Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Đức Giêsu Kitô, Lời Của Thiên Chúa - Tháng 03 năm 2010

LỜI CHỦ CHĂN

TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2 VĩnhLong

Vĩnh Long, ngày 24.02.2010

V/v  Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa

Kính gởi :  Quí Cha
Quí Tu Sĩ Nam Nữ
Anh Chị Em Giáo dân Giáo phận Vĩnh Long

1. Thư gởi Tín Hữu Do Thái mở đầu như sau: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri; nhưng vào thời sau hết, tức là những ngày nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự” ( Do Thái 1,1-2).

Những lời nầy cho chúng ta thấy Đạo là một cuộc đối thoại mà Thiên Chúa nhân lành đã khởi xướng, sau khi nguyên tổ loài người vi phạm lệnh Chúa: trước tiên là kêu gọi và ban những lời hứa cho Abraham, cho Isaac rồi cho Giacob, kế đến là cuộc giải phóng con dân Israel ra khỏi đất Ai Cập, lập Giao Ước với họ và ban Lề luật qua Môisen, sau cùng Chúa sai Con Một của mình làm người để cứu chuộc phàm nhân tội lỗi, và, bằng một Giao Ước Mới, đón nhận các kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, không phân biệt Do Thái hay lương dân  ( Rom 10,12; x.Eph 2,14-16) làm thành một Dân Mới, để chia sẻ gia nghiệp vinh quang phong phú (Eph 1,18.22).


2. Đó là Lịch Sử Thánh, Lịch Sử  ơn cứu chuộc. Một bên là những yếu hèn và bội bạc của con người và bên kia là Thiên Chúa trung thành với lời hứa, kiên nhẫn, tha thứ và giải thoát. Xưa kia Chúa nói với Môisen: “Ta thấy rõ nỗi khổ của dân Ta bên Ai Cập, và Ta đã nghe tiếng than chúng kêu lên trước mặt Ta… Ta xuống và giựt chúng thoát khỏi tay người Ai Cập” (Xh 3,7-8). Lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa còn được biểu hiện một cách mãnh liệt hơn biết bao nơi Con Chúa nhập thể: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rom 8,32 x.2 Cor 5,21). Chúa Giêsu Kitô là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Nầy là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Hãy nghe lời Người”( Mt 17,5).


Chúa Giêsu mời gọi đến với Người: “Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang gồng gánh nặng nhọc”(Mt 11,28). Chúa Giêsu còn là đường đến với Chúa Cha, là Thầy dạy cho chúng ta biết Chúa Cha, đối thoại với Chúa Cha: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14,6-7). 


3. Thánh Phaolô là người trước kia đã bắt bớ Hội Thánh, nhưng sau cuộc gặp gỡ trên đường đi Đamas, đã trở thành người Tông đồ nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Trong Thư gởi cho các tín hữu thành Côrintô, ngài viết : “Quả tôi đã quyết định là nơi anh em, tôi không muốn biết gì ngoài Đức Kitô Giêsu, và là Đức Kitô Giêsu bị đóng đinh Thập Giá” (1 Cor 2,2), và trong Thư gởi các tín hữu Rôma, ngài  bày tỏ xác tín vào Chúa Giêu Đấng Cứu Chuộc nhân loại: “Nếu ngươi tuyên xưng nơi miệng ngươi: Đức Giêsu là Chúa ! và nếu ngươi tin trong lòng ngươi: Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết ! ngươi sẽ được cứu rỗi” (Roma 10,9).


Thánh Astêriô Giám mục khuyên chúng ta: “Nếu anh em muốn nên giống Thiên Chúa, vì anh em đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài, thì hãy noi theo gương mẫu của Ngài. Anh em là Kitô hữu; tên của anh em đã gợi lên đức bác ái, vậy anh em hãy noi gương bác ái của Đức Kitô” (Bài giảng 13, PL 40, 355).


Dạy Giáo lý hay Giáo dục Đức Tin là làm thế nào giúp con người nhận biết, yêu mến và sống theo Chúa Giêsu Kitô, là Đường dẫn đến Chúa Cha, Đường vào Tình Yêu.

“Ước gì tôi đừng có vinh vang nơi một điều gì khác, trừ ra Thập Giá của Chúa chúng ta, là Đức Giêsu Kitô. Trong Người chúng ta được ơn cứu chuộc, được sống và được sống lại”  (Gal 6,14).

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
        Giám mục Giáo phận Vĩnh Long


CHỦ ĐỀ: ĐỨC GIÊSU KITÔ, LỜI CỦA THIÊN CHÚA

THƯ MỤC VỤ

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2).  Khuôn mẫu của Sứ vụ Dạy Giáo lý chính là sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng là Lời tuyệt hảo và trọn vẹn của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là mặc khải về Chúa Cha: từ lời nói, việc làm, từ sự im lặng cho đến những đau khổ Ngài chịu, từ lối sống cho đến những lời Ngài giảng dạy, Đức Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, (Ga 14,9), và Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Ngài” (Lc 9,35). (x.GLHT 516)

Dạy Giáo lý là giúp người ta khám phá nơi con người của Đức Kitô tất cả ý định muôn đời của Thiên Chúa. Đó là tìm hiểu ý nghĩa các hành động và lời nói của Đức Kitô, cùng những dấu chỉ Ngài thực hiện” (x.DGL 5). Mục đích tối hậu của việc Dạy Giáo lý là “làm cho mọi người chẳng những tiếp xúc mà còn thông hiệp thân mật với Đức Giêsu Kitô: chỉ một mình Ngài mới dẫn ta đến tình yêu Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và cho ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh” (x.GLHT 426).


“Trong việc Dạy Giáo lý, ta giảng dạy về Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa; tất cả những điều khác được giảng dạy quy chiếu về Ngài; chỉ một mình Đức Kitô giảng dạy, còn bất cứ ai giảng dạy đều phải giảng dạy như phát ngôn viên của Ngài, để Đức Kitô dạy qua miệng lưỡi họ…..mọi giáo lý viên đều phải áp dụng cho mình lời nói nhiệm mầu của Đức Giêsu: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7,16). (x.GLHT 427) (TMV số 6-8).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Nhà văn Chu Hải Lượng, Trung Quốc, kể về Bữa Tiệc Trong nhà Vệ Sinh  đầy tình người như sau:

Chị là Oshin – người giúp việc nhà cho một ông chủ ngoại ngũ tuần, rất giàu có. Đêm xuống, xong việc, vội vàng về với đứa con trai nhỏ 5 tuổi suốt ngày ngóng đợi trong căn nhà tồi tàn..


Hôm ấy, chủ nhà có lễ lớn, mời rất nhiều bạn bè quan khách đến dự tiệc đêm. Ông chủ bảo : Hôm nay việc nhiều, chị có thể về muộn hơn không? Thưa được ạ, có điều đứa con trai nhỏ quá, ở nhà tối một mình lâu sẽ sợ hãi. Ông chủ ân cần: Vậy chị hãy mang cháu đến cùng nhé.


Chị mang theo con trai đến. Đi đường nói với nó rằng : Mẹ sẽ cho con đi dự tiệc đêm. Thằng bé rất háo hức. Nó đâu biết là mẹ làm Oshin là như thế nào kia chứ! Vả lại, chị cũng không muốn cho trí tuệ non nớt của nó phải sớm hiểu sự khác biệt giữa người giàu kẻ nghèo. Chị âm thầm mua 2 chiếc xúc xích.


Khách khứa đến mỗi lúc mỗi đông. Ai cũng lịch sự. Ngôi nhà rộng và tráng lệ… Nhiều người tham quan, đi lại, trò chuyện. Chị rất bận không thường xuyên để mắt được đến đứa con nhếch nhác của mình. Chị sợ hình ảnh nó làm hỏng buổi lễ của mọi người. Cuối cùng chị cũng tìm ra được cách : đưa nó vào ngồi trong phòng vệ sinh của chủ… đó có vẻ như là nơi yên tĩnh và không ai dùng tới trong buổi tiệc đêm nay. Đặt 2 miếng xúc xích vừa mua để vào chiếc đĩa sứ, chị cố lấy giọng vui vẻ nói với Con : Đây là phòng dành riêng cho con đấy, nào tiệc đêm bắt đầu! Chị dặn con cứ ngồi yên trong đó đợi chị đón về. Thằng bé nhìn “căn phòng dành cho nó” thật sạch sẽ thơm tho, đẹp đẽ quá mức mà chưa từng được biết. Nó thích thú vô cùng, ngồi xuống sàn, bắt đầu ăn xúc xích được đặt trên bàn đá có gương, và âm ư hát… tự mừng cho mình.


Tiệc đêm bắt đầu. Người chủ nhà nhớ đến con trai chị, gặp chị đang trong bếp hỏi. Chị trả lời ấp úng: Không biết nó đã chạy đi đằng nào… Ông chủ nhìn chị làm thuê như có vẻ giấu diếm khó nói. Ông lặng lẽ đi tìm… Qua phòng vệ sinh thấy tiếng trẻ con hát vọng ra, ông mở cửa, ngây người: Cháu nấp ở đây làm gì ? Cháu biết đây là chỗ nào không? Thằng bé hồ hởi : Đây là phòng ông chủ nhà dành riêng cho cháu dự tiệc đêm, mẹ cháu bảo thế, nhưng cháu muốn có ai cùng với cháu ngồi đây cùng ăn cơ!


Ông chủ nhà thấy sống mũi mình cay xè, cố kìm nước mắt chảy ra, ông đã rõ tất cả, nhẹ nhàng ngồi xuống nói ấm áp: Con hãy đợi ta nhé. Rồi ông quay lại bàn tiệc nói với mọi người hãy tự nhiên vui vẻ, còn ông sẽ bận tiếp một người khác đặc biệt của buổi tối hôm nay. Ông để một chút thức ăn trên cái đĩa to, và mang xuống phòng vệ sinh. Ông gõ cửa phòng lịch sự… Thằng bé mở cửa… Ông bước vào: Nào chúng ta cùng ăn tiệc trong căn phòng tuyệt vời này nhé. Thằng bé vui sướng lắm. Hai người ngồi xuống sàn vừa ăn ngon lành vừa chuyện trò rả rích, lại còn cùng nhau nghêu ngao hát nữa chứ… Mọi người cũng đã biết. Liên tục có khách đến ân cần gõ cửa phòng vệ sinh, chào hỏi hai người rất lịch sự và chúc họ ngon miệng, thậm chí nhiều người cùng ngồi xuống sàn hát những bài hát vui của trẻ nhỏ… Tất cả đều thật chân thành, ấm áp!


Nhiều năm tháng qua đi… Cậu bé đã rất thành đạt, trở nên giàu có, vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhưng không bao giờ quên giúp đỡ những người nghèo khó chăm chỉ. Một điều quan trọng đã hình thành trong nhân cách của anh: Ông chủ nhà năm xưa đã vô cùng nhân ái và cẩn trọng bảo vệ tình cảm và sự tự tôn của một đứa bé 5 tuổi như thế nào…


Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thân hành đến với con người trong thân phận yếu hèn, giòn mỏng. Người  đã  làm người như mọi người, không tìm cách sống khác ai. Chính bằng cách sống đơn sơ, giản dị, với “lòng hiền hậu và khiêm nhường” như vậy, mà Đức Giêsu đã vén  mở cho chúng ta thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Ngài không là một ông vua, một vị chúa xa lạ bỏ mặc con người đau khổ trong bóng đêm của sự chết.


Khi làm người, Chúa trở nên đồng hàng với nhân loai, và như vậy là cho con người được nên ngang hàng với mình. Nói cách khác, Chúa làm người để người làm Chúa (Thánh Irênê). Làm Chúa có nghĩa là làm chủ chính bản thân mình, không phải làm nô lệ cho bất cứ ai. Con người Kitô hữu trước hết là một con người tự do, bởi vì được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng dang đồng hình với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người.


Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về chủ đề hôm nay:

  1. Xưa Chúa dùng tiên tri để phán dạy, thời nay, Chúa dùng Thánh Tử để phán dạy.
  2. Thánh Tử là Ngôi Lời, vì thế Lời Chúa phán dạy là Lời tuyệt hảo trọn vẹn.
  3. Cả đời sống của Chúa Kitô, hành vi, cử chỉ, ngay thời gian thinh lặng cũng là Lời Chúa.
  4. Dạy giáo lý là giúp khám phá, tìm hiểu chính Chúa Kitô.
  5. Hiệu quả của việc dạy Giáo lý không những tìm hiểu mà giúp tiếp xúc, kết hợp, đạt hạnh phúc.
  6. Lưu ý, dạy giáo lý phải trung thự

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy: “Mục đích tối hậu của việc Dạy Giáo lý là làm cho mọi người chẳng những tiếp xúc mà còn thông hiệp thân mật với Đức Giêsu Kitô: chỉ một mình Ngài mới dẫn ta đến tình yêu Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và cho ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh” (x.GLHT 426).

