh thì được giữ ở văn khố chung; còn những tài liệu nào ít sử dụng thì cất vào trong văn khố lịch sử. Cách riêng, những tài liệu nào đã được hai mươi lăm năm hoặc năm mươi năm tuổi thì đặt nó vào văn khố nầy (communicationes, 1982, tr.214).

Trong mỗi Giáo phận đều có luật riêng để quản trị văn khố, chẳng hạn việc xin tham khảo, mượn tài liệu, xin bản sao tài liệu…nhưng phải hết sức chú ý đến các điều 487 và 488 về việc ra vào văn khố: chỉ có Giám mục và Chưởng ấn mới được giữ chìa khóa của văn khố; cần có phép của Giám mục, hoặc phép của Giám đốc giáo phủ cùng với Chưởng ấn, thì mới được vào văn khố hoặc rút ra một tài liệu nào ở văn khố chung và văn khố lịch sử.

TRANG LINH MỤC

Nhịp Cầu Yêu Thương

Cùng với cầu Rạch Miễu, vào ngày 24.4 cầu Cần Thơ và Hàm Luông đã chính thức thông xe, đáp ứng niềm mơ ước của bao người, góp phần phát triển kinh tế và xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn những cây cầu nối đôi bờ với những cánh tay vươn cao giữa bầu trời xanh ngát hy vọng. Tôi mong sao các giáo lý viên trở thành những nhịp cầu yêu thương dẫn đưa các em đến với Chúa Giêsu và giới thiệu Chúa Giêsu cho các em.

Để trở thành nhịp cầu yêu thương giáo lý viên phải là người yêu mến Chúa Kytô trước đã. Bởi lẽ khi dạy giáo lý là chia sẻ kinh nghiệm sống, làm cho người học yêu mến Chúa Giêsu. Lòng yêu mến như ngọn lửa có cháy lên thì lan rất mạnh và rất xa, không cháy thì chỉ nguội lạnh như đống tro tàn. Thiếu lòng yêu mến giáo lý viên sẽ thành máy móc làm cho chiếu lệ cho hết giờ. Lòng yêu mến phải được bồi dưỡng qua các giờ kinh, Thánh lễ, chia sẻ Lời Chúa, viếng Chúa… Có lòng yêu mến giáo lý viên sẽ say mê dạy giáo lý, say mê nói về Chúa. Người giáo lý viên có thể nói như Thánh Phaolô : Tình yêu Chúa Kytô thúc bách tôi (2cor 5,14).

Với lòng yêu mến người giáo lý viên sẽ khao khát hiểu biết về Chúa Kytô. Sự hiểu biết này không phải do nghiên cứu lý thuyết, nhưng do ơn Chúa soi sáng trí khôn và với một tâm hồn khiêm nhường rộng mở, sẵn sàng đón nhận. Sự hiểu biết về Chúa sẽ được tăng lên qua những giờ cầu nguyện, qua những cảm nghiệm trong cuộc sống và qua việc không ngừng học và dạy giáo lý.

Khi đã có lòng yêu mến và sự hiểu biết về Chúa, người giáo lý viên không thể không chia sẻ cho người khác với trọn vẹn trái tim của mình. Như Philipphê , sau khi đã gặp Đức Kytô, đi tìm Nathanael để giới thiệu. Như Anrê, sau một ngày ở bên Chúa đã dắt em của mình là Phêrô đến gặp Chúa. Hay như Đức Maria sau khi cưu mang Chúa Giêsu đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria và bà Isave.

Việc huấn luyện giáo lý viên là một trong những ưu tư hàng đầu của Giáo hội. Đã có những lớp huấn luyện và nâng cao trình độ giáo lý cho giáo lý viên và quới chức. Nhưng để có những giáo lý viên yêu mến và say mê Đức Kytô tạo nên những nhịp cầu yêu thương nối kết con người với Thiên Chúa đem lại sự phát triển cho Giáo hội đòi hỏi chúng ta phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa.

TRANG TU SĨ

Ngay từ những ngày đầu của Giáo hội sơ khai, việc rao giảng là trung tâm điểm đời sống của mọi Kitô hữu. Chính vì vậy, đã hơn hai ngàn năm Giáo Hội luôn đứng vững và lan rộng dù đã trải qua nhiều khó khăn, bách hại. Qua đó cho thấy niềm tin của người Kitô hữu được xây dựng trên nền tảng cộng đoàn là Giáo Hội, mà việc dạy giáo lý là một trong những điều quan trọng để giữ vững và phát triển niềm tin đó. Ngày nay, Hội Thánh Chúa lan rộng khắp nơi, từ những đất nước văn minh đến những nơi nghèo khó, từ thành phố đến vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh. Nhưng tất cả đều được truyền từ thế hệ đi trước với nhiều cách thức khác nhau. Tuy vậy mọi người đều sống đạo rất tốt, rất đạo đức.

Nếu nói đến Họ Đạo nhà quê, thì Họ Đạo tôi được coi là nơi “khỉ ho - cò gáy”, Cha sở là một linh mục lớn tuổi đã trên bảy mươi. Để được Rước Lễ hay Thêm Sức – Bao Đồng thì phải thuộc làu giáo lý với những câu hỏi - thưa.

Tôi còn nhớ rất rõ, năm tôi được Rước Lễ Lần Đầu, tôi được thưởng một xâu chuỗi có năm màu vì điểm thi giáo lý của tôi đạt loại giỏi. Hai năm sau tôi chuẩn bị Thêm Sức cũng học lại quyển giáo lý hỏi thưa đó, tôi như ôn lại bài cũ nên học rất nhẹ nhàng và mau lẹ. Rồi năm tôi Rước Lễ Bao Đồng, Họ Đạo tôi có được thêm Cha Phó, Cha dạy chúng tôi cũng cùng quyển giáo lý ấy nhưng với phương pháp lồng vào những bài giáo lý là những câu truyện Kinh Thánh rất hấp dẫn, dễ hiểu, đặc biệt là ngắn gọn và dễ nhớ. Song song đó, Cha cũng đào luyện một lực lượng giáo lý viên để phụ lực với quý cha dạy giáo lý trong Họ Đạo. Nói là “lực lượng” cho oai chứ thật sự chỉ khoảng trên dưới mười người, trong đó tôi cũng được “trúng tuyển”. Lần đầu tiên trong Họ Đạo tôi có giáo lý viên, vì từ trước tới nay chỉ có Cha, Thầy và Dì dạy giáo lý mà thôi. Mỗi tuần hai lần chúng tôi đến học với Cha. Bắt đầu từ Cựu Ước đến Tân Ước, Cha cho đọc qua và cắt nghĩa tỉ mỉ từng đoạn, từng câu . . . làm tôi thích thú lắng nghe, phải công nhận là cách truyền đạt của Cha rất thu hút người nghe, người lớn cũng như trẻ em đều thích. Nhờ vậy, sau này tôi có dip đọc lại toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước mới cảm thấy hay và hiểu rõ hơn.

