Sidebar

Thứ Ba
23.04.2024

Gia Đình Sống Và Cử Hành Bí Tích Của Lòng Thương Xót - tháng 3 năm 2014

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
  3. Diễn Giải
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Tìm Hiểu Giáo Luật
  7. Trang Linh Mục
  8. Trang Tu Sĩ
  9. Trang Linh Mục
  10. Trang Thiếu Nhi
  11. Trang Giới Trẻ
  12. Trang Gia Đình
  13. Trang Giáo Lý Viên
  14. Trang Quới Chức
  15. Sống Đẹp
  16. Hỏi Đáp Mục Vụ
  17. Chuyện Thường Ngày
  18. Một Chút Tâm Tình
  19. Chia Sẻ Mục Vụ Bác Ái
  20. Tìm Hiểu Về Đức Tin

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long,  ngày 15.02.2014

Kính gửi: Quý Cha,
                Quý Tu Sĩ nam nữ,
                Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Gia Đình Sống Và Cử Hành Bí Tích Của Lòng Thương Xót

Thiên Chúa của chúng ta giàu lòng thương xót. Trong Thánh Lễ, chúng ta sáu lần xin Chúa (và Chúa Kitô) thương xót chúng ta. Trước khi chúng ta hiệp lễ, chúng ta khiêm tốn xin Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa thương xót chúng ta, ban Mình Máu Thánh chúa cho mỗi người chúng ta, ban bình an cho chúng ta.

Chúng ta cùng cử hành lòng thương xót Chúa khi chúng ta tham dự  Bí Tích Hoà Giải, Chúa hoà giải ta với Chúa, hoà giải chúng ta với nhau. Như vậy, khi cử hành Bí Tích lòng thương xót Chúa khi tham dự Thánh Lễ và Bí Tích Hoà Giải chúng ta cần ý thức để đón nhận ơn Chúa và sống tinh thần hoà giải với Chúa (biết cám ơn Chúa và cám ơn nhiều lần) biết sống hoà giải với anh  em trong Thánh Lễ (chúc bình an, chào hỏi nhau) và trong cuộc sống hằng ngày cầu nguyện cho nhau và giúp đỡ nhau.

Tương tự như vậy, gia đình sống Bí Tích của lòng thương xót:

- Đón nhận và cảm tạ lòng Chúa thương xót.

- Sống lòng Chúa thương xót khi đối xử với những người trong gia đình mình, với anh chị em.

Chúng ta có thể nhớ đến dụ ngôn của Chúa, được ông chủ tha cho món nợ rất lớn mà không biết tha món nợ nhỏ xíu cho người anh em mình thì sẽ bị ông chủ trừng phạt. Tích cực hơn, ta sẽ đối xử tốt, cầu nguyện giúp đỡ cho người anh chị em chúng ta, vì Chúa đã luôn thương xót, đối xử tốt với ta.

Phêrô Dương Văn Thạnh
             Giám Quản Gp. Vĩnh Long

GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

CHỦ ĐỀ: GIA ĐÌNH SỐNG VÀ CỬ HÀNH BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

"Những ai đến lãnh nhận bí tích Thống Hối đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa với Hội Thánh đã bị tội lỗi của họ làm tổn thương. Nhưng Hội Thánh hằng nỗ lực lấy đức mến, gương lành và kinh nguyện, để hoán cải họ" (x. LG 11). (GLCG,1422)

Bí tích này được gọi là bí tích Thú Tội : Việc thú nhận xưng tội với linh mục là một yếu tố thiết yếu của bí tích này. Theo một nghĩa sâu xa hơn, bí tích này cũng là một việc "tuyên xưng", tức là nhìn nhận và ca ngợi Thiên Chúa thánh thiện và giàu lòng thương xót đối với tội nhân. (GLCG, 1424)

Đức Giê-su mời gọi chúng ta hoán cải. Lời mời gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Trời : "Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc1,15). Khi rao giảng, Hội Thánh chuyển lời mời gọi ấy, trước hết, đến những người chưa biết Ðức Ki-tô và Tin Mừng. Vì thế, việc hoán cải đầu tiên và cơ bản là bí tích Thánh Tẩy. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Thánh Tẩy (x. Cv 2,38), chúng ta từ bỏ sự dữ và được ơn cứu độ, nghĩa là được tha thứ mọi tội lỗi và lãnh nhận hồng ân sự sống mới. (GLCG1427)

Lời kêu gọi hoán cải của Đức Ki-tô vẫn tiếp tục vang lên trong đời sống người tín hữu. Cuộc hoán cải thứ nhì này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh; vì "mang trong lòng mình những tội nhân" và "vừa thánh thiện vừa được kêu gọi thanh luyện, Hội Thánh nỗ lực không ngừng để thống hối và canh tân" (x. LG 8). Ra sức hoán cải không chỉ là công việc phàm nhân. Do ân sủng lôi kéo và thúc đẩy (x. Ga 6,44; 12,32), chúng ta sám hối với "tấm lòng tan nát" (Tv 50,19), để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4,10). (GLCG, 1428 )

DIỄN GIẢI

"Các bạn thân mến, cử hành Bí Tích Hòa Giải có nghĩa là  các bạn được ôm ấp trong một vòng tay ấm áp: vòng tay của lòng thương xót vô cùng của Chúa Cha."  (Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Giáo lý ngày 19.02.2014). Cũng giống như người con hoang đàng trong Kinh Thánh, khi trở về nhà với lòng chất đầy tội lỗi và hổ thẹn, trước khi kịp lên tiếng xin cha tha thứ thì người cha đã ôm chầm lấy anh, hôn anh và cho dọn tiệc ăn mừng: "Mỗi khi chúng ta xưng tội, Thiên Chúa cũng ôm chúng ta, Thiên Chúa cũng ăn mừng! Chúng ta hãy tiến bước trên con đường này" (nt). Bí tích Hòa Giải hay Giải tội là Bí tích Tình Thương Xót của Thiên Chúa (GLCG 1424). Bí tích này còn được gọi là bí tích Xưng Tội.  Ngoài việc xưng tội với linh mục là một yếu tố thiết yếu của bí tích này, thì còn có ý nghĩa sâu xa hơn:  đó là việc "tuyên xưng", tức là nhìn nhận và ca ngợi Thiên Chúa thánh thiện và giàu lòng thương xót đối với tội nhân (GLCG1424).

Người tìn hữu cần đến Bí tích Giải tội vì  mặc chúng ta đã được tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô nhờ các Bí Tích khai tâm Kitô giáo (Thanh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể), nhưng vì yếu đuối, tội lỗi, chúng ta có thể đánh mất đi sự sống ấy. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã muốn Giáo Hội tiếp tục thực thi công cuộc cứu rỗi qua việc tha thứ tội lỗi cho con người. Cùng với Bí tích Xức Dầu, Bí tích Hoà Giải là Bí tích chữa lành.  Chính Đức Giêsu là Đấng chữa lành cả thân xác và linh hồn chúng ta (GLCG 1420, 1421).

Hơn nữa, đời sống mới mà chúng ta nhận được trong các bí tích khai tâm không tiêu hủy sự mỏng dòn và yếu đuối của bản tính nhân loại, cũng như sự hướng chiều theo tội lỗi, vì Thiên Chúa muốn để cho người tín hữu có cơ hội chiến đấu để đạt tới sự thánh thiện và sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa hằng mới gọi  (GLCG1426).

Lời mời gọi hoán cải của Đức Ki-tô:  "Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc1,15) vẫn tiếp tục vang lên trong đời sống người tín hữu thôi thúc họ trở lại với Chúa qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Cần ý thức rằng phải nhờ ơn Chúa giúp chúng ta mới có thể sám hối với "tấm lòng tan nát" (Tv 50,19), để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4,10) (GLCG 1427,1428). Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hoán cải: trong Hội Thánh, "có nước và nước mắt, nước trong bí tích Thánh Tẩy và nước mắt trong bí tích Thống Hối" (GLCG 1429).

Thật lòng sám hối chính là:  nhìn nhận mình có tội - đoạn tuyệt  với tội lỗi - và quyết tâm thay đổi đời sống, với hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào sự trợ giúp của ân sủngcủa Người (GLCG 1431) để tâm hồn được đổi mới (Ed 36,26-27). Việc sám hối được thể hiện bằng: ăn chay - cầu nguyện - và bố thí ( x.Tb 12,8; Mt 6,1-18)  đồng thời với việc giao hòa với tha nhân. Vác thánh giá mỗi ngày và bước theo Chúa Giê-su là con đường thống hối chắc chắn nhất (x. Lc 9,23). Sám hối cũng là điều kiện thiết yếu để được Chúa tha tội.

Với gia đình,  nền tảng sự hiệp thông chính là tình yêu: Yêu như Chúa yêu. Nhưng thực tế cuộc sống gia đình đâu phải lúc nào cũng trong ấm ngoài êm, biết "chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau" (x. Cl  3,13), nên các thành viên trong gia đình cần biết múc nguồn từ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa qua việc năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, để giao hoà với Chúa và với nhau.

Vì thế,  sự hối hận và tha thứ thường xuyên cho nhau trong đời sống hằng ngày của gia đình Kitô hữu mới,  dẫn đến bí tích thống hối Kitô giáo. Đức giáo hoàng Phaolô VI nhắn nhủ các gia đình: "Nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng trên họ, ước gì họ đừng nản lòng, nhưng hãy kiên nhẫn và khiêm tốn chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa, vốn vẫn luôn tuôn đổ dạt dào trong bí tích Thống hối" (Phaolô VI, Tđ. Sự Sống Con Người, số 25).

Việc cử hành bí tích này có được một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống gia đình: qua đức tin và mọi thành phần trong gia đình khám phá được rằng, tội lỗi chống lại giao ước với Thiên Chúa cũng như giao ước giữa đôi bạn và sự hiệp thông gia đình; giờ đây họ được đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa "giàu lòng nhân từ"  là Đấng tái lập và hoàn thiện giao ước hôn nhân và sự hiệp thông trong gia đình khi Ngài ban cho ta tình yêu của Ngài, một tình yêu mạnh hơn tội lỗi  (Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Đời Sống Gia đình, số 58) .

Cựu ước cho thấy Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân Israel và ban cho họ Mười điều răn để hướng dẫn họ sống trung thành với giao ước. Thiên Chúa thì luôn trung thành với giao ước. Dù dân Israel lại bất trung, bội phản, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung tín, xót thương và tha thứ. "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" (Gr 31,3).

Ơn bí tích Hôn phối giúp đôi vợ chồng nên thánh trong việc sống lời thề hứa sẽ yêu thương và chung thủy với nhau suốt đời. Khi nỗ lực sống yêu thương và trung thành với nhau, cả hai  phản ánh tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, cũng như tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Đó là một tình yêu son sắt không đổi thay.  Những bất hoà gây nên đổ vỡ qua việc không chung thủy trong đời sống vợ chồng không chỉ gây tổn hại đến cuộc sống vợ chồng mà còn xúc phạm đến Chúa nữa. Mau mắn đến với lòng thương xót Chúa qua việc  lãnh nhận Bí tích Hòa giải là phương  thuốc giúp đôi vợ chồng tìm lại tình yêu và niềm vui thanh thản.

Đời sống hôn nhân và gia đình có rất nhiều thập giá: những khuyết điểm và tính xấu của nhau, những va chạm và xung khắc, những thất bại và rủi ro, những khi gặp tai ương và bệnh hoạn, cảnh hiếm muộn cũng như việc chấp nhận từ bỏ ý riêng để sống theo giáo huấn Hội Thánh về việc sinh sản có trách nhiệm v.v.... Đó là những thập giá cần được đón nhận với tình yêu  (Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Đời Sống Gia đình, số 34) .

Đôi bạn cần biết hướng nhìn lên Thập giá Chúa Giêsu để biết hy sinh cho nhau và đến với Bí tích Hòa giải để cảm nhận được tình thương tha thứ của Chúa mà biết thứ tha đón nhận nhau.

Việc tham dự vào bí tích giao hoà và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Ki-tô sẽ đem lại cho gia đình Ki-tô hữu ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi chia rẽ và bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là "xin cho tất cả được nên một" (Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Đời Sống Gia đình, số 21) .

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Trong cuộc sống chung giữa con người với nhau, không khỏi có những va chạm, xích mích, xúc phạm tới nhau; Chúa Giêsu đã dạy chúng ta hãy tha thứ cho nhau, Chúa ban cho chúng ta một bí tích hòa giải. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyệný:

  1. Chúa phán: "Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, sự gì con tháo cởi dưới đất, thì trên trời cũng tháo cởi". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình trong Hội Thánh, năng tìm đến với Bí tích Hòa Giải để được ơn tha thứ.
  2. Chúa Giêsu dạy: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình Công Giáo biết tự nhận những lầm lỗi của mình, và cũng biết quảng đại tha thứ cho nhau.
  3. Chúa phán: "Hãy tha thứ mãi, cho đến bảy mươi lần bảy". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình đang trong tình trạng ly thân, từng phần tử sớm nhận ra những sai trái của mình, tìm dịp thuận lợi để làm hoà, và tha thứ cho nhau.
  4. Chúa phán: "Hãy để của lễ lại, đi làm hoà với người anh em trước đã, rồi đến dâng của lễ". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình trong họ đạo chúng ta, luôn hoà thuận thương yêu nhau, và biết làm hoà lại, khi có chuyện bất bình với nhau.

Kết thúc: Lạy Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, xin cho chúng con biết tín thác vào lòng thương xót Chúa, biết nhìn nhận mình yếu hèn, biết quảng đại tha thứ, cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình, cho ngày sau đặng lên thiên đàng. Chúng con cầu xin ... Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

GIA ĐÌNH KHÍCH LỆ NHAU LÃNH NHẬN CÁC BÍ TÍCH

Chúa Kitô đã để lại cho Hội Thánh bảy bí tích, là những dấu chỉ hữu hình, để thánh hoá con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và thờ phượng Thiên Chúa; đây cũng là những trách nhiệm của mỗi gia đình Kitô hữu như một Hội thánh tại gia.  

Bảy Bí tích liên quan đến các giai đoạn quan trọng của đời sống Kitô hữu: bí tích Thánh tẩy sinh ra ta trong đời sống đức tin; bí tích Thánh Thể, Thêm sức nuôi sống và làm cho ta lớn lên trong đời sống tin cậy mến; bí tích Hòa giải và Xức dầu bệnh nhân chữa lành ta khỏi những tội lỗi, yếu đau; bí tích Truyền chức, Hôn phối mời gọi ta lãnh nhận sứ mạng xây dựng cộng đoàn Hội thánh.           

Cách riêng, bí tích Hôn phối tăng cường và cụ thể hoá sự hiệp thông mà bí tích Thánh tẩy đã đem lại. Nhờ bí tích Hôn phối, đôi bạn được thông phần giao ước tình yêu của Đức Kitô và Hội Thánh, như lời Thánh Phaolô: "Bởi thế, người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh" (Ep 5, 31-32). Như vậy, lòng trung thành và tình yêu, mà đôi bạn trao cho nhau trong giao ước hôn nhân, cũng chính là lòng trung thành trong đức tin và đức mến, mà mỗi người đã tuyên hứa khi chịu Thánh tẩy...        

Nói chung, nhờ lãnh nhận các bí tích, đời sống Kitô hữu, cá nhân cũng như gia đình, được nuôi dưỡng và mỗi ngày một tăng trưởng hơn, giúp gia đình có sức chu toàn trách nhiệm căn bản đối với nhau, là cùng nhau xây dựng gia đình thành cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống, hăng say loan báo Tin Mừng.

Thư Mục vụ Năm Đức Tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhấn mạnh rằng: "Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi truyền thống đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin, và gương mẫu trong đời sống đạo đức" (số 9).

Như vậy, chắc chắn gia đình của các bậc cha ông chúng ta đã  luôn biết nhắc nhủ, làm gương và cùng nhau đến với các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa giải.     

Nhắc nhủ nhau luôn là trách nhiệm rất cần thiết:      

Thánh Phaolô dạy: "Ước gì Lời Đức Kitô cư ngụ giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan" (Cl 3, 16).        

Nhìn vào Thánh Gia Nazareth, chúng ta thấy hình ảnh Thánh Giuse xuất hiện với vai trò một gia trưởng mẫu mực tuyệt vời: Thánh Giuse được gọi và đáng gọi là cha Chúa Giêsu (Lc 2, 48).

