Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Gia Đình Cầu Nguyện Với Lời Chúa - Tháng 09 năm 2012

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Thư Mục Vụ
  3. Diễn Giải Thư Mục Vụ
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Sống Đạo
  9. Trang Linh Mục
  10. Trang Tu Sĩ
  11. Trang Sống Ơn Gọi
  12. Trang Thiếu Nhi
  13. Trang Giới Trẻ
  14. Trang Gia Đình
  15. Trang Giáo Lý Viên
  16. Trang Quới Chức
  17. Sống Đẹp
  18. Chuyện Thường Ngày
  19. Hỏi Đáp Mục Vụ
  20. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN

TOÀ GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Vĩnh Long, ngày 28.08.2012


Kính gởi: Các Linh Mục,
               Các Tu Sĩ,   
               Anh Chị Em Giáo Dân
               Địa Phận Vĩnh Long

V/v  Gia Đình Cầu Nguyện với Lời Chúa

"Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ?
Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Gioan 6,68)

1. Nhờ  những cải cách của CĐ Vaticanô II, ngày nay chúng ta dễ dàng tiếp cận với Lời Chúa hơn; Trong Thánh Lễ chúng ta nghe đọc Lời Chúa bằng ngôn ngữ của mình, Lời Chúa cũng được đưa vào trong các việc cử hành Bí Tích và Á Bí Tích..

2. Thế nhưng trước khi có các sách Phụng Vụ bằng thường ngữ, chúng ta đã có những phương cách thiết thực trong Truyền Thống Công Giáo Việt Nam, nhằm giúp các tín hữu cầu nguyện và sống Lời Chúa, như Phép Đi Đàng Thánh Giá, Kinh Truyền Tin, Lần Chuỗi Môi Khôi mà Chân Phước Gioan Phaolô II canh tân và khuyến khích sử dụng như  một Phương thức cầu nguyện: Cùng Với Mẹ Maria chiêm Ngắm Chúa Kitô, một cách cầu nguyện đơn sơ với Phúc Âm, Phép Cầu Lễ là phương thức cầu nguyện rất quen thuộc với cộng đoàn  Công Giáo tại Việt Nam, Gẫm 15 Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu trong Tam Nhật Thánh.

Những việc đạo đức nầy đã nuôi dưỡng và củng cố đời sống đức tin của bao thế hệ. Thật đáng trân trọng và bảo tồn (Thư chung năm 2011, số 11).

3. Tại nhiều nơi trên thế giới, cả những nơi đã có truyền thống Kitô giáo lâu đời, người ta không còn đọc kinh chung trong gia đình nữa, những người trẻ  không biết các kinh quen thuộc  của người Công Giáo. Trước nguy cơ các bạn trẻ không biết cầu nguyện, hàng trăm ngàn tập sách gồm các kinh nguyện Ai cầu nguyện thì cứu rỗi linh hồn mình, Qui prie sauve son âme, Who prays is saved , được  phổ biến bằng nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Trung Hoa)  không thể phủ nhận lợi ích của các kinh nguyện.

4. Tuy nhiên cầu nguyện bằng Kinh Phụng Vụ, cầu nguyện bằng cách đọc và suy niệm Lời Chúa (Lectio Divina) còn là những phương cách được cổ võ cho mọi thành phần tín hữu.

Chúng ta liệu sao cho mỗi gia đình có Kinh Tối Completorium ngày Chúa Nhật để đọc một hai lần trong tuần.

Đàng khác nên giúp anh chị em giáo dân biết dùng Lectio Divina để cầu nguyện, Hiện nay cũng có những sách hướng dẫn cầu nguyện theo Lectio Divina, như:  Đọc Tin Mùng Chúa Nhật Theo Lectio Divina, Năm A, Năm B, Năm C do Nhóm Phiên Dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện.

Phương Pháp Lectio Divina gồm có bốn bước : Lectio (Đọc) - Meditatio ( Suy gẫm) - Oratio (Cầu  nguyện) - Contemplatio (Chiêm niệm) .

Với tất cả thiện chí các Linh Mục chúng ta cũng có thể  thực hiện  những sách Đọc Tin Mừng thường ngày  theo Lectio Divina, để mỗi người Công Giáo, môi gia đình Công Giáo có thể  cầu nguyện với Lời Chúa.

Mong rằng nhờ cầu nguyện, nhất là cầu nguyện với Lời Chúa,  không những chúng ta biết về Chúa Giêsu, mà chúng ta biết Chúa; không những chúng ta nghe nói về Chúa Giêsu, mà  chúng ta để Chúa nói về chính Người cho chúng ta  (Hồng Y William Baum).

+ Tôma NguyễnVăn Tân
        Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: GIA ĐÌNH CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Để giúp người tín hữu Việt Nam làm quen với Lời Chúa, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề nghị:

-      "Cổ võ việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhất là cầu nguyện với Lời Chúa;

-      Phát động chương trình "Mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh" được đặt ở nơi xứng hợp;

-      Khuyến khích mọi người học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu;

-      Các tu sĩ và chủng sinh, kể cả giáo dân, tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày (lectio divina)".

(Thư HĐGMVN gửi cộng đồng dân Chúa, số 4; x. Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 11).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Thời gian trước đây, một ông lớn tuổi vùng kia thuộc tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ, lấy làm khó chịu cúp điện thoại với Tổng thống Reagan là người muốn nói chuyện với ông.

Việc này không phải xảy ra một lần mà đến năm sáu lần! Ông này không tin tổng đài, mãi đến khi được báo là Tòa Bạch Ốc đang gọi mình. Ông cứ cho rằng đó chỉ là trò đùa tinh nghịch và không chịu giữ máy. Nhưng tổng đài Southwestern Bell cùng người hàng xóm cuối cùng đã thuyết phục được ông, đó là chuyện thật. Kết quả là ông này được đặc ân trò chuyện với Tổng thống Reagan khoảng suốt 15 phút đồng hồ.

Câu chuyện này nhắc tôi nhớ những lời gọi cho cậu bé tên là Samuen (đọc 1 Sam 3,1-15) cách đây nhiều thế kỷ. Cậu bé không biết ai gọi - thậm chí lời gọi được lập lại nhiều lần. Lời gọi này của một nhân viên lớn hơn Tổng thống, đó là chính Thiên Chúa. Lúc đầu, Samuen bối rối, nhưng khi Ê-li cho biết người đang gọi là ai thì cậu lắng nghe.

Có bao giờ tôi nghe Chúa nói với mình chưa? Hôm nay Chúa vẫn nói với tôi qua Lời Ngài được viết ra trong Kinh Thánh (đọc 2 Tm 3,16-17) và Ngài ngự trong tôi qua Chúa Thánh Linh là Đấng giúp tôi nghe tiếng Ngài (đọc 1 Cor 2, 9-16).

Thiên Chúa lúc nào cũng muốn liên lạc với tôi. Điều quan trọng là tôi có dành thì giờ để lắng nghe không?

(Phó tế Định Sưu Tầm)

Thánh Gioan quả quyết: Lời Chúa là Lời Hằng Sống (x.1Ga 1). Lời Chúa là Sự Thật và là Sự Sống, là chính Thiên Chúa hằng hữu ngay từ khởi đầu. Ai đón nhận Lời Chúa, người đó được sống trong ánh sáng, và sự sống vĩnh cữu đã bắt đầu trong người đó. Chính sự sống này giúp liên kết mọi người với nhau vì tất cả cùng hiệp thông với nguồn sống là Thiên Chúa.

Chính Thánh Phê-rô đã mạnh mẽ tuyên xưng: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Ga 6,68). Ai sống theo Lời Chúa thì được hạnh phúc không chỉ trong cõi đời đời, mà còn được niềm vui và bình an ngay trong cuộc sống ở trần thế này. "Phúc ai cho biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa" (Lc 11,28).

Thánh Phao-lô trong thư gửi các tín hữu Do Thái (x.Dt 4,12-13) đã khẳng định vai trò và giá trị của Lời Chúa như là tiêu chuẩn, là định hướng cho cuộc sống Ki-tô hữu. Mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói đều phải căn cứ vào Lời Chúa, đối chiếu với Lời Chúa, đặt dưới ánh sáng hướng dẫn và chịu sự phán xét của Lời Chúa.

Tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin đòi hỏi mỗi tín hữu phải yêu mến và sống theo ý Chúa, qua việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa: "Mọi người nên nhớ rằng, kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì: Chúng ta ngỏ lời với Chúa khi chúng ta cầu nguyện và chúng ta lắng nghe Chúa phán dạy khi chúng ta đọc Thánh Kinh"  (Hiến Chế Mạc Khải,  số 25).

Vì thế cần phải huấn luyện để người giáo dân nhận biết được ý Chúa qua việc làm quen với lời của Người, được đọc và học tập trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của các mục tử hợp pháp của Giáo Hội. (x. Tông Huấn Lời Chúa, số 84).

Gương sống Lời Chúa của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và các Kitô hữu ban đầu sẽ giúp chúng ta, nhất là các gia đình biết cách áp dụng Lời Chúa trong đời sống đức tin của mình.

Mẹ Maria được diễm phúc vì đã đón nhận Lời Thiên Chúa, trước khi cưu mang Chúa trong lòng mình (x. Lc 1,38). Mẹ được phúc vì đã "lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11,28). Cả cuốc đời của Đức Maria từ lúc Truyền Tin cho đến dưới chân Thập giá luôn "lắng nghe và suy niệm trong lòng" (x. Lc 2,19; 2,51) các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu để cộng tác trọn vẹn vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ dạy cho chúng ta tầm quan trọng của việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, ngay cả những lúc đau thương nhất.

Về Thánh Giuse, Tin Mừng không ghi lại một lời nào của Ngài. Nhưng Thánh Giuse đã thực hiện tất cả mọi điều Thiên Chúa muốn; cộng tác tích cực vào chương trình của Thiên Chúa, nhất là nhiệm vụ dưỡng nuôi và giáo dục Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, nên Thánh Giuse hoàn toàn sống với Lời Chúa. Và Ngài hoàn toàn hy sinh cuộc đời mình để chỉ sống cho Lời Chúa. Ngài chính là mẫu gương cho chúng ta - những gia đình Kitô hữu  với cuộc sống bình thường - âm thầm sống theo hướng dẫn của Lời Chúa trong cuộc sống thăng trầm hàng ngày.

Các Kitô hữu tiên khởi nhờ "siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng" (Cv 2,42) nên họ đồng tâm nhất trí với nhau và được toàn dân thương mến (x. Cv 2,46). Được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Mình Chúa khi tham dự Thánh lễ, đời sống các Kitô hữu ban đầu biến đổi. Họ trờ nên dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa giữa mọi người. Muốn được sự sống mới, chúng ta cũng phải đón nhận Lời Chúa và Mình máu Chúa làm của ăn nuôi hồn.

Để tiếp cận Lời Chúa, mỗi gia đình cần có một cuốn Kinh Thánh riêng, như các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục thứ 12 về Lời Chúa trong Gia đình và như Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mong ước,  để có thể đọc và chia sẻ Lời Chúa trong  gia đình, nhất là giờ kinh tối, khi mọi thành viên quy tụ bên nhau trước bàn thờ gia đình.

Tham dự Thánh lễ thường xuyên là cách thế để chúng ta đón nhận sức sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh thể. Cả hai bàn tiệc đều là chính Chúa Giêsu. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp nên thánh giống như Chúa để vượt qua thử thách trên đường lữ thứ tiến về quê trời.

Kinh Môi Khôi là bảng tóm tắt Tin Mừng, do đó chúng ta vừa đọc vừa chiêm ngắm Chúa Giêsu, theo gương Mẹ Maria, để biết luôn vâng phục ý Chúa.

Đó là một số nét gợi ý thực hành hy vọng giúp các gia đình yêu mến việc đọc, suy ngắm và sống theo Lời Chúa.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Con người được sinh ra và lớn lên trong gia đình. Con người được thông truyền đức tin nhờ gia đình. Vậy gia đình cần nhiều ơn Chúa, cần cùng nhau cầu nguyện, nhất là cầu nguyện với Lời Chúa. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.      Chúa phán: "Khi cầu nguyện, chúng con đừng quá nhiều lời như dân ngoại". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Dân Chúa được hợp chung một lòng, mà dâng lên Thiên Chúa những nhu cầu của Hội Thánh.

2.      Chúa phán: "Nơi nào có hai ba người hợp lại nhân danh Thầy mà cầu xin, Thầy sẽ làm cho". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình kitô-hữu thường họp nhau cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu, ngay trước bàn thờ gia đình mình.

3.      Chúa phán: "Các con hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ chán". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu biết sắp xếp thời giờ cho mọi sinh hoạt, cũng biết dành thời giờ cho việc cầu nguyện ban sáng, ban tối, và khi cần thiết.

4.      Chúa phán: "Các con hãy cầu nguyện luôn, để khỏi sa chước cám dỗ". Chúng ta cầu nguyện cho mọi gia đình trong họ đạo chúng ta, biết dành riêng thời giờ đọc kinh tối chung, để khỏi phạm tội và để nhận được nhiều ơn Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn thông ban sự sống của Chúa cho mọi người. Xin ban Thánh Thần liên kết mọi thành phần gia đình chúng con lại, giúp chúng con biết dùng Lời Chúa mà cầu nguyện, hầu cho chúng con được sum họp trong Nước Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN TRONG GIA ĐÌNH

Nghe đây, hỡi Israel ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.  Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng.  Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy,  phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu,  phải viết lên khung cửa nhà anh em, và lên cửa thành của anh em (Dnl 6, 4 - 9).

Những lời trên đây được đặt vào môi miệng ông Môsê truyền lại cho con cái Israel tuân giữ trong dòng lịch sử dân tộc mình để tôn thờ Thiên Chúa của họ. Khi đọc những chỉ thị này, ta có thể cảm nhận rằng: có lẽ ông Môsê đưa ra những chỉ dẫn rườm rà và mang tính hình thức trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng nếu nhận ra giá trị đích thực của Lời Chúa thì ta sẽ thấy những chỉ thị này thật cụ thể mà mang lại nhiều lợi ích vì:

Lời Chúa là chính Chúa

Trong cuộc Xuất Hành để tiến về Đất Hứa, sau khi Thiên Chúa ban Giới luật cho dân Do Thái qua Môsê trên núi được ghi vào hai Bia Đá, thì dân Do thái đã làm Hòm Bia để đặt hai bia đá Giáo Ước ghi dấu sự hiện diện của Thiên Chúa và người ta đã tôn vinh Hòm Bia Giao Ước như là chính Chúa.

Hôm đó, vua Đa-vít ra đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan. Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Israel rước Hòm Bia Đức Chúa lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và (2Sm 6, 12b - 15). Như vậy ta thấy, Đavid đi đón Hòm Bia Giao Ước ghi Lời Chúa nhưng ông tin rằng Lời Chúa là chính Chúa nên ông mừng rỡ, ông nhảy múa như một đứa trẻ trước nhan Thiên Chúa.

Lời Chúa là sự hiện diện của Chúa

Hòm Bia Giáo Ước là một báu vật vô giá, chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, và là một bảo vật vô cùng linh thánh như vậy cho nên bằng tất cả mọi giá, cộng đồng con cái Israel đã ra sức bảo vệ, giữ gìn và tôn kính Hòm Bia Giao Ước ấy.  Họ cảm nghiệm một cách sâu sắc và họ xác tín rằng, khi Hòm Bia Giao Ước ở với họ là họ có tất cả, có bình an, hạnh phúc, ấm no và kẻ thù họ sẽ không dám tấn công họ: "Khi Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa xuống trại, toàn thể Ít-ra-en hò reo vang dội khiến đất rung chuyển. Người Phi-li-tinh nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau: "Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Híp-ri là gì vậy?" Chúng biết là Hòm Bia Đức Chúa đã đến trại. Người Phi-li-tinh sợ hãi, vì chúng nói: "Một vị thần đã đến trại!" (1 Sam 4:5-7).  Còn khi Hòm Bia Giao Ước rời xa họ, khi họ mất Hòm Bia là khi đó họ sẽ mất hết tất cả mọi sự: "Con dâu ông [Ê-li] đang có thai và sắp sinh. Nghe tin Hòm Bia bị chiếm đoạt, cha chồng và chồng chết, nàng khuỵu xuống và sinh con ... Nàng gọi đứa trẻ là I-kha-vốt, và nói: "Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm đoạt" (1 Sam 4:19,22). Như vậy, Hòm Bia Giao Ước chính là sự hiện diện của Chúa, hay nói cách khác Lời Chúa chính là sự hiện diện của Thiên Chúa.

Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường

Như cột lửa, đám mây đã dẫn đường dẫn dân Do thái tiến về Đất hứa, như ánh sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm đến chiêm bái Chúa Hài Nhi thì Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường cho người tín hữu tiến về đất hứa thật trên trời. Lời Chúa an ủi kẻ khổ đau, nâng đỡ người thất vọng, củng cố kẻ yếu lòng, đồng hành với những ai tin tưởng. Những chông gai, những thất bại, những đêm tối của khó khăn lạc hướng của dân Do thái, của các vị đạo sĩ đã được vượt qua nhờ ánh sáng Chúa soi đường thì nay người tín hữu cũng sẽ được vượt qua nếu biết nhìn lên ánh sao chỉ đường là Lời Chúa. Thiên Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi người vẫn luôn trung tín. Người đã bảo vệ, che chở thì Người cũng sẽ bảo vệ và che chở cho những ai biết nương tựa vào Người.

