Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Đưa Tin Mừng Vào Văn Hóa Dân Tộc - Tháng 02 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN

 

TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2
Vĩnh Long

                                                                                                        22.1.2011        

V/v  Đưa Tin Mừng vào văn hóa dân tộc

 

Để thực sự là Hội Thánh của Chúa Kitô nhập thể và nhập thế, Hội Thánh tại Việt Nam phải nhập thể vào văn hóa và lịch sử của dân tộc mình (SĐ Dại Hội Dân Chúa số 4)

 

1. Đại Hội Dân Chúa nêu lên bổn phận của mỗi tín hữu tại Việt Nam, Giáo dân, Tu sĩ cũng như Linh mục, bổn phận bắt nguồn từ mệnh lệnh của Chúa Cứu Thế (x.Mc 16,15). Nhưng phải chu toàn bằng cách nào ?

 

Phát xuất từ đất Do Thái (Á châu), Tin Mừng được rao giảng ở Aâu Châu, rồi nhờ các Nhà Truyền Giáo, được đưa sang Mỹ châu, Phi Châu, Đại dương châu và Á châu . Việc loan báo Tin Mừng chắc chắn phải  theo khuôn mẫu của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Chúa Kitô.

 

2. Để cứu chuộc phàm nhân tội lỗi, Con Một Thiên Chúa đã mặc xác phàm, làm người thật có hồn có xác, làm con của Đức Maria trong gia đình Nadarét được gọi là con của bác thợ mộc Giuse, con của Đavid, của Abraham, nhưng vẫn là Con chí ái của Chúa Cha. Như vậy, Người đã nối kết con người với Thiên Chúa, và liên đới với hết mọi người, để làm Thủ lãnh mới của nhân loại. Con Thiên Chúa làm Người, để con người được trở nên con Thiên Chúa, trở thành anh chị em của nhau (x. Gioan 1,12; 11,52; Mt 8,1).

 

3. Làm người Do Thái, Chúa Giêsu đã được cắt bì, được tiến dâng trong Đền Thờ  theo Luật dạy, hàng năm theo cha mẹ lên Jerusalem tham dự các ngày Lễ của người Do Thái.

 

Chúa Giêsu đón tiếp mọi hạng người, cả dân ngoại : viên sĩ quan có người giúp việc đau nặng (Mt 8,5-13); người phụ nữ Canaan có đức con gái bị quỉ ám (Mt 15,21-28; Mc 7,24-30);  đến gặp người phụ nữ xứ Samaria ở  giếng Giacob  (Gioan 4,6tt).

 

4. Nhưng Người không để bị ràng buộc bởi những người Do Thái cố chấp, tự phụ, kiêu căng. Người chữa bệnh ngày sabbat, chạm đến người phong cùi, gần gũi những ngừi tội lỗi: đến nhà của Zakêô (Lc 19,1tt); nhà của Lêvi người thu thuế (Lc 5,29tt) , cho phép người phụ nữ xấu nết thành Magdala đi theo giúp Người (Lc 8,2-3) bất chấp những dò xét và lên án của các luật sĩ và Pharisêu.

 

Và, còn hơn thế nũa, Người chống lại thói giả hình của các người biệt phái : dụ ngôn người Pharisêu và người Thu thuế cầu nguyện (Lc 12,1); hủy bỏ tục lệ ly hôn (Mt 19,3-9).

Chúa Giêsu không đến để phá đổ, nhưng để kiện toàn. Chống lại thói kiêu căng, Người mời gọi mọi người: Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (Mt 11,29). Để chống lại tệ nạn ly hôn ly dị, Người củng cố dây hôn phối : Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly (Mt 19,6).

 

5. Đặt chân lên Đất Việt Nam, các Nhà Truyền Giáo đã nỗ lực rao giảng Chúa Kitô.  Nơi nào quy tụ được một số bổn đạo, thì có những sinh hoạt tôn giáo tại chỗ họ ở, ban đầu có tính cách gia đình, về sau vận động cất một Nhà Thờ đơn sơ làm nơi đọc kinh chung. Khi thuận tiện, mời linh mục đến dâng Thánh Lễ. Đó là khởi điểm của Họ hay Họ Nhà Thờ.

 

Theo phong tục của người Việt Nam , mỗi người mang tên của Dòng Họ mình,biểu hiện liên hệ gia đình, họ hàng thân thích. Danh từ Họ có tính cách xã hội , được dùng cho một nhóm bổn đạo, nói lên sự kết hợp chặt chẽ giữa các bổn đạo với nhau trong cùng một Họ. Loại Họ như vậy có trước hết ở Đàng Trong vào năm 1615 (x. Đỗ Quang Chính, sj, Tản mạn Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 240 tt)..

 

Họ Nhà Thờ, từ đó, trở thành trung tâm sinh hoạt tôn giáo, nếp sống của bổn đạo cũng được phát triển về mọi mặt: đạo nghĩa cũng như kiến thức, đời sống cá nhân cũng như xã hội.

Đám cưới của người Công Giáo  với các lễ  Nhóm Họ, Giới thiệu bà con bên nội bên ngoại  mang nét đặc biệt của dân tộc làm nổi bật liên hệ gia tộc. Lời Chúc Hôn được cử hành, sau khi đón cô dâu về nhà trai,  vừa có tính cách thánh thiêng, vừa làm cho lễ cưới thêm trang trọng, cầu xin ơn Chúa gìn giữ và củng cố tình yêu của đôi bạn.

 

Hoàn cảnh xã hội hôm nay đang có chiều hướng thay đổi truyền thống tốt đẹp nầy, giản lược đám cưới thành bữa tiệc quy tụ bạn bè vui chơi.

 

Con Thiên Chúa nhập thể, để cho con người được đến gần Thiên Chúa , và nhập thế, để biến đổi và thăng hoa con người.

 

Mong sao cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô luôn luôn là ánh sáng chiếu soi và  đổi mới đời sống các tín hữu. Và Chúa là Mùa Xuân Bất Diệt của chúng ta.

 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

Tháng 02/2011
CHỦ ĐỀ: ĐƯA TIN MỪNG VÀO VĂN HOÁ DÂN TỘC

Trong mầu nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa đã thật sự hòa nhập vào nền văn hóa Do thái, đồng thời Người đưa vào đó Tin Mừng là chính bản thân Người, để mang lại ý nghĩa mới và tính vĩnh cửu cho những gì Người đã đón nhận. Cũng thế, Giáo Hội tại Việt Nam trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa dân tộc. Đồng thời, Giáo Hội nỗ lực đưa những giá trị cao đẹp của văn hóa đó vào lời kinh tiếng hát, cử hành phụng vụ, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong ngôn ngữ, suy tư thần học (Tài Liệu Làm Việc Đại Hội Dân Chúa 2010, số 34).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về chủ đề "Đưa Tin Mừng vào văn hoá dân tộc" sau đây:

1. Văn hoá có thể hiểu là lối sống tốt lành,thánh thiện.

2. Chúa nhập thể, nhập thế là hình ảnh kết hợp, hoà nhập văn hoá. Chúa đón nhận văn hoá Do thái. Còn chính Chúa đem đến Phúc Aâm là văn hoá của Chúa hội nhập với văn hoá Do thái (Hội nhập đời với đạo).

3. Hội nhập đối với đạo để cải tạo văn hoá đời được có ý nghĩa tốt hơn và được hiệu quả vĩnh cữu

4. Hội thánh Việt Nam noi gương đó, đón nhận văn hoá của dân tộc, gìn giữ phát huy, có thể dùng văn hoá Việt trong phụng vụ, dùng ngôn ngữ, ngay trong suy tư thần học, rồi dùng văn hoá Phúc Aâm sửa đổi, biến cải, thiện hảo hoá văn hoá đời.

 

Muốn biết mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá và truyền giáo, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu văn hoá là gì và truyền giáo là gì. Sau đó ta mới có thể nói đến việc hội nhập văn hoá tại Việt Nam và tìm ra maột vài điểm giúp cho việc truyền giáo đạt kết quả hơn.

 

1. Định Nghĩa Văn Hoá Và Truyền Giáo

1.1.  Văn hoá là gì?

* Văn hoá theo nghĩa chữ, văn là "vẻ đẹp", là cái có giá trị; hoá là "trở thành". Văn hoá có nghĩa là cái đã trở thành đẹp, thành co giá trị. Văn hoá là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Thí dụ: một lời nói có văn hoá khác với lời nói cộc cằn, tục tĩu...Vì thế, ngoài giá trị tinh thần là những nét đẹp tinh thần như lòng hiếu khách, lòng thương cảm, biết chia sẻ trong cơn hoạn nạn, văn hoá còn là những giá trị vật chất như cách ăn mặc, nói năng, kiểu xây dựng, kiến trúc nhà ở....

 

* Văn hoá hình thành như thế nào? Những con người, khi sống trong cộng đồng xã hội, có những nhận thức về một điều gì đó, từ nhận thức dẫn đến thái độ và hành động, rồi từ những hành động lặp đi lặp lại trở thành một thói quen của từng cá nhân hay của cộng đồng, rồi thói quen đó lâu dần trở thành cá tính, thành bản sắc của cộng đồng và dân tộc, tất cả đều thuộc về văn hoá. Thí dụ như người Việt Nam, sau 11 thế kỷ bị người Trung Hoa đô hộ, chúng ta ăn mặc, viết chữ chịu nhiều ảnh hưởng của người Tàu. Chúng ta có những tính tốt như biết chịu đựng, cảm thông nhưng cũng có nhiều tật xấu như dễ nghi ngờ, làm việc cầm chừng, vui vẻ xởi lởi ngoài mặt, hay nói xấu sau lưng, không tôn trọng của chung, ăn cắp vặt... Tất cả phát xuất từ tinh thần đối kháng với kẻ thù. Đó là những nét văn hoá của người Việt.

 

Vì thế, ta có thể nói rằng văn hoá là một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục cũng như tất cả những khả năng, thói quen mà con người đạt được trong xã hội ở một thời kỳ nào đó (thí dụ như nền văn hoá Đông Sơn của người Việt cách chúng ta gần 3.000 năm). Hơn nữa, văn hoá còn hướng đến tương lai của cả nhân loại như Công đồng Vatican II đã định nghĩa về văn hoá, ở số 53 của Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng.

 

Nếu nói theo ngôn ngữ chuyên môn thì văn hoá là "một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hành động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" (x. Trần Ngọc Thêm, Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam, NXB TP.HCM, 2006, tr. 25).

 

Điều cần nhớ ở đây: văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất hay tinh thần để hướng tới những giá trị của Tin Mừng mà chúng ta có thể giới thiệu cho người khác trong công việc truyền giáo.

 

1.2. Truyền giáo là gì?

Ngày nay, chúng ta hiểu truyền giáo hay truyền đạo không còn phải là dạy giáo lý, dạy tín điều với những bí tích mà là giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác vì Người là con đường, là đạo dẫn đến sự thật giải thoát và sự sống vĩnh hằng. Truyền giáo cũng là loan báo Tin Mừng, nếu chúng ta hiểu Tin Mừng ở đây không phải chỉ là lời nói, chữ viết trong Kinh Thánh mà là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa làm người, là chính Đức Giêsu.

 

Vì thế, sau Đại hội Truyền giáo châu Á ở Chiang Mai, Thái Lan năm 2006 và ở Hàn Quốc năm 2010, người ta định nghĩa truyền giáo là:  "kể lại câu chuyện của Đức Giêsu" cho người khác như các Tông đồ xưa.

 

Vì thế cả ba định nghĩa về truyền giáo: là truyền đạo, loan báo Tin Mừng và kể chuyện Giêsu đều mang ý nghĩa như nhau, đều tập trung vào Chúa Giêsu như một con người sống động. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể truyền giáo hay kể chuyện Giêsu nếu người ta thực sự gặp được Người. Muốn truyền đạo hiệu quả phải sống đạo trước đã. Có lẽ vì chúng ta chưa sống đạo, chưa gặp thật sự Đức Giêsu nên việc truyền giáo chưa có kết quả tốt đẹp.

 

2. Văn Hoá Và Truyền Giáo

 

Nếu chúng ta phân tích công tác truyền giáo, chúng ta sẽ thấy việc loan báo Tin Mừng gắn bó mật thiết với văn hoá.

 

Để thực hiện việc Loan báo Tin Mừng, chúng ta cần 3 yếu tố: chủ thể, nội dung và đối tượng. Chủ thể là người loan báo Tin Mừng. Nội dung là chính Tin Mừng và đối tượng là người nghe loan báo hay người đón nhận Tin Mừng. Cả ba yếu tố này đều nối kết với văn hoá và đòi hỏi ta phải hiểu biết về văn hoá để nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng.

 

Trước hết, đối với chủ thể là người loan báo Tin Mừng, người này đang có sẵn một nền văn hoá nào đó, thí dụ các vị thừa sai trước đây đến truyền giáo ở nước ta: họ là người có sẵn một nền văn hoá Tây Phương với cách ăn uống, suy nghĩ, nói năng, hành động của người Tây Phương. Nhưng khi ở Việt Nam, các linh mục thừa sai học tiếng Việt, mặc áo dài đen, đội khăn xếp, dùng bát đũa ăn cơm như mọi người: đó là các vị đã hoà nhập vào văn hoá Việt Nam.

Thứ đến, đối tượng là người nghe Tin Mừng, họ có thể là những người cùng văn hoá do họ loan báo, nhưng cũng có thể khác văn hoá do họ khác nhận thức, hành động, thói quen, khác về những giá trị. Vì thế, cần phải tìm hiểu nền văn hoá của người nghe để thấy giá trị nào phù hợp với Tin Mừng thì giữ lại, giá trị nào đi ngược lại với Tin Mừng thì giải thích cho người nghe hiểu để loại bỏ. Thí dụ: khi truyền đạo Công giáo vào Việt Nam cách đây 100-200 năm, dân tộc Việt Nam đang theo chế độ quân chủ chuyên chế độc tài, coi vua là Thiên Tử, là Con Trời, có toàn quyền sinh sát trong tay. Điều này không hợp với Tin Mừng, các nhà truyền giáo giới thiệu một Thiên Chúa là Cha Chung của mọi người, tất cả đều là anh em không ai có quyền giết ai. Còn Đức Giêsu là Con Chúa Trời lại còn chết thay cho người khác. Tin Mừng như thế giới thiệu một nền dân chủ và dạy con người nhận ra vua là đại diện Thiên Chúa cầm quyền trị nước, nên ta vẫn trung thành với vua và vẫn giữ tình huynh đệ dân chủ với mọi người. Đó là giá trị của Tin Mừng.