Như vậy, việc dạy Giáo lý là dạy về chính Đức Kitô, là trình bày Đức Kitô  là trung tâm của lịch sử cứu độ. Người không chỉ là Đấng thông truyền Lời Thiên Chúa, mà còn chính là Lời Thiên Chúa Nhập Thể. Bản thân người dạy Giáo lý phải xác quyết và trình bày đúng những gì mà Đức Kitô dạy về Thiên Chúa, về con người, hạnh phúc, đời sống luân lý, sự chết…mà không  được thay đổi tư tưởng của Người một chút nào. Vì thế các sách Tin Mừng phải là trọng tâm của việc dạy Giáo Lý.


Và vì Đức Kitô là Con Thiên Chúa, nên việc dạy Giáo lý cũng phải đặt trọng tâm vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ sự hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến, tuyên xưng và quyết tâm sống theo thánh ý Thiên Chúa; đồng thời nhận ra rằng chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu – Chúa  Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần yêu thương nhau từ muôn đời và mãi đến muôn đời – để chúng ta cũng biết đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và thương mến nhau. Thật vậy,  nhờ tin vào Đức Kitô, người tín hữu gắn bó đời mình vào Thiên Chúa, nhờ đó được giải thoát khỏi tội lỗi và được hưởng niềm vui ân sủng Chúa ban, giúp sống xứng đáng là con cái của Chúa đời nầy và hưởng vinh phúc đời sau với Người.


Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa, là Đấng Giảng dạy Chân lý về Thiên Chúa, để những ai tin vào Người thì được cứu độ. Các Giáo Lý Viên chỉ là phát ngôn viên của Người, những người trung thành truyền đạt lại những gì đã được Đức Kitô trao phó: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18 – 20). Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta tình yêu cứu độ của Người. Giáo lý viên thông phần vào sứ vụ của Đức Kitô để bày tỏ Thiên Chúa Cha cho con cái Ngài.

Đường lối sư phạm của Thiên Chúa thế nào? Thiên Chúa Cha dạy các con cái của Ngài bằng cách chấp nhận mỗi người trong thực trạng của chúng. Ngài tìm cách để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và kéo chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa Cha hoạt động qua các biến cố trong đời sống mỗi người để tỏ mình ra và tạo nên mối dây yêu thương chung thủy với mỗi người.

Đức Giêsu Kitô Chúa cũng đã cụ thể hóa nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha:

  1. Người luôn đón nhận những người khác, nhất là người nghèo khổ và tội lỗi, như những người được Thiên Chúa yêu thương và tìm kiếm;
  2. Người luôn trình bày chân lý và tình yêu của Thiên Chúa Cha mà không nhân nhượng;
  3. Người luôn tỏ ra nhạy cảm và yêu thương mãnh liệt để giúp người khác chiến thắng tội lỗi, kính trọng và  nuôi dưỡng sự sống;
  4. Người luôn mời gọi và thúc giục người khác sống niềm tin vào Thiên Chúa, hy vọng vào Nước Trời và bác ái với tha nhân;
  5. Người dùng nhiều cách để truyền thông với người khác, thí dụ: lời nói, im lặng, dụ ngôn, hình ảnh, thí dụ, và nhiều dấu hiệu khác nhau

Phương pháp sư phạm của Giáo Lý viên cũng phải bắt chước phương pháp sư phạm của Thiên Chúa. Giáo Lý viên phải giúp học viên nhìn thấy bàn tay của Thiên Chúa hoạt động trong các biến cố của đời họ. Qua môn Giáo Lý, học viên nhận thức sâu sắc mối dây liên hệ của mình với Thiên Chúa. Bởi vì, mục đích tối hậu của việc dạy Giáo Lý là đưa đến sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha bằng cách trở nên giống Đức Kitô nhiều hơn.  Mức độ giống Đức Kitô của mỗi người tùy thuộc vào việc người ấy làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi mỗi người. Sách Chỉ Nam về Dạy Giáo Lý kết luận: “Vì lý do đó, không ai có thể thành thầy dạy Đức Tin, trừ các môn đệ vững tin và trung thành với Đức Kitô cùng Hội Thánh Người” (Số 142).

Vì thế, “Người Giáo Lý Viên theo chân Đức Giêsu Kitô, phải luôn chuyên cần học hỏi Lời Chúa do Huấn Quyền của Giáo Hội thông truyền, phải luôn kết thân sâu xa với Đức Kitô và với Chúa Cha, phải có được tinh thần cầu nguyện, từ bỏ bản thân, hoàn toàn để Chúa Thánh Thần làm việc nơi mình trong mọi sự và mọi lúc”  (CT 5 và 6 ).

Tắt một lời, nhiệm vụ  Dạy Giáo Lý đòi buộc mỗi tín hữu phải có cảm nghiệm đức tin, một cuộc gặp gỡ thực sự với  Đức Kitô, như cuộc gặp gỡ đổi đời của Thánh Phaolô, Vị  Giáo Lý Viên tuyệt hảo: “Vì trước tiên, tôi đã
truyền lại cho anh em điều mà tôi cũng đã nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo Thánh Kinh, Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại theo lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, hầu hết những người đó hiện nay còn sống, dầu một số đã an nghỉ. Sau đó Người đã hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau cùng, Người cũng đã hiện ra với tôi, như một đứa bé sinh non.” (1 Cor 15:3-7). Chính cuộc gặp gỡ cá nhân nầy đã biến Phaolô từ kẻ bách hại trở thành nhà truyền giáo vĩ đại của Chúa Kitô.

Giáo Lý Viên phải là người trước tiên sống có Đức Kitô, để qua chúng ta, người khác đụng chạm, gặp gỡ được chính Chúa Kitô, nhờ đó cuộc đời họ được biến đổi.


Thật vậy, đức Tin Công Giáo là một kinh nghiệm; một kinh nghiệm đổi đời và cá nhân về Đức Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Tất cả những điều khác trong cuộc đời Thánh Phaolô, và tất cả những điều khác trong cuộc đời chúng ta đều phát sinh từ cuộc gặp gỡ riêng với Đức Kitô ấy. Nếu chúng ta thật sự tìm kiếm Người, thì chúng ta sẽ luôn luôn tìm thấy Người. Nhưng một khi tìm thấy Người, chúng ta cần phải sẵn sàng đón nhận hậu quả, vì cuộc đời chúng ta sẽ hoàn toàn đảo ngược.


(Viết Theo sách Chỉ Nam Về Việc Dạy Giáo Lý, trích từ giaoly.org, do Phạm Xuân Khôi tổng hợp).


Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc dạy Giáo lý của mỗi người như thế nào?

  1. Chúng ta có nhận biết tín hữu phần nào cũng có nhiệm vụ dạy giáo lý không?
  2. Chúng ta có biết dạy giáo lý là khám phá và học biết Chúa Giêsu không?
  3. Chính Chúa Giêsu là Lời, là Ngôi Lời mạc khải, chỉ dạy những chân lý và hướng dẫn sống đúng chân lý, có nhận biết không?
  4. Cả đời sống của Chúa Kitô là Lời Chúa, chúng ta có nhận biết không? Khi Chúa làm hay thinh lặng cũng đều là Lời Chúa.
  5. Trong họ đạo, hay cộng đoàn nên tổ chức những người dạy giáo lý, để việc dạy giáo lý được chuyên nghiệp và thường xuyên. Chúng ta có nghĩ đến không?
  6. Xuyên tạc và bóp méo giáo lý, Lời Chúa là mang tội phạm thánh, có biết không?

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,


Ngày xưa Thiên Chúa dạy cha ông chúng ta nhờ qua các ngôn sứ, ngày nay Thiên Chúa truyền dạy chúng ta nhờ chính Con Một Người là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người nhận biết lời Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:

  1. Chúa phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, biết vâng nghe theo lời Chúa Giêsu như vâng nghe chính Lời của Thiên Chúa.

  2. Chúa phán: “Ai yêu mến Ta thì vâng giữ lời Ta, Cha sẽ yêu mến người ấy”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu, biết vâng giữ lời Chúa Giêsu để được Chúa Cha yêu mến, và được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.

  3. Chúa phán: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì chính là anh chị em, và là mẹ Ta”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô hữu biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, để được gia nhập vào gia đình Thiên Chúa trên trời.

  4. Thánh Phêrô tuyên xưng: “Nơi Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết trọn lòng tuân giữ lời Chúa Giêsu, để được Chúa ban sự sống đời đời

Kết thúc: Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu, như tuân giữ lời Thiên Chúa hằng sống, hầu cho tất cả chúng con được hưởng hạnh phúc đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

NGÔI LỜI

Những trang đầu của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã dạy cho người tín hữu biết làm thế nào mà nhận biết có Đức Chúa Trời, đó là bằng lý trí tự nhiên và bằng mặc khải của Thiên Chúa. Với lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết có Đấng Toàn Năng, Siêu Vượt trên tất cả mọi sự. Nhưng sự nhận biết này nếu không có mặc khải của Thiên Chúa thì dễ làm cho con người có cảm nhận rằng Thiên Chúa là một Đấng xa vời mà con người không có cơ may gặp gỡ. Giống như trường hợp điển hình của Phêrô, khi ông nhận ra người đang đứng trước mặt ông không phải là một con người như bao người mà là Đấng Thánh Của Thiên Chúa thì “ông sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 8). Vì thế, phải nhờ mặc khải của Thiên Chúa con người mới có thể nhận biết được Thiên Chúa là ai và Ngài muốn gì cho con người. Qua các tổ phụ, các tiên tri và đặc biệt qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho nhân loại. Đặc biệt mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa là mầu nhiệm tỏ lộ tình yêu thương vô cùng của Đấng Vô Cùng. 

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Với một câu ngắn ngủi, thánh Gioan đã cho thấy được một mầu nhiệm lớn lao của Thiên Chúa, Lời của Thiên Chúa hay nói cách khác chính Thiên Chúa đã trở nên một con người và Con Người ấy đang ở giữa chúng ta, giữa nhân loại này. Bao nhiêu khoảng cách xa xôi mà lý trí con người không thể vượt qua, khoảng cách giữa Tạo Hoá và thụ tạo được Thiên Chúa kéo lại gần gũi qua con người Giêsu, Giêsu là Thiên Chúa ở giữa con người.


Theo Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, có bốn lý do để Thiên Chúa làm người:

  1. Thứ nhất là để cứu độ chúng ta bằng việc đền bù tội lỗi và giao hoà ta lại với Thiên Chúa (GLHTCG số 457)

  2. Thứ hai là để chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16) (GLHTCG số 458)

  3. Thứ ba là để nêu gương thánh thiện cho con người, “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12) (GLHTCG số 459)

  4. Thứ tư là để làm cho con người được trở nên “những con người thông phần bản tính thần linh” (2Pr 1, 4). Thánh Anathasiô đã nói “vì Con Thiên Chúa đã làm người để chúng ta trở nên Thiên Chúa” (GLHTCG số 460)

Có thể nói được rằng, không học biết giáo lý thì làm sao có thể nhận biết được mặc khải của Thiên Chúa, mặc khải lớn lao của Thiên Chúa đó chính là Đức Giêsu. Không biết Thiên Chúa, không biết Đức Giêsu thì làm sao con người có thể sống hạnh phúc được vì không nhận thức được mình được Đấng Tạo Hoá yêu thương, đồng hành trong cuộc sống tại thế này và muốn cho con người được sống hạnh phúc trong tình yêu thương ấy.

Tông huấn Catechesi Tradendae số 5 có nói: “Dạy giáo lý là tỏ ra cho thấy nơi Con Người của Đức Giêsu toàn thể dự án đời đời của Thiên Chúa nên trọn trong Con Người ấy. Nó là việc tìm hiểu ý nghĩa các việc làm, lời nói và dấu chỉ do Người thực hiện”. Như thế, Chúa Giêsu phải là trung tâm điểm cho mọi cuộc chia sẻ giáo lý, “việc truyền đạt đức tin Kitô giáo chính là việc loan truyền Chúa Giêsu Kitô để làm cho những người khác tin tưởng nơi Người” (GLHTCG số 425).

HỌC KINH THÁNH

BÀI 50: NGÔN SỨ GIÔ-NA

1/ Lược truyện:
Đây là một loại chuyện ngụ ngôn kể về việc Chúa gọi Giôna đến Ninivê, thủ đô nước Assyria, để kêu gọi dân chúng sám hối. Nhưng Giôna không nghe, ông xuống tàu đi về phía ngược lại. Bão nổi lên, các thủy thủ cho rằng đó là vì một vị thần giận người nào trên tàu. Họ bắt thăm trúng Giôna, ông xin họ ném ông xuống biển, bão yên. Một con cá lớn nuốt Giôna. Ba ngày sau cá nhả ông trên bãi biển thành Ninivê (Nhưng Ninivê nằm sâu trong đất liền).
Chúa lặp lại lệnh trước. Giôna vâng lời vào thành Ninivê giảng. Toàn thể thành Ninivê từ vua đến dân và cả súc vật hãm mình đền tội nên Chúa không phạt họ. Giôna buồn bực vì Chúa tha chết cho Ninivê nên Chúa khiến cho một dây leo bị chết đi để cho ông một bài học: Ngài thương mạng sống con người sao Ngài nỡ để họ chết được?