Vì tầm quan trọng của Lời Chúa nên các gia đình được mời gọi: hãy để Thiên Chúa hiện diện trong gia đình mình, hãy để Thiên Chúa hướng dẫn gia đình mình. Vì có Chúa là có tất cả. Nhưng làm sao để có được điều đó? Để có được điều đó Giáo hội mời gọi các gia đình hãy đọc Lời Chúa hằng ngày, hãy để Lời Chúa thấm nhập vào trong đời sống của các gia đình khi vui, lúc buồn, khi gặp thử thách, khi thành công, khi thất bại... để thấy được rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với mình, nâng đỡ chở che và ban ơn thêm sức cho mình. Trong khi chúng ta tìm cách chia sẻ Lời Chúa trong các gia đình, chúng ta sẽ cảm nghiệm trực tiếp điều mà Công Đồng Vaticanô II có ý nói đến trong Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải (Dei Verbum) khi viết rằng "Trong các sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái Ngài và ngỏ lời với họ. Đó là sức mạnh và quyền năng của Lời Chúa có thể nâng đỡ và tăng cường sinh lực cho Hội Thánh, cùng ban sức mạnh Đức Tin cho con cái Hội Thánh, là lương thực cho linh hồn, mạch sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho họ" (DV số 21). Ước gì các gia đình luôn biết quý trọng Lời Chúa, siêng năng đọc, suy gẫm và thực hành Lời Chúa hằng ngày trong đời sống mình.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 21. CÁC THƯ MỤC VỤ

1/ Thư mục vụ gồm những thư nào? Tại sao gọi là thư mục vụ?

Các thư mục vụ gồm: thư I và II gửi cho Timôthêô và thư gửi cho Titô. Gọi là thư mục vụ vì thư không đề gửi cho các giáo đoàn, ngược lại, chỉ gửi cho các cộng sự viên của Thánh Phaolô là Timôthêô và Titô mà thôi. Và các thư đề cập đến hai điểm chính yếu là: chống lại lạc giáo và tổ chức Giáo hội.

2/ Ai là tác giả của thư mục vụ trên đây?

Thánh Phaolô là tác giả như đầu thư đã nhắc tới (1 Tim 1, 1-2), (2 Tim 1,1-2), (Tit 1, 1-4). Những lời chào hỏi trên khác biệt với những đề tựa trong thư Galata, Rôma, Philipphê v.v...nên một số tác giả cho rằng các thư mục vụ được các vị lãnh đạo viết dưới danh nghĩa của Phaolô.

Một điều chắc chắn không thể phủ nhận được đó là các thư phản ánh tư tưởng của Phaolô, nhưng được các đồ đệ trẻ trung hơn diễn tả qua lối văn hiện đại.

3/ Timôthêô và Titô là ai?

Timôthêô là một trong những cộng sự viên thân tín nhất của Phaolô, đã cùng Phaolô làm việc cho các giáo đoàn Thêssalônica và Philipphê. Phụ giúp thánh Phaolô trong nhiều bức thư (2 Cor 1,1; Phil 1, 1; 1&2 Thes 1, 1; Plm 1) đã làm sứ giả cho Phaolô tại Philipphê ( Phil 2, 19) và Thêssalônica ( 1 & 2 Thes 3, 2).

Còn Titô là người Hy Lạp theo Phaolô trong chuyến du hành Giêrusalem (Gal 2, 1- 2). Ngài đã trợ giúp đắc lực cùng Phaolô xây dựng giáo đoàn Côrintô ( 2 Cor 2, 13; 7, 6-13) và là sứ giả của Phaolô tới thăm giáo đoàn và nhận những quyên góp của giáo đoàn (2 Cor 8, 6).

4/ Các thư mục vụ được viết tại đâu và viết vào thời nào?

Về nơi chốn các thư được viết thì không có bằng chứng gì minh xác cả. Còn về thời điểm thì các thư mục vụ được viết khoảng cuối thế kỷ I sau Chúa Giáng sinh.

5/ Đâu là những đặc điểm của các thư mục vụ?

Trong cả ba lá thư chúng ta đều nhận thấy có một nét chung là thái độ và hành động của Phaolô đối với Timôthêô và Titô như các cộng sự viên, như các bậc thầy. Thánh Phaolô đã không đưa ra những giáo huấn tỉ mỉ về đức tin hoặc khuyên răn về các khuyết điểm cho bằng nhắc nhở họ trọng trách làm thầy, nền tảng căn bản của ơn gọi và những đòi buộc của ơn gọi ấy.

Phaolô đã trưng dẫn mình như tấm gương cho Timôthêô và Titô. Giờ đến lượt các ngài cũng phải trở nên mẫu mực cho cộng đoàn.

Sau nữa các thư còn mang đặc tính hồi cố: nhắc nhớ lại những lời rao giảng truyền thống, những điều nên tránh như các lý thuyết lạc giáo; còn những điều cần khuôn rập như gương hăng say của Phaolô, thái độ kiên trì, hiền hậu khoan dung và chịu đựng của ngài.

6/ Các thư mục vụ đề cập tới lạc giáo như thế nào?

Các kẻ làm thầy hãy đề phòng:

-      Những kẻ dấy lên từ hàng ngũ tín hữu mà giảng dạy những đạo lý mới sai lầm... (1 Tim 1,3; 2 Tim 2, 8; Tit 1,10).

-      Những khuynh hướng ngộ đạo, chối bỏ đức tin mà theo những thần khí lầm lạc. Họ tìm cách giác ngộ và kết hợp với thần linh bằng đề cao tư tưởng khắc kỷ như cấm hôn nhân, kiêng cữ ăn uống... (1 Tim 4,3).

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

LINH MỤC QUẢN XỨ THEO CỒNG ĐỒNG VAT.II VÀ BỘ GIÁO LUẬT MỚI

Trang tìm hiểu Giáo luật tháng nầy, xin giới thiệu với quý đọc giả bài "Linh mục quản xứ theo ánh sáng của Công đồng Vatican II và Bộ Giáo luật mới" của cha Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang (Tổng giáo phận Huế). Bài viết khá dài nên mỗi tháng sẽ trích đăng một phần, xin quý vị đón xem. Sau đây là nội dung của bài viết:

Hơn ai hết, linh mục là con người đặc biệt của Giáo Hội. Qua Công Đồng Vatican II và qua Bộ Giáo Luật mới, Mẹ Giáo Hội nói lên rõ ràng những gì liên quan đến Linh mục quản xứ.

Linh mục quản xứ hãy lần theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II và của Bộ Giáo Luật mới, để tìm hiểu về linh mục quản xứ, hầu chu toàn những bổn phận của mình đối với đoàn chiên trong giáo xứ theo như Giáo Hội muốn.

1. Tương quan giữa CĐ Vatican II và Bộ Giáo-Luật mới

Công Đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật mới có liên quan hết sức chặt chẽ với nhau.

Ngày 25.01.1959, khi tuyên bố triệu tập Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng tuyên bố việc cải tổ lại Bộ Giáo Luật của năm 1917.

Trong phiên họp ngày 12.11.1963 của Công Đồng Vatican II, các Nghị Phụ nhận thấy rằng: công việc cải tổ Bộ Giáo Luật phải đợi cho đến khi Công Đồng bế mạc, mới làm được, bởi vì Bộ Giáo Luật mới nầy cần phải được căn cứ vào những nguyên tắc và những gợi ý của Công Đồng mang lại.

Sau khi Công Đồng Vatican II bế mạc (1965), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đưa ra nguyên tắc làm việc sau đây của Ủy Ban Cải Tổ Bộ Giáo-Luật mà Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thành lập ngày 28.3.1963.

Nguyên tắc là: phải tìm cách đem tất cả những Hiến Chế, những Sắc Lệnh của Công Đông Vatican II vào trong Bộ Giáo Luật mới, vì Công Đồng Vatican II có một nền giáo lý mớ mẻ về Giáo-Hội và có nhiều điểm mới mẻ khi bàn về các tu viện, các tổ chức mới... Mục đích là để làm sao cho Bộ Giáo Luật mới nầy trở nên một thành phần bổ túc cần thiết cho Công Đồng Vatican II. Vì thế, trong Sắc-Lệnh "Kỷ Luật Thánh" (Sacrae Disciplinae) công bố Bộ Giáo Luật mới nầy, ngày 25.01.1983, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói rằng Bộ Giáo Luật mới nầy hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Công Đồng Vatican II nói chung.

Có thể nói rằng Bộ Giáo Luật mới nầy là một cố gắng vĩ đại để dịch giáo lý về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II ra ngôn ngữ của pháp luật. Và cũng có thể nói rằng Bộ Giáo Luật mới nầy bổ túc cho Công Đồng Vatican II, đặc biệt về những gì liên quan đến hai Hiến Chế về Giáo Hội, Ánh Sáng Muôn Dân (hiến chế tín lý về Giáo Hội) và Vui Mừng và Hy Vọng (hiến chế mục vụ về Giáo-Hội ).

2. Định nghĩa Linh Mục Quản Xứ

Điều luật 519 định nghĩa rõ Linh mục quản xứ:

Cha sở là chủ chăn riêng của giáo xứ được trao phó cho ngài và ngài thi hành trách nhiệm mục vụ của cộng đoàn được uỷ thác cho ngài, dưới quyền Giám mục giáo phận, mà ngài đã được kêu gọi để chia sẻ thừa tác vụ của Đức Kitô, ngỏ hầu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, thánh hoá và lãnh đạo đối với cộng đoàn ấy, với sự cộng tác của các linh mục hoặc các phó tế khác và với sự giúp đỡ của các giáo dân, chiếu theo quy tắc của luật.

Qua định nghĩa nầy, chúng ta thấy Bộ Giáo Luật nêu lên rõ ràng mối tương quan giữa Đức Giám Mục và các linh mục quản xứ trong giáo phận, và những điều nầy đã được Công Đồng Vatican II nói đến rõ ràng trong Hiến chế về Phụng Vụ (Thánh Công-Đồng, 42), trong Sắc lệnh về Nhiệm vụ Giám mục  (Chúa Kitô, 11), và đặc biệt trong Hiến chế về Giáo Hội (Ánh Sáng Muôn Dân, 28).

Theo Hiến chế về Giáo Hội (Ánh Sáng Muôn Dân, 28), linh mục quản xứ là cộng sự viên khôn ngoan của Đức Giám Mục giáo phận, phụ tá và là dụng cụ của Đức Giám Mục, hiện thân của Đức Giám Mục trong giáo xứ.

Linh mục quản xứ phải luôn luôn liên kết với Đức Giám Mục giáo phận với lòng tin tưởng và lòng quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ do Đức Giám Mục trao phó, chia sẻ những nỗi lo lắng của Đức Giám Mục, và hằng ngày, ân cần thi hành chức vụ mình đã lãnh nhận từ Đức Giám Mục.

Dưới quyền Đức Giám Mục giáo phận, linh mục quản xứ  thánh hóa và dìu dắt một phần đàn chiên Chúa được trao phó cho mình, làm cho người ta thấy được Giáo Hội phổ quát ngay tại địa phương, góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô.

Vì tham dự vào chức linh mục và vào sứ mệnh của Đức Giám Mục giáo phận, linh mục quản xứ phải thật sự xem Đức Giám Mục Bản Quyền của mình như một người cha và phải kính cẩn vâng phục ngài.

Trước mặt giáo dân trong giáo xứ mình, linh mục quản xứ nổi bật vì đức trinh khiết, vì đức khó nghèo, và nhất là, nổi bật vì đức vâng phục đối với Đấng Bản Quyền của mình.

Đức tuân phục của linh mục đem lại nhiều ích lợi cho Giáo-Hội, và ngược lại, sự bất tuân của linh mục gây cho Giáo Hội nhiều thiệt hại. Khi còn tuân phục Giáo-Hội, khi còn trung thành với Giáo Hội, linh mục Lammenais hứng khởi viết về Giáo-Hội là Mẹ của mình ở trên trần gian, cũng như Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của mình ở trên thiên đàng: "Tôi có Hai Mẹ, một Mẹ dưới trần gian, một Mẹ trên thiên đàng". Nhưng khi không còn tuân phục Giáo Hội nữa, linh mục nầy phản lại Giáo Hội và viết trong tờ trối một câu rùng rợn về Đức Mẹ Maria: "Khi chôn ta, không được đọc một kinh Kính Mừng nào trên mộ ta".

Việc Đức Tổng Giám Mục Fénelon tùng phục Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII, đã để gương vâng phục rạng rỡ lại cho hàng giáo sĩ.

Đức Cha Fénelon, tổng giám mục danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII, được mọi người thán phục và kính nể vì thông thái và đạo đức. Ngài sáng tác cuốn sách thiêng liêng rất hay, nhan đề "Cắt nghĩa các câu châm ngôn của các thánh" (Explication des maximes des Saints).

Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án cuốn sách của ngài và cấm lưu hành.

Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: "Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương cho anh em". Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án, trong đó có cuốn sách của ngài, cuốn "Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh"...

Nguồn: http://tonggiaophanhue.net

SỐNG ĐẠO

CẦU NGUYỆN CHO GIÁM MỤC

Trong thánh lễ có mấy khi chúng ta cầu nguyện cho Giám mục. Mặc dầu trên nguyên tắc Giám mục sống cho giáo hữu, phục vụ giáo hữu, hiến thân cho giáo hữu.

Chỉ có ngày Chúa nhật trong lời nguyện chung của toàn thể giáo hữu có nhớ đến rồi quên tuốt.

Lời nguyện của Đức Cha Cassaigne muốn khỏi quên thì khi lần chuỗi chúng ta  hãy dùng kinh đầu: Lạy Cha, Kính mừng và Sáng danh.

Mỗi ngày chúng ta lần chuỗi nên dễ nhớ. Xin Chúa ban những ơn cần kíp cho Ngài thể hiện tốt đời sống mục tử.

Chính tác giả viết vài dòng này đã thực hiện từ lâu. Anh em nghĩ thế nào?

TRỜI SINH TRỜI DƯỠNG SỐNG THÁC NHỜ TRỜI

Đó là điều chúng ta tin tưởng nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: Chúa sinh dưỡng chúng ta để làm gì? Sinh khơi khơi, sinh ra rồi không cho chúng ta một mục đích. Thì sinh dưỡng không có gì cả.

Chúng Tạ ôn cũng nhớ, Chúa dựng nên ta vì yêu thương chúng ta, muốn chúng ta được hiện hữu giống như Chúa và trao cho chúng ta mục đích: thờ phượng, kính mến Chúa, thương yêu nhau để được hưởng phước đời đời.

Đó là mục đích tối chung của chúng ta. Thiên Chúa là tự hữu, hiện hữu tuyệt đối, yêu thương tuyệt đối mà không ban cho con người thông phần Thần Thánh hiện hữu của Chúa đời chỉ là hư vô.

Nếu tạo dựng để con người thờ phương thôi thì con người kể là nô lệ của Chúa cũng tốt nhưng không đáng. Chúa tạo dựng con người có hình ảnh Chúa nghĩa là tham gia phần nào bản tính của Chúa để nên con cái của Chúa.

Thờ Chúa yêu mến Chúa là con Chúa thì dĩ nhiên là anh em nhau, mà là anh em thì dĩ nhiên là phải thương nhau, anh em mà không biết thương nhau thì sống vô lý.

Sống có được người yêu, có người để yêu thì đời sống hạnh phúc. Sống đúng theo mục đích Chúa chỉ định đó là sống theo ý Chúa, mà ai luôn sống theo ý Chúa là sống đúng mục đích tối chung.

TRANG LINH MỤC

 Thiên Chúa Yêu Thương Thế Giới Qua Mỗi Linh Mục
Là Người Đảm Nhận Cương Vị Của Chính Chúa Kitô

Chân phước Têrêxa Kolkata nói về chức linh mục

Trong đời sống hằng ngày, mối tương quan của một linh mục trong tác vụ của mình với Ba Ngôi Thiên Chúa là gì ?

- Chúng ta đọc trong Kinh Thánh, Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Ngôi Lời và Ngôi Lời đã trở nên Huyết nhục; và Ngài đã đến và cư ngụ giữa chúng ta và với chúng ta. Và như vậy các linh mục hôm nay là người cũng được gửi đến, để bằng cuộc sống yêu thương, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới hôm nay. Linh mục là dấu chỉ, là ngọn lửa sống động, là ánh nắng của tình yêu Thiên Chúa đối với thế giới; linh mục là ngọn lửa cháy, là niềm hy vọng của hạnh phúc vĩnh cửu. Vì vậy, đối với các linh mục, để được hoàn toàn sử dụng theo ý muốn của Chúa Cha, ngài phải hoàn toàn nên một với Chúa Con, và bày tỏ cùng mang lấy tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của mình, trong thái độ của mình, trong hành động của mình, bởi vì ngày hôm nay Thiên Chúa yêu thương thế giới qua mỗi linh mục là người đảm nhận cương vị của chính Chúa Kitô. Linh mục là một Chúa Kitô khác.

Đối với linh mục Thánh Thể phải là thế nào?

- Chúa Kitô đã ban chính Người làm Bánh Hằng Sống đáp ứng cơn đói khát của chúng ta đối với Tình Yêu của Người, và sau đó Người đã biến mình thành Người Đói Khát mà chúng ta có thể làm Người được no thỏa bằng tình yêu của chúng ta; do đó, trái tim linh mục phải trong sạch để có thể nói (môi miệng nói được khi lòng đã đầy ứ), những lời: "Đây là Mình Thầy" và làm cho bánh hóa nên Chúa Kitô Hằng Sống. Làm thế nào để bàn tay của linh mục được tinh khiết, làm thế nào để bàn tay của vị linh mục hoàn toàn là bàn tay của Chúa Giêsu, để khi nâng cao lên, thì nơi bàn tay linh mục chính là Máu Thánh Chúa Kitô. Khi đến tòa cáo giải, một hối nhân mang đầy tội lỗi, thì khi bước ra khỏi tòa, anh ta là một tội nhân được sạch mọi tội. Làm thế nào để các linh mục hoàn toàn nên một với Chúa Giêsu để cho Chúa Giêsu sử dụng mình ở địa vị của Ngài, trong Danh của Ngài, bày tỏ những lời của Ngài, thực hiện những hành động của Ngài, tẩy trừ những tội lỗi, và làm cho bánh tầm thường hóa nên Bánh Hằng Sống là Mình và Máu của Người. Chỉ trong sự thinh lặng của trái tim mình linh mục mới có thể nghe thấy Lời của Thiên Chúa, và từ sự sung mãn của trái tim mình, linh mục mới có thể thốt lên những lời này: "Tôi tha tội cho bạn" và "Đây là Mình Thầy."