Thánh Ambrôsiô đã nói về hai sự trở lại trong Hội Thánh như sau: "Có nước và những giọt nước mắt: nước của Bí tích Rửa tội và những giọt nước mắt của sám hối". Nhờ Bí tích Rửa tội, con người nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô, nhưng bản tính con người vốn mong manh yếu đuối dễ nghiêng chiều về điều xấu và tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô như người mẹ biết tiên liệu, Ngài không chỉ nghĩ đến việc cung cấp lương thực cho chúng ta trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà thôi, Ngài còn đặt để một thứ linh dược nữa. Ngài biết chúng ta cần thứ thuốc đó. Chúa Giêsu đã cống hiến nó cho nhân loại với tất cả lòng quảng đại vô lường. Linh dược đó chính là Bí tích Hoà giải.

Chân phước Gioan Phaolô II đã đề cao tầm quan trọng của Bí tích này, Ngài nói: "Theo ơn gọi mà con người nhận từ Thiên Chúa, tìm sự thánh thiện sẽ là ảo tưởng nếu không thường xuyên lãnh nhận Bí tích Hoà giải. Những người thường xuyên xưng tội với ước muốn tiến bộ sẽ thấy những bước dài trong đời sống tâm linh".

Thánh Gioan Bosco, bổn mạng giới thanh thiếu niên, cảnh giác cách riêng các bậc phụ huynh: "Ai xấu hổ, ngại ngùng khi phải khuyên người khác sống đạo đức, thì không xứng đáng là nhà giáo dục". Và Ngài nhắc nhở: "Thời gian chúng ta dùng để hướng dẫn thanh thiếu niên cầu nguyện, là thời gian được sử dụng tốt nhất. Tốt  hơn thời gian ta dạy dỗ hoặc cho các em giải trí...Năng xưng tội, dự lễ, rước lễ, lần chuỗi mân côi, là những cột trụ nâng đỡ tòa nhà giáo dục thanh thiếu niên".         
Thánh Công Đồng Vatican II cũng xác nhận: "Do đó, được cha mẹ hướng dẫn bằng gương sángkinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn..." (MV 48). Con đường nên thánh trong cuộc sống gia đình, cũng là con đường hoán cải, hiệp thông, đòi hỏi chúng ta nhắc nhở, hối thúc, sắp xếp cho nhau để lnh nhận các bí tích, nhất là Hòa giải và Thánh Thể.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

THỜI GIAN THÁNH (tt)
 (Đ. 1244 - 1253)

II. Các ngày lễ

1.  Tham dự thánh lễ

2.  Nghỉ lao động - kiêng việc xác

a. Lịch sử

Trong các thế kỷ đầu của Kitô giáo, các tín hữu không biết đến việc nghỉ ngơi ngày Chúa nhật. Họ phải đi làm như bao nhiêu người khác, họ chỉ tranh thủ thời giờ rảnh để đi tham dự thánh lễ, mà thánh lễ thì thường được cử hành vào buổi sáng tinh sương.

Việc tuyên bố nghỉ lao động vào ngày Chúa nhật là do hoàng đế Công-tăng-ti-nô ban hành sau khi ông trở lại đạo Kitô giáo. Hoàng đế muốn dành cho ngày Chúa nhật được hưởng những điều kiện đã có đối với các ngày lễ ngoại giáo, tức là các công sở đóng cửa, các nô lệ được miễn công tác tạp dịch.

Giáo hội đón nhận đặc ân ấy, và cố gắng trình bày ý nghĩa thiêng liêng của việc nghỉ lao động. Ý nghĩa đó là: nhằm dành thời giờ thư nhàn để lo việc phụng tự; nghỉ lao động là hình ảnh của việc giải phóng khỏi lao nhọc, khỏi nô lệ tội lỗi.

b. Kiêng việc xác như thế nào?

Trong Cựu Ước, ngày sa bát, người ta bị cấm không được làm bất cứ công việc nào (x. Xh 20,10; Lv 23,3; Đnl 5,14); còn trong những ngày lễ quan trọng khác (Lễ Vượt Qua, Lễ Bánh Không Men), chỉ cấm không được làm một công việc nặng nhọc (Lv 23, 7-8), là những công việc tay chân thuộc nghề nghiệp hằng ngày.

Còn trong Giáo Hội Công giáo, Điều 1247 của Bộ Giáo luật đã quy định vào các ngày Chúa nhật và các lễ buộc khác, tín hữu "còn phải kiêng làm việc xác và những công việc gây trở ngại cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc cho việc nghỉ ngơi cần thiết của tinh thần và thể xác".

Quy định này cũng được lặp lại trong Sách "Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo", số 2185, với việc bổ túc thêm một chi tiết là việc bác ái: "Ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tín hữu tránh lao động và các sinh hoạt ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, việc hưởng niềm vui trong ngày của Chúa, việc bác ái và tịnh dưỡng thể xác cũng như tinh thần".

Trước kia, người ta thường để ý đến bản chất của công việc chứ không quan tâm đến ý hướng hoặc mục đích theo đuổi. Vì thế, không lạ gì khi người ta phân biệt công việc thành ba loại trong khi kiêng việc xác:

- Cấm các việc lao động thể xác.

- Được phép làm những việc lao động trí thức (dạy học, viết văn...).

- Cũng được phép làm những công việc chung cho mọi hạng người (thể dục thể thao...).

Cách phân chia như thế xem ra không ổn. Thí dụ:

- Ngày Chúa nhật không ai có thể làm một việc tay chân để giúp đỡ kẻ khác, trong khi một giáo viên vốn đã khá giả có thể dạy học để được thêm giàu có.

- Một Kitô hữu tham dự thánh lễ xong, dành cả thời giờ còn lại của ngày Chúa nhật cho thể thao và cứ đều đều như thế, thì thử hỏi có phải là thánh hoá ngày Chúa nhật không?

Cho nên ở đây, Giáo Hội không còn phân định việc lao động tay chân hay lao động trí óc, nhưng nói rằng các tín hữu phải ngừng nghỉ tất cả các công việc làm ăn hàng ngày và các hoạt động (thể thao, giải trí, nghệ thuật...) để dành thì giờ và tâm trí cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho bầu khí vui tươi của ngày lễ, cho việc sống hiệp thông huynh đệ và cho việc thư giãn thể xác cũng như tâm hồn.

Tiêu chuẩn quyết định không còn do bản chất của công việc nhưng do mục đích của sự nghỉ ngơi ngày Chúa nhật.

Giáo Hội còn nhắc nhở các tín hữu như sau: "Theo truyền thống đạo đức công giáo, ngày Chúa nhật phải là ngày dành riêng để làm việc lành và khiêm tốn phục vụ cho bệnh nhân, kẻ tàn tật và già lão. Người tín hữu cũng phải thánh hiến ngày Chúa nhật bằng cách dành thời giờ để chú tâm đến gia đình và thân hữu, những người mà thường nhật họ khó chú tâm tới. Ngày Chúa nhật cũng là thời gian suy tư, tĩnh lặng, rèn luyện và suy niệm cần thiết để đời sống nội tâm của tín hữu được phát triển" (GLHTCG, số 2186).

c. Trường hợp miễn chuẩn 

Cũng như luật giữ ngày Chúa Nhật, luật kiêng việc xác cũng không nhất thiết áp dụng khắt khe trong mọi trường hợp.

Sách "Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo", số 2185, quy định: "Luật giữ ngày Chúa nhật có thể được miễn chuẩn, khi có trách nhiệm gia đình hay nghĩa vụ xã hội quan trọng".

Nếu vì lý do kinh tế, phải đi làm những ngày đó mới đủ sống cho bản thân và gia đình, hoặc nếu phải đi làm theo nhu cầu của lợi ích chung như bác sĩ, y tá làm việc ở các bệnh viện, nhân viên trực điện, nước, giao thông... thì đó là lý do chính đáng để được miễn trừ theo lương tâm và theo giáo lý của Giáo Hội.

Các Đức Giám Mục giáo phận và các Cha sở được quyền miễn chuẫn cho giáo dân của mình khỏi giữ luật kiêng việc xác, cũng như đối với luật dự lễ vậy (x. Điều 1245).

Tuy nhiên Giáo Hội cũng lưu ý chúng ta rằng: "Những tín hữu cũng phải coi chừng, đừng để những miễn chuẩn này dẫn đến thói quen thờ ơ với việc thờ phượng, với cuộc sống gia đình hay sức khoẻ của mình" (GLHTCG, số 2185).

d. Tóm lại

Việc nghỉ lao động nhằm diễn tả những chân lý sau đây: một đàng, nghỉ lao động giúp các tín hữu có thời gian rảnh rang lo việc phụng tự, đọc kinh, dự lễ, học hỏi giáo lý; đàng khác, thực hiện việc bác ái như thăm viếng, chăm sóc bệnh nhân, người neo đơn...và sau cùng, nghỉ lao động giúp các tín hữu ý thức thân phận tự do của con người, nghĩa là, lao động nhằm phụng sự con người, chứ không phải con người phụng sự lao động. Con người là cứu cánh chứ không phải là công cụ của sản xuất...

TRANG LINH MỤC

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LINH MỤC

Mỗi Linh Mục là một nhân vị với những cá tính khác nhau, nhưng các ngài phải sống tinh thần Đức Ki-tô vị Linh Mục thượng tế để mỗi ngày càng hoàn thiện hơn.

01. Những gì tôi sống trong tư cách là một Linh Mục thì quan trọng hơn những gì tôi làm.

02. Những gì Chúa Kitô làm qua trung gian của tôi thì quan trọng hơn những gì do chính tôi làm.

03. Những gì tôi với anh em Linh Mục cùng sống thì quan trọng hơn những gì tôi làm một mình, dù hăng say tới mức suýt bị mất mạng.

04. Những gì tôi sống cho Kinh nguyện và Lời Chúa thì quan trọng hơn những tổ chức sinh hoạt bên ngoài.

05. Những gì tôi sống vì lợi ích thiêng liêng của người cộng tác thì quan trọng hơn những công việc tôi làm cho lợi ích của mình.

06. Hiện diện ít nơi nhưng thiết yếu để đem lại sức sống thì quan trọng hơn có mặt khắp nơi nhưng vội vàng và nửa vời.

07. Hoạt động cùng với người cộng tác thì quan trọng hơn là làm một mình, cho dù mình có nhiều khả năng hơn họ. Nói cách khác, hợp tác thì quan trọng hơn hành động riêng rẽ.

08. Hy sinh thập giá âm thầm bên trong thì quan trọng hơn những thành quả đạt được bên ngoài.

09. Mở rộng tâm hồn đến những thao thức của cộng đoàn, Giáo phận và Giáo hội toàn cầu thì quan trọng hơn chăm chú vào những bận tâm riêng, cho dù thiết yếu đến đâu đi nữa.

10. Làm chứng về Đức Tin trước mặt mọi người thì quan trọng hơn tìm cách thỏa mãn thị hiếu của họ.

(ĐHY. FX. Nguyễn Văn Thuận)

TRANG TU SĨ

BÀI HỌC THA THỨ

Từ cái ngày cha theo chú út đi làm ở đầu xóm dưới, chỗ người ta hay mướn công vận hàng hóa từ quê lên tỉnh, đó cũng là chỗ mấy ông bợm nhậu thường lui tới, lâu ngày cha nó cũng bị dính theo, cộng theo công việc làm ăn không được suông sẻ, nên mỗi chiều về tới nhà là cha say khướt, chân nọ đá chân kia vì quá chén. Mẹ nó thì cả ngày từ hai giờ sáng đã lo gánh hàng ra chợ bán mãi đến tối mịt mới về đến nhà. thấy cha say xỉn đâm ra bực dọc rầy rà, và thế là "chiến tranh lại đến". Nó buồn trong lòng và cảm thấy bất mãn vì mẹ cha cứ liên tục cãi nhau, lần đó vì không thể dằn lòng nó hét lên: "Thôi đi! Sao cha mẹ cứ cãi nhau hoài vậy, con mệt quá đi!" và lần đó vừa dứt câu là nó được đốp ngay một cái bạt tai đau điếng, lần đầu tiên cha đánh nó, mẹ nó sững sờ nhìn cha rồi lẳng lặng đi ra sau nhà khóc, nó cũng khóc...phải rồi, chưa bao giờ cha mẹ đánh nó, nhất là khi chị nó còn ở nhà, nếu như chị có ở nhà thì cha sẽ không đi làm, sẽ không say xỉn và cũng không cãi nhau với mẹ, nhưng chị giờ này đang ở xa đâu có về với nó được, nó nhớ chị và thở dài, khẽ nói trỏng:

- Chị mà biết chuyện thì sẽ buồn rồi sinh bệnh mà bỏ tu là không phải con nói đâu nghe!

Dường như câu nói của nó hôm đó có tác dụng, cả mẹ và cha đang to tiếng bỗng nín bặt, nó chạm phải đôi mắt đục ngàu của cha đang nhìn nó, nó rùng mình quay đi chỗ khác, cha nó cũng lặng lẻ bỏ ra ngồi ngoài võng trước hiên, đong đưa kọt kẹt vài cái rồi ngủ luôn ở đó. Mẹ cũng đi ra sau nhà ngồi tính đếm gì đó mà nó biết thừa là nước mắt bà đang thi nhau rơi.

Nó tiếp tục ngồi ở đó, vẫn thu chân lên ghế và nhìn đăm đăm vào màn tối đang dần buông rủ. Nó nhớ đến lời của Dì Ba lúc chiều: "Con là người cần quảng đại hơn hết, hãy thông cảm cho cha mẹ con, giờ có lẽ con chưa hiểu được tại sao cha mẹ con lại thế nhưng nột ngày nào đó khi con lớn lên, có gia đình rồi con sẽ hiểu, trong gia đình điều cần thiết là biết tha thứ con à...". Nước mắt nó lăn dài trên má, nó đứng dậy bước tới chỗ cha đang ngủ, nó lấy cái mền đặt lên người ông, rồi nhìn ông một hồi lâu nhớ lại những kỷ niệm đẹp ngày trước cả nhà cười vui bên nhau, vì trước đây cha đâu có say xỉn như thế này, cha rất hiền và thương chị em nó, khi chị nó xin đi tu cha buồn nhưng vẫn cho chị nó đi, vậy mà bây giờ ông lại bê tha như thế này...Nó đi ra phía sau, ngồi xuống bên mẹ, bà ngước lên nhìn nó rồi khẽ nói:

- Lấy cơm ăn rồi đi học bài đi con!

Nó không nói gì, lời Dì Ba lại vang lên trong đầu nó: " Mẹ là người chịu đựng nhiều lắm, con nên an ủi mẹ!". Nó nói với mẹ:

- Mẹ à! Hay là con nghỉ học để phụ việc với mẹ nghen!

Mẹ nhìn nó:

- Con nghĩ gì mà nói vậy? cha con mà nghe là lại cho con ăn đòn đó.

- Con chỉ hỏi vậy thôi, tại con thấy mẹ cực quá mà cha lại hay say xỉn.

Mẹ lại nhìn nó, bà khẽ nói với nó:

- Con thấy cha mẹ cãi nhau nên con buồn phải không? Cha Mẹ thật có lỗi đã để con nhìn thấy cảnh này! Cha mẹ cưới nhau trong nghèo khổ, biết bao nhiêu cơ cực, tủi nhục, đói khổ ... mẹ đã chấp nhận được hết vì cha con là người thật thà thương vợ con và biết lo làm ăn, nhưng mẹ lại không thể chấp nhận khi thấy cha con ngày nào cũng  rượu chè say sưa, vì thế mẹ mới không thể dằn lòng.

- Nhưng đến bao giờ cha mẹ mới không còn cãi nhau nữa, hả mẹ?

- Con chưa hiểu hết đâu, thật sự gia đình nào cũng có những cái khó, và điều quan trọng là chúng ta có dám đối mặt với những khó khăn đó bằng niềm tin và sự quảng đại tha thứ. Chúng ta là gia đình công giáo, mẹ và cha con cũng đang cố gắng chấp nhận để tha thứ cho nhau, rồi mọi việc sẽ ổn thôi con ạ! Mẹ hay về trễ là vì ngày nào mẹ cũng ghé đài Đức Mẹ để lần chuỗi cầu nguyện cho gia đình mình được bình an hạnh phúc, nhất là cầu nguyện cho chị con được tu bền đổ trong nhà dòng. Ah, con đừng nói gì cho chị con biết chuyện không vui ở nhà nghen, để chị con an tâm sống tu cho tốt.

- Con nhớ chị quá mẹ ạ...