Bên cạnh việc kết hợp bài giáo lý với những mẫu truyện Kinh Thánh hay, Cha còn dạy chúng tôi phương pháp để soạn và dạy một bài giáo lý, nghệ thuật nói chuyện trước đám đông, cách xen các bài hát sinh hoạt trong giờ giáo lý để giúp thư giãn những lúc học mệt, căng thẳng . . . Tất cả đều phải có phương pháp và phải được thực tập trước khi chính thức nhận lớp dạy. Thật tình tôi sợ nhất là phải đứng trước đám đông, càng run hơn nữa khi biết ngồi phía dưới không phải là các em nhỏ mà là … “Sư Phụ”. Cố gắng giữ bình tĩnh bằng cách hít sâu thở đều theo phương pháp Cha dạy, những tôi vẫn …run như thường. Cuối cùng tôi cũng đã vượt thắng được chính mình nhờ sự động viện của Cha và các anh chị giáo lý viên trong nhóm. Đặc biệt nhờ soạn bài kỹ và có phương pháp nên tôi tự tin hơn khi đứng trước các em. Từ đó Họ Đạo có thêm nhiều hoạt động nữa thu hút các em thích tới Nhà Thờ hơn, làm thức dậy trong tâm hồn của những người lớn tinh thần trách nhiệm cùng góp công góp sức cho công việc Nhà Chúa.

Giờ đây tôi đã là một nữ tu, những điều mà tôi đã học được từ Cha nơi Họ Đạo nghèo ngày nào đã giúp tôi rất nhiều trong công tác mục vụ tông đồ. Và tôi nghiệm ra một điều: để làm một công việc nào đó muốn có kết quả tốt thì đòi buộc người ta phải có thời gian cho sự chuẩn bị kỹ, chu đáo với kiến thức và kinh nghiệm làm việc phải có. Hơn thế nữa, việc dạy giáo lý là công việc quan trọng có định hướng nên cần thời gian cho sự chuẩn bị chu đáo, phải có kiến thức, có kinh nghiệm và nhất là việc giảng dạy không thể giới hạn ở việc học thuộc lòng nhưng quan trọng là hiểu và sống niềm tin của mình dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà Lời Chúa phải là trung tâm điểm của việc giảng dạy.

Một nữ tu

Giáo Hội Đang Cần Gì?

Cầm trên tay lá thư của một người bạn, một thiện nguyện viên giáo lý, đang tham gia chương trình giáo lý hè tại một giáo xứ của Tổng Giáo Phận Sài Gòn, tôi miên man suy nghĩ về tương lai sắp tới của Giáo Hội trước những khó khăn và thách đố trong việc “chuyển giao đức tin” cho thời đại hiện nay, một thời đại đang bị ảnh hưởng mạnh bởi sự tục hóa đa dạng của các nền văn minh Âu – Mỹ.

Trong thư, bạn tôi cho biết: ngày nay, việc dạy giáo lý ở thành phố xem ra không dễ chút nào cho một giáo lý viên không có trình độ trí thức cao và chưa được chuẩn bị kỹ về kiến thức thần học cần thiết. Hơn nữa, người giáo lý viên phải hết sức nhạy bén và sáng tạo trong khi tiếp xúc với những người trẻ năng động nhưng cũng không kém phần phức tạp về tâm lý, tình cảm và nhất là vấn đề liên quan đến đức tin. Ngày nay, người trẻ được chuẩn bị chu đáo để trở thành những chuyên gia kinh tế tài giỏi, có khả năng bằng mọi cách làm ra nhiều tiền, có khi bất chấp tiếng nói lương tâm; thành những ông bà chủ sang trọng, có thế giá và được người ta nể nang, phục vụ thay vì là những con người biết hy sinh cho lợi ích người khác. Chủ nghĩa tự do, tinh thần hưởng thụ đang ăn sâu vào tâm hồn người trẻ dưới nhiều hình thức, làm xói mòn các giá trị đạo đức nhân bản vốn là truyền thống của người Việt Nam… Những điều mắt thấy tai nghe, trái đạo lý vẫn xảy ra hàng ngày với sự cộng tác mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông càng kích thích tính tò mò nơi người trẻ thay vì giúp “phòng bệnh”. “Thử một lần cho biết!” Đó là ý nghĩ nơi một số đông người trẻ và gây ra không biết bao nhiêu là tệ nạn trong gia đình và xã hội: hút chích, rượu chè, sống thử… rồi dẫn đến nạn trộm cướp, giết người, phá thai, bạo hành, ly dị…

Dù là ở một họ đạo vùng quê, không có nhiều vấn đề phức tạp như ở tỉnh thành, nhưng tôi cảm nghiệm được những khó khăn của bạn tôi trong trách nhiệm và một giáo lý viên. Qua kinh nghiệm dạy giáo lý cho các em nhỏ, tôi cũng đã thấy được sự thay đổi của xã hội hôm nay trong việc giáo dục và đào tạo thành phần tương lai của đất nước. Ở trường, các em được học rất nhiều nhưng kiến thức nhân bản thì xem ra còn thiếu nhiều lắm! Lối suy nghĩ và hành xử của các em đối với nhau và người chung quanh ngày càng khác xa với những thế hệ vài năm trước đây. Học giáo lý đối với các em đã không còn là một điều hấp dẫn nữa mà gần như một sự bắt buộc…

Nhìn lại, trong nhiều năm qua, cùng với sự quan tâm của Giáo Hội Việt Nam, Giáo Phận nhà đã tổ chức những khóa đào tạo giáo lý viên cho các họ đạo. Với nhiều thành phần và hình thức tổ chức khác nhau, các Cha đã từng bước cho “ra lò” những thiện nguyện viên giáo lý có khả năng, phần nào đáp ứng nhu cầu truyền giáo trong cánh đồng giáo phận Vĩnh Long. Thật là một điều đáng mừng! Bản thân tôi cũng may mắn được học hỏi một khoá giáo lý như vậy. Sau một thời gian, tôi đã khám phá ra nhiều kinh nghiệm khác nhau từ những nơi tôi được sai đến trong giáo phận. Là một người dạy giáo lý trong hoàn cảnh hiện nay, tôi thấy mình cần phải chú ý hơn trong việc đào tạo các em trở thành những Kitô hữu có nhân bản hơn giữa một xã hội đang bị khủng hoảng gia đình trầm trọng; thành những người có lương tâm ngay thẳng giữa một thế giới gian dối và lọc lừa; thành những người trẻ có cái nhìn tốt đẹp về cuộc sống theo tinh thần kitô giáo.