Đối với linh mục cầu nguyện phải là thế nào?

- Để trung thành với việc cầu nguyện, để có thể cầu nguyện, một linh mục phải biết thinh lặng, bởi Thiên Chúa nói trong sự thinh lặng của trái tim. Cầu nguyện cũng là biết lắng nghe, và học để biết cầu nguyện là điều rất quan trọng đối với linh mục, đó là một trong những điều mà Chúa Giêsu đã cố gắng để dạy các môn đệ của Người. Và cầu nguyện đối với một linh mục là để cho Chúa Giêsu cầu nguyện trong mình và thông qua mình. Vì vậy, linh mục phải sống trong sạch, hoàn toàn để Chúa Kitô sử dụng đến mức Người có thể nên một với Chúa Cha ngay trong trái tim của linh mục, và sử dụng để công bố vinh quang Chúa Cha qua linh mục. Cầu nguyện là lương thực dưỡng nuôi đời linh mục. Một linh mục không cầu nguyện sẽ không thể sống gần Chúa Kitô, không thể để cho Chúa Kitô sử dụng mình theo ý của Người. Hoa quả của cầu nguyện luôn là chiều sâu của đức tin, và các linh mục, nếu không có đức tin sâu sắc sẽ khó lòng cầu nguyện được. Và hoa quả của đức tin luôn luôn là tình yêu. Và nếu một linh mục không có  tình yêu, thì làm sao ngài có thể giúp những người khác yêu thương? Và hoa quả của tình yêu là phục vụ - phục vụ như Chúa Giêsu nói: "Tôi đến giữa các bạn như một người phục vụ." Và linh mục là người đến sống giữa những người thuộc về mình và trở thành tôi tớ phục vụ mọi người.

Chúa Giêsu hiện diện như thế nào trong người nghèo khi Người nói: "Quả thật ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm điều đó cho một trong những anh em bé mọn nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta"?

- Khi Thánh Phaolô đi tiêu diệt các Kitô hữu tại Damas, ông đã bị quật ngã và nghe có tiếng phán: "Saolô, Saolô, tại sao ngươi bách hại ta?" Phaolô hỏi: "Ngài là ai?" Và Chúa đã cho Phaolô một câu trả lời rất rõ ràng: "Ta là Giêsu Kitô mà ngươi đang tìm bắt." Chúa Kitô không nói rằng Người là các Kitô hữu Damas. Cũng tương tự như vậy, Chúa nói: "Bất cứ điều gì bạn làm cho người anh em bé nhỏ nhất của tôi, bạn đang làm cho tôi". Nếu nhân danh tôi, bạn cho một ly nước, là bạn đang cho tôi. Nếu nhân danh tôi, bạn đón nhận một đứa trẻ, là đang đón nhận tôi. Và Người đã khẳng định điều đó như một điều kiện, mà vào giờ lâm tử, chúng ta sẽ được phán xét về những điều chúng ta đã sống và những gì chúng ta đã làm. Chính Người đang là một người đói, một kẻ trần trụi, người vô gia cư, người đau ốm, cô đơn, lạc loài, bị bỏ rơi, và Chúa nói: "Tôi đói và bạn đã cho ăn". Không chỉ đói cơm, tôi đói tình thương. Tôi đã trần trụi, không chỉ vì thiếu áo quần, mà vì đã không được tôn trọng phẩm giá làm con Thiên Chúa. Tôi đã vô gia cư, không chỉ vì không có một mái nhà, mà vì sống bơ vơ, bị loại trừ, sống lạc lõng, không được yêu thương, bị ném ra lề xã hội, và bạn đã làm điều đó cho tôi". Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu làm Bánh Hằng Sống làm no thỏa niềm khát khao Thiên Chúa của chúng ta, vì tất cả chúng ta được dựng nên để yêu thương và được yêu thương. Và điều Chúa Giêsu giải thích thì rất rõ ràng: chúng ta yêu mến Thiên Chúa như thế nào? Nếu đã được Chúa dựng nên để yêu thương, thì tất cả chúng ta đều muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng làm thế nào? Thiên Chúa ở đâu? Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào? Bởi vậy, Ngài ban cho cơ hội để chúng ta thực hiện cho tha nhân những gì chúng ta mong được làm cho Ngài, và biến tình yêu của chúng ta đối với Ngài thành hành động trong cuộc sống. Vì thế cho nên, mọi ơn gọi linh mục không chỉ là để làm điều này hay để làm điều khác, người linh mục đã được dựng nên -  cơ thể, tâm hồn, tâm trí, con tim,  toàn thân thể của mình, trọn cả linh hồn của mình - để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa vì Ngài đã gọi đích danh linh mục. Mỗi linh mục là rất quý giá đối với Thiên Chúa, mỗi linh mục là rất thân thương trong tình yêu của Thiên Chúa, bởi Chúa Giêsu là Đấng đã chọn linh mục là "hiện thân của Ngài". Và công việc đã được ủy thác cho linh mục, chính là một phương cách để đưa tình yêu tha thiết của mình đối với Chúa thành hành động trong đời sống. Do đó, việc linh mục làm là thánh thiêng. Và công việc đó không phải chỉ luôn dẫn linh mục đến với Thiên Chúa, nhưng còn phải có khả năng dẫn các linh hồn đến với Chúa. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói: "Hãy để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp của anh em và tôn vinh danh Cha."

Khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục có ý nghĩa gì đối với một linh mục?

- Tình yêu đối với Đức Kitô là tình yêu trọn vẹn trong khiết tịnh. Khiết tịnh không chỉ là không kết hôn, cũng không phải là không có gia đình. Khiết tịnh chính là tình yêu không chia sẻ, "không một ai và không một điều gì". Vì thế chúng ta cần phải có tự do để sống khó nghèo và chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được niềm vui của sự tự do vì đã từ bỏ hoàn toàn, không còn sự gì và cũng không có ai, để chúng ta có thể yêu mến Đức Kitô bằng một tình yêu trọn vẹn. Nếu chúng ta thực sự nhận biết mình thuộc về Đức Giêsu và được Người gọi đích danh, thì sự vâng phục là điều tự nhiên. Sống từ bỏ mọi sự là: Chúa có thể làm với chúng ta điều gì Người muốn, khi nào Người muốn và làm bất cứ điều gì Người muốn. Người có thể cắt chúng ta thành nhiều mảnh, nhưng mỗi mảnh vẫn thuộc về Người. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Người để Người có thể sử dụng chúng ta mà không đợi hỏi ý kiến, và như thế, để có thể yêu mến Chúa Kitô bằng tình yêu trọn vẹn trong đời sống khiết tịnh, chúng ta cần sống tinh thần hoàn toàn từ bỏ đó.

Còn về việc phục vụ, toàn tâm phục vụ, bất cứ công việc nào được chúng ta thực hiện với tinh thần vâng phục đều là  hoa trái của đức khiết tịnh, là kết quả của tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu. Linh mục là người được dành trọn cho Chúa, sống tự do và được hoàn toàn tự do để yêu mến Chúa Kitô bằng tình yêu không bị san sẻ trong đời sống khiết tịnh, vì thế khi làm việc, linh mục hiện thực hóa tình yêu của mình đối với Đức Kitô. Linh mục chạm tay vào Máu Châu báu của Chúa, bẻ tấm Bánh Hằng sống trao cho tất cả những ai đói khát Thiên Chúa. Vì thế, ngài phải sống rất mực khiết tịnh, rất mực thanh sạch, rất mực tinh tuyền, để có thể yêu mến Chúa Kitô với tình yêu không bị san sẻ, nhờ tự nguyện sống nghèo trong tín thác và toàn tâm phục vụ.

Thánh thiện nói chung là gì? Một linh mục có thể nên thánh như thế nào?

- Nên thánh là bổn phận đương nhiên của mỗi chúng ta, bởi chúng ta được dựng nên cho những gì lớn hơn, đó là yêu và được yêu. Sự thánh thiện không phải là xa xỉ phẩm dành cho một số ít người. Chúa Giêsu nói: "Hãy nên thánh như Cha là Đấng thánh". Như thế, sự thánh thiện không phải là điều gì đặc biệt đối với linh mục, mà đó là bổn phận, vì linh mục là người hằng tiếp xúc với Chúa Giêsu. Nếu linh mục phải trở thành của lễ sống động trên bàn thờ, thì ngài phải nói lời thánh thiện, sống cuộc đời thánh thiện, thể hiện những tiếp xúc thánh thiện.

Đặc biệt nhờ sự thánh thiện này, Chúa Kitô có thể tiếp tục cuộc sống của Người nơi linh mục. Sự thánh thiện đối với linh mục là hoàn toàn nên một với Đức Kitô để Chúa có thể sống trọn vẹn nơi con người linh mục, cầu nguyện trong linh mục, làm việc qua linh mục và nên một với Chúa Cha nơi con người linh mục, đó chính là sự thánh thiện mà linh mục phải có. Ở đây không có sự so sánh; có chăng đó là sự vươn lên đời sống thánh thiện là chính Chúa Giêsu, bởi linh mục phải hoàn toàn nên một với Chúa Giêsu để Người có thể thực sự hy vọng nơi linh mục và tiếp diễn toàn bộ cuộc sống của Chúa nơi con người linh mục, và để Chúa Cha có thể yêu thương thế gian qua con người linh mục.

Đối với linh mục, Đức Maria là ai?

- Đức Maria chính là người Mẹ. Đức Maria đã, đang và sẽ mãi là Mẹ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: "Ai là Mẹ tôi? Mẹ tôi chính là người làm theo ý tôi, là người làm những việc đẹp lòng Chúa Cha." Và không ai có thể làm đẹp lòng Chúa Cha cho bằng linh mục. Vì thế, Mẹ Maria rất gần gũi với linh mục, và không có ai có thể là một linh mục trổi vượt hơn Đức Mẹ, bởi lẽ khi linh mục đọc không mấy khó khăn: "Này là Mình Thầy" thì đìều này thật sự là máu thịt của Mẹ khi Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu. Và Mẹ vẫn mãi là nữ tỳ của Chúa để bạn và tôi có thể nương tựa Mẹ như Mẹ của chúng ta. Và Mẹ là một trong những người mẹ của chính chúng ta để chúng ta có thể luôn luôn kêu cầu Mẹ, nương tựa vào Mẹ và nên một với Mẹ. Và, tất nhiên, đó là lý do Mẹ đã lui lại đằng sau, để hình thành Giáo Hội, để củng cố chức linh mục của các tông đồ, để là một người Mẹ của họ, cho đến khi Giáo Hội non trẻ được hình thành. Mẹ vẫn hiện diện ở đó. Xưa Mẹ giúp Chúa Giêsu lớn lên thế nào, thì Mẹ cũng giúp cho Giáo Hội phát triển trong bước khởi đầu như vậy.

Nhiều năm sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ vẫn có mặt ở phía sau, góp phần hình thành Giáo Hội. Mẹ là một trong những người đào tạo các linh mục. Không ai cần lời cầu bầu của Đức Mẹ bằng linh mục. Điều này cho phép tôi hình dung rằng Mẹ đã có và hằng có trái tim rất nhân từ, hằng đặc biệt che chở mỗi linh mục đang cần đến Mẹ. Nhưng để có thể thực sự là một linh mục như đòi hỏi của Thánh Tâm Chúa Giêsu thì linh mục cần cầu nguyện nhiều và ăn năn thống hối. Nếu như linh mục thực sự muốn nên một hoàn toàn với Chúa Giêsu trên bàn thờ thì linh mục cần phải kết hợp hy tế của đời mình với hy tế của Chúa Giêsu. Và rồi hy lễ cuộc đời, sự thống hối trong cuộc sống mới hoàn tất hy tế của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói, chúng ta phải hoàn tất những đau khổ mà Đức Kitô còn phải chịu.

Mẹ có lời nhắn nhủ nào đối với các Chủng sinh sắp lãnh nhận chức linh mục?

- Hãy đặt đời sống của các bạn vào bàn tay của Đức  Maria và xin Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu đến trong cuộc đời của Mẹ, Mẹ vội vã mang Chúa Giêsu đến cho người khác. Và bạn cũng vậy, khi đã trở thành linh mục của Người, hãy cùng với Mẹ mau mắn đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Nhưng phải nhớ rằng bạn không thể cho điều mà bạn không có. Để có thể cho đi, bạn cần phải sống nên một với Chúa Giêsu ở trong Nhà Tạm. Hãy làm điều này trước tiên mỗi sáng, vì Chúa Giêsu chính là trọng tâm của đời sống linh mục. Trong ngày, hãy học cầu nguyện qua những công việc, hãy làm việc với Chúa Giêsu và làm cho Chúa Giêsu. Luôn gắn bó mật thiết với Mẹ Maria. Hãy xin Mẹ ban cho bạn trái tim của Mẹ, một trái tim tuyệt đẹp, vẹn sạch và vô nhiễm nguyên tội, một trái tim đầy tràn tình yêu và sự khiêm nhường, hầu bạn có thể đón nhận Chúa Giêsu và trao ban Chúa Giêsu nơi Bánh Hằng Sống cho anh chị em mình. Hãy yêu mến Chúa Giêsu như Mẹ Maria đã yêu, và hãy phục vụ Chúa nơi hình hài thống khổ của người nghèo.

Tôi cầu nguyện cho các bạn được nên giống Chúa Kitô hơn qua đời sống trong sạch và tấm lòng khiêm cung. Xin cho chúng ta được lớn lên trên đường nên thánh để mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh Đức Kitô nơi các bạn và tôi. (www.corpuschristimovement.com)

Người dịch: Anh Quang
Nguồn: hdgmvietnam.org

TRANG TU SĨ

 ĐỂ ĐƯỢC LỚN LÊN

Tiếng chuông ngân vang từ phía nhà thờ như đánh thức mọi vật đang im lìm còn chìm trong giấc ngủ. Tiếng chuông ấy còn báo hiệu cho giáo dân trong Họ Đạo một ngày mới bắt đầu của người Kitô hữu bằng thánh lễ Misa...

-          Út Hà, dậy chuẩn bị đi lễ nè!

Tiếng bà ngoại vọng ra từ giường bên cạnh. Dường như bà ngoại đã thức từ rất lâu trước đó, tay bà mân mê chuỗi tràng hạt, miệng đọc râm ran lời kinh "Kính mừng Maria...". Vì mắt mờ chân yếu nên bà ngoại chỉ đến nhà thờ đi lễ vào ngày Chúa Nhật. Ngày nào bà cũng dậy sớm lần hạt rồi nhắc nó dậy đi lễ, nhưng nó vẫn nằm im cuộn tròn trong chiếc mền ấm áp như cố tình không nghe thấy tiếng gọi của ngoại. Cứ tưởng bà ngoại sẽ chịu thua tính lười biếng của nó nên đã bỏ cuộc, vậy là nó an tâm tiếp tục "nướng". Bất ngờ nó nghe tiếng "phu...u ... ụt", rồi một cảm giác mát lạnh trên mặt cùng với một mùi cay cay. Bây giờ không đợi ai kêu, nó bật ngồi dậy, miệng la oai oái, tay phủi lia lịa:

-          Bà ngoại giỡn kỳ, thấy ghê quá trời...

-          Ai kêu làm biếng không chịu đi lễ. Mai mốt hễ kêu không dậy là bị phun cổ trầu.

Từ lần đó về sau nó không dám ngủ nướng bỏ lễ nữa nhưng trong lòng vẫn cảm thấy phiền phức lắm. Có lần nó đã tuyên bố với đám bạn:

-          Lớn lên tao sẽ không giữ đạo nào hết, khỏi phải mất thời giờ nghe giảng đạo...

Nó là vậy đó, một đứa cứng đầu ngang bướng, lại rất hay nổi cáu ...Là con gái nhưng nó lại không được dịu dàng chu đáo như bao bạn gái cùng trang lứa. Có lần nó làm má giận nên má rầy nó:

-          Một mình con quậy phá bằng mười đứa con trai, chịu con hết nổi rồi.

Còn ba nó thì nhẹ nhàng chỉ cho nó biết việc mà nó cần phải học hỏi: Ba dẫn nó đi hái rau và chỉ cho nó những cọng rau tươi non và hái tới khoảng nào thì được; ba tập cho nó bơi xuồng; tập biết quan tâm tới công việc và mọi người xung quanh. Có lần đang tập bơi xuồng, tình cờ gặp một bạn gái trạc tuổi nó đang ngồi chùi nồi bên bờ sông, ba nhìn nó rồi ôn tồn:

-          Tới khi nào con sẽ làm được như vậy?!

Thế rồi ngày qua ngày, nhờ ảnh hưởng đời sống đạo đức của bà ngoại, nếp sống giản dị đơn sơ nông dân mộc mạc của ba mẹ...nó lớn lên trong tin yêu. Nó không còn đi gây chuyện để người ta phải đến tận nhà mắng vốn ba mẹ nữa, nhưng ngược lại nó thích tới nhà thờ tham gia các sinh hoạt của họ đạo và được Cha cho gia nhập ca đoàn nhí của họ đạo. Nó siêng đi lễ hơn mà không cần đợi ai nhắc nhỡ. Nó thích nghe bà ngoại kể truyện các thánh, truyện về thiên đàng - hỏa ngục rồi ngoại dạy nó đọc theo: "Thiên đàng - hỏa ngục hai quê, ai khéo thì về ai vụng thì sa...". Thỉnh thoảng bà cũng hỏi nó về bài Phúc Âm trong ngày và những gì Cha giảng dạy...Lúc đầu nó không để ý nên không nói được, nhưng về sau nó cố ý lắng nghe rồi tự kể mà không cần chờ ngoại hỏi. Đời sống nó cứ dần dần được biến đổi, trong đầu không còn ý nghĩ "sống vô thần" nữa, nhưng cảm giác "Cuộc sống này không thể không có Chúa".

