Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Gia Đình Sống Và Cử Hành Bí Tích Thánh Thể - tháng 02 năm 2014

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
  3. Diễn Giải
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Tìm Hiểu Giáo Luật
  7. Trang Linh Mục  
  8. Trang Tu Sĩ
  9. Trang Linh Mục
  10. Trang Thiếu Nhi
  11. Trang Giới Trẻ
  12. Trang Gia Đình
  13. Trang Giáo Lý Viên
  14. Sống Đẹp
  15. Hỏi Đáp Mục Vụ
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Một Chút Tâm Tình
  18. Chia Sẻ Mục Vụ Bác Ái
  19. Tìm Hiểu Về Đức Tin

 LỜI CHỦ CHĂN

 Vĩnh Long,  ngày 25.01.2014

Kính gửi: Quý Cha,
               Quý Tu Sĩ nam nữ,
               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Gia Đình Sống Và Cử Hành Bí Tích Thánh Thể

Có dịp tham dự những thánh lễ hôn phối, rước lễ vỡ lòng, rước lễ trọng thể, thêm sức ta có dịp nhìn thấy người cha mẹ quỳ gần con cái mình - hoặc sau lưng - hoặc theo từng nhóm. Có một số nhà thờ (Vd: Nhà thờ Đức bà Sài Gòn) gia đình khi dự thánh lễ thì quỳ chung với nhau làm thành một nhóm ông bà, cha mẹ và con cái.

Chúa đã cử hành Bí Tích Thánh Thể với các Tông Đồ, các cộng đoàn đầu tiên đã cử hành Bí Tích Thánh Thể với nhau, các gia đình cũng có thể qui tụ quanh mộ của người thân đã mất, kể cả trong hang toại đạo để cử hành Thánh Lễ chung với nhau, nhất là trong thời kì bách hại Giáo Hội.

Gia đình là thành phần của Hội Thánh, là một Hội Thánh Thu nhỏ nên càng có lý do để sống và cử hành Bí Tích Thánh thể với nhau.

Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng cứu độ chúng ta, Đấng quy tụ, là anh em chúng ta. Chúa Kết hợp mật thiết với chúng ta để cử hành lời Chúa và Thánh Thể.

Khi gia đình cử hành Bí Tích Thánh Thể, không những ta có tương qua với Chúa mà còn sống cùng nhau:

- Cử hành.

- Nghe lời Chúa. Đáp lại lời Chúa bằng đáp ca.

- Cầu nguyện với Chúa: tổng nguyện, lời nguyện, hiệp lễ.

- Ca hát, ca tụng Chúa toàn năng, toàn mỹ: Ca nhập lễ, ca hiệp lễ...

- Tham dự hiến tế của Chúa Giêsu.

- Cùng nhau đi chịu lễ.

Hơn thế nữa, gia đình còn cầu nguyện cho Hội Thánh, cho thế giới:

- Cầu nguyện cho các gia đình khác.

- Cầu nguyện cho mọi thành phần của gia đình mình có khi tản mát, không qui tụ một nơi, còn sống hay đã qua đời.

Như vậy, gia đình cử hành Bí Tích Thánh Thể chung với nhau:

- Sẽ bớt lo ra, sẽ ít lo ra, sẽ lo cho những thành phần yếu mệt hay các trẻ em chu đáo hơn...

- Sẽ đem lại một hình ảnh đẹp về cộng đoàn dâng lễ.

Phêrô Dương Văn Thạnh       
     Giám Quản Gp. Vĩnh Long

GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

CHỦ ĐỀ: GIA ĐÌNH SỐNG VÀ CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệm và ban phát hiệu quả của hy tế này:

"Đức Ki-tô là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, đã tự hiến trên bàn thờ thập giá, cho Chúa Cha một lần dứt khoát. Người đã chết như Vị Chuyển Cầu cho chúng ta, để đem lại ơn cứu chuộc muôn đời cho nhân loại. Tuy nhiên, chức tư tế của Đức Ki-tô không chấm dứt khi Người chết (x. Dt 7,24.27). Trong bữa Tiệc Ly, vào đêm bị nộp (1Cr 11,23), Người muốn để lại cho Hội Thánh, Hiền Thê yêu dấu của Người, một hy tế hữu hình, vì bản tính con người cần như vậy. Hy tế đẫm máu đã được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá này được tái diễn và tưởng niệm cho đến tận thế (x. 1Cr 11,23), đem lại sức mạnh cứu độ tha thứ mọi tội lỗi chúng ta hằng phạm" (x. CÐ Trentô: DS 1740). (GLHTCG 1366 ) 

Thánh lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là Thân Thể của Đức Ki-tô, Hội Thánh tham dự vào lễ tế của Đức Ki-tô là Đầu. Cùng với Người, Hội Thánh cũng được dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Hội Thánh hiệp nhất với Đức Ki-tô để chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Trong thánh lễ, hy tế của Đức Ki-tô trở thành hy tế của mọi chi thể trong Thân Thể. Đời sống, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công việc của các tín hữu đều được kết hợp với Đức Ki-tô và với lễ dâng toàn hiến của Người; nhờ đó tất cả có được một giá trị mới. Hy tế của Đức Ki-tô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho muôn thế hệ Ki-tô hữu khả năng được kết hợp với lễ dâng của Người. (GLHTCG, 1368) 

DIỄN GIẢI

Thánh lễ là một hy tế có nghĩa là gì? Công Đồng Vaticanô II trình bày: "Đang khi ăn Bữa Tiệc Ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu độ chúng ta đã thiết lập hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, hy tế thập giá trường tồn qua mọi thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Ki-tô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai" (GLCG số 1323).

Phần diễn giải trên về hy tế Thánh lễ diễn tã ba chiều kích:

Trước hết, Bí tích Thánh Thể là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa để đền bù vì tội lỗi chúng ta.

Thánh lễ là một hy tế vì là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Tính chất hy tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước Mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20). Mình và Máu Đức Kitô trong Thánh lễ chiều ngày Thứ Năm Tiệc Ly chính là thân mình Người sẽ tự hiến trên thập giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, và đã "đổ hết máu ra cho mọi người được tha tội" (Mt 26,28).

Thánh Lễ là sự tưởng niệm Hy tế độc nhất của Đức Kitô: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (Lc 22,19). Tưởng niệm ở đây không chỉ là hồi tưởng, nhớ lại quá khứ, mà là "làm cho biến cố ấy trở thành hiện tại" (GLCG số 1363). Cho nên trong Thánh Lễ, khi chúng ta tưởng nhớ và loan báo sự chết, sự phục sinh của Chúa, thì những biến cố ấy trở thành hiện tại, luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Ki-tô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, 3).

Cái chết và cuộc sống lại của Đức Kitô đã trở nên lễ tế hoàn hảo đền bù tội lỗi chúng ta. Vì thế mỗi lần Thánh lễ được cử hành là hy tế thập giá được tái diễn để lôi kéo ân sủng và tình thương của Thiên Chúa xuống trên chúng ta  "và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày" (GLCG số 1366).

Theo Tông Huấn Đời Sống Gia Đình, Thánh lễ chính là nguồn mạchcủa hôn nhân và  dưỡng nuôi đời sống gia đình: "Bí tích Thánh Thể chính là nguồn mạch của hôn nhân Ki-tô giáo. Quả thế, hy lễ Thánh Thể diễn lại giao ước tình yêu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh, vì giao ước ấy đã được ký kết bằng máu của Người trên thập giá. Chính trong hy lễ của Giao ước mới và vĩnh cửu ấy mà các đôi bạn Ki-tô hữu tìm được nguồn mạch tuôn trào làm cho giao ước hôn nhân của họ được khuôn đúc từ bên trong và được sinh động bền bỉ" (số 57).

Trọn vẹn cuộc đời cuộc Đức Giêsu trên trần thế là  một của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha (GLCG số 606). Cuộc sống và những đau khổ của Người diễn tả sứ mạng "phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).  Thánh Thể chính là bí tích của một tình yêu tận hiến. Nhờ cái chết cứu độ của Ngài, Đức Kitô ban sự sống của Ngài cho chúng ta để chúng ta kết hợp với Ngài và được sống dồi dào.

Bánh Thánh Thể là dấu chỉ chính Thân Thể Chúa Giêsu hiến thân cho nhân loại, là bằng chứng của tình yêu tự hiến: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu hiến thân mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Vì vậy, Bí tích Thánh Thể được coi là Bí tích của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và yêu là muốn kết hợp với người yêu. Yêu là muốn điều tốt, muốn cho người yêu được sống dồi dào, và  tình yêu đòi buộc phải hy sinh, vì đau khổ, hy sinh là mặt trái của tình yêu. Nhờ năng tham dự Thánh lễ và rước lễ gia đình biết đón nhận lẫn nhau bất chấp hay dở, vì yêu là muốn điều tốt cho nhau, giúp nhau nên thánh và sống thủy chung với nhau. Thông phần vào cái chết và cuộc sống lại của   Chúa Giêsu, đôi vợ chồng biết sống chân thành yêu thương và tin tường giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc đời.

Thứ đến, Bí tích Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.

Con người cần ăn để sống; nhưng linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Minh Chúa để được sống đời đời. Bữa cơm hằng ngày giúp nuôi dưỡng và tạo nên mái ấm gia đình, là cơ hội để gia đình họp mặt quây quần bên nhau gầy dựng tình thân. Nhờ việc tham dự Thánh lễ và rứơc lễ gia đình sẽ được Chúa Kitô biến đổi thành "Hội Thánh tại gia" ngày càng tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng, gắn bó mật thiết hơn với Hội Thánh và Thiên Chúa. "Như của ăn vật chất mang lại sự sống cho thân xác thế nào, việc rước lễ cũng đem lại sự sống kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng như vậy. Khi các tín hữu rước lấy Mình của Đấng Phục Sinh, "Mình đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống" (x.PO 5), nhờ đó đời sống ân sủng đã lãnh nhận trong bí tích Thánh Tẩy được gìn giữ, phát triển và canh tân" (GLCG số 1392).

Sau cùng, Bí tích Thánh Thể còn là sợi dây liên kết, không phải chỉ liên kết chúng ta lại với Chúa, mà hơn thế nữa còn liên kết chúng ta lại với nhau.

Hiệp thông với Mình Máu Thánh Chúa, gia đình chằng những đón nhận của ăn đời đời cho linh hồn mà còn chia sẻ sứ mạng của Chúa là đem ơn cứu chuộc đến cho mọi người. "Bánh Thánh Thể làm cho những phần tử khác nhau của cộng đồng gia đình trở nên một thân thể duy nhất, một hình ảnh diễn tả và một sự tham dự vào Thân mình "bị phó nộp" và vào Máu "đã đổ ra" của Đức Ki-tô sẽ trở nên một nguồn mạch bất tận cho gia đình Ki-tô hữu đến múc lấy năng lực cho hoạt động thừa sai và tông đồ." (Tông Huấn Đời Sống Gia Đình số 57).

Bởi vì "trong thánh lễ, hy tế của Đức Ki-tô trở thành hy tế của mọi chi thể trong Thân Thể. Đời sống, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công việc của các tín hữu đều được kết hợp với Đức Ki-tô và với lễ dâng toàn hiến của Người; nhờ đó tất cả có được một giá trị mới. Hy tế của Đức Ki-tô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho muôn thế hệ Ki-tô hữu khả năng được kết hợp với lễ dâng của Người" (GLCG số 1368). Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải biết yêu thương, giúp đỡ và chia sẻ với  nhau gánh nặng cuộc đời.

Đón tiếp Chúa Giêsu vào trong linh hồn là chúng ta tiếp nối sứ mạng của Chúa, sống có ích cho người, cho đời;  dám hy sinh chia sớt cho tha nhân, những người đang gặp khó khăn về vật chất cũng như tinh thần, để trở thành của  lễ hiệp dâng với Chúa Kitô trong mỗi thánh lễ hằng ngày, l chúng ta cử hành với Chúa Giêsu thánh lễ cuộc đời mỗi ngày của chính mình và gia đình.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Ngày xưa, Chúa Giêsu sống trong gia đình Nagiaret, nên Thánh Gia Thất sống và cử hành Thánh Thể Chúa hằng ngày; ngày nay, mỗi gia đình Kitô-hữu cần có phương cách để Thánh Thể Chúa luôn ngự trong nhà mình. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Thiên thần nói: "Đừng ngại nhận Maria về làm bạn, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình trong Hội Thánh, biết làm cho bí tích Thánh Thể luôn hiện diện trong gia đình mình.

2. "Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà Simon, chữa lành mọi bệnh nhân". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình Công Giáo biết đón tiếp Thánh Thể Chúa vào nhà mình, bằng việc sám hối mọi tội lỗi, và tránh mọi mầm mống chia rẽ.

3. Chúa Giêsu nói với Giakêu: "Hôm nay, nhà này được ơn cứu rỗi". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình đang trong tình trạng nguội lạnh, rối rắm, ly thân,... sớm gặp được cơ hội ăn năn trở lại, sống và cử hành bí tích Thánh Thể.

4. "Sau ba ngày, Thánh Giuse và Đức Maria gặp lại Chúa Giêsu trong Đền Thánh". Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình trong họ đạo chúng ta, luôn gặp thấy và hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Thờ và trong nhà mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mỗi gia đình chúng con đón nhận và hiệp thông với Con Chúa để được hạnh phúc. Xin ban Thánh Thần đốt lửa kính mến Chúa trong lòng chúng con, giúp chúng con năng kết hợp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể. Amen

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

GIA ĐÌNH SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Gia đình được thiết lập trên nền tảng Tình Yêu, nên Tình Yêu Gia Đình phải được nuôi dưỡng và thanh luyện bằng Tình Yêu Thánh Thể.

Con người càng văn minh tiến bộ bao nhiêu thì càng quí trọng tình yêu trong tương quan giữa nam nữ bấy nhiêu. Ngày xưa hôn nhân có thể được xây dựng trên những nền tảng như vai vế của hai gia đình gọi là hôn nhân môn đăng hộ đối, hay quyền lợi của dòng họ, nhu cầu của nhà chồng...  Còn ngày nay người ta khó hình dung một cuộc hôn nhân lại không được xây dựng trên nền tảng tình yêu và tự do lựa chọn giữa hai người nam nữ.

Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu vì xuất phát từ Tình Yêu của Một Đấng Thiên Chúa nhập thể làm người. Do đó giữa tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại và tình yêu vợ chồng dành cho nhau có điều gì đó rất gần gũi. Trong cụ thể, tất cả các bà vợ ông chồng công giáo đều được mời gọi quy hướng tình yêu vợ chồng của mình về Tình Yêu Thiên Chúa là nguồn mọi tình yêu và cố gắng mô phỏng Tình Yêu của Con Một Thiên Chúa để biết cách yêu thương nhau và yêu thương con cái. Tình Yêu vợ chồng phải đuợc Tình Yêu Thánh Thể nuôi dưỡng, thanh luyện và thăng hoa! Thánh Phaolô đã từng khuyên: "Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh" (Ep 5,25). Nếu giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, mọi người sống với nhau bằng tình thương và hy sinh, quên mình theo gương Chúa Giêsu Thánh Thể, thì gia đình trở thành thiên đàng ở trần gian này!

Bí Tích Hôn Phối được cử hành trong khung cảnh Thánh Lễ, nên đời sống gia đình phải trở thành một Hy Lễ Tình Yêu. Hai Bí Tích Hôn Phối và Thánh Thể được cử hành cùng một lúc nên gắn liền với nhau. Điều đó gợi ý rằng trong đời sống gia đình, các cặp vợ chồng công giáo phải cố gắng sống cùng một lúc hai Bí Tích Hôn Phối và Thánh Thể. Nói cách khác, đời sống gia đình, với tất cả vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, phải trở thành một lễ dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày.

Chúa Giêsu là Quà Tặng mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Chúa Giêsu hiến dâng mình trong Bí Tích Thánh Thể để Tạ Ơn Thiên Chúa thay cho toàn thể nhân loại. Tình Yêu vợ chồng, trong tầm mức nhỏ bé của mình, cũng là Quà Tặng mà Thiên Chúa ban cho hai người. Vì thế suốt đời các cặp vợ chồng phải biết nói với Chúa lời tạ ơn về tình yêu ấy.

Trong Bí Tích Thánh Thể Chúa Giêsu đã biến mình thành bánh, thành rượu, thành lương thực nuôi sống chúng sinh. Vì thế các môn đệ Chúa là các Kitô hữu chúng ta, trong đó trước hết phải kể đến các người làm vợ làm chồng, các bậc cha mẹ công giáo, được mời gọi trở nên của ăn của uống cho người bên cạnh mà trước hết là cho những người trong gia đình là vợ, là chồng, con cái mình. Là tấm bánh bẻ ra, là "tấm bánh được ăn" có nghĩa là chúng ta biết hy sinh, quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác.

Bí Tích Thánh Thể hiện tại hóa hy lễ duy nhất của Chúa Cứu Thế và là lễ dâng của Hội Thánh. Đau khổ, thập giá là một phần không thể thiếu của đời sống con người nói chung và của đời sống gia đình nói riêng. Vợ chồng công giáo được mời gọi sống kết hợp chặt chẽ với Hy Lễ Thập Giá là chính Chúa Giêsu, để mọi đau khổ, thập giá của gia đình trở thành "giá" cứu chuộc cho chính bản thân và gia đình mình.

Bí Tích Thánh Thể làm nên Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô, vì tất cả những ai cùng ăn tấm bánh trên Bàn Thờ là Chúa Kitô thì trở nên một với Người. "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi và Tôi luôn kết hiệp với người ấy" (Ga 6,57). Hiệu quả lớn lao nhất của Bí Tích Hôn Phối là làm cho người nam và người nữ trở nên một (một xương một thịt), làm cho gia đình công giáo trở thành một cộng đoàn tương tự như cộng đoàn tín hữu đầu tiên (Cv 2, 42-47): hiệp thông sâu xa trong cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu; tha thiết mến yêu lời giảng dạy của các tông đồ và đời sống cầu nguyện, bí tích; yêu thương, đoàn kết, san sẻ trở thành chứng tá sống động cho người xung quanh. Trong cộng đoàn ấy Thánh Thể đảm bảo và củng cố sự hiệp nhất mà Bí Tích Hôn Phối đã thiết lập.