Các bạn giáo lý viên rất thân mến!

Đứng trước thử thách của Giáo Hội, chúng ta lo lắng nhưng không thất vọng. Can đảm “sống những gì mình dạy và dạy những gì mình sống” là phương cách tốt nhất để chúng ta thể hiện công tác truyền giáo của mình. Giáo Hội đang rất cần những cộng tác viên giáo lý có tinh thần yêu mến và phục vụ hết mình như thế, để việc đào tạo một thế hệ trưởng thành hơn trong đức tin đạt kết quả như ý Chúa. Chắc các bạn cũng đống ý với tôi chứ?

Một nữ tu

TRANG SỐNG ƠN GỌI

Hướng tới một đức tin trưởng thành và toàn vẹn là định hướng chung của việc dạy giáo lý tại Việt Nam hôm nay. Việc dạy giáo lý nhắm đến đào tạo người kitô hữu trở nên người môn đệ trung tín, hơn là chỉ nhằm lãnh nhận các Bí tích. Nhưng để có thể làm được điều này, mỗi Giáo xứ, mỗi Giáo phận cần phải đào tạo nhân sự dạy giáo lý (GLV). Nói đến việc dạy giáo lý và nhân sự tôi nghĩ ngay đến việc gieo mầm ơn gọi trong những giờ giáo lý tại các Giáo xứ. Lý do là vì:

Ơn gọi trong từng bậc sống đều là ân ban của Thiên Chúa. Thế nhưng, Thiên Chúa không gọi trực tiếp mà qua trung gian. Nếu chúng ta không “xung phong” làm trung gian cho Chúa thì làm sao tiếng gọi của Chúa đến được với những người Chúa muốn gọi. Trong việc dạy giáo lý hình như chúng ta chỉ quan tâm đến phần lý thuyết, còn việc sống và thực hành đức tin thì chúng ta ít nhắc đến. Sống đức tin là sống ơn gọi. Định hướng ơn gọi ngay khi các em còn trong độ tuổi giáo lý sẽ giúp các em lắng nghe được tiếng gọi Chúa dành cho mình.

Do hoàn cảnh của xã hội, ngày nay chúng ta không còn Tiểu Chủng Viện. Việc gieo mầm ơn gọi cần thiết nhất là ở gia đình. Chính người cha người mẹ phải trở thành giáo lý viên của con cái. Có lợi thế biết rõ con cái của mình, cha mẹ dễ hướng dẫn con cái nhận ra ơn gọi (hướng dẫn chứ không phải ép con cái theo ý mình). Nhiều bậc cha mẹ chưa ý thức hoặc không biết bổn phận và trách nhiệm của mình. Cho nên, ngay từ khi họ học giáo lý hôn nhân, phải hướng dẫn họ điều này. Muốn có những quả thơm ngon, chúng ta phải chấp nhận trồng và chăm bón cho hạt nảy mầm và tươi tốt. Thời gian có lâu đó nhưng nếu chúng ta không bắt đầu thì làm sao mong có quả ngon.

Một khi các em ý thức ơn gọi riêng của mình từ gia đình thì Giáo xứ là môi trường để ơn gọi phát triển. Đây phải là nơi các em thấy rõ hơn ơn gọi của mình. Muốn như thế, Giáo xứ phải có một chương trình dành riêng cho các em. Không phải những em dự tu là những em để sai vặt trong nhà thờ hay nhà dì. Phải có một chương trình giáo dục cụ thể theo từng hoàn cảnh của Giáo xứ để giúp các em rõ việc sống ơn gọi của mình. Đừng để mầm non ơn gọi mới bắt đầu đã bị mai một bởi sự lơ là của những người có trách nhiệm.

Từ Giáo xứ phải giúp cho người người chuẩn bị lập gia đình biết rõ bổn phận và trách nhiệm giáo dục con cái của họ. Để chính họ khơi mầm ơn gọi cho con cái của họ. Giáo xứ lại tiếp tục đồng hành với gia đình trong việc vun trồng ơn gọi qua các giờ giáo lý; đặc biệt là những lớp dự tu. Có như thế tiếng gọi của Chúa mới được lắng nghe và đáp trả.

Đừng mong mình là người nhận trái thơm ơn gọi. Hãy cứ trồng, hãy cứ vun tưới còn kết quả là của Chúa. Nhưng chúng ta hãy tin chắc một điều những việc làm của chúng ta là góp phần vào việc phát triển những thợ gặt lành nghề trong cách đồng truyền giáo của Đức Kitô.

TRANG THIẾU NHI

Mưa Dầm Thấm Lâu

Lặp lại nhiều lần là vua của trí nhớ. Đó là lời kinh nghiêm quý báu xưa nay chưa biết đến lỗi thời. Trước đây, mùa hè của các bạn trẻ  là mùa của giải trí và vui chơi. Mùa hè  của bạn trẻ ngày nay là mùa phải vất vả  với việc học hành và thi cử. Thời gian nghỉ hè xem ra rất ít để nhường lại cho những việc làm của ai làm phận nhỏ: học nghề, học giáo lý, học năng khiếu, học chuyên môn…

Nơi các nhà thờ cũng tranh thủ ráo riết cho các bạn trẻ “ngốn” hết những câu giáo lý hỏi thưa để lãnh nhận Bí tích. Thật đáng ghi nhận cho những cố gắng của người dạy và học giáo lý vì phải chạy đua tốc độ với thời gian. Nhưng sợ rằng những cố gắng đó mang tính chấp vá, tam thời hơn là đào luyện các em thành một con người ngoan đạo và sống đức tin. Đức tin cần bám rễ sâu nhưng khâu vun xới mang tính vội vàng thì phải chăng ta đang cất công đi tìm trái vải nơi bụi gai. Đây là một thực tế còn nan giải nơi các họ đạo.