Người ta thường nói "Gia đình là trường học đầu tiên". Đúng vậy! sức ảnh hưởng của gia đình rất lớn trên đời sống của một con người. Đời sống đức tin cũng vậy, nếu ba mẹ là rường cột đức tin vững mạnh thì con cái chắc chắn sẽ được lớn lên trong nếp sống đạo đức tốt lành. Đời sống xã hội con người sẽ được tôn trọng và phát triển. Ước mong những bậc làm cha mẹ không chỉ lưu tâm đến đời sống vật chất mà còn biết lo cho con những tài sản tinh thần là đức tin và lòng đạo. Điều đó phát xuất từ chính Chúa, Lời tồn tại muôn đời. .

Mtg Cái Nhum

HIỆU QUẢ CỦA VIỆC CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Vừa tập hát xong, nhìn đồng hồ thấy 8 giờ tối rồi. Trâm Anh vội vàng chào tôi:

-          Thưa Dì Sáu con về.

-          Sao tối nay con về gấp vậy Trâm Anh?

-          Dạ con phải về liền vì Ông ngoại chờ con về đọc kinh, đọc Lời Chúa với Ông ngoại nữa!

Tôi liền bảo Trâm Anh:

-          Vậy con về nhanh đi kẻo Ông Tám chờ.

Ông Tám (Ông ngoại của Trâm Anh) là Qưới chức của họ đạo. Ông là một giáo dân rất nhiệt thành trong việc phục vụ Nhà thờ; thường ngày Ông lo chăm sóc hoa kiểng, dọn dẹp trong khuông viên Thánh Đường. Một buổi chiều kia, có việc cần bàn hỏi với Ông. Tôi đến nhà, thấy Ông đang ngồi chăm chỉ trước Bàn thờ. Tôi nhẹ nhàng bước vào.

-          Con chào Ông Tám!

-          Ủa! Chiều nay Dì Sáu rảnh hả? Mời Dì Sáu ngồi.

-          Ông Tám đang trầm ngâm suy nghĩ gì vậy?

-          Có suy nghĩ gì đâu? Tôi đang đọc và cầu nguyện với Lời Chúa. "Sách Lời Chúa cho mỗi người" tôi đọc thấy hay quá!

-          Một ngày Ông Tám cầu nguyện với Lời Chúa mấy lần?

-          Tôi cũng hổng biết mấy lần nữa. Đám trẻ nó lo công ăn việc làm thì tuổi già mình rảnh rỗi, đọc Lời Chúa, cầu nguyện cho con cháu Dì Sáu ơi!

-          Đọc Lời Chúa Ông Tám thấy hay không?

-          Hay như các sách khác thì chắc là không bằng, nhưng mỗi khi đọc một đoạn Lời Chúa và cầu nguyện theo ý nghĩa của Lời Chúa, thì mỗi ngày tôi thấy đức tin của mình khá hơn và tôi sống đạo tốt hơn.

-          Hèn chi, con thấy Ông Tám đọc kinh, đi lễ mỗi ngày, mưa gió gì thì cũng thấy có mặt Ông trong Nhà thờ. Vậy là cầu nguyện với Lời Chúa hiệu quả quá hả Ông Tám?

Sau khi bàn chuyện và thăm hỏi gia đình ông Tám, tôi ra về.  Và qua những lần đến thăm ông, tôi hiểu được đời sống của ông nhiều hơn.

Được biết mỗi tối khi đọc kinh xong, ông bà Tám cùng hai cháu cầu nguyện với Lời Chúa. Hằng ngày, ông dành nhiều thời gian để cầu nguyện. Cuốn sách Lời Chúa là kim chỉ nam của quảng đời còn lại của ông. Trong gia đình lúc gặp khó khăn, bệnh tật, thì Lời Chúa chính là phương thuốc đem lại sự bình an trước hết. Nhờ của ăn Lời Chúa nuôi dưỡng, đời sống đức tin của ông ngày thêm vững mạnh. Thấy con cháu khô đạo, chỉ lo cơm áo gạo tiền; Ông thường nói với con cháu: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào đặng ích gì". Ông siêng năng dự Thánh lễ hằng ngày, nhiệt thành trong trách nhiệm đối với Họ đạo. Mọi biến cố xảy đến với gia đình, ông dễ dàng nhận ra ý Chúa và luôn tín thác vào Người. Khi bước vào tuổi cao niên, ông được chia sẻ chén đắng với Đức Kitô qua chứng bệnh nan y. Sau cơn phẩu thuật, biết rõ mình phải căn bệnh hiểm nghèo, ông vui vẻ chấp nhận với lòng phó thác. Ông thường ngồi trước bàn thờ cầu nguyện với Lời Chúa và tràng hạt không rời khỏi tay. Khi cơn bệnh ngày thêm trầm trọng, đôi tay run rẩy không cầm được sách Lời Chúa, thì ông nằm nghiêng một bên, đặt quyển sách trên chiếc gối bên cạnh để đọc Lời Chúa. Trong thời gian cuối đời, khi cơn bệnh hành xác, thì Lời Chúa là phương dược giúp ông bình tâm chờ ngày về với Chúa. Ai đến thăm, ông đều xin cầu nguyện cho ông được mau về cùng Chúa. Giây phút cuối đời, ông đã thanh thản về với Chúa trong bình an. Ông vĩnh viễn ra đi không để lại gia tài sự nghiệp cho con cháu, nhưng đã để lại cho thế hệ trẻ tấm gương sống đạo tốt, nhất là việc siêng năng đọc và cầu nguyện với Lời Chúa.

Mỗi Kitô hữu được mời gọi nên thánh theo ơn gọi của chính mình. Mỗi bậc sống nên thánh không thể thiếu việc cầu nguyện. Sống đời tu hay sống bậc hôn nhân luôn cần Lời Chúa, vì Lời Chúa là của ăn nuôi sống đức tin và là phương cách giúp cho mọi tín hữu dễ dàng cầu nguyện. Gia đình chính là Giáo Hội tại gia, là môi trường giáo dục đầu tiên và là trường dạy đức tin cho con cái. Nhờ gương sống đạo tốt của Ông Bà Cha Mẹ, sự động viên nhắc nhở con cháu ham học hỏi Lời Chúa, nhất là biết dạy con cháu cầu nguyện với Lời Chúa, thì hoa trái của Giáo Hội sẽ dồi dào hơn, xã hội sẽ lành mạnh hơn vì "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (TV 109, 105)

Mtg Cái  Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

 NHỮNG KHÁI NIỆM CĂN BẢN VỀ ƠN GỌI

Ơn Gọi là gì? Để trả lời cho vấn đề, trước hết, chúng ta cần nói qua khái niệm về hai chữ "Ơn gọi".

Ơn gọi là một tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người từ muôn thuở. Có một bài thánh ca chúng ta thường hát: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con, và còn yêu con mãi mãi..." Đã gọi là tiếng gọi từ muôn thuở, chúng ta không có thể nói rằng, Chúa gọi tôi cách đây mấy năm, hay Chúa vừa gọi tôi, hay tôi chờ xem Chúa có gọi tôi hay không..., nhưng phải nói rằng, Nếu Ngài gọi, Ngài đã gọi tôi từ lâu rồi, từ khi tôi chưa được sinh ra, từ khi chưa có loài người sống trên mặt đất, từ khi chưa có sao trời, rừng sâu và biển cả... Tiếng gọi của Ngài dành cho tôi đã phát xuất từ chính Ngài, vang vọng vào không gian, vào vũ trụ vô hình bằng những làn sóng mắt thường không trông thấy, và Ngài mong một ngày nào đó tôi nghe được tiếng gọi đó.

ƠN GỌI THỨ NHẤT: LÀM CON THIÊN CHÚA

Thời điểm ơn gọi thứ nhất đến với mỗi người chúng ta có thể mỗi khác: người được rửa tội từ khi mới sinh, người lúc lên mười, hai mươi, có người mãi đến lúc về chiều mới lần đầu tiên gặp được Chúa... Nhưng chung quy, tất cả chúng ta, những người Kitô hữu đều có ơn gọi này ơn gọi làm con Thiên Chúa. Đây là một ơn Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không, là một món quà vô giá mà không phải ai cũng có - Chúa ban cho ai, người ấy được. Người ta có thể tốn cả triệu đôla mà chưa chắc đã mua được món quà này. Đây chính là ơn gọi thứ nhất trong cuộc đời của một con người, chúng ta gọi là ơn gọi căn bản và phổ quát, căn bản vì là ơn gọi đầu tiên, phổ quát vì chung cho mọi người Kitô hữu.

Qua phép Rửa, Thiên Chúa thông ban ơn cứu độ cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Việc gia đình ông Noê được cứu thoát khỏi nước lụt đại hồng thủy được kể lại trong Cựu Ước là hình ảnh tiên báo cho Bí Tích Rửa Tội sau này trong thời Tân Ước. Trong Phép Thanh Tẩy, Thiên Chúa giơ tay Ngài ra để cứu thoát chúng ta khỏi những trận lụt của khốn khổ, khỏi sự nhận chìm trong những vũng bùn sâu của tội lỗi. Hơn nữa, sau khi Chúa cứu thoát ông Noê khỏi bị lụt, Ngài đã tạo nên chiếc cầu vồng như dấu chỉ của Tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Cầu vồng là một dấu hiệu cho biết rằng, lụt lội và nguy hiểm đã qua rồi. PHÉP RỬA TỘI là CHIẾC CẦU VỒNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU. Ngay cả sau khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ vẫn còn thấy những đám mây ác thần vây phủ chúng ta; chúng ta sẽ vẫn còn thấy những tiếng sấm gầm vọng từ xa của thù địch chỉ muốn tiêu diệt chúng ta. Nhưng Bí tích Rửa tội luôn làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta không phải sợ hãi những thứ sấm sét bão tố đó đang đe dọa cuộc sống chúng ta. Bí tích Rửa tội vẫn luôn luôn là dấu chỉ của lòng thương xót và Tình yêu Thiên Chúa, qua đó, Ngài không cho phép nước lụt của thù địch và của sự dữ tiêu diệt chúng ta.

Trong Đêm Phục sinh, chúng ta được mời gọi để lập lại lời hứa Rửa tội. Vấn đề của chúng ta là, chúng ta có ý thức những gì chúng ta tuyên xưng trong lời hứa đó không? Chúng ta cần nhớ lại chúng ta đã hứa những gì qua cha mẹ đỡ đầu, hoặc do chính chúng ta hứa nếu chúng ta chịu phép rửa tội khi đã khôn lớn? Thánh Phêrô cho rằng, điểm cốt yếu trong lời hứa Rửa tội đó là "một lương tâm thiện hảo" (I Pr 3:21). Bí tích Rửa tội là một khế ước, một thỏa thuận giữa chúng ta và Thiên Chúa: Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta Tình yêu và lòng thương xót của Ngài, và chúng ta hứa sẽ sống trung thành với Ngài. Ngài trở thành Chúa chúng ta và chúng ta trở thành dân của Ngài.

Việc lập lại lời hứa rửa tội phải được tiếp nối cách sống động trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là chúng ta phải luôn nghiêm chỉnh ý thức sống ơn gọi thứ nhất này. Sau ơn gọi thứ nhất này, chúng ta có bổn phận đi tìm thánh ý Chúa cho ơn gọi thứ hai của mình, ơn gọi có "ơn làm con Thiên Chúa" làm nền tảng.

ƠN GỌI THỨ HAI:  ƠN GỌI TU TRÌ HOẶC ƠN GỌI HÔN NHÂN

Trong ơn gọi thứ nhất, chúng ta trở thành người con Thiên Chúa và người môn đệ của Chúa Giêsu. Với tư cách là môn đệ, chúng ta mãi mãi được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh của mình. Những lời mời gọi của Chúa Giêsu luôn theo đuổi cuộc đời chúng ta: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta".

Vì thế, dù chúng ta chịu phép rửa tội vào lứa tuổi nào chăng nữa, đức tin vẫn luôn đòi hỏi chúng ta phải mãi mãi trung thành với lời chúng ta hứa khi chịu phép rửa tội: "Từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính, từ bỏ ma quỷ; Tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành trời đất, tin Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha, tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống đời đời..."

Sau khi nhận bí tích đầu tiên đó, chúng ta tiếp tục lãnh nhận các bí tích khác để giúp chúng ta kiên trì và thăng tiến trong đời sống ơn gọi căn bản của mình. Đặc biệt, sau ơn gọi thứ nhất đó, Chúa còn mời gọi chúng ta bước theo Ngài trong ơn gọi thứ hai trên hành trình đức tin: Hoặc là ơn gọi đời sống hôn nhân, hoặc là ơn gọi sống đời sống tu trì.

Không sớm thì muộn, ai trong chúng ta cũng đều phải chọn lựa một trong hai ơn gọi đó: Đi tu hay lập gia đình?

"ĐÀN ÔNG Ở MỘT MÌNH KHÔNG TỐT":

Đây là câu nói trong sách Sáng thế ký, cuốn đầu tiên của Cựu Ước, đoạn 2 câu 18.

Câu Lời Chúa này gợi cho chúng ta hai vấn đề:

1) Từ khởi nguyên, Chúa tỏ ý rằng, Ngài muốn con người sống có đôi. Nhiều người dùng câu nói Kinh Thánh này để biện luận khi họ không muốn đi tu - "Đàn ông ở một mình không tốt" như vậy phải lấy vợ... - Cũng có lý, nhưng cần phải hiểu rằng, Chúa, nhất là trong Tân Ước, đồng thời cũng mời gọi chúng ta bước một bước xa hơn nữa trên con đường hẹp của Tin Mừng, để sống hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng một tình yêu không chia sẻ. "Đức Giêsu kêu gọi một số người đi theo Ngài cách gần gũi hơn để Giáo Hội trở thành một dấu hiệu hùng hồn của ơn vinh thắng" (Trích từ Sứ Điệp được truyền đi từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, tháng 10/94 tại Roma).

2) Đàn bà ở một mình có tốt không? Có người nói: Đàn ông ở một mình không tốt, đàn bà ở một mình thì tốt. Không biết chắc chắn ý Chúa thế nào đối với người phụ nữ, nhưng tôi thiển nghĩ, Nếu "đàn ông ở một mình không tốt", thì đàn bà ở một mình càng không tốt hơn!...  Dường như con rắn đã khôn ngoan tìm lúc không có người nào bên cạnh người phụ nữ để cám dỗ...

Tắt một lời, dù đồng ý rằng sống độc thân ở giữa đời cũng là một ơn gọi, nhưng cách chung, dựa theo Lời Chúa, tôi không đề nghị  các bạn trẻ, nam cũng như nữ, sống độc thân giữa đời.

Như vậy, chúng ta tạm để qua một sự chọn lựa thứ ba này.

HAI ƠN GỌI, HAI BẬC SỐNG

Như vừa nói trên, chúng ta sẽ phải chọn lựa một trong hai ơn gọi: một là đi tu, hai là lập gia đình, chứ không ai "bắt cá hai tay" được cả! Đó là người sống tích cực. Hai ơn gọi này dẫn đến hai bậc sống khác nhau: bậc sống tu trì và bậc sống gia đình.

Hai bậc sống này có những điểm giống nhau, như: họ đều phải nỗ lực để nên thánh, xây dựng Giáo Hội, truyền giáo... Nhưng cũng có những điểm khác nhau, như: đời sống gia đình lo việc truyền sinh về thể lý, mặc dù có góp phần về đời sống tinh thần, còn đời sống tu trì chuyên lo việc truyền sinh về đời sống thiêng liêng; Mọi người đều thuộc về dân Thiên Chúa, nhưng các tu sĩ, linh mục, nhất là Giám mục là những người ở "cấp lãnh đạo" dân của Người, mặc dù họ cũng là một phần tử trong dân của Người; tình yêu trong đời sống gia đình tuyệt đẹp, nhưng trong đời sống tu trì, xét theo bản chất còn đẹp hơn nhiều!... Mong các bạn khôn ngoan chọn lựa!...

YẾU TỐ TÌNH YÊU TRONG MỌI ƠN GỌI

Như chúng ta vừa nói ở trên, có hai ơn gọi, vấn đề là chúng ta có thực sự sống ơn gọi của mình hay không. Để hiểu và sống ơn gọi, chúng ta cần phải hiểu yếu tố quan trọng của ơn gọi: TÌNH YÊU.

Trong phần này, tôi xin nhường lời cho Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ nói:

"Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô, với ý thức rằng, không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Người.

"Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó.

"Tôi yêu mến Chúa thế nào? Tôi minh chứng tình yêu của tôi cho Thiên Chúa thế nào?

"Thưa, bằng cách làm thật tốt đẹp công việc được trao phó, bằng cách thực hiện một cách đơn sơ những gì Chúa ủy thác cho tôi dưới bất kỳ dạng thức nào.

"Chẳng hạn như cuộc sống của các chị em đã tuyên khấn - đúng như trên thực tế, họ đã trở thành hiền thê của Chúa Giêsu chịu đóng đinh - đó là ơn gọi của họ: yêu Chúa Giêsu bằng một tình yêu không chia sẻ, qua đức khiết tịnh, qua sự tự ý sống thanh bần, qua việc hoàn toàn từ bỏ mình trong đức vâng phục, và qua việc tự ý hết lòng phục vụ những người nghèo nhất của những người nghèo. Họ minh chứng tình yêu của họ đối với Thiên Chúa bằng việc đặt tình yêu đó trong những hành vi sinh động.