2/ Bài học

a. Tiêu cực: Qua câu chuyện trên muốn bài bác tính ích kỷ, hẹp hòi, bài ngoại của người Do thái sau thời lưu đày. Họ cho rằng chỉ có họ mới được Chúa chọn, còn dân ngoại không được cứu độ.

b. Tích cực: Thiên Chúa muốn cứu mọi nguời bất luận họ thuộc dân nào, nước nào, vì Ngài yêu thương tất cả miễn là họ thực lòng hối cải (Gn 3, 10; 4, 2.11).

Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng trích dẫn sách Giôna để tố cáo những người Do thái không chịu sám hối. Giôna ở trong bụng cá ba ngày là hình ảnh tiên báo việc Chúa chết và sống lại (Lc 11, 29b-30).

Lời Chúa: “Thế hệ nầy là một thế hệ xấu xa; chúng đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽõ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ôngï Giôna. Vì như  Giôna đã nên dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ nầy như vậy”. (Lc 11, 29b-30).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ban cho loài người khả năng biết nhìn lại những hành vi đã qua. Xin cho chúng con biết tận dụng khả năng nầy để biết sám hối hầu được Chúa tha thứ cho chúng con. Amen.

SỐNG ĐẠO

MÙA CHAY

Trải qua Mùa Chay, chúng ta có cảm nghĩ gì?

Hội thánh muốn chúng ta kính nhớ Chúa vào hoang địa, và noi gương Chúa chay tịnh 40 đêm ngày. Chúa chay tịnh để bước vào cuộc sống giữa đời tiến đến tử nạn và phục sinh. Chúng ta noi gương để chuẩn bị hầu hưởng nhờ những ân huệ cứu chuộc và phục sinh.

Chúng ta có noi gương Chúa chay tịnh không?

Thật ra, Chúa chay tịnh 40 ngày nhịn ăn, không ăn…điều nầy vượt quá khả năng của chúng ta. Hội thánh hiện nay chỉ buộc ăn chay hai ngày: Thứ tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh và kiêng thịt các ngày thứ sáu.

Mùa Chay đúng là buộc chúng ta tập chịu khó, hãm mình vác thánh giá để đền tội và lánh tội. (Tội là tìm, là đón nhận những vui sướng, thoả thích trái với ý Chúa, với lịnh Chúa. Vâng nhận vác thánh giá, chịu khổ để đền, để chịu phạt, lại cũng để lánh tội nghĩa là chịu khó kiềm chế những khuynh hướng xấu). Thế là đời được trong sạch để đón nhờ ơn Chúa!


Chúa Giêsu chay tịnh, có thể nói là, vác thánh giá để tiến đến tử nạn rồi mới Phục Sinh. Hội thánh kéo dài 40 ngày để nhắc chúng ta việc chay tịnh có nghĩa là vác thánh giá, đồng thời nhắc chúng ta việc chay tịnh không hạn hẹp trong thời gian, trong vài việc,  mà phải vác thánh giá kể như thường xuyên cho đến chết. Bao lâu chúng ta còn tội thì còn phải chay tịnh. Vả lại, sau nguyên tội thì đời là khổ, là sủng khóc lóc.


Đón nhận chay tịnh có thể đặt một vài việc để hãm mình. Ví dụ: ăn uống kham khổ, thức khuya dậy sớm…thường hơn những khổ nhọc hằng ngày, những công việc trái với sở thích, những buồn phiền, những bệnh hoạn… Vui đón nhận những cảnh trạng như thế cũng kể được là những chay tịnh giống Chúa.


Trong Mùa Chay, chúng ta hãy tìm biết ý Hội thánh, kể được là Ý Chúa và cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống Mùa Chay đúng Ý Chúa. Điều đó cũng mang lại lợi ích cho chúng ta.

THỜ CÚNG

Dịp đầu Xuân, nhiều gia đình đặt trên bàn thờ, giường thờ mâm ngũ quả (quả  mãng cầu, quả dừa, quả đu đủ, quả xoài và quả sung) có ý nói: cầu vừa đủ xài, xem ra như thờ cúng. Thờ không rõ thờ vị nào, cũng không hẳn là lễ vật dâng cúng, đúng ra là một mâm nói lên hoài bão cho năm mới.

Đạo chúng ta vẫn có thờ cúng. Về vấn đề thờ chúng ta đã nhận biết: Chúa tuyệt đối nên phải tôn thờ, Chúa tạo dựng,  ban cho chúng ta tất cả, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc và nương nhờ. Chúa vì thương mà tạo dựng và ban ơn, chúng ta phải biết đáp mến.


Còn vấn đề cúng tế, chúng ta có nghĩ đến chưa? Cúng tế chúng ta gọi là Thánh lễ, có thể mỗi ngày chúng ta tham dự Thánh lễ nhưng vật lễ chúng ta dâng tiến, có biết nó là chi không?


Đúng ra con người chúng ta có được những gì, làm được những gì cũng đều nhờ Chúa, do Chúa ban, ngay việc ca tụng Chúa cũng nói được là do Chúa ban,  thì còn có những gì nói được là của riêng của con người. Phần riêng của con người chỉ có chịu khổ, cố gắng chịu khó.


Nhưng khổ nhọc, cố gắng chịu khó nhọc có nghĩa lý gì trước mặt Chúa,  không đáng dùng làm lễ vật dâng tiến.  Ngoài ra, tất cả những chi nơi con người  đều do Chúa ban, tất cả đều là của Chúa. Vậy xin dâng lại cho Chúa cả con người, cả cuộc sống làm vật lễ thượng tiến cũng kể là được, nhưng có xứng đáng không?


Đấng Tạo Dựng và vật thọ tạo cách biệt ngàn trùng. Vật thọ tạo từ hư vô được hạn hữu hèn mọn,  không thể so sánh được với Chúa. Chính Chúa thể hiện chương trình giải quyết: Thiên Chúa giáng trần nhập thể đó chính là Chúa Giêsu. Con người kết hợp với nhân tính của Chúa Giêsu làm nên một vật lễ vô cùng cao quý, vật lễ xứng đáng cúng tế cho Thiên Chúa vô cùng.


Chúng ta nghĩ thế nào? Có nhận định chính con người chúng ta phải là vật lễ cúng hiến không? Có biết chúng ta là vật lễ không xứng đáng nên  phải kết hợp với nhân tính của Chúa Kitô để nên vật lễ thích đáng không? Chúng ta tham dự Thánh lễ thế nào?

THÁNG BA – KÍNH THÁNH GIUSE

Hội Thánh trong cả tháng ba khuyến khích chúng ta tôn sùng Thánh Giuse. Thánh Giuse là trưởng gia đình, nên có thể nói Hội Thánh gợi ý chúng ta tôn sùng Thánh Gia Thất.

Chúa Giêsu là Ngôi Lời, là Lời mạc khải những điều phải tin và lối sống theo đức tin, một lối sống đẹp, sống đức hạnh, sống thánh. Vậy chính Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối, là căn nguyên gương mẫu (causa exemplaris). Đó là gương mẫu từ Chúa đến cho nhân loại.


Thánh Gia Thất nói được phần nào cũng là gương mẫu cho nhân loại. Con người muốn sống đạo, sống đức, sống thánh, sống tốt hãy nhìn vào Thánh Gia Thất thì biết được phải sống thế nào. Càng giống Thánh Gia thì càng thánh, càng giống Chúa.


Tôn sùng Thánh Gia Thất, chúng ta thấy biết được mối tương quan với chính Thiên Chúa, với xã hội, với gia đình, với người khác và với vạn vật.


Chúa Giêsu là nguyên nhân gương mẫu, căn bản gương mẫu, là gương mẫu tuyệt đối, phát xuất từ Thiên Chúa, dẫn dắt nhân loại.


Chúa cũng tạo dựng Thánh Gia Thất để thông phần làm gương mẫu bao quát, gần gũi với con người, giúp con người dễ ham thích noi gương và sống như Thánh Gia.

Tôn sùng Thánh Thất đúng là đường lối để chúng ta gặp chính Chúa Giêsu, để giao tiếp thân mật, kết hợp với Chúa Giêsu và cũng là đường lối kết hợp chúng ta với Chúa Ba Ngôi.


Đối với Thánh Gia Thất, tâm trạng chúng ta nghĩ thế nào? Có thể chúng ta tôn sùng Chúa Giêsu, nhưng Thánh Gia Thất thì chưa nghĩ đến?

Xin Chúa soi sáng mở lòng trí chúng con.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

THỦ ĐẮC CƯ  SỞ VÀ BÁN CƯ SỞ CỦA MỘT THỂ NHÂN

Trong bài “Sự bó buộc của Giáo luật” đăng trong Nguyệt San Tháng 02 Năm 2010 có đề cập đến “cư sở ” và “bán cư sở ”, có nhiều người quan tâm đến trang “Tìm hiểu Giáo luật” đã đặt những câu hỏi đại loại “thế nào là cư sở và bán cư sở?”;  “như thế nào để có cư sở và bán cư sở?”; rồi “như thế nào bị mất cư sở và bán cư sở, sao không thấy người viết đề cập tới?”.

Thật ra, người soạn cũng thấy thiếu thiếu, nhưng trong khuôn khổ của một bài viết ngắn thì không thể đề cập được nhiều vấn đề, nhất là những từ ngữ có tính chuyên môn, nếu giải thích thì dài dòng lê thê lắm! Thôi thì, quyết định như thế nầy: cứ trình bày mỗi bài khoảng bốn mặt giấy A5, ngắn ngắn đọc sẽ đỡ …chán!; nếu có những từ ngữ chuyên môn khó hiểu thì sẽ trình bày trong một bài tiếp theo như chúng ta đang làm.

Việc xác định cư sở và bán cư sở là điều hết sức cần thiết về mặt pháp lý, vì nó liên quan đến những quyền lợi và nghĩa vụ của một thể nhân (persona). Chẳng hạn: việc giữ luật địa phương đòi buộc những người có cư sở và bán cư sở và hiện đang ở tại đó (x. đ.12§3); khi muốn kiện cáo hay thỉnh cầu đến toà án của giáo phận, thì chỉ có thể nợp đơn tại toà án ở nơi mà mình có cư sở hay bán cư sở (x. đ.1673§2,3); một trường hợp thường xảy ra hơn nữa là người giáo dân có quyền đòi hỏi cha sở của mình (nơi có cư sở và bán cư sở) phải ban các bí tích cho họ khi được yêu cầu cách chính đáng (x. đ.212§2; 213), trước khi nhờ đến một linh mục khác. Vì thế, việc xác định nầy là cần thiết, chúng ta lần lượt tìm hiểu xem như thế nào để có được cũng như mất cư sở và bán cư sở.

Điều 102 của Bộ Giáo luật cho chúng ta những khái niệm để có được cư sở (domicilium) và bán cư sở (quasi-domicilium) như sau: một là do ý định sẽ cư ngụ tại một nơi nào; hai là do sự kiện đã cư ngụ tại một nơi nào. Do đó:

  • Để có cư sở tại một giáo xứ hay một giáo phận, thì cần:
  • Hoặc là có ý định sẽ cư ngụ vĩnh viễn tại một nơi mình đang ở;
  • Hoặc là vì trên thực tế đã cư ngụ tại đó 05 năm rồi.
  • Để có bán cư sở tại một giáo xứ hay một giáo phận, thì cần:
  • Hoặc là có ý định cư ngụ ở đó 03 tháng;
  • Hoặc là trên thực tế đã cư ngụ tại đó 03 tháng rồi.