 

Hơn nữa, người nghe Tin Mừng có thể khác tôn giáo với người loan báo. Tôn giáo cũng là yếu tố cao nhất của văn hoá. Tôn giáo bao gồm một hệ thống giá trị mà người theo tôn giáo hình thành trong đời sống của mình. Vì thế, người loan báo Tin Mừng cũng phải khám phá ra những giá trị nào phù hợp với Tin Mừng trong tôn giáo của người nghe để tôn trọng và gìn giữ cũng như thấy giá trị nào không hợp để giải thích và thay thế. Thí dụ, việc cầu cho vong hồn người chết, cúng, giỗ tổ tiên ông bà, thiên đàng, hoả ngục của đạo Phật có những điểm tương đồng hay khác biệt nào với đạo Công giáo?

Cuối cùng, nội dung Tin Mừng là chính Đức Giêsu. Chúng ta cũng cần phải khám phá ra những giá trị nào thuộc về Tin Mừng vĩnh cửu và giá trị nào thuộc về thời đại của dân Do Thái hay của một cộng đồng, một tập thể nào đó.

 

Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Khi làm người là Người bị giới hạn trong một không gian, thời gian nhất định nên Chúa Giêsu đã mang những nét văn hoá của thời đại. Ta không thể nói mình theo Công giáo là phải ăn mặc như Chúa Giêsu là người Do Thái cách đây 2000 năm.

 

Rồi những kiểu nói của Chúa Giêsu ghi lại trong 4 sách Phúc Âm cũng cần phải được giải thích để phân biệt đâu là ý nghĩa, là giá trị vĩnh hằng Chúa muốn nói, đâu là cách nói Do Thái nhất thời của Người. Thí dụ: "Ai vả má bên phải ngươi hãy đưa má kia cho nó đánh. Ai lấy áo ngoài của ngươi hãy đưa cho nó cả áo trong" đâu phải dạy thái độ hèn kém nhu nhược, và giá trị hiền lành thật sự hệ tại ở việc nhận ra Thiên Chúa là Người Cha Chung, Ngài biết rõ lòng ta quảng đại chia sẻ cho người.

 

Như thế, muốn giới thiệu Đức Giêsu như một Tin Mừng vĩ đại chúng ta phải biết yếu tố văn hoá của Người, đâu là giá trị Tin Mừng Người muốn loan báo, đâu là yếu tố nhất thời của dân tộc Do Thái cần bỏ qua. Vì thế, nếu không hiểu rõ nền văn hoá vào thời của Đức Giêsu, của các sách Tin Mừng, của các sách Kinh Thánh, của các cộng đồng trong các thời trước đây, chúng ta sẽ không loan báo Đức Kitô một cách đúng đắn.

 

3. Cha Ông Chúng Ta Đã Hội Nhập Văn Hoá Như Thế Nào Trong Quá Khứ?

 

Tin Mừng được cha ông chúng ta loan báo trong bối cảnh xã hội có nhiều giá trị khác với chúng ta ngày nay. Lúc đó, cách đây một vài trăm năm (1615-1885), người dân sống trong chế độ quân chủ chuyên chế (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung), xã hội theo chế độ đa thê (Trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng), nam nữ bất bình đẳng (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: Một người con trai kể là có, mười người con gái kể là không). Hơn nữa, dân chúng thời đó lạc hậu, thiếu hiểu biết về khoa học. Mỗi làng có 2,3 ao tù nước đọng dùng chung với nhau, không lọc, không biết nấu chín nên trẻ con bị nhiều bệnh chết yểu, cứ 10 đứa mất 7 còn 3, (năm 1930), hầu hết dân làng bị toét mắt, bị ghẻ lở nên xấu xí, yếu đuối. Học vấn là một điều quý giá và hoạ hiếm vì mỗi làng chỉ có 1,2 người biết chữ Nho là chữ chính thức của chính quyền.

 

Tổ tiên Công giáo chúng ta giới thiệu những giá trị mới của Tin Mừng trước hết là giá trị của dân chủ, bình đẳng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, tiếp theo là giá trị khoa học ứng dụng trong đời sống. Các vị thừa sai dạy các tín hữu biết dùng than-cát-sỏi để lọc nước rồi mới dùng, đun sôi, nấu chín, để nguội rồi mới uống. Vì thế người theo đạo khoẻ mạnh, xinh đẹp. Con cái người lương dân trao cho người Công giáo nuôi dạy thì sống thay vì chết yểu.

 

Với hai chữ tả đạo thích trên trán, trên má, người Công giáo không được phép đi học, đi thi, hành nghề, buôn bán. Vì thế, người Công giáo biết nghề gì thì truyền hết cho nhau, làm hàng gì thì phải thật tốt, bán hàng gì phải thật rẻ. Vì thế, dù khó khăn biết mấy họ vẫn sống được, vì ai cũng muốn mua hàng, giao hảo với người Công giáo. Người Công giáo biết chữ thì truyền hết cho nhau. Nhờ đọc kinh, đọc sách, cầu nguyện mỗi ngày nên ai cũng biết chữ. Khởi đầu là chữ Hán, chữ Nôm, sau là chữ Quốc Ngữ mà chính người Công giáo đã phát minh.

 

4. Chúng Ta Cần Phải Hội Nhập Văn Hoá Thế Nào Để Loan Báo Tin Mừng Cho Con Người Thời Đại Hôm Nay?

 

Nếu cha ông chúng ta trước đây đã đem những giá trị Tin Mừng để hội nhập vào nền văn hoá dân tộc giúp cho xã hội Việt Nam thăng tiến thì ngày nay người tín hữu Công giáo cũng cần phải quan tâm nhiều đến văn hoá để đem những giá trị Tin Mừng đổi mới chính mình và đổi mới dân tộc. Tiến trình ấy được thực hiện như sau:

 

4.1. Trước hết, người Kitô hữu hiểu rằng mình phải gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô trong đời sống để có thể suy nghĩ, nói năng, hành động như chính Đức Giêsu nhưng phù hợp với hoàn cảnh và thời đại hôm nay. Muốn thế họ phải tìm hiểu và học hỏi về Đức Giêsu Kitô.

 

4.2. Khi nhận ra những giá trị vĩnh cửu được Đức Giêsu Kitô mang lại cho con người và thế giới, người Kitô hữu mới thay đổi được nhận thức, từ nhận thức dẫn đến thái độ và hành động để tạo thành thói quen hành xử của người Kitô hữu, rồi lan toả ra xã hội để trở thành bản sắc cho dân tộc và đóng góp cho nền văn hoá của toàn thể nhân loại.

 

Để thực hiện điều này, Giáo Hội rất cần có một nhóm chuyên viên nghiên cứu những giá trị tốt đẹp của Tin Mừng và những kỹ năng sống để thể hiện những giá trị đó, rồi phổ biến cho các dòng tu, các đoàn thể Công giáo tiến hành, các tổ chức trong cộng đồng cũng như cho cả quần chúng ngoài xã hội qua các phương tiện truyền thông như sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet...

4.3. Nhận thức tiếp theo cũng rất quan trọng: Bản chất của Giáo Hội cũng là của Kitô hữu gồm 3 yếu tố liên kết mật thiết với nhau: đời sống cầu nguyện bí tích, hoạt động bác ái xã hội và hoạt động loan báo Tin Mừng (x. ĐTC Bênêđictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 20,25-32). Hình ảnh của ba vị thánh: Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Á thánh Têrêsa Calcutta và thánh Phanxicô Xaviê như nhắc nhở cho chúng ta điều đó.

 

Ba hoạt động này lấy Thiên Chúa Tình yêu làm điểm nòng cốt: người tín hữu gắn bó với Thiên Chúa Tình yêu qua đời sống phụng tự để nhận được ân sủng, quyền năng của Đức Giêsu rồi diễn tả tình yêu thành những hành động bác ái cụ thể trong xã hội, nhờ đó người khác nhận ra Đức Giêsu Kitô và tin theo Người. Đây chính là việc thể hiện "Giáo Hội Mầu nhiệm, Hiệp thông và Sứ vụ".

 

Suy nghĩ về việc hội nhập văn hoá tại Việt Nam và truyền giáo, lòng chúng ta tràn ngập niềm vui vì hiểu rằng người Kitô hữu đang đóng góp rất lớn cho nền văn hoá khi đưa những giá trị Tin Mừng của Chúa Kitô vào đời sống xã hội. Hơn nữa, lòng chúng ta cũng chứa chan niềm hy vọng vì thấy rằng tổ tiên Công giáo chúng ta đã từng thành công trong việc hội nhập văn hoá trong xã hội Việt Nam. Chúng ta tin tưởng bước theo Đức Giêsu Kitô vì Người đang ở giữa chúng ta, ở trong chúng ta với muôn vàn ân sủng để giúp ta hoàn thành sứ mạng truyền giáo cũng là sứ mạng cứu độ của Người.

 

(Bài chia sẻ của Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, 23.10.2010)

 

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc hội nhập Tin Mừng vào văn hoá dân tộc như thế nào:

1. Có thấy những nét đẹp trong văn hoá của những tôn giáo khác không?

2. Có biết đưa văn hoá Phúc Aâm vào đời, để cải tạo văn hoá đời nên tốt hơn và có thể đạt lợi ích vĩnh cữu.

3. Có chỉ lo sống đạo, còn đời, đối với xã hội thì không nghĩ đến!!!

4. Có phận sự tín hữu thì cũng có phận sự công dân.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu mang Tin Mừng từ trời xuống trần gian, làm cho các nền văn hoá thấm nhuần Tin Mừng cứu rỗi. Ngài hội nhập Tin Mừng vào nền văn hoá dân tộc Do Thái. Ngài cũng muốn các Kitô-hữu tiếp nối sứ mệnh của Ngài, đưa Tin Mừng vào văn hoá dân tộc mình. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: "Ta đến không phải để phá huỷ, mà là để kiện toàn lề luật". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, biết dùng mọi cách để đưa giáo lý Tin Mừng vào tô điểm nét văn hoá dân tộc mình được thêm phong phú.

2. Chúa phán: "Người xưa dạy: chớ bội thề; còn Ta, Ta bảo: đừng thề chi cả". Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu luôn nhận ra điểm sáng đẹp của văn hoá dân tộc mình, mà phát huy chúng phù hợp với giáo lý của Tin Mừng.

3. Chúa phán: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người ra sức loại bỏ những thành kiến, những kỳ thị, nhất là đối với người nghèo, phụ nữ, trẻ em; hơn nữa, dám giúp đỡ nhau đến với Chúa Giêsu mà được ơn cứu rỗi.

4. Chúa phán: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Người sẽ ban cho". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết nhận định giá trị của các truyền thống văn hoá, để chọn điều thích hợp với Tin Mừng.

Kết thúc: Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần giúp chúng con biết làm cho giáo lý Tin Mừng sáng lên trong nền văn hoá dân tộc, để đồng bào chúng con cùng được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Ngay từ thuở tạo thiên lập địa và tạo dựng con người, Thiên Chúa đã muốn cho con người được gắn bó với Thiên Chúa để được hưởng vinh quang và hạnh phúc trong Thiên Chúa Tuyệt Mỹ. Nhưng tội lỗi đã tạo ra mối ngăn cách giữa Thiên Chúa với con người và làm cho con người mất đi mối tương quan với Thiên Chúa, vì thế mọi đau khổ đều đến từ việc con người tách mình ra khỏi Thiên Chúa Hằng Sống.

 

Thiên Chúa tình yêu không bỏ rơi con người, theo dòng lịch sử Thiên Chúa đã dùng nhiều cách thế để mạc khải ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người, qua lời các tổ phụ, các thẩm phán, các ngôn sứ...và sau cùng nơi Đức Giêsu Thiên Chúa đã cho thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho loài người sa ngã yếu đuối.

 

Nhưng để có thể đến được với con người Thiên Chúa qua Đức Giêsu đã chọn cho mình một dân tộc, một đất nước, một dòng tộc, một gia đình...với những nét văn hoá của dân tộc, với những lề thói của làng xóm...để mạc khải tình yêu Thiên Chúa.

 

Trong cuộc đời rao giảng Đức Giêsu đã đem tin mừng của Thiên Chúa hội nhập vào văn hoá bản xứ Do thái một cách hoàn hảo, Người dùng những câu chuyện, những hình ảnh đời sống thường ngày của dân tộc để mạc khải mầu nhiệm nước Chúa: Nước Trời có khi như là hạt cải, có khi như là viên ngọc quý, có khi như là nắm men... Đức Giêsu còn dùng những biến cố xã hội, những thói quen để mạc khải ý định của Thiên Chúa: dụ ngôn người thợ làm vườn nho giờ thứ 11, dụ ngôn người phú hộ được phong vương trao cho các gia nhân những nén bạc khác nhau, dụ ngôn về ngày thế mạc giống như người mục tử tách chiên ra khỏi dê....

 

Có một câu chuyện cổ kể rằng: Procusto, một tên cướp ác độc và ngang ngược, hắn thường ngang nhiên chận người ở các ngã ba, ngã tư đường phố để ăn cướp. Lạ đời, trong những vụ cướp bóc, Procusto không mảy may lấy của ai đồ vật gì, vàng vòng, tiền của hắn phớt lờ, hắn chỉ chú ý tới con người. Thủ tục cướp bóc của hắn rất khác người. Trước tiên hắn cho đồng bọn mang vũ khí chận bắt người. Bắt được ai, bất kể nam nữ, các đệ tử trói cổ lôi ngay về sào huyệt hành sự! Trước tiên hắn cho cột nạn nhân vào một chiếc giường đặc biệt với thước tấc được tính toán chính xác. Chính Procusto chỉ huy, nạn nhân nằm trên giường nếu dài quá khổ, hắn ra lệnh chặt bớt chân cho vừa giường, nếu ngắn hơn khổ giường, phải cột giây vào chân để đồng bọn ra sức kéo cho dài vừa. Ai vừa vặn hắn thả cho về. Nghe nói tên cướp này cứ len lỏi sống giữa dân chúng, ngày ngày đi cướp bóc khắp nơi và ẩn náu rất kỹ, nên qua bao nhiêu thời, chuyện cướp bóc mờ ám này vẫn trót lọt, chưa một lần bị đem ra ánh sáng xét xử! Có tin đồn đại mãi tới hôm nay con cháu Procusto vẫn đang hành nghề đây đó ngay giữa thanh thiên bạch nhật!