Các gia đình phải cố gắng học hiểu ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống gia đình và đem ra thực hành để gia đình mình trở thành gia đình tốt lành, thánh thiện. Sở dĩ nhiều gia đình Kitô hữu chưa là tổ ấm, chưa là thiên đàng vì những người sống trong đó vẫn đối xử với nhau theo lẽ thường tình của con người mà chưa sống hết ý nghĩa thâm sâu và cao cả của cộng đoàn gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp cho chúng con, những người trong gia đình biết hợp nhất với Chúa trong Bí tích Thánh Thể, đặc biệt là trong Thánh lễ hằng ngày để chúng con được hợp nhất với nhau trong Chúa.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

THỜI GIAN THÁNH (tt)
(Đ. 1244 - 1253)

II. Các ngày lễ
1.
Tham dự thánh lễ

a.     Lịch sử:

Lần lượt xem lại bốn Thánh sử, chúng ta thấy rằng tất cả đều thuật lại việc Chúa Giêsu phục sinh vào ngày Chúa Nhật (ngày thứ nhất sau ngày thứ bảy: Mt 28,1; Mc 16,2.9; Lc 24,1; Ga 20,1). Bên cạnh đó, các bài giảng đầu tiên của các thánh Tông đồ cũng nhấn mạnh đến việc Chúa sống lại như trung tâm của đức tin và ơn cứu rỗi. Sách Tông đồ công vụ (20,7) đã kể lại việc các tín hữu họp nhau để nghe thánh Phaolô giảng thuyết và cử hành Thánh thể vào ngày thứ nhất trong tuần. Trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Cô-rin-tô 16,2, thánh Phaolô còn khuyên các tín hữu nhân buổi họp ngày đầu tuần, hãy tổ chức việc quyên góp giúp người nghèo. Vì thế, không lạ gì khi các tín hữu tự ý hội họp để cử hành biến cố ấy vào ngày Chúa sống lại, ngày đầu trong tuần lễ.

Tiếng "Chúa nhật" (ngày của Chúa: dies Domini, dies dominica) đã xuất hiện trong sách Khải huyền 1,9 và dần dần thay thế tiếng ngày Mặt trời (Dies Solis, Sunday) của các lịch cổ truyền ở Âu châu.

Như vậy, có thể nói được tập tục cử hành biến cố Chúa phục sinh vào ngày Chúa nhật đã có từ đầu Giáo hội: các tín hữu họp nhau để dâng thánh lễ. Đó là ngày biểu lộ sự hân hoan, ngày làm việc từ thiện.

Dầu vậy, nhưng dần dần, do lòng nguội lạnh, các tín hữu tỏ ra chểnh mảng việc cử hành. Do đó, Giáo hội phải ra luật lệ để thúc đẩy. Theo con người tự nhiên, việc gì làm vì bị luật lệ thúc bách thì thường mất vui, mất tính cách tự phát. Mặt khác, nhiều khi các vị chủ chăn chỉ nhấn mạnh đến nghĩa vụ do luật đặt ra, nhưng không cố gắng trình bày lý do và ý nghĩa của nó. Nhiều người đến nhà thờ nhưng đầu óc họ để ở nơi đâu. Nhiều khi giáo dân ngáp dài ngáp ngắn, quay ngang quay dọc, mong cho lễ xong sớm để về nhà. Họ quên rằng chính họ đang tham dự một buổi liên hoan mừng Chúa phục sinh.

b.    Ý nghĩa:

Công đồng Vat. II trong số 109 Hiến Chế về phụng vụ đã trình bày vắn tắt ý nghĩa của ngày Chúa nhật như sau:

Theo truyền thống các tông đồ bắt nguồn từ ngày Chúa sống lại, Giáo hội cử hành mầu nhiệm Phục sinh và ngày Chúa nhật, tức là ngày của Chúa. Trong ngày ấy, các tín hữu họp nhau để nghe Lời Chúa và dự thánh lễ, để kính nhớ cuộc tử nạn, sống lại của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã dùng sự phục sinh của Đức Kitô để tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động.

Dựa vào lời dạy của Giáo hội, ta có thể rút ra những ý nghĩa chính của việc cử hành ngày Chúa nhật như sau:

1/. Cử hành việc Chúa sống lại, lẽ sống và hy vọng của chúng ta.

2/. Ngày lễ nghỉ ngơi, nhằm nói lên rằng việc phụng tự và đời sống thiêng liêng còn quan trọng hơn công ăn việc làm.

3/. Ngày để các tín hữu tụ họp nhau, ý thức mình là thành phần của một cộng đoàn đã được Thiên Chúa triệu tập, kêu gọi.

4/. Ngày để gặp gỡ và bàn tính những vấn đề của cộng đoàn họ đạo, và biểu lộ tình tương trợ với những người túng quẫn.

c. Luật buộc tham dự thánh lễ:

Trên đây là ý nghĩa của nghĩa vụ buộc các tín hữu đến nhà thờ tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật. Giáo luật cũng xác định rằng:

Theo truyền thống tông đồ, mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong ngày Chúa nhật, ngày đó phải được giữ như là ngày lễ buộc chính yếu trong Giáo hội toàn cầu...(đ.1246§1).

Nghĩa vụ nầy buộc các tín hữu đã được bảy tuổi trọn (tuổi xem như đã xưng tội rước lễ lần đầu rồi).

Việc tham dự thánh lễ bao gồm trọn vẹn thánh lễ, nghĩa là phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh thể.

Có thể tham dự thánh lễ tại bất cứ nơi nào, miễn là theo nghi lễ Công giáo.

Các tín hữu buộc tham dự thánh lễ trong chính ngày lễ trọng. Tuy nhiên, Bản quyền có thể cho phép cử hành thánh lễ vào chiều ngày áp lễ, xét vì lịch phụng vụ dựa theo lịch Do-thái bắt đầu mừng đại lễ vào chiều hôm trước.

Nơi đâu không thể cử hành thánh lễ được (vì thiếu linh mục, vì bệnh tật, vì ngăn trở nào khác), thì Đức giám mục có thể tổ chức cho các tín hữu một buổi cử hành Lời Chúa tại nhà thờ họ đạo hay tại một nơi nào khác, dưới sự hướng dẫn của phó tế, thầy giảng hay một giáo dân đạo đức và có khả năng. Nếu cũng không thể hội họp chung được nữa thì các tín hữu nên dành thời giờ cầu nguyện riêng tư hay với gia đình của mình.

2. Nghỉ lao động - kiêng việc xác (tháng 3/2014).

TRANG LINH MỤC

Đức Thánh Cha Phanxicô Phê Bình: Linh Mục Kinh Tài, Linh Mục Phô Trương

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình những Linh mục  kinh tài, phô trương không có quan hệ chân thực với Chúa Giêsu.       

Ngài đưa ra lời cảnh giác trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng 11-1-2014, tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Marta ở nội thành Vatican. Đồng tế với ĐTC có ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova, chủ tịch HĐGM Italia, và một nhóm LM thuộc quyền, trước sự tham dự của một số giáo dân.    

Trong bài giảng, ĐTC diễn giải bài đọc thư nhứ I của thánh Gioan Tông Đồ và nói về quan hệ của linh mục với Chúa Giêsu. Ngài nói: "Linh mục chân chính là người được Thiên Chúa xức dầu để phục vụ Dân Chúa, LM có quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu: khi thiếu quan hệ này, thì LM trở thành người không còn được xức dầu nữa, thành người thờ ngẫu tượng, thờ thần là cái tôi của mình."      

ĐTC cũng nhận xét rằng khi tiếng thăm của Chúa Giêsu gia tăng nơi dân chúng, thì Chúa rút lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Điều này chính là viên đá để so sánh, để kiểm chứng các LM chúng ta xem chúng ta có đi tìm Chúa Giêsu hay không? đâu là chỗ của Chúa Giêsu Kitô trong đời linh mục của tôi? Phải chăng đó là một quan hệ giữa trò và Thầy, giữa em với anh, giữa một người nghèo hèn với Thiên Chúa, hay chỉ là một quan hệ hời hợt.. không đến từ con tim?"

ĐTC nhấn mạnh rằng: "Những linh mục không còn được xức dầu nữa, LM giải dầu (unto), thì họ gây hại dường nào cho Giáo Hội! Những linh mục như thế đặt sức mạnh của họ nơi những điều hời hợt, trong sự háo danh... Bao nhiêu lần ta đau lòng khi nghe nói: Kìa, đó là một linh mục huênh hoang, một linh mục không có quan hệ với Chúa Giêsu! Một linh mục đã đánh mất sự xức dầu".        

ĐTC nói thêm rằng: "Các linh mục chúng ta có nhiều khuyết điểm, tất chúng ta là người tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta đến cùng Chúa Giêsu Kitô, nếu chúng ta tìm Chúa trong kinh nguyện - kinh nguyện chuyển cầu, kinh nguyện thờ lạy - thì chúng ta là linh mục tốt, mặc dù chúng ta là người tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta xa Chúa Giêsu, chúng ta phải tìm bù trừ tình trạng này bằng những thái độ .. phàm tục khác. Và như thế có những thứ linh mục áp-phe, linh mục doanh nhân.. Nhưng linh mục thờ lạy Chúa Giêsu, linh mục nói với Chúa Giêsu Kitô, linh mục tìm Chúa và để cho Chúa tìm kiếm: đó chính là trung tâm đời sống chúng ta. Nếu không được như thế, thì chúng ta mất hết! Chúng sẽ nói gì với dân chúng?"

"Ước gì quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô, quan hệ của những người được xức dầu với dân Chúa, ngày càng tăng trưởng nơi các linh mục chúng ta"

"Thật là đẹp khi thấy những linh mục hiến mang sống mình như linh mục, và dân chúng nói về các linh mục ấy: "Cha này, cha kia khó tính, nhưng đó là một linh mục! Dân chúng 'đánh hơi' giỏi lắm! Trái lại, khi dân thấy các linh mục thờ thần tượng, những linh mục thay vì có Chúa Giêsu, thì lại có những thần tượng nhỏ, tôn thờ cái thần tôi của mình, thấy các linh mục như thế, dân chúng nói: "thật là một kẻ tội nghiệp!"  

Và ĐTC kết luận rằng: "Điều cứu chúng ta khỏi những sự trần tục, khỏi sự thờ thần tượng khiến chúng ta bị "giải dầu", điều giữ chúng ta trong tình trạng được xức dầu, chính là quan hệ với Chúa Giêsu Kitô. Và ngày hôm nay, anh em đến đây đồng tế với tôi, tôi cầu chúc anh em điều này: Anh em hãy đánh mất mọi sự trong cuộc sống, nhưng đừng bao giờ đánh mất quan hệ này với Chúa Giêsu Kitô! Đó chính là chiến thắng của chúng ta. Với điều đó, anh em hãy tiến bước!" (SD 11-1-2014)    

G. Trần Đức Anh, OP   

TRANG TU SĨ

BÁNH CHÚA

Một chiều vừa tan lễ, sau khi đã thu dọn phòng thánh tôi chuẩn bị ra về thì nghe tiếng bé Minh đang nhõng nhẽo với mẹ. Tôi dẫn chiếc xe Dream đến gần và hỏi:

- Ah, dì bắt được bé Minh khóc nhè rồi nghen! Sao vậy con?

- Con Chào Dì Tư! Nè, bé Minh nín đi, chào Dì Tư đi con.

Thằng bé khoanh tay tròn vo cuối chào mà nước mắt còn dàn dụa.

- Sao hôm nay Minh lại khóc nhè nói Dì Tư nghe nào?!

- Tại mẹ hổng cho Minh bánh Chúa - Minh mếu máo nói.

- Không biết sao tự nhiên hôm nay bé lại cứ đòi "cho con bánh Chúa", con không cho nên bé cứ khóc hoài từ nãy tới bây giờ. - Mẹ bé đỡ lời.

Tôi bất chợt ra chiều nghĩ ngợi và ngiêm nét mặt hỏi Minh:

- Sao Bé Minh lại đòi mẹ như vậy?

Với tất cả ngây ngô bé ngọng nghịu trả lời:

- Bé Minh muốn bánh Chúa mà..

Tôi ngồi hẳn xuống ngang tầm với bé và nắm lấy đôi tay nhỏ xíu còn dính đầy nước mắt:

- Minh nè! Sao con gọi là bánh Chúa, bánh Chúa là gì con biết không?

- Là bánh có Chúa mà mẹ hay được Ông Cố cho, con cũng muốn ăn.

- Dì Tư biết rồi nhen, bé Minh đói bụng đúng hông? Dì có một ổ bánh mì to lắm, để Dì Tư lấy cho bé Minh chịu hông?

- Không chịu, con muốn ăn bánh có Chúa kìa. - Minh giẫy nẫy

- Sao con biết trong Bánh nhỏ xíu đó có Chúa ,còn bánh mì to như vậy lại không có Chúa?

- Bà ngoại nói cho Minh nghe mà..

Mẹ Minh chợt lên tiếng hỏi:

- Ngoại nói gì với con vậy?

- Ngoại nói Chúa thích Minh lắm, vì Minh ngoan. Ngoại cho Minh coi hình Chúa, hình Đức Mẹ có thiên thần bay xung quanh, người nào được ăn bánh Chúa thì sẽ được sống hoài, và được thiên thần bay quanh nữa, Minh cũng thích có thiên thần bay chung quanh và không bị chết.

- Thiệt là...! Dì Tư ơi, bà ngoại lớn tuổi rồi, nói lung tung với con nít mấy cái chuyện cao siêu làm sao nó hiểu được, thôi để con về nói với bà là đừng nói với bé Minh như vậy nữa..

- Không đâu, chị cứ để ngoại nói, bà không nói gì sai cả, bà chỉ diễn tả bằng ngôn ngữ của trẻ thơ những điều mà người lớn chúng ta nhiều khi đã quên mất. Vì thật sự, chính lòng đạo đức của bà mà sau này bé Minh sẽ được hưởng nhờ rất nhiều. Bé còn nhỏ vậy mà đã biết trong Bánh Thánh có sự hiện diện thật sự của Chúa thì quả là một điều đáng mừng đó chứ. Coi vậy chứ người lớn chúng ta, quen quá lại hóa ra vô cảm, có khi ta rước lấy Mình Chúa mà chẳng có chút ý thức gì cả..chỉ là bé chưa hiểu được là: bé cần thời gian để làm lớn lên sự ý thức đó. Thế nên nhiệm vụ ấy là của anh chị, chị cố gắng tập cho bé có thói quen tôn thờ trước Bí Tích Thánh Thể, cố gắng dẫn bé đi nhà thờ xem lễ mỗi ngày, và tập cho bé biết cúi đầu chào mỗi khi vào nhà thờ hay đi ngang tượng ảnh Chúa.

- Dạ, cám ơn Dì Tư, con sẽ để ý và từ từ tập cho bé Minh ý thức hơn về việc rước Chúa, thật sự con cũng bất ngờ, lúc bé Minh đòi bánh Chúa con chẳng nghĩ ra được là Bé đã có một chút ý niệm về Bí Tích Thánh Thể, con thú thật là mỗi khi đi lễ con cũng còn ơ hờ, biết bao chia trí, chẳng sốt sắng bao nhiêu chứ đừng nói là ý thức.

- Điều Chúa Giêsu Thánh Thể muốn là tấm lòng của ta. Chị hãy dâng cho Người những khó nhọc, gánh nặng hay hạnh phúc chị đang có, hãy đem đến bàn thờ dâng cho Chúa, Người sẽ nhận tất cả rồi lại ban ơn giúp sức cho chị.

- Dì Tư ơi, khi nào Minh mới được bánh Chúa?

- Khi nào bé Minh biết giúp lễ thì sẽ được học giáo lý để rước Chúa Giêsu Thánh Thể.

- Ah! Vậy mai mốt con sẽ được giúp lễ, chắp tay giống Thiên Thần.

Tôi và mẹ Bé Minh cùng cười trước sự ngây thơ của bé, bé đã chuyển ý thích một cách nhanh chóng nhưng tôi tin những gì bé được nghe từ bà của bé đã làm cho bé có một ấn tượng sâu sắc, tôi ước mong một ngày nào đó được nhìn thấy niềm hạnh phúc của bé khi lần đầu tiên bé mở đôi tay đón lấy Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào lòng.  

MTG Cái Nhum

THÁNH THỂ, NGUỒN TRỢ LỰC

Mãi đến hôm nay, Lan vẫn còn nhớ lúc tuổi thơ, thường được Bà ngoại dẫn đi dự Lễ Misa. Mỗi khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép nghe tiếng chiêng vang lên, Bà liền bảo Lan cúi đầu thờ lạy Chúa. Thấy Bà đi Rước lễ, về nhà Lan hỏi: "Bà đi ăn cái gì vậy"? Bà trả lời: "Ăn Bánh Thánh, Bánh Thánh là Chúa Giêsu". Tuy Lan không hiểu gì, nhưng luôn ước mong ngày nào đó mình được ăn Bánh Thánh như Bà.

Đến tuổi khôn, Lan vào lớp giáo lý và được Xưng tội Rước Lễ lần đầu.  Với ơn đức tin, lúc nầy Lan mới hiểu Tấm Bánh đó chính là Thịt của Chúa, là Mình Thánh Chúa Kitô. Lan được nghe giảng dạy nhiều về Tấm Bánh là thân thể Chúa Giêsu và mỗi người phải là Tấm Bánh bẻ ra như Chúa vậy. Ngày Rước Lễ vỡ lòng, Cha sở giảng: "Mỗi người chúng con phải là tấm bánh bẻ ra như Chúa Giêsu", tuy không hiểu nhưng Lan nhớ mãi ý tưởng nầy. Trong gia đình, mỗi ngày Lan cùng đi lễ với Bà, được Bà nhắc nhở: "Chúa ở trong lòng con, con đừng làm điều gì cho Chúa buồn". Nhờ được của ăn Thánh Thể nuôi dưỡng hằng ngày và tấm gương sáng đạo đức của Bà, đức tin của Lan được bén rễ sâu hơn và Lan là một thiếu nhi ngoan hiền trong họ đạo.

Theo dòng thời gian, Lan trở thành một giáo lý viên, một huynh trưởng được giới thiếu nhi trong họ đạo quí mến và tín nhiệm. Trong Thánh lễ dành cho Giới Trẻ của Giáo Phận, Lan nhớ mãi lời của Đức Cha Tôma: "Cuộc đời mỗi người chúng con phải là Thánh lễ nối dài. Chúng con phải sống Thánh Thể, phải là tấm bánh bẻ ra như Chúa Giêsu. Mỗi người chúng con có là Tấm Bánh bẻ ra cho anh chị em mình chưa?". Qua bài giảng của Đức Cha, Lan nghĩ ngợi nhiều và lúc nầy Lan mới hiểu sống Thánh Thể là cho đi, là bẻ mình ra; muốn bẻ mình phải từ bỏ, quên mình và dấn thân phục vụ, Lan quyết định chọn ơn gọi sống đời tu. Vâng! Chỉ có bậc sống đời dâng hiến mới có thể bẻ mình ra để phục vụ tha nhân dễ dàng hơn.

Từ ấy, Lan tận hiến đời mình vào Hội Dòng Mến Thánh Giá, qua tiến trình đào tạo và huấn luyện của Hội Dòng, Lan được tuyên khấn và trở nên thành viên của Hội Dòng. Từ đây, Lan sống trong cộng đoàn. Cộng đoàn là gia đình thiêng liêng của Lan. Mọi thành viên của cộng đoàn được gắn kết với nhau trong một lý tưởng, có cùng mẫu số chung là bước theo Đức Kitô. Hằng ngày chị em cùng tham dự chung một Bàn tiệc Thánh Thể và được nuôi dưỡng bằng Thịt Máu Chúa Kitô. Cộng đoàn gồm những con người, nên đời sống cộng đoàn không sao tránh khỏi những va chạm, buồn phiền.  Nhờ được của ăn Thánh Thể nuôi sống tâm linh, mỗi người trong cộng đoàn cố gắng bẻ mình ra bằng sự cảm thông, tha thứ, sẵn sàng chấp nhận và nâng đỡ nhau, Hiện tại Lan mắc phải căn bệnh hiểm nghèo,. Chị em trong cộng đoàn rất quan tâm, chăm lo cho sức khỏe của Lan. Ngày ngày, Lan tìm đến Thánh Thể để được trợ lực, ủi an. Sống với Thánh Thể, Lan cảm nghiệm mình đang được chia sẻ chén đắng với Chúa Kitô. Nhờ vậy, nơi cộng đoàn Lan tìm được niềm vui và bình tâm chu toàn bổn phận của mình.