"Như thế, dù bạn được trao phó cho bất kỳ công việc gì, với tư cách một tu sĩ, hay một giáo dân - đó là phương tiện cho bạn để bạn dành tình yêu của bạn cho Thiên Chúa trong một hành vi sinh động, trong một hành vi của tình yêu... Bất kỳ khi nào bạn mỉm cười với một người nào đó, nụ cười đó là một hành vi của tình yêu, là một món quà cho người đó, một cái gì thật đẹp...

"Do đó, nếu tôi biết làm thế nào để yêu mến Đức Kitô, nếu tôi muốn biết tôi có thực sự ở trong tình yêu với Thiên Chúa không, tôi chỉ cần nhìn xem tôi đã làm công việc Ngài đã trao phó cho tôi như thế nào - Có bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào trong công việc của tôi.

"Bạn thấy đó, Vấn đề của ơn không hệ tại ở chính công việc - ơn gọi của chúng ta là trọn thuộc về Đức Giêsu với ý thức rằng, không gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Người.

"Ơn gọi không phải là những gì chúng ta đang làm, hay chúng ta làm được bao nhiêu việc, mà là bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công việc tôi đã được trao phó.

Những gì bạn đang làm, có thể tôi không làm được... Những gì tôi đang làm, có thể bạn không làm được, nhưng tất cả chúng ta đều có thể làm cái gì đó thật đẹp cho Thiên Chúa". (Trích dịch từ "The best Gift is Love / Meditations by Mother Teresa", tr.113-116).

LM. JBM. Phương Anh, CSJB, Taiwan

TRANG THIẾU NHI

BÀI 9. AI XIN SẼ ĐƯỢC

"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11, 9).

Nhiều người ngại cầu xin vì sợ Chúa chối từ. Nhưng cha mẹ dạy con: cứ cầu nguyện sẽ được Chúa nhận lời. 

Cha mẹ dạy con Chúa biết con rõ hơn con biết chính mình. Ngài hiểu ưu điểm và nhược điểm của con. Ngài biết chuyện làm con buồn, chuyện làm con vui và biết làm mọi chuyện tốt lành cho con. 

Lạy Chúa, Chúa biết rõ con và sẵn lòng ban cho con những gì tốt đẹp. Con xin Chúa, nếu Chúa ban cho con những gì con vừa xin, con sẽ vui lắm! 

Cha mẹ dạy con cầu xin với Chúa theo lòng con ước mong. 

Lạy Cha trên trời, con xin Chúa chữa em con khỏi cơn bệnh cúm, nó sốt nóng cả ngày, và xin cho anh em chúng con được học hành tấn tới để mang lại nhiều kết qủa trong mùa thi này. Xin an ủi bà hàng xóm của con đang rất buồn đau vì người em mới chết. 

Cha mẹ khuyến khích con biết tin Chúa và yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn. 

Lạy Chúa, con tin Chúa luôn bao dung tha thứ. Xin Chúa tha thứ cho những anh thanh niên liều lĩnh đua xe trên đường phố, gây cho nhiều người phải chết hay bị thương. 

Cha mẹ dạy con Thiên Chúa vui khi biết con vui và dạy con biết vui khi làm cho người khác vui. 

Lạy Chúa, Chúa đã dạy con biết chia sẻ cơm ăn, áo mặc cho những người túng thiếu xung quanh. Xin Chúa cho con và các bạn bè con biết rộng tay với những người dân đang bị cảnh lũ lụt, mất nhà, mất cửa tại miền Trung trên đất nước chúng con. Con biết Chúa cũng muốn mọi người được an lành và biết cứu giúp nhau khi gặp hoạn nạn. 

Thành Tín, dunglac.org

TRANG GIỚI TRẺ

Lời Chuyển Cầu của Ông Môsê

Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ năm về Cầu Nguyện của ĐTC Bênêdictô XVI ban hành trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày mùng 1 tháng 6, năm 2011. ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Cầu Nguyện. Lần này ngài suy niệm về cầu nguyện trong Thánh Kinh, đặc biệt là lời cầu nguyện của ông Môsê.

* * *

Anh chị em thân mến,

Khi đọc Cựu Ước, chúng ta thấy có một nhân vật nổi bật giữa các nhân vật khác: đó là ông Môsê, như một người của cầu nguyện. Ông Môsê, vị ngôn sứ vĩ đại và nhà lãnh đạo của thời Xuất Hành, đã đóng vai trò của mình như người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Israel qua việc trở thành người mang những lời và mệnh lệnh của Thiên Chúa đến cho dân chúng, bằng cách dẫn đưa họ tới tự do của Đất Hứa, bằng việc giảng dạy con cái Israel sống trong sự vâng phục và tin tưởng vào Thiên Chúa suốt thời gian dài cư ngụ trong hoang địa của họ, nhưng trên hết bằng cầu nguyện như tôi sẽ đề cập đến ở đây.  Ông cầu nguyện cho vua Pharaô khi Thiên Chúa, với những bệnh dịch của Ngài, cố gắng biến đổi tâm hồn của người Ai Cập (x.  Xh 8-10); ông xin Chúa chữa lành cho chị ông là bà Mariam khi bà mắc bệnh phong cùi (x. Ds 12:9-13); ông cầu xin cho những người đã nổi loạn, vì sợ hãi về những báo cáo của các thám tử (x. Ds 14:1-19); ông cầu nguyện khi hỏa hoạn hầu như thiêu hủy doanh trại (x. Ds 11:1-2) và khi rắn độc giết hại dân chúng (x. Ds 21,4-9); ông tự mình thưa chuyện với Chúa và phản ứng  bằng cách khiếu nại khi gánh nặng của sứ vụ ông trở nên quá nặng nề  (x. Ds 11:10-15); ông đã thấy Thiên Chúa và thưa chuyện với Ngài "mặt đối mặt, như là một người nói với bạn mình" (x. Xh 24:9-17, 33:7-23; 34:1-10,28-35).

Cũng thế, ở núi Sinai, khi dân chúng xin ông  Aaron làm cho họ một con bò vàng, ông Môsê cầu nguyện, và điều này thực thi một cách điển hình vai trò thật sự của một người trung gian. Cảnh này được kể lại trong chương 32 của sách Xuất Hành và có một tường thuật song song trong chương 9 của sách Đệ Nhị Luật. Trong bài giáo lý hôm nay tôi muốn tập trung vào chính cảnh này, và đặc biệt là về lời cầu nguyện của ông Môsê mà chúng ta tìm thấy trong tường thuật của sách Xuất Hành.

Dân Israel ở chân núi Sinai, trong khi ông Môsê lên núi chờ đợi hồng ân các bia đá Lề Luật bằng cách ăn chay bốn mươi ngày và bốn mươi đêm (x. Xh 24:18, Đnl 9:9). Con số bốn mươi có một giá trị tượng trưng và có nghĩa là toàn bộ kinh nghiệm, trong khi việc ăn chay cho thấy một chân lý là sự sống đến từ Thiên Chúa, là chính Ngài là Đấng bảo tồn nó. Thực ra, việc ăn uống bao gồm việc hấp thụ các chất bổ để nuôi dưỡng chúng ta; cho nên ăn chay, hay kiêng ăn, trong trường hợp này có một tầm quan trọng tôn giáo: Đó là một cách để tỏ ra rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (x. Đnl 8:03). Qua việc ăn chay, ông Môsê chứng tỏ rằng mình đang chờ hồng ân Lề Luật của Thiên Chúa như nguồn mạch sự sống: Điều đó mặc khải Thánh Ý Thiên Chúa và nuôi dưỡng tâm hồn con người, làm cho họ được tham dự vào một giao ước với Đấng Toàn Năng, Đấng là nguồn mạch sự sống và là chính sự sống.

Nhưng trong khi Chúa ban Lề Luật cho ông Môsê ở trên núi, thì ở chân núi dân chúng lại vi phạm Lề Luật. Vì không thể chịu được sự chậm trễ và vắng mặt của người trung gian, dân Israel đã xin ông Aaron, "Hãy làm cho chúng tôi một vị thần để đi trước chúng tôi, vì ông Môsê này, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi Ai Cập, chúng tôi không biết việc gì đã xảy ra cho ông ta." (Xh 32:1).  Mệt mỏi vì cuộc hành trình với một Thiên Chúa vô hình, giờ đây ông Môsê, người trung gian, cũng mất dạng, dân chúng đòi hỏi một sự hiện diện hữu hình và có thể sờ mó được của Chúa, và tìm thấy nơi con bò vàng được ông Aaron làm ra một vị thần có thể đến gần được, có thể vận động được, trong tầm tay con người.  Đây là một cám dỗ liên tục trong cuộc hành trình đức tin: tránh né mầu nhiệm của Thiên Chúa bằng cách tạo cho mình một thần linh dễ hiểu, theo kế hoạch của mình, theo dự án riêng của mình. Việc xảy ra tại Sinai phơi bày  tất cả sự điên rồ và ảo tưởng phù phiếm của đòi hỏi này, bởi vì, như Thánh Viịnh 106 xác nhận một cách châm biếm, "chúng đổi vinh quang của Thiên Chúa để lấy hình tượng của một con bò ăn cỏ" (Tv 106:20).

Do đó Thiên Chúa trả lời và truyền cho ông Môsê xuống núi, tiết lộ cho ông những gì mà dân chúng đang làm, và kết thúc bằng những lời này: "Bây giờ hãy để mặc Ta, để cho cơn thịnh nộ của Ta nổi lên cùng chúng và thiêu hủy chúng. Rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn" (Xh 32:10). Như đã tỏ ra cho ông Abraham về  Sôdôma và Gômora, giờ đây Thiên Chúa cũng tỏ ra cho ông Môsê những gì Ngài dự định làm, hầu như Ngài không muốn làm nếu không có sự đồng ý của ông (x. Amos 3:07). Ngài nói, "Hãy để mặc Ta, cơn thịnh nộ của Ta đã nổi lên".  Trên thực tế, câu "Hãy để mặc Ta, cơn thịnh nộ của Ta đã nổi lên" được nói ra với mục đích chính là để ông Môsê can thiệp và xin Ngài đừng làm điều ấy, tỏ ra rằng Thiên Chúa luôn muốn cứu độ dân chúng.  Cũng như đối với hai thành trong thời ông Abraham, việc trừng phạt và tiêu hủy, trong đó cơn thịnh nộ của Thiên Chúa được diễn tả như khai trừ sự dữ, cho biết mức độ nghiêm trọng của tội lỗi đã phạm, đồng thời, lời cầu xin của người trung gian có mục đích bày tỏ ý muốn tha thứ của Chúa. Đây là ơn cứu độ của Thiên Chúa, là điều liên quan đến lòng thương xót, nhưng cũng phơi bày sự thật về tội lỗi, về sự dữ đang hiện diện, để kẻ có tội ý thức về việc từ bỏ chính tội lỗi của mình để mình được tha thứ và biến đổi bởi Thiên Chúa. Như thế lời cầu bầu làm cho lòng thương xót của Thiên Chúa hoạt động trong thực tại hư hỏng của những người tội lỗi, để lòng thương xót này được nói lêni trong lời cầu xin của người cầu nguyện và qua người ấy trở nên hiện diện nơi mà người ta cần ơn cứu độ.

Lời cầu nguyện của ông Môsê đặt trọng tâm hoàn toàn vào lòng trung tín và ân sủng của Thiên Chúa.  Trước hết, ông đề cập đến lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã khởi đầu với việc xuất hành khỏi Ai Cập của dân Israel, sau đó để nhắc lại lời hứa xưa kia với các Tổ Phụ. Chúa đã đem ơn cứu độ đến bằng cách giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai Cập; ông Môsê hỏi vậy tại sao Chúa "lại để người Ai Cập nói rằng, "Ngài đem chúng ra khỏi xứ với tà ý, để giết chúng trên núi, cùng tiêu diệt chúng khỏi mặt đất?"(Xh 32:12). Công trình cứu độ đã khởi sự phải được đưa đến hoàn thành; nếu Thiên Chúa tiêu diệt dân Ngài, điều này có thể được hiểu như là một dấu chỉ của một Thiên Chúa không đủ khả năng hoàn thành kế hoạch cứu độ của Mình. Thiên Chúa không thể cho phép điều này xảy ra: Ngài là Chúa nhân lành, Đấng cứu độ, Đấng đảm bảo sự sống, là Thiên Chúa của lòng thương xót và tha thứ, của giải thoát con người khỏi tội lỗi, là điều giết chết con người. Và như vậy ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa, nại vào đời sống nội tại của Ngài, để phản đối bản án bề ngoài. Nhưng sau đó, ông Môsê lý luận cùng Thiên Chúa rằng nếu dân được tuyển chọn của Ngài bị hư mất, ngay cả khi họ có tội, thì Thiên Chúa có thể bị coi như không có khà năng chinh phục tội lỗi. Và điều ấy không thể chấp nhận được. Ông Môsê đã có một kinh nghiệm cụ thể về ơn cứu độ của Thiên Chúa; ông đã được sai đi như một trung gian của ơn giải thoát của Thiên Chúa, và giờ đây, với lời cầu nguyện của ông, ông nói lên mối quan tâm hai chiều, quan tâm về số phận của dân mình, mà cùng với nó, quan tâm về danh dự của Thiên Chúa, cho sự thật về Thánh Danh Ngài.  Thực ra, người trung gian muốn cho dân Israel được cứu độ, vì họ là đàn chiên đã được trao phó cho ông, nhưng cũng bởi vì, trong ơn cứu độ ấy, sự thể thật sự của Thiên Chúa được tỏ bày.  Yêu thương anh em và kinh mến Thiên Chúa thấm nhập lẫn nhau trong lời chuyển cầu; chúng không thể tách rời nhau được. Ông Môsê, người chuyển cầu, là một người giằng co giữa hai tình yêu, mà trong cầu nguyện chúng chồng lên nhau làm một ý muốn duy nhất là sự tốt lành.

Sau đó, ông Môsê nại đến đức trung tín của Thiên Chúa bằng cách nhắc lại lời hứa của Ngài, "Xin nhớ đến các tôi tớ của Ngài là Abraham, Isaac, Israel, mà Ngài đã chỉ chính mình Ngài mà thề và hứa cùng họ rằng, 'Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi nhiều như sao trên trời, và tất cả xứ mà Ta đã nói đến, Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi, và nó sẽ là gia nghiệp đời đời cho chúng." (Xh 32:13). Ông Môsê nhắc lại lịch sử nguyên thủy của việc thành lập [dân Israel], về các Tổ Phụ của dân, và việc tuyển chọn họ hoàn toàn nhưng không, là sáng kiến của một mình Thiên Chúa. Không phải vì công trạng của họ mà họ đã nhận được lời hứa, nhưng nhờ sự chọn lựa tự do của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài (x. Đnl 10:15). Và giờ đây, ông Môsê xin Chúa tiếp tục cách trung tín lịch sử cứu độ và tuyển chọn của Ngài bằng cách tha thứ cho dân Ngài.

Người trung gian không bào chữa cho tội lỗi của dân; ông không kể ra những công trạng được coi như của họ hay của chính ông; nhưng ông kêu gọi lòng nhân từ của Thiên Chúa: một Thiên Chúa tự do, là tình yêu hoàn toàn, Đấng không ngừng tìm kiếm những kẻ lạc đường, Đấng luôn luôn trung tín với chính Mình và ban cho kẻ có tội khả năng ăn năn trở lại với Ngài và nhờ ơn tha thứ, trở thành người công chính và có thể trung tín. Ông Môsê xin Thiên Chúa chứng tỏ rằng Ngài còn mạnh hơn tội lỗi và sự chết, và lời cầu nguyện của ông đã đem lại mặc khải này của Thiên Chúa. Một người trung gian của sự sống, người cầu bầu bày tỏ tình đoàn kết với dân chúng. Trong khi chỉ muốn ơn cứu độ mà chính Thiên Chúa mong muốn, ông khước từ triển vọng trở thành một dân mới đẹp lòng Chúa.  Những lời mà Thiên Chúa đã nói với ông, "Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc vĩ đại", thậm chí không được "người bằng hữu" của Thiên Chúa chấp nhận, mà thay vào đó ông sẵn sàng không những gánh vác tội lỗi của dân, mà còn gánh vác tất cả hậu quả của chúng.

Sau khi tiêu huỷ con bò vàng, ông trở lên núi để một lần nữa để xin ơn cứu độ cho dân Israel, ông thưa cùng Chúa rằng: "Nếu đẹp lòng Ngài, xin Chúa tha tội cho chúng!  Bằng không, xin xóa tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết." (câu 32).  Nhờ cầu nguyện, nhờ mong muốn điều Thiên Chúa muốn, người cầu bầu hiểu biết sâu xa hơn về Thiên Chúa và về lòng thương xót của Ngài, và trở nên có khả năng yêu bằng một tình yêu có thể đạt đến mức hoàn toàn tự hiến.

Trong ông Môsê, người đứng trên đỉnh núi mặt đối mặt với Thiên Chúa, cùng trở thành người cầu bầu cho dân của ông, và hiến dâng chính mình - "xin hãy loại trừ con" - các Giáo Phụ của Hội Thánh nhìn thấy một tiên trưng của Đức Kitô, là Đấng trên đỉnh cao của thập giá thực sự đứng trước Thiên Chúa, không những như bằng hữu mà còn như Chúa Con. Và không những Người tự hiến thân - "Xin hãy loại trừ Con" - nhưng với trái tim bị đâm thâu qua, Người đã bị khai trừ, Người trở thành tội lỗi, như Thánh Phaolô nói; Người gánh tội lỗi chính chúng ta trên Mình để cứu chúng ta. Lời cầu bầu của Người không chỉ là sự đoàn kết, nhưng đồng hóa với chúng ta.  Người mang tất cả chúng ta trên thân mình Người. Và bằng cách này toàn thể cuộc đời của Người như người ta và như Chúa Con là một tiếng kêu đến trái tim của Thiên Chúa, là sự tha thứ, nhưng sự tha thứ có khả năng hoán cải và canh tân.