 

Nếu Thiên Chúa hành xử với con người giống như Procusto thì có lẽ con người không thể nào còn hiện hữu được. Nhưng Thiên Chúa đã không ngại những phong tục, những tập quán của con người nên Người đã đến, đã sống và đem Tin mừng vào trong những phong tục tập quán ấy cho nó mang lại dấu chỉ của Nước Chúa, của Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa luôn hiện hữu trong đời sống của các dân nước, trong tâm thức của mọi dân tộc, điều căn cốt là làm sao cho sự hiện diện ấy được tỏ rạng nơi đời sống của các dân tộc.

 

Thật là may mắn cho dân tộc Việt nam chúng ta, trong tâm thức của mỗi người ai ai cũng tin có Ông Trời hiện hữu và hướng dẫn đời sống. Niềm tin này là một cơ hội thuận lợi cho việc rao giảng tin mừng Thiên Chúa nơi quê hương Việt nam chúng ta. Một Ông Trời hướng dẫn đến một Thiên Chúa tình yêu một khoảng cách nhỏ nhưng lại là một bước dài dành cho Giáo hội Việt nam nói chung và mọi Kitô hữu nói riêng để làm chứng Ông Trời chính là Thiên Chúa tình yêu.

 

Một lối sống hoà đồng, một đời sống lương thiện, một cuộc sống ngay chính, một gia đình thuận hoà... phải chăng là một lối sống rao giảng Tin mừng. Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, con người được Thiên Chúa ưu ái cho cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết sống, biêt hành động như thế nào để qua đời sống của chúng con mọi người nhận ra được Thiên Chúa mà chúng con tôn thờ là Thiên Chúa tình yêu và hằng hiện diện trong đời sống chúng con.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 2 : PHÚC ÂM

 

1/ Phúc âm có nghĩa là gì?

Theo nguyên ngữ thì Phúc âm (Việt Nam) hay Gospel (Anh), Euvangelion (Hy Lạp) có nghĩa là "Tin Vui" hay "Tin Mừng".

 

2/ Có mấy Phúc âm hay có mấy Tin mừng?

Trong Thánh kinh, danh từ Phúc âm thường ở số ít nghĩa là chỉ có một Phúc âm, nhưng được ghi chép và biên soạn dưới nhiều hình thức khác nhau như sau:

                        - " Phúc âm" (Philipphê 1, 7)

                        - " Phúc âm của tôi" (Rom 2, 16)

                        - " Tin mừng của chúng tôi" ( I Thes 1, 5)

                        - " Tin mừng của Đức Kitô" ( II Cor 9, 13)

                        - " Tin mừng của Thiên Chúa" ( Rom 1,1)

                        - " Tin mừng vinh hiển" ( I Tim 1, 11)

                        - " Tin mừng hòa bình" ( Eph 6, 15)

                        - " Tin mừng vĩnh cửu" ( Kh 14, 6).

 

Ngay từ buổi đầu sơ khai Hội thánh đã thừa nhận bốn cuốn Phúc âm nghĩa là chỉ  có một Phúc âm nhưng được bốn Thánh sử ghi chép.

 

3/ Bốn Phúc âm được biên soạn khoảng năm nào?

Có lẽ vào cuối bán thế kỷ thứ I khoảng năm 64-100.

 

4/ Phúc âm nhất lãm gồm những cuốn nào?

Gồm Phúc âm của Thánh Matthêô, Máccô và Luca.

 

5/ Tại sao lại gọi là Phúc âm nhất lãm?

"Nhất lãm" nghĩa là cùng một cái nhìn. Ngoài những cá biệt, Thánh Mt, Mc và Lc đều dùng một nguồn giống nhau. Trong khi đó, Phúc âm của Thánh Gioan mang những sắc thái cá biệt. Các nhà Thánh kinh gọi nguồn chung ấy là "Q" từ tiếng Đức " Quelle" có nghĩa là nguồn.

 

6/ Những biểu tượng của mỗi Thánh sử là gì?

Mỗi Thánh sử đều có biểu tượng riêng là bốn sinh vật mà sách Khải huyền 4, 7 nói tới ( đọc thêm Ez 10, 14).

- Sinh vật thứ nhất giống như sư tử ( biểu tượng cho Mc)

- Sinh vật thứ hai giống như bò tơ ( biểu tượng cho Mt)

- Sinh vật thứ ba giống như mặt người ( biểu tượng cho Lc)

- Sinh vật thứ tư giống loại phượng hoàng (biểu tượng của Ga).

 

Lời Chúa: "Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng" (Cv 2,42)

 

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian gieo Tin mừng cứu rỗi cho muôn dân, xin cho chúng con biết tiếp bước rao giảng của Chúa để cũng rắc gieo Tin mừng cứu rỗi cho hết mọi người.Amen.

SỐNG ĐẠO

VUI XUÂN

Vui Xuân là một nét văn hoá tốt đẹp, không ai chống đối, mà còn khuyến khích nữa. Cả năm qua mình sống an khoẻ, ai lại không vui. An khoẻ nhìn vào năm mới lạc quan hoài bảo cuộc đời vui phúc, cũng là một mốc vui không lý do gì cấm mình hưởng vui.

 

Nhưng tất cả đều đòi điểm trung dung mới tốt, mới đạt đức hạnh. Văn hoá không hẳn thứ nào cũng tốt, vẫn có những thứ văn hoá truỵ lạc.

 

Vui tết là tốt mà vui quá đà thì không còn tốt nữa. Tết qui tụ thân nhân dòng tộc là tốt, mà hợp nhau rồi ăn nhậu say sưa gây gỗ nhau thì việc qui tụ không còn tốt nữa. Nghỉ ngơi là tốt mà dùng dịp để bài bạc sát hại nhau thì hết tốt.

 

Tốn tiền để mua vui cho tết cũng đúng nhưng tốn quá, để lên mặt với đời, để thoả mãn tính thém khát, để bù lại những keo kiệt trong năm. Tốn nhiều quá làm cho gia đình phải khổ nhọc trong cả năm sau để trả nợ...thì mua vui dịp Tết không còn tốt nữa, mà còn gây tai hại.

 

Tết hợp nhau để ít nhiều giữ được dây liên kết của gia tộc, để lưu truyền lại những đức tính, những lề thói tốt của gia tộc...đó là tốt.

 

Trái lại, hợp nhau để tranh gia tài, tranh ảnh hưởng, tranh địa vị...thì cuộc hợp đúng là tai hại, là trường hợp gây chia rẽ.

 

Hợp nhau để bảo vệ truyền thống không mấy tốt của gia đình ví dụ: nghề cho vay, nghề đánh bạc, nghề chơi đề, nghề làm tiền...hợp như thế là tai hại.

 

"Chơi xuân kẻo hết xuân đi

Cái già tròng trọc nó thì đến sau"

Thử hỏi chúng ta đã thưởng xuân như thế nào? Có biết dùng xuân hay lạm dụng xuân.

 

Xuân qua rồi, chúng ta còn được an vui không? Hay phiền muộn? Đời chúng ta có thăng tiến không?

Tết an vui, Xuân phước lạc

Tết thăng tiến, Xuân thiện hảo

Tứ thời trường xuân.

TẾT HIỆP THÔNG

 

Văn hoá Á Đông đã tạo cho những ngày đầu Xuân thành những buổi lễ, vui chơi, ăn mừng. Vì mình được sống an khoẻ trọn năm qua, và hoài bão cũng được an vui hơn nữa.

 

Chúng ta có thể đem văn hoá Phúc Aâm vào để thiện hoá văn hoá của dân tộc?

 

Gợi ý: sống nhờ Chúa ban, để cám ơn Chúa, Chúa cho khỏi hoạn nạn, nhất là cho sống không tội, Chúa cho sống bình an, vui để cám ơn Chúa.

 

Nhìn vào ngày mai, chỉ mong an khoẻ thôi thì cái vui Xuân còn kém quá! Sao không ước muốn dùng ngày giờ, không lãng phí chạy theo đam mê tội lỗi, mà biết dùng để sống lành thánh, sống luôn nhờ Chúa, thể hiện lối văn hoá Phúc Aâm.

 

Đó là thể hiện mối hiệp thông!

 

Con người Chúa dựng nên có cá vị riêng biệt nhưng trong cuộc sống thì phải sống tập thể. Đời sống tập thể, cho nên cũng phải sống hiệp thông.

Hiệp thông với Chúa nghĩa là Chúa ban còn chúng ta chỉ nhận, con người có gì để trao đổi với Chúa. Hiệp thông với người là trao đổi với nhau: những tâm tình, ý nghĩ, những công trình, giúp đỡ nhau.

 

Hiệp thông nơi Ba Ngôi là mẫu mực. Mỗi Ngôi riêng biệt nhưng là Một. Vừa là mầu nhiệm trên hiểu biết của chúng ta mà cũng là gương mẫu Hiệp thông chúng ta noi theo.

 

Chúng ta không được quyềàn sống riêng biệt như một hòn đảo, sống giữa đời mà muốn tách biệt một mình cũng không thể được.

 

Chúa dựng nên mỗi người chúng ta có cá vị riêng biệt, nhưng bản tính đòi buộc chúng ta phải sống tập thể, sống tập thể đòi phải sống hiệp thông.

 

Chúng ta đều là con cái của Chúa và dĩ nhiên là anh em với nhau, phải sống hiệp thông.

SUY TƯ TÌM CHÂN ĐẠO

 

Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ. Sáng sớm được học biết đạo thì chiều có chết cũng vui. Phương châm  của Nho giáo quả quyết người đời phải học đạo.

Đạo là đường, là lề lối, là luật lệ hướng dẫn con người sống tốt, sống đúng nhân phẩm.

Đạo cũng là con đường giúp chúng ta nhận biết có Thiên Chúa, có Ông Trời. Cũng nhờ đạo mà chúng ta nhận thức mối liên hệ với Thiên Chúa, biết tôn thờ Chúa để đạt hạnh phúc.

Có thể quả quyết: Đạo là khẩn thiết cho con người, không có đạo thì không có nhân phẩm, không biết có ông trời thì không thể có hiếu thuận, tuân phục Thiên Chúa và dĩ nhiên không hưởng được hạnh phúc Chúa ban.

Cá nhân hạn hẹp không thể định đặt lê lối, luật lệ cho chính mình, nhất là lề lối, luật lệ phổ quát cho cả nhân loại, thì đòi phải có một Đấng Cao Siêu tuyệt đối, tạo dựng, xếp đặt, nhân loại phải phụng thờ để đạt hạnh phúc.

Sống vô đạo thì không đáng sống, sống không biết tôn thờ Chúa thì con người không đáng "có" vì không biết cội nguồn, căn bản, sống không mục đích thì sống để làm gì.

 

Vậy sống đạo cần phải có hai yếu tố căn bản này:

1. Sống làm người có phẩm giá.

2. Sống làm con Chúa, hiếu thuận, tôn thờ để được phước.

Như thế mới là chân đạo!

Để được tôn xưng là chân đạo, chính đạo thì dầu có đủ hai yếu tố căn bản: làm người có phẩm giá, thờ Chúa hiếu thuận, tuân phục...để được hạnh phúc...chưa đủ.

Cần: đạo phải được mạc khải, để không lầm lạc, để trường tồn và hưởng phúc.

Chỉ có Chúa mới mạc khải, vì chỉ có Chúa mới thấu đáo bản tính của Chúa, của người, của vật, biết rõ mối tương quan, chỉ có Chúa mới chỉ dạy đường lối, dạy đạo và chỉ định phương pháp cho đạo không đi lệch lạc mà trường cửu mãi.

Đạo tối khẩn cho con người, không đạo thì con người không đáng có, không đáng sống.

Có Đạo con người mới là con người.

Có Đạo con người mới là con Chúa.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- TỔ CHỨC NỘI BỘ CỦA GIÁO PHẬN tt-

 

I. TỔ CHỨC GIÁO PHỦ (các bài đã đăng năm 2010)

II. CÁC CƠ QUAN TƯ VẤN

1. Hội Đồng Linh Mục

a. Nguồn gốc

b. Thành lập

c. Thành viên

Số thành viên tuỳ thuộc vào số linh mục của Giáo phận. Trong một Giáo phận có nhiều linh mục thì điều 498 ấn định những điều kiện tối thiểu để có thể làm thành viên của Hội đồng linh mục hay đề cử đại biểu là:

1/. Phải là những linh mục. Các phó tế không được gọi là thành viên của Hội đồng linh mục (x. Communicationes, năm 1981, tr. 129).

2/. Các linh mục đã nhập tịch vào Giáo phận, hay ít nhất là đang cư ngụ trong Giáo phận và đang thi hành một chức vụ nào đó vì thiện ích Giáo phận (x.đ.498§2).

Điều 497 quy định số lượng thành viên của Hội đồng:

1/. Chừng một nửa số thành viên phải được chính các tư tế tự do lựa chọn chiếu theo quy tắc của Giáo luật và quy chế (dành ưu thế cho các đại biểu do linh mục đoàn trực tiếp bầu ra);

2/. Một số tư tế (1/4), chiếu theo quy tắc của các quy chế, phải là những thành viên đương nhiên, tức là thuộc hội đồng chiếu theo chức vụ đã được uỷ thác cho các ngài (Tổng đại diện, các Đại diện Giám mục, Đại diện tư pháp, Giám đốc chủng viện, Giám đốc các hội đoàn, Quản hạt);

3/. Một số thành viên khác (1/4) được Giám mục Giáo phận trọn quyền bổ nhiệm.

Từ những quy định của điều 497 và 498 của Bộ Giáo Luật, hiện nay tổng số thành viên của Hội đồng linh mục Giáo phận là 18 người, cụ thể như sau: 

Chủ Tịch: Đức Cha Tôma Nguyễn văn Tân

- Các thành viên (thứ tự nầy được trích từ trang Web của Giáo phận):

     1. Lm. Phaolô Lưu văn Kiệu

     2. Lm. Phêrô Dương văn Thạnh

     3. Lm. Micae Nguyễn Hồng Sung

     4. Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Việt

     5. Lm. Matthêu Nguyễn văn Văn

     6. Lm. Vincentê Lý Tấn Phúc

     7. Lm. Giêrônimô Đặng Cao Bằng

     8. Lm. Giuse Đinh Quang Lục

     9. Lm. Benoit Bùi Châu Thiên

     10. Lm. Giacôbê Nguyễn Huỳnh Tươi

     11. Lm. Phêrô Nguyễn văn Hồng

     12. Lm. Phanxicô Xaviê Trần Hữu Nhạn

     13. Lm. Phêrô Phạm Minh Tâm

     14. Lm. Tôma Trần Quốc Hùng

     15. Lm. Phêrô Huỳnh văn Hai

     16. Lm. Giacôbê Bùi văn Đảm

     17. Lm. Gioan Bt. Huỳnh Cao Thượng

     18. Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ

d. Cách thức hoạt động

- Quyền của Giám mục: Giám mục Giáo phận là chủ chăn của Giáo hội đia phương (x.đ.381) và thủ lãnh của linh mục đoàn, ngài được trợ giúp  bởi hai cơ quan tư vấn chính thức là Hội đồng linh mục và Hội đồng tư vấn. Vì vậy "Giám mục Giáo phận có quyền triệu tập hội đồng linh mục, chủ tọa và xác định những vấn đề sẽ được thảo luận trong hội đồng, hoặc chấp nhận các đề nghị do các thành viên đề nghị (x.đ. 500§1).