Nếu ai hỏi tôi: Bạn có khao khát gì trong việc dạy và học giáo lý? Tôi sẽ trả lời: Hãy dạy Giáo lý thường xuyên chứ không phải đợi đến hè. Dẫu một tuần một ngày thôi xem ra cũng quá đủ. Vì mưa dầm thấm lâu còn hơn mưa rào rồi nhiều ngày nắng cháy khô hạn. Học Giáo lý không chỉ để hiểu biết những gì phải giữ phải tin nhưng còn phải nhập cuộc để sống theo những gì đức tin đòi hỏi. Thời gian học Giáo lý cũng là thời gian đào luyện con người biết sống thế nào xứng đáng là con cái của Chúa. Do đó cần có những “trận mưa dầm” liên tục trong cuộc sống để đào luyện các em.

Mưa dầm kiến thức giáo lý: Các em cần có thời gian dài để lĩnh hội cách đầy đủ nội dung Giáo lý. Kiến thức có nhiều không do nhồi nhét một sớm một chiều nhưng do biết tích góp trong nhiều ngày tháng. Điều đã học mà không biết không hiểu thì nó vẫn còn thuộc về sách vỡ, nợ thầy trả hết cho thầy không lợi ích chi. Điều học được và tiêu hoá được nó, kiến thức đó giờ mới là của mình. Điều đó mới giúp ích nhiều cho bản thân.

Mưa  dầm thói quen đạo đức: Thật thiếu sót nếu chỉ tập trung hướng dẫn các em về kiến thức mà không tập các em có thói quen sống đạo. Thiết nghĩ các em từng bước phải biết đọc kinh, thưa kinh; biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể trong việc đi lễ hằng ngày; nhắc nhở các em năng lãnh nhận Bí tích Hoà giải; tập các em biết cầu nguyện. Giúp các em hiểu rằng cầu nguyện không phải là việc làm thêm của những kẻ rỗi nhan, hay của những người già cả. Nhưng cầu nguyện là một việc làm phải có của người tín hữu để chúc tụng, tạ ơn, xin lỗi hay xin ơn lành cùng Thiên Chúa. Nhờ cầu nguyện mà các em được gắn kết với Thiên Chúa cách mật thiết sâu xa.

Mưa  dầm cách sống chứng nhân: Không phải đến tuổi trưởng thành người ta mới có thể làm chứng. Con người bất luận ở độ tuổi nào, bất luận là ai, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng được mời gọi làm chứng nhân cho Chúa. Các em có khả năng làm chứng cho Chúa từ khi mới biết Người. Những việc làm bác ái nho nhỏ, những hy sinh thường ngày trong gia đình, những cách ứng xử lịch sự với nhau trong lớp học đó là những dấu chỉ tình thương giúp các em hình thành cách sống chứng nhân cho Chúa. Những lời khuyến khích, động viên các em làm điều tốt trong các buổi học sẽ không bao giờ là thừa thải. 

Mưa dầm nhiều ngày kiến người ta dễ buồn chán, đào tạo lâu dài cũng dễ làm ta ngán ngẫm buông xuôi. Tính kiên nhẫn và hiền lành giúp con người vượt qua trở ngại. Thiên tài chẳng qua là sự kiên nhẫn lâu dài. Ước mong mọi người sớm trở thành những bậc thiên tài trong đời sống đức tin.

TRANG GIỚI TRẺ

Một nhóm đông người sẽ chỉ là một đám đông ô hợp khi nhóm người đó không có tổ chức, không có định hướng. Giáo hội Công giáo chúng ta được hình thành từ nhiều người ở nhiều nơi, nhiều thời kỳ và nhiều ngôn ngữ khác nhau. Do đó, muốn được duy trì bền vững cần được tổ chức và có định hướng rõ rệt. Dĩ nhiên, tổ chức và định hướng này dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Cách riêng, nơi Giáo hội Công giáo Việt nam so với thời gian trước đây việc dạy và học giáo lý có nhiều thuận lợi hơn. Việc dạy giáo lý là một công việc quan trọng cho đời sống đức tin của người tín hữu. Đây là việc làm cần phải được định hướng lại trong hoàn cảnh thuận lợi hiện nay.

Một công việc quan trọng, to lớn như thế không thể nào được thực hiện cùng một lúc. Bởi thế, trong việc định hướng này, điều cần quan tâm là làm sao cho từng giới, từng tầng lớp, và từng lứa tuổi có những người nồng cốt được huấn luyện giáo lý cho thật vững vàng. Để rồi như vết dầu loang những người này sẽ giới thiệu tình thương của Chúa cho những người xung quanh từ những người gần gũi mình nhất.

Mặt khác, vì dạy giáo lý là giới thiệu Chúa và tình thương của Người cho người khác. Cho nên, do sứ mạng của Bí tích Rửa tội mỗi kitô hữu là một giáo lý viên. Mỗi kitô hữu giới thiệu Chúa cho người khác qua chính đời sống tốt lành gương mẫu của mình.

Người trẻ chúng ta đang lớn lên và sống trong bầu khí hưởng thụ ích kỷ. Với bầu khí đó, chúng ta rất dễ sống thiếu hy sinh không dám cho đi. Từ đó hướng đến tương lai thật là có nhiều nguy cơ không tốt. Dù sống trong bậc sống nào người kitô hữu đều được kêu gọi sống hy sinh quên mình vì hạnh phúc của người khác. Bậc sống hôn nhân thì vợ chồng được kêu mời trở thành Chúa Kitô cho nhau và cùng nhau trở nên Chúa Kitô cho con cái. Trở nên Chúa Kitô nghĩa là trở nên tôi tớ cho nhau. Tôi tớ vì yêu thương để phục vụ nhau.

Chính việc trở nên Chúa Kitô cho nhau là dấu chỉ hữu hiệu để giới thiệu về tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Đây cũng chính là lời dạy giáo lý sống động nhất. Các bạn trẻ rất nên ý thức vai trò này của mình trong đời sống ngay từ hôm nay.