Tôi nghĩ rằng chúng ta nên suy niệm về thực tại này.  Đức Kitô đang đứng trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện cho tôi. Lời cầu nguyện của Người trên thập giá là lời cầu nguyện đương thời với tất cả mọi người, đương thời với tôi: Người cầu nguyện cho tôi, Người chịu đau khổ và chịu đau khổ cho tôi, Người tự đồng hóa với tôi bằng cách mặc lấy thân xác và linh hồn người phàm chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ căn tính của Người, làm cho chúng ta thành một thân thể, một tinh thần với Người, vì từ đỉnh cao thập giá, Người đã không mang đến một Lề Luật mới, được viết trên những bia đá, nhưng đã mang chính Người, Mình và Máu Người, như một giao ước mới. Vì vậy, Người làm cho chúng ta thành một máu huyết với Người, một thân thể với Người, được đồng hóa với Người.  Người mời chúng ta bước vào căn tính này, được kết hợp với Người trong ước muốn thành một thân thể, một tinh thần với Người. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho việc đồng hóa này biến đổi chúng ta, đổi mới chúng ta, bởi vì tha thứ là canh tân, và chính là biến đổi.

Tôi xin kết luận bài giáo lý này bằng lời Thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Rôma: "Ai sẽ truy tố những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn? Có phải là Thiên Chúa, Đấng đã công chính hóa [chúng ta] không? Ai sẽ kết án?  Có phải là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là Đấng đang cầu bầu cho chúng ta không? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? [....] dù sự chết hay sự sống, thiên sứ hay ma quỷ, [....] cho dù bất cứ loài nào khác trong các loài thụ tạo, cũng không có thể tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta." (Rm 8:33-35,39).

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 5. HÔN NHÂN KHÁC TÔN GIÁO

Nếu anh em nào có vợ ngoại mà người đó thuận ở với mình,

thì chớ rẫy vợ. Và người vợ nào có chồng ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì đừng bỏ chồng. Vì chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo. (1 Cr 7, 12-14)

Thế giới ngày nay được đánh dấu bằng những mối giao lưu nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực truyền thông đại chúng. Con số những cuộc hôn nhân giữa những người khác đạo càng ngày càng gia tăng. Đây là một trong những ưu tư đặc biệt của Hội Thánh Công giáo đối với đời sống hôn nhân và gia đình của con cái mình, vì những cuộc hôn nhân này thường gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về niềm tin.

1. Thế nào là hôn nhân khác tôn giáo?

Hôn nhân khác tôn giáo là hôn nhân giữa một bên là Công giáo và một bên không phải là Công giáo.

-       Nếu bên không Công giáo, nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp.

-       Nếu bên không Công giáo chưa được rửa tội, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị giáo hay hôn nhân khác đạo. Ví dụ hôn nhân giữa một người Công giáo và một người Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo v.v.... kể cả trường hợp một người không theo tôn giáo nào.

2. Hậu quả của những cuộc hôn nhân khác tôn giáo

Sau đây là 2 trường hợp có thể xảy ra:

2.1. Hôn nhân sẽ hạnh phúc, nếu hai bên biết tôn trọng nhau, "đạo ai người ấy giữ". Phía không Công giáo thực sự để cho bạn mình được tự do thờ phượng và chăm sóc đức tin cho con cái như đã thoả thuận lúc ban đầu. Phía Công giáo sống thật tốt và giúp phía không Công giáo nhận được ơn Chúa.

2.2.   Hôn nhân có thể gặp nguy hiểm và tan vỡ, nếu hai bên không chịu nhân nhượng nhau trước những mối bất đồng do sự khác biệt về niềm tin tạo ra. Phía Công giáo có thể trở nên nguội lạnh và đi đến chỗ bỏ đạo.

3. Giáo luật về Hôn nhân khác đạo

Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có nhiều vị hữu trách và cha mẹ tỏ thái độ quá dè dặt, khắt khe đối với con cái trong hôn nhân khác tôn giáo: "Bắt buộc trở lại đạo Công giáo mới cho phép làm đám cưới!" Một số khác lại quá dễ dãi: "Đạo ai nấy giữ, chẳng cần chuẩn chiếc gì hết!" Cả hai thái độ trên đều không phù hợp với ý muốn của Hội Thánh Công giáo. Hội Thánh có phép chuẩn cho những hôn nhân khác tôn giáo. Theo luật hiện nay của Hội Thánh:

-       Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền [x. GL 1124].

-       Hôn nhân khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn rõ ràng của giáo quyền [x. GL 1086]

Bởi vậy, nếu ở trong trường hợp Hôn nhân hỗn hợp hoặc hôn nhân khác đạo, đôi bạn cần trình bày với cha xứ để được hướng dẫn về thủ tục xin phép chuẩn nơi Đức Giám Mục Giáo phận.

Muốn được phép chuẩn:

-       Hai đương sự phải hiểu biết, chấp nhận mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân theo giáo lý Công giáo

-       Bên Công giáo cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.

-       Cũng cần phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy [GL 1125; x. GLHT 1635].

4. Tại sao Hội Thánh bận tâm và tỏ ra dè dặt?

Nhìn vào những quy định trên, ta thấy thái độ của Hội Thánh là một sự nhượng bộ vì không thể tránh được, chứ không hề khuyến khích. Tuy nhiên, người ta có cảm tưởng Hội Thánh Công giáo không "công bằng" khi đòi hỏi đức tin Công giáo phải được ưu tiên!

Hội Thánh lấy quyền gì để đòi hỏi hai bên phải thoả thuận như thế? Có thể nói đó là như quyền của bậc cha mẹ trước hạnh phúc của con cái, chẳng khác nào việc trao đổi giữa hai gia đình trước ngày đính hôn, mỗi bên nêu rõ nguyện vọng của mình vì hạnh phúc lâu bền của con cái.

Thế nhưng, tại sao Hội Thánh lại phải bận tâm đến như vậy? Thưa vì những lý do sau:

-   Hội Thánh biết rằng, bên cạnh tình yêu, niềm tin tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng đối với đời sống hôn nhân và gia đình, bởi vì tôn giáo không chỉ ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách hành xử, mà còn ảnh hưởng đến những chọn lựa trước những vấn đề của cuộc sống, nhất là trong việc giáo dục con cái. Do khác biệt quan điểm một cách sâu xa như thế, những cuộc hôn nhân khác tôn giáo thường gặp nhiều trở ngại, khó đạt được hạnh phúc và nếu tan vỡ thì phía người Công giáo sẽ bị thiệt thòi nhiều hơn, vì họ không thể lập gia đình lại, bao lâu người kia còn sống.

Thực vậy, tục ngữ Việt Nam có câu: "Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn". Để gia đình được hạnh phúc, cả hai vợ chồng cần phải nỗ lực và góp sức. Đây không phải là chuyện dễ, vì trong thực tế có khá nhiều khác biệt giữa họ: khác biệt về giới tính, về tính tình, về giáo dục, về gia đình, về lối sống v.v.... Nếu cùng chung một niềm tin tôn giáo, họ sẽ có được một nền tảng vững chắc, giúp vượt qua những khó khăn và thử thách, biết dùng những khác biệt để bổ túc cho nhau và làm cho cuộc sống gia đình thêm phong phú. Lúc ấy, người bạn đời cũng là người bạn đạo, cả hai cùng mang một chí hướng, đó là xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc trong yêu thương và hiệp nhất.

- Trong hôn nhân hỗn hợp giữa một người Công giáo và một Kitô hữu thuộc hệ phái khác (Tin Lành, Chính Thống...) những khó khăn cũng không nhỏ. Những khó khăn này xuất phát từ sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đến nay vẫn chưa giải quyết được. Đôi vợ chồng có thể cảm nghiệm được thảm kịch ấy ngay trong gia đình của mình. Tuy nhiên, những khó khăn này có thể vượt qua, nếu đôi bạn biết cố gắng kết hợp những gì tốt đẹp đã lãnh nhận nơi cộng đoàn mình và cùng nhau học hỏi, chia sẻ để giúp nhau sống trung thành với Đức Kitô.

- Trong hôn nhân khác đạo giữa một người Công giáo và một người không tin vào Đức Kitô, sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Những bất đồng quan điểm về niềm tin và hôn nhân, có thể dẫn đến những căng thẳng trong gia đình, nhất là việc giáo dục con cái [GLHT 1634]. Hội Thánh xác tín rằng: đức tin Kitô giáo mà con cái mình đã nhận được là một quà tặng vô giá Thiên Chúa ban. Hội Thánh không muốn đức tin ấy bị mai một, nhưng luôn có những điều kiện thuận lợi để được tồn tại và phát triển. Vì thế, Hội Thánh luôn đòi hỏi phải thoả thuậïn với nhau trước khi bước vào hôn nhân có phép chuẩn.

5. Những thái độ sống

5.1. Đối với nhau

Hôn nhân khác tôn giáo là một thách đố lớn với nhiều khó khăn cần vượt qua. Tuy nhiên, nếu đôi bạn đã suy nghĩ, cân nhắc kỹ lưỡng, cuối cùng vẫn không thể lìa xa nhau. Tình yêu quả là một mầu nhiệm! Đôi bạn hãy mở rộng cõi lòng đón nhận cuộc sống và tích cực cư xử tốt với nhau.

- Phía Công giáo hãy can đảm đón nhận điều Hội Thánh chờ đợi họ: Làm chứng cho Tin Mừng. Vào thời buổi khó khăn hiện nay, cuộc sống tốt lành đầy tin yêu của người bạn đời sẽ là lời chứng sống động và hùng hồn, át hẳn những gương xấu trong Hội Thánh. Ước gì tình huống của hai người trở thành dịp may cho phía không Công giáo đặt vấn đề về Thiên Chúa của người Công giáo. Ước gì chính thái độ nghiêm túc của Hội Thánh đối với những cuộc hôn nhân khác đạo khiến người trong cuộc đặt câu hỏi về tầm quan trọng của đức tin Công giáo.

- Phía Công giáo đừng quên rằng mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của bạn mình. Họ phải biết trân trọng trao vào tay bạn mình một quyển Tin Mừng hay một quyển Kinh Nguyện Gia đình và tha thiết cầu nguyện cho bạn mình mỗi ngày. Hơn nữa, còn phải học hỏi giáo lý và sống đạo cách sâu xa và triệt để hơn. Đừng quên rằng mỗi người phải cố gắng tìm hiểu những ưu điểm lòng tin của bạn mình, để thêm tôn trọng và quý mến nhau. Chỉ khi nào ta biết chân thành đón nhận ưu điểm của bạn, ta mới có thể giúp bạn mở lòng đón nhận ưu điểm của ta. Với Ơn Chúa, thái độ ấy sẽ giúp đôi bên làm phong phú cho nhau.

5.2. Với gia đình hai bên

Sự khác biệt tôn giáo không chỉ tạo khoảng cách giữa hai người mà còn tạo khoảng cách với gia đình của bạn mình, một khoảng cách vô hình nhưng đôi khi hết sức to lớn. Đây là chỗ để phía Công giáo gia tăng lòng trông cậy vào ơn Chúa.

Đã chọn lựa một cuộc hôn nhân đầy khó khăn, phía Công giáo phải luôn tin tưởng vào ơn Chúa. "Ai thực sự cậy trông Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng". Với lòng khiêm nhường, hãy cầu nguyện, hãy sống chân thành và khi có dịp, đừng ngại chia sẻ niềm tin cho những người mình yêu mến. Cách riêng trong việc thờ cúng tổ tiên, cả hai cần học hiểu kỹ quan điểm của Hội Thánh Công giáo và chu toàn phận vụ mình trong gia tộc cách tận tuỵ.

Tóm lại, mỗi bên cần phải làm hết sức để giúp gia đình mình hiểu và quý trọng thái độ tôn giáo của bạn mình.

5.3. Với cộng đoàn giáo xứ

Khi lập gia đình với người khác đạo, phía Công giáo có thể bỗng dưng thấy mình trở nên xa cách với mọi người trong giáo xứ. Cần vượt thắng tâm trạng ấy, bởi lẽ đây chính là lúc họ cần gắn bó hơn với giáo xứ để được nâng đỡ và cầu nguyện. Hãy thắt chặt tình thân với một nhóm gia đình trong giáo xứ, luôn gần gũi nhau như những người bạn nghĩa thiết. Hãy tận dụng những cơ hội sẵn có trong tình bạn để quan hệ giữa gia đình nhỏ của mình với cộng đoàn được tự nhiên. Sự gắn bó ấy sẽ là yếu tố quan trọng nâng đỡ và đồng hành với đôi bạn trong cuộc sống hạnh phúc.

6. Kỳ vọng của Mẹ Hội Thánh

Những cuộc hôn nhân khác đạo bao giờ cũng có nhiều khó khăn, dù vậy Hội Thánh luôn tin tưởng vào ơn Chúa và cầu nguyện cho họ. Hội Thánh tin tưởng ở thiện chí của họ và ước mong rằng "chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo" (1Cr 7,14). "Thật là một niềm vui lớn cho bên Công giáo và cho Hội Thánh nếu "việc thánh hoá này" đưa người không Công giáo tự nguyện đón nhận đức tin Công giáo.[x. 1Cr 7,16] Chính tình yêu hôn nhân chân thành, việc khiêm tốn và kiên nhẫn thực thi những nhân đức gia đình và siêng năng cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người không có đạo được ơn làm con Chúa [GLHT 1637]."

4 GHI NHỚ :

1. H. Tôn giáo có vai trò nào trong đời sống hôn nhân và gia đình?

T. Tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình, vì ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách xử sự và việc giáo dục con cái.

2. H. Hội Thánh có cho phép chuẩn để kết hôn với người ngoài Công giáo không?

T. Có, với những điều kiện sau đây:

-       Một là hai người phải hiểu biết và chấp nhận những mục đích và đặc tính của hôn nhân.

-       Hai là bên Công giáo phải cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.

-       Ba là phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy.

3. H. Khi kết hôn với người khác đạo, người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm nào?

T. Người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm này:

-       Một là dễ trở nên nguội lạnh và bỏ đạo.

-       Hai là gia đình thường xuyên bất đồng và dễ tan vỡ.

4. H. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống thế nào?

T. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống tốt đạo và trở nên chứng nhân Tin mừng cho con cái và người bạn đời.

4 GỢI Ý SUY NGHĨ :

1. Vì sao Hội Thánh quan tâm đặc biệt đến những cuộc hôn nhân khác đạo?

2. Theo anh chị hôn nhân hỗn hợp đem đến những thuận lợi và bất lợi nào?

3. Anh chị có những người bạn nào lập gia đình với người khác đạo không? Kinh nghiệm của họ thế nào?

4 CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, chúng con tin thật rằng mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, xin giúp chúng con khao khát xây dựng gia đình chúng con theo thánh ý Chúa. Xin nâng đỡ và củng cố tình yêu đầy những giới hạn của chúng con. Chúng con cầu nguyện cách riêng cho những anh chị lập gia đình với người không cùng một đức tin với mình. Xin gửi Thánh Thần Tình yêu đến liên kết họ, giúp họ vượt qua những khác biệt để họ có thể trở thành không những là người bạn đời, mà còn là người bạn đạo của nhau. Amen

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004

Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh

         

Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004

+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho

   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 10. HUẤN LUYỆN THẦN HỌC

Trong thời đại chúng ta đang sống, mọi thứ đều thay đổi nhanh chóng : từ niềm tin, tư tưởng đến những văn minh vật chất, do đó các tín hữu đều mong tìm thấy nơi Giáo Hội những lời dạy dỗ rõ ràng và những hướng dẫn vững chắc cho việc sống đạo và việc truyền đạt những chân lý của đạo cho người khác. Vì vậy, công việc huấn luyện Thần học cho các giáo lý viên càng ngày càng quan trọng, nó hệ tại việc giúp họ có khả năng suy tư Thần học cách hợp lý và chính xác, biết nối kết mọi lãnh vực của thần học vào một điểm quy chiếu độc nhất là Lời Chúa (bởi vì Lời Chúa mang chiều kích thiết yếu trong giáo lý), và từ những hiểu biết thần học đó, giáo lý viên biết tự nguyện đi vào mối tương quan sống động với Đức Kitô và biết minh họa những lý thuyết trừu tượng bằng một đời sống đức tin cụ thể.

Thần học là một khoa học về Thiên Chúa, nghĩa là trình bày những quan điểm, những hiểu biết của con người về Thiên Chúa qua Kinh Thánh, qua Thánh Truyền và qua những suy tư cá nhân về Thiên Chúa. Thần học cung cấp rất nhiều kiến thức, dựa trên lý luận chặt chẽ để nói về Thiên Chúa. Trong khi đó, giáo lý dù vẫn dựa trên những điểm thần học cơ bản, nhưng luôn nhắm đến lòng tin, cậy, mến chân thành của con người đối với Thiên Chúa và được thể hiện ra bằng đời sống cụ thể tốt lành. Thần học và Giáo lý đều có chung một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng trình bày Lời Chúa. Nhưng xét về chuyên môn và phương pháp thì Thần học và Giáo lý có những điểm khác nhau. Chúng ta nêu lên một vài khác biệt giữa Thần học và Giáo lý:

-       Thần học thiên về các ý niệm và dùng ngôn ngữ trừu tượng trong triết học - Giáo lý dùng hình ảnh, ngôn ngữ cụ thể, thường ngày theo văn hóa, trình độ.

-       Thần học có tính uyên bác, đi vào chuyên môn, nghiên cứu theo thứ tự - Giáo lý có tính đơn giản, thực dụng và gần với đời sống con người.

-       Thần học hệ thống hóa các tư tưởng theo luận lý- Giáo lý chú trọng đến nhu cầu tâm lý con người.

-       Thần học theo đường lối phân tích : Thiên Chúa, Chúa Kitô, Giáo Hội, Ân sủng.... - Giáo lý có tính tổng hợp. Mỗi chương trình giáo lý cho từng tuổi đều mang một cái nhìn tổng hợp.