- Quyền của Hội đồng linh mục: Hội đồng linh mục chỉ có quyền tư vấn mà thôi, Giám mục Giáo phận phải tham khảo ý kiến  của hội đồng trong những việc rất quan trọng, nhưng chỉ cần sự đồng ý của hội đồng trong những trường hợp mà luật đã minh nhiên ấn định (x.đ.500§2). Vì là cơ quan tư vấn nên: "Hội đồng linh mục không bao giờ có thể hành động mà không có Giám mục Giáo phận; chỉ có một mình ngài có trách nhiệm phổ biến những điều đã được quyết định chiếu theo quy tắc của khoản 2 (đ.500§3).

e. Nhiệm kỳ

Quy chế sẽ ấn định nhiệm kỳ cho những hội viên được bầu cử, làm thế nào để trong vòng năm năm toàn thể hoặc một phần Hội đồng có thể được đổi mới. Những người được làm thành viên của Hội đồng chiếu theo chức vụ thì khi đã mãn chức vụ cũng đương nhiên rời Hội đồng.

Ngoài nhiệm kỳ của các thành viên, luật còn dự trù sự chấm dứt của toàn thể hội đồng trong hai trường hợp sau đây nói ở triệt 2 và 3 của điều 501:

1/. Khi trống toà,  Hội đồng linh mục đương nhiên chấm dứt chức vụ; mọi nhiệm vụ của Hội đồng linh mục được chuyển qua cho Hội đồng tư vấn và vị tân Giám mục phải liệu để thành lập Hội đồng linh mục mới trong vòng một năm kể từ ngày tựu chức;

2/. Hội đồng có thể bị Giám mục giải tán khi không chu toàn nhiệm vụ đã uỷ thác vì thiện ích của Giáo phận, hoặc đã lạm dụng nhiệm vụ của mình. Trước khi tiến hành việc nầy Giám mục phải tham khảo Tổng giám mục.

Từ các thành viên của Hội đồng linh mục mà Giám mục sẽ chọn lựa hai linh mục để phụ tá trong thủ tục bãi chức hay thuyên chuyển các cha sở (x.đ. 1743 và 1750); cũng từ các thành viên của Hội đồng nầy Giám mục chọn nhân viên cho Hội đồng tư vấn, mà có dịp chúng ta sẽ tìm hiểu sau.

TRANG LINH MỤC

Thờ Kính Tổ Tiên

Cứ mỗi độ xuân về, câu đối từ xa xưa lại gợi nhớ: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ - Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh". Có khi chẳng còn ai ăn thịt mỡ dưa hành, chẳng có bánh chưng xanh, cũng chẳng còn tràng pháo; thế nhưng ai cũng thấy lòng huyên náo, thấy cái rạo rực của xuân về.

 

Và rồi ai đó đã thành danh, hay đi xa học hành, công tác... mà chẳng tìm đủ mọi cách về sống với gia đình ít là trong ba ngày xuân mới. Là người Việt Nam, những dịp lễ tết, mà không sửa lại được nấm mồ cho tổ tiên, không sắp được mâm cơm đạm bạc rước ông bà tổ tiên về ăn tết, thì thật là những người con bất hiếu. Ngày 23 tháng Chạp, người ta tổ chức tiễn ông Táo về trời, và sau đó là mời tổ tiên về ăn tết. Trong văn hóa Việt Nam, chữ Hiếu luôn được đề cao và trân trọng. Một trong những nét đặc trưng thể hiện chữ Hiếu ấy chính là Đạo Ông Bà.

 

I. Thờ kính tổ tiên

Trong bất cứ một gia đình Việt Nam nào cũng đều có bàn thờ gia tiên, thường là ở phòng khách - nơi trang trọng nhất.

Những gia đình khá giả thì có tủ thờ, nơi bài trí bàn thờ gia tiên, có câu đối, có lư hương ngày đêm đèn nhang nghi ngút khói, có cặp lộc bình với vài cành hoa tươi, có dĩa trái cây... đặt trước di ảnh hay bài vị của người đã khuất.

 

Đối với họ, ông bà tổ tiên không chết, nhưng chỉ đi xa, khuất núi...; hay nói đúng hơn, ông bà hiện diện với con cháu một cách khác, thiêng liêng hơn, gần gũi hơn. "Đạo bất viễn nhân" là vậy. Bất cứ trong gia đình có chuyện gì dù to hay nhỏ, lúc con cháu thi cử, lúc công thành danh toại, lúc dựng vợ gả chồng, lúc sinh con đẻ cái, lúc bệnh tật ốm đau... tất cả đều được cẩn cáo với tổ tiên, được tổ tiên chứng giám và chúc phúc. Cuộc sống gia đình có hạnh phúc, bình an, làm ăn phát đạt... cũng chính là nhờ công đức và sự phù trợ của các ngài.

 

1. Đạo làm người

Việc thờ kính tổ tiên đã trở thành "đạo", bởi đã bắt nguồn từ những gì rất sâu xa trong lòng con người. Từ khi mở mắt chào đời, chúng ta đã được ướp trong tiếng à ơi của mẹ; chập chững bước ngắn bước dài, bập bẹ gọi "ba". Bầu trời tuổi thơ bát ngát tuyệt vời, đó là tình mẹ nghĩa cha. Đúng là:

 

"Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra."

 

Cảm nhận trên là cảm nhận chung của mọi người, nhưng cũng có thể nói đó là một cảm nhận rất Việt Nam; hơn ai hết, người Việt Nam sống trọn vẹn "đạo biết ơn" này. Dẫu cho bao nỗi thăng trầm của lịch sử, bao cuộc kết duyên giữa văn hóa và tín ngưỡng, "Đạo Ông Bà" vẫn là nguồn chảy, là tâm hồn của người Việt Nam. Đặc biệt khi nền văn hóa Khổng Mạnh đến Việt Nam, Đạo Ông Bà lại càng được củng cố, càng bám rễ sâu vào lòng con dân đất Việt. Chữ "Đạo" và chữ "Hiếu" đã giao thoa tạo nên nét độc đáo người dân ôn hoà trọng tình, giàu nghĩa.

 

Phong tục Việt Nam còn gắn liền với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, chúng phát triển sóng đôi và hỗ trợ cho nhau.  Đặc biệt việc cúng tế gia tiên, thờ cha kính mẹ..., từ lâu đã là nét tín ngưỡng độc đáo của người Việt.  Ý thức được điều này, dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, Giáo hội làm một cuộc hội nhập, một cuộc trở về với các truyền thống văn hóa - tín ngưỡng.

 

2. Hội nhập văn hóa

Lần đầu tiên trong lịch sử đạo lý, Giáo hội có một lối đánh giá thực sự tích cực về những tôn giáo lớn trên thế giới. Hơn nữa, những tư liệu về Giáo hội (Lumen Gentium), về Truyền giáo (Ad Gentes), và về Giáo hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et Spes), công bố ý định cứu độ của Thiên Chúa, ý định này chỉ bị hạn chế bởi quyết định tà ý của lương tâm con người mà thôi.

 

Với tinh thần cởi mở và đối thoại, Hội thánh nhìn nhận và tôn trọng mọi giá trị tích cực tiềm tàng trong các nền văn hóa và các tôn giáo khác.[Thư chung của Hội đồng giám mục Việt Nam, năm 1980].  Nền tảng để Giáo hội trân trọng sâu sắc các tôn giáo mà thần học gia Rahner cho rằng rất quan trọng về mặt đạo lý, được các nghị phụ

 

Công đồng Vatican II tóm tắt như sau:

Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lý, Chân lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng "là đường, sự thật và sự sống" (Ga 14,6), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn; và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình.

 

Vì thế, Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách trân trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo" [Nostra Aetate, số 2].

 

Những chỉ dẫn trên nói chung về việc trân trọng giá trị các nền văn hóa và tôn giáo, nhưng cũng có thể áp dụng cụ thể cho việc thờ cúng tổ tiên mà chúng đang bàn tới. Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Giáo hội ngày nay là vấn đề hội nhập văn hóa. Làm sao để Tin mừng của Đức Kitô không dập tắt đi những di sản văn hóa, tôn giáo của các dân tộc; nhưng trái lại, Tin mừng phải là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, phải là ánh sáng các dân tộc (Lumen Gentium), là ánh sáng trần gian (Ga 8,12).

 

Tin mừng và văn hoá tuy khác biệt nhưng không hề mâu thuẫn và cũng không tách rời nhau. Cá không thể thiếu nước, cũng vậy không thể tách rời Tin mừng ra khỏi văn hóa được. Tin mừng và văn hóa phải giao thoa và hoà điệu với nhau. Đức Giêsu đã được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên trong một nền văn hóa cụ thể. Ngài cũng có một quê hương, một nơi "chôn nhau cắt rốn" như tất cả mọi người. Ngài nói, suy nghĩ, ứng xử theo văn hóa Do Thái; và cũng có thể nói chính nền văn hóa ấy đã hình thành nên một con người Giêsu, một phong cách Giêsu.

Qua dòng thời gian, Giáo hội đã không tránh khỏi cơn  cám dỗ tách yếu tố văn hóa ra khỏi Tin mừng, hay là loan báo Tin mừng mang tính cách rập khuôn theo một nền văn hóa Tây phương nhất định. Bài học quá khứ cho chúng ta nhận ra rõ ràng hơn rằng văn hoá là địa hạt sống còn qua đó con người gặp gỡ được Tin mừng. Văn hoá không phải là Tin mừng, nhưng không thể đem Tin mừng đến với con người mà không thông qua nền văn hóa của họ. Đức Phaolô VI nói: "Việc tách biệt Tin mừng ra khỏi văn hóa là thảm trạng của thời đại chúng ta, gây ảnh hưởng sâu xa trên cả việc rao giảng Tin mừng lẫn nền văn hoa"[Xc. Ecclesia in Asia, số 21]. Việc rao giảng Tin mừng luôn bao hàm hai yếu tố cho và nhận. Trước khi loan báo nước hằng sống cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã xin chị nước uống tự nhiên!

 

Trong vũ điệu của văn hoá và Tin mừng, chúng ta phải trân trọng từng nốt nhạc, từng cử điệu là những giá trị tinh tuý của nền văn hoá, là truyền thống các tôn giáo; từ đó mới có thể khởi đầu một cuộc đối thoại, cùng nhau nỗ lực tìm về chân thiện mỹ, tìm ra đâu là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, trước viễn cảnh một thế giới đa phức tôn giáo, đặc biệt là với Á châu, nơi mà Đức thánh cha Gioan Phaolô II đang hy vọng một "mùa gặt đức tin bội thu",[Ecclesia in Asia, số 1] thì việc loan báo Tin mừng gặp không ít khó khăn, những nỗ lực hội nhập văn hóa mới chỉ là các bước chập chững khởi đầu. Lời mời gọi của Thầy Giêsu: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo" (Mc 16,15) vẫn là một mệnh lệnh khẩn thiết. Chúng ta phải rao giảng Tin mừng như thế nào, đó vẫn là thách đố cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta hôm nay. Thiết nghĩ, một cuộc trở về với bản sắc dân tộc có thể gợi mở một hướng đi cho công cuộc truyền giáo hôm nay.

 

Quốc Văn, OP

TRANG TU SĨ

Văn hóa công giáo không thay thế văn hóa dân tộc Việt Nam mà chỉ góp phần tô điểm, chấm phá đôi nét cho được dồi dào, phong phú, đẹp đẽ hơn thôi. Thánh Tôma Aquinô: "Ân sủng không phá hủy cái tự nhiên mà làm cho nó thực sự là nó, phong phú và đa dạng hơn, tựa như ánh sáng làm cho mọi dồ vật trong căn phòng lộ rõ nguyên hình...". Nét Công giáo trong văn hóa Việt Nam chính là chỗ lúc ẩn lúc hiện, không lộ liễu, chẳng đình đám.

 

Chữ quốc ngữ: những người công giáo đầu tiên tạo ra và sử dụng đến nay. Trường Công giáo đào tạo nhân tài cho đất nước. Một lớp người học tập kiến thức Phương Tây đầu tiên, góp phần làm giàu mạnh văn hóa nước nhà. Đem lại giá trị nhân văn thấm vào đời sống con người, xã hội: tôn trọng sự sống, phẩm giá con người, bình đẳng, tình bác ái, phục vụ, hy sinh... Cộng tác với chính quyền, góp phần xây dựng đất nước nhằm phục vụ con người.

 

Những nét văn hóa ăn sâu vào mọi phạm vi của đời sống:Làng xã, Lễ hội: Cưới hỏi, Giáng sinh, Phục sinh, An táng...Thơ văn (Thơ Đình Bảng, Ngọc Hạnh...) Kiến trúc: Nhà thờ, tượng Chúa và tượng thánh, tháp chuông. Nhà thờ như là trung tâm sinh hoạt tinh thần của làng quê.tiếng chuông linh thiêng đi vào lòng người và đi vào cả bài ca "Làng tôi" bất hủ của Văn Cao.  Âm nhạc: kho tàng nhạc đạo vô tận, ca đoàn nhà thờ "ban nhạc số một" của miền quê Việt Nam... Như vậy, văn hóa Kitô giáo đã thực sự hội nhập, điểm tô không thể thiếu cho nền văn hóa dân tộc.