Như vậy, để có được cư sở hay bán cư sở thì: a/ một là thật sự có cư trú trên địa bàn giáo xứ, hay giáo phận nếu đó là trong giáo phận nhưng không thuộc giáo xứ nào và có ý định ở đó mãi mãi (cư sở: người lập gia đình, người về hưu) hay ít là 03 tháng (bán cư sở: sinh viên đi tu nghiệp, công tác); b/ hai là thật sự đã ở trên địa bàn giáo xứ hay giáo phận suốt 05 năm (cư sở) hoặc suốt 03 tháng (bán cư sở) dẫu rằng lúc đầu họ không có ý định đó. 
Lưu ý:

  • •Nếu một người đã có ý định cư trú tại nơi nào vĩnh viễn thì đương sự có cư sở ngay khi họ mới tới nơi, chứ không cần phải đợi 05 năm mới được (điều nầy cũng áp dụng cho bán cư sở); ngược lại, nếu đương sự trên thực tế đã cư trú được 05 năm hoặc 03 tháng rồi nhưng trong thời gian đó có dọn nhà đi ở nơi khác- nghĩa là không ở xuyên suốt- thì cũng không có được cư sở hoặc bán cư sở.
  • •Một người có thể có nhiều cư sở và bán cư sở. Chẳng hạn một người đi hợp tác lao động, hoặc đi học trên 05 năm, nhưng với ý định sau khi làm việc sẽ trở về nơi mình có cư sở, thì người nầy không mất cư sở gốc mà có thêm cư sở mới sau khi anh đã cư trú 05 năm tại nơi làm việc (x. đ. 106); tương tự như vậy cũng áp dụng cho việc chiếm hữu bán cư sở (x.đ.106). 
  • •Các trường hợp đặc biệt:

a. Đối với các tu sĩ:

  • Các phần tử của các Dòng tu và Tu đoàn tông đồ có cư sở tại nơi họ được bề trên bổ nhiệm (x.đ. 103, 608, 665§1 và 740); ngoài ra, họ cũng có thể thủ đắc bán cư sở nếu họ được bổ nhiệm vào một nơi nào đó trong vòng 03 tháng (x.đ.102§2 và 103), chẳng hạn đi học, đi làm việc tông đồ, đi trị bệnh…
  • Các phần tử của Tu hội đời vì không có bổn phận sống trong cộng đoàn, nên họ có quyền lựa chọn cư sở riêng, chẳng hạn như sống với cha mẹ, hay sống riêng một mình…(x.đ.714), nên họ có cư cở và bán cư sở theo quy định chung của điều 102. Tất cả các tập sinh của đời sống tận hiến, vì chưa phải là tu sĩ, nên chọn cư sở là nơi tập viện.

b. Đối với vợ chồng:
Vợ chồng có cư sở và bán cư sở chung; nếu vì lý do ly thân hợp pháp hay vì lý do nào đó chính đáng khác, mỗi người có thể có cư sở và bán cư sở riêng (đ.104).

c. Đối với các vị thành niên và những người bị đặt dưới quyền giám hộ thì sẽ có cư sở và bán cư sở của cha mẹ hoặc của giám hộ (x.đ. 105).


d. Đối với những người con mà cha mẹ không có chung cư sở hay bán cư sở thì con sẽ lấy theo cư sở hay bán cư sở của người mẹ (x. đ.101).


e. Đối với người vô gia cư (không có cư sở và bán cư sở đâu hết), thì thi hành nghĩa vụ và quyền lợi tại nơi mà mình có mặt (x.đ.107§2; 13§3). Tuy nhiên, trong trường hợp hôn phối của những người nầy thì phải áp dụng điều 1071§1,1, nghĩa là điều tra kỷ lưỡng để biết tông tích của họ và có phép của đấng bản quyền mới được chứng hôn.


Mất cư sở và bán cư sở: cư sở và bán cư sở bị mất do việc bỏ đi khỏi nơi đó và không có ý định trở về nữa
(x.đ.106).

Như vậy, việc xác định cư sở và bán cư sở là điều quan trọng đối với một người công giáo. Bởi chính nơi cư trú mà một tín hữu trở thành phần tử của giáo xứ hay giáo phận. Qua đó cũng xác định cha sở và đấng bản quyền riêng (x.đ.107), xác định quyền quản trị, nơi xin đặc ân, chuẩn miễn ngăn trở, khẳng định toà án giáo hội có thẩm quyền và giữ luật của Giáo Hội.

TRANG LINH MỤC

LINH MỤC, HIỆN THÂN CHÚA KITÔ

Alô! Con chào ông cố! Tụi con nhớ ông cố quá trời! Tụi nó nói ông cố có sức thu hút! Tôi bật cười trong lòng và nghĩ mình đã già rồi còn gì thu với hút!   Và nếu có như có sự thu hút nào đó thì là nhờ Lời của Thiên Chúa, Đức Giêsu Kytô: ”Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7,16)

Trong phần mở đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã tuyên bố: ”Ngôi Lời đã làm Người và ở giữa chúng ta”( Ga 1,14). Chúa Giêsu là Lời đầy quyền năng, sáng tạo, hướng dẫn điều khiển thiết lập trật tự vũ trụ, đặt tâm trí trong con người, giờ đây đang ở giữa chúng ta.


Đọc trong Thánh Kinh  tôi cảm nhận được sự huyền diệu đầy uy lực của Lời Chúa. Lời Chúa gây sửng sốt cho đám đông vì Ngài dạy với uy quyền (Lc 4,32); Lời làm ma quỷ khuất phục (Lc 4,35); Bệnh tật lui xa (4,39); Sóng gió phải tuân lệnh ( Lc 8,24); Ban ơn tha tội (Ga 8,11); Phục sinh kẻ chết (Ga 11,43); Làm cho người ta say mê đi theo (Ga 6,2 ); Quên cả giờ giấc ( Lc 9,12 )…


Tôi thường nhủ mình rằng: Mình nói chắc người ta khó chấp nhận lắm! nên phải nhờ đến Lời Chúa uốn nắn người ta thôi.  Quả thực là như thế! Qua một thời gian học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, những người tham dự được Lời Chúa tác động và biến đổi trông thấy. Bình thường họ nghĩ mình không đến nỗi nào, nhưng khi phải đối diện với Lời Chúa họ mới thấy mình cần phải sửa đổi nhiểu lắm. Có những con sói hung hăng thờ ơ với đạo, Lời biến họ  trở thành những con chiên  nhiệt tâm nhiệt tình với Chúa và Hội Thánh. Có những con người hay chia rẽ, Lời làm cho người ta thức tỉnh, rơi lệ để có thể cộng tác làm việc chung với nhau tạo nên mối dây liên kết hiệp nhất trong Họ đạo. Tất cả phải quy chiếu vào Lời của Chúa và coi Lời Chúa như ”Mẫu số chung” để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống.


Tôi thực cảm động và không thể nào quên được hình ảnh các em thiếu nhi chuyền cho nhau những cuốn Thánh Kinh Tân Ước và đọc chung với nhau vào mỗi chiều thứ năm. Tay các em được đụng chạm vào Lời, mắt thấy, miệng đọc và được gợi ý để hiểu và sống Lời Chúa.  Một thời gian các em ngoan hơn, siêng năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể, các em còn dẫn cả các bạn học không có đạo vào viếng Chúa. Tôi còn được biết mỗi tối thứ bảy một vài em đã chia sẻ Lời Chúa cho cha mẹ trong buổi đọc kinh trong xóm nữa.

Tôi thầm cám ơn Chúa cho tôi trở thành phát ngôn viên của Ngài, dù tôi thật bất xứng.  Tôi luôn xác tín rằng Chúa Kitô hôm qua cũng như hôm nay vẫn đang dùng  Lời Chúa để thu hút biến đổi lòng người và mang lại nhiều điều kỳ diệu trong cuộc sống.


TRANG TU SĨ

TÌNH YÊU CÓ SỨC BIẾN ĐỔI (tiếp theo)

Đang loay hoay chuẩn bị bài giáo lý cho tiết học tới thì một em chạy vào báo:

Cô ơi, có ai đó muốn gặp cô ở ngoài cổng.

Tôi bước vội ra cổng thì thấy Cha đang nói chuyện với một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi, trông vẻ mặt căng thẳng và lo lắng lắm. Thoạt nhìn sang phía hàng rào kiểng, tôi thấy Tuyết Lam đang đứng đó, cuối mặt xuống đất... Đoán biết sự việc, tôi tiến lại gần chào hỏi Cha và người đàn ông kia

- Con chào Cha, chào chú. Mời Cha và chú vô nhà. Hôm nay Cha tìm con chắc có việc gì quan trọng?

Cha giới thiệu:

- Đây là chú Tư, cha của Tuyết Lam muốn đến hỏi thăm con về việc học giáo lý của Tuyết Lam.

Cha tiếp tục:

- Sự việc Tuyết Lam bỏ lớp hôm trước con đã trình bày với cha rồi, nhưng hôm nay cha muốn con trực tiếp gặp gỡ với gia đình của Tuyết Lam để nói rõ mọi việc nhằm có sự cộng tác giữa gia đình và nhà thờ trong việc giáo dục các em, nhất là về đời sống đạo.

- Dạ, con cũng đang dự định đến thăm gia đình của Tuyết Lam, nhưng hôm nay chú Tư đến đây thì con cũng xin được trình bày để gia đình nắm rõ vấn đề hơn.

Nghe tôi nói vậy chú Tư càng thêm sốt ruột muốn biết xem đứa con gái của mình đã gây nên chuyện gì nữa rồi.  Đứa con gái mà chú hết sức cưng chiều nhưng cũng hết sức ngỗ nghịch đã nhiều lần làm chú phải nhức đầu.  Chú lên tiếng:

- Tôi không biết lý do tại sao mấy ngày nay Tuyết Lam không đi học, cũng chẳng học bài. Hỏi đến thì cháu cứ nói “không có chuyện gì”.  Nhưng tôi biết chắc là có chuyện nên đi hỏi thăm mấy đứa học cùng lớp với cháu thì mới biết cháu bị đuổi học, còn nguyên nhân thì tôi chưa được rõ nên hôm nay mạo muội đến gặp Cha và cô.

Cảm nhận được tâm tình người cha thương lo cho đứa con, tôi cảm động muốn chảy nước mắt và thầm chúc mừng em, cô học trò bướng bỉnh của tôi, vì em có một người cha thật tuyệt vời! Tôi bắt đầu kể lại mọi việc cho chú Tư nghe trước mặt cha phụ trách và Tuyết Lam.  Sau khi nghe xong mọi việc, chú nhìn con gái rồi nhìn tôi và nói:

- Xin lỗi cô vì cháu còn nhỏ dại nên có những hành động và lời nói thô lỗ làm phiền lòng cô. Xin cô bỏ qua và cho cháu được tiếp tục học trong lớp cô phụ trách. Gia đình chúng tôi sẽ quan tâm nhắc nhở động viên con đi Lễ cũng như học giáo lý đầy đủ hơn

Tuyết Lam từ đầu giờ vẫn lặng yên, bỗng nhiên em vội đứng dậy đến trước mặt tôi khoanh tay xin lỗi và khóc như một đưa bé lên ba:

- Xin lỗi cô, em xin lỗi cô…

Trong lòng rộn lên một niềm vui khôn tả, một thứ hạnh phúc khó diễn tả được đang trào dâng trong lòng tôi. Tôi bắt đầu những giờ dạy giáo lý với một sức sống mới cho ngày hôm sau và những ngày kế tiếp. Không khí lớp học trở nên sôi động hơn khác hẳn với cái không khí trước đó chỉ thích chơi mà không thích học. Điều đáng mừng nhất là các em không còn mặc quần short - áo hai dây… đến lớp, mà thay vào đó là chiếc áo sơ-mi với quần tây hoặc jean dài trông khá lịch sự.  Và dĩ nhiên về phần học lực cũng rất tiến bộ, các em không chỉ thuộc nằm lòng những kinh dài khó nhớ mà giờ đây các em còn có thể hiểu rõ ý nghĩa của những điều mình học.

Ngày hạnh phúc được nhận lãnh Chúa Thánh Thần mà các em hằng mong ước cũng đến, và cũng là ngày chúng tôi chia tay nhau. Từ nay tôi không còn được gặp những khuôn mặt dễ thương hồn nhiên mỗi ngày nữa, không còn phạt quỳ gối khi các em không thuộc bài, cũng không còn được nghe kể những câu truyện hài hước … Nhưng tất cả đọng lại trong tôi những kỷ niệm đẹp khó quên.


Cảm tạ Chúa đã dùng tình yêu để cứu chuộc con và cũng chính tình yêu đã biến đổi con. Tất cả là việc Chúa làm! Con không bao giờ nghĩ mình có sức thu hút hay biến đổi được những con người có cá tính như những học trò trong lớp giáo lý của con. Nhưng giờ đây con thực sự nhận ra mình đang được biến đổi để cảm thông – chia sẻ và yêu thương!

TÁC ĐỘNG CỦA LỜI CHÚA

Theo lẽ thường, muốn yêu mến một người nào, cần phải ít nhiều hiểu biết về người đó. Không có ai đem lòng thương mến một người mình chẳng quen biết. Người ta thường nói: “Vô tri bất mộ” – Không biết thì không yêu mến.  Điều này không sai tí nào đối với một kitô hữu có đầy đủ lý trí muốn học hỏi về Chúa Kitô và giáo lý của Người.  Thật vậy, nhiệm vụ chính yếu của việc dạy giáo lý không gì khác hơn là làm cho Ngôi Lời là chính Chúa Kitô được sinh ra và lớn lên trong lòng các em nhỏ, những người trẻ và những người muốn học hỏi và yêu mến Chúa.  Rồi từ đó, họ sống những điều đã học hỏi nơi Chúa Kitô ngay giữa lòng đời.  Nhưng làm thế nào để cho Lời Chúa được sinh ra và lớn lên nếu như đương sự không được học hỏi Lời Chúa?