-       Thần học theo phương pháp diễn dịch. Giáo lý theo phương pháp quy nạp.

-       Thần học thỏa mãn lý trí về mặt nhận thức - Giáo lý trực tiếp cải thiện đời sống.

Như vậy, khi dạy giáo lý không phải là trình bày những kiến thức hấp dẫn về Thiên Chúa, nhưng là giúp người tín hữu trưởng thành trong đức tin, trở thành người con Chúa theo mẫu gương của Đức Kitô. Tuy nhiên, Một số khác biệt giữa Thần học và Giáo lý không cho phép chúng ta tách Giáo lý và Thần học như hai môn học riêng rẽ, nhưng Giáo lý luôn phải nằm trong chiều hướng của Thần học.

CHƯƠNG I: NỀN TẢNG THẦN HỌC

Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 240 dạy rằng: "Giáo lý viên không những là một nhân chứng nhưng còn là người thầy giảng dạy về đức tin. Việc đào tạo đầy đủ về Kinh Thánh và Thần học sẽ giúp cho giáo lý viên hiểu biết có hệ thống về thông điệp Kitô giáo, được nối khớp quanh mầu nhiệm trung tâm của đức tin là Đức Giêsu-Kitô."

Nền tảng của mọi nền thần học Kitô giáo chính là Thánh Kinh. Ngoài ra, còn có những đạo lý, những quy luật tôn giáo được phát sinh trong lịch sử Giáo Hội. Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 240 xác định nội dung việc huấn luyện Thần học gồm có Thánh Kinh và Thánh Truyền.

I. THÁNH KINH

Thánh Kinh là nguồn mạch chính của giáo lý. Trong hiến chế Tín lý về Mạc khải, Giáo Hội nhấn mạnh đến "nguồn mạch của giáo lý là Lời Chúa" [2], được nói qua các Tổ phụ, các tiên tri và được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý khẳng định : "Thánh Kinh là linh hồn của việc đào tạo Thần học."[3] Như vậy giáo lý càng sát gần Thánh Kinh thì càng phong phú.

Qua Thánh Kinh, con người biết rõ những việc Chúa làm, những lời giáo huấn và những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong lịch sử cứu độ. Và chính Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ ấy. Qua việc nhập thể, cái chết và phục sinh, Ngài đã thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa đối với con người. Tất cả những gì được nói đến trong Cựu ước đều là chuẩn bị và hướng về Đức Kitô. Tất cả những gì đến sau Đức Kitô đều là nối dài sự hoạt động và hiện diện của Đức Kitô trong lịch sử cứu độ.

 Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với con người bằng chính ngôn ngữ của con người trong quá khứ và cũng là điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta hôm nay. Nhờ Thánh Kinh chúng ta biết được những hình thức tuyệt diệu Thiên Chúa nói với nhân loại qua bao thế kỷ. Kinh Thánh mạc khải ý muốn trường cửu của Thiên Chúa cho con người. Như vậy Kinh Thánh là một dấu chỉ rất đặc biệt của Lời Chúa và chính là nội dung mà giáo lý phải truyền đạt.

Theo cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý số 95, thì :

-       "Lời Chúa đã được toàn thể dân Chúa suy gẫm và học hiểu cách sâu xa bằng sự nhạy bén của đức tin và dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội.

-       Lời Chúa luôn được công bố, lắng nghe, nội tâm hóa và giải thích trong phụng vụ.

-       Lời Chúa luôn tỏa sáng trong đời sống cũng như trong lịch sử của Giáo Hội, trong đời sống chứng tá của các kitô hữu và đặc biệt qua đời sống của các Thánh.

-       Lời Chúa luôn được đào sâu trong những nghiên cứu thần học, là phương tiện giúp các tín hữu thăng tiến trong việc hiểu biết các mầu nhiệm đức tin.

-       Lời Chúa được biểu lộ trong các giá trị tôn giáo và những nền đạo đức chân chính, vốn được phổ biến trong trong xã hội con người và trong các nền văn hóa khác nhau với đặc tính là "hạt giống" được gieo vào lòng con người"

Huấn luyện Thánh Kinh sẽ giúp giải thích đời sống con người hiện tại dưới ánh sáng các kinh nghiệm mà dân Israel, Đức Kitô và Giáo Hội đã sống.

VẬY GIÁO LÝ VIÊN CẦN TRAU DỒI THÁNH KINH THẾ NÀO ?

Dù biết rằng Thánh Kinh là trọng tâm của giáo lý nhưng nhiều người trong chúng ta lớn lên với một kiến thức giới hạn về Thánh Kinh. Hiện nay có nhiều đường hướng và phong trào hỗ trợ việc học hỏi Thánh Kinh, ngoài các khóa học về Thánh Kinh, giáo lý viên có thể tự học. Xin nêu lên ở đây một trong những phương pháp cụ thể giúp tự đọc Kinh Thánh. Phương pháp này nhằm giúp khám phá ý nghĩa đoạn Thánh Kinh qua việc : đọc, suy tư, cầu nguyện và quyết tâm hoán cải.

1. Mở bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào hay chọn một đoạn theo ý mình, đọc lần thứ nhất để làm quen với bản văn đó. Ghi nhận những tâm tình đã cảm nghiệm được.

2. Đọc lần hai, đọc chậm, sau đó lắng nghe xem có tiếng nói gì vang vọng trong tâm hồn ? Tự hỏi xem từng chữ, từng câu có ý nghĩa gì ? Cũng cần ghi lại những hiểu biết, những tâm tình có thêm và cả những vấn đề thắc mắc về bản văn nếu có.

3. Đọc lần 3, suy niệm và cầu nguyện theo câu truyện hoặc đoạn Kinh Thánh. Điều quan trọng là hiểu những điều vừa đọc và đem áp dụng ngay trong chính cuộc sống của mình hay trong bài giáo lý sẽ dạy. Đó mới thực sự hữu ích cho bản thân cũng như cho việc dạy giáo lý .

4. Nếu có thể, giáo lý viên nên đọc một đoạn Kinh Thánh nhiều lần, đọc với sự chú ý, đọc với lòng khao khát, với thái độ lắng nghe và để Lời Chúa chất vấn con người của mình. Khi có những câu nào ta cảm thấy ngượng, muốn tránh né, thì những câu đó càng có sức chữa bệnh cho mình, đây là điều chúng ta cần phải tiếp nhận. Vấn đề quan trọng là làm sao để Lời Chúa được vang dội nơi tâm hồn. Vì thế cần tạo khoảng không gian, bầu khí tốt để nội tâm hóa, suy tư, cầu nguyện, chiêm niệm và quyết tâm hành động, thực hiện dấn thân, đổi mới.

5. Nên có giờ để đọc hết chương bao gồm câu truyện, những câu nói liên quan đến đoạn chúng ta đang đọc. Điều này rất quan trọng để giúp ta thấy được toàn bộ bố cục Kinh Thánh và giúp hiểu rõ thêm ý nghĩa của đoạn văn ta trích đọc và trả lời những vấn nạn hoặc nêu lên những vấn đề mới.

Ngoài ra, khi đọc Thánh Kinh, ta không nên bỏ qua những lời giới thiệu, những phần tiểu dẫn và những chú thích trong sách Thánh : Ở đầu hay cuối sách Kinh Thánh thường có những phần chỉ dẫn như "cách thức đọc Kinh Thánh", "cái nhìn sơ lược về lịch sử", phụ lục chú thích, tự điển, bản đồ, và trước mỗi cuốn đều có những tiểu dẫn về tác giả và nguồn gốc.

Dưới mỗi trang đều có thêm phần chú thích. Những câu khó hiểu thường có những ký hiệu giúp ta tìm những chú thích ở cuối trang. Đồng thời ở lề cạnh bản văn có những ký hiệu giúp nhận ra những đoạn văn, hoặc câu khác liên quan. Những tham khảo này soi sáng thêm cho đoạn văn, và giúp ta hiểu được những liên hệ trong Kinh Thánh như thế nào.

Nói tóm lại, chúng ta nên dành thời giờ đọc Kinh Thánh để Lời Chúa có thể bén rễ sâu và đổi mới cuộc sống của ta. Áp dụng từng bước đơn giản này cho mỗi đoạn Lời Chúa mà ta sẽ dạy, nghĩa là đọc, suy tư, cầu nguyện và quyết tâm sống theo. Nhờ đó chúng ta sẽ tăng thêm kiến thức Kinh Thánh và sẽ cảm thấy tự tin khi hướng dẫn Lời Chúa cho các em, đồng thời ta sẽ cảm thấy nhu cầu phải học Kinh Thánh sâu xa hơn nữa.

II. THÁNH TRUYỀN

Ngoài Thánh Kinh, một phần mạc khải còn được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của Giáo Hội vì Thiên Chúa cũng ngỏ lời qua những khía cạnh khác của đời sống Giáo Hội. Ngay buổi đầu, do những cuộc trở lại đạo đông đúc, các tín hữu đã sớm thành hình những biểu thức đức tin nền tảng của Kitô giáo... Chúng ta biết được bản tóm lược đạo lý căn bản này qua Kinh tin kính.

1. KINH TIN KÍNH

Kinh Tin kính là bản tóm lược giáo lý nền tảng của đạo công giáo, được triển khai trong phần I sách Giáo lý công giáo. Thánh Cyrilô thành Giêrusalem nói về Kinh Tin kính như sau : " Bản tổng hợp đức tin này được soạn thảo không theo ý kiến loài người, nhưng dựa trên những giáo lý quan trọng nhất của toàn bộ Thánh Kinh, để tạo nên một giáo huấn đức tin duy nhất"[4].

Theo Thánh Ambrôsiô thì : "Kinh Tin kính là dấu ấn tín thiêng liêng, là điều tâm niệm, là người canh giữ luôn hiện diện, chắc chắn đó là kho tàng của linh hồn chúng ta."[5]

Kinh Tin kính được chia làm 3 phần :

-       Tuyên xưng niềm tin Thiên Chúa Ngôi Cha và công trình sáng tạo kỳ diệu của Ngài.

-       Tuyên xưng niềm tin vào Ngôi Hai là Chúa Con và mầu nhiệm cứu chuộc loài người.

-       Tuyên xưng niềm tin vào Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba, Đấng thánh hóa con người.

Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều bản tuyên xưng đức tin[6], nhưng có hai bản chiếm một địa vị đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, đó là:

-       Kinh Tin kính của các Tông đồ (vì bản này được xem như bản tóm lược trung thành đức tin của các Tông Đồ).

-       Kinh Tin kính của Công đồng Nicêa Constantinôpoli (được coi là quan trọng vì phát xuất từ hai Công đồng đầu tiên (325 và 381).

Khi đọc Kinh Tin kính, Giáo Hội tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi và ý định nhân từ của Ngài. Khi đọc kinh Tin kính với niềm xác tín, chúng ta được thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và toàn thể Giáo Hội, vì Giáo Hội truyền đạt đức tin cho chúng ta và chính chúng ta sống niềm tin của mình vào Thiên Chúa giữa lòng Giáo Hội. (còn tiếp)

TRANG QUỚI CHỨC

THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT

Điều răn thứ ba trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời đó là thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa ngày của Chúa, đó là một lệnh truyền của Thiên Chúa, đó là một luật buộc. Ai cũng biết thế. Nhưng phải thánh hóa ngày ấy như thế nào đó là điều chúng ta cần phải tìm hiểu để có thể chu toàn bổn phận cách thích đáng.

Thánh hóa ngày Chúa nhật không chỉ đơn giản là việc ngày ấy các tín hữu phải đến nhà thờ để "xem" lễ thế là xong, mà còn rất nhiều bổn phận khác cần phải làm. Điều này đã được Chúa nói rất rõ trong bộ Ngũ Thư, cụ thể trong sách Đệ nhị Luật đã ghi lại như sau: "Ngươi hãy giữ ngày hưu lễ để tác thánh ngày ấy, như Yavê, Thiên Chúa  của ngươi đã truyền cho ngươi. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm việc vàn của ngươi. Nhưng ngày thứ bảy là ngày Hưu lễ kính Yavê, Thiên Chúa của ngươi, ngươi sẽ không làm bất cứ công việc nào, ngươi và con trai con gái ngươi, tớ trai tớ gái của ngươi, bò lừa và mọi thú vật của ngươi và khách cự ngụ ở bên trong cổng thành nhà ngươi, ngõ hầu tớ trai tớ gái của ngươi cũng được nghỉ ngơi như chính mình ngươi" (Đnl 5,12 - 14)

Như vậy, "Giữ ngày Chúa nhật" không đơn giản là chỉ đi "xem lễ" là xong mà là: phải tác thánh ngày ấy. Trong đó bao gồm hai việc Kính Chúa và bác ái với con người.

Vì là ngày hưu lễ kính Chúa nên chúng ta phải tỏ lòng cung kính, tôn thờ bằng việc làm cụ thể. Việc tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật là một trong những việc tôn thờ Thiên Chúa để tỏ lòng cung kính của bầy tôi với Chúa của mình. Đó là một bổn phận bắt buộc phải có của kẻ dưới đối với bề trên. Biểu hiện khi thực thi điều này sẽ minh chứng tấm lòng của kẻ ấy như thế nào. Người có lòng tôn kính thật sự sẽ làm một cách ân cần, chu đáo, trái lại, người không cung kính thì sẽ coi thường bỏ qua, hoặc làm một cách miễn cưỡng, sơ sài. Nó thường biểu hiện ra bên ngoài bằng những việc như chuẩn bị và tham dự ngày ấy.

Việc chuẩn bị cho ngày lễ kính Chúa bao gồm cả bên trong lẫn bên ngoài: chuẩn bị nơi thờ phượng cho tươm tất xứng đáng qua việc quét dọn, lau chùi, sắp xếp ngăn nắp, trật tự, trưng dọn, trang hoàng.....Đối với bản thân, biết ăn mặc đoan trang xứng hợp khi đến nhà thờ, biết đi đứng, nói năng chuẩn mực, biết tôn trọng sự tôn nghiêm nơi thờ tự, họ không đi trễ về sớm nhưng biết dùng ngày này như cơ hội để được làm thân, làm đẹp lòng Chúa của mình. Ngày này là ngày họ thật sự sống vì Chúa và cho phần rỗi của mình.

Trái lại, những người không có lòng tôn kính, hay không thật sự tôn kính thì sẽ lơ là trong việc chu toàn bổn phận thánh hóa ngày Chúa nhật. Họ thường không đến nhà thờ hay tham dự một cách miễn cưỡng, chiếu lệ, họ không  nghỉ đó là việc phải làm cũng như phải làm việc ấy như thế nào cho xứng hợp. Việc thờ phượng Chúa ngày Chúa nhật là một phiền toái đối với họ.

Cũng thế việc tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật không những phản ánh thái độ tôn thờ của người tín hữu mà còn chứng tỏ lòng yêu mến của họ đối với Thiên Chúa hay không.

Nếu như nói việc chu toàn những nghi thức phụng vụ trong thánh lễ chỉ là bổn phận bắt buộc thì việc tham dự thánh lễ với lòng sốt sắng và của lễ mà họ góp vào trong thánh lễ biểu lộ lòng mến yêu đối với Chúa. Có những người đến vì sợ lỗi đạo nên đến nhưng mà chỉ lãng vãng ở ngoài hoặc vào nhà thờ nhưng chỉ với thân xác mà không có tâm hồn. Xác họ đến với Chúa nhưng lòng họ không gần Chúa. Còn những ai có lòng với Chúa thì họ tham dự với cả con người, họ vào trong nhà thờ để được gần Chúa hơn, họ muốn nghe Chúa nói với họ rõ hơn, họ đến với Chúa không phải bằng tay không mà còn có của lễ để góp vào hy lễ của Chúa Kitô trên bàn thờ. Được gặp gỡ, tôn thờ Chúa quả là niềm vui của họ.

Việc tác thánh hay thánh hóa ngày Chúa nhật còn bao gồm việc nghỉ ngơi ngày hôm ấy. Điều ấy đã được Giáo Hội giải thích rõ ở điều luật thứ hai trong sáu điều luật Hội Thánh. Vì là ngày dành riêng cho Chúa nên chúng ta không được lạm dụng để sử dụng cho mình. Nói thế không hẳn là ngày Chúa nhật, chúng ta phải làm gì cho Chúa hay Chúa muốn chiếm dụng ngày đó để làm gì nhưng thật ra Chúa muốn chúng ta được giải thoát khỏi công việc để được nghỉ ngơi, để được sống và sống với anh em. Ngưng nghỉ công việc để nhìn lại công việc mình, con người mình để chỉnh đốn, để thụ hưởng chút thành quả công việc mình làm như Chúa đã làm làm cho công việc của chúng ta có ý nghĩa hơn, bởi Chúa muốn con người làm việc để được sống chứ không phải làm việc vì bị đọa đày, mà chúng ta sống là sống với nên cần phải có chung thơi giờ để có cơ hội cùng nhau vui hưởng. Ngày nay rất nhiều người đã quên điều đó nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật đơn giản chỉ là việc tham dự thánh lễ mà không còn giữ việc kiêng việc xã ngày Chúa nhật nữa. Thế là chưa chu toàn việc thánh hóa ngày Chúa nhật vì chưa bác ái đối với bản thân và với tha nhân.

Quới Chức là những giáo dân gương mẫu của các xứ đạo chúng ta đã giữ điều răn thứ ba của Chúa đúng với tinh thần của Chúa chưa ? Mong các quới chức cố gắng tìm hiểu và sống đúng tinh thần ấy để nên gương sáng và giải thích cho những người khác biết sống đúng theo thánh ý Chúa.

SỐNG ĐẸP

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA

10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu

Những chia sẻ "10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu" do ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm Vui Sống Đạo" của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

2.  Chúa Giêsu không biết làm toán

Trong dụ ngôn con chiên bị mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại hơn 99 con còn lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!