 

Là một tu sĩ thao thức đem Tin Mừng vào văn hóa dân tộc, mong muốn tiếp nối công cuộc của tiền nhân. Đại Hội Dân Chúa "Ước mong các tu sĩ thực sự trở nên dấu chỉ và chứng nhân sống động". Tôi phải làm gì để góp phần mình vào việc đem giá trị Tin Mừng vào văn hóa dân tộc? Tôi mang trên mình sứ mạng cao cả đã lãnh nhận từ Chúa Giê-su; "Anh em phải là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,13.14)

Gia tăng học hỏi, trang bị kiến thức đạo đời, học biết những gì là tinh hoa của văn hóa dân tộc Việt Nam, những chi là "chân, thiện, mỹ" của nét văn hóa Công giáo để phục vụ, dấn thân. Lưu tâm đặc biệt đến các lĩnh vực phục vụ: văn hóa, xã hội, y tế, luân lí, đức tin để có thể nói dí dỏm rằng:

"Đâu cần tu sĩ có, đâu khó có tu sĩ

Học cho sự lý thông đôi nẻo

Tu để giác mê rõ một nguồn"

Quan trọng không kém là chứng nhân bằng đời sống. Chứng tá có sức cảm hóa con người mãnh liệt hơn lí thuyết suông. Nhà cải cách xã hội Gandhi nói với các nhà truyền giáo: "Hãy để cho cuộc sống của các ngài nói với chúng tôi như một đóa hồng, không cần ngôn ngữ mà chỉ cần đơn sơ để cho hương thơm tỏa lan hấu cả những người mù cho dù không xem thấy, họ cũng nhận ra hương thơm." Chứng tá quả những nét rất riêng của người phụ nữ Việt Nam: cần cù, đảm đang, trung hậu, quả cảm, quên mình. 

Tôi muốn "sống phúc âm giữa lòng dân tộc', muốn đem đạo vào đời, làm chút muối, chút men cho phong phú hương vị Việt Nam. Xin hãy cùng tôi thêm chút củi lửa đốt lên ngọn lửa yêu thương sưởi ấm trái tim Việt Nam. Cùng nhau ta hãy dấn thân trong sứ mạng yêu thương và phục vụ, quyết tâm xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương, để dung nhan Chúa bừng sáng trên quê hương Việt Nam.

"Đem tin Mừng vào văn hóa dân tộc

Tu sĩ quyết tâm chăm chỉ học

Chút muối chút men cho chút lửa

Để dung nhan Chúa được vinh danh"

Để kết thúc cho bài nầy,  xin ghi lại một giai thoại trong hạnh thánh Phanxicô Assisi để thấy vai trò của người tu sĩ Công Giáo trong văn hóa dân tộc là một việc thực tế và đã phát sinh nhiều ảnh hưởng.

 

Một hôm thánh Phanxicô Assisi gọi một tu sĩ trẻ tuổi đến và bảo:

- Này Thầy, ta đi giảng đạo nhé!

Hai cho con ra đi, sau khi rảo chân khắp phố,thánh nhân bảo thầy kia:

- Nào ta trở về!

Thầy kia ngạc nhiên hỏi:

- Thưa Cha, thế bao giờ chúng ta mới đi giảng?

- Giảng rồi Thầy ạ!

- Lạ, chúng ta đã giảng chi đâu?

- Này, chúng ta đã giảng bằng sự nghiêm trang tề chỉnh của chúng ta đó.

 

Quả thế, nếu là người tu sĩ Công Giáo chính danh, các tu sĩ sẽ đóng góp rất nhiều cho nền văn hóa dân tộc qua chính đời sống của mình.  

MTG Cái Nhum

Nhớ  Mãi  Mùa  Xuân

Nắng xuân trãi dài trên khắp quê hương. Những cành mai chớm nở đang khoe sắc vàng điểm tô cho dáng xuân thêm rực rỡ. Người người nô nức đón xuân về. Đã bao lần xuân đến ... Xuân đi ... Xuân nào cũng đẹp. Tết nào cũng vui. Mỗi lần xuân đến gợi lại trong tôi kỷ niệm một mùa xuân đậm nét trong ký ức của thời niên thiếu.

Trong thời gian tìm hiểu ơn gọi tại Họ đạo, những ngày cận Tết, lớp Dự tu của chúng tôi cùng làm cây Lộc Thánh mùa xuân. Tuy bận rộn nhưng chúng tôi phục vụ rất tích cực. Ngày cuối năm, Dì Phụ trách lớp ân cần nhắn nhủ chúng tôi:

- Dì Hai nhận thấy chúng con khá chăm ngoan. Hôm nay ngày cuối năm, chúng con được nghỉ Tết. Tết là dịp để chúng ta biết ơn Chúa, biết ơn nhau, thăm viếng nhau, chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp. Chiều cuối năm có Thánh lễ Tất Niên, chúng con cố gắng đi dự Lễ để tạ ơn Chúa nha. Qua một năm Chúa ban xuống cho Họ đạo chúng ta biết bao ơn lành. Nhất là trong năm qua, mỗi gia đình chúng con đón nhận nhiều hồng ân của Chúa. Có thể cha mẹ chúng con  bận công việc không đi dự Lễ được, chúng con nhớ dự Lễ để tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho gia đình. Khuya còn đón giao thừa nữa.

Bạn Mai thắc mắc:

-   Giao thừa là sao Dì Hai? 

Dì Hai  ân cần giải thích :

- Giao thừa là giây phút linh thiêng nhất của Năm Mới đối với truyền thống dân tộc Việt Nam. Riêng người Công giáo chúng ta đón giao thừa với một ý nghĩa linh thánh: Thiên Chúa là chủ tể thời gian. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa giây phút thiêng liêng nầy để tạ ơn Chúa và xin Chúa ban cho năm mới được an lành. Đa số cha mẹ chúng con có thói quen tốt nầy. Chúng con cố gắng đón giao thừa, cùng đọc kinh chung với cha mẹ trong giây phút linh thiêng nầy nha.

Dì Hai còn căn dặn thêm:

- Thánh lễ sáng ngày Mồng Một là Thánh lễ cầu bình an. Trong năm mới, ai cũng ước mong được sự yên lành. Dân tộc Việt Nam có truyền thống hái Lộc đầu năm. "Lộc" chính là cái tinh túy trong thân cây, giúp cây đâm chồi, "Lộc" còn là sự may mắn. Sau Lễ, chúng ta sẽ hái Lộc Thánh, câu Lời Chúa đó chính là "Lộc" Chúa gởi cho mỗi người chúng ta dịp đầu năm. Mỗi người chúng con hãy xem Chúa muốn mình làm điều gì trong năm mới nha. Dì Hai chúc chúng con ngoan hơn, học giỏi hơn trong năm mới, nhất là sớm đáp lại tiếng Chúa gọi mời nha.

Cả lớp cùng hớn hở thưa :

-  Dạ! Chúng con cám ơn Dì Hai.

Chúng tôi chia tay và hẹn nhau sẽ liên hoan sau Thánh Lễ Tất Niên.

 

Trong bữa cơm thật ấm cúng của gia đình, Mẹ căn dặn Chị Em tôi lo đi dự Lễ để cám ơn Chúa và cầu nguyện cho Anh tôi được ngoan đạo. Mẹ còn nói thêm: Con là Chị, ăn Tất Niên rồi lo dẫn Em về ngủ sớm để khuya đón giao thừa và đọc kinh chung với gia đình. Chị Em tôi mau mắn vâng lời Mẹ dạy. Đang sung sướng trong bộ quần áo mới, nghe chuông Nhà Thờ, chúng tôi hăng hái đi Lễ. Nhưng gần đến cổng Nhà Thờ, nghe âm thanh giòn giã, hấp dẫn của Hội chợ đâu đó vang lên. Tôi kéo hai Em nhanh chân chạy về hướng Hội chợ.

 

Đêm cuối năm, người người chen chúc vui chơi. Những trò chơi thật hấp dẫn của Hội chợ và cảnh đông người làm tôi quên mất thời gian. Hội chợ tan, về đến nhà, Cha Mẹ đã đọc kinh giao thừa  xong và đang ngon giấc.

Đêm đã khuya, mà tôi vẫn chưa ngủ được. Lời nhắn nhủ của Dì Hai ban sáng, lời ân cần căn dặn của Mẹ trong bữa cơm chiều đang réo gọi trong tôi. Tôi biết lỗi của mình, nhất là đã làm gương xấu cho hai Em. Dưới ánh mờ của đèn ngủ, ngước nhìn Thánh Giá trên Bàn Thờ; tôi cảm nhận Chúa đang dang rộng đôi tay ôm lấy tôi, ánh mắt nhân từ của Ngài đang trìu mến nhìn tôi Quì thẳng gối lên, tôi cúi đầu xin lỗi Chúa với quyết tâm sẽ không tái phạm. Tôi cảm nhận được sự tha thứ của Chúa và tôi đã chìm trong giấc điệp tự bao giờ.

 

Mùa xuân năm ấy đã đi qua. Tôi đã đáp lại tiếng Chúa gọi mời trong ơn gọi Mến Thánh Giá. Thế nhưng biến cố ấy luôn sống mãi trong tôi và nhắc nhở tôi ngày xuân biết ơn Chúa, biết ơn nhau, biết nhìn nhận Chúa là chủ thời gian, biết tìm và thực hành ý Chúa qua  "Lộc Thánh" trong ngày đầu xuân.

 

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

LỜI MỜI GỌI DÂNG HIẾN

"Thời nay, chúng tôi cần có những chứng nhân". Đó là lòng mong ước tha thiết của mọi tầng lớp con người trong thế giới hôm nay dành cho người môn đệ Đức Giêsu. Chính vì thế mà tất cả những gì người môn đệ nói, suy nghĩ, bàn luận vẫn chưa thể đáp ứng được khát vọng sâu xa của thời đại mà cần phải có những chứng từ sống động và đích thực, dám sống hết mình cho sứ mệnh, có đủ lửa để lan toả và sưởi ấm cõi lòng nhân gian, bằng con tim yêu mến và khiêm hạ; Dám lấy cả mạng sống mình mà loan báo, không e ngại khó khăn để đi đến tận biên cương, đối diện với thực tại và tiến lên phía trước; Dám xả thân, phục vụ với tất cả cõi lòng, với tất cả sức mạnh của Thiên Chúa trong con người của mình; Dám can đảm đến dựng lều giữa người nghèo, sống chết với người nghèo, nên một với người nghèo để cùng người nghèo khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa đang dẫn dắt và cùng đồng hành với họ trên đường tiến về quê trời mai hậu. người môn đệ cũng được mời gọi mặc lấy tấm lòng của Thiên Chúa để quảng đại, từ tâm với những ai nghèo khổ và đơn sầu.

Vâng, thời đại càng quay cuồng vì vật chất và ngẫu tượng thì sứ mạng dấn thân và phục vụ của người môn đệ càng khẩn thiết. Sứ mạng ấy gọi mời con người trở về gặp gỡ tình yêu, giúp con người sáng suốt và mạnh sức để sống nên, sống trọn, sống đẹp những giá trị của mỗi người. Hồng ân Thánh hiến là một cuộc đối thoại được khởi đi từ Thiên Chúa. Bổn phận của con người là tự do đáp lại lời mời đó. Công bố cho mọi người nghe lời tận hiến của mình trước hồng ân thánh hiến mà Thiên Chúa đã ưu ái dành cho. Khấn dòng tạo nên một mối tương giao mới giữa Thiên Chúa và tôi, giữa tôi và cộng đoàn mà cuộc tương giao ấy đã được thiết lập từ ngàn xưa.

Với tất cả những thao thức của nhân sinh, của thời cuộc, của tình thương và lòng nhân hậu mà Thiên Chúa dành cho, càng thôi thúc tôi noi gương Thầy Giêsu cất cao lời nguyện "Này con xin đến, để thực thi Ý Chúa" như là kim chỉ nam cho hành trình dâng hiến của tôi hôm nay và mãi sau.

Thầy Giêsu đã sống sự thánh hiến với Chúa Cha để yêu thương mọi người. Ngài sống trọn vẹn tấm thân của Ngài. Thân xác vô hạn được bao bọc bởi quyền năng quan phòng của Thiên Chúa. Tạo nên một thân thể để thấy được sự khác nhau giữa các tạo vật, để cho tất cả vạn vật được thánh hiến và được sai đến với những ai Thầy gặp gỡ trên đường. Thánh hiến của Thầy được thể hiện trọn vẹn nhất khi quyền năng Thiên Chúa được thành toàn nơi tấm thân yếu hèn của nhân loại. Cũng vậy, người môn đệ theo Thầy cũng được mời gọi diễn tả sự thánh hiến này trong chính tấm thân của mình cách trọn vẹn, ngay lúc này với quê hương, dân tộc. Mọi khả năng của bản thân không còn là sự phô trương ở bên ngoài nhưng là dấn thân phục vụ với cả tấm lòng yêu mến.

Thầy Giêsu đã hoàn toàn phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa Cha để sống và bày tỏ tình yêu ấy cho nhân loại. Trong cuộc đời của Ngài, tất cả mọi sự đều là ân ban từ Cha trao tặng. Ngài cũng rộng rãi trao lại cho từng người, bất chấp sự vô ơn, chối từ. Bằng thái độ hoàn toàn tự do, bình an trọn vẹn, Ngài đáp lại tình yêu nhưng không của Chúa Cha bằng một sự trung thành tuyệt đối cho đến quên cả mạng sống mình. Ngài trở nên hiền lành và khiêm nhượng, hoàn toàn nghèo khó và phó thác cho Thánh Ý Cha. Ngài cưu mang trong cái chết của mình nỗi thống khổ, lòng độc ác, sự ganh ghét của loài người, để đóng đinh chúng vào thập giá và tiêu diệt chúng bằng cái chết của Ngài. Ngài trao cho nhân loại chính con tim rộng mở và tình yêu của Ngài. Ngài ban tặng cho nhân loại trái tim bằng thịt thay cho con tim chai lỳ bằng đá. Nhờ sự vượt qua, nhân loại mãi mãi bước vào mầu nhiệm sự sống nơi Ba Ngôi. Từ nay, nhân loại có một nguồn mạch tình yêu tuôn trào từ Thánh Tâm Thầy Giêsu để được biến đổi ở đó. Thập giá trở nên như biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa hy hiến cho sự cứu độ của nhân loại phàm trần.

Mỗi ngày lời mời gọi người môn đệ hãy nên giống như Thầy càng tha thiết, da diết và khẩn thiết hơn nữa. Đó là lời mời trao phó trọn vẹn sự tự do của mình cho Thiên Chúa và cộng đoàn. Một sự sẵn sàng dâng hiến tất cả, không giữ lại điều gì. Lời mời gọi ấy đòi buộc người môn đệ phải trọn vẹn, tròn đầy, dứt khoát từ bỏ những tiện nghi của cải mà dấn thân cho lời mời gọi phục vụ và hiến thân. Chia sẻ với Ngôi Lời đời sống bấp bênh là trở nên trống rỗng, mở toang ra để có khoảng không gian và sự tĩnh lặng cho một Lời mới được sinh ra, mở lòng để đến với tha nhân. Lời Thiên Chúa đã đi vào trần thế để mời gọi con người đáp trả. Con người được tự do chọn lựa hoặc mở lòng nhận lãnh hoặc ra đi chối từ. Đáp lại lời mời đó, đòi hỏi người môn đệ phải có tâm hồn khao khát và sẵn sàng cho Chân lý, biết tìm nơi thinh lặng để gặp gỡ Lời và kiên trung thực hiện sứ điệp của Lời đã được trao tặng giữa nhân loại.