Mẹ và nó vẫn ngồi đó như đếm từng hạt mưa ngoài trời đang lất phất pha lẫn nước mắt làm đẫm ướt khuôn mặt hao gầy của mẹ. Cha đã đứng sau cánh cửa từ lúc nào mà mẹ và nó không hay biết, ông đã nghe thấy tất cả, cơn say như biến tan đâu mất, chỉ còn lại lòng nghẹn ngào hối hận, ông bước vội lên nhà trên thắp một ngọn đèn đặt giữa nhà làm bừng lên sáng ấm áp của một gia đình, mặc cho ngoài trời mưa vẫn cứ rơi...

Tình yêu và sự bao dung bắt nguồn từ Thiên Chúa sẽ hóa giải được mọi khúc mắc trong đời sống. Và Thiên Chúa chỉ vui nhận những lời cầu nguyện trong an hòa, vì đối với Ngài, lễ dâng đẹp nhất là chúng ta sống an bình, hòa thuận, và hiệp nhất  với nhau trong Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

MTG Cái Nhum

CỐ CHẤP LÀM GÌ ?

Hòa chào đời trong một gia đình đạo gốc. Tuy mẹ mất sớm, cha phải tảo tần mưu sinh, chị em Hòa được Ông Bà ngoại chăm sóc, dưỡng nuôi. Ông Bà là thành phần ngoan đạo, biết giáo dục con cháu sống đức tin và là tấm gương yêu thương cho con cháu. Ngay lúc tuổi thơ, Hòa đã được Ông Bà dạy mến Chúa yêu người và sống trên thuận dưới hòa, chị em nhường nhịn và biết tha thứ cho nhau. Tuổi khôn thì Hòa hấp thụ được lòng thương người của bà ngoại. Bà dạy cháu bớt ăn quà để tiền giúp người tàn tật; biết quan tâm đến người nghèo khổ, bất hạnh.. Ông thường nhắc nhở cháu: "Một câu nhịn, chín câu lành"  Ở đời mà hơn thua nhau thì sinh sự không hay..

Một hôm, Hòa chứng kiến cảnh đau lòng của Bà ngoại bị người hàng xóm mắng chửi. Cũng vì một chỉ vàng, chị Hai (người hàng xóm) mượn của Bà ngoại khá lâu mà không hoàn trả. Khi lâm bệnh, Bà hỏi lại chỉ vàng để uống thuốc thì bị chị buông lời nặng nhẹ. Lối xóm cũng như thân hữu chị đều nghe những lời của chị bêu xấu Bà ngoại. Có lần chị mắng Bà, nhiều người thấy chị hổn láo thật bức xúc, thì khuyên Bà đem chuyện ra thưa với Chính quyền,.

Thấy Bà bị đối xử thậm tệ nên Hòa rất hận chị Hai. Hòa định qua nhà mắng chị để rửa nhục cho Bà. Biết tính khí nóng nảy của Hòa, Bà khuyên dạy cháu phải biết nhịn nhục, tha thứ, đừng cố chấp làm gì, để tình làng nghĩa xóm an vui. Nghe biết chuyện đau lòng của gia đình Hòa, hai Dì giúp Họ đạo thường đến thăm Bà, an ủi và kể cho Bà nghe những câu chuyện trong Tin Mừng về lòng nhân hậu của Chúa, đồng thời khuyên Bà hãy nhìn vào lòng  quảng đại của Chúa mà sống thì sẽ được Chúa xót thương.

Từ dạo đó, Bà thường kể lại cho các cháu nghe những câu chuyện về lòng Chúa thương xót và kêu gọi các cháu cùng lần chuỗi thương xót với Bà. Dòng thời gian lặng lẽ trôi qua, tuy không còn chửi mắng nhưng chị Hai không nhìn tới mặt Bà. Tuổi đời của Bà đã gần xế bóng nhưng nụ cười vẫn chưa tròn môi, vì nỗi buồn người lối xóm gậm nhấm tâm can của Bà. Bà luôn chờ đợi chị ấy biết lỗi để tha thứ. Chỉ vàng năm nào Bà không còn nhớ nữa, chỉ mong sự hòa thuận giữa xóm giềng. Ai hỏi thăm chuyện đau lòng nầy, thì Bà xin cầu nguyện cho chị ấy. Bà còn quan tâm đến những chuyện không may xảy đến gia đình chị và âm thầm giúp đỡ theo khả năng của mình. Một buổi tối kia, khi hay tin đưa chị Hai vào Bệnh viện cấp cứu vì bệnh sỏi thận. Bà liền gọi các cháu đọc kinh cầu nguyện cho chị ấy được khỏe an. Sau một tháng, chị xuất viện về nhà, Bà và các cháu qua nhà thăm chị. Với đôi mắt ứa lệ, chị nắm chặt tay Bà và nói: "Bà Út,  Bà tha lỗi cho con nha Bà..."

Lòng quảng đại, tha thứ và tấm lòng yêu thương của Bà Út đã hoán cải được sự cứng cỏi, ngang ngược của người láng giềng. Với vai trò làm Bà trong gia đình, Bà Út đã sống Bí tích của lòng thương xót. Bà thực hành và dạy con cháu cũng thực hành lòng xót thương 

Ước gì trong năm Phúc âm hóa gia đình nầy, các thành viên mọi gia đình biết sống Bí tích của lòng thương xót là quảng đại, yêu thương. Nơi gia đình có sự rộng lượng thứ tha, thì gia đình sẽ là tổ ấm chan hòa tình yêu thương. Tình yêu thương nầy sẽ lan tỏa và kiến tạo một xã hội lành mạnh đầy tình người hơn; vì gia đình là phần tử, là tế bào của xã hội.

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

KHÓ VÀ KHỔ

Con người sinh ra trong đau khổ, lớn lên và trưởng thành cũng trong đau khổ. Chẳng vậy mà ngôn ngữ nhà Phật đã thường nói "đời là bể khổ", chính Chúa Giêsu đã khẳng định: "Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy" (Mt 6,34). Lẽ đương nhiên việc học hành cũng không loại trừ cái khổ. Thế nhưng, cái khổ ấy có thực sự là khổ hay không thì tuỳ thuộc hoàn toàn vào thái độ đón nhận nó.

Trong tiến trình đào tạo và tự đào tạo ở Đại Chủng Viện, cách riêng về chiều kích tri thức, ta không thể phủ nhận câu nói của cổ nhân: "Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý". Thế nhưng, tất cả đều có cái giá của nó. Tri thức thì mênh mông mà sức người thì hữu hạn. Theo tôi, một trong những cái hữu hạn lớn nhất và đáng ngại nhất là "sợ khó và ngại khổ".

Thực vậy, ta hãy quan sát cuộc sống thực tế, có biết bao người có thể nói là thành công trên con đường học vấn mà không phải can đảm đương đầu với với gian lao vất vả. Họ phải hy sinh rất nhiều: thời giờ, công sức, tiền bạc ... để rồi thủ đắc cho mình một lượng kiến thức nhất định. Sự hy sinh của họ không trở nên vô ích, trái lại nó còn đem lại cho họ một niềm vui khôn tả mà chỉ họ mới cảm nhận được nó. Chính lúc ấy, khó khăn gian khổ đã biến thành niềm vui.

Ngày nay xã hội phát triển, con người cũng bị ảnh hưởng rất nhiều: thích cuộc sống hưởng thụ, thích tiện nghi, thích những gì mang tính thực dụng ... tất cả những thứ ấy dường như làm giảm đi sức đề kháng của con người. Con người trở nên ngại đương đầu với khó khăn thử thách, chấp nhận những gì hiện có mà không cần phải phấn đấu để rồi bỏ lỡ những cơ hội thăng tiến bản thân. Như thế, nó sẽ làm tăng sức ì nội tại nơi chính mình.

Suy tư về vấn đề này, tôi thiết nghĩ chẳng ai sinh ra trên đời không học mà lại biết tất cả. Hoạ chăng vài trường hợp hy hữu do thiên phú. Thế nhưng, họ cũng phải đầu tư thêm rất nhiều để có thể phát huy cái khả năng thiên phú ấy. Bằng không: "thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất" (Mt 13,12).

Chúng ta thấy dụ ngôn Những Nén Bạc (Mt 25,14-30; Lc 19,12-27) trong Tin Mừng Nhất Lãm. Chúa Giêsu trình bày Thiên Chúa như là Đấng phung phí ân sủng của tình yêu và tin tưởng cách vô cớ nơi con người yếu đuối. Ngài sẵng sàng trao ban vô điều kiện. Tất cả đều xuất phát từ phẩm tính của Ngài là tình yêu. Những nén bạc Chúa trao là khả năng tiềm ẩn sâu thẳm nơi con người. Khả năng ấy chỉ trở thành hiện thực khi con người biết kiên trì và nỗ lực cộng tác.

Thật vậy, Chủng Viện là môi trường hội đủ những điều kiện thiết yếu để chúng ta có thể sinh lợi những nén bạc Chúa trao. Chúa biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chính mình. Ngài không bao giờ đòi buộc những gì vượt sức chúng ta, bởi lẽ "ơn Ta luôn đủ cho con" (2Cr 12,9). Điều duy nhất Chúa muốn nơi tôi là tôi có thực hiện ý muốn của Ngài bằng một con tim trọn vẹn hay không.

"Ngại khó, sợ khổ" là chướng ngại lớn trên hành trình thành nhân nói chung và thủ đắc tri thức nói riêng. Con người chỉ thực sự lớn lên và thành toàn trong khó khăn và gian khổ, vì "trên con đường vinh quang, không có dấu chân của kẻ làm biếng". Hay như lời Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện ĐTC tại Việt Nam trong Thánh lễ khánh thành nhà thờ Đình Khao Ngài đã cầu chúc mỗi người hãy sống theo gương thánh Philipphê Phan Văn Minh với châm ngôn sống "bước qua Thập Giá tiến đến vinh quang". Ước gì chúng ta luôn biết sống hết mình, hết tình và mở lòng ra đón nhận nguồn tri thức bất tận, vì một cách nào đó tri thức sẽ giúp chúng ta định hướng, tiếp cận và thấm nhập chân lý tối thượng là chính Thiên Chúa.

 Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Trí tác tạo và suối nguồn chân lý, xin giúp chúng con vượt thắng sự yếu đuối, biếng lười nơi mình, để từ đó chúng con luôn biết yêu mến và nỗ lực trong việc kiếm tìm chân lý trên hành trình ơn gọi trong tất cả các chiều kích đào tạo của mình.

 TRANG THIẾU NHI

CÁM ƠN MẸ

 - Khi bạn lên một, mẹ chăm sóc bú mớm cho bạn. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách quấy khóc suốt đêm.

- Khi bạn lên hai, mẹ dạy bạn chập chững tập đi. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách chạy thật xa khi mẹ gọi.

- Bạn lên ba, mẹ sửa soạn cho bạn những bữa ăn ngon với tất cả lòng yêu thương. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách hất tung thức ăn xuống sàn.

- Bạn được bốn tuổi, mẹ cho bạn những mẩu bút chì. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách tô vẽ lung tung lên bàn ăn.

- Bạn được năm tuổi, mẹ mặc cho bạn thật đẹp để đi nghỉ. Bạn cảm ơn bằng cách rơi tỏm vào vũng nước bẩn.

- Khi bạn được sáu tuổi, mẹ dẫn bạn đến trường. Bạn cảm ơn mẹ bằng cách gào toáng lên: "Không đi! Không đi!"

- Khi bạn được bảy tuổi, mẹ mua cho bạn một quả bóng. Bạn cảm ơn bằng cách ném nó vào cửa kính nhà bên.

- Khi bạn tám tuổi, mẹ cho bạn một que kem. Bạn cảm ơn bằng cách để kem dây bẩn đầy váy áo.

- Khi bạn chín tuổi, mẹ cho bạn học đàn piano. Bạn cảm ơn bằng cách chẳng khi nào màng đến việc luyện tập.

- Khi bạn tròn mười tuổi, mẹ luôn mang bạn theo cùng, từ sân chơi thể thao đến những bữa tiệc sinh nhật. Bạn cảm ơn bằng cách nhảy ra khỏi xe chẳng thèm ngoái đầu nhìn lại bao giờ.

- Khi bạn mười một tuổi, mẹ dẫn bạn và cả bạn bè đi xem phim. Bạn cảm ơn bằng cách đòi ngồi ở dãy ghế khác.

- Khi bạn mười hai, mẹ khuyến cáo bạn không được xem một vài chương trình truyền hình. Bạn cảm ơn bằng cách chờ cho mẹ đi khỏi là xem cho thỏa thích.

- Khi bạn mười ba, mẹ muốn tự cắt tóc cho bạn. Bạn cảm ơn bằng cách nói rằng mẹ không khéo tay gì cả.

- Khi bạn mười bốn, mẹ cho bạn được đi cắm trại hè cả tháng dài. Bạn cảm ơn bằng cách quên không viết cho mẹ một dòng nào.

- Khi bạn mười lăm, mẹ chỉ mong được ôm con khi từ sở làm trở về. Bạn cảm ơn bằng cách luôn khóa cửa phòng riêng im ỉm.

- Khi bạn mười sáu, mẹ dạy bạn lái xe. Bạn cảm ơn bằng cách giành lấy xe mỗi khi có dịp.

- Khi bạn mười bảy, mẹ đang chờ một cuộc gọi quan trọng. Bạn cảm ơn bằng cách gọi phone cho bạn bè suốt tối.

- Khi bạn mười tám, mẹ sung sướng reo to ở lễ tốt nghiệp trung học của bạn. Bạn cảm ơn bằng cách mải vui chơi với bè bạn đến tận sáng hôm sau mới trở về.

- Khi bạn mười chín, mẹ trả tiền học phí cho bạn, chở bạn đến tận trường đại học, mang vác giỏ xách cho bạn đến tận ký túc xá. Bạn cảm ơn bằng cách chào mẹ tít bên ngoài cổng để khỏi phải xấu hổ trước bạn bè.

- Khi bạn đã hai mươi, mẹ dò hỏi bạn có để ý đến ai chưa. Bạn cảm ơn bằng cách trả lời: "Đó không phải là việc của mẹ".

- Khi bạn hai mươi mốt, mẹ gợi ý một vài nghề nghiệp chuẩn bị cho tương lai. Bạn cảm ơn bằng cách đáp lại rằng: "Con không muốn làm nghề giống mẹ".

- Khi bạn hai mươi hai tuổi, mẹ ôm chặt bạn trong lễ tốt nghiệp đại học. Bạn cảm ơn bằng cách hỏi xem mẹ có thể thưởng bạn một chuyến du lịch châu Âu.

- Khi bạn hai mươi ba, mẹ sắm sanh vật dụng cho căn hộ riêng của bạn. Bạn cảm ơn bằng cách nói với bạn bè chúng thật xấu xí.

- Khi bạn hai mươi bốn, mẹ gặp mặt người bạn đời tương lai của bạn và hỏi han bạn về kế hoạch mai sau. Bạn cảm ơn bằng cách nổi cáu rền rĩ: "Thôi mà, mẹ, xin mẹ...".

- Khi bạn hai mươi lăm, mẹ giúp bạn trang trải chi phí tiệc cưới, và mẹ vừa khóc vừa nói rằng mẹ yêu bạn biết chừng nào. Bạn cảm ơn bằng cách đi hưởng tuần trăng mật một vòng đất nước.

- Khi bạn đã ba mươi, mẹ gọi điện cho bạn để khuyên bảo về chuyện con cái. Bạn cảm ơn bằng cách trả lời: "Thời nay mọi việc đã khác xưa!"

- Khi bạn bốn mươi, mẹ gọi điện cho bạn để nhắc nhở sinh nhật của một người họ hàng. Bạn cảm ơn bằng cách nói rằng bạn đang bận rộn ghê lắm.

- Khi bạn năm mươi, mẹ cảm thấy tuổi già cần được sự chăm nom của con cái. Bạn cảm ơn bằng cách đọc cho mẹ nghe về gánh nặng cha mẹ già đối với con cái như thế nào.Và rồi, một ngày, mẹ đi xa.

- Và mọi điều bạn chưa kịp làm như một cái gì thật khủng khiếp dội vào tim bạn.

Nếu mẹ vẫn còn, đừng bao giờ quên yêu mẹ hơn bao giờ hết...

Nếu mẹ không còn nữa, hãy luôn nhớ đến tình yêu vô điều kiện của mẹ và hãy mãi khắc ghi...

Hãy luôn kính yêu mẹ, bởi vì chúng ta chỉ có duy nhất mẹ trong đời.

Nguồn: my.opera.com

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý I Về Kinh Tin Kính Của ĐTC Phanxicô: Đức Tin Vào Biến Cố Phục Sinh

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ nhất của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày mùng 3 tháng 4 năm 2013. Hôm nay Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.