Lúc nhỏ, tôi được học giáo lý theo lối dạy trước Công Đồng Vatican II. Hồi đó, việc dạy giáo lý chỉ đơn giản là dạy các kinh bổn. Vào lớp, học viên chỉ cần học thuộc làu làu các kinh đã chỉ định, Mười Điều Răn, Bảy Phép Bí Tích, và các điều răn Hội Thánh là có thể hội đủ điều kiện lãnh nhận Bí Tích. Sau này, khi đi dạy ở họ đạo, thì Giáo Hội đã cải cách phương pháp dạy giáo lý bằng nhiều cách khác nhau dựa trên nền tảng chính là Lời Chúa. 


Với sự hỗ trợ của Cha Sở, tôi áp dụng cách học hỏi Lời Chúa trong những giờ giáo lý, bắt đầu từ các sách Phúc Âm. Vì nơi đây là trung tâm điểm cho các sách khác trong Kinh Thánh. Mỗi bài giáo lý là một bài học được được rút ra từ Lời Chúa trong Phúc Âm. Chính bản thân tôi cũng học và sống Lời ấy. Quả thực, cách học này rất có hữu hiệu vì tác động của Lời Chúa và cuộc đời của Chúa Giêsu đối với cuộc sống con người, hơn hẳn cách học thuộc lòng theo kinh bổn.  Tôi rất vui vì đã hơn nửa đời người đến lúc đó mới được tiếp cận với cách học hỏi mới mẻ và quý báu này. Phải công nhận rằng Giáo Hội đã rất khôn ngoan khi khuyên bảo con cái mình học hỏi Lời Chúa; vì học giáo lý hữu hiệu nhất chính là thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Qua đó, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu thấm nhập vào trong tâm hồn người ta tạo nên tình yêu đối với Chúa và với nhau. Có nhiều người lớn và các em nhỏ trong thời gian tôi giúp ở họ đạo vùng quê đó đã hiểu biết hơn về cuộc đời Chúa Giêsu, siêng năng đọc Lời Chúa, điều quan trọng là họ dần dần thay đổi cuộc đời một cách rõ rệt nhờ học giáo lý với Lời Chúa: sống hiền hòa hơn, đối xử tốt với nhau hơn, quan tâm đến nhau hơn, và siêng năng đến nhà thờ hơn… Nếu có điều gì khó hiểu không thể giải thích cho họ, tôi lại nhờ đến Cha Sở. Về sau, Cha Sở tặng cho mỗi gia đình một cuốn “Lời Chúa Hàng Ngày”, Cha khuyến khích giáo dân đọc và hướng dẫn họ cầu nguyện với Phúc Âm sau mỗi giờ kinh tối trong gia đình. Điều này đã tạo nên thói quen tốt, giúp người tín hữu thêm lòng yêu mến và nhiệt thành với việc đọc Lời Chúa nơi cộng đoàn này.


Rất nhiều người trong chúng ta muốn nên thánh, muốn gần gũi và yêu mến Chúa thật nhiều. Nhưng có mấy ai trung thành với việc đọc và siêng năng suy gẫm Lời Chúa trong đời sống mình? Thiết nghĩ nếu như mỗi gia đình kitô hữu đều ý thức giá trị của Lời Chúa thì công việc dạy giáo lý sẽ nhẹ nhàng biết mấy vì khi đó không phải là các Linh mục, các tu sĩ hay giáo lý viên là người dạy giáo lý cho giáo dân nữa mà chính là Lời Chúa, nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, làm nảy sinh lòng yêu mến Chúa và tình liên đới giữa con người với nhau.  Nhưng nói như vậy không có nghĩa là việc dạy giáo lý không cần thiết, trái lại, hơn bao giờ hết, người dạy giáo lý phải hết sức ý thức trách nhiệm của mình là trung gian chuyển giao Lời Chúa cho mọi người, một vai trò không thể thiếu trong đời sống của Giáo Hội.  Ước mong mỗi kitô hữu sẽ là một Chúa Kitô thứ hai nhờ tác động của Lời Chúa qua việc học hỏi giáo lý.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

CHÚA KITÔ LÀ AI ?

Chiều 16-9-1994, Đức Hồng Y Albert Decourtray, Tổng Giám Mục giáo phận Lyon, nguyên chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp, qua đời hưởng thọ 71 tuổi.

Trong điện văn gửi tới Đức Cha Jacques Faire, Giám Mục phụ tá Tổng giáo phận Lyon, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ đau buồn sâu sắc về sự ra đi của Đức cố Hồng Y Decourtray. Ngài viết: ‘‘Tôi vẫn giữ trong ký ức kỷ niệm về Đức cố Hồng Y, vị mục tử nhiệt tâm với Lời Chúa, rạng ngời về cuộc sống tu đức, luôn quan tâm tới người nghèo khổ nhất, hăng say tìm kiếm hiệp nhất các tín hữu Kitô và quảng đại cổ võ tình liên đới. Tôi cám tạ Chúa vì sứ vụ Giám mục của Đức cố Hồng Y từng phục vụ dân Chúa tại Dijon và Lyon”.

Lời khẳng định của Đức Thánh Cha tóm lược phần nào công đức của vị Hồng Y quá cố. Điểm nổi bật trong cuộc đời Đức Hồng Y Decourtray là Đức Tin ngời sáng, đặt trọn nơi Chúa Giêsu Kitô và nơi Giáo Hội Công Giáo. Sáu năm trước khi qua đời, trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo ‘‘Paris Match”, số ra ngày 22-12-1988, Đức Hồng Y nói:  Nếu chiều nay bất ngờ có ai hỏi tôi: ‘‘Đối với ngài, Đức Kitô là ai?”, hẳn tôi sẽ dành thời giờ để tuyên xưng rằng: Chúa Kitô là ai ư? Thì bạn chỉ cần nhìn Ngài. Chưa bao giờ có người nào trên thế gian này biết kính trọng người khác giống như Đức Kitô! Chưa bao giờ có người nào yêu thương sâu đậm con người hơn Đức Kitô! Và cũng chưa bao giờ có người nào yêu mến Thiên Chúa, Cha Ngài, hơn Đức Kitô. Chúa Kitô là trung tâm điểm trí thông minh, cuộc đời và sự sống tôi. Tôi chỉ muốn nói về Người và chỉ ước ao sống trung tín với Người.
Nhưng làm sao hiểu biết Người, như tôi vừa tuyên xưng, nếu không có Giáo Hội Người? Ai sẽ bảo đảm cho chúng ta chính Ngài là Đức Kitô, nếu không phải là Giáo Hội? Đây là điều chính yếu cuộc đời tôi. Trước tiên là Đức Kitô tiếp đến là Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hội bao gồm mọi tín hữu, kể cả những người tội lỗi.

Trả lời câu hỏi: ‘‘Đức Kitô có sống động, tân tiến và hợp thời không”, Đức Hồng Y nói: ‘‘Bạn hãy nhìn chúng tôi thì thấy Đức Kitô! Người đang nói với bạn là ai? Dĩ nhiên là Đức Hồng Y Albert Decourtray, Tổng Giám Mục Lyon. Nhưng thật ra là chính Đức Kitô nói qua miệng tôi. Tất cả những gì tôi nói, tôi đều nói nhân danh Đức Kitô... Sự nhiệt tâm, lòng hăng say của tôi, đến từ Đức Kitô .. Khi tuyên xưng như thế, không có nghĩa tôi kiêu căng, tự cao tự đại, nhưng chỉ nói lên chân lý. Chân lý đến từ thừa tác vụ thánh của tôi. Chính Đức Kitô phán: ‘‘Ai nghe các con là nghe Thầy”. Khi tôi bằng lòng lãnh nhận thiên chức linh mục, rồi giám mục, chính vì tôi tin rằng, nhờ ơn Đức Kitô, tôi có thể trở thành thừa tác viên của Người. Mục đích của tôi là cố gắng chu toàn bổn phận làm người kế vị các thánh tông đồ, những kẻ Chúa chọn và sai đi. Ngoài ra, tôi không có mục đích nào khác.


Nói như thế cũng giống như thánh Phaolô tông đồ đã nói là chúng tôi mang kho tàng quý báu trong chiếc bình dễ vỡ. Chúng tôi là chiếc bình dễ vỡ. Nhưng kho tàng vẫn là kho tàng. Tôi luôn ý thức sâu xa sự cách biệt rõ ràng giữa sứ điệp mà tôi phải loan truyền, những ơn lành mà tôi thông ban và dụng cụ yếu hèn là chính tôi. Không, tôi không dám kiêu căng, nhưng tôi đặt niềm hãnh diện và sự kiêu căng nơi Đấng mà tôi có nhiệm vụ phải loan truyền và phải ẩn mình đàng sau Ngài. Tôi chỉ hối tiếc một điều là đã không xóa bỏ mình cho đủ!

Niềm mơ ước sâu xa nhất của tôi là được trở thành phản ánh trung thực, hình ảnh tân tiến hợp thời của Chúa Giêsu Kitô, Vị Thầy Duy Nhất của tôi, Đấng tôi hằng nghĩ đến và tận hiến trọn cuộc đời tôi cho Ngài. Tôi ước ao trở thành chứng nhân Chúa Giêsu Kitô, phát ngôn viên của Ngài, hôm nay và bây giờ, ở tại nơi đây. Nghĩa là, trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô cho chính con người thời đại ngày nay. Ước ao là thế, nhưng thực tế tôi vẫn còn ở xa lắm!  (Trích  binhcang.com)

Lời tuyên xưng đức tin của vị Hồng Y Albert Decourtray là một lời nhắc nhở mà Chúa Giêsu dành cho tôi và mọi người ! Chúng ta đã và đang làm gì để tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô? Và chúng ta làm gì để nhiều người tin vào Đức Giêsu Kitô hơn?


Chúng ta mong mỏi gia đình mình có người đi tu; sở biện mình có người dâng mình cho Chúa; Họ đạo mình có thật nhiều ơn gọi… Nói một cách nôm na đi tu là theo Chúa Kitô và làm chứng cho Ngài. Nhưng Ngài là ai để người khác đi theo? Ngài là ai qua cách sống của cha mẹ trong gia đình? Ngài là ai nơi đời sống đạo của những người trong sở biện? Ngài là ai trong sinh hoạt Họ đạo, đặc biệt là qua đời sống của Cha sở?


Qua đời sống chứng nhân của vị Hồng Y Albert Decourtray, tôi thiết tưởng đó là một mẫu gương để mỗi người chúng ta nhìn lại việc chúng ta tuyên xưng và giới thiệu Đức Kitô. Hơn nữa, trong công cuộc vun trồng ơn gọi - tìm kiếm những môn đệ đích thực cho Đức Kitô hôm nay !

TRANG THIẾU NHI

Giêsu, người bị lãng quên

Thiên Chúa muốn kết thân với con người đã không ngại tuột khỏi trời cao sống đời dương thế. Ngôi Hai đã mặc lấy xác phàm đi tìm những người cùng chí hướng để nâng họ vươn cao. Một sáng kiến đầy tính rủi may nhưng Ngôi Hai Giêsu vẫn cứ miệt mài cho sứ mạng. Đọc tiểu sử của ông Giêsu ai mà không ngán ngẫm vì cuộc sống của Ngài quá bấp bênh. Người ta đã gán cho Ngài những danh xưng nghe thật ấn tượng đến mức không ai dám gần: “Người tình thập tự”, “người tình cô đơn”. Có lẽ ngày nay Ngài vẫn tiệp tục bị cô đơn vì nhiều kẻ chối từ Ngài hay hững hờ đến quên lãng.

Bản  tính cao vời không ai thấu hiểu


Đời sống con người vẫn còn có những sinh hoạt tôn giáo. Họ không loại trừ thế giới siêu nhiên trong cuộc sống của mình. Nhưng trong thế giới siêu nhiên đó hình ảnh Thiên Chúa không còn sáng giá. Ngày Tết mong Thần Tài đến nhà hơn là được Chúa chúc bình an. Trong nhà, hình ảnh của các thần tượng ca nhạc, thể thao được trưng bày cách trang trọng hơn tấm hình Giêsu xưa rồi như trái đất. Hình ảnh Chúa Giêsu vốn âm thầm giờ tiếp tục bị lãng quên. Lối sống thực dụng khiến tâm thức con người thích Thiên Chúa xuất hiện như một ông Bụt trên tay luôn ban phát quà hơn là Thiên Chúa vô hình ban ơn cứu rỗi, tha thứ tội đời. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài không muốn dối gạt để con người hiểu sai về mình. Ngài không muốn con người “lăng-xê” Ngài theo sở thích của họ cho bằng đặt trọn niềm tin yêu phó thác. Do đó, Thiên Chúa toàn năng, uy quyền, rất mực yêu thương nhưng chẳng mấy ai hiểu thấu để đón nhận Ngài.