(Giuse Đình Tuấn, OP)

TRANG THIẾU NHI

Dấu Chỉ Tình Thương

Loan tin Mừng không đơn thuần là trình bày một mớ lý thuyết về đạo. Để người ta có thể đón nhận Tin Mừng Nước Chúa thiết nghĩ nó cần một nỗ lực không ngừng. Ta phải dùng mọi cách, mọi phương tiện có thể mới hy vọng mang lại hiểu quả. Tin Mừng được người ta biết đến chưa đủ nhưng cần phải ngấm sâu nơi tận trí lòng. Chỉ có như vậy Tin Mừng thật sự mới phát sinh hiệu quả trong đời sống.

Loan Tin mừng là trao tặng Đức Kitô

Đức Kitô là quà tặng tình yêu của Chúa Cha. Đó là tặng phẩm quý nhất trong các tặng phẩm, là sự hiến dâng đến tận cùng trong các cuộc hiến dâng. mỗi kitô hữu có nhiệm vụ phải diễn tả cách xác thực về Đức kitô mà mình đã biết, đã tin và đã cảm nghiệm. Có lẽ chưa bao giờ có người nào trên thế gian biết kính trọng người khác như Chúa Giêsu. Chưa bao giờ có người nào yêu thương con người cách sâu đậm như Đức kitô. Chưa bao giờ có ai hạ mình cách khiêm tốn như Đức Kitô. Làm cho người khác nhận biết Đức Kitô chẳng khác nào là gửi tặng cho họ những gì cao trọng và quý giá nhất. Bởi lẽ có Đức Kitô người ta tìm sẽ ra chân lý cuộc sống, dám bắt đầu lại từ những gì đã gãy đỗ, dám đương đầu với mọi khó khăn vì hiểu rằng có Chúa là có tất cả.

Loan Tin Mừng là gieo rắc tình thương

Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Chính việc làm yêu thương sẽ cải hóa lòng người, làm thay đổi thế giới. Người ta vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của Đức Gioan XXIII; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta khiến người không quên nhắc đến. Những hành động yêu thương là lời chứng hùng hồn cho Tin mừng Nước Chúa. Một linh mục chắc hẳn đã giảng dạy cho giáo dân rất nhiều trong thời gian dài của đời phục vụ. Nhưng điều giáo dân khắc sâu trong trí nhớ không phải là những lời giảng hay nhưng là hành động yêu thương mà linh mục ấy đã làm cho họ. Tôi không sao quên được hình ảnh một cụ bà tại họ đạo tôi ở trước đây. Sau Thánh lễ, cụ bà đứng khép nép bên góc nhà thờ, bà chờ tôi có vẻ khá lâu. Nhưng khi gặp chỉ nói một câu: "Con nhớ cha nhiều lắm, vì khi con của con bệnh giữa đêm cha đã đến xức dầu!". Một hành động dẫu nhỏ nhoi nhưng trong yêu thương cũng dễ gây động lòng người và đáng nhớ.

Loan Tin Mừng là làm nhiều dấu lạ cho cuộc sống

Giáo hội có nhiệm vụ tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô. Qua cuộc sống mình, Giáo hội đang muốn tái lập lại những phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm. Ngày nay không một dấu lạ nào đáng tin cậy cho bằng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Do đó người tín hữu tiếp tục làm dấu lạ bằng cách thể hiện một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu giống như Đấng đã sẵn sàng hy sinh chết cho người mình yêu.

Dấu lạ trong cuộc sống không nhất thiết đi tìm làm những việc lớn lao khác thường cho bằng cố gắng làm đẹp những gì rất bình thường trong đời sống. Trong một thế giới mà gia đình có nhiều khủng hoảng thì việc sống chung thủy trong đời vợ chồng, đó là phép lạ. Trong một xã hội còn nhiều giã dối bất công, ta cố gắng sống chân thật công bình, đó là phép lạ. Trong một hoàn cảnh mà người bệnh tật, nghèo khó thương cô đơn, ta hãy đến để an ủi và chia sẻ với họ, đó là phép lạ. Thiên Chúa muốn mỗi người tín hữu loan báo Tin Mừng bằng những việc cụ thể ấy. Đời sống chứng nhân cụ thể thì vượt xa những lời hùng biện.

Con người càng biết trao ban tình thường thì phép lạ trong đời sống luôn xảy ra. Thật ra trao ban không phải mất đi nhưng là lúc ta được lại. Càng trao ban ta càng lãnh nhận nhiều hơn. Ấy vậy nên mới nói "cho thì có phúc hơn nhận". Một đồng tiên kinh doanh là đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa sẻ chia là ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay mở rộng trao ban, tâm hồn mới ngậptràn vui sướng.

Con người biết trao tặng tình thương chắc chắn sẽ thu nhiều hoa trái tốt lành cho cuộc sống. Đó cũng là phương thế tốt nhất để đem Chúa đến mọi người và là công cụ hữu hiệu để Tin Mừng được loan báo muôn nơi.

Thánh Phaolô đã ghi lại lời vàng ngọc của Chúa Giesu như sau: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh". Thật ra, càng trao ban, người ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn.

Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng...

Càng trao ban, càng được nhận lãnh: đó là một định luật sống của con người trong mọi lĩnh vực. Tất cả con người chúng ta, tất cả sự sống của chúng ta, tất cả tài năng của chúng ta, tất cả những gì chúng ta có: tất cả đều do Chúa ban tặng. Thiên Chúa ban tặng tất cả cho chúng ta để chúng ta trao ban cho người khác và như vậy, chúng ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực... Cũng như biển hồ Galilêa tiếp nhận nước từ dòng sông Jordan để rồi ban tặng cho những sông lạch xung quanh và nhờ đó, trở thành trong xanh tươi tốt, cũng thế, sự sống chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa chỉ trở thành tươi tốt nếu nó được chia sẻ và trao ban cho người khác. Càng giữ lấy riêng cho mình, sự sống trong chúng ta sẽ héo tàn và chết dần chết mòn.

TRANG GIỚI TRẺ

Ngày nọ, có một anh thanh niên đến dự lễ Chúa nhật tại một Nhà thờ. Sau Thánh lễ, anh đến gặp vị Linh mục phụ trách và xin dâng cúng hai hộp nến để sử dụng trong việc thờ phượng Chúa. Anh nói: "Đạo nào cũng tốt, đạo nào cũng dạy người ta kính Chúa mến thầy nên dù con không phải là tín hữu nhưng con vẫn mến đạo Công giáo..."

 

Đúng vậy, một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam là Tôn Sư Trọng Đạo. Do đó, bản chất của người Việt Nam là quý trọng những ai hướng dẫn, dạy dỗ và giúp đỡ mình nên người. Vì "một chữ cũng là thầy và nửa chữ cũng là thầy".

 

Chúa Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể vì yêu thương con người nên Người cũng đã mặc lấy thân phận con người.  Người cũng đã được sinh ra và lớn lên trong đất nước Do thái. Trước mặt người đời Người cũng là một người Do thái như bao người Do thái khác. Vì thế, Chúa Giêsu cũng đã hội nhập vào văn hóa và phong tục của người Do thái. Trong suốt quá trình đi rao giảng Tin mừng Người cũng dùng những dụ ngôn phát xuất từ những phong tục trập quán của họ để dạy dỗ họ.

 

Ngày nay, Giáo hội cũng tiếp tục sứ mạng truyền giảng tin mừng của Chúa Giêsu cho nhiều anh chị em đang sống xung quanh mình. Vì Trước khi về trời Người đã nói: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19 - 20). Nghĩa là mọi thành phần dân Chúa đều có bổn phận rao giảng Tin mừng nơi quê hương xứ sở của mình.

 

Là người trẻ Việt Nam chúng ta được mời gọi sống Tin mừng trong nền văn hóa của dân tộc mình. Ngày tết nguyên đán của dân tộc Việt Nam sắp đến, chúng ta hãy nhắc bảo nhau đến Nhà thờ để xin Chúa thánh hóa cho những ngày sống của mình trong năm mới. Đồng thời, chúng ta nhớ để cầu nguyện cho những người làm ơn cho mình cũng như đi thăm viếng những người thân quen, những người làm ơn cho mình. Đó là chúng ta đang sống Tin mừng trong nền văn hóa của dân tộc mình. 

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

 

1. Cầu nguyện là gì?

Cầu nguyện không phải là cứ mở môi đọc, cũng chẳng phải là cúi gằm mặt xuống hay chắp tay lại. Cầu nguyện không phải là viếng nhiều đền thánh, cũng chẳng phải là mải miết lần một cỗ tràng hạt dài có đeo đầy ảnh tượng.

 

Cầu nguyện nằm trong lòng cuộc sống Kitô hữu. Không thể có đời sống tôn giáo đúng nghĩa nếu không cầu nguyện. Cầu nguyện chính là thưa chuyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta; chính là ngỏ lời với Đức Giêsu Kitô, người anh của chúng ta trong nhân tính; chính là cầu khẩn Chúa Thánh Thần, chủ nhân của linh hồn ta.

 

Cầu nguyện là một cuộc đối thoại, một sự trao đổi với Đấng mà ta biết là đang yêu thương ta. Cầu nguyện là nói với Chúa như con nói với Cha. Là nói với Người về niềm vui của ta vì được nhận biết và yêu mến Người. Là giải thích cho Người biết những khó khăn và những cố gắng của ta. Là kêu xin Người giúp đỡ và nài nỉ Người tha thứ. Cầu nguyện cũng là thưa chuyện với Chúa về những người anh em của ta. Cuộc đối thoại đơn sơ và thân tình này được diễn ra trong khiêm nhượng và tin tưởng, là bản chất của việc cầu nguyện đích thật.

 

2. Tại sao phải cầu nguyện? Ta có thể nêu ra 3 lý do:

Để yêu thương một người, cần phải nhận biết người đó, để nhận biết một người, cần phải năng lui tới với người đó, sự giao thiệp bao hàm việc nói năng, đối thoại. Cầu nguyện chính là sự đối thoại với Thiên Chúa để nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người hơn.

 

Một cuộc sống Kitô hữu đích thật thế nào là tuỳ ta đã dành cho cầu nguyện một vị trí nào. Ai cầu nguyện nhiều thì yêu mến nhiều. Ai cầu nguyện ít thì yêu mến ít. Thậm chí trọn đời ta có thể trở nên lời cầu nguyện nếu nó được dâng cho Chúa.

 

Cầu nguyện là gián tiếp có một ý tưởng nào đó về Đấng Tối cao: Người không phải là một người Cha thích trừng phạt hoặc một cảnh binh chuyên rình bắt các sự vi phạm của ta, cũng chẳng phải là một vị Chúa "xơ-cua" sẵn sàng thay ta làm việc. Cầu nguyện giúp ta khám phá ra gương mặt thật của Thiên Chúa. Người là một người Cha rất đỗi ân cần, đã mạc khải Đức Giêsu cho ta. Ta phải cầu xin để biết rõ Ngài đang mong đợi điều gì nơi ta. Nhờ cầu nguyện, người Kitô hữu lấy ý muốn, tư tưởng và ước vọng của Chúa đối với mình làm ý muốn, tư tưởng và ước vọng của mình. Người ấy sống trong mối thâm giao với Ba Ngôi Thiên Chúa, cố gắng yêu mến mỗi lúc một hơn. Như vậy, ta phải năng lui tới với Chúa để cả hai cùng nhận biết và yêu mến nhau.

 

Một lý do khác khiến ta phải cầu nguyện là vì Đức Giêsu đã nói: "Cũng như cành nho không thể tự mình sinh quả nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không luôn liên kết hợp với Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thầy luôn kết hợp với người ấy thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào, vì không có Thầy, anh em không làm gì được" (Ga 15,4-5).

Đời sống Kitô hữu trước tiên là sự sống của Chúa trong ta. Sự sống này, đã nhận được ngày chịu phép Rửa tội, tăng triển nhờ các bí tích và cầu nguyện. Cầu nguyện, chính là ý thức rằng Chúa Ba Ngôi, đặc biệt là Chúa Kitô, đang hiện diện trong linh hồn ta. Thánh Phaolô nói: "Giờ đây không còn là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Không cầu nguyện, người Kitô hữu chẳng thể làm được gì  trên bình diện đức tin. Nhờ cầu nguyện, sức sống Thần Linh luân lưu một cách mãnh liệt trong chúng ta, tựa như nhựa lưu thông trong cành cây. Cầu nguyện chính là làm cho mình được dồi dào Chúa hơn.

 

Còn một lý do cuối cùng khiến ta phải cầu nguyện. Đó chính là mẫu gương của Đức Kitô. thánh Luca nói rằng: "Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện" (6,12). Người đã cầu nguyện rất nhiều, dù rất bề bộn công việc. Những đám đông kéo đến để nghe Người nói và xin Người chữa bệnh. Nhưng Người thường lui về những nơi cô tịch và cầu nguyện (Lc 5,15). Trước khi chịu khổ nạn và chịu chết, Đức Giêsu leo lên núi Cây Dầu và thúc giục các môn đệ cầu nguyện với Người, nhưng họ chẳng nghe theo, chính Người thường quỳ gối để cầu nguyện. Trong cơn hấp hối, Người đã khấn nguyện với Cha mình thống thiết nhiều hơn nữa. Trên thập giá, Người cũng không ngừng nguyện xin.

 

Như ta thấy, cầu nguyện thấm nhập toàn bộ đời sống của Đức Giêsu Kitô. Vì thế, sốg đời Kitô hữu, theo guơng Đức Giêsu, là không thể bỏ qua việc cầu nguyện, một sự cầu nguyện thống thiết và liên lỉ. Người cũng đã kể cho họ một dụ ngôn nói về việc tại sao phải luôn luôn cầu nguyện, không bao giờ bỏ (x. Lc 18,1). Người môn đệ không hơn được Thầy mình. Đức Giêsu vốn là một nhà cầu nguyện vĩ đại. Theo gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải liên lỉ đặt mình trước mặt Chúa qua việc cầu nguyện.

3. Cầu nguyện có ích gì không?

Thế nhưng có người sẽ nói rằng những giờ phút và những cuộc đời hiến dâng cho Chúa để cầu nguyện như thế có ích lợi gì, khi mà trên khắp thế giới có biết bao khốn khổ, đói kém, giặc giã? Vào thời buổi chủ trương lợi nhuận và hiệu năng này thì nêu lên câu hỏi trên đây cũng là thường thôi.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã từng cảnh giác: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà thôi" (x. Mt 4,4). Nói như thế không có nghĩa là chia sẻ cơm bánh với anh em là một việc vô ích. Nhưng thứ cơm bánh mà người ta cần, là tình bạn, là sự gặp gỡ, là tình yêu thương nữa chứ?