Anh chị em thân mến,

Kính chào anh chị em,

Hôm nay chúng ta trở lại bài Giáo Lý về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta lặp lại cụm từ này: "Đến ngày thứ ba, Người sống lại, như lời Thánh Kinh".  Đây chính là biến cố mà chúng ta đang cử hành: Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu, là trung tâm của sứ điệp Kitô giáo được vang vọng ngay từ thủa ban đầu và được truyền đạt đến chúng ta. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu thành Côrinthô: "Tôi đã truyền lại cho anh em... trước tiên điều mà tôi đã cũng nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta như Thánh Kinh, Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại theo như Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai." (1 Corinthians 15:3-5). Lời tuyên xưng đức tin ngắn này vừa công bố Mầu Nhiệm Phục Sinh, với cuộc hiện ra đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh với Thánh Phêrô và Nhóm Mười Hai: cái chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Nếu không có niềm tin vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu này, thì niềm hy vọng của chúng ta sẽ yếu ớt, và thậm chí sẽ không có hy vọng, và chính cái chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Thánh Tông Đồ nói: "Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em sẽ ra vô ích và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi mình" (câu 17).

Tiếc thay, người ta thường cố gắng làm cho niềm tin vào việc Phục Sinh của Chúa Giêsu bị lu mờ, và những hồ nghi đã len lỏi vào ngay cả trong vòng các tín hữu. Một chút niềm tin đã bị "giảm thiểu", như chúng ta nói; đó không phải là đức tin mạnh mẽ. Và sở dĩ có điều đó là do người ta suy đoán nông cạn, đôi khi vì thờ ơ, bận rộn với hàng ngàn những điều được coi là quan trọng hơn đức tin, hoặc bởi vì một cái nhìn hoàn toàn nhân bản (theo chiều ngang) về cuộc đời. Nhưng chính việc sống lại mở lòng chúng ta ra để đón nhận niềm hy vọng lớn nhất, bởi vì nó khai mở cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của thế giới ra cho tương lai vĩnh cửu của Thiên Chúa, cho hạnh phúc sung mãn, cho sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi và sự chết có thể bị đánh bại. Và điều này dẫn đến việc sống thực tại thường nhật một cách tin tưởng hơn, đối diện chúng với lòng can đảm và quyết tâm. Việc Phục Sinh của Đức Kitô soi chiếu một ánh sáng mới trên những thực tại thường nhật này. Việc Phục sinh của Đức Kitô là sức mạnh của chúng ta!

Nhưng chân lý đức tin về việc Phục Sinh của Đức Kitô được truyền lại cho chúng ta thế nào? Có hai loại bằng chứng trong Tân Ước, một số dưới hình thức tuyên xưng đức tin, nghĩa là, những công thức tổng hợp biểu thị trọng tâm của đức tin; ngoài ra là những bằng chứng khác dưới hình thức tường thuật về việc Phục Sinh và về các biến cố liên quan đến nó. Trước hết: hình thức tuyên xưng đức tin chẳng hạn, là điều mà chúng ta vừa nghe, hoặc những điều trong Thư gửi tín hữu Rôma, ở đó Thánh Phaolô viết: "Thực ra, nếu anh em dùng miệng mà tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, và tin trong lòng rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì anh em sẽ được cứu độ." (10:9). Từ những bước đầu tiên của Hội Thánh, đức tin vào mầu nhiệm cái chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu là điều rất kiên định và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn suy niệm về hình thức thứ hai, về bằng chứng dưới hình thức tường thuật mà chúng ta thấy trong các sách Tin Mừng. Trước hết, chúng ta ghi nhận rằng các nhân chứng đầu tiên cho biến cố này là các phụ nữ. Ngay từ tảng sáng, các bà đã đi đến mồ để ướp xác Chúa Giêsu, và tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: ngôi mộ trống (Mc 16:1). Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với một Sứ Giả của Thiên Chúa là vị đã tuyên bố: Đức Giêsu Thánh Nadarét, Đấng Chịu Đóng Đinh, Người không có ở đây, Người đã sống lại (xem cc. 5-6.). Các phụ nữ được thúc đẩy bởi tình yêu và biết chấp nhận lời loan báo này bằng đức tin: các bà tin, và lập tức thông truyền nó, các bà không giữ cho mình, mà thông truyền tin ấy.

Niềm vui của việc biết rằng Chúa Giêsu còn sống, niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn chúng ta, là điều không thể giữ nổi. Điều này cũng cần được thực hiện trong đời sống của chúng ta. Chúng ta cảm nghiệm được niềm vui được làm Kitô hữu! Chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh là Đấng đã chiến thắng sự dữ và sự chết! Chúng ta hãy can đảm "đi ra" để đem niềm vui và ánh sáng này đến tất cả mọi nơi trong cuộc sống chúng ta! Việc Phục Sinh của Đức Kitô là sự chắc chắn vĩ đại nhất của chúng ta, là kho tàng quý giá nhất của chúng ta! Làm sao mà chúng ta không chia sẻ với những người khác kho tàng này, sự chắc chắn này? Nó không chỉ dành riêng cho chúng ta, nó phải được thông truyền, phải được trao ban cho những người khác, phải được chia sẻ với những người khác. Đó chính là chứng từ của chúng ta.

Có một yếu tố khác. Trong những tuyên xưng đức tin của Tân Ước, chỉ những người nam, các Tông Đồ, được nhắc đến như những chứng nhân của việc Phục Sinh, chứ không phải các phụ nữ. Sở dĩ có điều này là bởi vì theo Luật Do Thái thời đó, phụ nữ và trẻ em không thể là những nhân chứng xác thực, đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong các Tin Mừng, các phụ nữ đóng một vai trò chính và cơ bản. Ở đây chúng ta có thể nắm được một yếu tố ủng hộ tính cách lịch sử của việc Phục Sinh: nếu nó là một biến cố bịa đặt, thì trong bối cảnh của thời đại ấy, nó đã không được kết nối với lời chứng của các phụ nữ.  Thay vào đó, các Thánh Ký chỉ đơn thuần tường thuật những gì đã xảy ra: các phụ nữ là những nhân chứng đầu tiên. Điều này nói lên rằng Thiên Chúa không chọn lưa theo những tiêu chuẩn của loài người: những nhân chứng đầu tiên của việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là các mục đồng, những người đơn sơ và khiêm nhường; những nhân chứng đầu tiên của việc Phục Sinh là các phụ nữ. Và điều này tuyệt đẹp. Theo một mức độ nào đó thì đây là sứ vụ của các phụ nữ: của các bà mẹ, các phụ nữ! Làm chứng cho con cái và cháu chắt của họ rằng Chúa Giêsu đang sống, Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng đã sống lại. Hỡi các bà mẹ và các phụ nữ, hãy tiến lên với chứng từ này!

Đối với Thiên Chúa, chính con tim mới đáng kể, chúng ta mở lòng ra cho cho sự hiện diện của Ngài như thế nào, nếu chúng ta như những trẻ em đầy tín thác. Nhưng điều này cũng làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế mà các phụ nữ trong Hội Thánh và trong hành trình đức tin, đã có và ngày nay có một vai trò đặc biệt trong việc mở cửa cho Chúa, bằng cách đi theo Người và thông truyền Dung Nhan của Người, bởi vì cái nhìn đức tin luôn luôn cần cái nhìn tình yêu đơn sơ và sâu sắc. Các Tông Đồ và các môn đệ thấy khó (mà) tin (vào việc Phục Sinh). Còn các phụ nữ thì không. Thánh Phêrô chạy đến ngôi mộ, nhưng ngừng lại ở ngôi mộ trống; Thánh Thôma phải chạm vào các vết thương trên thân thể của Chúa Giêsu với hai bàn tay của mình. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng thế, thật là quan trọng khi biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đừng sợ yêu: đức tin được tuyên xưng bằng miệng và bằng con tim, bằng những lời nói và bằng tình yêu.

Sau những lần hiện ra với các phụ nữ, thì Chúa cũng hiện ra với những người khác: Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ: Người là Đấng Chịu Đóng Đinh, nhưng thân xác Người được vinh hiển; Người đã không trở về cuộc sống trần thế, nhưng đã trở lại trong một điều kiện mới. Lúc đầu họ không nhận Người, và chỉ qua những lời nói và cử chỉ của Người mà đôi mắt của họ được mở ra: cuộc gặp gỡ Chúa Phục Sinh biến đổi, ban một sức mạnh mới cho đức tin, một nền tảng không thể lay chuyển nổi. Đối với chúng ta cũng có nhiều dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh làm cho chúng ta nhận ra Người: Thánh Kinh, Thánh Thể và các bí tích khác, đức bác ái, những cử chỉ ấy của tình yêu mang lại một tia sáng của Đấng Phục Sinh. Chúng ta hãy để cho mình được soi sáng bởi việc Phục Sinh của Đức Kitô, hãy để cho mình được biến đổi bởi quyền năng của Người, để rồi qua chúng ta, trong thế gian, những dấu chỉ của sự chết nhường chỗ cho những dấu chỉ của sự sống.

Tôi thấy có rất nhiều người trẻ ở quảng trường. Kìa họ ở đó! Với các con cha nói: các con hãy nói lên sự chắc chắn này: Chúa đang sống và Người đi bên cạnh chúng ta trong cuộc sống. Đây là sứ vụ của các con! Hãy đi bày tỏ niềm hy vọng này. Hãy cột chặt vào neo hy vọng này: cái neo này là cái neo ở trên trời; hãy giữ chặt dây, hãy cột chặt vào neo và nói lên niềm hy vọng. Các con, những nhân chứng của Chúa Giêsu, hãy đi nói lên lời chứng rằng Chúa Giêsu đang sống và điều này sẽ cho chúng ta niềm hy vọng, sẽ đem lại hy vọng cho thế giới này là thế giới đã một phần nào đó trở nên già nua vì chiến tranh, sự dữ và tội lỗi. Hỡi người trẻ, hãy tiến lên!

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

NHỮNG MÂU THUẪN BẤT HÒA VỢ CHỒNG

Nguyên Nhân, Hậu Quả Và Cách Khắc Phục

Trong cuộc sống thường ngày, đôi khi người ta quên mất rằng người bạn đời là một hồng ân vô cùng quí giá. Giả như một ngày kia người chồng hoặc người vợ ấy không còn nữa thì chắc cuộc sống gia đình sẽ bị đảo điên, vì bị lấy mất một phần của của chính mình, như Hàn Mạc Tử đã nói:

"Người đi một nửa hồn tôi mất,

Một nửa hồn kia bỗng dại khờ"

Trước viễn cảnh đánh mất nửa kia của mình người ta buồn lắm chứ. Thế nhưng, khi nửa ấy ở bên mình liệu người ta có nhận ra đó là một hồng ân vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho họ không? Vì thế, trong đời sống hôn nhân gia đình, để tạo được sự hòa hợp trọn vẹn và bền vững, hai vợ chồng cần hiểu rõ những khác biệt của nhau, để có thể cảm thông, chia sẻ và nương tựa vào nhau trong sự kính trọng và yêu thương chân thành. Mà tình yêu chân thành là thấy rõ khuyết điểm của người khác nhưng vui vẻ đón nhận, đồng thời khám phá ra những ưu điểm của người yêu mà khéo léo phát huy.

Song, cuộc sống không phải lúc nào cũng êm ả, bằng phẳng, có những lúc trời quang mây tạnh, song lại có lúc bão táp mưa sa. Cuộc sống gia đình cũng vậy đấy, có những lúc trên dưới thuận hòa, ấm êm hạnh phúc, những cũng có lúc bất hòa "Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt". Và chính gia đình Thánh Gia xưa cũng đã trải qua kinh nghiệm này là lúc hai ông bà lạc mất Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Vâng, và dù vợ chồng có yêu nhau thắm thiết, thì nhiều lúc vẫn xảy ra những bất hòa, bất đồng quan điểm. Nhưng, những bất hòa đó có thể làm cho tình yêu bị sói mòn, dạn nứt và có thể đưa đến đổ vỡ tai hại. Song nếu biết cách giải quyết, chúng sẽ là cơ hội giúp vợ chồng hiểu nhau hơn và tình yêu giữa hai người ngày càng thêm triển nở và phong phú. Vì người ta thường thấy "Cái chua của chanh, cái ngọt của đường làm làm nên ly nước mát chứ không riêng có đường mà cũng không hẳn chỉ có chanh".

1) Nguyên nhân gây xung đột

Những trang đầu của Kinh Thánh đã cho chúng ta thấy mọi sự đều tốt đẹp. Con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trong hạnh phúc. Hạnh phúc đó trước hết là tình thân nghĩa với Thiên Chúa. Hạnh phúc đó còn là mối giao hòa giữa con người với vạn vật. Đặc biệt Thiên Chúa cho con người được sống hạnh phúc trong hôn nhân. Đôi vợ chồng nguyên thủy thật tâm đầu ý hợp, coi nhau như một xương một thịt. Thế rồi một hôm, người này đã coi người kia như là nguyên nhân của sự tan vỡ. Điều gì đã xảy ra giữa họ? (Việc con rắn xuất hiện, hiên thân của ma quỷ)

Con người đã khước từ vâng phục Thiên Chúa, tự định lấy điều lành điều dữ, con người đã muốn ngang bằng với Thiên Chúa, kết quả là:

Con người thấy xa lạ với chính mình, dục vọng trở nên thác loạn, không chịu nổi chính mình nên phải lấy lá che thân.

Con người xa lạ với nhau, nàng không còn là xương thịt của tôi, nhưng nàng là thủ phạm, chính nàng đã gây ra tất cả.

Con người xa lạ với Thiên Chúa, nên vừa nghe tiếng Chúa, con người đã chạy trốn và núp trong bụi cây.

Con người xa lạ với các tạo vật khác như cây cối, đất đá trở nên những chướng ngại cho con người.

Giờ đây, mọi tương quan đều sụp đổ chỉ vì một lý do duy nhất: con người không tin vào tình thương của Thiên Chúa, họ muốn tự xoay sở lấy mọi sự, họ coi mình là nhất, muốn chiếm đoạt tất cả cho mình, muốn ngang hàng với Thiên Chúa... Đó chính là nguyên nhân sâu xa nhất của mọi bóng tối trong đời sống hôn nhân. Mọi đổ vỡ đều bẳt nguồn từ tội đầu tiên ấy. Nó là khúc ngoặt của lịch sử tình yêu, nó thay đổi hẳn tình trạng của con người, khiến con người đang từ tình trạng yêu thương tròn đầy, bước sang tình trạng tình yêu sứt mẻ và dạn nứt. Thật là một biến chuyển ghê gớm (một đứa bé trước luôn thành thật, giờ trộm cắp từ vật nhỏ đến vật lớn có giá trị không cần suy nghĩ đắn đo). Tội nguyên tổ chính là vết thương khiến sự chết xâm nhập vào con người, bản tính con người đã bị tổn thương.

Từ nguyên nhân trên dẫn tới bao nguyên nhân khác khiến xung đột vợ chồng ngày càng xảy ra dễ dàng và tinh vi hơn thường là do:

a) Sự khác biệt về tâm lý giữa nam và nữ:

+ về thể xác: người nam chú trọng tới thể xác và coi như thứ chính yếu, người nữ quên.

+ về nhận thức: người nam dựa trên sự kiện, người nữ dựa trên tình cảm.

+ về tình yêu: nam là một trong những điều quan trọng, nữ là tất cả. Đối với đàn ông, tình yêu là một tình cảm thôi thúc rất mạnh đầy tình dục và ham muốn rồi vụt qua đi rất nhanh. Trái lại người đàn bà thì tình yêu là toàn thể đời sống, lúc nào chị cũng nghĩ đến nó chứ không chỉ lúc hai vợ chồng gần nhau.

+ về tôn giáo: nam kém sốt sắng, nữ lòng đạo đức nồng nhiệt

+ về tâm lý: nam thích tổng quát, nữ tỉ mỉ.