TRANG GIA ĐÌNH

Một trận cầu đẹp không phải là một trận cầu mà ở đó sân cỏ được trang trí lộng lẫy, cầu thủ ăn mặc sặc sỡ hay có nhiều bàn thắng….. nhưng là các cầu thủ biết chơi đẹp (fair play). Một gia đình mẫu mực không phải được đánh giá bằng cơ sở vật chất : nhà cao cửa rộng, đầy đủ tiện nghi…nhưng nó được đánh giá bằng hình vi luân lý của các thành viên trong gia đình đó biểu hiện ra bên ngoài, mà hành vi luân lý được đánh giá bằng các tiêu chuẩn đạo đức. Như vậy để có được trận cầu đẹp, những gia đình mẫu mực thì việc trước đó phải làm là giáo dục đạo đức cho con người chứ không thể làm ngược lại.

Người xưa nói: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”, nhưng tại sao xã hội lại có kẻ xấu ? Ai cũng trả lời được: tại vì họ vô đạo !

Như thế chúng ta thấy rằng để xã hội được “đẹp” thì trước tiên phải có người tốt, mà người thế nào mới được gọi là người tốt ? Đó là người phải có đạo đức ! Phải bảo vệ được căn tính trời sinh của mình để có thể hoà hợp với luật thiết định. Có thế thì thiên hạ mới được thái bình thịnh vượng, nếu không thì người ta vẫn cứ tiếp tục sửa sai không bao giờ dứt.

Đối với người Kitô hữu cần phải nhớ rằng cứu cánh của chúng ta không phải là trần gian này mà là Thiên quốc. Việc xây dựng trần gian này thành một thực tại tươi đẹp, đó là hệ quả của đời sống đạo do Chúa dạy chúng ta sống, để rồi qua việc vâng phục Thánh Ý chúng ta đạt đến cứu cánh của mình.

Những Quy Tắc Đơn Giản Nên Dạy Con Từ Nhỏ

Trẻ em khi còn nhỏ dễ uốn nắn hơn, chính vì vậy, cha mẹ và những người lớn nên dạy cho con cháu mình những quy tắc đơn giản nhất ngay khi còn nhỏ.

1. Biết yêu thương người khác

Khi chúng ta biết yêu thương người khác một cách vị tha, đặc biệt là yêu thương những người thân trong gia đình thì mọi khó khăn, thử thách hay mâu thuẫn cũng dễ dàng được xử lý. Để yêu thương mọi người, trước hết cần phải tôn trọng họ, sau đó hãy nhìn nhận họ bằng cả trái tim nhân hậu và vị tha.

Không được cố chấp, so bì hay có tính ghen tỵ giữa các thành viên trong một gia đình với nhau. Yêu thương người khác có nghĩa là chúng ta cũng sẽ nhận được sự yêu thương như vậy, thậm chí còn nhiều hơn, từ phía họ.

2. Luôn luôn nghe lời cha mẹ

Cha mẹ là những người có công mang nặng đẻ đau, sinh ra chúng ta và nuôi chúng ta khôn lớn, chính vì vậy cha mẹ là những người luôn cần được chúng ta tôn trọng và nghe lời.

Khi cha hoặc mẹ nói hay làm một điều gì đó, con cái phải có nghĩa vụ lắng nghe, không phàn nàn, không tranh luận và không than vãn, trách móc. Học cách nghe lời cha mẹ ngay từ nhỏ là một điều rất tốt cho con cái và các thành viên trong gia đình, bởi lẽ từ nhỏ nếu con cái biết vâng lời cha mẹ thì sau này khi trưởng thành chúng mới có thể dạy dỗ, truyền đạt lại cho các thế hệ sau.

3. Luôn phải cầu cho những điều tốt đẹp nhất đến với người khác

Là những người thân trong gia đình, thậm chí không phải là người thân thì chúng ta cũng vẫn cần có tấm lòng thiện cảm với nhau, luôn phải cầu mong những điều tốt đến với người khác, chứ không nên ghen ghét đố kị chỉ mong họ gặp điều xấu xa, xui xẻo.

Khi một ai đó đi xa, chúng ta nên cầu chúc cho họ được bình an, thuận buồm xuôi gió. Khi một ai đó chẳng may bị ốm, hãy chân thành mong người đó chóng khỏi bệnh. Khi có người cần sự động viên, sự may mắn trước khi làm việc gì hay trước khi đưa ra quyết định gì, chúng ta hãy chúc họ may mắn và sáng suốt trong những quyết định.

4. Đặt gia đình lên trên bạn bè

Đây có lẽ là một quy tắc cũng không dễ với nhiều người vì có một số người thường xuyên gây mâu thuẫn với những người thân trong gia đình, nhưng lại đối xử vô vùng ngọt ngào với những bạn bè, “người dưng nước lã”.

Cha mẹ nên để ý dạy dỗ con mình điều này. Người lớn nên quan sát, nhắc nhớ với con cháu mình về tầm quan trọng của gia đình, của các thành viên trong một gia đình. Người lớn phải chỉ ra được, người trong gia đình bao giờ cũng là quan trọng nhất, được đặt lên trên tất cả và được đối xử tốt hơn những người khác. Vì thực tế, những lúc khó khăn, hoạn nạn, dù những người khác có bỏ đi thì những người thân bao giờ cũng ở lại bên cạnh, an ủi, động viên và giúp đỡ chúng ta.

5. Thành viên trong gia đình phải giúp đỡ, ủng hộ nhau

Những thành viên trong gia đình không được ghen ghét, đố kị lẫn nhau. Ngược lại phải ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Biết chia sẻ với nhau cả những “miếng ngon” và những khó khăn.

Là người một nhà, không nên hùa theo người khác nói xấu hay đánh đập người thân trong gia đình mình. Luôn phải có ý thức bảo vệ người nhà mình trước công cộng cho dù thực tế người đó có làm sai điều gì.

Hoàng Ngân

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

  ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG CỦA CHÚA GIÊSU

Giáo lý viên phải nắm vững những nguyên tắc căn bản rất đơn giản mà Chúa Giêsu đã dùng xưa trong việc loan báo Tin mừng của Ngài.

Chúa Giêsu trực tiếp nói với dân chúng: Tâm hồn Chúa Giêsu luôn hướng về Chúa Cha, đặc biệt là những giờ khắc cầu nguyện, nhưng Chúa vẫn là người của quần chúng. Bất cứ ở đâu Ngài cũng nói về Nước Thiên Chúa với họ: trên núi, trên biển, trong hoang địa, trong Đền Thờ, ngoài đường... và nói với mọi hạng người: vua quan, binh lính, trẻ em, biệt phái, thu thuế, phụ nữ, người lớn...