Cứu người cho khỏi đói, làm cho thiên hạ phải tôn trọng các quyền lao động và quyền sống xứng đáng, loan báo cho mọi người biết Tin mừng giải thoát, đó hẳn là một bổn phận của ta, các Kitô hữu. Nhưng làm sao mang lại cho tất cả những điều ấy một ý nghĩa, ban phát tình thương cùng với cơm bánh, chẳng phải là một điều khẩn thiết không kém hay sao?

Cầu nguyện không tách ra khỏi cuộc sống, nhưng là một sự dấn thân để phục vụ tha nhân tốt hơn. Cầu nguyện mở lòng ta ra với Chúa  và với người lân cận. Khinh miệt kẻ khác, dửng dưng với các vấn đề của họ là những thái độ hoàn toàn đi ngược với sự cầu nguyện của Kitô giáo. Ta không cầu nguyện để trút bỏ gánh nặng của ta cho Chúa, mà là để xin Người ban ơn cho ta đủ sức thi hành các trách nhiệm của mình. Để giúp đỡ tha nhân, cần phải, cần phải yêu thương họ. Nhờ cầu nguyện, ta múc được tình yêu đối với tha nhân ngay trong con tim của Chúa. Các Kitô hữu vĩ đại đang phục vụ nhân loại đều là các nhà chiêm niệm tầm cỡ. Nếu không những thời gian kéo dài kề cận với Chúa trong kinh nguyện thì thử hỏi mẹ Têrêsa Calcutta có đủ sức để chiến đấu với sự khốn khổ không? Ta phải cầu nguyện để phục vụ nhân loại tốt hơn.

Các nhà chiêm niệm, trong các đan viện hay các tu viện, qua bậc sống của mình đã khẳng định rằng Thiên Chúa là gia tài tuyệt đối của con người; rằng không có gì có thể so sánh với Người được, và đối với họ, kinh nghiệm về Thiên Chúa chính là sự sống đích thực. Sự hiện diện của họ nhắc ta nhớ tới ích lợi căn bản của việc cầu nguyện. Nhân loại đang cần đến những người tìm kiếm Thiên Chúa. Các nhà chiêm niệm mở rộng chân trời của chúng ta, là những kẻ thường chỉ biết sống sà sà mặt đất mà thôi. Họ khiến ta hy vọng nhiều hơn, và vì thế thêm can đảm và vui sống.

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt

Imprimatur:

Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

Chiều Chúa Nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, vợ chồng Thanh Hà chở con đi học giáo lý Thêm Sức do Soeurs dạy, bất ngờ gặp tôi, tôi hỏi: "Anh chị đã dâng lễ chưa ?" . Thanh mau mắn trả lời: "Chúng con đã dự lễ sáng nay nghe Cha nói: "Chúa Giêsu, Ngôi Hai, Con Một Thiên Chúa đã đến cắm lều giữa loài người đem văn hóa sự sống và văn minh tình thương hội nhập vào nền văn hóa nhân loại, mang ơn cứu độ đến cho mọi người". Tôi khen Thanh: "Trí nhớ của anh hay lắm, rất bén nhạy, nghe xong nhớ liền". Nghe tôi khen Thanh, Hà lên tiếng: "Thưa Cha, trí nhớ anh ấy không bén bằng trí nhớ của con đâu. Hôm Cha phát Sứ điệp của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, về nhà, sau bữa ăn tối, anh đọc cho cả gia đình nghe. Sau đó con hỏi anh: "Số 4 Sứ điệp nói cái gì? Anh Thanh ú ớ không trả lời được, hôm đó con nói ngay, hôm nay con nói lại: "Trong hơn bốn thế kỷ hiện diện tại Việt Nam, Hội Thánh đã góp phần không nhỏ vào đời sống và sự phát triển của Đất Nước:

  1. Chính những người công giáo đầu tiên đã tạo ra chữ quốc ngữ mà mọi người Việt Nam hiện đang sử dụng.
  2. Các trường công giáo đã đào tạo biết bao nhiêu nhân tài cho Đất Nước.
  3. Cũng chính người Công Giáo đã đem những giá trị nhân văn thắm vào đời sống xã hội việt nam như tôn trọng sự sống và phẩm giá con người, sự bình đẳng, tình bác ái, tinh thần hy sinh, phục vụ.

Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 nhắn nhủ mọi tín hữu việt Nam: Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân: "Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt".

Nghe Hà nói lưu loát và chính xác tôi khen Hà: "Thanh có trí nhớ tốt, nhưng Hà còn có trí nhớ tốt hơn: "Hà và Thanh thật vui vẻ vì lời khen của tôi, cả hai cùng cám ơn ríu rít với tất  cả sự tươi trẻ. Nhân có đề tài bài báo tháng 2 năm 2010 " Đưa Tin Mừng vào văn hóa dân tộc" tôi đặt vấn đề với Thanh Hà: "Gia đình con có cách nào đưa Tin Mừng vào văn hóa dân tộc Việt Nam không?"

Câu hỏi đột ngột của tôi làm cho hai vợ chồng Thanh Hà lúng túng. Tôi vui vẻ nói:"Vợ chồng cứ suy nghĩ đi, bàn bạc cho kỹ để thấy cho rõ. Ngày nào thấy rõ chúng con cùng cho cha hay. Cha hy vọng vợ chồng con có thể xin Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn, nhờ Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp đỡ tìm ra được câu giải đáp tuyệt vời. Thanh Hà từ giã tôi ra về với niềm tự tin "Ngày mai trời lại sáng".

Rồi vào tối Chúa Nhật II mùa thường niên, vợ chồng Thanh Hà mời tôi ra nhà ăn cơm và sau bữa ăn họ cho tôi câu giải đáp. Vợ chồng con cái đã bàn bạc sôi nổi và đi đến nhất trí. Họ muốn cho tôi sự ngạc nhiên vui vẻ. Ăn xong, mọi người thu dọn rồi vào ngồi tại chỗ mình. Thanh Trịnh trọng lên tiếng: "Thưa cha đem Tin Mừng vào văn hóa phải khởi sự từ đem Tin Mừng vào cuộc sống. Mọi người trong gia đình chúng con sẽ có kỹ năng sống Tin Mừng đúng vai trò của mình bắt chước các thành viên gia đính Nazareth.

Trước tiên con phải là người chồng người cha hiền từ, dễ thương, khiêm nhượng quảng đại phục vụ như Thánh Giuse, vâng nghe Lời Chúa, để Chúa điều khiển hướng dẫn. Cụ thể con trung thành yêu thương chăm sóc vợ với tâm tình trọng kính, cảm thông, chia sẻ nâng đỡ vỗ về an ủi. Vợ con cũng cam kết sống hết lòng với Chúa, tận tình kính trọng yêu thương lo lắng cho con như Mẹ Maria khiêm tốn, hiến dâng quên mình, tận tụy chăm sóc mọi việc xuôi tốt đẹp, vui trong gian khó, vui trong hy sinh. Nét văn hóa đạo một vợ một chồng, gia đình ấm êm, xuôi chéo mát máy, trung thành, gắn bó vui cùng hưởng, buồn cùng chia, cực khổ cùng chịu. Cuộc sống chung vợ chồng sẽ làm nổi bật văn hóa sự sống văn minh tình thương.

Các con của chúng cin hứa đi học giáo lý, học Thánh Kinh hàng tuần, cố gắng tham dự Thánh Lễ hằng ngày. Sửa tính đổi nết, tôn trọng, yêu thương đùm bọc, nhún nhường, chia sẽ cho nhau. Không tranh giành, không cãi cọ, lo cho nhau theo khả năng, giúp nhau trong điều kiện có thể. Cách đổi xử giữa chúng con thật êm đẹp, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách, thậm chí lá rách cũng chịu chơi đùm lá rách.

Con và Hà sẽ hết lòng yêu thương hy sinh cho con cái, như Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse lo cho Chúa Giêsu. Chúng con dốc hết khả năng vừa chỉ dạy trong vai trò cha mẹ vừa cảm thông chia sẻ như người bạn dễ thương.

Các con cái chúng con hứa sẽ sống đạo đức, siêng chăm học hành, chia sẻ việc nhà với mẹ, sống với chúng con như những đứa con đức hạnh, hiếu thảo, cảm thông với cha mẹ, không đòi hỏi quá đáng, sẵn sàng làm vui lòng và làm cho cha mẹ hãnh diện.

Nghe đến đây tôi rất cảm động, vì gia đình Thanh Hà là cộng đồng tràn đầy sự sống và ân sủng của Chúa, một tổ ấm tràn đầy yêu thương, một gia đình có lý tưởng sống và lẽ sống, có kỹ luật yêu thương phục vụ, đem lại hạnh phúc cho nhau, có lòng mộ mến đạo đức phụng sự Chúa với cả tâm can. Dám hết lòng cho Chúa, vì Chúa, dám tận tình cho nhau vì nhau, dám phục vụ mọi người không cầu lợi. Tôi khen Thanh Hà: "Gia đình chúng con thật tuyệt vời, quê hương Việt Nam sẽ biết ơn chúng con. Vì gia đình chúng con sẵn sàng cung cấp một lối sống Tin Mừng yêu thương thật độc  đáo"

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

I. Ơn gọi là gì?

1. Ơn gọi sống cho một cuộc sống.

Khi nói đến ơn gọi, ta thường hiểu là tiếng Chúa mời gọi một số người dâng mình cho Chúa trong bậc tu trì hay trong bậc giáo sĩ. Những ơn gọi cũng có ý nghĩa chung là lời Thiên Chúa mời gọi mọi người vào một bậc sống nào đó như bậc sống giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân (sách Gl 277). Mỗi người đã được Rửa tội trong Hội Thánh đều được Chúa Thánh Thần kêu gọi để được sống theo bậc sống phù hợp với mình góp phần làm cho Nước Thiên Chúa sớm hoàn thành.

2. Trong cùng một bậc sống còn có những ơn gọi riêng.

Cũng nên hiểu thêm rằng trong một bậc sống còn có những hình thức khác nhau như: bậc giáo sĩ có thể là linh mục hay phó tế; bậc tu sĩ có thể là chiêm niệm hay hoạt động; bậc giáo dân nảy ra những thứ ơn gọi riêng, nhiều con đường thiêng liêng và tông đồ khác, như ơn gọi giáo lý viên, ơn gọi sống trong tu hội đời sống độc thân ở giữa đời, sống đời hôn nhân, trở thành vận động viên, trở thành ca sĩ....

II. Ơn gọi giáo lý viên.

Ơn gọi giáo lý viên là ơn gọi chung với giáo dân bắt nguồn từ bí tích Rửa tội và Thêm sức, nhưng có điểm riêng là được Chúa Thánh Thần kêu gọi cách đặc biệt, nghĩa là ban cho một đặc sủng (ơn đặc biệt) được Hội Thánh công nhận và đặc sủng này được biểu hiện công khai rõ ràng qua sự uỷ nhiệm của Đức Giám Mục.

Như vậy, trong công cuộc truyền giáo, giáo lý viên có ơn gọi riêng cho việc dạy giáo lý nhưng cùng chung ơn gọi với các giáo dân khác để làm tông đồ nhằm thiết lập và thăng tiến Hội Thánh.

Vì thế, giáo lý viên cần khám phá và nhận ra ý nghĩa sâu sắc của ơn gọi mình để phân định và vun trồng ơn gọi đó theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã đáp lại rằng: "Này con xin đến" và noi gương ngôn sứ Isaia thưa với Thiên Chúa: "Này con đây, xin hãy sai con".

III. Căn tính là gì?

Căn tính của một người

Trong xã hội hôm nay, khi đã lớn ai cũng phải làm Chứng Minh Nhân Dân hay Thẻ Căn Cước. Trong thẻ có nhiều chi tiết như: Tên, tuổi, quê quán, hình ảnh, dấu vết riêng, dấu tay... Tất cả chỉ để xác định tính cách riêng biệt của một người. Đó là đặc tính căn bản của một người được gọi là căn tính. Thẻ Căn Cước hay Chứng Minh Nhân Dân ghi căn tính đó. Tuy nhiên, đây chỉ là một căn tính tuỳ theo xã hội muốn biết nên quy định, chưa phải là tất cả căn tính của mỗi người.

Căn tính của Kitô hữu

Kitô hữu là thành phần của Hội Thánh. Trong Hội Thánh có nhiều bậc sống khác nhau. Trong mọi bậc sống cũng có nhiều cách sống khác nhau, bậc giáo sĩ có linh mục, phó tế; bậc tu sĩ có ẩn tu, trinh nữ. Mỗi lối sống theo ơn gọi của Thiên Chúa đều có những tính cách căn bản riêng, đó cũng là căn tính. Ngày nay ta thường thấy nói đến căn tính linh mục, căn tính tu sĩ, căn tính giáo dân, căn tính giáo lý viên.

Như vậy, căn tính của Kitô hữu tuỳ thuộc vào ơn Thiên Chúa kêu gọi và được Hội Thánh xác định tuỳ theo mỗi bậc sống.

Căn tính của giáo lý viên

- Chung với giáo dân.

Căn tính giáo lý viên có phần chung với căn tính giáo dân tuỳ theo ơn gọi giáo dân mà Hội Thánh đã xác định là giáo dân không theo hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Hội Thánh công nhận, họ thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Hội Thánh và trên trần gian theo phận sự riêng của họ. Phận vụ riêng là tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách quản trị các việc trần thế và sắp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa cảnh sống đời thường trong gia đình và ngoài xã hội.

- Khác với giáo dân:

Căn tính giáo lý viên khác với giáo dân ở chỗ: giáo lý viên có nhiệm vụ dạy giáo lý. Tuy nhiên, dạy giáo lý còn được sách giáo lý Hội Thánh công giáo và giáo luật chia làm hai loại:

 

Loại 1: dạy giáo lý trong cộng đoàn giáo hữu đã có đạo lâu đời.

Loại 2: dạy giáo lý cho cả người có đạo và nhất là cho muôn dân chưa có đạo.

Do đó, căn tính giáo lý viên thuộc loại một gồm ba yếu tố sau đây: là được Chúa Thánh Thần kêu gọi, được Hội Thánh trao cho một sứ mệnh, được cộng tác với nhiệm vụ tông đồ của Giám Mục.

Căn tính giáo lý viên ở xứ truyền giáo.