+ về thính giác: nam ít nói, đặc biệt ở nhà, nữ thích nghe lời ngọt ngào.

b) Sự khác biệt về cá tính của mỗi người: người nhanh nhẹn tháo vát, người ù lì chậm chạp. Thiên Chúa dựng nên mỗi người một bản ngã, nên đã là hai người đừng kể về phái tính, thì khó lòng tránh khỏi những dị biệt, những khác nhau về khuynh hướng và tính tình như người ta thường nói: "bá nhân bá tính". Người trầm mặc, người có tính hiếu động, người có tính hướng ngoại, người có tính hướng nội. Lúc họ chưa lấy nhau, cái gì của nhau họ cũng thấy hữu duyên hữu tình, nhưng khi lấy nhau rồi thì duyên tình biến mất, để người này trở thành cái nợ của người kia. Mỗi người hãy xét xem, ta đang là gì của nhau? có phải là cái nợ của nhau không? Có bài hát thế này "nếu biết rằng yêu là đau khổ, thà dương gian đừng có chúng mình"

c) Sự khác biệt từ nền giáo dục gia đình: bên thì chiều chuộng vuốt ve con cái, bên thì nghiêm khắc giáo dục.

d) Bất đồng trong việc quản lý chi tiêu: người coi trọng tiền bạc là tất cả, người coi là phương tiện cho cuộc sống. Người thì tiết kiệm dè xẻn, người thì hoang phí đua đòi, nhậu nhoẹt. Tình yêu đừng để cho tiền bạc bóp nghẹt, tiền chỉ là người bạn tốt ngược lại tiền là một ông chủ xấu. Thế nên không thể có hạnh phúc lâu bền được như người ta thường nói:

" Có tiền chồng chồng vợ vợ,

Hết tiền hết gạo chồng đông vợ đoài"

đ) Những trục trặc trong đời sống chăn gối: việc chăn gối là cả một nghệ thuật yêu đương. Nó đòi hỏi người chồng cũng như người vợ sự già giặn và khiếu thẩm mỹ.

Quan niệm đúng đắn về tình yêu thể xác, tình yêu thể xác không phải đơn giản như vấn đề kỹ thuật. Bạn có thể thông thái về cơ thể học, nhưng lại hoàn toàn bất lực trong tình yêu.

e) Vì người ngoài giật giây hay do hoàn cảnh chi phối: phản ứng cần thiết trước cuộc khủng hoảng này là cương quyết, giữ lập trường, không nghe ai hết, chỉ biết chồng mình hay vợ mình thôi. Nhẫn nại một chút mọi sự sẽ êm suôi.

g) Thiếu tổ chức trong gia đình: thiếu phân công chia sẻ, thiếu quan tâm đến nhau. Hãy cố gắng xây dựng gia đình mình, chứ đừng than thân trách phận "đứng núi này, trông núi nọ" so bì chồng mình vợ người "đèn nhà ai nhà ấy rạng". Vì như thế, chỉ gây thêm buồn khổ cho nhau mà thôi.

h) Bất đông về giáo dục con cái: người nghiêm khắc, người chiều chuộng con cái.

i) Bất đồng trong cách cư xử họ hàng đôi bên: bên trọng, bên khinh, nhất là chuyện mẹ chồng nàng dâu luôn là vấn đề nhức nhối nảy sinh xích mích cho hai bên gia đình.

2) Hậu quả rất tai hại

  • Về tâm lý tình cảm: mất hạnh phúc trong gia đình, tình yêu sứt mẻ, vợ chồng lạnh nhạt với nhau.
  • Về đời sống đạo đức: dễ rơi vào những tệ nạn xã hội, ngoại tình, mất phẩm chất và thế giá của con người.
  • Về gia đình: cha mẹ lơ là giáo dục con cái, tình nghĩa vợ chồng bị rạn nứt, dẫn đến ly thân, ly dị, gia đình tan vỡ. Thiệt hại cho con cái, nạn nhân chính là những đứa con ngây thơ tội nghiệp đáng thương lang thang đầu đường cuối phố, nghiện ngập, xì ke ma túy, trộm cắp...

3) Giải quyết xung đột trong gia đình

a) Biện pháp ngăn ngừa:

- Tìm hiểu kỹ càng trước khi kết hôn để tránh ảo tưởng về nhau, vì hôn nhân cần có tình yêu thực sự, không thể biến hôn nhân thành món hàng đổi trác.

- Cần học hỏi trang bị những kiến thức nuôi dưỡng tình yêu và bàn hỏi với những người có kinh nghiệm để biết cách giải quyết những bất hòa trong gia đình và biết cách sống hòa hợp.

- Cần sửa đổi thói hư tật xấu

b) Nếu xảy ra xung đột thái độ của mỗi người

- Kìm hãm tính nóng nảy và tự ái. Tránh phản ứng vội vàng.

- Đối thoại với nhau, luôn cố gắng đổi mới trong tình yêu, khai trừ sự nhàm chán và lười biếng.

- Có thiện chí muốn giải quyết chuyện tranh cãi để đi đến hợp nhất, không nhằm thua thắng hay hạ nhục nhau.

- Hãy ý hợp hóa nghĩa là từ bỏ cái tôi, ý riêng của mình để có thể vượt qua biển cuộc sống gia đình vốn nhiều hạnh phúc, nhưng không thiếu ba đào, xây thì khó nhưng đổ vỡ thì rất nhanh và dễ dàng.

4) Phương cách giải quyết

Giải quyết xung đột trong gia đình là một công việc khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng và thiện chí của cả hai. Vợ chồng cần có thói quen ngồi lại với nhau giải quyết những vấn đề nho nhỏ để có nhiều kinh nghiệm giải quyết vấn đề lớn. Những lúc như thế, giúp hai vợ chồng hiểu nhau hơn, gọt giũa cái tôi tự ái, ích kỷ để cuộc sống hài hòa, ấm êm hạnh phúc.

Tóm lại: Vợ chồng cần có thái độ sau khi xảy ra xung đột

- Tự chủ

- Có thiện chí muốn giải quyết

- Đối thoại với nhau

- Chấp nhận khuyết điểm của nhau

- Cố gắng hàn gắn và làm lành

- Nhờ người trung gian

- Cầu nguyện để biết cách giải quyết theo tinh thần của Chúa.

Xin Chúa cho các đôi vợ chồng luôn trung thành với Chúa và với nhau mãi mãi trong lời thề nguyện ước trước mặt Chúa, trước mặt Hội Thánh, trước mặt bà con hai họ: Sống chết có nhau, giàu nghèo có nhau, khỏe yếu có nhau, vui buồn có nhau và, lúc nào cũng yêu nhau.

Sr. Maria Mừng
Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

25  Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

Bài 01: Thánh Phaolô là ai?

Chúng ta không biết nhiều về thánh Phaolô trước khi Ngài gặp Đức Giêsu trên đường Damascus. Nhiều dữ kiện về con người Phaolô dựa vào sách Công Vụ Tông Đồ, vì thánh Phaolô không nói nhiều về lịch sử mình trong những thư Ngài viết cho các giáo đoàn.

Thánh Phaolô sinh tại Tarsus (Cv, 9:11; 21:39; 22:3) một thành phố phía đông của biển Địa Trung Hải (ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) vào khoảng năm 8 (nhiều sử gia phỏng đoán giữa năm 5-10 sau công nguyên). Ngài lớn lên và được giáo dục ở Jerusalem với một thầy Rabbi nổi tiếng đương thời là Gamaliel (Cv 22:3) nhằm trở nên một Pharisiêu (Biệt Phái), và sau này Ngài là một Pharisiêu nhiệt thành (Cv 23:6; 26:5; Phil 3:4-6; Gal 1:13-14).

Thánh Phaolô nói tiếng Hi Lạp, ngôn ngữ được dùng phổ biến thời bấy giờ (Cv 21:37), và tiếng Aram của người Do Thái vùng Palestine (Cv 21:40; 22:2). Ngài có quốc tịch Rôma, quyền ưu tiên này cho Ngài nhiều quyền lợi sau này trong đời sống truyền giáo (Cv 16:37-38; 22:25-29; 23:27).

Là một Pharisiêu nhiệt tâm với Do Thái giáo, Phaolô truy bắt những Kitô hữu tin theo Đức Giêsu Kitô (Cv 7:54-8:1; 9;1-4; 1 Cor 15:9; Gal 1:13; Phil 3:6). Vì theo Phaolô, Ông Giêsu bị lên án chết như một tử tội chứng tỏ đây là dấu hiệu bị Thiên Chúa nguyền rủa hơn là được Thiên Chúa chúc phúc.

Sau khi gặp gỡ Đức Giêsu Kitô trên đường Damascus (khoảng năm 34), Phaolô (trước có tên Do Thái là Saolô) dành hơn 30 năm để rao giảng tin mừng Đức Kitô, với 3 hành trình truyền giáo trong khu vực Địa Trung Hải.

Trong Tân Ước kê khai 13 thư với tên thánh Phaolô là tác giả. Ngày nay, phần lớn các nhà Kinh Thánh tin rằng 7 thư được chính thánh Phaolô viết gồm: thư gởi Rôma, 1 và 2 Côrintô, Galata, Philipphê, 1 Thesalonica và Philemon. Và 6 thư còn lại có thể được những người khác viết nhân danh Phaolô, gồm: Ephêsô, Côlôsê, 2 Thesalonica, 1 và 2 Timôtê và Titô.

Ngài chết tại Rôma khoảng năm 62-64, và theo truyền thuyết là bị chém đầu (dựa vào thư 1 Clementê viết khoảng năm 96, và dựa vào sách gọi là Công Vụ Phaolô viết khoảng năm 185-195).

Mt. Nguyễn khắc Hy, S.S.
Nguồn: liendoanconggiao.net

 TRANG QUỚI CHỨC

HÃY CỨU LẤY CHÍNH MÌNH

Chúng ta đang sống trong thời đại mà việc phá thai lan tràn như một bệnh dịch và người ta cũng chẳng hề coi đó như là một sự việc gì quan trọng đáng nặng lòng.

Một việc tán tận lương tâm như thế mà chúng ta coi là bình thường, tất cả chỉ vì một lý do: an ninh lương thực thế giới. Thế nhưng đó có phải thật sự là lý do?

Người ta nói dân số đông quá lấy gì ăn, lấy gì mặc, ở đâu ? thế nhưng thực tế, trên một kênh truyền hình cho chúng ta thấy một sự thật ngược lại. Ở Mỹ và những nước phương tây, những thực phẩm thừa thải, vứt đi hàng năm có thể nuôi hàng trăm triệu người ! Ngày nay bệnh béo phì, do dư năng lượng lan tràn khắp thế giới. Còn nói về mặc ư ? ngày xưa chúng ta mặc gì ? những quần áo được gọi là "đồ cũ" bây giờ cho người nghèo người ta không muốn lấy thì cách đây vài chục năm thì chỉ người khá giả mới có được. Còn chổ ở thì sao? Ngày nay người ta có thể xây những cao hàng mấy trăm mét. Ở Việt Nam biết bao khu chung cư, biệt thự còn bỏ hoang, không người ở ?

Trung thực mà nói việc hạn chế sinh sản chỉ nhằm mục đích hưởng thụ của con người ngày nay. Người ta muốn nhu cầu cao hơn, tiện nghi hơn, mọi thứ phải chất lượng hơn.

Đây là một nhu cầu chính đáng, không thể phủ nhận. Thế nhưng, nếu chúng ta hưởng thụ cho riêng mình mà không nghĩ đến đồng loại thì thật là đáng trách và sẽ kéo theo những hậu quả khó lường.

Đâu phải giàu sang mà người ta hạnh phúc, nhưng chính tình nghĩa mới đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Đâu phải tiện nghi mới bảo đảm sự ổn định cho đời sống mà là sự liên kết đồng loại mới giúp nhân loại trường tồn.

Những nước phương tây trước đây đã từng hạn chế sinh sản giờ đây đứng trước nguy có bị tuyệt giống nòi, vì thế giờ đây họ kêu gọi, khuyến khích sinh sản. Nước Nhật giờ đây đang lao đao vì số người già ngày càng tăng trong khi nguồn nhân lực lại cạn dần vì số người trẻ ngày càng hiếm; phải nuôi người già nhiều hơn nhưng nhân lực ít hơn. Thật là khó !

Còn nói về cái tình thì việc phá thai thật là một việc phi nhân. Ông bà chúng ta từng nói: hùm dữ không ăn thịt con. Các loài cầm thú, tuy là thú vật vô tri nhưng với bản năng nó vẫn liều chết để bảo vệ con mình. Phương bắc có một loài chim khi không thể tìm được thức ăn cho con, nó rứt thịt nó làm mồi nuôi con nó cho đến khi nó chết.

Thú vật còn thế, còn loài người chúng ta thì sao ? không ai trong chúng ta chịu đồng hoá với thú vật, bởi vì chúng ta hãnh diện mình là con người. Thế nhưng, việc giết con mình từ trong trứng nước chỉ vì để chúng ta sống được tiện nghi hơn, thoải mái hơn có xứng với nhân phẩm của một con người không ? còn hậu quả của nó là gì ? Giết con mình tức là chúng ta tự hủy đi nguồn sống, hậu vận của chính mình, chúng ta đã tự hủy  đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi bản thân mình, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa khi con người có lòng nhân, vì Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Trong Kinh Thánh sau trận lụt đại hồng thủy, Thiên Chúa đã xót xa và đã hứa không tái diễn việc đó nữa, bởi người quý chuộng con người, tạo vật do Người dựng nên và dù con người bị ma quỷ dùng mưu mô xảo huyệt để làm hư hoại hay do yếu đuối của mình mà trở nên xấu đi, Người vẫn không tru diệt, tạo ra một nhân loại mới nhưng đã cứu con người bằng một giá rất đắt là chính con Một của Người.

Chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, được người nhận làm con, chúng ta được Thiên Chúa tỏ lòng thương xót, vì thế hãy biết hành xử đúng với phẩm giá của minh. Nếu chúng ta không biết yêu con cái mình thì làm sao yêu đồng loại. Nếu chúng ta không biết xót thương thì làm sao chúng ta xứng với lòng thương xót. Một gia đình không có tình yêu sẽ tan vỡ, một thế giới không có tình yêu và lòng nhân, thế giới sẽ bị hủy diệt.

 SỐNG ĐẸP

10 từ khóa để hiểu Đức Thánh Cha Phanxicô

"Đức Thánh Cha Phanxicô không phải là một nhà chính trị đúng nghĩa nhưng là người con trung thành của Giáo hội", ông Greg Burke, đã nhận xét như thế. Ông Burke giải thích thêm rằng: Đức Thánh Cha luôn mời gọi mọi người sống chân lý của Phúc Âm và ngài có khả năng trình bày những sự thật nan giải với lòng xót thương sâu nặng.

Greg Burke là một cựu ký giả của giới truyền thông Hoa Kỳ, suốt 25 năm qua ông đã cư ngụ và làm việc tại Roma và trở thành một nhà cố vấn truyền thông kinh nghiệm của Phủ Quốc vụ khanh. Vốn là một người hâm mộ bóng đá, cũng như Đức Thánh Cha, ông Burke đã ví von về 'ngôi sao truyền thông' Phanxicô như thế này: "Chúng tôi chuyền bóng cho Đức Thánh Cha và ngài ghi bàn"! Dí dỏm hơn, ông Burke còn đề nghị một khẩu hiệu, như vẫn thường thấy trên các bao thuốc lá, để in trên các tấm ảnh của Đức Thánh Cha và cảnh báo mọi người: "Nguy hiểm: Người này có thể thay đổi cuộc đời của bạn!"

Ngày 18 tháng 10 năm 2013 vừa qua, trong một bài nói chuyện với các ân nhân của một quỹ bảo trợ tài chính cho Bảo tàng Vatican nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập, ông Burke đã ca ngợi khả năng thu hút truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô: Đó không phải là sự mê hoặc. Nó phát xuất từ đức ái Kitô giáo, vốn có sức thu hút mạnh mẽ hơn sự mê hoặc. Đức Thánh Cha muốn vượt qua giới hạn chính trị của phe cánh bằng cách định hướng con người chú tâm vào Tin Mừng và Thiên Chúa, cũng như chân lý và lòng thương xót của Ngài. Tin Mừng không phải là khí cụ làm cho chúng ta dễ chịu nhưng trái lại, Tin Mừng thách đố chúng ta rất cụ thể: hãy loan báo chân lý và đồng hành với con người tìm gặp Thiên Chúa.

Ông Burke cũng bình luận về âm hưởng từ những giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô: Ngài không xoa dịu con người bằng một lối diễn tả Tin Mừng hời hợt mưu tìm sự đón nhận một cách dễ chịu nhưng là giới thiệu sự thật của Tin Mừng vốn diễn tả chân lý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương và tha thứ. Ông Burke đề cập đến hình ảnh Giáo hội như một "bệnh viện dã chiến" mà Đức Thánh Cha đã đề cập, trong bài phỏng vấn lịch sử, để ghi nhận lập trường của Đức Thánh Cha về sứ vụ của Giáo hội: một Giáo hội chữa lành.