Chúa Giêsu trình bày sống động, đối thoại vừa tầm người nghe:

Đa số thính giả của Chúa Giêsu là người bình dân, thiếu học, đơn sơ chất phác. Chúa hiểu biết họ, đặt mình vào hoàn cảnh của họ, trình bày những mầu nhiệm bằng ngôn ngữ dễ hiểu, hình ảnh dễ tiếp thu, giải đáp những thắc mắc... đến nỗi dân chúng phải thốt lên: “Chưa thấy ai giảng giải như ông này”.

Gặp người học cao hiểu rộng, Chúa sẵn sàng lý luận tranh cãi để cố gắng trưng bằng cớ phi bác luận điệu sai lầm của họ, Ngài trích dẫn Kinh Thánh, luật Môisen để thuyết phục.

Dựa vào sự việc cụ thể để giải thích mầu nhiệm Nước Trời.

Bất cứ sự việc nào trong đời thường cũng trở thành dịp cho Chúa nói về Nước Trời.

Chúa Giêsu hay dùng ví dụ để giảng dạy: Chân lý được gói ghém trong câu chuyện. Cái trừu tượng khó hiểu được diễn đạt bằng câu chuyện cụ thể.

Chúa Giêsu thường đúc kết bài giảng bằng những câu gọn ngắn, dễ nhớ sau khi diễn giải đức tin.

Ví dụ: Sau bài giảng về cầu nguyện, Chúa Giêsu đúc “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp, ai gõ sẽ mở...”.

Hay là: về tinh thần phục vụ, Chúa đúc kết: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc...”.

Hay giảng về kiên tâm bền đỗ trong đức tin, Chúa đúc kết: “Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít...”.

Chúa Giêsu lặp lại dưới nhiều hình thức khác nhau về cùng một chân lý; để dễ nhớ, dễ hiểu nhưng không nhàm chán.

Ví dụ: Nói về lòng thương xót Chúa: Chúa dùng ba hình thức:
- Con chiên lạc.
- Đồng bạc bị mất.
- Đứa con phung phá.

Tiến từng bước theo nhịp điệu hiểu biết của người nghe: Chúa vén tỏ mầu nhiệm Nước Thiên Chúa theo từng bước, bổ túc và đào sâu thêm.

Ví dụ: Quan niệm về Đấng Cứu Thế gọi là Mêsia.

Chúa Giêsu thường trích dẫn Kinh Thánh để minh chứng lời giảng: Để thính giả dễ tin và hiểu sâu về sứ mạng của Ngài.

Cảm hoá con người: Lời giảng của Chúa vừa trình bày lời Thiên Chúa, vừa có sức cảm hoá lòng người.

Ví dụ: Với phụ nữ xứ Samaria, với ông Giakêu.

TRANG QUỚI CHỨC

THIÊN CHÚA TẠO DỰNG
Thiên Chúa Phán Một Lời Thì Mọi Sự Liền Có

Thiên Chúa phán một lời là lời nào và mọi sự liền có thế nào? Chúng ta giải thích thế nào cho hiểu được? Chứ nói như thế cũng như không nói mà còn tệ hơn không nói nữa vì làm cho người ta hiểu sai theo nghĩa chữ là Chúa có phán một lời và mọi sự liền có thật… mà thực tế thì không.

Trước hết Thiên Chúa tạo dựng thế nào trong thực tế? Kinh Thánh và khoa học gặp nhau không? Không gặp thì sao? Ai đúng? Khoa học thì dựa trên chứng cứ của tài liệu và chứng minh bằng sự kiện khách quan. Kinh Thánh thì cho là Mạc khải “Thiên Chúa nói”. Tốt nhất là cả hai phải gặp nhau. Khoa học là sự kiện được chứng minh thì không thể chối cãi. Khoa học cũng không kết luận được là do Thiên Chúa tạo dựng vì chỉ biết sự kiện chết cứng của quá khứ. Phải nhờ thần học giải thích. Mạc khải thì quá trỗng, đó là Thiên Chúa để chỗ cho thần học làm việc.

Khoa học thì giả thuyết vũ trụ - vạn vật khởi sự từ tiếng nổ big bang (vụ nổ lớn). Hiện tại ở Âu Châu cụ thể là ở biên giới Thuỵ Sỉ và Áo người ta đang làm thí nghiệm “làm lại” tiếng nổ big bang dưới một đường hầm rộng mười mét dài 20 km. Thất bại một lần và vừa rồi đã tuyên bố thành công rất hân hoan. Công trình còn tiếp tục.

Theo giả thuyết big bang (vụ nổ lớn) thì khởi nguyên có một khối vật chất to bằng nắm tay, rất đậm đặt, một mm3 nặng bằng nhiều tấn vì thế mà không tồn tại nên phải nổ tung thành tro bụi. Đó là hình thể đầu tiên của vật chất. Gọi là bụi vũ trụ. Một phần còn tồn tại tới ngày nay. Từ đó hình thành những gì mà chúng ta thấy có ngày nay. Vũ trụ vẫn còn dang dở và vẫn tiếp tục hình thành với những dải thiên hà mới. Sách Sáng Thế ký đã nói: Thiên Chúa lấy “bụi đất” mà nắn con ngưòi, là bụi đất nầy đó. Chẳng những con người mà tất cả những gì hiện hữu đều được dựng nên từ bụi đất.

Đám bụi nầy quây cuồng trong khoảng không và khoảng không được lấp đầy không còn là không nữa. Bắt đầu có cái “có”. Cái có bắt bầu ít ỏi như vậy đó.

Thiên Chúa Tạo Dựng Cái Khởi Điểm Ban Đầu

Thiên Chúa khởi đầu và để cho thiên nhiên tiếp tục. Đám bụi nguyên thủy quây cuồng loạn xạ, va chạm, dính nhau rồi lại tách ra cứ thế mà mài mò tìm cho ra những công thức hóa học để kết dính được lâu bền và từ từ tạo thành các nguyên tố làm thành vật chất có khối lượng để đi đến hình thành các hình thể vật chất khối lượng như hiện có. Khoa học hoá học cho biết là có 92 nguyên tố cấu tạo tất cả mọi hình thức vật chất của vũ trụ.