Căn tính này gồm ba yếu tố trên, tức là được Chúa Thánh Thần kêu gọi, được Hội Thánh trao cho một sứ mệnh, được cộng tác với nhiệm vụ tông đồ của Giám Mục, thêm một yếu tố nữa là được liên kết đặc biệt với hoạt động truyền giáo của Hội Thánh cho muôn dân.

Tóm lại, căn tính giáo lý viên ở xứ truyền giáo gồm 4 yếu tố chung và riêng sau đây:

- Được Chúa Thánh Thần kêu gọi.

- Được Hội Thánh trao cho một sứ mệnh.

- Được cộng tác với nhiệm vụ tông đồ của Giám Mục.

- Được liên kết đặc biệt với hoạt động truyền giáo của Hội Thánh cho muôn dân.

Sự cần thiết và quan trọng của căn tính.

Để đánh giá đúng và tôn trọng mọi người. Căn tính của một người giúp ta biết người đó có nguồn gốc cha mẹ nào, thuộc dân tộc hay nước nào, nam hay nữ, già hay trẻ, có chức vụ nghề nghiệp đặc biệt khác với người khác, đó là cơ sở để mọi người đánh giá đúng và tôn trọng nhiệm vụ và quyền lợi của người đó, cũng như để kiểm tra xem người đó có sống và cư xử đúng với căn tính của mình không.

Để mỗi người có ý thức và sống đúng căn tính của mình. Xã hội hôm nay đang thời mở cửa, theo kinh tế thị trường, phát triển công nghiệp, ảnh hưởng lớn đến công việc làm ăn sinh sống. Nhiều người bị cám dỗ và lôi cuốn theo những suy nghĩ mới về căn tính của mình, dựa theo những đòi hỏi tự do và thực dụng. Trong gia đình người phụ nữ không muốn làm vợ làm mẹ như trước, không muốn làm nội trợ. Đàn ông không muốn làm chồng, làm cha, không muốn chịu trách nhiệm về gia đình. Trong Hội Thánh, do thiếu linh mục, thiếu ơn gọi giáo sĩ, phụ nữ hay tu sĩ muốn làm linh mục. Linh mục muốn có gia đình và muốn coi ơn gọi chỉ là dịch vụ.

Kết luận:

Giáo lý viên phải luôn khám phá, phân định và vun trồng ơn gọi của mình. Giáo lý viên luôn ý thức mình là giáo dân, phải hiểu đúng ơn gọi người giáo dân để sống cho đúng bổn phận trong Hội Thánh và thế giới hôm nay, đồng thời giáo lý viên còn được Thiên Chúa mời gọi để dạy giáo lý, đó là một sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã trao cho Hội Thánh, Hội Thánh trao lại cho giáo lý viên.

Vì thế, giáo lý viên phải hiểu ơn gọi và căn tính của mình, phải học hỏi luôn luôn, không những để dạy mà còn để sống đạo cho mình, dạy giáo lý không chỉ bằng lời nói mà cả bằng nếp sống của mình như thế mới có tính thuyết phục.

Giáo lý viên sống đúng căn tính giáo lý viên. Giáo lý viên Việt Nam là giáo lý viên thuộc xứ truyền giáo, căn tính có thêm yếu tố là liên kết đặc biệt với hoạt động truyền giáo cho muôn dân chưa biết Kitô giáo.

Cả nước Việt Nam mới có khoảng 7% theo Kitô giáo, còn 93% chưa biết Tin mừng của Chúa Kitô. Vì thế, giáo lý viên Việt Nam không thể bằng lòng với việc dạy giáo lý cho trẻ em có đạo để chúng giữ đạo và chịu các bí tích, mà còn có bổn phận loan báo Tin mừng cho số người rất lớn chưa nghe biết Tin mừng, đồng thời khi dạy giáo lý cho các em, người hướng dẫn phải luôn nhắc nhở và tập cho các em biết cầu nguyện truyền giáo, tập cho các em biết truyền giáo cho các bạn của mình bằng cách chăm chỉ học hành, vâng lời thầy cô, sẵn sàng yêu thương giúp đỡ các bạn đang gặp khó khăn vì yếu kém hay nghèo khó.

 

TRANG QUỚI CHỨC

ÔNG CÂU

Lần trước chúng ta đã nói về ông Trùm. Lần này chúng ta lại bàn đến ông Câu.

Dựa theo điều 10 trong Điều Lệ Quới Chức thì nhiệm vụ của ông Câu  là:

1- Hợp tác với ông Trùm và thay thế ông khi ông nầy vắng mặt.

2- Phối hợp các sinh hoạt mục vụ trong họ đạo, trong các giới và các hội đoàn;

3- Lo gìn giữ những nơi thánh (nhà thờ, đất thánh) cho tử tế và sạch sẽ.

4- Quan tâm dến việc truyền đạo, các Giáo lý viên.

5- Quan tâm đến các vấn đề bác ái, xã hội; nhất là đối với những người nghèo khó, neo đơn, rối vợ chồng.

Dựa vào các điểm này thì ta thấy rõ ông Câu có một vai trò móc nối thật rõ ràng vì ông là người có các mối quan hệ thật đa dạng.

- Về người: ông Câu có quan hệ với: Ông Trùm, với các giới, các hội đoàn, các giáo lý viên, với mọi người,

- Các quan hệ khác: Phối hợp các sinh hoạt. Việc truyền đạo. Việc bác ái, xã hội. Nơi thánh.

Như vậy ông là người có vai trò qui tụ, kết nối người và việc lại với nhau thành một hệ thống tổ chức có trật tự và nhờ đó các hoạt động mục vụ trong họ đạo được diễn tiến tốt đẹp.

Ông Câu không những phải là người nối kết mà còn phải là người có khả năng giật dậy đời sống đạo của cả họ đạo. Chính các mối quan hệ mà ông có cùng với những công việc mà ông đảm nhận sẽ giúp cho việc phúc âm hóa được lan tỏa và thấm nhập vào đời sống của người có đạo cũng như lương dân, từ đó mọi người thay đổi cách sống. Họ sống tốt hơn, sốt sắng hơn.

Điều đó cho thấy phần nào vai trò của quí ông Câu không kém quan trọng và nặng nề. Vì thế xin Quí ông Câu ý thức vai trò mà mình đã nhận để luôn trao dồi tài đức cũng như vui lòng hy sinh cho họ đạo "Để Danh Chúa Được Vinh Quang"

SỐNG ĐẸP

MỘT CÂU CHUYỆN ĐẸP

 

Đây là một câu chuyện mà mẹ Têrêsa  kể lại trước khi mẹ đi vào thế giới vĩnh hằng.

 

Khi tôi dám nhận một người từ hè phố, họ đói, tôi cho họ bánh mì. Nhưng một người đang cảm thấy chán nản, cô đơn, mặc cảm, lại là người muốn bước ra hè phố. Đó là một người thiếu nghị lực. Nghèo về tinh thần là điều khó khăn hơn để vượt qua những ngịch cảnh của cuộc đời.

Có thể những người nghèo không của cải, nhưng họ lại thấy cuộc đời đầy thú vị và ấm áp biết bao.

Một buổi tối nọ, tôi ra ngoài và đón nhận bốn người ăn xin, một trong số họ đang trong tình trạng nguy kịch. Tôi báo với người cùng đi là hãy chăm sóc ba người kia, còn tôi sẽ mang người đó về nhà, đặt lên giường, nhưng mắt người đó đã nhắm nghiền, tuy vậy nụ cười vẫn trên môi, nắm lấy bàn tay tôi và cô ta thốt lên "cảm ơn", sau đó nhắm mắt và ra đi vĩnh viễn. Tôi không thể làm gì hơn nhưng tự hỏi lòng mình: "Tôi sẽ nói gì nếu như tôi trong tình trạng giống như cô ta?". Và tôi cũng tự trả lời rất đơn giản: "Tôi sẽ phải cố gắng làm mọi cách để mọi người chú ý đến mình và cho tôi ăn, tôi sẽ nói tôi lạnh, đau đớn...".

Nhưng cô ta đã cho tôi thấy nhiều hơn nữa, đó là tình yêu, sự cảm kích của mình. Cô ta chết với một nụ cười sung sướng.

Sau đó, có lần tôi đón nhận một người đàn ông từ một ống cống, nửa người của anh ta đã bị ruồi nhặng phá hoại. Sau khi mang anh ta về nhà, anh ta chỉ nói: "Tôi đã sống như một con thú và tôi sắp chết như một thiên thần, đã được yêu mến và chăm sóc", sau đó anh chết vẫn với nụ cười trên môi.

Điều đó quả thật tuyệt vời, anh ta đã không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho bất cứ ai hay so sánh với điều gì. Như một thiên thần - giàu có về lòng thương, tình nhân ái ngay cả khi nghèo khổ về của cải.

- Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.

- Cuộc sống rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.

- Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.

- Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.

- Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.

- Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.

- Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.

- Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó.

- Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.

- Cuộc sống như một bí ẩn, hãy khám phá nó.

- Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó.

- Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.

- Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.

Và cuộc sống vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá huỷ nó.

 

Nguồn: latdat

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Quẳng Gánh Lo Đi Mà Vui Sống

 

Người dẫn chương trình giơ cao một ly nước và hỏi khán giả:

- Quí vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?

- Điều đó còn phụ thuộc vào anh cầm nó trong bao lâu chứ.

- Đúng vậy, nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quí vị sẽ gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.

Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta cũng gục ngã. "Điều quí vị phải làm là đặt ly nước xuống, nghỉ một lát rồi tiếp tục cầm nó lên."

Thỉnh thoảng chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống xuống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Khi bạn trở về nhà, hãy quẳng lo âu về công việc ngoài cửa. Ngày mai bạn sẽ nhặt nó lên và tiếp tục mang. Còn bây giờ: Giải trí và thư giãn !

Nguồn: latdat

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Giáo dân có được phép cầm bánh lễ cho linh mục đọc lời truyền phép không ?

Hỏi: Một linh mục Dòng đang thăm viếng Hoa Kỳ đã đưa bánh  lễ cho mọi  người có măt cầm trong tay khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ tại tư gia, Việc này đúng hay sai, xin cha giải thích giúp.

Trả lời: Không biết ông bạn có nhớ đúng việc này như vậy không vì nếu đúng như vậy  thì linh mục kia đã vi phạm nặng nề kỷ luật Bí Tích về Thánh Lễ.

Với  kỷ luật và giáo huấn của Giáo Hội thì chỉ có Linh mục , khi dâng Thánh Lễ, được giơ tay trên Lễ vật trước lúc Truyền phép (consecration) cũng như cầm bánh và chén rượu nho trước và sau khi truyền phép mà thôi.Nếu có Phó Tế phụ giúp thì Phó tế được phép cầm chén Máu Thánh nâng lên cùng với Chủ Tế cầm Mình Thánh trước lúc đọc kinh Lậy Cha. Tuyệt đối người tham dự thánh lễ, dù là tu sĩ hay giáo dân,  không ai được phép làm chung việc này.Chắc chắn như vậy.

Nhưng Phó tễ cũng không được phép giơ tay trên Lễ vật cùng với Chủ tế và Đồng tế và phải quỳ xuống khi Chủ tế bắt đầu đọc Kinh nguyện Thánh Thể ( Tạ Ơn ) để phân biệt vai trò của Chủ Tế, Đồng tế và Phó tế.

Giáo dân tham dự thánh lễ,  ngoài phần  thưa đáp đã qui định, không được đọc chung hay làm bất cứ cử chỉ nào khác cùng với Chủ tế và Đồng tế. Do đó, nếu linh mục nào  phân phát bánh lễ hay rượu nho cho giáo dân cùng cầm  khi linh mục đọc lời  Truyền Phép Thánh Thể , nhất là cho phép mọi người  tham dự lễ cùng đọc chung Kinh nguyện Thánh Thể và lời Truyền Phép là vi phạm hoàn toàn kỷ luât bí tích về Thánh Lể và nêu gương xấu trong Giáo Hội.

Mọi  Giám mục, linh mục đều buộc phải tuân  giữ những gì Giáo Hội đã qui định về việc cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể. Không có luật nào cho phép giáo dân cùng cầm bánh hay chén rượu nho khi linh mục đọc lời Truyền Phép cả. Vậy ai làm khác đi thì  đã tự ý soạn Lễ Qui  riêng cho mình và tự tách mình ra khỏi kỷ luật chung của Giáo Hội về việc cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( The Eucharist).

Nếu ai chứng kiến việc vi phạm này thì có bổn phận phải trình cho Giám Mục địa phương của mình biết hoặc cho Bề Trên liên hệ nếu là linh mục Dòng.

Sau nữa về phần mình, giáo dân cũng không nên tham gia vào việc sai trái này và hãy  thách đố(challenge) linh mục nào làm việc này về kỷ luật bí tích của Giáo Hội.

Tôi quả quyết là việc làm này sai trái hoàn toàn nếu chúng ta muốn hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội trong việc tuyên xưng đức tin và cử hành mọi nghi thức phụng vụ thánh ở nhà thờ, nhà nguyện  hay dù  ở tư gia. (LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)

GÓC THƠ

Khóc   Bạn

(Nhớ Cha Bùi Hoàng, Giám đốc Trung tâm Mục vụ Giáo Phận Mỹ Tho,
từ trần ngày 14 - 01 - 2011)

Nỗi đau nào bằng nỗi đau mất bạn !

Chim có đôi, thuyền lướt sóng êm trôi.

Bỗng dưng biển động, trời bắt nổi sóng !

Nhận chìm sinh linh như chiếc lá rơi,

Nhìn di  ảnh trên quan tài lặng lẽ,

Bạn Hoàng tôi nhếch môi cười vô tư.

Tôi dừng lại, nói vui đùa hôm trước,

Tôi cứ tưởng bạn tôi đi vắng lâu !

Sao không kéo dài chuẩn bị cái chết !

Để bạn bè đến chia sẻ ủi an.

Lớp bảy hai Xuân Bích gần  Bùi nhất,

Xin họp lớp, mọi chi phí Hoàng bao.

Đánh bóng bàn, dắt đi chơi rửa mắt,

Khắp phố phường về tiễn lớp lên xe,

Có ngờ đâu chào mọi người vĩnh biệt !

Kiếp sống con người tưởng như cơn mê !

Làm sao con hiểu được Thiên ý Chúa!

Xin cúi đầu nhận hết thân phận thôi !

Con tin  Lời: theo Cha không hề mất

Chúa ở đâu, bạn con được kề bên

Để bạn bè con mãi bên nhau !

                                    Lm. Sơn  Đoài

1245    24-04-2012 20:34:45