Với thâm niên và trải nghiệm trong giới truyền thông, ông Burke đã liệt kê 10 từ khóa để tìm hiểu về giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô và để giải thích về phong thái của ngài:

1. Lòng thương xót - Trình thuật về người con hoang đàng [của Tin Mừng] là một chủ đề được Đức Thánh Cha trích dẫn nhiều lần và xác quyết rằng Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt để ban ơn tha thứ và chờ đón sự trở về của con người; và vì thế "Giáo hội luôn luôn mong đợi con người với cánh tay rộng mở".

2. Can đảm hoặc dũng cảm - Bạn hãy chuẩn bị vì Đức Thánh Cha sẽ thách đố mọi người! Những ai sống trong tiện nghi hoặc sống trong những nước phát triển sẽ được Đức Thánh Cha chiếu cố và thách đố một cách đặc biệt. Đúng thôi, vì đó là thách đố của Tin Mừng.

3. Vùng ven và Sứ vụ - Đức Thánh Cha tiếp nối các đấng tiền nhiệm phê phán mạnh mẽ một thế giới chia rẽ giữa giàu và nghèo. Đức Thánh Cha Phanxicô "không phải là người của ân sủng rẻ tiền và thứ tôn giáo dễ chịu. Ngài muốn nhìn thấy các Kitô hữu dám làm".

4. Cầu nguyện - Người không có niềm tin thường không hiểu được tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống đức tin. Chẳng hạn như Chân phước Têrêsa Calcutta đã từng bị truyền thông thế tục xem như một "nhà hoạt động xã hội trong chiếc áo dòng". Nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô đã không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cầu nguyện và thúc đẩy mọi người cầu nguyện.

5. Gặp gỡ - Đức Thánh Cha đề nghị mọi người đón nhận nền "văn hóa gặp gỡ" để cảm nhận Thiên Chúa và gặp gỡ mọi người, kể cả những người không có đức tin. Cách thế gặp gỡ và giao tiếp này bắt đầu từ trong gia đình.

6. Niềm vui - Đức Thánh Cha nhận được nhiều khen ngợi về điều này, đơn giản là vì ngài thể hiện niềm vui một cách thật giản dị. Đối với Đức Thánh Cha, nguy hiểm và cám dỗ lớn nhất của đời người là "sự ngã lòng, sự bất hòa, sự chán nản và sự dữ".

7. Phục vụ - Đức Thánh Cha đã nêu gương phục vụ qua việc tự thanh toán tiền trọ ở Roma sau khi được bầu làm giáo hoàng, tự gọi điện thoại cho những người viết thư cho mình, hay làm những việc mà lẽ ra ngài có thể để các phụ tá thực hiện. Thông điệp của ngài là: "Đó không phải là quyền lực hay đặc ân, chúng ta hiện diện để phục vụ".

8. Đơn sơ và khiêm nhường- Việc Đức Thánh Cha quyết định lưu trú trong nhà khách thay vì ở trong Dinh Tông Toà hoặc việc ngài tự xách cặp khi công du phần nào nói lên tính cách của Đức Thánh Cha Phanxicô và mọi người cần làm quen với sự bình dị ấy.

9. Cảm thương - Thương cảm và đồng cảm với người khác là sở trường của Đức Thánh Cha. Điều đó thể hiện rõ nét khi ngài ôm tất cả mọi người vào lòng và ngay cả khi ở giữa đám đông ngài vẫn có thể hiện diện một cách trọn vẹn với từng người.

10. Năng lượng - Với tuổi 76, Đức Thánh Cha quả thật là một người đầy tràn năng lượng và chúng ta sẽ được tham gia vào một hành trình thú vị!

Thiên Phúc (Theo CNS)
Nguồn: WHĐ

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÍ TÍCH HÒA GIẢI

 Bí tích hòa giải không chỉ đơn thuần tha các tội nặng nhẹ con người có thể phạm, mà còn là phương thế hữu hiệu để giúp con người trở nên hoàn thiện.

Bí tích hòa giải (reconciliation) là một trong các bí tích ban ơn cứu độ rất quan trọng và cần thiết mà Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ trước tiên và cho Giáo Hội ngày nay cử hành để ban ơn tha thứ của Chúa cho các hối nhân còn tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa.

Thật vậy, sau khi từ cõi chết sống lại và hiện ra với các Tông Đồ, Chúa Kitô đã nói với các ông như sau: "Anh  em tha cho ai, thì người ấy được tha. Anh  em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ" ( Ga 20:23)

Trước khi thọ nạn thập giá, Chúa Giêsu cũng đã trao quyền tha tội cho Phêrô, sau khi môn đệ này tuyên xưng Chúa là "Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16).

"Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời : dưới đất anh cầm buộc điều gì , trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 20:19).

Trên đây là nền tảng Kinh Thánh của bí tích hòa giải mà Chúa Kitô đã thiết lập và trao cho các Tông Đồ trước khi Người về Trời.

Sở dĩ Chúa ban bí tích này là vì Người biết rõ con người vẫn còn yếu đuối sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội. Còn yếu đuối  và dễ nghiêng chiều về  sự xấu trong bản tính đã bị băng hoại vì Tội Nguyên Tổ cộng thêm với ý muốn tự do mà Thiên Chúa luôn  tôn trọng cho con người sử dựng, cho nên nguy cơ phạm tội còn đó. Vì thế Chúa đã ban bí tích hòa giải để giúp con người nối lại tình thân với Chúa sau khi đã lỡ phạm tội cá nhân vì yếu đuối và nhất là vì ma quỉ cám dỗ và gương xấu của thế gian. Bao lâu còn sống trong thân xác có ngày phải chết này, thì bấy lâu con người còn phải chiến đấu, hay bị giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa sự tốt và sự xấu trái nghịch nhau như ánh sáng và bóng tối. Do đó, "anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh  em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế" (1 Pr 5:8-9). Đó là lời khuyên dạy của Thánh Phêrô Tông Đồ.

I- Nhưng trước hết phải hiểu rõ thế nào là tội và có mấy loại tội

Con người ngày nay, phần nhiều  đã mất hết ý thức về tội nên đã thi nhau làm những điều tự bản chất là sai trái, là vô luân như ăn gian, nói dối, trộm cắp, dâm đãng, ngoại tình, cờ bạc, giết người, phá thai, buôn bán ma túy, súng đạn giết người, sách báo phim ảnh dâm ô, nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghê mãi dâm, hoặc làm nô lệ tình dục cho người nước ngoài dưới chiêu bài "hôn nhân ngoại quốc" hay "lao động nước ngoài". Nhiều tín hữu cũng mất ý thức về tội nên đã coi thường hay không muốn đi xưng tội nữa dù đã làm những việc mà thực chất là có tội.

Những hình thức của tội lỗi nói trên đây đã ít nhiều xúc phạm đến Thiên Chúa là tình thương, là công bình và thánh thiện. Do đó, khi ta làm bất cứ điều gì xúc phạm đến tình thương, sự công bình và thiện hảo thì đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa là hiện thân của Chân, Thiện Mỹ tuyệt đối.

Giáo lý Công Giáo cũng dạy rằng : "Tội lỗi chống lại tình thương của Thiên Chúa dành cho ta và khiến trái tim ta xa lìa tình yêu đó. Cũng như tội nguyên thủy, tội lỗi của ta là một sự bất phục tùng, một sự phản loạn chống lại Thiên Chúa..." (x. GLGHCG số 1850).

Thánh Phaolô đã liệt kê những tội con người có thể phạm như sau :

"Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, nghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo cho mà biết như tôi đã từng bảo : những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa" (Gl 5:19-21).

Thánh Gioan cũng quả quyết rằng "Mọi điều bất chính trên đều là tội" (Ga 5:17).  

II- Giáo Hội phân biệt tội thành hai loại : tội trọng và tội nhẹ

1- Tội trọng (mortal sin) là tội tự bản chất nó là sự dữ  như giết người, hiếp dâm, ngoại tình, tiếp tay với quân khủng bố đặt bom giết hại người khác, nhất là chối bỏ hay lăng mạ Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, công khai chối đạo ...

Ngoài bản chất là nghiêm trọng, tội trọng chỉ thành tội khi người ta đã biết rõ tính chất nghiêm trọng đó mà vẫn cố tình phạm với ý muốn tự do. Tội trọng phá hủy hoàn toàn đức ái và và cắt đứt  mọi tình thân đối với Chúa vì đã chống lại Người cách quá nặng nề.

Do đó, nếu ai chết trong khi đang mắc tội trọng mà không kịp xin tha qua bí tích hòa giải thì sẽ chiu hình phạt hỏa ngục (x. SGLGHCG số 1035).

2- Tội nhẹ (venial sin) : không cắt đứt tình thân với Chúa nhưng cũng xúc phạm đến Người và làm tổn thương phần nào đức ái (x. SGLGHCG số 1855).

Đây là giáo lý của Giáo Hội mà mọi tín hữu phải tuân thủ cho được hiệp thông với Giáo Hội trong mục đích yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa và thực hành các giới răn của Người hầu được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Cũng  theo giáo lý của Giáo Hội thì mọi tội nặng hay nhẹ đều có thể được tha qua bí tích hòa giải nếu  hối nhân còn tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa và thật lòng ăn năn sám hối. Chỉ có một tội không thể tha được, đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn và không còn tin tưởng gì nơi lòng thương xót của Chúa nữa.

Liên quan đến bí tích hòa giải, không thể quan niệm rằng người tín hữu trưởng thành không cần giữ Đạo cách "cổ xưa" với việc tuân giữ luật lệ. Nếu việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội là không "hợp thời" và cần thiết thì tạo sao Thiên Chúa lại ban 10 điều răn cho con người tuân giữ để được chúc phúc và tại sao Chúa Kitô đã nói với các môn đệ xưa điều này; "Nếu anh  em yêu mến Thầy, anh  em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14:15).

Như thế, yêu mến Chúa đồng nghĩa với việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Và nếu không tuân giữ thì đã phạm tội chống lại Chúa là tình thương, công bình, bác ái và thánh thiện, vì mọi tội con người có thể phạm đều liên hệ ít nhiều đến các đặc tính trên đây của Thiên Chúa. Cụ thể : giết người hay âm mưu sát hại người khác là chống lại bản chất yêu thương, nhân từ của Chúa. Trộm cắp, gian tham, lừa đảo là phạm đến sự công bình của Chúa. Dâm ô - đặc biệt là tội ấu dâm - là xúc phạm nặng nề đến sự thánh thiện, trong sạch của Chúa. Do đó, muốn sống đẹp lòng Chúa và nhiên hậu được cứu độ thì mọi người có niềm tin yêu Chúa phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội mới đẩy chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa là Đấng yêu thương và "muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1 Tm 2:4) nhưng lại gớm ghét mọi tội lỗi vì  nó hoàn toàn đi ngược lại với bản chất yêu thương, nhân từ , công bình và thánh thiện của Người.

III- Tại sao cần phải xưng tội và xưng cách nào ?

Như đã giải thích ở trên, tội là một thực thể và một thực tế trong trần gian và trong mỗi người chúng ta. Không ai có thể nói là mình không có tội nào như Thánh Gioan đã quả quyết : "nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1:8).

Nhận biết mình có tội thì lời mời gọi là hãy sám hối và xin Chúa tha thứ. Chúa ghét mọi tội nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết ăn năn xin tha thứ, như Chúa Giêsu đã đối xử  với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và bị người Biệt phái dẫn đến xin Chúa cho ném đá. Chúa đã không ném đá và chỉ nói với chị kia rằng "Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ  về  đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8:11).

Qua lời  Chúa trên đây, chúng ta hiểu rõ lòng nhân từ  và khoan dung của Chúa đối  với kẻ có tội, nhưng cũng không muốn ai lợi dụng lòng nhân từ đó để cứ phạm tội, cứ lấy cớ Chúa yêu thương tha thứ  để  không quyết tâm cải  thiện đời sống và xa tránh mọi tội lỗi. Đành rằng là con người, ai cũng yếu đuối trong bản tính, nhưng nếu ta quyết tâm và nương nhờ ơn Chúa phù giúp thì chúng ta mới có thể đứng vững được trước mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, ví như "sư tử  gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1 Pr 5: 8), của xác thịt yếu đuối dễ sa ngã và  của gương xấu đầy rẫy ở mọi môi trường sống.

Nói rõ hơn, nếu ta không có thiện chí xa lánh tội và mọi cơ hội đưa đến phạm tội, để rồi cứ sa đi ngã lại,  thì Chúa không thể cứu ai được mặc dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô  là vô giá, và đủ cho ta được cứu rỗi. Nhưng dù là đủ,  Chúa vẫn còn mong đợi nơi thiện chí công tác của con người vào ơn cứu độ, vì con người còn có tự do để cộng tác  hay khước từ  ơn cứu độ và tình thương của Chúa để sống theo ý riêng mình. Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã cảnh cáo những ai không quyết tâm chừa tội và sống theo đường lối của Chúa mà cứ đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh như sau: "Ta biết việc các ngươi làm : ngươi chẳng nóng và cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi  lạnh hẳn hay nóng hẳn đi !  Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" (Kh 3:15-16). 

IV- Xưng tội là một tiến trình hoán cải đả trở nên hoàn hảo hơn:

Như đã nói ở trên, Chúa Kitô ban bí tích hòa giải vì Người biết trước con người sẽ còn phạm tội cá nhân nhiều lần nữa, sau khi được rửa sạch một lần hậu quả của tội nguyên tổ qua phép Rửa.

Phạm tội vì yếu đuối thì khác với cố tình không quyết tâm chừa tội để rồi lại tái phạm nhiều lần nữa. Cha giải tội có thể không ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng mãi một tội vì  không cố gắng chừa bỏ..

Trong Tin Mừng Thánh Lu-ca, để trả lời cho  một số người đến hỏi Chúa xem có  phải  những người  Ga-li-lê bị Tổng trấn Phi-la-tô giết chết, lấy máu hòa lẫn với tế vật là vị họ tội lỗi hơn những người khác hay không, Chúa Giêsu đã trả lời họ như sau:

"... Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy" (Lc 13:3). Như thế có nghĩa là chúng ta phải cố gắng chừa tội và sám hối về những việc sai trái đã làm.

Sám hối  là nhìn nhận mình có tội, ăn năn chừa bỏ và  mau kíp chạy đến với Chúa qua bí tích hòa giải để được tha thứ và giao hòa lại với Chúa và với Giáo Hội.

Khi đi xưng tội, mọi hối nhân cần lưu ý hai điều quan trọng sau đây:

1- Phải hoàn toàn tin tưởng có Chúa Kitô hiện diện trong các thừa tác viên con người là Giám mục hay Linh mục.Chính Chúa nghe và tha tội cho ta qua tay các thừa tác viên.

2- Do đó, phải thành thật xưng các tội nặng nhẹ đã phạm vì yếu đuối con người, kể cả những tội kín thuộc các giới  răn thứ sáu và thứ chin. Nếu không thành thật xưng ra các tội mình đã phạm, nghĩa là có ý giấu không xưng một tội nào thì việc xưng tội sẽ không thành và không đáng được Chúa tha thứ qua trung gian của thừa tác viên (x. SGLGHCG số 1505).

Xưng tội là dịp cho ta nhớ đến lòng thương xót tha thứ của Chúa sau khi nhận biết tội lỗi mình đã xúc phạm đến Chúa. Nhưng phải có quyết tâm từ bỏ tội với ơn Chúa nâng đỡ để không sa đi ngã lại. Đây là tiến trình trở nên hoàn hảo hơn như Chúa mong muốn cho mỗi người tín hữu chúng ta. Nói rõ hơn, không phải cứ theo thói quen lâu lâu đi xưng tội để cho an tâm rồi lại không quyết tâm từ bỏ tội lỗi nên lại tái phạm để rồi lại đi xưng tội. Sống đức tin kiểu này thì quả thật xứng đáng để nghe lời Chúa cảnh cáo trên đây.

Nói khác đi, phải quan niệm đúng đắn hơn về bí tích hòa giải. Đây phải là phương thế hữu hiệu để giúp con người không những lấy lại tình thân với Chúa mà còn giúp ta dần dần trở nên hoàn hảo về mặt thiêng liêng qua quyết tâm từ bỏ tội lỗi để trở nên thánh thiện như Chúa Kitô đã kêu gọi:  "Anh  em phải nên hoàn thiện, như  Cha anh  em ở trên Trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5:48).