Phải 2,5 tỷ năm mới có xuất hiện tế bào sự sống đầu tiên: là một đơn bào. Qua một quá trình phức tạp hoá (complexification) mà có xuất hiện các đa bào. Và cứ thế mà nhân lên mãi.

Thần học xen vào cho là trong tiến trình thiên nhiên thông thường ấy Thiên Chúa can thiệp đặc biệt, khi Ngài muốn, bằng những biến cố ngoại thường để sự tiến bộ đi đúng hướng và đúng ý của Thiên Chúa. Điều nầy xem ra cũng rất rõ ràng và rất thường xảy ra qua những xáo trộn lớn nhỏ trong thiên nhiên. Trái đất của chúng ta đã trải qua bốn nguyên đại chìm nổi, nổi chìm.

  1. Nguyên đại I (ère primaire): Biến động mạnh. Ngày nay còn lại dấu vết là một số núi trọc như massif central bên Pháp. Kéo dài khoảng 500.000 năm.
  2. Nguyên đại II (ère secondaire): yên tĩnh, định hình những gì đã được hình thành do biến động trong nguyên đại I. Khoảng 500.000 năm.
  3. Nguyên đại III (ère tertiaire): rung chuyển, biến động dữ dội. Trái đất nứt ra làm nhiều mảnh và trôi dạt làm thành Mỹ Châu và châu Đại Dương cùng với một số hải đảo khác. Đồng thời các quặng có chất phóng xạ giải phóng một lượng phóng xạ cực lớn tạo một kích thích cực mạnh nơi các loài sinh vật đang hiện hữu làm cho có chủng loại biến mất cũng có những chủng loại mới xuất hiện. Đây là nguyên đại định hình cho trái đất như hiện có ngày nay. Khoảng 500. 000 năm.
  4. Nguyên đại IV (ère quaternaire): Yên tĩnh và củng cố với tất cả những gì hiện có và kéo dài đến ngày nay. Có lẽ con người ‘homo sapiens’ xuất hiện vào cuối nguyên đại III bước sang IV.

Bằng Cách Nào ?

Teilhard de Chardin (thần học gia, linh mục Dòng Tên) cho rằng qua quá trình phức tạp hoá các tế bào đến lúc một con vật mà theo các nhà khoa học là trong nhóm linh trưởng có đủ số lượng tế bào não để có thể là một bộ não có thể bắt đầu khả năng suy tư “homo sapiens” thì Thiên Chúa cho linh hồn vào con vật ấy và lúc ấy khởi đầu “homo sapiens”. Và như thế là con người được dựng nên.

Sách Sáng thế ký : Thiên Chúa nắn con người bằng bụi đất và thổi hơi vào lổ mũi thì hình đất sinh động thành con người. Như thế thì tiến trình từ tiếng nổ big bang cho tới con người “homo sapiens” phải rất lâu, nhiều tỷ năm theo như khoa học nói.

Có thể nói thêm là do ảnh hưởng của những biến động và tác động cực mạnh của các thứ phóng xạ do sự nứt nẻ của trái đất giải phóng ra vào khoảng biên giới giữa nguyên đại III và IV mà đã xảy ra bước nhảy vọt định mệnh của loài người. Khoa học thì cho là con vật nhảy một bước dài sang chủng loại con người có trí khôn. Kinh Thánh thì cho là Thiên Chúa thổi linh hồn vào lổ mũi. Chỉ một lần duy nhất và không bao giờ có lập lại. Tiến hoá đi tới chứ không thụt lùi.

Chúng ta có thể giản lược giải thích việc Thiên Chúa phán một lời thì mọi vật liền có như vầy: từ “bụi vũ trụ” tới con người có trí khôn, có linh hồn.

(Bài tới : Con người và tội tổ tông)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Lệ

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Lương tâm ở đâu?

Năm con học lớp 3, cô giáo kể cho cả lớp nghe một câu chuyện về cậu bé tên là Bin. Cậu bé mồ côi bố từ nhỏ, sống cùng mẹ trong một ngôi nhà lụp xụp. Một lần, mẹ cậu bị bệnh nặng.

Để có tiền mua thuốc cho mẹ, cậu bé đã ăn cắp của một người bạn thân 10 đồng xu. Vụ việc không được phát giác nhưng mỗi lần nhìn thấy bạn, Bin lại thấy xẩu hổ và áy náy.

Cô giáo bảo với cả lớp rằng: Bin đang bị lương tâm dày vò.

Lương tâm là gì? Nó nằm ở đâu trong cơ thể con người? Con đem băn khoăn đó về nhà và sà vào bếp hỏi mẹ. Mẹ kéo con lại gần vuốt mái tóc mềm mại của con bảo:

- Lương tâm không nằm cố định một chỗ, con gái ạ!

Câu trả lời khó hiểu đó vẫn cứ đeo bám lấy con. Cho đến một ngày, khi con cùng mẹ đi chơi công viên, con đang mê mải nhìn những quả bóng bay đủ màu sắc thì mẹ gọi con. Con đưa mắt nhìn theo tay mẹ chỉ và thấy một bạn nhỏ như con đang đỡ một em bé bị ngã đứng lên rồi còn cho em bé quả bóng đang cầm trong tay mình. Mẹ bảo:

- Lương tâm lúc này đang nằm trên đôi tay của bạn nhỏ ấy đấy con ạ!

Lần khác, hai mẹ con đi dạo, con nhìn thấy một người đàn ông mặt đỏ gay giơ chân đá mạnh vào một cún con đang chơi gần đó. Đau quá, cún con nằm vật ra đất còn người đàn ông cứ thế bước đi. Mẹ chạy đến đỡ cún con lên xoa lên lưng nó. Còn con nhìn theo người đàn ông kia đầy tức giận. Đợi cún con hết đau, mẹ thả nó xuống đất. Cún con vẫy đuôi chạy đi. Mẹ nắm tay con:

- Lương tâm lúc này nằm ở đôi chân của người đàn ông cục cằn ấy con ạ!

Hồi còn học lớp 8, trong giờ thể dục, có một bạn đang chạy thì bị ngất xỉu phải đưa lên phòng y tế. Nhìn thấy cô y tá cắm kim tiêm vào bắp tay bạn, nhỏ Hoa trào nước mắt rồi quay mặt đi khóc thút thít. Về nhà, con kể cho mẹ nghe. Mẹ nhìn con trìu mến: Lúc ấy lương tâm của bạn nằm ở đôi mắt và tiếng khóc.