Nhìn lại cuộc đời của Lan, từ thơ bé cho đến hôm nay; nơi gia đình hay cộng đoàn, Lan sống được an vui là nhờ sức mạnh Thánh Thể trợ lực. Lan dễ dàng chấp nhận thánh giá bệnh tật cũng nhờ Thánh Thể dưỡng nuôi.Ước gì mỗi gia đình cũng như cộng đoàn biết sống Thánh Thể, siêng năng cử hành Thánh Thể, nghĩa là biết trở nên Tấm Bánh. Tấm Bánh được bẻ ra hiến trao cho tha nhân là khi mỗi người biết hy sinh, tha thứ, chân thành yêu thương như Đức Giêsu. Ngài đã trở nên Tấm Bánh để nuôi sống đức tin người tín hữu và ở lại với mọi người đến khi Ngài quang lâm. Nhờ sự hiện diện của Thánh Thể, gia đình sẽ đón nhận sức sống mới để trở nên một "Hội Thánh tại gia" đích thực,, góp phần xây dựng Giáo Hội tương lai được khởi sắc hơn.

TRANG LINH MỤC

Giáo Hội Và Thế Giới Rất Cần Sự Hiện Diện
Của Những Người Sống Đời Thánh Hiến

Giáo Hội và thế giới rất cần sự hiện diện của những người sống đời thánh hiến. Các người thánh hiến là dấu chỉ của Thiên Chúa trong các môi trường cuộc sống khác nhau, họ là men giúp một xã hội lớn lên công bằng và huynh đệ hơn

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung tới tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 2-2-2014, lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ và cũng là Ngàu Quốc Tế Đời Thánh Hiến.

Trước đó lúc 10 giờ sáng ngài đã chủ sự thánh lễ trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Ngày Quốc Tế Đời Thánh Hiến đã do Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thành lập và cử hành lần đầu tiên năm 1997 nhằm mục dích cảm tạ Chúa vì ơn gọi đời thánh hiến, đánh giá ngày càng cao hơn chứng tá của các tu sĩ nam nữ chọn sống ba lời khấn phúc âm, và là dịp để mọi người sống đời thánh hiến canh tân quyết tâm dâng mình cho Chúa...

Thánh lễ mở đầu với cuộc rước với sự tham dự của 25 nam tu sĩ và 25 nữ tu, đại diện cho mọi lứa tuổi của đời thánh hiến, cũng như các tu sĩ và bề trên đại diện cho mọi chức vụ của dòng tu và tu hội. Mỗi người trên tay cầm một cây nến biểu tượng cho Chúa Kitô là ánh sáng thế gian và cho ơn gọi của đời thánh hiến là ánh sáng chiếu soi trần gian. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói:

Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cũng được gọi là lễ của sự gặp gỡ: gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Khi Đức Maria và thánh Giuse đem con vào Đền Thờ Giêrusalem, thì xảy ra cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân người được đại diện bởi hai cụ già Simeong và Anna. Đây cũng là cuộc gặp gỡ bên trong lịch sử của dân Chúa, một cuộc gặp gỡ giữa các người trẻ là Đức Marria và ông Giuse và các người già là ông Simeong và ban Anna. Trình thuật Phúc âm cho thấy cha mẹ Chúa Giêsu tươi vui tuân giữ và đi theo các luật lệ của Thiên Chúa. Thánh sử Luca nhấn mạnh sự kiện hai người già được Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Và Thánh Gia gặp gỡ hai người dại diện này của dân thánh Chúa trong Đền Thờ. Chúa Giêsu ở trung tâm. Chính Người chuyển động tật cả, lôi kéo các người này và người kia đến Đền Thờ, là nhà của Cha Người. Đó là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ luật lệ được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật Lệ vạch ra. Ai tràn đầy Thần Khí bằng Mẹ Maria? Ai ngoan ngoãn với hoạt động của Thần Khí bằng Mẹ?

Đời thánh hiến cũng là một cuộc găp gỡ với Chúa Giêsu: chính Người được Mẹ Maria và thánh Giuse đem đến cho chúng ta, và chúng ta được Thánh Thần hướng dẫn bước tới với Người. Người ở trung tâm và di chuyển tất cả, Người lôi kéo chúng ta đến Đền Thánh, nơi chúng ta có thể gặp gỡ, nhận biết, tiếp đón và ôm lấy Người. Chúa Giêsu đến gặp chúng ta trong Giáo Hội, qua đặc sủng xây nền của một dòng tu. Cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô đã thành hình trong Giáo Hội qua đặc đủng của một chứng nhân nam nữ của Người. Sự kiện này khiến cho chúng ta kinh ngạc và làm cho chúng ta tạ ơn Chúa. Cả trong đời thánh hiến người ta cũng sống cuộc gặp gỡ giữa người trẻ và người già, giữa sự tuân giữ và lời tiên tri. Chúng ta đừng coi hai thực tai này chống đối nhau. Hãy để Chúa Thánh Thần linh hoạt cả hai, và dấu chỉ của cuộc găp gỡ đó là niềm vui: niềm vui của sự tuân giữ, bước đi trong một luật sống và niềm vui được Thần Khí hướng dẫn, không bao giờ cứng nhắc, không bao giờ khép kín, nhưng luôn luôn rộng mở cho tiếng Chúa, nói, mở ra và hướng dẫn.

Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện tại cửa sổ Dinh Tông Tòa để dọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đề cao tần quan trọng của đời sống thánh hiến đối với Giáo Hội. Ngài nói trình thuật Phúc Âm kể lại biến cố dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh theo luật lệ Do thái là một hình ảnh ý nghĩa diễn tả việc hiến dâng cuộc sống mình cho Thiên Chúa của những người noi gương Chúa Giêsu đồng trinh, khó nghèo và vâng lời, Đấng được thánh hiến của Thiên Chúa Cha. Áp dụng cho mọi kitô hữu Đức Thánh Cha nói:

Sự dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa liên quan tới mọi kitô hữu, bởi vì tất cả chúng ta đươc thánh hiến cho Người qua bí tích Rửa Tội. Tất cả chúng ta được mời gọi dâng mình cho Thiên Chúa Cha với Chúa Giêsu và như Chúa Giêsu, biến cuộc đời chúng ta trở thành một món qùa quảng đại, trong gia đình, trong công việc làm, trong việc phụng sự Giáo Hội, trong các công tác bác ái thương xót. Nhưng việc thánh hiến đó được sống một cách đặc biệt bởi các tu sĩ, đan sĩ và giáo dân tận hiến giữa đời, mà với việc tuyên xưng các lời khấn họ thuộc vè Thiên Chúa một cách trọn vẹn và triệt để. Việc tùy thuộc Chúa cho phép những người sống một một cách đích thực cống hiến một chứng tá đặc biệt cho Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Hoàn toàn được thánh hiến cho Thiên Chúa, họ hoàn toàn được trao phó cho các anh em khác để đem ánh sáng Chúa Kitô tới nơi đâu có bóng tối dầy đặc, và phổ biến niềm hy vọng trong các con tim mất tin tưởng. Đức Thánh Cha giải thích thêm về đời thánh hiến như sau:

Các người thánh hiến là dấu chỉ của Thiên Chúa trong các môi trường cuộc sống khác nhau, họ là men giúp một xã hội lớn lên công bằng và huynh đệ hơn, lời tiên tri chia sẻ với các người bé nhỏ nghèo hèn... Mỗi một người thánh hiến là một ơn của Thiên Chúa trên đường đi. Cần có các sự hiện diện này biết bao nhiêu, cho việc củng cố và canh tân dấn thân phổ biến Tin Mừng, cho việc giáo dục kitô, cho việc bác ái đối với các người cần được trợ giúp, cho việc cầu nguyện chiên niệm, cho dấn thân đào tạo nhân bản và tinh thần cho người trẻ và các gia đình, và cho dấn thân cho công lý và hòa bình trong gia đình nhân loại. Giáo Hội và thế giới cần đến chứng tá này của tình yêu và lòng thương xót Chúa. Vì thế cần đánh gía cao với lòng biết ơn các kinh nghiệm của đời sống thánh hiến và đào sâu việc hiểu biết các đặc sủng và nền tu đức khác nhau. Cần phải cầu nguyện để người trẻ trả lời "có" với Chúa là Đấng gọi họ tân hiến cho Người để phục vụ các anh em chị em khác một cách vô vị lợi. Chính vì các lý do đó nên năm 2015 sẽ là Năm của đời thánh hiến. Ngay từ bây giờ chúng ta hãy phó thác sáng kiến này cho sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria và Cha Thánh Giuse, như là cha mẹ Chúa Giêsu đã là những người đầu tiên được thánh hiến bởi Chúa và thánh hiến cuộc sống các Ngài cho Người...

Linh Tiến Khải

TRANG THIẾU NHI

BÍ TÍCH THÁNH THỂ - NGUỒN SỐNG CHO GIA ĐÌNH

Một trong những điều quý nhất trong những ngày Tết là bữa ăn sum họp gia đình. Các thành viên trong gia đình ở nhiều nơi quy tụ về nhà cha mẹ - ông bà của mình để gặp gỡ, thăm hỏi và chúc Tết nhau. Đỉnh cao của buổi sum họp này chính là bữa ăn.

Bữa ăn theo văn hóa Á Đông cao trọng và có một giá trị thiêng liêng hết sức cac đẹp. Vì nơi đây mọi người cùng hòa đồng với nhau nói lên tình thân thiện yêu thương nhau.

Con người là nhân linh ư vạn vật nên không phải ăn để sinh tồn theo nhu cầu bản năng mà trong bữa ăn con người thể hiện sự quan tâm và nhường nhịn cho nhau. Vì lẽ đó ông bà chúng ta mới dạy rằng: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" "Ăn trông nồi ngồi trông hướng" "Liệu cơm gắp mắm"...

Bữa ăn chung trong gia đình hằng ngày là một trong những yếu tố cần thiết để xây dựng hạnh phúc gia đình. Gia đình nào có được những bữa ăn chung càng nhiều thì sự bền chặt của gia đình ấy sẽ chắc chắn hơn. Đồng thời, những thành viên nơi gia đình này sẽ "thành nhân" nhiều hơn.

Bữa ăn ở trần gian này đã quan trọng vậy huống chi bữa ăn Thánh Thể lại càng quan trọng hơn biết chừng nào cho người tín hữu. Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ là nguồn sống cho các gia đình kitô giáo.

Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu vì Chúa hiến trọn thân mình cho con người qua Mình Máu Thánh Người. Đón nhận sự trao ban của Chúa qua Bí tích Thánh Thể để người tín hữu cũng biết trao hiến cho nhau bằng sự hy sinh, quan tâm cho nhau.

Trong gia đình vợ chồng biết trao hiến cho nhau, biết thể hiện tình yêu chung thủy không san sẻ.

Trong gia đình cha mẹ biết hy sinh cho con cái hết mình một cách vô vị lợi.

Trong gia đình con cái biết làm tất cả để đền ơn công sinh thành dưỡng dục với cha mẹ.

Ước gì với tất cả những ích lợi trên đây các gia đình kitô giáo biết tận dụng vào gia đình của mình.

GIÁO DỤC VÀ GIA ĐÌNH

Giáo dục con người không giống giống như trồng khoai nuôi cá, không giống như làm lúa nuôi heo, cũng không giống như trồng rau nuôi gà. Giáo dục con người cần phải có thời gian, kiến thức, kinh nghiệm, tâm lý, phương pháp, nhẫn nại, tình yêu và lòng đạo đức. Vì con người là một huyền nhiệm và thật khó hiểu. Bởi con người chịu ảnh hưởng bởi tuổi tác, hoàn cảnh, môi trường, thời tiết, giàu nghèo, giáo dục, kiến thức, tôn giáo, xã hội. 

Nói về giáo dục, Chúa Giêsu là mẫu gương đào tạo tuyệt vời nhất. 5 trong vô số cách thức Ngài thực hiện mà mỗi gia đình nếu biết quan tâm và khéo léo áp dụng để giáo dục con cái thì sẽ thu được rất nhiều kết quả.

Giáo dục khởi đi từ những sự thật

Chúa Giêsu. Ngài nói: "Không ai thắp đèn rồi đem đặt gầm giường, nhưng đặt trên đế" (Mc 4,21-25; Lc 8,16-18). Không ai đốt đèn rồi lấy thùng úp lên... Người nghe sẽ chấp nhận ngay, vì đó là sự thật. Vâng, rồi từ đây Ngài dẫn người nghe đi xa hơn: đặt trên cao để ai đi thì nhìn thấy ánh sáng. Rồi tiếp, vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất. Ngài dẫn từ ánh sáng thường đến ánh sáng chân lý mà chính mỗi người phải thắp lên. Vì thế hãy cẩn thận và chăm chú lắng nghe.

Gia đình. Ví dụ nói về tuổi dậy thì. Ta có thể bắt đầu là: cây trồng, vật nuôi mỗi ngày mỗi tháng sẽ phát triển lớn lên, cành lá sum xuê, thân xác lớn dần. Con người cũng vậy, từ 11 tuổi trở đi, ta sẽ thấy người ta cao to, nặng, rồi tóc, râu mọc nhiều, bắp chân bắp tay nổi to, giọng nói thì ồm ồm, toàn thân phát triển... Như thế người ta gọi là dậy thì. Mẹ thấy con đang lớn nhanh. Đó là chuyện bình thường. Con không có gì phải lo sợ mà hãy vui mừng vì đây là dấu hiệu của người khoẻ mạnh. Con đã đến tuổi dậy thì rồi. 

Người con được cha mẹ nói như tâm sự vậy quả thật rất an tâm và sẽ quên hết những lo âu sợ hãi bởi sự thay đổi nhanh của thân xác.

Giáo dục khởi đi từ những dư luận

Chúa Giêsu. Ngài hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Dạ, "kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ". Ngài lại hỏi: "Thế anh em bảo Thầy là ai?" Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,13-16; Lc 9,18-22). 

Nếu hỏi trực tiếp "Anh em bảo Thầy là ai?" chắc chắn các Tông đồ sẽ bỡ ngỡ, ngạc nhiên, hoặc vì tế nhị mà im lặng, hay không dám nói hết sự thật. Với cách của Chúa Giêsu, các Tông đồ nhập cuộc từ xa, rồi lúc đang hào hứng, sôi nổi, Ngài mới hỏi đến các ông. Dĩ nhiên, các ông trả lời một cách tự nhiên, chân thành và trung thực. 

Gia đình. Ta cũng dễ dàng áp dụng cách này để không những thăm dò về cha mẹ họ hàng, mà còn trực tiếp đến con cái. 

Ví dụ: đi họp phụ huynh học sinh, mẹ nghe thầy cô giáo nói về tình hình của lớp, của từng thành viên, về các bạn cùng lớp trong làng xã của mình thế này thế này... Thế con thì sao?
Người con có thể sẽ chối, sẽ nói khác đi nếu cha mẹ hỏi trực tiếp. Nhưng với cách thức này, người con hiểu rằng bố mẹ biết rồi, không cần phải giấu giếm, phải nói quanh nữa. Và cha mẹ biết rõ sự thật hơn về con mình.

Giáo dục khởi đi từ những câu truyện

Chúa Giêsu. Ngài thường lấy những hình ảnh đời thường liên quan đến nghề nghiệp và cuộc sống con người; hoặc kể chuyện rồi giải thích giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ đón nhận. 

Ví dụ: dụ ngôn người gieo giống, người cha nhân từ, con chiên lạc, các thợ làm vườn nho, những nén bạc, lễ phục ngày cưới... 

Gia đình. Câu truyện sẽ giúp con cái cảm thấy nhẹ nhõm. Coi mình như một khán giả ngồi trước sân khấu. Tâm hồn nhẹ nhàng, nhập cuộc dễ dàng. Áp lực dạy bảo từ trên sẽ giảm nhỏ đến mức tối thiểu. Và khi giải thích, người nghe tưởng đơn thuần là giải thích truyện. Nhưng thực tế lại là bài học mà ta nhắm tới khi dùng truyện để dạy dỗ. Truyện liên quan đến các lãnh vực nhân bản học làm người, đạo đức, khoa học, tâm lý thì rất nhiều. Ta có thể dễ dàng tìm thấy ở tạp chí, sách vở, báo đài...

Giáo dục khởi đi từ những tiền nhân

Chúa Giêsu. Người xưa bảo rằng, luật xưa dạy rằng "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ ly dị, đừng bội thề, mắt đền mắt, răng đền răng, hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù". Còn Thầy, Thầy bảo rằng: đừng giận, đừng mắng chửi, đừng bất bình với anh em mình. Còn Thầy, Thầy bảo rằng: chớ nhìn người khác phái mà thèm muốn, chớ ngoại tình dù là trong tâm hồn.

Còn Thầy, Thầy bảo rằng: trời là ngai Chúa, đất là bệ dưới chân Người, Giêrusalem là thành của Đức Vua cao cả. Vì thế, đừng có thề. Mà có thì nói có không thì nói không. Thêm điều đặt chuyện là do ma quỷ. Còn Thầy, Thầy bảo rằng: đừng chống cự mà hãy chia sẻ. Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình. Có như vậy ta mới trở thành con cái của Cha anh em Đấng ngự trên trời (Mt 5,21-48).

Chúa Giêsu đủ khả năng và khôn ngoan để hướng dẫn, thế nhưng Ngài vẫn nhắc lại uy tín và công phúc của tiền nhân. Ngài làm thế vừa tạo cảm giác thân quen cho người nghe, vừa để con cháu tránh đi thái độ phủ nhận, coi thường, đả phá. Và tiếp đó, Ngài nâng cấp để cho thấy, tuy các vị này có nhiều điểm hay, nhưng mà cần phải bổ sung, hoàn chỉnh như thế này thế này. Còn Thầy, Thầy bảo rằng... Người nghe đã được chuẩn bị tâm lý trước khi lĩnh hội một điều tốt và cao hơn.

Gia đình. Với kinh nghiệm và kiến thức nuôi dạy con, cha mẹ có thể nói trực tiếp. Nhưng con cái, tâm lý đôi khi không muốn nghe dạy bảo. Đơn giản vì chúng nghĩ mình là người lớn, đủ khôn ngoan, là trưởng thành rồi, là trung tâm của vũ trụ.

Nếu cha mẹ biết dùng những danh nhân nổi tiếng mà người đời cũng như con cái biết đến và thán phục mà khởi sự cho nội dung hướng dẫn của mình thì chắc chắn có nhiều thuận lợi hơn. Bởi con cái biết là ta cũng có kiến thức, có hiểu biết và kinh nghiệm.

Muốn đạt hiệu quả, đầu tiên ta phải gây được sự chú ý của con cái. Tiếp đến là tạo sự tò mò, thắc mắc, tìm hiểu và cảm thấy thích nghe, hay ít là cần nghe. Sau cùng ta nói điều cần nói.