Trở nên thánh thiện hay hoàn hảo là trở nên giống Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, là suối nguồn an vui và hạnh phúc của các Thánh và các Thiên Thần. Do đó, phạm tội hay sống trong tội là tự ý xa lìa Chúa và không muốn được cứu độ để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Tóm lại, Bí tích hòa giải không chỉ đơn thuần tha các tội nặng nhẹ con người có thể phạm, mà còn là phương thế hữu hiệu để giúp con người trở nên hoàn thiện, qua cố gắng xa tránh mọi tội lỗi để trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối..

Chính trong chiều kích thiêng liêng nói trên mà mọi tín hữu được mời gọi cách riêng trong Năm Đức Tin  này là hãy siêng năng đến với bí tích hòa  giải trong tâm tình  ca tụng và cảm tạ  tình thương, tha thứ  vô biên của Chúa và cũng để nói lên quyết tâm cải thiện đời sống thiêng liêng bằng cố gắng chừa bỏ dần dần  mọi tội lỗi như một thiện chí muốn trở nên hoàn hảo hầu xứng đáng được "thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này" như Thánh Phêrô đã mời gọi (2 Pr 1:4).

Ước mong mọi quí tín hữu suy nghĩ và thực hành mục đích của bí tích hòa giải trong Năm Đức Tin này.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Thói Quen Tốt Tạo Thành Công

Trên thực tế, ranh giới lớn nhất giữa thành công và thất bại xuất phát từ những thói quen khác nhau. Thói quen tốt là chìa khoá mở cánh cửa thành công. Thói quen xấu, tức là một cánh cửa đi đến thất bại đã mở sẵn. Vì vậy, việc đầu tiên phải làm là trau dồi và giữ gìn cho mình một thói quen tốt

Dưới đây là 5 thói quen tạo nên sự thành công:

1. Dám nghĩ - dám làm: tin vào bản thân

Cơ hội có thể đến với tất cả mọi người, nhưng thành công chỉ đến với những ai dám nghĩ, dám làm. Bạn đang có rất nhiều ý tưởng cho công việc và cuộc sống, vậy hãy hành động ngay để biến điều đó thành hiện thực. Muốn vậy, nhất thiết bạn phải loại bỏ sự nghi ngờ bản thân, tạo thói quen tự tin, mang dáng vẻ của người thành đạt.        

Nếu tâm trí cứ mãi luôn "áy náy", vướng mắc vào chuyện người khác nghĩ gì về mình, thường hay tự lên án mình, rụt rè như thế thì làm sao có được thái độ "dám nghĩ, dám làm" của con người thành công thời hiện đại? Vì thế, khi gặp phải vấn đề khó chịu, nếu phải quyết định, hãy tập thành thói quen "lập tức làm ngay", đừng chần chừ do dự.

2. Tạo thói quen thoải mái.

Mệt mỏi và căng thẳng dễ khiến người ta lo lắng, tinh thần không tốt. Vì thế, hãy thường xuyên tự hỏi: "Tôi có làm cho công việc của mình trở nên nặng nề hơn so với thực tế hay không, sự việc có thật sự đáng trầm trọng như vậy?"            

Cuối ngày hãy kiểm điểm bản thân: "Tôi có mệt mỏi nhiều không, vì sao cảm thấy mệt mỏi?". Khi cảm thấy mệt mỏi cực độ, phải mau chóng nghỉ ngơi thoải mái, không nên gắng gượng, "tham công tiếc việc", bởi lâu ngày như vậy sẽ mang tới gánh nặng rất lớn cho tinh thần.

3. Tạo thói quen làm việc ngăn nắp

- Dẹp bỏ mọi loại giấy tờ vô dụng trên bàn làm việc của bạn. 
- Làm việc theo mức độ ưu tiên, phân rõ sự quan trọng công việc nào là chính yếu.            
- Học cách tổ chức, tạo thói quen phân lớp trách nhiệm và quản lý. 

4. Tạo thói quen ung dung thư thả

Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu có được thái độ thong thả, thuận theo tự nhiên, bạn sẽ linh hoạt ứng phó với sự việc. Nếu thiếu kiên nhẫn, lúng túng vì cuống quít, tâm trí của bạn sẽ bị cảm xúc tiêu cực lấn át làm mất đi năng lực suy nghĩ bình thường. 

5. Tạo thói quen ngủ ngon

Một người mắc chứng mất ngủ không thể nào đủ nhiệt tình để làm việc và vui sống. Vì thế, ngoài việc cần thiết, sinh hoạt ban đêm đừng quá độ. Cố gắng dành thời gian cho chính mình, nên nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Hạn chế những chất gây hưng phấn như trà đặc, café, thuốc lá và rượu... Ngoài ra cũng đừng sợ mất ngủ, nếu nghi ngờ mình có chứng mất ngủ, bạn phải đi bác sĩ điều trị. Vì nếu bạn luôn lo lắng mất ngủ thì nguy cơ của nó sẽ nhiều hơn rất nhiều.

Chỉ có một loại thói quen này mới có thể khống chế một loại thói quen khác. - Trải qua nhiều lần lặp lại, một việc dù phức tạp đến đâu cũng trở nên dễ làm. Thế là, một thói quen bắt đầu ra đời và trở thành tự nhiên.

Khi hiểu rõ sức ảnh hưởng của thói quen đối với thành công, bạn hãy khắc phục thói quen xấu của mình bằng cách tập thành các thói quen tốt, vì chỉ có một loại thói quen này mới có thể khống chế một loại thói quen khác. Từng bước xây dựng thói quen tốt, kết quả là bạn sẽ thành công, trở thành một người được hoan nghênh rộng rãi.

Tuấn Văn tổng hợp
Nguon: khatvongtuoitre.com

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Sức Phát Triển Mạnh Mẽ Của Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc

Vatican (Avvenire 8-4-2012) - Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000.

Trong bài viết đăng trên nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012 vừa qua, linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano cho biết kinh nghiệm cha đã có trong các chuyến viếng thăm Hàn Quốc. Hồi năm 1986 cha đã thăm Hàn Quốc cùng với cha Pino Cazzanga, cùng Hiệp hội, làm việc bên Nhật Bản, nhưng nói tiếng Hàn rất thành thạo. Hồi đó cũng như hiện nay, hằng năm có rất đông người xin gia nhập Giáo Hội Công giáo. Mỗi giáo xứ có từ 200 đến 400 Phật tử theo Công giáo. Số tân linh mục hằng năm vào khoảng 130 đến 150 vị. Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.

Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.

Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Đức cha Simon Chen, Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Hàn Quốc cho biết từ năm 1986 đến nay người ta ghi nhận một khuynh hướng mạnh mẽ hướng tới Kitô giáo. Lý do là vì Kitô giáo truyền bá tư tưởng bình đẳng giữa tất cả mọi người, được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Người. Ngoài ra cũng vì sự kiện các tín hữu Công giáo cũng như Tin lành đều đã tham gia vào phong trào nhân dân chống chế độ quân đội độc tài cai trị Hàn Quốc trong các năm 1961-1987, trong khi Khổng giáo và Phật giáo thăng tiến thái độ sống vâng phục chính quyền. Thế rồi Kitô giáo là tôn giáo của một vì Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu chuộc nhân loại, trong khi đạo phù thủy, Khổng giáo và Phật giáo không phải là các tôn giáo, mà chỉ là các hệ thống khôn ngoan nhân loại và triết lý sống. Sau cùng là sự phát triển kinh tế, xã hội và dân sự rất nhanh chóng nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến giữa Bắc và Nam Hàn kéo dài trong các năm 1950-1953. Sự phát triển nhanh chóng đó đã khiến cho Hàn Quốc trở thành một nước tiến bộ và thịnh vượng, trong đó các tôn giáo cổ không có các câu trả lời cho các vấn đề của cuộc sống tân tiến.

Một trong các đặc thái của Giáo Hội Hàn Quốc đó là sự cộng tác tuyệt vời của giáo dân vào việc rao giảng Tin Mừng. Thật ra, trái với lịch sử của các Giáo Hội khác trên thế giới, Giáo Hội Nam Hàn đã do chính các giáo dân thành lập. Vào thế kỷ XVIII, một vài triết gia và nhà ngoại giao Hàn đã theo đạo bên Bắc Kinh, rồi về nước rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội Công giáo. Trong các năm 1779-1836, tức khi các thừa sai đầu tiên người Pháp tới Đại Hàn, thì Kitô giáo đã được phổ biến trong nước, nhưng sau đó bị bách hại khốc liệt. Nhưng sự cộng tác của giáo dân thì vẫn tồn tại mạnh mẽ. Ngày nay tại Hàn Quốc, những ai muốn gia nhập Kitô giáo đều biết rằng mình phải có bổn phận dấn thân trong một hiệp hội hay phong trào nào đó hiện hữu trong các giáo xứ. Thái độ sống đạo thụ động không được tín hữu chấp nhận. Trong Tổng Giáo phận Seoul có hơn 200 giáo xứ. Cha Piero Gheddo đã thăm giáo xứ Kuro 3 Dong, là giáo xứ thuộc vùng ngoại ô, có đa số dân là công nhân thợ thuyền, do các cha dòng Salesien trông coi. Số tín hữu Công giáo được khoảng hơn 9.500 trên tổng số 150.000 dân cư. Mỗi năm có 600 người xin gia nhập Giáo Hội.

Linh mục Paul Kim Bo Rok, cha sở giáo xứ, cho biết nhân lực của giáo xứ gồm hai linh mục và bốn nữ tu. Nhưng công việc truyền giáo và dậy dỗ tôn giáo do các giáo dân đảm trách, qua tám lớp học giáo lý, chia thành nhiều giờ khác nhau, có các giáo lý viên khác nhau dạy. Các anh chị em giáo dân này là thành viên các hiệp hội và phong trào khác nhau, hoạt động rất mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào Đạo Binh Đức Mẹ. Hằng năm giáo xứ cử hành hai ba lễ Thánh tẩy, mỗi lần như thế có 200-300 người hay hơn nữa lãnh bí tích Rửa tội sau một năm học đạo. Thời gian tuy ngắn chưa đủ, nhưng giáo xứ không thể làm hơn vì số người xin gia nhập Giáo Hội quá đông. Việc đào sâu đức tin đến sau đó, và do thành viên các phong trào giáo dân đảm trách.

Tại Hàn Quốc, trở thành Kitô hữu cũng có nghĩa là gia nhập một hiệp hội hay phong trào và dấn thân sống đức tin Kitô hết mình, theo các điều lệ xác định cung cách sống, đóng góp niên liễm tham dự hằng năm, và hàng ngày phải đọc một số kinh nguyện nào đó. Khi gia nhập Giáo Hội, thì tín hữu chấp nhận tất cả. Và đó là tinh thần sống đạo của người Đại Hàn: hoặc là chấp nhận và dấn thân hay là không chấp nhận và bỏ đạo.

Cha Paul Kim Bo Rok cũng còn cho biết tại Hàn Quốc tôn giáo là một chuyện nghiêm chỉnh bắt buộc tín hữu phải dấn thân. Đương nhiên là luôn luôn có nguy cơ của kiểu giữ đạo hình thức, hời hợt bề ngoài, thiếu hiểu biết và không xác tín, nhưng cũng có tất cả một nền văn hóa dấn thân nghiêm chỉnh. Còn hơn thế nữa, Kitô giáo là một sức mạnh chính yếu tạo ra ý thức cá nhân và sự tự do của con người. Tuy nhiên cũng có các nguy cơ đi ngược lại của khuynh hướng vụ hình thức, sự tục hóa và chủ thuyết duy vật thực tiễn, khiến cho tín hữu xa rời tinh thần tôn giáo.

Hàn Quốc là quốc gia đã có một nền kinh tế tiến triển mạnh mẽ. Cảnh nghèo túng cách đây 30 năm đã biến mất. Ngày nay nó đang bước vào sự phồn thịnh và giàu có. Nhưng cũng chính vì thế cần phải củng cố việc đào tạo cung cấp cho các tín hữu sự hiểu biết đạo sâu xa, một cách cá nhân, ý thức và xác tín hơn. Cha Kim Bo Rok nói: chúng tôi bị tràn ngập bởi làn sóng các cuộc hoán cải và xin theo đạo. Chúng tôi xin các anh chị em Kitô hữu trên thế giới giúp lời cầu nguyện cho chúng tôi.

Số người xin theo đạo nhiều tới độ hằng năm phải tổ chức các lễ nghi ban bí tích Rửa tội 3 lần vào các dịp lễ Phục Sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống và Giáng Sinh. Cha Piero Gheddo kể rằng hồi năm 1986, tại giáo xứ Bang Kim Dong tỉnh Kwangiù, cha đã tham dự lễ nghi ban bí tích Rửa tội cho 114 người lớn và con cái của họ. Đó đã là một dịp lễ vui cho toàn cộng đoàn, với một cuộc rước dài gồm người lớn nam nữ và trẻ em mặc y phục màu trắng giữa tiếng thánh ca, âm nhạc và biết bao nhiêu tươi vui phấn khởi.

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu.

Có thể Giáo Hội Công giáo Hàn Quốc sẽ không đạt tới con số này, nhưng nội sự kiện Giáo Hội phát động phong trào rao giảng Tin Mừng từ năm 2008 chứng minh cho thấy tinh thần truyền giáo hăng say của tín hữu Hàn Quốc, và mọi người đều biết rằng anh chị em giáo dân là các tác nhân chính của công cuộc truyền giáo này. Ngày lễ Phục Sinh 8-4-2012, Giáo Hội Hàn Quốc đã có thêm hàng chục ngàn người khác gia nhập Giáo Hội Công giáo. Sự kiện này là một lời thôi thúc chúng ta đừng bao giờ bi quan đối với tương lai của Giáo Hội.

Tại Tây Âu, các Giáo Hội đang trải qua cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng với sự kiện chối bỏ căn cội Kitô của mình, khai trừ các biểu tượng tôn giáo, tháo gỡ Thánh Giá và tượng ảnh của Chúa khỏi các nơi công cộng, khích bác, chỉ trích, phỉ báng Giáo Hội và hàng giáo phẩm, cổ võ cho các hình thái sống đạo lệch lạc xa rời giáo lý Công giáo, tranh đấu cho tự do ngừa thai, phá thai, chung sống không kết hôn, hôn nhân đồng phái, v.v..

Nhưng trong các Giáo Hội trẻ như Giáo Hội Hàn Quốc, hoạt động của Chúa Thánh Thần trao ban cho chúng ta một tia hy vọng và niềm vui phục sinh. Hồi thập niên 1980, trong 10 năm chuẩn bị lễ phong thánh cho các vị tử đạo Đại Hàn, Giáo Hội Công giáo Hàn Quốc đã phát động phong trào mỗi một tín hữu phải làm sao để cho một người khác theo đạo, khiến cho số tín hữu đã gia tăng gấp đôi. Với phong trào "truyền giáo hai mươi hai mươi" lần này, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc có triển vọng sẽ đạt 20% tổng số dân, từ 5 triệu tăng lên 10 triệu.

Và như thế về số tín hữu, Giáo Hội Công giáo Hàn Quốc sẽ qua mặt cả Giáo Hội Công giáo Việt Nam, là Giáo Hội kỳ cựu hơn vì có lịch sử gần 400 năm truyền giáo; nhưng cho tới nay đã chỉ có cung cách sống đạo chiến lũy nội bộ, ít hiểu biết và chú ý tới nhiệm vụ rao truyền Tin Mừng, hầu như không có tinh thần truyền giáo, đa số các vụ theo đạo chỉ vì lý do hôn phối, có ý thức dấn thân sống đạo xác tín yếu kém, vụ hình thức bề ngoài, mà không có ảnh hưởng sâu đậm trên một môi trường xã hội băng hoại như xã hội Việt Nam hiện nay. Một trong những lý do khiến cho Giáo Hội Công giáo Việt Nam không có ảnh hưởng nhiều có thể là vì đã không dám công khai can đảm mạnh mẽ lên tiếng về vận mệnh đất nước và bênh vực các quyền con người.

Linh Tiến Khải
(Radio Vatican)

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

CHUYẾN TỪ THIỆN TẠI KONTUM

Nhóm Bác Ái Vinh Sơn và Têrêsa Hài Đồng Giêsu Vĩnh Long  phối hợp thực hiện. Đoàn từ thiện gồm có 46 người: 2 cha, 1 sơ, 3 bác sĩ và 40 giáo dân.

Ngày 10/01/2014

- 6h sáng chúng tôi tập trung trước cửa nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long để chuyển đồ lên xe . Đồ tặng và thức ăn chất đầy xe, đồ đem theo xem ra nhiều hơn người. Mọi người chuẩn bị chuyến đi trong tinh thần phấn khởi. Người đi cũng như người ở lại vẫy tay chào nhau với lời chúc: "Thượng Lộ Bình An".