Lời Người phán dạy chẳng được quan tâm


Người không gặp mặt nhưng có thể biết nhau qua lời nói của họ. Chúa Giêsu đã nói nhiều điều trong những năm rao giảng. Lời Ngài đã được ghi lại trong xác quyết của niềm tin. Lời Ngài có  sức thuyết phục, mang lại sự sống cho con người. Lời hằng sống đó vẫn vang vọng mỗi ngày nhưng chẳng mấy ai đoái đến. Nhiều tín hữu đã lơ là không đủ quý trọng Lời Chúa. Dường như họ xem Lời Chúa như một thứ trang điểm cho đời sống tâm linh những lúc rỗi nhàn chứ không như  điều cốt yếu cho cuộc sống.


Không quý  Lời Chúa nên chẳng muốn nghe. Nghe còn không muốn  nghe nói gì đến học và thi hành. Một tin nhắn điện thoại của người thân có khi ta biết đến thuộc lòng. Tin nhắn của Chúa rót sát bên tai nhiều khi ta không hề nghe thấy. Lời một bài hát, hay lời của thần tượng vừa phát biểu ta nhớ nằm lòng, còn Lời Chúa thì tạm gát ra bên. Chúa Giêsu muốn sống với con người trong tình thân, muốn đón nhận mọi người là anh em, là bạn của mình. Điều đó tưởng dễ dàng nhưng hoá ra không dễ. Lời của Ngài là lời yêu thương nhưng đã bị lạc lõng giữa những người thân thương.


Ngài vẫn quyết  tâm chinh phục lòng người


Chúa xuống thế  làm người là đi tìm và chinh phục con người trở về với Chúa. Ngài không đi khai hoang những vùng đất mới nhưng khai mở những tâm hồn mới, ban cho chúng một sức sống mới. Ta đến để chiên Ta được sống và sống dồi dào. Trong cuộc chinh phục này không hệ tại thắng thua nhưng là kết quả được nhiều hay ít. Những hoàn cảnh bất lợi Ngài đã đi qua không làm Ngài thất vọng. Trái lại, Ngài mãi miết đi tìm con người để làm bạn với họ. Ngài có những cộng sự viên để tiếp tục công việc của Ngài. Ngài gặp gỡ cụ già để an ủi họ. Ngài đến những người đau bệnh để chia sẻ, đỡ nâng. Ngài đến với các bạn trẻ để cùng hát với họ, cùng vui với họ. Vì muốn chinh phục họ Ngài không chỉ đứng bên ngoài như kẻ ngoài cuộc nhưng Ngài đã nhập cuộc và đồng hoá với thân phận con người. Ngài đã hiện diện nơi những kẻ nghèo hèn nhất, cô đơn nhất, đói rách nhất.


Nếu có tiếng nói nào làm cho lòng tôi thao thức tôi sẽ bảo đó là tiếng gọi Giêsu. Nếu có lời nói nào mang lại cho đời thêm phong phú tôi sẽ bảo đó là Lời Chúa Giêsu. Nếu có người vĩ đại nào đã từng bị quên lãng tôi sẽ bảo đó là Người Tình Giêsu.

TRANG GIỚI TRẺ

NOI GƯƠNG CHÚA GIÊSU

Một đứa trẻ muốn được lên đầy đủ về mọi phương diện thì nó cần được bồi dưỡng từ thể xác đến tinh thần. Vì vậy, nếu chỉ lo ăn uống đầy đủ, thang thuốc khi bệnh hoạn và tiện nghi sống thoải mái thì vẫn thiếu. Đó là thiếu sự quan tâm dạy dỗ và hướng dẫn của những người đi trước nhất là của cha mẹ nó. 

Cũng thế, đời sống đức tin của một người kitô hữu rất cần được bồi dưỡng. Bồi dưỡng bởi việc học giáo lý. Bởi lẽ, học giáo lý để biết Chúa, tin Chúa, yêu mến Chúa và để sống đạo. Sống đạo theo gương của Chúa Giêsu Kitô là cách sống trọn hảo nhất. Vì Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Người (Lc 9, 35).

Nhìn vào ba mươi ba năm đời sống của Chúa Giêsu ở trần gian này, chúng ta có thể khẳng định Người đã sống tuyệt vời hai giới răn trọng nhất của đạo Công giáo là Kính Chúa – yêu người. 

Chúa Giêsu đã gắn bó mật thiết với Chúa Cha qua việc siêng năng cầu nguyện: trước khi công khai ra đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện 40 đêm ngày, trước khi chọn 12 Tông đồ, trong vườn Cây Dầu...ngay cả trên cây Thánh Giá Người vẫn không quên cầu nguyện cho những kẻ hại mình. Những thời điểm quan trọng này chứng tỏ Chúa Giêsu đã sống quá tốt giới răn kính Chúa.


Còn yêu người thì khỏi nói. Đi rao giảng đến đâu thấy người khác có nhu cầu gì Người đều đáp ứng tất cả cho họ. Thấy người ta đói khát, Người cho họ được ăn uống no nê. Thấy người ta cần được dạy dỗ, Người sẵn sàng chỉ bảo bỏ cả giờ ăn uống và nghỉ ngơi.  Thấy người ta đau khổ bệnh tật, Người cũng tìm mọi cách chữa khỏi cho họ. Đáng nói hơn là gặp người có tội chính Người ban ơn tha thứ cho họ.


Người trẻ chúng ta rất nhạy bén trong việc đi tìm thần tượng và sống theo thần tượng của mình. Nhưng mà rồi những thần tượng ở đời này cũng chỉ nhất thời không bền vững. Do đó, thần tượng hoàn hảo và đáng cho người trẻ công giáo học đòi bắt chước không ai khác chính là Chúa Giêsu. Hãy nhìn Chúa Giêsu sống giới răn Kính Chúa – yêu người mà chúng ta học hỏi và đem vào thực hành trong cuộc sống hằng ngày.

TRANG GIA ĐÌNH

CON THIÊN CHÚA GIỮA GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI

Vì yêu thương, Thiên Chúa tình yêu đã tạo dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa là biết yêu và muốn được yêu. Loài người ấy được sống trong một gia đình hạnh phúc có Chúa là Cha và mọi người đều là anh chị em, họ có bổn phận kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau như yêu bản thân mình. Con người nơi Ađam và Evà phản bội, chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa, ăn trái cấm theo sự dụ dỗ của ma quỉ, chống đối Thiên Chúa, nên phải sống trong đau khổ, chết chóc. Trong tình huống đó, Thiên Chúa giàu lòng thương xót không bỏ rơi loài người, đã hứa ban Đấng Mêssia cứu chuộc nâng con người sa ngã chỗi dậy và tiêu diệt sự dữ, giúp con người sống tín thác, làm hoà với Thiên Chúa, tìm lại sự thánh thiện nguyên thuỷ. Đấng Messia cứu chuộc là Đức Giêsu Kitô “Ađam mới”, Lời của Thiên Chúa, Đấng vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết trên thập giá (Pl 2,8); và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn Cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. (Dt 5,9) “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2)

Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý định của Thiên Chúa Cha, và Chúa Giêsu đã thực hiện ý định của Chúa Cha như thế nào?


1. Ý định của Thiên Chúa Cha là cứu độ mọi người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời… nhờ Con của Người mà thế gian được cứu độ.” (Ga 3,16-17) “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha,Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô”. (Ga 17,3)


Lời Thiên Chúa làm người là để cứu độ chúng ta, giao hoà chúng ta với Thiên Chúa “Thiên Chúa sai Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4,10).

Lời Thiên Chúa dạy chúng ta nhận ra tình thương của Thiên Chúa: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta là con Thiên Chúa”. (1 Ga 1,3)  “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật. Chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời. ” (1 Ga 5,20)

Lời Thiên Chúa là Thầy dạy và là mẫu gương thánh thiện cho chúng ta noi đòi bắt chước. “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi” (Mt 11,29). “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12) “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15)


Lời Thiên Chúa giúp chúng ta có cơ hội thông phần bản tính Thiên Chúa “Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiù theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1 Pet 1, 14-15). “Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó , anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn và dục vọng gây ra trong trần gian” ( 2 Pet 1,4)


Đứng trước ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”, “Ngôi Lời đã trở thành nhục thể” ( Ga 1,14). “Vì vậy, khi vào thế gian Đức Kitô nói : Chúa không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho Con Một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7)


2. Chúa Giêsu đã thực hiện ý định của Chúa Cha như thế nào? “Để mạc khải chính mình cho loài người, Thiên Chúa đã đoái thương dùng ngôn ngữ loài người mà nói với họ “ Lời của Thiên Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại, trở nên giống tiếng nói loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha Hằng Hữu đã trở nên giống như con người khi mặc lấy xác phàm yếu đuối của chúng ta” (Dv 13). Qua tất cả các lời trong kinh thánh, Thiên Chúa chỉ nói có một lời là Ngôi Lời duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói tất cả về mình cho nhân loại” (Glcg 101-102). Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời Duy nhất, hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó.


“Để chu toàn thánh ý Chúa Cha , Đức Giêsu Kitô đã khai nguyên nước trời nơi thế gian” (Lg 3). Sau khi Hêrôđê Antipas bắt giam Gioan Tẩy Giả trong ngục, Đức Giêsu đến miền Galilê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Người nói : “ Thời kỳ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1,15) “Đức Kitô là trung tâm của đoàn người được qui tụ trong gia đình Thiên Chúa. Gia đình này chính là Hội Thánh, là mầm sống và là khai nguyên của Nước Thiên Chúa “ trên trần gian”. Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ (các phép lạ) chứng tỏ Nước Thiên Chúa đang hiện diện, bằng việc sai phái các môn đệ” (Glcg 542). Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc mời gọi mọi người gia nhập nước Thiên Chúa, ưu tiên cho người Do Thái trước, nhưng cũng tiếp nhận mọi dân tộc sau. Để được vào Nước Thiên Chúa mọi người phải tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đón nhận và thực thi Lời của Người” ( Mt 7,21-27), như hạt giống rơi vào đất tốt (Mc 4,8). Đức Giêsu  đến loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, bé mọn (Lc 4,18), vì họ nhiệt thành đón nhận với lòng khiêm tốn, mạnh tin, Chúa Cha thường mạc khải cho những người bé mọn những mầu nhiệm cao siêu (Mt 11,25-27). Đức Giêsu chia sẻ và đồng hoá với mọi kẻ nghèo hèn, đói khát, túng cực, bị bỏ rơi, loại trừ (Mt 25,31-46). Đức Giêsu gần gũi, thân tình với người tội lỗi, thu thuế, vì người đến kêu gọi người tội lỗi (Mc 2,17) để cứu dân Người khỏi tội (Mt 1,21). Người dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Chúa Cha, để mời gọi họ hoán cải (Lc 15,11-32). Người hiến dâng Mình và Máu Người làm của ăn, của uống để muôn người được tha tội (Mt 26,26-28).


Đức Giêsu là một vị tôn sư cao cả được Thiên Chúa sai đến (Ga 3,2), được Thiên Chúa ở cùng. Người nói : “ Tôi và Cha Tôi là một” (Ga 10,30),  “Chúa Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38),  “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng Tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai Tôi” (Ga 5,30),  “đạo lý Tôi dạy không phải là của Tôi, nhưng là của Đấng đã sai Tôi” (Ga 7,16). Chúa Giêsu biết rõ mình có sứ mạng giảng dạy mọi người ở mọi nơi: “Chúng ta đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Thầy đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ. (Mc 1,38-39), trong chốn riêng tư Người giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ. “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). mọi người nghe Chúa Giêsu giảng dạy đều “sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền.”(Mc 1,22). Khi phải chọn lựa theo Chúa hay bỏ Chúa mà đi, Phêrô đã thưa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ! Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Phải nắm giữ mãi lời cứu độ: “Nếu các ông ở lại trong Lời của Tôi, thì các ông thật là môn đệ Tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,31-32), vì chỉ người môn đệ từ bỏ mọi sự mà theo Thầy “ từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34) mới thầu hiểu mầu nhiệm Nước trời (Mt 13,11)


Kèm theo lời nói, Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ điềm thiêng để chứng tỏ nước trời đang hiện diện nơi Người và chính Người là Đấng Thiên sai được các ngôn sứ loan báo. “Đức Giêsu lên tiếng nói: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm thì Người Con cũng làm như vậy” (Ga 5,19). Chúa Giêsu đã :

- Chiến thắng thiên nhiên: đi trên mặt nước (Mc 6,45-51), dep yên sóng gió (Mc 4,35-39) biến nước thành rượu (Ga 2,1-12), hoá bánh ra nhiều (Mc 6,34-44;8,1-9)

- Chiến thắng bệnh tật: mù được sáng (Mc 8,22-25), què được đi (Mc 2,1-12), câm được nói, điếc  nghe được (Mc 8,31-37), phong cùi được sạch (Mc 1,40-44)

- Chiến thắng quỉ dữ: qua các cơn cám dỗ (Lc 4,1-13), xua trừ ma quỉ ở Ghêrasa (Mc 5,1-15)

- Làm cho kẻ chết sống lại: con gái ông Giaia (Mc 5,21-24.35-42), con trai thành Naim(Lc 7,11-16), Lazarô chết 4 ngày sống lại (Ga 11,1-44)

- Chính Chúa Giêsu chiến thắng sự chết để tự mình sống lại (Ga 10,17-78;20,1-29). Những dấu lạ trên đây minh chứng Cha đã sai Người đến, mời gọi chúng ta tin vào Người là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, Đấng thực hiện công việc Chúa Cha tin giao: giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỉ, tội lỗi và sự chết, cho chúng ta được làm con Chúa sống tự do và hạnh phúc.