Một buổi sáng chủ nhật, ngồi buồn con chợt nghĩ ra trò nhắn tin để trêu nhỏ bạn: Tớ ngồi học trên lầu, bố mẹ tớ không biết nên đã khoá cửa ngoài mất rồi. Tớ phải ra ngoài bây giờ. Cậu đến “cứu” tớ nhé!

Nhỏ bạn con tưởng thật vội vã đạp xe đến nhưng khi thấy con xuất hiện trước cổng, ôm bụng cười ngặt nghẽo thì nhỏ bạn con tức tưởi:

- Cậu độc ác vừa thôi.

Và con đã nhìn thấy cánh tay nhỏ bị xây xát. Hỏi ra mới biết vì vội đến cứu con mà nhỏ bị người ta tông xe ngã xuống đường. Cũng may, nhỏ chỉ bị thương nhẹ. Nhỏ đã nhận lời xin lỗi của con nhưng suốt mấy ngày đó, mỗi lần nghĩ đến con lại thấy day dứt trong lòng.

Bài học làm người đầu tiên mẹ dạy giản dị là thế nhưng bây giờ con mới hiểu.

Lương tâm nằm ngay trong mỗi ý nghĩ, hành động...của mỗi người mẹ nhỉ? Nó giúp cho mỗi người chúng ta sống tốt hơn trong cuộc đời phải không mẹ?

Bùi Thu Hoàn (hoathuytinh.com)

“Lương tâm là phán đoán của trí khôn làm cho con người nhận ra tính chất luân lý nơi một tác động cụ thể họ sắp làm, đang làm hay đã làm” (GLCG số 1778).

Giáo dục lương tâm, huấn luyện lương tâm chính là giúp cho con người nhận thức được sự biến chất, thoái hóa cái tâm của mình và cố gắng cải thiện, cố gắng điều chỉnh để đưa cái tâm bị biến chất, thoái hóa về với cái chính tâm, cái tâm thiện tức là lương tâm. Nhờ sự hướng dẫn của lương tâm, mỗi người, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, luôn có thể lắng nghe, nhận ra được Ý Chúa và quyết tâm đem ra thực hành.

HỒI KÝ

Lòng Tôn Sùng Thánh Thể Nơi Họ Đạo Lương Hoà

Vùng Đồng Tháp rộng mênh mông phì nhiêu, thu hút những tín hữu những họ đạo lâu đời như Lái Thiêu, Tân Quy tìm nơi khai phá. Đặc sản là mía, thơm (khóm), mì…

Dân chúng vẫn có người giàu, sống khá giả, ngay giới nông dân cũng sống thoải mái nhưng vì nơi mới khai phá nên lối sống còn quê đặt sệt, không có được tiện nghi của thành thị.

Cha sở mỗi sáng lót lòng cháo trắng với cá kho, không đói nhưng ít có cái ngon. Một tuần lễ mới có ghe vận tải lương thực đồ dùng đến bán.

Ai muốn có bữa ăn khá hơn hay bữa thịnh soạn thì phải đạp xe đi 6, 7 cây số tới Chợ Đức Hoà mới mua sắm được.

Có lẽ vì không tìm được hạnh phúc nơi trần gian nên họ quay về đời sống đạo đức.

Thánh lễ là trung tâm điểm của đạo vì gồm tóm các điều phải tin, phải giữ.

Có thể nói giáo hữu Lương Hoà tôn sùng Thánh lễ, vì ngày thường vẫn có nhiều người dự lễ, mặc dầu ở xa nhà thờ, đường lầy lội quanh co, ghồ ghề.

Đặc biệt, có một bà cụ trên 60 tuổi, ở cách xa nhà thờ khoảng 3, 4 cây số, mỗi sáng vẫn vác đuốc (đuốc trút, hay lụi mù u) lần mò, dò dẫm đến nhà thờ dự lễ.

Lại còn một lệ thói nữa là khi cha đem Mình Thánh Chúa cho người bịnh thì luôn có 5, 7 người theo chầu, lại rải bông từ cổng nhà người bịnh đến bàn thờ (Vùng Lương Hoà bông hoa rất ít).

Lệ thói nầy, nơi đô thị không thể thực hiện được mà nơi thôn quê nếu không có lòng tôn sùng thì không khả năng thi hành.

Đất lành chim đậu, nhờ đó có thể sinh nở đông đúc, làm vui cảnh vật và lòng người.

Thật ra, họ Lương Hoà đã trổ sinh nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ nam nữ.

Chúng ta có thể ngưỡng mộ, nhưng có ảnh hưởng nào cho đời chúng ta không?

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

NHỮNG CÂU HỎI TỪ... THIÊN CHÚA

Thiên Chúa sẽ không hỏi về số quần áo bạn có trong tủ, mà sẽ hỏi bạn đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo.

Thiên Chúa sẽ không hỏi về địa vị xã hội của bạn, mà sẽ hỏi bạn đứng về phía tầng lớp nào.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu tài sản vật chất, mà sẽ hỏi chúng có được tạo ra từ lao động của bạn không.
Thiên Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của bạn là bao nhiêu, mà sẽ hỏi bạn có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn đã làm thêm bao nhiêu giờ, mà sẽ hỏi thời gian làm thêm đó bạn có dành cho gia đình của bạn hay không.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn đã nhận được bao nhiêu lời khuyến khích, mà sẽ hỏi bạn đã khích lệ người khác như thế nào.

Thiên Chúa sẽ không hỏi nghề nghiệp của bạn là gì, mà sẽ hỏi bạn đã thực hiện công việc của mình với khả năng tốt nhất chưa.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn làm gì để giúp cho bản thân, mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để giúp đỡ mọi người.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình, mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi người khác.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn sống cạnh những láng giềng nào, mà sẽ hỏi bạn đối xử với những người hàng xóm của bạn như thế nào.

Thiên Chúa sẽ không hỏi về màu da của bạn, mà sẽ hỏi về phẩm chất của bạn.

Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn mất bao nhiêu thời gian để thể hiện những lời bạn nói, mà sẽ hỏi phải tốn bao nhiêu thời gian để không làm được điều đó.

Và Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu người bạn, mà sẽ hỏi bạn có bao người mà khi đối xử với họ bạn đích thực là một người bạn?

Thanh Thanh(st) : ubmvgiadinh.org

1163    24-04-2012 09:40:38