- Đoạn đường từ Bình Phước đi Pleiku đang sửa chữa gồ ghề, xe không thể chạy nhanh được. Để xua đi sự mệt mỏi, chúng tôi hát ca kể chuyện vui làm cho bầu khí thêm vui tươi thân thiện. Sau hành trình suốt 24h trên xe, chúng tôi mới đến Kontum.

Ngày 11/01/2014

- 6h sáng chúng tôi tới thành phố Kon Tum và đi vào Pleirơ-Hai, Konhorahotu. Từ xa đã thấy đồng bào tập trung từ rất sớm với những đống lửa được đốt lên để xua đi cái lạnh cắt da. Tại đây chúng tôi đã trao tặng 200 phần quà gồm có: gạo, muối, nước tương, mì gói, cá khô, 250 áo ấm, kẹp tóc cho các em nữ, 5 bao quần áo và 2 triệu đồng tiền mặt. Nụ cười hiền từ, ấm áp, vui tươi khi nhận được quà đã khích lệ chúng tôi tiếp tục đến Konray huyện Konlong.

- 10h sáng chúng tôi đến Konrẫy. Như ở Konhorahotu, những người dân tộc, với những chiếc váy dân tộc và mũ đủ màu của những người già hay những bà mẹ địu con trên vai và tay lại dắt một, hai đứa con nữa, người nào cũng đen nhẽm. Chúng tôi đã trao tặng 200 phần quà gồm có: đường, bột nêm, nước tương, nước mắm, cá khô, mì gói, 250 áo ấm, kẹp tóc cho các em nữ, 5 bao quần áo và 2 triệu đồng tiền mặt.

- Khám bệnh và phát thuốc cho gần 1000 bệnh nhân và 2 triệu đồng tiền mặt.

- Thăm viếng và tư vấn sức khỏe cho chị em phụ nữ. Quanh năm chỉ biết lên nương làm rẫy và cùng dắt con đi theo, đứa lớn nắm tay đứa bé. Cả tuần không có được 5.000đ  trong gia đình. Bệnh tật chỉ biết hái lá cây làm thuốc. May mắn lắm mới có được vài viên thuốc. Ngày ăn hai bữa cơm độn với lá mì, củ chuối hòa lẫn với gạo, ngô, khoai...Hiếm khi có bữa ăn là gạo. Người phụ nữ ba mươi tuổi có 8 đứa con là chuyện bình thường. Một người đàn ông nói với chúng tôi: " Ơ, Ông Trời cho mấy trứng thì đẻ hết mấy đứa"!  Người mẹ ốm nhom và đen thui. Sử dụng xà phòng để tắm, giặt là chuyện hoang phí ...

- Một nhóm chị em giúp cắt tóc cho trẻ em và người lớn.

Ngày 12/01/2014.

- Sương mù dày đặc và không thấy lối đi. Chúng tôi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật ở Nhà thờ Konrẫy. Nhà thờ chật kín người, trật tự, trang nghiêm hiếm thấy. Thật ấn tượng! Sau Thánh lễ, mọi người đến viếng Đức Mẹ Măng Đen. Nguyện xin Mẹ chúc phúc và đồng hành với chúng con luôn mãi.

- Trên đường về ghé thăm hai mái ấm Vinh Sơn 4 và Vinh Sơn 6. Gửi đến các em 600 phần quà gồm có: bánh, kẹo, sữa, kẹp tóc, cá khô và tiền mặt (mỗi mái ấm 1 triệu đồng). Và cùng vui chơi sinh hoạt với các em.

- Với tinh thần "Gà cùng một mẹ", "Bí chung một giàn", chúng tôi đã gửi một tấn gạo cho bà con nghèo thuộc Họ Đạo Chánh Tòa Vĩnh Long và 3 triệu đồng cho Phòng thuốc Từ Thiện của Họ Đạo.

Ngày 13/01/2014.

- 11h30, chúng tôi về đến Vĩnh Long. Mọi người nhẹ lòng vì đã góp phần chia sẻ ít nhiều cho bà con nghèo tại Kontum xa xôi với  ước mong sẽ còn có những chuyến đi kế tiếp...

TÌM HIỂU VỀ ĐỨC TIN

14- Thưa Cha, phải hiểu theo nghĩa nào, tiếng "nghèo" trong Kinh Thánh?

Nên phân biệt hai nghĩa. Trước hết, người nghèo, như người đàn bà góa và kẻ mồ côi, là người bần cũng cần được giúp đỡ (Sách Lê- vi, chương 19, câu 1; Đệ Nhị Luật, chương 15, câu 7- 11). Còn người nghèo, trong Cựu Ước và Tân Ước, ám chỉ kẻ khiêm nhu trong lòng, biết từ bỏ mọi sự dư thừa, như "người khiêm nhu trên trần gian" đang thực thi luật Chúa của tiên tri Sophônia (chương 2, câu 3).

Bản thân Chúa Kitô đã sống cuộc đời của người nghèo. Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài nên sống như vậy... Điều đó, các Tông đồ đã nghiêm chỉnh chấp hành khi từ bỏ mọi của cải và nghề nghiệp. Cái nghèo nầy không vì bất đắc dĩ, mà được đón nhận như hệ quả của việc lựa chọn, việc dấn than. Đối với cậu thanh niên giàu có muốn sống đời thiện hảo, Chúa Kitô đề nghị nên bán hết gia sản để được kho báu trên trời (Mátthêu 19,21). Và trong các mối phúc thật, Chúa Kitô hứa ban nước Trời cho những người nghèo "phúc cho những ai khó nghèo tại tâm, vì Nước Trời là của họ" (Mátthêu 5,3).

15- Thưa Cha, Pharisiêu là gì?

Ngày nay, từ ngữ này trở nên thông dụng: Pharisiêu chỉ một con người khoe khoang cách giả dối nhân đức và lòng mộ đạo của mình. Vào thời Chúa Giêsu, có nhiều người pharisiêu rất đạo đức, cẩn thận giữ Lề Luật như kỷ cương cho cuộc sống. Họ quan tâm nghiên cứu học hiểu Luật và tích cực trung thành tuân giữ. Trái ngược với người sađốc, người pharisiêu tin vào sự sống lại. Dân chúng rất trọng vọng họ. Còn người sađốc xuất thân từ những gia đình quý tộc, thuộc hàng tư tế, phục vụ Đền thờ, thường lại cộng tác đắc lực với chính quyền đô hộ. Người Pharisiêu tự chuốc lấy những lời chỉ trích của Chúa Giêsu, Ngài phê phán họ quá chăm chú vào từng nét, từng chữ trong Kinh Thánh và chê trách vài người trong họ hay phô trương, thậm chí giả dối trong mọi hành vi đạo đức.

16- Thưa Cha, các con số tượng trưng trong Kinh Thánh có ý nghĩa gì? Ví dụ như số 666 trong sách Khải Huyền?

Việc sử dụng các con số trong Kinh Thánh thường mang một ý nghĩa thần học. Ví dụ 7 là con số thánh như sự toàn hảo của Thiên Chúa (Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trong 7 ngảy); số 6 là con số của loài người (con người được tạo dựng vào ngày thứ 6); và hai lần 6=12, là con số của Dân Chúa (có 12 chi tộc Israel, mười hai tong đồ vì ngay cả khi Giuđa chết, các tông đồ chọn Mátthias thay thế Giuđa).

Các con số 666 xuất hiện trong sách Khải huyền (13,18), Thánh Gioan viết rằng: "Đây là lúc cần phải có sự khôn ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính ra số của tên Con Thú, vì đó là số của tên một người, và số của tên người ấy là sáu trăm sáu mươi sáu."

Để hiểu ý nghĩa của con số đó, ta nên nhớ rằng, sách Khải huyền được viết trong thời kỳ loạn lạc và các Kitô hữu bị quân La Mã bách hại. Con vật tượng trưng thế lực, cường quyền mà con người sử dụng hòng chống lại Thiên Chúa. Vài nghiên cứu còn đi xa hơn, theo tiếng hy- bá- lai, mỗi chữ cái được cấp cho một chữ số, phù hợp với vị trí của nó trong mẫu tự. Như vậy, khi ta đem cọng các chữ số của một danh xưng, ta có được một con số. 666, là số tổng cộng phù hợp với danh xưng Néron.

17- Thưa Cha, khi đọc Tin Mừng, ta thường gặp dụng ngữ "Nước Thiên Chúa". Ý nghĩa chính xác của dụng ngữ này là gì?

Nước Thiên Chúa là một hình ảnh diễn đạt sự hiện diện, tác động của Thiên Chúa trên dân Ngài. Đó không phải là một phần thưởng để dành sau khi chết. Nếu nước Thiên Chúa chưa đến, thì nước ấy hiện diện đây rồi. Điều đó có nghĩa là gì? Một phần, nên biết rằng nước Chúa chỉ đến vào ngày tận thế. Các môn đệ hỏi Chúa Giêsu khi nào Ngài mới thiết lập nước Ngài (Cv 1,6). Chúa Giêsu trả lời: "Các con không được biết ngày và giờ mà quyền năng Cha ta đã định". Nhưng mà, phần khác, Chúa Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã bắt đầu: "Tin Mừng của Nước Trời được loan truyền, ai cũng phải cố gắng hết sức mới vào được". (Lc 16,16).

Chúng ta có thể nói rằng chúng ta sẽ biết nước Thiên Chúa khi Ngài tự tỏ mình ra cho mọi người, trong sự sung mãn của Ngài. Trong khi chờ đợi, chúng ta tích cực làm cho nước Thiên Chúa mau đến, không cần phô trương ồn ào, nhưng bằng một đời sống mới, đời sống thiêng liêng.

Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết lập là chủ thể của Nước Thiên Chúa đang đến. Để giải thích điều đó cho các môn đệ, Chúa Giêsu dung dụ ngôn: "Nước Thiên Chúa giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình", "Nước Thiên Chúa còn giống như lưới bắt cá" (Mt 13). Tất cả các dụ ngôn đều đề cao sự tác động không ngừng của Thiên Chúa và sự hoán cải mà con người cần có để được đón nhận vào Nước Thiên Chúa.

18- Chúa Ba Ngôi là gì? Làm sao hiểu được? Làm sao tin được?

Chính Thêôphilê ở Antiôkia, vào khoảng năm 180, đã dùng từ

"Ba Ngôi" để diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa cho các tín hữu.

Nên hiểu "mầu nhiệm" theo nghĩa thần học "mầu nhiệm là một thực tạo không thể giải thích bằng lý lẽ, nhưng được Thiên Chúa mặc khải để cho con người hiểu biết nhờ đức tin".

Quả thực, từ "Ba Ngôi", ở số ít, chỉ định rõ ràng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất cho mọi tín hữu. Theo nguyên ngữ (từ số con số ba theo nghĩa hy ngữ) thì sự duy nhất không có nghĩa là một khối chặt chẽ: đó là sụ duy nhất tình yêu giữa Ba Ngôi cũng một bản tính, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Giáo lý về Ba Ngôi Thiên Chúa được hình thành từ đầu thế kỷ thứ II và trong thế kỷ thứ III, để giúp đỡ các tín hữu, bởi vì lúc bấy giờ, chỉ nhờ vào một đức tin hết sức chân chất mà các tín hữu đầu tiên kinh nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, đơn nhất trong Ba Ngôi Vị.

19- Điều gì đã xẩy ra sau khi Chúa Giêsu Kitô chịu chết? Có chúng cứ về Chúa sống lại không? Có thể là Kitô hữu mà không tin vào sự sống lại không?

Không ai có thể là Kitô hữu mà không tin vào việc Chúa Kitô sống lại.

Như Thánh Phaolo đã nói, nếu Chúa Kitô không sống lại, thì đức tin của tôi hóa nên vô ích. Sụ Phục Sinh của Chúa Giêsu là trung tâm điểm của Đức tin chúng ta. Bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi, sau khi chết, tiến đến cuộc sống tình yêu của Chúa Cha. Các sách Tin Mừng không kể lại điều gì đã xảy ra đúng vào lúc Chúa Giêsu sống lại. Các Thánh sử chỉ tường thuật: vào sáng sớm Phục Sinh, các phụ nữ, rồi các tông đồ, chạy đến mộ Chúa như thế nào và họ thấy mộ Chúa trống rỗng. Chúa Giêsu hiện ra sau đó cho Bà Mađalêna với dáng vẻ người làm vườn, rồi Chúa lại hiện ra cho các môn đệ trên đường Emmaus và cho nhiều môn đệ khác nữa.

Các đoạn Tin Mừng tường thuật lại những cuộc hội ngộ này là bài học phong phú cho đức tin của chúng ta. Nếu đọc cho thật kỹ, chúng ta sẽ khám phá ra rằng không phải các tông đồ hay các chị phụ nữ đi tìm Chúa Giêsu để nhận ra Ngài đang sống. Chính Ngài hiện ra cho họ. Thoạt đầu, không ai nhận biết Ngài. Chính Chúa Giêsu nhắc lại những sự kiện đã xảy ra trong đời Ngài, gợi lại cái chết của mình dưới ánh sáng Thánh Kinh, tham dự bữa ăn, bẻ bánh. Chính nhờ lời nói và việc làm của Ngài mà họ nhận biết Ngài. Lúc bấy giờ, mọi việc đều rõ. Họ tin. "Lúc bấy giờ, mắt họ liền mở ra và nhận biết Ngài" (Lc

24,31). Tất cả các môn đệ nhận biết Chúa Giêsu đang sống, và chính Ngài sai họ đi loan báo Tin Mừng.

Không có những chứng cớ hiển nhiên về sự phục sinh của Chúa Kitô, nhưng việc đó là có thực đối với tất cả những ai tin vào các chứng nhân của Chúa Kitô và vào lời họ nói. Các chứng nhân này đã thông truyền cho mọi người biết cuộc hội ngộ của họ với Đấng phục sinh. Trong sách Phúc Âm, thánh Tôma đã muốn kiểm chứng việc Chúa Giêsu sống lại bằng cách sờ vào các dấu thánh. Chúa Kitô khuyến cáo ông: "Phúc cho ai không thấy mà tin". Điều này áp dụng cho chúng ta, hai ngàn năm sau.

20- Thưa cha, Thiên Chúa đã dựng nên muôn vật, còn ai tạo nên bao nỗi bất hạnh?

Kitô hữu không phải là người theo thuyết nhị nguyên. Họ tin rằng Thiên Chúa tạo dựng nên điều thiện, đồng thời, lại có một đấng quyền năng tương đương, tạo nên điều ác và điều bất hạnh. Thiên Chúa là Đấng tạo thành mọi sự.

Thế nhưng tại sao ta có thể quả quyết rằng Thiên Chúa là Tình yêu, nếu đồng thời, Ngài cũng là nguồn gốc sự dữ? Không khéo ta lại biện hộ cho Ngài vô tội khi ta tin vào Ngài. Nhưng mà, khi làm như vậy, ta sẽ lạc lối, sai lầm.

Thiên Chúa không dùng sự bất hạnh như một phương cách để ta đạt đến một điều tốt lành hơn; sụ bất hạnh càng không phải là một hình phạt, như bài học để ta nhớ đời. Vậy thì tự do của chúng ta là gì? Thế nhưng, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng sự bất hạnh có thể phát sinh từ sự tự do mà ta lạm dụng. Tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về sự thiếu thân thiện, về tính ích kỷ, về sự bất công càng ngày gây khó khăn cho cuộc sống, đó là hậu quả tội lỗi của chúng ta.

Nhưng phải nói làm sao về những bất hạnh tự nhiên giáng xuống trên đầu chúng ta?

Thay vì chú tâm tìm cho ra lẽ, đức tin mời gọi người Kitô hữu nên đối phó trước sự dữ, trước nỗi bất hạnh mà bản chất thực là vô lý đó. Đối phó với mọi biểu hiện của chúng bằng nào có thể và vượt lên trên mọi thử thách bằng cách quả quyết rằng con người được dựng nên là để hưởng thụ hạnh phúc và niềm hoan lạc. Nên xem mỗi một nỗi bất hạnh như một cái chết chuẩn bị cho sự lìa bỏ cuộc đời. Để trở về với Thiên Chúa tình yêu, ta nên "dần dần từng bước hiến mạng sống mình". Chính lúc trở nên cơ cực, mà ta càng có khả năng yêu thương.

(còn tiếp)

JEAN-MICHEL DI FALCO, GIẢI ĐÁP 100 VẤN NẠN VỀ ĐỨC TIN, Nxb Centurion, 1993).

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang trình bày và giới thiệu.

1476    03-03-2014 10:02:29