Giáo dục khởi đi từ những mệnh lệnh

Chúa Giêsu. "Hôm nay con đi làm vườn nho cho ta" (Mt 21,28-32). Ngài không cần phải nại đến các tiền nhân, những câu truyện, hay dựa vào một sự thật, hoặc từ dư luận, mà là một áp lực. Vì giáo dục cần thiết phải có sự đòi hỏi và áp lực.

Cách thức này không phải để biểu dương quyền lực, nhưng vâng lời là việc cần có trong tiến trình trưởng thành nhân cách. 

Gia đình. Cách thức này xem ra được các bậc phụ huynh thích dùng. Nhưng nếu lạm dụng nhiều quá thì bầu khí gia đình sẽ căng thẳng, sợ hãi. Khiến cho con cái nghĩ rằng cha mẹ chỉ dùng quyền để áp chế, bắt chúng phải thế này thế nọ.

Như con dao, nếu dùng đúng sẽ phục vụ con người, nếu dùng sai sẽ gây nguy hiểm cho bản thân và cộng đồng. Giáo dục kiểu mệnh lệnh cũng vậy. Phải biết cần thận, nghĩa là dùng lúc nào, tuổi nào, việc nào.

Những chuyện thông thường như quét nhà, rửa ly, giặt quần áo... thì không có vấn đề. Nhưng nếu là tình yêu, tình cảm, tiền bạc, tình nghĩa... mà áp dụng cách này thì thật nguy hiểm.

Cha mẹ nào chẳng thương con. Nhưng là thương cách nào. Nếu không thương đúng cách, chúng sẽ hiểu lầm, nghi ngờ, mất lòng tin, hoặc vô hình chung làm cho chúng hư hỏng. Giáo dục con cái là một chặng đường đầy chông gai, đòi hỏi cha mẹ luôn phải để tâm suy nghĩ, cố gắng phấn đấu học hỏi để có được cách thức tốt nhất. Vì:

Con cái là hồng ân Chúa ban, nên cha mẹ cần tạ ơn Chúa, bởi Ngài đã cho làm mẹ làm cha, và được thay Chúa giáo dục để chúng trở thành con người và thành người con Chúa.

Con cái là kết tinh của tình yêu cha mẹ, nên hãy yêu thương giáo dục chúng với tất cả tình thương yêu và hy sinh.

Con cái cần được chăm sóc kỹ lưỡng, cha mẹ cần quan tâm nhiều hơn, để biết được tình tình, tâm tư nguyện vọng, sở thích... để có thể đưa ra cách thức giáo dục kịp thời, hợp tâm lý.

Con cái còn nhiều sai phạm và lỡ lầm, cha mẹ cần có lòng kiên nhẫn và thứ tha để ngay từ nhỏ, con cái đã hiểu và cảm nhận được thế nào là bao dung nhẫn nại.

Con cái là tương lai của Giáo hội và xã hội, cha mẹ hãy vì sự tồn vong lớn lao này mà đầu tư nhiều hơn. Đầu tư về tiền bạc, thời gian, tình thương, tha thứ, kiến thức, kinh nghiệm, kiên trì, quảng đại, hy sinh, nhẫn nhục... 

Con cái là người, mà con người thì huyền nhiệm và khó hiểu, nên không những cha mẹ cần có phương pháp và tâm lý, mà cần thiết hơn cả là lòng đạo đức.

Nếu muốn con cái vâng lời, thì ta hãy vâng lời Thiên Chúa trước.

Nếu muốn con cái kính sợ và mến yêu, ta hãy làm như thế với Thiên Chúa.

Hãy bắt chước Thánh Mônica, chính nhờ lòng đạo đức và mến Chúa, Người đã chỉ cho cách thức khôn ngoan giáo dục con cái. Và hoa trái lớn lao là Thánh Augustinô.

Hãy cầu nguyện thật nhiều để mình thêm đạo đức, nhất là xin ơn kính sợ Chúa. Ơn khôn ngoan dẫn đầu các nhân đức, nhưng ơn kính sợ Chúa mới làm cho các nhân đức ấy phát triển, trổ hoa, kết trái. 

Thanh Thanh
Nguồn: ubmvgd.org

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý XVI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin

Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười sáu của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 06  tháng 2  năm 2013. 

Anh chị em thân mến,

Kinh Tin Kính mở đầu bằng cách mô tả Thiên Chúa là "Cha Toàn Năng," như chúng ta đã suy niệm tuần trước, rồi nói thêm rằng Ngài là "Đấng Tạo Thành trời đất", và như thế nhắc lại lời khẳng định mở đầu Thánh Kinh. Trong câu đầu tiên của Thánh Kinh, chúng ta đọc: "Khởi đầu Thiên Chúa dựng nên trời đất" (Stk 1:1): Thiên Chúa là nguồn gốc của tất cả mọi sự và sự toàn năng của Ngài như một người Cha đầy yêu thương được trải ra trong vẻ đẹp của việc tạo dựng.

 Thiên Chúa tỏ lộ như Chúa Cha trong việc tạo dựng, vì Ngài là nguồn mạch sự sống, và trong việc tạo dựng, Ngài tỏ bày sự toàn năng của Ngài. Các hình ảnh được sử dụng trong Thánh Kinh về điều này rất gợi cảm (x. Is 40:12; 45,18; 48:13; Tv 104:2.5; 135:7; Cn 8:27-29; G 38-39). Ngài như một người Cha tốt lành và uy lực, chăm sóc những gì Ngài đã dựng nên bằng một tình yêu và lòng trung thành không bao giờ phai tàn, như được nhắc lại nhiều lần trong các Thánh Vịnh (x. Tv 57:11, 108:5, 36:6). Do đó, việc tạo dựng trở thành một nơi để biết và nhìn nhận sự toàn năng của Thiên Chúa và sự tốt lành của Ngài, và trở thành một lời mời gọi các tín hữu đến đức tin để chúng ta rao giảng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Tác giả thư Do Thái viết, "Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng thế gian đã được hình thành bởi Lời của Thiên Chúa; cho nên những gì chúng ta nhìn thấy không được tạo nên từ những vật hữu hình" (11:3). Vì vậy, đức tin bao gồm việc biết nhìn nhận sự vô hình bằng cách nhận diện dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19:2-5); nhưng cần có Lời mặc khải của Thiên Chúa, là Lời nhóm lên ngọn lửa đức tin, để con người có thể có một ý thức đầy đủ về thực tại của Thiên Chúa như Đấng Tạo Hóa và Cha. Chính trong Sách Thánh Kinh mà trí tuệ con người có thể tìm thấy, trong ánh sáng đức tin, chìa khóa giải thích để hiểu thế gian. Đặc biệt là chương thứ nhất của sách Sáng Thế Ký giữ một địa vị đặc biệt, với trình bày trang trọng về công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bảy ngày: Thiên Chúa hoàn tất việc tạo dựng trong sáu ngày và ngày thứ bảy, ngày Sabath, Ngài ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Đó là ngày tự do cho mọi người, ngày hiệp thông với Thiên Chúa. Và như thế, với hình ảnh này, sách Sáng Thế Ký cho chúng ta biết rằng ý tưởng đầu tiên của Thiên Chúa là tìm một tình yêu biết đáp lại tình yêu của Ngài. Ý tưởng thứ hai sau đó là tạo dựng một thế giới vật chất để đặt tình yêu ấy vào đó, những tạo vật này tự ý đáp trả Ngài. Cho nên, một cấu trúc như thế, làm cho văn bản được nhịp nhàng nhờ một số lần lặp đi lặp lại đáng kể. Thí dụ câu này được lặp lại sáu lần: "Thiên Chúa thấy điều ấy tốt đẹp" (cc. 4.10.12.18.21.25), và cuối cùng, lần thứ bảy, sau khi tạo dựng con người: "Thiên Chúa thấy các việc Ngài đã làm: điều ấy thật rất tốt lành" (câu 31). Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt lành và xinh đẹp, đầy khôn ngoan và tình yêu, hành động sáng tạo của Thiên Chúa mang lại trật tự, hòa hợp và ban cho chúng vẻ đẹp. Như vậy, trong tường thuật Sáng Thế điều nổi bật là việc Chúa tạo dựng bằng Lời của Ngài: bản văn dùng thuật ngữ "Thiên Chúa phán" mười lần (các câu 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29). Chính là Lời, Ngôi Lời (Logos) của Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của thực tại của thế giới và khi nói "Thiên Chúa phán," thì được như vậy, là nhấn mạnh đến hiệu năng của Lời Chúa. Khi tác giả Thánh Vịnh hát: "Bởi Lời Chúa mà các tầng trời được tạo thành, nhờ hơi thở Ngài mà có muôn tinh tú.... Vì khi Ngài phán, mọi vật được tạo thành, Ngài ra lệnh, thì chúng hiện hữu" (33:6,9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì mọi sự đều vâng nghe Lời Chúa.

Nhưng hôm chúng ta có thể tự hỏi: có còn hợp lý không khi nói về việc tạo dựng trong thời đại khoa học kỹ thuật? Chúng ta nên hiểu các tường thuật của sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không có ý định là một cẩm nang về khoa học tự nhiên, trái lại Thánh Kinh có ý giúp chúng ta hiểu chân lý đích thực và sâu xa của các sự vật. Chân lý cơ bản mà những tường thuật của sách Sáng Thế mặc khải cho chúng ta là thế giới không phải là một tập hợp các quyền lực đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định của nó trong Ngôi Lời, trong Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, là Đấng tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một kế hoạch cho thế giới phát sinh từ Lý Trí do này, từ Thần Khí Tạo Dựng. Việc tin có kế hoạch này là nền tảng của mọi sự, soi sáng mọi khía cạnh của cuộc đời và cho chúng ta can đảm để đương đầu với cuộc phiêu lưu của cuộc đời trong niềm tin tưởng và hy vọng. Như vậy, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng nguồn gốc của sự vật, của thế giới, nguồn gốc của chúng ta không phải là điều phi lý và điều tất yếu, nhưng là lý trí, tình yêu và tự do. Như thế phải chọn một trong hai: hoặc là ưu tiên của điều phi lý, của điều tất yếu, hoặc ưu tiên của lý trí, tự do và tình yêu. Chúng ta tin vào quan điểm thứ hai này.

Nhưng tôi cũng muốn nói một lời về điều là tột đỉnh của tất cả việc tạo dựng; là người nam và người nữ, con người, loài duy nhất "có khả năng biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa của mình" (Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, 12). Tác giả Thánh Vịnh nhìn bầu trời mà tự hỏi: "Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?" (8,4-5). Con người, được Thiên Chúa dựng nên qua tình yêu, là một vật quá nhỏ bé trước sự bao la của vũ trụ; và đôi khi thích thú nhìn lên không trung rộng lớn của bầu trời, chúng ta cũng ý thức được tình trạng hạn chế của mình. Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: sự nhỏ bé và hữu hạn của chúng ta cùng tồn tại với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn cho chúng ta.

Những tường thuật về việc tạo dựng, trong sách Sáng Thế, cũng đưa chúng ta vào lãnh vực huyền bí này, giúp chúng ta biết kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Trước hết chúng xác quyết rằng Thiên Chúa đã tạo thành con người từ bụi đất (x. St 2:7). Điều này có nghĩa là chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta đã không tự tạo ra mình, chúng ta là đất. Nhưng cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt, bởi hành động của Đấng Tạo Hóa tốt lành. Thêm vào điều này là một thực tại cơ bản khác: tất cả mọi người đều là bụi, vượt ra ngoài sự khác biệt được tạo ra bởi văn hóa và lịch sử, vượt ra ngoài bất kỳ sự khác biệt nào về xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được hình thành với một loại đất duy nhất của Thiên Chúa. Rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào thân xác được nặn ra từ đất (x. St 2:7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1:26-27). Như vậy tất cả chúng ta đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và Thánh Kinh nói với chúng ta rằng mỗi sự sống của con người đều được đặt dưới sự bảo vệ đặc biệt của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất cho sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm chống lại bất kỳ nỗ lực nào muốn đánh giá con người theo các tiêu chuẩn vị lợi và quyền lực. Là hình ảnh và giống Thiên Chúa có nghĩa là con người không đóng kín nơi chính mình, nhưng tìm thấy điểm quy chiếu thiết yếu của mình nơi Thiên Chúa.

Trong chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta tìm thấy hai hình ảnh quan trọng: khu vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (xem 2:15-17; 3,1-5). Khu vườn cho chúng ta biết rằng thực tại mà trong đó Thiên Chúa đã đặt con người vào không phải là một khu rừng hoang vu, nhưng là một nơi được bảo vệ, nuôi dưỡng cùng trông nom, và con người phải nhìn nhận thế giới không như một tài sản để cướp phá và khai thác, nhưng như quà tặng của Đấng Tạo Hóa, một dấu chỉ về ý muốn cứu độ của Ngài, một món quà để canh tác và chăm sóc, để làm cho tăng trưởng và phát triển trong tinh thần tôn trọng và hòa hợp, theo các nhịp điệu và luận lý, theo kế hoạch của Thiên Chúa (x. St 2:8-15). Rồi đến con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ việc thờ cúng thần sinh sản của Đông phương, là điều hấp dẫn với dân Israel và là một cám dỗ không ngừng cho việc từ bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh trình bày cám dỗ mà ông Ađam và bà Evà đã trải qua như điều nòng cốt của cám dỗ và tội lỗi. Thực ra con rắn nói gì? Nó không phủ nhận Thiên Chúa, nhưng đưa ra một câu hỏi xảo quyệt: "Có thật Thiên Chúa đã phán: 'Các ngươi không được ăn bất kỳ cây nào trong vườn' không?" (St 3:1). Bằng cách này, con rắn gây ra sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như một dây xích trói buộc con người, làm cho họ mất tự do cùng điều tốt đẹp và quý giá nhất trong đời sống. Cám dỗ ấy trở thành một cám dỗ xây dựng một thế giới riêng để họ sống trong đó, không chấp nhận những giới hạn của việc là một tạo vật, những giới hạn của thiện và ác, của luân lý; việc lệ thuộc vào tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa bị coi như một gánh nặng cần phải trút bỏ. Điều này luôn luôn là bản chất của cám dỗ. Nhưng khi người ta uốn cong mối liên hệ với Thiên Chúa bằng một lời nói dối, đặt mình vào địa vị của Ngài, tất cả những liên hệ khác bị thay đổi. Khi ấy người khác trở thành một đối thủ, một mối đe dọa: Ông Adam, một khi đã ngã gục trước cơn cám dỗ, lập tức đổ lỗi cho bà Evà (x. St 3:12); cả hai trốn tránh cái nhìn của Thiên Chúa là Đấng họ thường trò chuyện như bằng hữu (x. 3:8-10); thế giới không còn là khu vườn để sống hòa hợp, nhưng là một nơi để khai thác, trong đó tàng ẩn những cạm bẫy (x. 3:14-19); ghen tương và hận thù nhau nhập vào lòng con người: như trường hợp Cain giết Abel là em mình (x. 4:3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình, con người chống lại chính mình, phủ nhận nguồn gốc của mình và do đó phủ nhận chân lý về mình, và sự dữ nhập vào thế gian, với xiềng xích của đau khổ và cái chết. Như thế, những gì Thiên Chúa đã tạo dựng thì tốt lành, thực ra, rất tốt; sau quyết định tự do này của con người vì nghe theo một lời nói dối và chống lại sự thật, sự dữ nhập vào thế gian.

Trong những tường thuật tạo dựng, tôi muốn nhấn mạnh đến một giáo huấn cuối cùng: tội lỗi sinh sản ra tội lỗi và tất cả tội lỗi của lịch sử đều nối kết với nhau. Khía cạnh này dẫn chúng ta đến việc nói về điều được gọi là "tội nguyên tổ". Ý nghĩa của thực tại rất khó hiểu này là gì? Tôi chỉ muốn đưa ra một số yếu tố. Trước hết chúng ta phải kể rằng không có người nào bị đóng kín trong chính mình, không ai có thể chỉ sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác, không phải chỉ lúc mới sinh, nhưng mỗi ngày. Là con người là sống trong mối liên hệ: Tôi chỉ là chính mình trong bạn và qua bạn, trong một liên hệ tình yêu với Chúa của Thiên Chúa và bạn của những người khác. Vâng, tội lỗi là làm đảo lộn hay tiêu hủy mối liên hệ với Thiên Chúa, đây là bản chất của nó: tiêu hủy mối liên hệ với Thiên Chúa, mối liên hệ cơ bản, tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói rằng với tội đầu tiên, con người "chọn chính mình thay vì Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa, chống lại những đòi hỏi của tình trạng tạo vật của mình và do đó chống lại cả sự tốt lành cho chính mình" (số 398). Khi mối liên hệ cơ bản bị đảo lộn, thì tất cả các trục liên hệ khác bị tổn thương hoặc bị hủy diệt, tội lỗi làm hỏng những mối liên hệ, thì cũng làm hỏng tất cả, bởi vì chúng ta là những sinh vật có liên hệ với nhau. Giờ đây, nếu cấu trúc về liên hệ của nhân loại bị đảo lôn ngay từ đầu, mọi người bước vào một thế giới được đánh dấu bởi sự đảo lộn này của mối liên hệ ấy, họ bước vào một thế giới bị đảo lộn bởi tội lỗi, và họ bị đánh dấu cách cá nhân; tội đầu tiên tấn công và làm tổn thương bản tính con người (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 404-406). Và một mình con người không có thể tự giải thoát mình khỏi tình trạng này, không ai có tự chuộc tội mình; chỉ một mình Đấng Tạo Hóa mới có thể phục hồi những liên hệ đúng đắn. Chỉ khi nào Đấng, mà chúng ta đã bỏ mà đi lạc đường, đến cùng chúng ta và đưa tay yêu thương dắt tay chúng ta, thì những mối liên hệ chính đáng có thể được tái lập. Điều này được thể hiện trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đi theo một hướng hoàn toàn trái ngược với ông Ađam, như được mô tả trong bài thánh thi ở chương 2 của Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Philipphê (2:5-11): trong khi Ađam không nhìn nhận thân phận tạo vật của mình và muốn đặt mình vào địa vị Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sống trong mối liên hệ con thảo hoàn hảo với Chúa Cha, Người tự hạ mình xuống, Người trở thành đầy tớ, đi con đường tự hạ cho đến chết trên thập giá, để xắp đặt lại cho có thứ tự những liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Thập giá của Đức Kitô trở thành Cây mới của Sự Sống.

Anh chị em thân mến, sống bằng đức tin là nhìn nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của mình và tình trạng tạo vật của mình, để Chúa đổ đầy nó bằng tình yêu của Ngài, và như thế cho phép sự vĩ đại thật của chúng ta được phát triển. Sự dữ, với gánh nặng đau thương và sầu khổ của nó, là một mầu nhiệm được chiếu soi bởi ánh sáng đức tin, cho chúng ta sự chắc chắn có thể được giải thoát: sự chắc chắn rằng làm một người là điều tốt.