Để tiếp tục công việc giảng dạy lời Chúa cho gia đình nhân loại, Chúa Giêsu đã tuyển chọn, huấn luyện, trao quyền hành và sứ vụ cho các tông đồ và môn đệ “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy,Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15). “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thánh Thần sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,12-13). “Mọi sự Chúa Cha có đều là của thầy. Vì thế, Thầy đã nói; Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,15). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em đi để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16), “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,20).

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

Bắt đầu từ số Báo Mục Vụ nầy chúng tôi xin được trích đăng Tổng Lược về Sách Chỉ Nam  Việc Dạy Giáo Lý do Phạm Xuân Khôi (giaoly.org) tổng hợp từ Commentary on the General Directory for Catechesis của Đức Cha Raymond L. Burke, Tổng Giám Mục St. Louis, và một số ít được viết theo General Directory For Catechesis của Thánh Bộ Giáo Sĩ.

Tổng Lược về Sách Chỉ Nam Việc Dạy Giáo Lý

Sách Chỉ Nam này được chia thành năm phần.
Phần Thứ Nhất : “Việc Dạy Giáo Lý trong Sứ Vụ Truyền Giáo của Hội Thánh”. Phần này diễn tả đặc tính đúng
đắn của việc Dạy Giáo Lý trong toàn thể mục vụ giảng dạy Lời Chúa. Hiểu đúng về việc dạy Giáo Lý là điều thiết yếu, vì cách một người hiểu việc dạy Giáo Lý sẽ quyết định cách người ấy dạy Giáo Lý.

Phần Thứ Hai: “Sứ Điệp Tin Mừng,” trình bày nội dung Đức Tin được dạy qua Giáo Lý. Phần này diễn tả nguồn
gốc của Giáo Lý là Lời Chúa, chứa đựng trong Thánh Truyền và Thánh Kinh, và tiêu chuẩn để trình bày Lời Chúa trong việc dạy Giáo Lý. Phần này cũng diễn tả nội dung Giáo Lý như đã được trình bày trong sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố ngày 11 thánh 10 năm 1992.

Phần Thứ Ba trình bày việc dạy Giáo Lý trước hết và trên hết là việc làm của Chúa Thánh Thần, rồi sau đó phân tích những phương pháp khác nhau trong việc dạy Giáo Lý.
Phần Thứ Tư dành để trình bày sự đa dạng của những người mà việc dạy Giáo Lý nhằm đến, đa dạng về tuổi tác,
về việc phát triển Đức Tin và đời sống Đức Tin, về các hoàn cảnh đặc biệt của đời sống , và phạm vi văn hóa.

Sau cùng, Phần Thứ Năm trình bày các phương diện quan trọng của việc dạy Giáo Lý trong các Giáo Hội địa phương, thí dụ như các giáo phận. Phần này nói về:

  1. Nhiệm vụ của các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và các tín hữu giáo dân;
  2. Việc đào luyện các Giáo Lý viên;
  3. Các địa điểm để dạy Giáo Lý; và
  4. Các phương diện thực dụng của việc dạy Giáo Lý có hệ thống

Vào Đề

Việc dạy Giáo Lý luôn luôn được đặt làm nền tảng cho đời sống Hội Thánh. Nhiệm vụ chính yếu của Hội Thánh là truyền lại tín lý và việc thực thi Đức Tin bằng các giáo huấn. Trong khi nói về Tân Phúc Âm hoá, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc dạy Giáo Lý đúng cách để tạo nên một năng lực và sự hăng say mới trong việc giáo dục và sống Đức Tin Công Giáo.

Hội Thánh đã đặc biệt quan tâm đến việc Dạy Giáo Lý.  Sáu năm sau Công Đồng Vaticanô II, Tòa Thánh đã cho ấn hành cuốn Sách Chỉ Dẫn Chung về Dạy Giáo Lý vào năm 1971. Từ ngày cuốn Sách Chỉ Nam đầu tiên này ra đời, Huấn Quyền của Hội Thánh đã đưa ra nhiều tài liệu hướng dẫn phong trào đào luyện Đức Tin mới này như các Thông Điệp "Phúc Âm Hóa trong Thế Giới Hiện Đại - Evangelii nuntiandi" (1975), "Việc Dạy Giáo Lý trong Thời Đại Chúng Ta - Catechesi tradendae" (1979), "Sứ Vụ của Đấng Cứu Thế - Redemptoris Missio" (1990) và Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (1992). Sau cùng Thánh Bộ Giáo Sỹ đã dựa trên các văn kiện kể trên để duyệt lại và ấn hành cuốn Sách Chỉ Nam Giáo Lý mới tên là "Sách Chỉ Dẫn Chung về Dạy Giáo Lý". Trong bài này, chúng tôi cố gắng tóm tắt những điểm chính yếu của cuốn Sách Chỉ Nam Giáo Lý mới để giúp các Giáo Lý viên và những ai có trách nhiệm về dạy Giáo Lý biết rõ về ơn gọi, sứ mạng, vai trò và trách vụ của mình trong việc dạy Giáo Lý.


Mục đích của Sách Chỉ Nam này là đưa ra những nguyên tắc thần học và mục vụ được rút ra từ Huấn Quyền và từ Công Đồng Vaticanô II để làm nền tảng vững chắc cho việc giảng dạy về Đức Tin (Số 9).


Mục tiêu chính của Sách Chỉ Nam này trước hết là cho các Đức Giám Mục dùng trong việc đào tạo các Linh Mục và các Giáo Lý viên, đồng thời cũng cho tất cả những ai có trách vụ trong việc dạy Giáo Lý (Số 11).  Sách Chỉ Nam này còn được dùng trong việc soạn các Sách Chỉ Nam Giáo Lý và các sách Giáo Lý của các Giáo Hội địa phương.

TRANG QUỚI CHỨC

ĐẠO VÀ ĐỜI

Tôi có một anh bạn học. Lúc thành thân, anh cưới một người công giáo và anh cũng đồng ý trở thành người công giáo. Anh đã được học biết đạo và lãnh các bí tích nhập đạo đầy đủ. Thế nhưng, sau khi lấy vợ, việc đạo hạnh cứ thưa dần rồi đến lúc không còn thấy anh đến nhà thờ vào ngày Chúa nhật, dấu hiệu cho thấy việc giữ đạo của anh xuống dốc.

Tôi đến hỏi : sao lúc này không thấy lễ lạc gì hết vậy, sếp?

Anh trả lời: đạo thì tôi không bỏ đâu, nhưng mà lúc này phải lo kinh tế gia đình, chuyện đó để sau đi, bao giờ gia đình khá khá rồi hãy tính.

Có lẽ câu trả lời như thế này không phải là hiếm, nhưng chúng ta sẽ rất thường thấy nơi những người bê trể. Tại sao thế ?


Tại vì người ta thường hiểu một cách đơn giản: đạo và đời là hai việc không liên quan gì với nhau, vì thế có thể tách riêng ra để làm từng việc một, làm việc này xong rồi mới tới việc kia, việc nào cần làm trước thì làm trước, việc nào có thể để lại sau thì cứ để đó.


Thế nhưng chúng ta có thể tách biệt giữa đạo và đời trong cuộc sống chúng ta thành hai việc để rồi chúng ta có thể làm cái này trước cái kia sau ? Thiết nghĩ điều đó là không thể. Đạo và đời tuy có thể nói thuộc hai lĩnh vực khác nhau nhưng nó hoà quyện vào nhau đến nỗi không thể nào tách biệt được, cũng như xác với linh hồn cùng tồn tại trong một con người vậy.


Khi đánh giá về một con người, người ta nói: ngưới ấy tốt hay người ấy xấu. Dựa vào đâu để người ta đánh giá như thế ?

- Dựa vào lối sống của người ấy;
- Dựa vào những tiêu chuẩn về luân lý.
Mà tiêu chuẩn luân lý không thuộc lãnh vực thẩm mỹ, nghệ thuật hay y học..... mà thuộc lĩnh vực đạo đức.

Như vậy, ở đây, chúng ta thấy có một mối liên hệ không thể phân chia giữa hành động của người thực hiện và sự đánh giá của những người chịu tác động của hành động đó, giữa một việc rất “đời” và một việc rất “đạo” và tất nhiên ta cũng nhận thấy rõ ràng rằng “ đời” chịu sự phán xét của “đạo”.


Chính vì thế người có đạo không thể có đời sống bị phân mãnh. Đời sống của người có đạo phải được thể hiện bằng hành động trong phụng vụ và cả trong đời thường chứ không thể là ông thánh ở trong nhà thờ nhưng khi ra khỏi nhà thờ thì trở một tay anh chị.


“ Những Kitô hữu không khác gì những người khác do nguồn gốc xứ sở, tiếng nói, cách ăn mặc cả…..Họ không nói loại tiếng nào khác thường, cách sống của họ không có gì đặc biệt…..Họ thích ứng với mọi phong tục địa phương về y phục, thức ăn và cách sống; đồng thời lại biểu lộ những luật lệ khác lạ và hết sức nghịch thường của xứ sở thiêng liêng của họ…..Họ yêu mọi người và mọi ngượi lại bắt bớ họ ........   Nói tóm, linh hồn trong thân xác thế nào, thị Kitô hữu ở trong thế giới như thế…..Kitô hữu như những kẻ bị giam giữ trong nhà tù của thế giới: nhưng kỳ thực chính họ duy trì thế giới”  (Học thuyết xã hội của Hội Thánh Công giáo, quyển I, chương III). Đấy là một nguyên tắc căn bản nhất để thay đổi xã hội.

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Nhức đầu vì tiền mừng tuổi nội ngoại

Nghĩ đến chuyện tết này về quê chồng ăn tết chị Ngọc Loan đã thấy làm mệt. Năm ngoái chỉ vì tiền mừng tuổi má chồng của chị không bằng tiền mừng tuổi của cô con dâu hàng xóm mà chị bị "nhắc khéo"….

Số là năm ngoái nghĩ tiền mừng tuổi bố mẹ chồng là tiền thơm thảo nên vợ chồng chị Loan quyết định bỏ phong bì mừng tuổi cụ 500.000 đồng để bà vui.  

Nào ngờ 2 ngày sau, trong bữa cơm gia đình “vui miệng” má chồng chị kể: “Con Thảo, dâu bà Tám hàng xóm mình nó chỉ đi làm công nhân trên thành phố không biết lương tháng bao nhiêu nhưng chúng nó lì xì cho bà ấy 999.900 đồng. Bảo là lì xì cho mẹ 4 số 9 cho năm mới hên, có vàng. Thấy thế tao nói là con Loan lì xì tao 2 triệu mà tao không khoe thì thôi chứ…”.   


Chẳng biết thật hư thế nào và cụ vô tình hay cố ý nhưng chị Loan cũng nhột đến năm nay. Trong khi tết đến vợ chồng chị còn bao nhiêu là khoản để chi: quà cáp họ hàng, lì xì cho đám cháu, tiền tàu xe, phụ tiền chợ trong những ngày tết, rồi tiền sinh hoạt phí cả nhà hậu tết…nào đâu chỉ khoản mừng tuổi nội ngoại. Thêm khoản này rồi xén khoản nào làm chị nhức cả đầu suốt mấy ngày nay. Hỏi ý chồng thế nào thì chồng chị gắt: “Chuyện phụ nữ em cứ tự thu xếp đi. Hỏi anh vụ này sao anh biết?”


Không bị mẹ chồng nhắc khéo kiểu đó nhưng chị Tố Như lại bị mẹ ruột của mình quở suốt mỗi khi bà nhắc đến chuyện tết nhất. Hai năm trước, nghĩ là trong năm mình đã lấy quỹ đen chi cho mẹ nhiều nên đến tết chị biếu tiền tết mẹ chồng và mẹ ruột như nhau.        


Đến khi biết con gái “cào bằng” tiền tết với bà sui mới bên kia, mẹ chị than thở: “Sao người ta đẻ con con khôn còn con mình thì… Bà bên kia có đau, có xót, có cho hết cho con như mẹ ruột mình không mà sao con dại thế hử. Không phải tôi tham tiền mà tôi tức cho cái công sanh đẻ của tôi…”.         