Trong chương trình rao giảng của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm, nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4, 1-42). (Còn tiếp)

Đức Hồng Y Px.  Nguyễn Văn Thuận

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Cám Ơn Mẹ

Khi mới về nhà chồng, con luôn sống với tâm trạng thủ thế, lúc nào cũng như con nhím sẵn sàng xù lông đối phó lại nếu chẳng may bị... "xử ép". Nhưng sau một thời gian sống chung, sự đề phòng quá mức ấy khiến con xấu hổ bởi cách đối xử của mẹ.

Khi con mang thai, mẹ thường mua những món con thích, từ bịch bánh lọt nước dừa, ly thốt nốt hay trái sầu riêng. Khi con sắp sinh, mẹ bảo: "Đây là thời gian khó khăn nhất của người phụ nữ, nếu muốn, con có thể về nhà mẹ ruột ở...".

Lúc đó, con chẳng nói được gì, dù chỉ là lời cảm ơn và nước mắt cứ tuôn rơi. Chỉ có vậy mà con bỏ ý định về nhà mẹ ruột ở cữ. Sinh xong, nhiều hôm, chồng con đi nhậu về trễ, mẹ đã gặp riêng anh nói chuyện, sau đó, anh không về trễ nữa và chịu giúp vợ chăm con. Có lần, anh còn trêu vợ: "Em có "chiêu" gì khiến mẹ thương con dâu hơn con ruột vậy?".

Nghe mọi người đồn anh "có bồ", con như người rớt từ chín tầng mây xuống. Dù con chẳng kể lể gì nhưng có lẽ nhìn vẻ ngoài suy sụp của con, mẹ đã đoán là "có chuyện" và bảo con đưa số điện thoại của cô gái kia. Con không biết mẹ đã nói gì với cô gái ấy nhưng sau đó chồng con không còn liên lạc với cô ấy nữa.

Cuộc sống trong gia đình còn nhiều phen sóng gió nhưng nhờ sự can thiệp đúng lúc, đúng mực của mẹ, chúng con vẫn sống với nhau yên ổn đến giờ. Nếu không có mẹ, con không biết mình có đủ bản lĩnh để lèo lái con thuyền hôn nhân qua những lúc bão táp không.

Cám ơn mẹ!

Thu Vân, nld.com.vn

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Tại Sao Việc Rước Lễ Lần Cuối Cùng Được Gọi Là "Của Ăn Đàng"?


Lần rước lễ đầu tiên trong đời được gọi là "rước lễ vỡ lòng", còn lần rước lễ lần chót trong đời được gọi là "của ăn đàng". Từ ngữ này có ý nghĩa gì?

Chúng ta đừng nên quên rằng nhiều thuật ngữ sử dụng trong thần học, giáo luật và phụng vu, được dịch từ tiếng La-tinh hay Hy-lạp, và những lần thiếu chính xác không phải là ít. Có lẽ thuật ngữ "của ăn đàng" hơi xa lạ đối với ngôn ngữ Việt Nam, và không gợi lên một ý tưởng nào trong đầu óc người nghe. Đây là một từ dịch bởi tiếng La-tinh viaticum và xa hơn nữa, gốc bởi tiếng Hy-lạp hodoiporion và ephodion. Các từ ngữ này lúc đầu ám chỉ một bữa tiệc từ giã bạn hữu trước khi lên đường, và sau đó cũng bao gồm hành lý mang theo khi đi đường (tiền bạc, lương thực, áo quần). Trong tiếng La-tinh, viaticus lúc đầu được dùng như tính từ (cái gì liên quan đến đường đi, chẳng hạn như coena viatica: bữa tiệc đưa chân), dần dần biến thành danh từ viaticum để ám chỉ hành lý đi đường. Phụng vụ du nhập từ ngữ này để ám chỉ hành trang của người tín hữu khi bước sang thế giới bên kia.

Hành trang đó gồm những thứ gì?

Chắc chị đã biết, nhiều tôn giáo quan niệm rằng con người vẫn tiếp tục cuộc sống bên kia thế giới. Vì thế khi an táng, người ta đặt tiền bạc, đồ trang sức trong hòm, đó là chưa kể có nơi người ta chôn sống cả bà vợ nữa! Đặc biệt một nghi thức mang nhiều ý nghĩa là đút vào miệng người chết một nhúm gạo, để họ ngậm nhai lúc lên đường sang bên kia thế giới. Có lẽ những khái niệm đó sẽ giúp ta hiểu rõ hơn những nghi thức phụng vụ Kitô giáo liên quan đến hành trang dành cho người tín hữu sắp lên đường. Kitô giáo tin rằng cuộc sống vẫn tiếp tục ở thế giới bên kia, nhưng cuộc sống đó khác với cuộc sống bên này. Cuộc sống bên kia thế giới cốt ở sự sống với Chúa, sự sống thân mật với Thiên Chúa Ba ngôi và cộng đoàn các thánh. Vì thế không cần phải chất đầy hòm với áo quần, tiền bạc, lương thực làm chi. Người tín hữu chỉ cần mang theo mình hành trang cần thiết nhất, đó là đức mến.

Làm sao mang được đức mến đi theo người chết?

Nãy giờ chúng ta dùng những hình ảnh để so sánh quan niệm của Kitô giáo với các tôn giáo khác về cuộc sống ở thế giới bên kia. Bây giờ chúng ta trở lại với truyền thống phụng vụ Kitô giáo. Đừng kể những nghi thức an táng dành cho những người đã chết, phụng vụ còn có những nghi thức dành cho các tín hữu trong giai đoạn lâm tử. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta nói đến "của ăn đàng". Như đã nói, từ này dịch bởi tiếng La-tinh viaticum, mà nguyên ngữ có nghĩa là bữa tiệc từ gĩa trước khi lên đường, hoặc hành trang dành cho người đi đường. Theo nghĩa chặt, "của ăn đàng" ám chỉ bí tích Thánh Thể, bánh ban sự sống trường sinh; nhưng theo nghĩa rộng, các giáo phụ còn bao hàm nhiều bí tích khác nữa.

Những bí tích nào vậy?

Đứng đầu là bí tích rửa tội. Vào thời các giáo phụ, nhiều người chần chừ lãnh bí tích rửa tội vì sợ không đủ sức tuân giữ các điều cam kết, cho nên họ trì hoãn cho đến lúc gần chết. Nói chung, con số những người này không phải là nhiều. Trải qua các thế kỷ về sau, những bí tích dành cho người sắp chết là: "thống hối (giải tội), xức dầu bệnh nhân, Mình Thánh Chúa". Tập tục này vẫn được duy trì đến ngày nay, tuy dù thứ tự có thay đổi. Cho đến công đồng Vaticanô II, thứ tự các bí tích cuối đời là: "thống hối, Mình Thánh Chúa, xức dầu"; nhưng sách nghi thức ban hành sau công đồng đã xếp đặt lại thứ tự như sau: "thống hối, xức dầu, Mình Thánh Chúa". Bí tích cuối cùng của người tín hữu trước khi lìa đời là Thánh Thể, chứ không phải là xức dầu.

Tại sao vậy?

Bởi vì có sự thay đổi ý nghĩa thần học bí tích. Bí tích Xức dầu đã được đổi tên gọi, không còn mang tên là "xức dầu lần chót" (extrema unctio) như trước đây, mà là "xức dầu bệnh nhân" (unctio infirmorum). Do đó bí tích này không dành cho những người sắp chết, nhưng dành cho các người bệnh nặng, để xin Chúa ban sức mạnh tinh thần và thể lý giúp họ biết kết hiệp với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, và nếu Chúa muốn thì cũng xin cho họ được lành bệnh. Còn bí tích cuối cùng trên đời là bí tích Thánh Thể, được gọi là "của ăn đàng".

Tuy nhiên, người tín hữu lãnh bí tích Thánh Thể nhiều lần trong đời, chứ đâu phải khi sắp chết. Có gì khác biệt giữa lần rước lễ cuối cùng với những lần rước lễ khác?

Đúng thế, người tín hữu rước lễ nhiều lần trên đời, chứ không phải chỉ một lần lúc sắp chết. Tuy vậy, chúng ta thấy giáo luật và phụng vụ cũng muốn nêu bật vài sự khác biệt nho nhỏ giữa việc rước lễ thường xuyên và việc rước lễ như của ăn đàng. Trước tiên, về giáo luật. Bộ giáo luật đã dành ra 3 số để nói về việc trao Mình Thánh như của ăn đàng. Số 921 ra một nguyên tắc căn bản như sau: "Các Kitô hữu lâm cơn nguy tử, dù vì bất cứ lý do nào, cần được bổ dưỡng, bằng việc rước lễ như của ăn đàng. Cho dù ngày ấy họ đã rước lễ rồi, cũng rất nên cho họ rước lễ lần nữa nếu mạng sống họ bị lâm nguy. Bao lâu cơn nguy tử kéo dài, nên cho họ rước lễ nhiều lần, vào những ngày khác nhau". Như vậy, xét về khái niệm, nhà lập pháp phân biệt việc rước lễ như của ăn đàng với những lần rước lễ khác, đến nỗi dầu ngày hôm đó đã rước lễ rồi, nhưng nếu gặp cơn nguy tử thì vẫn được rước lễ lần nữa. Mặt khác, nói như thế không có nghĩa là một khi đã lãnh của ăn đàng rồi, thì tuyệt nhiên chấm dứt đời sống bí tích trên đời này. Không phải thế; nếu bệnh nhân còn sống lâu ngày, thì vẫn được tiếp tục lãnh bí tích. Dù sao, thiết tưởng điều 922 tiếp theo cũng chứa đựng một ý nghĩa mục vụ nữa, đó là: nên cho bệnh nhân lãnh nhận của ăn đàng khi còn tỉnh trí. Điều này giả thiết rằng người bệnh nhân lãnh nhận Thánh Thể như là tiếp rước Thiên Chúa với tất cả lòng yêu mến kính tin, chứ không phải chỉ như uống một viên thuốc an thần. Điều 911 quy định về nghĩa vụ mang của ăn đàng cho bệnh nhân. Nghĩa vụ này ràng buộc các linh mục có trách nhiệm mục tử: cha sở, các cha phó xứ, các tuyên uý, các cha bề trên dòng giáo sĩ.

Về nghi thức phụng vụ, có gì khác biệt giữa việc rước lễ thông thường và rước lễ như của ăn đàng?

Từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ khuyến khích các tín hữu hãy rước lễ trong Thánh lễ, nhằm nối kết việc hiệp lễ với tất cả các khía cạnh chúc tụng, tạ ơn, dâng hiến gói ghém trong bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, nếu người tín hữu không thể tham dự Thánh lễ được thì vẫn có thể rước lễ ngoài Thánh lễ, cách riêng là các bệnh nhân. Từ năm 1973, Toà thánh cho phép các Bản quyền sở tại uỷ thác cho các giáo dân được mang Mình thánh Chúa cho các người bệnh nhân. Điều này được lặp lại trong số 910 của bộ giáo luật. Nghi thức trao Mình Thánh ngoài Thánh lễ, sau những lời chào thăm và thú lỗi, gồm phần đọc Lời Chúa, Kinh Lạy Cha, và rước lễ. Nếu là nghi thức trao Mình Thánh như của ăn đàng, thì có thêm vài chi tiết khác. Trước hết là trong lời chào thăm mở đầu, tác viên dẫn nhập như sau: "Anh chị em thân mến, trước khi rời bỏ đời này để trở về với Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta bí tích Mình và Máu Thánh của Ngài. Trong giờ phút chúng ta rời bỏ đời này để về với Chúa, chúng ta nhận lãnh bí tích này như của ăn đàng cho sự sống vĩnh cửu và bảo chứng cho sự phục sinh. Hiệp nhất trong lòng mến Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cho người anh em của chúng ta". Kế đó là lời thú tội và xá giải. Tiếp đến là nghe đọc Lời Chúa, và kèm theo việc tuyên xưng đức tin, dựa theo mẫu thức hỏi và đáp như chúng ta vẫn thực hiện vào đêm Vọng Phục sinh. Việc lặp lại lời tuyên xưng đức tin vào lúc này có thể giải thích như là tái khẳng định lòng gắn bó với Thiên Chúa Ba Ngôi lúc lãnh bí tích rửa tội, và đồng thời cũng nêu bật chiều kích Vượt qua của đời sống người Kitô hữu, nghĩa là trót cuộc đời của họ là một cuộc liên kết với cuộc Tử nạn và Phục sinh của đức Kitô. Một chi tiết khác của nghi thức trao Mình Thánh Chúa lần cuối là công thức của tác viên. Thường thì tác viên giơ cao Bánh Thánh lên và nói: "Mình Thánh Chúa Kitô", và tín hữu đáp lại: "Amen" (nghĩa là: đúng vậy). Khi trao của ăn đàng, thì tác viên nói tiếp theo lời Amen: "Xin Ngài giữ gìn bạn và dẫn đưa đến cuộc sống muôn đời", và bệnh nhân đáp: "Amen".

Tóm lại, lần rước lễ cuối cùng được gọi là "của ăn đàng", bởi vì người tín hữu lãnh nhận bí tích Thánh Thể như lương thực ăn lúc lên đường trở về nhà Cha, có phải thế không?

Đúng thế. Như đã nói ở đầu, viaticum có nghĩa là bữa tiệc tiễn đưa người thân lên đường và cũng là hành trang mang theo khi đi đường. Đối với tín hữu, bữa tiệc và lương thực là Mình Thánh Chúa Giêsu, như chính ngài đã hứa: "Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là thức uống. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời". Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, hiểu như vậy thì mới chỉ đúng 50 phần trăm. Còn thiếu 50 phần trăm nữa, đó là chúng ta đừng quên rằng bí tích Thánh Thể không chỉ gồm một tấm bánh thiêng ban sức mạnh cho linh hồn, nhưng tiên vàn là chính Chúa Kitô. Trong bí tích này, chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô, đấng đã nhập thể, đã chết, đã sống lại, và đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Chúng ta tin rằng Ngài hiện diện với chúng ta trong suốt cuộc đời, tuy chúng ta không trông thấy Ngài. Bây giờ, trước khi nhắm mắt lià đời, chúng ta lãnh nhận bí tích một lần cuối cùng, tiếp đón Ngài như kẻ đồng hành, và xin Ngài dẫn đưa chúng ta về nhà Cha, hay nói đúng hơn, xin Ngài hãy vén màn lên để chúng ta được diễm phúc chiêm ngắm Ngài nhãn tiền, diện đối diện. Khi nhắm mắt lìa đời, bệnh nhân có cảm giác bị hết mọi người bỏ rơi. Nhưng đức tin dạy cho chúng ta biết rằng mình không bị bỏ rơi, bởi vì Chúa Kitô đồng hành với chúng ta. Hơn nữa, ngài còn bảo đảm cho chúng ta được sống lại với Ngài.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

BỎ THẦY, CON THEO AI?

Tôi nổi giận, và Ngài bảo:  HÃY THỨ THA
Tôi run sợ, và Ngài bảo:  CAN ĐẢM
Tôi nghi hoặc, và Ngài nói:  HÃY TÍN THÁC
Tôi bồn chồn không ngơi, và Ngài nói: TĨNH LẶNG
Tôi thích đi con đường riêng của mình, và Ngài bảo:  HÃY THEO TA
Tôi muốn lập kế hoạch riêng của mình, nhưng Ngài bảo:  HÃY QUÊN ĐI
Tôi nhắm tìm của cải vật chất, và Ngài bảo:  HÃY BỎ LẠI ĐẰNG SAU
Tôi muốn được bảo đảm, nhưng Ngài nói:  TA CHẲNG HỨA HẸN GÌ
Tôi thích sống  đời riêng của mình, và Ngài nói:  TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
Tôi nghĩ mình tốt lành, nhưngNgài bảo:  TỐT LÀNH THÔI CHƯA ĐỦ
Tôi thích làm ông chủ, và Ngài nói:  PHỤC VỤ
Tôi thích ra lệnh cho người khác, nhưng Ngài nói:  HÃY HỌC VÂNG LỜI
Tôi kiếm tìm tri thức, và Ngài nói:  HÃY TIN
Tôi thích sự rõ ràng, nhưng Ngài lại nói bằng:  DỤ NGÔN
Tôi thích thi ca, Ngài lại nói CHUYỆN THỰC TẾ
Tôi yêu sự yên tĩnh của mình, còn Ngài lại muốn TÔI BỊ QUẤY RẦY
Tôi thích bạo lực, và Ngài bảo: BÌNH AN Ở CÙNG CHÚNG CON
Tôi rút gươm ra, nhưng Ngài bảo:  NÉM ĐI
Tôi nghĩ đến trả thù, nhưng Ngài bảo:  ĐƯA MÁ BÊN KIA
Tôi nói về trật tự, và Ngài bảo:  TA ĐẾN ĐEM GƯƠM GIÁO
Tôi căm ghét, nhưng Ngài bảo:  HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Tôi muốn gieo hoà hợp, và Ngài nói:  TA ĐEM LỬA XUỐNG THẾ GIAN
Tôi thích làm người lớn nhất, nhưng Ngài bảo:  HÃY HỌC LÀM TRẺ NHỎ
Tôi muốn ẩn thân, và Ngài nói:  ÁNH SÁNG PHẢI CHIẾU SOI
Tôi kiếm tìm chỗ nhất, nhưng Ngài bảo:  XUỐNG CHỖ CUỐI CÙNG
Tôi thích được quan tâm, và Ngài nói:  ĐÓNG CỬA LẠI MÀ CẦU NGUYỆN

Không, tôi không hiểu Ông Giêsu này. Ngài khiêu khích tôi làm tôi bối rối.

Cũng giống như nhiều môn đệ khác, tôi muốn đi theo một ÔNG THẦY KHÁC, chắc chắn hơn và ít đòi hỏi hơn.

Nhưng tôi cảm nhận như Phêrô:  "Tôi không biết ai khác có LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI."

Sưu tầm

1762    03-09-2012 20:40:33