Nguồn: giaoly.org
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

 TRANG GIA ĐÌNH

 MƯỜI ĐIỀU BẢO VỆ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Tình yêu không loại trừ sự kính trọng. Trái hẳn lại. Nếu vợ chồng không biết tỏ lòng quí mến nhau, dù trong cuộc sống riêng tư hay ở nơi công cộng, tình yêu của họ sẽ không sống mãi được. Lễ độ, lịch sự là cách biểu lộ tình yêu giống như những cách biểu lộ khác. Tránh mọi lời nói hay mọi cử chỉ thô lỗ, thiếu tế nhị, là điều tối thiểu để tỏ lòng mến thương nhau.

 1. KÍNH TRỌNG LẪN NHAU

 Vợ chồng là nghĩa tào khang
Chồng hòa vợ thuận, nhà thường yên vui
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no

Tình yêu không loại trừ sự kính trọng. Trái hẳn lại. Nếu vợ chồng không biết tỏ lòng quí mến nhau, dù trong cuộc sống riêng tư hay ở nơi công cộng, tình yêu của họ sẽ không sống mãi được. Lễ độ, lịch sự là cách biểu lộ tình yêu giống như những cách biểu lộ khác. Tránh mọi lời nói hay mọi cử chỉ thô lỗ, thiếu tế nhị, là điều tối thiểu để tỏ lòng mến thương nhau.

Sau đây là một trong những trường hợp thường xẩy ra: Anh chị ấy không còn yêu nhau như trước nữa, bởi vì anh ấy (hay chị ấy) cứ nói những lời châm chọc, khích bác, phán đoán giọng kẻ cả. Người này cố ý chọc tức cho người kia nổi giận bằng những lời lẽ tục tằn hay những cử chỉ thô lỗ. Chị ấy (hay anh ấy) không để lỡ một cơ hội nào mà không phê bình chồng mình (hay vợ mình) trước mặt bạn bè, ngay cả trước mặt con cái. Tệ hơn nữa, người này tiết lộ công khai những tật xấu của người kia để được một chút "chia sẻ" của người chung quanh.

Để tình yêu vợ chồng của anh chị đằm thắm mãi, hằng ngày xin anh chị hãy dành cho nhau những tế nhị mà thánh Phanxicô dệ Salê gọi là "bông hoa đẹp của tình yêu".

2. NÓI VỚI NHAU LỜI ÂU YẾM

Tình yêu dành cho nhau giữa vợ chồng cần được khẳng định lại mỗi ngày, ít ra bằng những lời nói dịu dàng, những cử chỉ thân thương. Tuy nhỏ bé, nhưng những lời nói âu yếm, những ánh mắt luyến thương luôn là hương thơm ướp đậm tình yêu giữa hai người. Đừng đợi đến lúc ái ân mới nói lời yêu thương, mới tỏ cử chỉ thân mật.

Giữa vợ chồng có trăm ngàn cách để bày tỏ tình yêu: từ lời nói đơn giản nhất: "Anh yêu em" hay "Em yêu anh" cho đến tất cả những biểu lộ sự ân cần, lòng biết ơn, tâm tình ngữơng mộ, hay lời nói khuyến khích hoặc xây dựng từ tốn...mà vợ chồng có biết bao trường hợp để dành cho nhau.

Bức tranh cổ truyền việt nam họa cảnh âu yếm đối thoại giữa vợ chồng vẫn đồ sộ và gương mẫu:

Chàng ơi, trẩy sớm hay trưa?
Để em gánh gạo tiễn đưa hành trình

Thương nàng đã đến ngày sinh
Ăn ở một mình, trông cậy vào ai!
Rồi khi sinh gái sinh trai
Sớm khuya, mưa nắng, lấy ai bạn cùng
Sinh gái, thì em gả chồng
Sinh trai, lấy vợ mặc lòng thiếp lo

Theo ông Anphônsô Gay: "Người chồng không bao giờ nói với vợ rằng "anh yêu em" và người vợ không bao giờ nói với chồng rằng "em yêu anh" thì chẳng bao lâu họ sẽ không còn biết yêu nữa, cũng không còn biết cách làm cho vợ hay chồng mình yêu mình nữa. Tình yêu thành phai nhạt... và mất dần sức sống".

3. TẶNG QUÀ CHO NHAU

Một định nghĩa (giữa bao định nghĩa) của tình yêu: "Yêu là muốn cho một cái gì". Một số người có thể nghĩ rằng: khi kết hôn, hai người đã tự hiến mình cho nhau với tất cả những gì họ có, nên không cần phải tặng quà cho nhau nữa.

Nghĩ như thế là quên đi rằng tình yêu phải được bày tỏ và nuôi dưỡng bằng những cử chỉ cụ thể. Về điểm này, không có cách nào tốt hơn là để ý mua một món quà, lựa chọn cẩn thận và đem trao tặng với những lời nói dễ thương. Người Đức thường nói: "Cái giá trị nhất chính là ý định bên trong của mình". Người Pháp cũng bảo: "Cử chỉ bề ngoài khẳng định ý muốn bên trong" (L'acte apparent prouve l'intention secrète).

Bởi vậy, không cần phải là món quà đắt tiền hay độc đáo, một món quà càng bất ngờ hay thích hợp nhu cầu sẽ càng có tác dụng tình yêu. Một món quà nho nhỏ, bất ngờ, vừa đủ tạo niềm vui cho người được tặng, có thể là một dấu hiệu lớn của tình yêu hơn là những quà trao tặng theo truyền thống vào dịp lễ Giáng Sinh hay đầu Năm Mới. Tặng một món quà thích hợp với nhu cầu của người thân thương, chứng tỏ người tặng quà biết đặt mình vào địa vị, biết quan tâm đến đời sống của người nhận quà.

Bó hoa, quà bánh, các đồ dùng trong việc nội trợ, đồ dùng cá nhân, vé xem hát, các sản phẩm mỹ thuật, vật dụng trong nhà... được trao tặng, đều là những dấu hiệu của tình yêu vợ chồng dành cho nhau.

Để bày tỏ rằng tình yêu vợ chồng không còn mặn mà như xưa nữa, nhiều phụ nữ Pháp quen nói: "Không có lấy một món quà từ nhiều năm nay!".

Quả thật, nếu người Pháp bảo: "Những món quà nhỏ bồi dưỡng tình yêu" (Les petits présents entretiennent l'amour), thì người La mã khẳng định: "Với bàn tay trắng, lời xin thành liều lĩnh" (Vacuae manus, temeraria petitio est). Người Việt ta, từ những quan sát hằng ngày như:

Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay
hoặc như:
Yêu nhau, mọi việc chẳng nề
Dù trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng

Để kết luận:
Yêu nhau chữ vị là vì
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo

 4. SỐNG GẦN GŨI NHAU

Trong thời kỳ đính hôn và trong buổi đầu thành hôn, người ta không bao giờ chán ở gần nhau. Lẽ tự nhiên, tình yêu khiến người trẻ mới kết hôn cảm thấy nhu cầu muốn ở gần nhau bao lâu cũng được. Ca dao ta đã chẳng hát câu này sao?

Vợ chồng đầu gối má kề
Lòng nào mà bỏ, mà về cho đang!
Hồ về, chân lại đá ngang
Về sao cho dứt, cho đang mà về

Vậy tại sao, sau vài năm kết hôn, một số người lại cho rằng họ luôn luôn yêu nhau mà không cần phải hồ hởi sống bên nhau?

Họ ăn với nhau, ngủ với nhau, gặp mặt nhau để giải quyết những vấn đề cấp bách của gia đình. Họ không chút nghi ngờ về tình yêu dành cho nhau. Họ bác bỏ những ý nghĩ "vợ hay chồng lạnh nhạt với nhau" và họ tự nhủ: "Tôi không trung thành với vợ (chồng) tôi đó sao? Tiền lương được bao nhiêu, tôi vẫn đem hết về gia đình! Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm để lo đầy đủ cho vợ (chồng) và con cái tôi..."

Nhưng cái họ không làm nữa, đó là tìm dịp sống gần gũi với người mà họ nói là họ yêu thương.

Người ta thường nghe các bà than thở: "Chồng tôi, hễ không đi làm là vùi đầu chơi bài bên nhà hàng xóm, hay trời đẹp lại đi câu cá, chơi thể thao, cuối tuần lo đi hội chính trị, hết đảng này đến nhóm khác... chứ không muốn dành giờ sống cho vợ, cho con...". Và cũng không hiếm qúy ông than phiền: "Bà ấy để tôi và con cái ăn cơm trễ giờ, hay ăn cơm nguội là thường! Vì trước tiên không phải là lo cho chồng cho con, nhưng là đi hội, đi gặp thăm người này, người nọ. Sống ngoài gia đình xem ra bà ấy thoải mái hơn sống trong gia đình gần gũi chồng con".

Chồng cũng như vợ, họ chỉ gặp nhau khi họ không thể làm khác được.

Xin qúy anh chị đừng quên rằng mỗi người có bổn phận với người bạn đời của mình và tình yêu của người ấy đòi buộc chúng ta phải tôn trọng. Sự thật phũ phàng, là sau vài năm kết hôn, nhiều ông chồng ưa ngồi chơi bài với bạn bè hơn là vui đùa với vợ con. Cũng vậy, nhiều bà vợ muốn trốn cái đơn điệu của bếp núc, quét nhà, lau tủ. Công việc nội trợ không còn hấp dẫn nữa! Bà thích ngồi một mình xem phim, nghe nhạc... hơn gần gũi với chồng con. Buông trôi kiểu đó, là không giữ lời hứa về tình yêu ngày kết hôn, là giết tình yêu của người bạn đời của mình.

Hôn nhân đòi hỏi chúng ta phải sống gần nhau. Tình yêu của những người chạy trốn nhau sẽ là tình yêu không thật.

5. ĂN MẶC CHỈNH TỀ

Tình yêu che giấu chưa hẳn là tình yêu sâu xa, đằm thắm.

Một trong những biểu lộ và thăng tiến tình yêu giữa vợ chồng là sự ăn mặc tươm tất.

Đối với người vợ, làm đẹp cho vừa lòng chồng là một bổn phận. Người đàn ông Việt Nam vẫn mê mẩn và hãnh diện khi thấy vợ biết trang điểm và ăn mặc tươm tất:

Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp quần đẹp áo, lại tươi răng vàng
Chân em đi dép quai ngang
Mặt vuông chữ điền, liền vành cá chôi
Anh thương mình lắm mình ơi!

Đối với người chồng, ăn mặc tươm tất để vợ không mắc cỡ với bạn bè, khu xóm cũng là một bổn phận. Dẫu lam lũ cầy cấy, dẫu nhọc nhằn canh cửi, người vợ việt nam vẫn luôn vui sướng khi thấy chồng bảnh bao "xiêm áo thảnh thơi":

Xin chồng kinh sử học hành
Để em cầy cấy, cửi canh kịp người
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn trời, lộc nước đời đời hiển vinh

Không chỉ khi đi ra ngoài, mà ngay trong nhà, giữa đời sống ấm cúng gia đình, người vợ cũng phải ăn mặc xinh xắn, sạch sẽ, và trang điểm kín đáo. Đừng viện lý: "Tôi có nhiều việc phải làm... Tôi không có thời giờ trang điểm... Tôi không có tiền...". Mãi mãi bà là bông hoa xinh tươi và thơm hương của gia đình!

Đành rằng ở trong nhà, bà không nên lúc nào cũng chưng diện như khi tiếp khách. Nhưng bà phải cố ăn mặc sạch sẽ, trau chuốt và hấp dẫn, để bảo vệ tình yêu của chồng, để ông khỏi đi tìm ở nơi khác những cái bà không biết hiến tặng chồng.

Cũng vậy, người chồng đừng lầm tưởng rằng sau ngày thành hôn là được tự do ăn mặc cẩu thả, tóc tai bù xù, khỏi cạo râu, khỏi đánh giày, khỏi thắt cà vát... Ăn mặc chỉnh tề là tự trọng. Biết tự trọng là biết kính trọng người khác. Người khác đây trước tiên là người vợ!

Tuy nhiên, đừng thái quá! Thái quá cũng nguy hiểm như bất cập! Phải trung dung, đúng lúc đúng mực! "Nhân đức đứng ở giữa" (Virtus in medio stat). Tránh lòe lọet, đừng học đòi làm sang, làm điệu.

6. DÀNH QUYỀN ƯU TIÊN CHO NHAU

Lần đầu tiên đề cập tới hôn nhân, Chúa nói với ông Adong: "Bởi vậy, người nam sẽ rời bỏ cha mẹ và gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một (Mt 19,7).

Điều cốt yếu là, trong hôn nhân, người chồng phải chứng tỏ cho người vợ thấy: mình thương vợ hơn bất cứ ai trên đời. Người vợ cũng phải có một tình yêu như thế đối với chồng. Đó là ý nghĩa tình yêu vợ chồng mà ca dao ta đã diễn tả rằng:

Chăn đơn nửa đắp, nửa hòng
Cạn sông, lở núi ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu

Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha, quên cửa, quên nhà...

Thế nhưng, đôi khi vì lý do đặc biệt, có thể từ chối quyền ưu tiên tuyệt đối ấy. Chẳng hạn, khi có lý do chánh đáng, người chồng hay người vợ có thể đòi đem cha mẹ mình đến ở chung trong nhà. Nhất là theo tinh thần Đạo Hiếu của Việt Nam, con cái được cha mẹ sống chung với là một hãnh diện và hạnh phúc, đó là chưa nói đến ích lợi thực tế (như trông nhà, coi cháu...).

Sống chung với cha mẹ là trường hợp đặc biệt, vì có lời Thánh Kinh: "Họ sẽ rời cha mẹ mình". Đàng khác, kinh nghiệm cho hay sống chung với cha mẹ thường có nhiều phiền toái... Ngay cả khi đức hiếu thảo bắt buộc vợ chồng ở chung nhà với cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ, họ vẫn luôn có bổn phận kín đáo dành cho nhau "cách xử đãi ưu tiên".

Vì thế, nếu người chồng, chỉ bận tâm đến những gì mẹ mình muốn hơn là những gì vợ mình thích, người chồng ấy tước bỏ quyền lợi của vợ và dần dần giết chết tình yêu của vợ đối với mình. Nếu người vợ chỉ vun vén cho cha mẹ mình hơn lo cho hạnh phúc của chồng, thì trước sau bà sẽ thấy lòng thương mến của chồng suy giảm, và lúc đó bà là người chịu trách nhiệm.

Nhất là nếu người chồng để cho mẹ mình điều khiển gia đình và luôn luôn bênh mẹ trong những cuộc tranh luận, người đó đi ngược lại lời đã hứa và đi ngược lại cả ý của Chúa về hôn nhân.

Không phải chỉ trong những trường hợp vợ chồng sống chung với cha mẹ dưới một mái nhà mới có thể xảy ra những "phiền toái". Một người vợ để cho mẹ mình ảnh hưởng quá nhiều đến những công việc trong nhà, như ỷ thế vào mẹ mỗi khi có chuyện bất bình giữa vợ chồng, lúc đó liệu bà còn dành quyền ưu tiên cho chồng mình không?

Một người chồng bắt buộc vợ làm việc (hay giúp đỡ) cho gia đình bên bố mẹ ruột của mình nhiều hơn cho gia đình bên vợ, liệu ông ta có nguy cơ đánh mất tình yêu của vợ không?

Người ta thấy ngay cả trường hợp mà sự ưu đãi được dành cho người ngoài: Ông ta thích gần gũi bạn bè hơn; bà ta thích làm việc cho người khác hơn là cho người trong gia đình mình. E rằng sự ưu đãi như thế sẽ dun dủi họ đến chỗ thất trung và sự ngoại tình. Trong trường hợp ngoại tình, Giáo Hội công nhận rằng người ta không thể bắt buộc người chồng hay người vợ tiếp tục sống với kẻ thất trung. Lúc ấy, người ta có thể nghĩ đến việc ly thân. (nhưng không vì thế mà được tái hôn).

Nhưng nói rằng người ta không bao giờ đi đến sự ngoại tình, không đủ. Nếu người ta muốn sống trong tình yêu một cách đầy đủ và bền bỉ, thì phải dành cho người bạn đời của mình quyền ưu tiên trên bất cứ ai mà người ta có thể gặp.

7. NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM

Khi kết hôn, mỗi người nhận lấy trách nhiệm xây dựng gia đình. Thường người chồng giữ việc mưu sinh cho gia đình, người vợ giữ việc nội trợ. Cả hai tự nguyện giúp nhau, bao lâu có thể được, trong những nhiệm vụ ấy.

Giấc mơ vợ chồng hoà thuận đã phác họa sự phân chia trách nhiệm xây dựng gia đình đầm ấm việt nam rằng:

Trên trời có cái cầu vòng
Kẻ chợ cầu Muống, cửa đông cầu Rềm
Vua trên đền cần vàng cần bạc
Các lái buôn cần nước cần non
Đôi ta cần của cần con
Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha
Con gái dệt cửi trong nhà
Con trai đi học đỗ ba khóa liền
Con lớn thì đỗ trạng nguyên
Hai con tiến sĩ, đỗ liền cả ba
Vinh quy bái tổ về nhà
Bõ công đèn sách mẹ cha vun trồng

Nhưng tình thương của vợ chồng dành cho nhau đã cảm thấy trước ngày thành hôn có thể tiêu tan sau đó, nếu mỗi người không nhận lãnh trách nhiệm của mình một cách nghiêm chỉnh.

Ví dụ người chồng không làm việc tận tình, thay đổi việc làm luôn luôn, đem tiền làm ra tiêu phí vào những việc không cần thiết hay không có sự thỏa thuận chung. Tệ hơn, chồng giữ hết tiền, chỉ đưa tiền cho vợ cách nhỏ giọt, làm như bà vợ là một người đầy tớ không đáng tin cậy.

Hay là người vợ ở nhà không đi làm, nhưng bỏ bê việc nhà, không làm tươm tất những công việc thường ngày: quét dọn, giặt giũ, chăm nuôi con cái, lo cơm nước... Do đó, bà ta đừng phàn nàn gì nếu ông chồng gắt gỏng, không thương yêu bà như xưa nữa! Làm sao người chồng có thể say mê bà vợ, nếu ông ta phải sống trong một căn nhà dơ bẩn, bỏ bê, không thứ tự?

Tình yêu cũng có thể chết khi hai vợ chồng không biết để ý đến việc làm của nhau, không biết tế nhị giúp đỡ nhau trong công việc làm. Đặc biệt khi đã có con. Giáo dục con cái là phận sự chung của cha mẹ. Nếu người chồng bỏ việc giáo dục con cái cho vợ hoàn toàn thì ông đừng phàn nàn rằng "vợ mình thương con hơn thương mình" hay "con cái quấn quít mẹ hơn cha"!

Ngày nay hầu như hai vợ chồng đều đi làm. Mỗi người càng phải ý thức trách nhiệm và tương hỗ nhau hơn nữa. Phải "biết tự động" lãnh trách nhiệm của riêng mình và rộng rãi chia sẻ trách nhiệm với bạn đời. Đúng như tục ngữ rằng:

Chồng khôn, vợ được đi hài
Vợ khôn, chồng được nhiều bài cậy trông

hoặc:

Chồng sang, vợ được đi giầy
Vợ sang, chồng được ghé ngày cậy trông

Đã yêu nhau thật, thì không còn tính toán nữa!