Mệt mỏi với chuyện trách móc của mẹ chị rút kinh nghiệm là chớ dại nói ra tiền lì xì bên này cho bên kia biết. Hoặc nếu nói thì nên hạ giá xuống cho vừa lòng cả hai cụ.


Không chỉ vậy, các cụ còn đem tiền tết của con Hai so sánh với thằng Ba, thằng Tư…rồi ngậm ngùi để bụng trách móc con cháu không thương mẹ. Cả năm mới có một dịp con cháu tụ họp vui vẻ cả nhà nhưng kiểu so sánh rồi bỏ nhỏ cho con gái biết con dâu đứa này cho bao nhiêu, đứa kia cho bao nhiêu cũng làm nhiều nhà rối lên vì chuyện ấy.


Cũng vì chuyện mừng tuổi cho má chồng mà vợ chồng anh Minh Hùng nhức xương với cả họ. Nghe mẹ ruột kể em dâu thứ mừng tuổi mẹ mình không bằng cô em dâu út, vợ chồng anh bị người chị trách móc: “vợ chồng cậu khá giả, cả năm chẳng phải về làm dâu, làm con chăm lo cho bà bữa nào. Mà cậu nghĩ xem lúc trước bà lo cho cậu, cho vợ cậu thế nào…trong khi cậu là anh, khá giả hơn thằng út thế mà cũng không làm cho mẹ vui được sao. Mỗi năm chỉ có một ngày tết vợ chồng cậu về thôi mà…”       


Chính vì chuyện tiền tết nên nhiều con dâu rất ngại về quê chồng. Thế nhưng dại hay khéo đều tùy thuộc vào bản lĩnh của những người vợ, nhất là những việc liên quan đến tiền bạc càng không thể khinh suất. Điều quan trọng là đừng nên để bụng rồi bảo “cụ khó, chẳng chiều được” nên chẳng muốn về quê chồng dịp tết hay cãi vã nhau vì chuyện tết với chồng.    

Làm tròn trách nhiệm vợ hiền dâu thảo nào đâu chỉ được đánh giá qua việc mừng tuổi mà còn qua rất nhiều việc có thể lấy điểm bù vào nếu bạn không khéo. Giữ hòa khí yêu thương và cho các cụ thấy tình cảm thật của con cháu, ông bà sẽ hết “hờn giận” để gia đình luôn là nơi đón bước chân quay về của những đứa con mong tết.

N.Lâm (Báo Người Lao Động)

TẢN MẠN

ẢO TƯỞNG

Có một thực tế đáng cho chúng ta lưu ý là trong thời đại ngày nay là thế giới ảo đang “lên ngôi”. Nhiều người tỏ ra rất thích thú khi được sống trong thế giới ảo! Trong thế giới ảo đó, con người thấy mọi vật thật là hoản hảo, từng cảnh sống đều là thiên đàng tại thế, không còn gì đáng mơ ước nữa. Có mơ ước chăng là mơ ước cho mình đừng thấy lại cảnh đời “thực”! Thế nhưng thế giới ảo thì mãi mãi vẫn là ảo tưởng, là giả dối. Sống trong thế giới ảo dần dần sẽ biến con người thật thành con người ảo! Lấy cái thực để đổi lấy cái giả là thiếu khôn ngoan. Như vậy, khôn ngoan đích thực là sống cuộc sống thực với những cảnh sống thực dù cho sự đời có phủ phàng thế nào đi chăng nữa? Người môn đệ đích thực của Chúa đâu ngại gì “ra khơi” để bắt cá dù có “cực nhọc suốt đêm”. Như vậy, người môn đệ của Chúa nói chung và kẻ sống đời Thánh hiến nói riêng đừng bao giờ sống trong ảo tưởng bởi lẽ những hiểm nguy khó lường của nó. Ta hãy thử điểm qua một vài mặt trái của đời sống ảo tưởng để nói với nó lời giả từ thành thực nhất.

Trước hết, khi sống trong ảo tưởng, con người thấy mình “dễ thương” và “mẫu mực” vô cùng! Những người này thấy họ là thần tượng đáng mơ ước của thiên hạ. Họ cố gắng biến đổi làm sao để từng hành động, từng cử chỉ, từng lời ăn tiếng nói, dáng đi, cách đứng của mình đều trở thành “chuẩn mực” cho người khác học đòi bắt chước. Họ muốn được mọi người ngưỡng mộ và thương mến. Họ cố gắng sống làm sao để đừng có ai trong thiên hạ ghét mình, chống đối mình. Họ muốn lo hết cho mọi người và mọi người phải qui hướng về mình! Xem ra cũng tốt lắm! Nhưng ảo tưởng là thế! Những người sống ảo tưởng thường tranh thủ cho mình những tình cảm của mọi người dù là nhỏ nhặn nhất. Thường thì đây là những con người “ba phải”, đi hai hàng, là “nghị gật”. Họ rất sợ người khác buồn phiền mình. Chính vì thế, đôi khi họ sợ và không dám nói lên sự thật, không dám rao giảng sự thật, không dám sửa sai ai hết vì ngại mất lòng người khác. Nói đúng hơn, họ sợ người khác hết thần tượng mình, hết thương mình! Nhưng thử hỏi, đối với người làm môn đệ của Chúa, họ có nên sống như thế không? Họ đang làm việc để Sáng Danh Chúa hay làm cho chính họ được “rạng danh”? Cần xét lại! Chúa Giêsu đã bị ghét bỏ vì rao giảng sự thật để “sự thật giải thoát các ngươi”, Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu vì dám nói lên sự thật tội lỗi của Hêrôđê!. . .  Còn chúng ta thì sao?

Thứ đến, khi sống trong ảo tưởng, con người thấy mình “hoàn hảo” và “thánh thiện” vào hạng bậc nhất thiên hạ! Cám dỗ lớn nhất của con người từ ngàn xưa đến nay vẫn là cám dỗ về sự kiêu căng, thấy mình vượt hơn hết mọi người, hoàn hảo hơn người khác, ở vị thế con hơn mọi người. Cám dỗ này diễn ra ở khắp mọi nơi, ở mọi hạng người, nhất là ở những người có chức quyền trong xã hội hoặc đạt được sự thành công trong một vài lĩnh vực nào đó của cuộc sống. Những người này thấy mình vô cùng quan trọng trong đời sống của mọi người, quan trọng đến mức “khó ai có thể thay thế được”! Đó là một thứ ảo tưởng “chết người”. Ảo tưởng này trở nên rất nguy hiểm vì nó đẩy con người sống xa rời thực tế, xa cách với mọi người, thấy mình ở địa vị độc tôn và thích làm kẻ trên cao để ban phát và thi ân cho thiên hạ, không thấy mình cần học hỏi ai hay cần ai sửa dạy, dù là Chúa đi chăng nữa!

Người sống trong ảo tưởng cũng thường mong muốn cho cuộc sống của mình đừng gặp khó khăn hay rắc rối nào hết, hoặc khi khó khăn đến thì mình giải quyết mọi vấn đề trong nháy mắt và không sai lầm. Họ mong muốn sao cho mọi khả năng và trí tuệ trong thiên hạ đều qui về mình để mình khỏi cậy nhờ ai nhưng mọi người hãy cậy nhờ mình mà thôi. Vì thế, họ cảm thấy buồn phiền khi đời “không như là mơ” và để cho họ gặp thất bại. Họ cảm thấy bị thất đoạt khi có người khác giỏi hơn mình. Ảo tưởng là thế!


Hậu quả của những người sống trong ảo tưởng là thấy mình luôn sống trong cô đơn và căng thẳng. Hậu quả này cũng dễ hiểu thôi vì “cuộc đời không phải là giấc mơ”, càng không phải mình muốn sao thì được vậy. Điều quan trọng là hãy sống và làm việc hết tình và hết mình trong những chuyện bổn phận mà “đừng kêu la hay phản kháng gì hết”. Đi theo Chúa là đi trên con đường Thập Giá. Đừng theo Chúa bằng con đường trải thảm đỏ của vinh quang, kẻo chúng ta được thưởng công trước rồi đó! Hãy chờ đợi để lãnh phần thưởng của Chúa nơi phía cuối con đường của hy sinh và từ bỏ. Người sống đời thánh hiến đừng bao giờ là người sống ảo tưởng, nhưng hãy sống tròn đầy giấy phút hiện tại. Thấy việc gì đến thì làm, khi hoàn cảnh đến thì hành động. Còn sự suy tưởng chỉ là ảo ảnh. Đó chính là ảo giác của quá khứ hay tương lai. Vì thế, nó không cần thiết trong cuộc sống. Ta phải luôn luôn tỉnh thức để biết ta là ai. Hãy trở về luôn mãi với tiếng lòng của ta, trở về với chính ta, với hơi thở ta trong mỗi giây phút. Trở về với chính ta để ta sống trọn cuộc sống mà chính ta đã lựa chọn trong cầu nguyện: Một đời sống không ảo tưởng, một đời sống thật tròn đầy và mạnh mẽ với ý chí đối đầu với mọi khó khăn, với mọi khía cạnh tích cực và tiêu cực của cuộc sống. Hãy trở về với chính ta để sống một đời sống không ảo tưởng.

SỐNG ĐẸP

Thế  nào  là  Tình  yêu ?

Một cô gái hỏi bạn trai của mình:
- Tại sao anh yêu em?
- Sao em lại hỏi như thế, làm sao anh tìm được lí do chứ! Chàng trai trả lời.
- Không có lí do gì tức là anh không yêu em!
-  Em không thể suy diễn như vậy được.
- Nhưng bạn trai của bạn em luôn nói cho cô ấy biết những lí do mà anh ta yêu cô ấy.
- Thôi được, anh yêu em vì em xinh đẹp, giỏi giang, nhanh nhẹn. Anh yêu em vì nụ cười của em, vì em lạc quan. Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác. Cô gái cảm thấy rất hài lòng.

Vài tuần sau, cô gái gặp một tai nạn khủng khiếp nhưng thật may, cô ấy vẫn còn sống. Bỗng nhiên cô trở nên cáu kỉnh vì cảm thấy mình vô dụng. Vài ngày sau khi bình phục, cô gái nhận được một lá thư từ bạn trai của mình:


”Chào em yêu! Anh yêu em vì em xinh đẹp. Thế thì với vết sẹo trên mặt bây giờ anh không thể yêu em được nữa. Anh yêu em vì em giỏi giang nhưng bây giờ em có làm được việc gì đâu. Vậy thì anh không thể yêu em được. Anh yêu em vì em nhanh nhẹn nhưng thực tế là em đang ngồi trên xe lăn. Đây không phải là lí do giúp anh yêu em. Anh yêu em vì nụ cười của em nhưng cả tháng nay rồi anh chẳng thấy em cười. Anh có nên yêu em nữa không? Anh yêu em vì em lạc quan. Bây giờ anh không yêu em nữa vì lúc nào em cũng nhăn nhó, than vãn. Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác nhưng giờ đây mọi người lại phải quan tâm đến em qua nhiều. Anh không nên yêu em nữa. Đấy, em chẳng có gì khiến anh phải yêu em vậy mà anh vẫn yêu em. Em có cần một lí do nào nữa không, em yêu?”


Cô gái bật khóc và chắc chắn cô không cần biết một lí do nào nữa. Còn bạn, bạn có bao giờ hỏi những người thân của bạn lí do vì sao họ yêu bạn không?


Tình yêu đôi khi không nhất thiết phải cần một lí do. Thiên Chúa yêu chúng ta vô điều kiện!

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

ĐỐI BÀI VỊNH CHA SỞ

Vì sao Cha sở nên “nông nỗi”
Lượm lên, dục xuống nát “tả tơi”
Đá lên, đạp xuống rồi “lấy lại”
Chẳng còn ai thế “đỡ vậy thôi”

Cũng vì Tướng GiêSu  thuở ấy
Người đang rao giảng chúng bảo “điên”
Thân nhân tưởng thật bắt “Chúa xiềng”
Tâm trí thất thường sao họ “thấy”

Phao-lô còn bảo tôi “điên dại”
Thôi kệ cứ để thế gian “khôn”
Chúa bảo tôi rằng tỉnh như “rắn”
Cứ mãi thật thà như  “chim câu”

Tảng Đá kia đã bị thợ “bỏ”
Thế mà Chúa lấy lại “xây Thành”
Cha sở Aïc bị chê như “cỏ”
Nhưng cỏ ấy đã thành “Cây Xanh”

Chỉ sợ mình không sống thành “thánh”
Họ chê bai đành chịu “bó tay”
Hãy kiểm mình xem những” lúc ấy”
Bình an cho mọi kẻ “chính tâm”

Lm. Sơn Đoài

1306    24-04-2012 10:10:48