8. HY SINH CHO NHAU

Một trong những bằng chứng tốt nhất về tình yêu chân thật là sự quên mình. Ngược lại với sự quên mình là tính ích kỷ. Người ích kỷ chỉ nhìn thấy mình, chỉ thu vén ích lợi cho riêng mình, chỉ bảo thủ ý kiến riêng của mình... Vì thế sớm muộn, họ trở thành những ông chồng hay bà vợ độc tài, nhiều khi thật quá quắt! Đừng quên rằng, một người độc tài có thể áp đảo, bắt người khác vâng theo ý mình, nhưng dễ gì làm cho họ yêu thương mình! Có nhiều cách hy sinh.

Chồng giận thì vợ bớt lời
Chồng giận, vợ giận, thì giùi nó quăng

 1. Trước hết bằng tinh thần nhượng bộ, một nhịn chín lành, dĩ hòa vi qúy, thuận vợ thuận chồng cho vui cửa vui nhà. Dĩ nhiên có những điều không thể nhượng bộ, nhất là trong lĩnh vực luân lý hay tinh thần: Chấp nhận làm điều xấu, để vui lòng chồng (hay vợ), không phải là sự hy sinh hay quên mình, nhưng là sự đồng loã. Ví dụ việc toan tính phá thai.

Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn

2. Phải biết quên mình ngay trong những vấn đề vật chất, như việc xử dụng thời giờ, tiền bạc, việc mua sắm, việc giải trí... Người chồng độc đoán luôn muốn sắm sửa, giải trí theo sở thích của mình. Người vợ làm dữ đòi chồng phải mua cho bà những món đồ bà thích... Không ai nhịn ai! Kể từ đó đừng nói đến tình yêu nữa: Người ta đã giết chết nó, bằng cách lấy ích kỷ thay thế hy sinh.

Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng "anh giận gì?"

3. Hy sinh cũng có nghĩa là biết tha thứ. Đời này chẳng có ai là toàn thiện. Nhân vô thập toàn. Không có cuộc hôn nhân nào mà sớm hay muộn, không cần đến sự tha thứ. Nói cách khác phải biết "biết khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và khi một trong hai có điều đáng trách, phải biết tha thứ cho nhau..." (Cl 3,12-13)

Còn gì phá vỡ tình yêu bằng thiếu tinh thần hy sinh và dung thứ. Vì thiếu tinh thần hy sinh và tha thứ, bà ấy không để lỡ một cơ hội nào mà không nhắc lại những sai lỗi, những khuyết điểm và tật xấu của chồng. Nhắc đến để đay nghiến! Cũng vậy, người chồng âm ỉ giận vợ, lầm lì hờn dỗi ngày này qua ngày khác là người ích kỷ, không quảng đại tha thứ.

Xin vợ chồng đừng bao giờ quên: "Không có tình yêu nào mà không có hy sinh" (l'amour n'existe pas sans sacrifice), "Muốn tráng trứng, phải đập vỡ quả trứng" (On ne peut pas faire d'omelttre sans casser les oeufs). Nhất là vợ chồng phải nằm lòng lời Chúa Giêsu: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hy sinh mạng sống cho người mình yêu" (Ga 15,13). Thiếu tinh thần hy sinh và tha thứ, vợ chồng chày kíp sẽ giết chết tình yêu đã dành cho nhau!

9. SỐNG VỮNG NIỀM TIN

Chỉ có tôn giáo mới giúp con người phát triển đúng mức những đức tính cao đẹp của con người. Con người trổi hơn thú vật bởi vì con người có khả năng sống tôn giáo. Chỉ có tôn giáo có thể trang bị cho con người một nhân tính dũng mạnh, vừa làm tăng trưởng vừa thu hút tình yêu.

Không sống tôn giáo, người ta dễ sống "như cầm thú". Con người được dựng nên trong thân phận cao hơn thân phận cầm thú, nhưng nhiều khi, do sự lựa chọn tự do, con người lại sống thấp hèn giống như cầm thú.

Hôn nhân không chỉ đặt trên căn bản xác thịt, của cải, chức vị và danh vọng. Căn bản của hôn nhân là tình yêu. Và niềm tin là thành lũy bảo vệ tình yêu.

Mọi vấn đề của đời sống đều đòi hỏi những giải đáp tinh thần hay luân lý.

Không gì qúy bằng vợ chồng có chung một niềm tin. Yêu nhau là cùng nhau nhìn về một hướng, một hướng trọn vẹn về mọi phạm vi vật chất và tinh thần.

Niềm tin dạy chúng ta rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu, chính ngài đã thiết lập đời sống gia đình, và muốn đồng hành với vợ chồng, giúp cho vợ chồng sống hạnh phúc trong tình yêu chung thủy. Vì thế, đời sống cầu nguyện trong gia đình là cần thiết. Hạnh phúc của gia đình là có Chúa hiện diện trong nhà, chia sẻ trong mọi biến cố vui buồn.

Đối tượng cầu nguyện hằng ngày của vợ chồng là xin Chúa cho mỗi người yêu nhau đến cùng, yêu nhau như Chúa yêu; là xin Chúa bảo vệ tình yêu họ dành cho nhau, tình yêu là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện khác trong đời sống đôi bạn. Còn yêu là còn tin nhau, còn sống cho nhau hạnh phúc.

10. LÀM TRÒN BỔN PHẬN VỢ CHỒNG

Trong những biểu lộ quan trọng nhất của tình yêu vợ chồng, có sự biểu lộ tình yêu xác thịt hay sự biểu lộ tình yêu trong đời sống sinh lý.

Người ta nói nhiều đến hạnh phúc lứa đôi, nhưng thực tế vợ chồng chỉ cảm nghiệm và hưởng thụ hạnh phúc đó "một cách con người nhất" là khi vợ chồng trao thân cho nhau. Sau ngày thành hôn, đời sống sinh lý vợ chồng là chuyện vừa hợp pháp, vừa cần thiết và có công phúc.

Vợ chồng cần biết bảo trì đời sống sinh lý. Đừng làm cho nó trở thành nhàm chán, nghèo nàn. Trái lại phải làm sao cho thân xác vợ chồng hấp dẫn nhau, đời sống chăn gối mãi mới mẻ, phong phú. Mỗi lần sống bên nhau, trao thân cho nhau, cả hai đều cảm thấy thỏai mái, hạnh phúc... hiến thân và lãnh nhận.

Muốn đạt được như vậy, vợ chồng ý thức rằng, chính trong đời sống chăn gối này, có rất nhiều tế nhị mà đôi bên phải thận trọng cho hợp với điều kiện tâm lý, và cả sinh lý của đôi bên. Đòi hỏi hay đáp ứng đúng thời điểm và tâm lý. Đây vừa là quyền lợi, vừa là bổn phận. Cần đọc sách nói về đời sống chăn gối vợ chồng để có thêm kiến thức, để hiểu tốt hơn về những điều kiện sinh lý và tâm lý của bạn mình.

Một trong những chủ yếu của khế ước hôn nhân là khẳng định về đặc quyền của mỗi người trên thân xác của người bạn đời. Đặc quyền này hướng về việc sinh con cái. Nhưng cũng để vợ chồng tạo hạnh phúc cho nhau, yêu nhau cách khăng khít và chung thủy.

Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Nào ai thay nút đổi khuy cũng đừng

Vì thế, tình yêu có thể chết khi người ta không tôn trọng đặc quyền đó, hay khi người ta có một ý niệm sai lầm về nó. Vô tình người ta mở cửa cho người bạn của mình thất trung với mình. Lúc ấy, hôn nhân trở nên một gánh nặng thật sự.

GS Bùi Thị Lý, Đức Ông Mai Đức Vinh, GS Trần Văn Cản
Nguồn: ubmvgd.org

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

ĐỀ NGHỊ MỘT TIẾN TRÌNH DẠY GIÁO LÝ (tt)

7. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ

Phần cầu nguyện giữa giờ là đỉnh cao của giờ học giáo lý, vì sau khi các em đã nghe Chúa nói qua việc công bố Lời Chúa, sau khi đã hiểu Lời Chúa qua phần giải thích Lời Chúa, sau khi đã tiếp nhận lời mời gọi của Chúa với tất cả tâm tình, các em hẳn có nhiều điều muốn nói với Chúa, muốn đi vào cuộc đối thoại trang nghiêm thân tình với Chúa. Do đó nội dung của phần cầu nguyện giữa giờ này là ý chính, là nội dung của bài Giáo lý.

Cũng có nhiều hình thức trong giờ cầu nguyện này. Ví dụ : cả lớp đứng lên cầu nguyện một cách long trọng. Đây là lúc các em gặp gỡ Lời Chúa sau khi đã hiểu bài giáo lý của ngày hôm đó. Có thể cho các em công bố Lời Chúa một lần nữa. Sau đó nên để các em có những lời nguyện tự phát, những lời cảm tạ, chúc tụng, xin ơn và quyết tâm... Sau cùng giáo lý viên có thể nhắc lại ý chính của bài giáo lý và dâng một lời nguyên ngắn. Cũng có thể hát một bài ca ý lực Lời Chúa.

SỰ QUAN TRỌNG CỦA THINH LẶNG

Trong giờ giáo lý, nên có ít phút thinh lặng. Ta có thể xếp vào lúc nào trong giờ giáo lý tùy theo nhu cầu của mỗi lứa tuổi. Sự thinh lặng rất cần thiết trong hai trương hợp sau đây :

7.1. Muốn gây sự chú ý :

Khi giáo lý viên muốn truyền đạt một điều gì quan trọng đòi các em phải nhớ, ta nên bắt đầu bằng việc giúp các em biết thinh lặng để lắng nghe.

7.2. Chuẩn bị cầu nguyện hay suy tôn Lời Chúa :

 Khi chuẩn bị cầu nguyện hay bắt đầu một việc gì nghiêm túc, nên đòi hỏi các em biết giữ thinh lặng, để trong những lúc lắng đọng, các em lãnh hội tốt hơn.

Nghệ thuật sư phạm không hệ tại việc đòi hỏi hay ép buộc các em phải thinh lặng (tuy nhiên vẫn có luật trừ), nhưng là tạo những điều kiện giúp các em biết thinh lặng lúc nào cần thiết. Chẳng hạn như thinh lặng vì chú ý vào điều gì đó hay thinh lặng để nội tâm hóa một điều gì (chuẩn bị, thư giãn, bắt chước, suy niệm...

8. TÓM LƯỢC BÀI - CHỈ ĐỊNH BÀI HỌC THUỘC LÒNG

Sau khi đã truyền đạt bài giáo, giáo lý viên giúp các em tóm gọn thành một bài ngắn với những điều căn bản và sau đó đề nghị một số em lặp lại những điểm quan trọng. Khi cả lớp đã nắm vững bài học, giáo lý viên cho viết hoặc chỉ định bài học sẵn có. Bài học nên là một bài đọc thêm và một bài học thuộc lòng.

Việc dạy giáo lý của chúng ta thường rơi vào một trong hai thái cực : có người bắt học thuộc lòng mọi thứ, có người không cho học thuôc lòng điều gì cả, chỉ cần hiểu thôi. Thật ra cả hai đều là thiếu xót vì đúng ra cũng có những phần quan trọng cần học thuộc lòng.

 8.1. Học thuộc lòng là điều quan trọng bởi những lý do sau :

Để làm giàu cho mình. Học thuộc lòng điều mình khám phá và nghiên cứu thường giúp ta tăng trưởng chính mình hơn. Quá trình học thuộc lòng giúp ta ý thức rõ hơn mình là ai. Nó trở thành một phần con người của ta, giúp ta nhạn rõ vai trò Kitô hữu của mình. Chẳng hạn Kinh Lạy Cha mà ta cầu nguyện ngay từ thuở nhỏ, có thể đồng hóa ta trở thành một môn đệ Đức Giêsu.

Kho tàng kiến thức. Những điều học thuộc lòng hôm nay có thể hữu ích cho cuộc sống tương lai. Những công thức về sự khôn ngoan Kitô Giáo, hoặc các kinh nguyện một khi được học thuộc có thể trở thành nguồn suối trong đời sống được rút ra khi ta cần đến. Chẳng hạn những câu thánh vịnh học thuộc lòng khi xưa có thể khơi dậy lời cầu nguyện chân thành trong những giây phút vui hoặc buồn, thành công hay thất bại.

Tính liên đới. Những công thức đức tin có thể tạo ra một sự đồng cảm mãnh liệt với những người khác có cùng một truyền thống niềm tin. Ngay những đứa trẻ cũng có thể cảm nhận được sự hòa nhập với cộng đoàn giáo xứ khi tất cả cùng đọc Kinh Lạy Cha vào ngày chúa nhật. Học thuộc lòng những công thức đức tin Kitô giáo cũng có thể nuôi dưỡng việc liên đới hoặc nối kết những người của thế hệ đã qua và tương lai có cùng truyền thống Kitô giáo.

8.2. Nhưng phải học thuộc lòng những gì ?

Ngày nay, các sách giáo lý thường ghi chú rõ những gì các em phải học thuộc lòng. Ở đây, xin đề nghị một số điều các em cần học thuộc lòng :

- Những kinh căn bản: như Dấu Thánh Giá, Kinh Tin kính, Kinh Lạy Cha, kính mừng, kinh sáng danh.

- Những câu Kinh Thánh căn bản : những chủ đề về con người cũng như về tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.

- Những phần căn bản trong phụng vụ : những phần của thánh lễ, của các bí tích, những mùa phụng vụ, những lễ lớn.

8.3. Học thuộc lòng thế nào ?

Mỗi người có mỗi cách khác nhau để giúp các em nhớ bài. Vì thế giáo lý viên nên vận dụng kinh nghiệm của chính mình và dựa vào sức hiểu của các em.

Chỉ học thuộc lòng những gì có ý nghĩa. Chẳng có lợi gì khi bắt các em học thuộc như vẹt những công thức giáo lý mà các em không thể hiểu hết. Thường thường chỉ cho học thuộc lòng sau khi các em đã nắm bắt và hiểu.

Chia nhỏ ra. Đừng bắt các em nhớ những bài dài một lúc. Nên giúp các em chia bài dài thành những bài ngắn để dễ học và dễ nhớ, thí dụ các phần của Kinh Tin Kính gồm: Chúa Cha, Chúa con, Chúa Thánh Thần, Hội thánh và sự sống đời sau.

Tạo sự phấn khởi : Đừng làm cho việc học thuộc lòng ra buồn chán và nặng nề, nhưng nên biến nó thành trò chơi, âm nhạc, đố vui ... như vậy sẽ phấn khởi hơn và có ảnh huởng hữu hiệu hơn.

Lập lại một cách sáng tạo : Để cho trí nhớ phát triển đều đặn, việc lập lại luôn cần thiết. Nhưng việc lặp lại quá thường xuyên sẽ làm buồn tẻ. Do đó cần đổi mới và sáng tạo. Chẳng hạn : dùng những trò chơi điền chữ, đố vui, viết nối tiếp...

9. SINH HOẠT - CHƠI - GIẢI TRÍ

Trong một giờ giáo lý, sinh hoạt, ca hát, chơi chung là một việc cần thiết để vận dụng tối đa năng lực của các em. Nhiều em thích thú việc học tập qua việc vận động cơ thể vì chúng tiếp thu được nhiều nhất khi cơ thể chúng hướng về những sinh hoạt năng động.

Mục đích của sinh hoạt giáo lý là giúp các em đáp trả lại giáo huấn của Chúa cách hồn nhiên, vui tươi, sinh động và hỗ trợ cho việc nội tâm hóa sứ điệp của đức tin.

Trong giờ học ta có thể áp dụng nhiều hình thức vận động mà không gây ồn ào xáo trộn. Nhưng để làm điều đó, phải cẩn thận lên chương trình, tiên liệu trước những gì có thể xảy ra, để ý đến sức chịu đựng, nơi sinh hoạt và mục đích phải đạt đến. Vậy giờ sinh hoạt nên thay đổi địa điểm nếu có thể. Di chuyển ra ngoài phòng học nếu thời tiết cho phép. Có thể cho các em ra ngoài hay vào một phòng khác để sinh hoạt. Giờ sinh hoạt nên sử dụng nhiều hình thức khác nhau nhưng cùng nhắm đến chủ đề. Cần phải chuẩn bị trước một số hình thức sinh hoạt hợp với chủ đề giáo lý ngày hôm đó :

9.1.Trò chơi

Có rất nhiều hình thức trò chơi nhắm vận động trí lực, thể lực, suy đoán, nhanh trí... Nên chọn những trò chơi hợp với lứa tuổi và số người để tất cả các em có thể tham gia cách tích cực.

Cũng nên có những trò chơi mang tính liên tưởng, tìm tòi. Thí dụ qua cử điệu được diễn tả, các em nhớ đến một kinh nghiệm nào đó, một câu chuyện, một nghi lễ hay một chân lý rồi tất cả suy đoán những cữ chỉ đó muốn diễn tả điều gì ? Ta có thể cho những trò chơi suy tư, rút ra từ những hoàn cảnh đời thường, hay những hoàn cảnh xã hội phức tạp.

9.2.Hoạt cảnh : Một cách giúp cho các em khám phá kinh nghiệm sống là hoạt cảnh. Từng cá nhân hay từng nhóm nhỏ diễn tả kinh nghiệm sống có ý nghĩa trong đời, hoặc đời sống của người khác. Chẳng hạn chúng ta cho những em nhỏ diễn tả phản ứng của một đóa hoa đang héo gặp được nước hay ánh sáng mặt trời. Một hoạt cảnh có thể rút từ Kinh Thánh, từ những tình tiết cụ thể trong đời của các Thánh hay của chính chúng ta.

Hoạt cảnh cũng giúp các em khám phá ra tình thương, lòng tốt hay cả những xung đột giữa con người với nhau, như ghen tương, cãi cha mẹ... Công bằng xã hội cũng có thể dùng làm hoạt cảnh, thí dụ " giúp đỡ một người ăn xin ngoài phố".

9.3.Diễn kịch :

Diễn kịch Kinh thánh, nghi lễ phụng vụ, đời sống các Thánh hay một câu chuyện thiếu nhi là những cách giúp cho việc sinh hoạt giáo lý có ý nghĩa. Ta có thể đưa ra cốt truyện cho các em và nếu các em đã đủ lớn, ta để các em tự biên tự diễn. Tùy theo câu chuyện và thời gian phân công, các em có thể dàn dựng nhân vật, soạn thảo lời đối thoại và hoá trang.

9.4. Làm thủ công

Có rất nhiều việc thủ công sáng tạo mà ta có thể đề nghị các em làm. Khi các em làm những đồ vật, chúng ta nên giúp chúng đi sâu vào sứ điệp của bài học. Chỉ xin nêu vài thí dụ trong muôn vàn hình thức như : làm biểu ngữ, vẽ trên đá, cắt dán, nặn tượng bằng đất sét, bằng bột, thẻ treo tường.

9.5. Đúc tượng

Cho các em chơi trò nặn tượng với nhau. Chẳng hạn khi nặn tượng diễn tả về Giáo hội, các em khác có thể uốn nắn thêm cho đến khi pho tượng về Giáo hội đuợc hoàn chỉnh.

9.6. Ca múa

Thỉnh thoảng vào những ngày đặc biệt, ta có thể cho các em ca múa. Nên cho các em ca múa đơn giản với các bài hát hay Thánh vịnh có nội dung nhắm vào bài học ngày hôm đó.

Các loại bài hát :Những bài hát có thể được dùng trong giờ giáo lý gồm :

- Bài hát ý lực Lời Chúa : có nội dung là Lời Chúa và những tâm tình sống ứng hợp với Lời Chúa. Bài ca loại này thường dùng ở đầu giờ học, trong khi giảng bài hoặc để củng cố sau khi giảng bài.

- Bài hát cầu nguyện : có nội dung là những tâm tình cầu nguyện, cảm tạ, chúc tụng, xin ơn..., là thái độ đáp trả của con người trước Thiên Chúa. Có thể dùng bất cứ bài thánh ca nào thích hợp để gợi lên tâm tình cầu nguyện hợp với nội dung giáo lý và hợp với độ tuổi của các em.

- Bài hát sinh hoạt giáo lý : là những bài ca diễn tả những thái độ sống hợp với nội dung bài giáo lý như : đoàn kết, yêu thương, hiền hoà, dễ thương, hy sinh, dấn thân, trung thực v.v... Những bài hát này thường để tạo bầu khí hoặc để minh họa những điều quyết tâm của bài giáo lý.

- Bài hát sinh hoạt : là những bài mang nét nhân bản thích hợp, thường dùng khi sinh hoạt, vui chơi...

Các cử điệu :

Các bài hát trong giáo lý cũng có thể được kèm theo những cử điệu. Cử điệu là những động tác gồm cử chỉ và thái độ, được dùng để diễn tả tâm tình theo ý nghĩa của bài hát. Ta có thể nói cử điệu diễn tả thích hợp sẽ hỗ trợ cho việc cầu nguyện.

Sau đây là một vài cử điệu dùng trong phụng vụ, cầu nguyện và sinh hoạt :

- Chiêm niệm, lắng nghe : chắp tay, cúi đầu, có thể nhắm mắt.

- Chúc tụng, tôn vinh : đứng, hai tay đưa cao và dang rộng, mắt hướng lên trời, khuôn mặt rạng rỡ.

- Đón nhận Lời Chúa : đưa hai tay về phía trước và kéo tay về áp trước ngực.

- Tôn thờ, kính lạy : qùy, phủ phục, cúi mình.

- Yêu mến, kính trọng : qùy tựa trên hai gót chân, hơi cúi đầu, hai tay áp chéo trên ngực.

- Đón nhận, chia sẻ : hai tay mở, dang rộng về phía trước.

- Đoàn kết yêu thương : nắm tay nhau, đan tay vào nhau hoặc để tay lên vai nhau.

- Không chấp nhận : xua tay trước mặt hay buông thõng tay...

Nói chung, các sinh hoạt trong giờ giáo lý có thể dẫn đến lộn xộn và gây xao lãng nếu như chúng ta không xác định rõ mục tiêu của mỗi bài học ngay lúc đầu. Giáo lý viên và các em cần nhận thức rằng ai làm việc gì cũng phải nhắm tới mục tiêu nào đó, và phải có những diễn tiến tuần tự nhất định. Đây là một trong những bước quan trọng trong việc tổ chức lớp học. Tổ chức sao cho thực đơn giản với một đề tài chính, và dù có nhiều sinh hoạt khác nhau nhưng vẫn đến một mục tiêu duy nhất một cách hợp lý. Vấn đề không phải là có nhiều hoạt động nhưng là những hoạt động có ý nghĩa và được chọn lọc kỹ lưỡng. Trong một giờ giáo lý, ta không nên sử dụng tất cả mọi hình thức sinh hoạt nêu trên, nhưng chỉ chọn vài hình thức thích hợp để truyền đạt chủ đề giáo lý cách tốt nhất. Sau giờ sinh hoạt, cho các em rút ra bài học bổ ích cho mình.

10. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC

Lời nguyện kết thúc hướng về việc cảm tạ và quyết tâm. Dựa vào bài giáo lý đã học, chúng ta có thể giải nghĩa cho các em về tình yêu và những điều kỳ diệu của Chúa đối với con người để giúp các em cảm kích, thán phục... đồng thời hướng dẫn các em học biết cám ơn vì những gì các em đẽ nhận được trong giờ học và trong cuộc sống.

Chúng ta cũng có thể nói vài câu cám ơn các em đã đến tham dự giờ giáo lý. Chúng ta có thể xin lỗi vì sự thiếu sót nào đó của ta và tỏ ra sẵn sàng tha thứ cho các em vì lầm lỗi hay sự lơ là của chúng. Với những cách thức ấy chúng ta nuôi dưỡng tâm tình cầu nguyện của các em. Chúng ta tin tưởng nơi các em để giúp các em học biết tín thác.

Chúng ta cũng có thể giúp các em cầu nguyện bằng những lời cầu nguyện chân thành, đơn sơ cách âm thầm hoặc lớn tiếng, bằng cách viết hoặc một bài hát bằng cử điệu hoặc bằng hình thức nghệ thuật khác. Những lời cầu nguyện với cử điệu có thể có thêm ý nghĩa. Thí dụ dùng cử điệu để cầu nguyện kinh Lạy Cha, kinh Magnificat. Có những lời cầu xin hoặc thánh thi, thánh vịnh nhờ cử điệu mà thêm phong phú.

Trong lúc cầu nguyện, các em nói lên điều mình sẽ quyết tâm thực hiện trong tuần và xin ơn Chúa trợ giúp.

11. GIẢI TÁN - TIỄN CÁC EM RA VỀ.

Tu Viện Mân Côi Chí Hòa

 SỐNG ĐẸP

NHỮNG NÉT ĐẸP VÀ ĐỘC ĐÁO NƠI ĐTC PHANXICÔ

Kể từ ngày 19 tháng 3 năm 2013 đến nay (ngày 24.6.2013), Đức Thánh Cha Phanxicô chính thức nhận vai trò người kế vị thánh Phêrô đã được hơn 100 ngày. Trong những ngày đó, thế giới được chứng kiến nhiều biến cố quan trọng đánh dấu triều đại của vị chủ chăn hoàn vũ người Arhentina. Trong giới hạn bài viết, chỉ xin đề cập đến một số nét đẹp và độc đáo in đậm "chất Phanxicô" và một vài suy nghĩ cá nhân xung quanh những sự kiện này.

Trước tiên, chắc hẳn trong ký ức mỗi người còn in đậm và sống động hình ảnh ĐTC quỳ xuống rửa và hôn chân 12 thiếu niên tù nhân, trong đó, có 10 nam và 2 nữ (1 nam và 1 nữ người Hồi giáo) trong ngày thứ Năm Tuần Thánh tại Nhà tù Casal del Marmo ở Roma.

Tưởng cũng cần nhắc lại một vài hiệu quả tích cực sau biến cố này. Một số thư viết như sau: "Đức Thánh Cha Phanxicô kính mến: Tối nay chúng con cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân của bạo lực. Các gia đình của những người chúng con đã làm tổn thương đang cần chữa lành".Thư khác viết,"Hành động cuả Đức Giáo Hoàng sẽ khuyến khích cuộc chiến chống lại nạn nghiện ngập". Có em còn mạnh dạn ghi rằng: "Ma tuý là một phần đời sống cuả tôi từ rất lâu, nhưng ông (ĐGH) đã truyền cảm hứng cho tôi và tôi hứa là sẽ tỉnh táo và giúp đỡ người khác vượt qua các cơn nghiện độc ác nay".

Với những lời bộc bạch trên, là một dấu chỉ tích cực tác động trên đời sống hiện tại của các em, đến nỗi có em thốt lên: "Tôi 'hãnh diện' là một người Công giáo bởi vì tôi có một giáo hoàng như ngài". Và thông điệp hy vọng này đã vượt ra khỏi biên giới Roma đến tận Los Angeles. Các tù nhân trẻ ở đây, những người phải đối mặt với cuộc sống trong tù đã bị đánh động vì hành động của Đức Giáo Hoàng. Một số các tù nhân đã gửi thư cho Đức Phanxicô, cảm ơn những gì ngài đã chia sẻ ngày Thứ Năm Tuần Thánh với các tù nhân, và xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho họ. Qua đó, chúng ta thấy được thái độ trân trọng của ngài đã dành cho những thành phần bị xã hội lên án và coi thường.

Chưa hết, sáng thứ Hai 10 tháng 6 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chuyển sứ điệp ghi âm của ngài đến Hiệp hội Khiếm thị Italia nhân dịp anh chị em khiếm thị tham dự chương trình hè đặc biệt tại Trung tâm Le Torri ở Tirenia. Trong sứ điệp này, Ðức Thánh Cha ngỏ lời: "Tôi biết rằng một số anh chị em rất muốn đến Roma... Nhờ kỹ thuật hiện đại mà tôi đến được với anh chị em. Xin cám ơn anh chị em vì đã dành cho tôi lòng tri ân, cảm tình, và những lời cầu nguyện". Quả thật, ĐTC không nói chung chung nhưng quan tâm đến từng đối tượng cụ thể.

Qua hai sự kiện trên cho thấy, ngài đi bước trước trong tình yêu mà đến với họ: những người "èo uột" về luân lý (tù nhân), những người khiếm khuyết về thể lý (khiếm thị). Họ là những đối tượng được các huấn thị, văn kiện... của công đồng Vatican II nói đến. Thật vậy, phẩm giá của họ dễ bị xã hội xem thường và bản thân họ cũng mặc cảm trước sthái độ xúc phạm của người khác, nhưng qua việc ĐTC đến với họ, họ cảm nhận một sự quan tâm chân thành cần phải được đền đáp bằng cách như họ nói: cầu nguyện cho những ai họ làm tổn thương và giúp đỡ những người gặp bất hạnh như họ. Qua đó, chúng ta nhận ra "mầm sự Thiện" luôn ở trong con người dù họ đang trong hoàn cảnh nào và nó cần một mảnh đất thuận lợi để sinh hoa trái. Mảnh đất ấy chính ĐTC đã gợi ý cho chúng ta là sự quan tâm chân thành và tôn trọng thực sự đối với họ.

Ngoài ra, một nét độc đáo khác nơi ngài là một con người có đức tin vững mạnh. Sáng thứ Tư 12 tháng 6 năm 2013 tại quảng trường thánh Phêrô, trong khi Đức Thánh Cha Phanxicô nói về sự hiện diện của sự dữ, Satan hành động trong thế giới ngày nay, ngài công bố lớn tiếng rằng: "Thiên Chúa mạnh hơn! Anh chị em có tin điều này không? Tin rằng Thiên Chúa mạnh hơn không? Nhưng chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Thiên Chúa mạnh hơn! Tất cả nào! Và tín hữu tại quảng trưởng, đặc biệt là các trẻ em cùng nói to "Thiên Chúa mạnh hơn". Như thế, ngài đã phá tan bầu khí một bài huấn đức mà thay vào đó là một xác tín mạnh mẽ mang tính "kích động" hơn 90 ngàn tín hữu để họ lên tiếng. Nếu như thời Đức Gioan Phaolô II, mọi người đến Vatican để chiêm ngắm ngài, đến thời Đức Bênêdictô XVI, mọi người đến đây để nghe những suy tư sâu sắc của ngài thì thời Đức Phanxicô, mọi người đến đây để được lên tiếng. Phải chăng ĐTC muốn giúp Giáo hội tiến thêm bước nữa trong việc tuyên xưng đức tin bằng lời nói và hành động? Thiết tưởng, đó là cách truyền giáo hữu hiệu hơn cả trong thời đại thông tin. Chúng ta thử tưởng tượng với hơn 90 ngàn người cùng đồng thanh hô một lời gì đó thì có sức công phá đến mức nào. Như thế, Satan cũng phải chạy xa vì Thiên Chúa mạnh hơn và vì con người đoàn kết nên mạnh hơn.

Chưa hết, vào ngày thứ Tư, ngày 29 tháng 5 năm 2013, dưới bầu trời xám xịt và sau đó là mưa tầm tã, một con số kỷ lục là 90,000 anh chị em tín hữu đã đứng chật quảng trường Thánh Phêrô để tham dự buổi triều yết chung với Đức Thánh Cha. Bất chấp mưa lớn và gió lộng, Đức Thánh Cha đã đi trên chiếc xe jeep mui trần để chào đón những người hành hương. Ngài ướt đẫm khi dầm mưa chào mọi người. Có thể nói, chiếc xe jeep mui trần là điểm độc đáo của triều đại này. Chính chọn lựa này đã kéo theo việc ngài quyết định đội mưa mà ra chào đón các tín hữu. Quả thật, vui với người vui, khóc với người khóc và cả ướt với người ướt nữa! Sự thông cảm và đồng cảm của ngài là một gương mẫu cho các vị mục tử. Ngoài ra, nghĩa cử ấy thay cho lời muốn nói rằng: cả trời mưa hay những khó khăn nào đó cũng không làm mọi người lùi bước.

Và tác giả Linh Tiến Khải trong một bài viết sau sự kiện "chào nhau dưới mưa" đó, đã ghi nhận một chi tiết hết sức tinh tế, đó là: khi Đức Thánh Cha tiến đến chào, các em thiếu nhi không gọi tên Francesco nữa mà gân cổ lên gọi tên Giêsu. Qua đó, các em như muốn loan báo sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Giáo hội qua các nghĩa cử cao đẹp nơi vị chủ chăn hoàn cầu. Dường như Chân lý từ miệng trẻ thơ là lời công bố của Chúa Thánh Thần!

Từ những gì vừa trình bày như một dịp thuận lợi khả dĩ giúp chúng ta được hâm nóng tình yêu hiệp thông với Giáo hội. Và nói như một thiếu niên tù nhân: tôi rất hãnh diện là người Công giáo vì có một vị Giáo Hoàng như Đức Phanxicô. Hy vọng, với nhiều năm thấm nhuần linh đạo thánh I-nhã và kết hợp tinh thần thánh Phanxicô, ĐTC sẽ làm mới mẻ Giáo hội nhờ việc ngài sống trung thành trong tác động của Chúa Thánh Thần.

An Mai Đỗ O.Cist.

 HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Ý Nghĩa Và Tầm Quan Trọng Của Bí Tích Thánh Thể

Các Bí tích mà Chúa Kitô đã thiết lập và ban cho Giáo Hội cử hành, đều rất quan trọng và cần thiết cho mục đích cứu độ con người nhờ công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu.

Do đó, mọi tín hữu trong Giáo Hội đều được kêu gọi năng lãnh nhận các bí tích tối quan trọng là Thánh Thể và Hòa giải sau khi đã được tái sinh qua Phép Rửa và củng cố đức tin qua Bí tích Thêm sức. Nhưng muốn sống sung mãn và lớn lên trong đức tin thì phải siêng năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất để giúp trở nên thánh thiện nhờ được tham dự vào đời sống thần linh của Chúa Ba Ngôi mỗi khi được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể cử hành trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn.

Thật vậy, có thể nói : Bí tích Thánh Thể là bí tích ban ơn cứu độ quan trọng nhất mà Chúa Kitô đã trao cho Giáo Hội cử hành để tiếp tục công trình cứu độ nhân loại của Người cho đến ngày mãn thời gian.      
Nói được như vậy, là vì qua việc cử hành Bí Tích quan trọng này trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn (Eucharist), Chúa Kitô lại thực sự hiện diên nơi các thừa tác viên con người là linh mục và giám mục để dâng lại Hy Tế cực trọng mà Người đã một lần dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi.      

Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium của Đại Công Đồng Vaticanô II đã nói rõ về mục đích và ơn ích của Thánh lễ Tạ Ơn như sau:     

"Mỗi lần Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó "Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế" (1Cr 5, 7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện." (LG. số 3)

Nghĩa là mỗi khi Thánh lễ tạ Ơn được cử hành ở bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, thì Hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô lại được diễn ra để xin ơn tha thứ cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích mà Chúa Kitô đã một lần dâng Hy tế của Người trên thập giá xưa kia.Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá, chính Chúa Kitô - vừa là bàn thờ, vừa là linh mục và là của lễ- đã đích thân dâng Hy Tế của Người qua khổ nạn thập giá và máu Người đã đổ ra từ canh sườn và trong toàn thân từ đầu, mình và chân tay, vì bị đánh đập tàn nhẫn, bị đóng đanh và đầu đội mão gai. Chúa đã dâng tất cả sự đau khổ lớn lao đó và cả mạng sống của mình làm giá chuộc cho muôn người. Trên thập giá Người đã thực sự đổ máu và bị sát tế như Chiên Vượt qua để cho chúng ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc vô giá của Người.

Ngày nay, trên bàn thờ, Chúa dùng tay mà miệng của các thừa tác viên tư tế là linh mục và Giám mục để dâng lại cách bí nhiệm Hy Tế thập giá của Người cũng như diễn lại Bữa Tiệc ly để ban mình và máu Người làm của ăn và của uống cho chúng ta được nuôi dưỡng về mặt thiêng liêng và nhất là có hy vọng được sống đời đời với Chúa như Người đã phán hứa xưa kia:         

"Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." (Ga 6 ,54)       

Chỉ có qua bí tích Thánh Thể cử hành trong Thánh Lễ Tạ Ơn mà chúng ta được dự bàn tiệc thánh để ăn uống Mìnhvà Máu thánh Chúa hiện diện thực sự (real presence) dưới hai hình Thánh Thể là bánh và rượu nho.      

Như thế, tham dự và cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là "nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo" (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.  

Là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, vì chỉ qua Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ ngày nay mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, lại tuôn đổ muôn ơn thánh của Người cho chúng ta nhờ công nghiệp của Chúa Kitô với Hy tế một lần của Người trên thập giá và nay đang được tiếp tục dâng lại trên bàn thời qua tác vụ của Giáo Hội. Chính nhờ Hy tế cực trọng này mà con người được giao hòa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui và hạnh phúc bất tận. Và cũng chỉ nhờ có Hy tế thập giá mà mọi ơn ích của các bí tích khác được kiện toàn và thêm phong phú.         

Cụ thể, sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội, trẻ em hay người lớn không thể lớn lên trong đức tin và thân tình với Chúa nếu không được bồi dưỡng bởi ơn đặc biệt của phép Thánh Thể nhờ lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô hiện diện cách trọn vẹn nhưng bí nhiệm trong bánh và rượu nho.   

Nói khác đi, không có việc đạo đức hay cử hành phụng vụ nào quan trọng và có giá trị về mặt thiêng liêng hơn Thánh lễ Tạ ơn, vì qua Bí tích cao trọng này, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành Bữa ăn sau hết và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô với Nhóm Mười Hai Tông Đồ trong đêm Người bị nộp, vì Giuđa phản bội. Trong bữa ăn cuối cùng này, "Chúa Cứu Thế đã lập hy lễ Thánh Thể của Mình và Máu Người để lưu truyền vạn đại lễ hy sinh thập giá của Người đến muôn đời, cho tới khi Người đến, và cũng là để trao lại cho Giáo Hội là Hiền thê yêu quí của Người bí tích của tình yêu, dấu chỉ của hiệp nhất, sợi dây liên kết của đức ái. Với Bữa tiệc Vượt qua, trong đó Chúa Kitô được ban làm lương thực, linh hồn ta được đổ tràn đầy ân sủng là bảo chứng cho vinh quang mai sau đã được ban cho chúng ta. (x. SGLGHCG số 1323)    

Trong Thánh Lễ Tạ Ơn, Giáo Hội hiệp cùng Chúa Kitô dâng lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa Cha về hồng ơn cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đã thực sự đổ máu trên thập giá để "lập Giao Ước mới ", có giá trị cứu chuộc vượt trên hết mọi giao ước cũ. 

Có giá trị cứu rỗi hơn, vì với Giao Ước mới, Chúa Kitô được ví như Chiên vượt qua bị sát tế để cho muôn người được cứu độ như tác giả Sách Khải Huyền đã viết:        

"Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách       
Và mở ấn niêm phong  
Vì Ngài đã bị giết
Và đã lấy máu đào        
Chuộc về cho Thiên Chúa      
Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ        
Thuộc mọi nước mọi dân." (x. Kh 5, 9)     

Như thế, chính nhờ Hy Tế thập giá qua đó Chúa Kitô bị sát tế như chiên bị giết làm tế vật trong phụng vụ thời Cựu Ước, mà nhân loại được thứ tha mọi tội lỗi cho đến ngày nay và còn mãi về sau cho đến khi mãn thời gian.Nói rõ hơn, cử hành bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ Tạ Ơn là diễn lại Hy tế đền tội của Chúa Kitô để những ai tin và sống theo đường lối của Chúa sẽ được ơn cứu độ nhờ Người đã một lần đổ máu ra trên thập giá cho muôn người được cứu độ.         

Do đó, khi tham dự hay cử hành Thánh lễ Tạ Ơn là tham dự trước hết vào Bữa Ăn mà Chúa Kitô tiếp tục khoản đãi với thực phâm hảo hạng là chính mình và máu Người hiện diện thực sự nhưng bí tích dưới hai hình bánh và rượu nho.Đây chính là thần lương nuôi dưỡng và bổ sức cho ta trong cuộc lữ hành tiến về quê Trời.

Mặt khác khi tham dự và dâng Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời Chúa, là lời ban sự sống và cũng là của ăn thiêng liêng cần thiết cho ta lớn lên trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Quan trọng hơn nữa là chúng ta được hiệp nhất với Chúa Kitô trong mục đích dâng lại Hy tế cực trọng của Người lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho chúng ta và cho mọi người còn sống hay đã qua đời.. Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá Chúa Kitô đã thực sự đổ máu mình ra, nhưng nay trên bàn thờ Chúa đổ máu cách bí nhiệm nhưng cùng mục đích là để ban ơn cứu chuộc cho chúng ta mỗi khi chúng ta sốt sắng tham dự và sạch tội trọng để xứng đáng lãnh nhận Mình Máu thánh Chúa trong phần hiệp lễ (commUNI0N). Về điểm này, Giáo lý và giáo luật của Giáo Hội dạy rằng:   

"Ai muốn rước lấy Chúa Kitô trong phần hiệp lễ Thánh Thể, thì phải ở trong tình trạng có ân sủng. Nếu ai biết mình đã phạm tội trọng, thì không làm lễ và rước lễ, nếu không nhận được ơn tha thứ trước đó qua bí tích hòa giải (sám hối)" (x SGLGHCG số 1415,giáo luật số 916)     

Được kết hợp với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể là được tham dự ngay từ đời này vào đời sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì ở đâu có Chúa Con thì ở đó có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như thế, thật hạnh phúc biết bao cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa mỗi khi ta tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn với tư cách là tín hữu hay cử hành với tư cách là tư tế (linh mục và Giám mục). Thánh Lễ Tạ Ơn quả thật là đỉnh cao của đời sống Kitô giáo vì không còn phương thế nào có giá trị cứu rỗi cao hơn nữa, cũng như cho ta được lãnh nhận ơn Chúa dồi dào hơn nữa.      

Trong Bữa ăn sau cùng, Chúa Cứu Thế Giêsu không những đã lập Phép Thánh Thể và Chức Linh mục thừa tác (Ministerial priesthood) để "anh em làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy"(Lc 22, 19) mà còn lập Giao Ước mới ký kết bằng chính máu của Người đổ ra ngày hôm sau trên thập giá. Chúa đã loan báo Giao Ước mới này khi Người trao chén máu thánh cho các Tông Đồ hiện diện và nói: "anh em hãy lãnh nhận mà uống vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội..." (1 Cr 11, 25; Lc 22, 20).

Như thế Bữa ăn cuối cùng của Chúa cũng liên kết mật thiết với Hy Tế thập giá vì đã loan báo trước việc Chúa đổ máu trên thập giá ngày hôm sau để hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Ngày nay, trên bàn thờ, mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành, Chúa Kitô cũng đổ máu cách bí nhiệm, như Chiên Vượt qua bị sát tế để "nhờ đó công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện. (x LG số 11). Nghĩa là khi tham dự Thánh Lể Tạ Ơn hay cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự Bữa Ăn của Chúa và cùng với Chúa dâng mọi đau khổ, sướng vui của mỗi người chúng ta hiệp thông với khổ nạn của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha đễ xin Người tha thứ mọi tội lỗi cho ta được ơn cứu chuộc là mục đích của Hy tế thập giá xưa và nay.     

Đây cũng là phương cách thi hành chức vụ tư tế thông thường của người giáo dân (common Priesrhood of the Laity) hiệp thông với hàng tư tế thừa tác hay phẩm trật (hierarchical or ministerial Sacerdos) trong việc cử hành và tham dự Thánh lễ Tạ Ơn.      

Sau nữa, nhờ việc cử hành Thánh Lễ, "chúng ta được kết hợp với Phụng vụ trên trời và được thấy trước sự sống vĩnh cữu sẽ diễn ra khi Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong mọi người." như Thánh Phaolô đã dạy. (1 Cor 15, 28) (x SGLGHCG số 1326)        

Tóm lại, Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất cho ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô vì được kết hợp mật thiết với Người ngay từ trong cuộc sống ở đời này trước khi được chiêm ngưỡng Chúa trên Nước Trời mai sau. Do đó, mọi tín hữu được mời gọi siêng năng chạy đến với Chúa trong bí tích cao trọng này đặc biệt trong năm Đức Tin đang được mở ra trong toàn Giáo Hội, vì đây cũng là cách sống đức tin cụ thể và sống động nhất của mọi tín hữu Chúa Kitô trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, phi luân ngày nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

 Đừng Đánh Mất Hình Ảnh Xưa

Cô bạn thân bóng gió: Hồi này, ông Trung nhà mày trông trẻ ra và phong độ, còn nhìn mày cứ như chị ông ấy. Liệu mà ăn diện, quan tâm không lại mất chồng - chị vẫn tỉnh bơ: Ôi giời! Cho đấy, xem có ai rước đi không!

Đến khi tận mắt chứng kiến cảnh chồng mình ngồi uống cà phê buổi trưa với một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, không khí thật lãng mạn, chị như vỡ òa, sực tỉnh.

Anh chị lấy nhau đã 3 năm và có với nhau một đứa con hơn một tuổi. Chị không đẹp và hiện đại nhưng được cái chịu khó, chu đáo, luôn hết lòng, vun vén cho gia đình, chồng con. Nhưng trong tình yêu hôn nhân, chị thiếu sự tinh tế, làm cho cuộc sống vợ chồng đã đầy rẫy khó khăn, khúc mắc lại thêm đơn điệu, tẻ nhạt và nhàm chán.

Chính chị đôi lúc cũng nhận ra điều đó, nhưng rồi lại tặc lưỡi cho rằng: Cuộc sống vợ chồng phải khác cuộc sống khi yêu. Đâu có thể lúc nào cũng phù du, hư ảo, lúc nào cũng lãng mạn, thiếu thực tế.

Cuộc sống vợ chồng là cơm, áo, gạo, tiền, là hàng tháng anh cầm lương về cho chị để lo tiền ăn, tiền sữa, tiền bỉm... cho con và cho cả gia đình mà kinh tế của chị nào đã khấm khá gì cho cam. Thế là, chị không hưởng ứng những cuộc vui chơi với bạn bè, ngay cả đồng nghiệp cùng anh.

Những ngày lễ, Tết, anh có mua hoa và quà về tặng chị, chị không mấy vui vẻ, cảm ơn anh, đôi khi còn tỏ ra khó chịu với món quà theo chị là không thực tế: Anh mua những thứ này làm gì, vài ngày là vứt ngay ra xe rác, một nửa hộp sữa của con đấy, ít tiền gì đâu...

Đi làm về, anh thấy chị vất vả, muốn giúp vợ chia sẻ việc bếp núc, cơm nước, nghĩ là chị sẽ vui và ấm áp hơn mặc dù anh thừa nhận là mình còn vụng về việc nội trợ... thì chị đuổi anh ra: Mình em làm còn nhanh hơn, anh làm xong, em lại mất công làm lại.

Con thì đã có bà trông, anh chẳng biết làm gì, cảm thấy mình như người thừa trong chính ngôi nhà của anh. Anh chỉ còn biết ngồi đọc báo, xem ti vi hay chui vào phòng vùi đầu với máy tính chơi mấy trò game vô bổ chờ đến khi vợ gọi ăn cơm thì ra.

Có lần, anh muốn thay đổi không khí, gọi điện rủ chị hôm nay ra ngoài ăn rồi hai vợ chồng đi xem phim, chứ ngày nào cũng đi làm về rồi ngồi chờ cơm vợ nấu, chán lắm! Chị nhất định không chịu: Ăn bên ngoài đắt đỏ, tốn kém, lại chưa chắc đã vệ sinh. Tiền đó, chị có thể mua được ối thứ lặt vặt cho con. Với lại theo chị, anh thích xem phim trên mạng thiếu gì, phim gì chẳng có. Về nhà ăn cơm, nghỉ sớm, mai còn đi làm.

Đến cả chuyện ăn mặc của chị, đã nhiều lần anh nhắc, phụ nữ phải biết và có quyền được làm đẹp, chăm sóc bản thân, không là thiệt thân.

Anh giục chị đi mua lấy vài bộ quần áo cho tốt một chút để mà thay đổi, đừng để người ta nhìn vào rồi chê cười, phụ nữ mà không biết ăn diện, biết làm đẹp cho mình, cho chồng con. Chị bĩu môi: Chồng con rồi thì ma nào nó còn để ý mà ăn với diện, tốn tiền lại mất thời gian.

Anh vẫn còn nhớ và khát khao những hình ảnh đẹp về chị, ngày anh mới quen và yêu chị. Chị tuy không đẹp nhưng có duyên thầm, chị cũng không hiện đại như các cô gái khác, nhưng cũng không lỗi mốt.

Những chiều thứ bảy, chủ nhật, anh chị chẳng ngại đường sá xa xôi cùng đạp xe ra ngoại ô ngót nghét đến chục cây số để dã ngoại, những buổi nhịn ăn, dành tiền cho xem phim rồi nghe ca nhạc.

Cả những khi chị vỡ òa lên vì sung sướng và hạnh phúc nhận được hoa hay quà anh tặng. Giờ không còn là chị của anh ngày trước. Anh vẫn thừa nhận, chị sống thực tế và chịu nhiều thiệt thòi cũng chỉ vì lo vun vén cho chồng con, cho gia đình.

Nhưng không biết làm mới mình, luôn hâm nóng tình yêu thì chính là tự tay chôn vùi hạnh phúc của mình. Chị đã tự đẩy anh ra xa để có cảnh như ngày hôm nay. Cho nên, đời sống tinh thần của vợ chồng trong hôn nhân không bao giờ là khách sáo, là phù du và hư ảo.

Khánh Thu
Nguồn: Báo Phụ Nữ,ngày 4.4.2011

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 Hãy Yêu Nhau Khi Còn Bên Nhau

Một ngày không đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng trên 60 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn.

Lúc đầu vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng, ông đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Trong 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau và dường như chẳng bao giờ quyết định gì cho đúng đắn. Họ chịu đựng nhau đến bây giờ là vì các con. Bây giờ con cái họ đã lớn, đã có gia đình riêng, nên hai vợ chồng già không còn điều gì lo lắng nữa. Họ muốn được tự do sau những năm tháng dài không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn. Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này là điều không dễ vì tình sâu nghĩa nặng.

Vừa ký xong giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: "Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi thành thật xin lỗi".

"Không sao, tôi hiểu.", ông chồng già đáp lại.

Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị mời hai vợ chồng một bữa cơm tối. Người vợ trả lời: "Sao lại không? Dù ly hôn, ta vẫn sẽ là bạn kia mà".

Bên bàn ăn, bầu không khí im lặng, nặng nề đến khó thở. Món ăn đầu tiên được mang ra là món gà quay. Người chồng lập tức gắp một miếng đùi gà cho vợ: "Bà ăn đi, đây là món bà ưa thích." Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ : "vẫn còn cơ hội cho họ hàn gắn lại". Không ngờ người vợ cau mày, đáp lại: "Đây là vấn đề. Ông luôn chủ quan quá nên không bao giờ hiểu được tư tưởng của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà chừng nào à?"

Điều người vợ không nhìn thấy được là trong bao nhiêu năm chung sống, người chồng luôn luôn cố gắng làm vui lòng bà, dù ông là người thiếu nhận xét hay không khéo léo. Bà không biết là đùi gà là món yêu thích nhất của ông, cũng như ông không biết bà ghét đùi gà. Dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất theo khẩu vị của ông, nhường những thứ tốt nhất cho bà, bà chưa bao giờ cảm nhận được là ông hiểu bà.

Đêm hôm đó, tuy mỗi người mỗi nơi, nhưng cả hai ông bà đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng nỗi nhớ nhung nữa. Ông hiểu rằng ông yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn van bà quay trở lại làm vợ chồng. Ông muốn xin lỗi, muốn nói "Anh yêu em thật nhiều." Ông nhấc điện thoại lên và bấm số của bà. Tiếng chuông reo không ngừng, nhưng bà không nhấc máy. Ông lại cố gắng bấm máy, suốt tối.

Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xẩy ra trong những năm tháng sống cùng nhau. Sau 40 năm, ông ấy vẫn chẳng hiểu bà. Bà vẫn yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống tẻ nhạt như thế nữa.

Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không thèm trả lời, dẫu biết rằng người gọi là ông. Bà tự nghĩ: "Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Mình quyết định ly hôn rồi mà. Bây giờ đâm lao thì phải theo lao, nếu không mất mặt lắm". Bà mặc cho chuông điện thoại reo,  rồi bà quyết định tháo dây điện thoại ra. Trong khi đầu óc suy nghĩ rối bời , bà quên bẵng đi là ông bị đau tim...

Sáng hôm sau, bà nhận được tin ông qua đời. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn nhà của ông, để nhìn thấy xác ông nằm chơ vơ trên chiếc divan, tay vẫn giữ chặt ống điện thoại. Chắc hẳn ông  đã buồn bã, thất vọng suốt đêm khi bà không cho cơ hội thổ lộ nỗi lòng, và tim ông đã ngừng đập. Bà đau đớn vì hối hận. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lấy tâm khảm bà.

Khi thanh toán tài sản của ông, bà tìm thấy trong ngăn kéo một hợp đồng bảo hiểm ông  đã mua cho bà, từ ngày họ cưới nhau. Kèm vào đó, là một lá thư: "Gửi người vợ thân yêu của anh. Lúc em đọc lá thư này, chắc hẳn anh không còn trên cõi đời này nữa. Anh đã mua bảo hiểm này cho em. Chỉ có 100 đồng thôi, nhưng anh hy vọng nó có thể giúp anh thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau. Đến khi anh không còn ở bên cạnh để chăm sóc cho em nữa thì mong số tiền này có thể giúp anh tiếp tục đùm bọc cho em. Đó là điều anh ước nguyện sẽ được làm suốt cuộc đời anh. Anh sẽ mãi mãi bên em và yêu em thật nhiều".

Nước mắt bà tuôn chẩy hai hàng. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói vạn lời xin lỗi, muốn nói ngàn lời yêu thương nhưng ông không còn nghe được nữa.

 Có bao giờ bạn giật mình, nghĩ đến những cơ hội hạnh phúc mình vô tình đánh mất không? Nếu bạn yêu một ai đó, đừng quên nói cho họ biết từng ngày, vì không ai lường trước được ngày mai có còn có nhau hay không. Hãy học cách xây đắp hạnh phúc trong hôn nhân để hai vợ chồng, gia đình, bạn bè gần gũi nhau hơn, thương yêu nhau nhiều hơn.

(Sưu tầm)

 CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

 Việc Làm Nhỏ Ý Nghĩa Lớn

 Ngày nay, chúng ta thường thấy nhiều thùng tiền từ thiện được đặt ở những chỗ đông người lui tới, như: siêu thị, ngân hàng, quán ăn, bệnh viện và thậm chí bến phà đưa khách qua sông. Nhìn vào bên trong thấy đa phần là tiền lẻ với mệnh giá thấp: năm trăm, một ngàn, hai ngàn hoặc năm ngàn, thỉnh thoảng cũng có mệnh giá cao hơn.

Thực tế với số tiền "cỏn con" đó, khi cho con cái đi học chắc nhiều em không chịu nhận vì cũng khó mua được vật gì quý ngoài vài cục kẹo nho nhỏ. Thế nhưng, nếu tất cả các thùng tiền từ thiện trong cả nước góp chung lại chắc chắn số tiền đóng góp sẽ làm được việc gì đó cũng khá lớn cho những đối tượng mà chủ thể phát động muốn nhắm tới. Điều lớn hơn theo tôi nghĩ, cái lợi ở đây không chỉ nhắm tới đối tượng thụ hưởng mà ngay chính người "cho" đã "hưởng lợi" trước. Vì qua việc làm nầy, phần nào cũng gây ý thức cho cộng đồng, cho chính người "cho" về việc đóng góp chia sẻ cho những đối tượng nghèo hơn mình, và như lời Thánh Phaolô nói: "Cho thì tốt hơn là nhận"(Cv 20,35).

Đức Cố Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân, khi còn sống ngài cũng từng trao đổi với các cha nên động viên nhắc nhở cho các em thiếu nhi trong họ đạo biết bố thí, bỏ tiền kết. Chắc chắn dụng ý của ngài là muốn tập các em biết đóng góp, chia sẻ trong việc chung của họ đạo ngay lứa tuổi thiếu nhi. Ngài cũng nói thêm, nhìn vào giỏ tiền kết số tiền với mệnh giá cao cũng vui vì sự đóng góp quảng đại của bà con giáo dân, nhưng nếu không thấy những đồng tiền lẻ điều đó chứng tỏ chỉ có người lớn đóng góp còn các em thiếu nhi dường như không quan tâm đến "việc của người lớn".

Đồng thời, trong Phúc âm Chúa Giêsu cũng đã khen bà góa tuy số tiền bà dâng cúng chả đáng là bao; thế nhưng Chúa đã tuyên dương bà trước mặt các Tông đồ: "Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo nầy đã bỏ vào nhiều hơn ai hết" (Lc 21,3). Một việc làm nhỏ với số lượng nhỏ nhưng mang ý nghĩa lớn với giá trị lớn trước mặt Thiên Chúa "là Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả lại cho anh" (Mt 6, 4b).

Khía cạnh tốt tích cực của cuộc sống sẽ lan tỏa cho cộng đồng. Tương tự, điều tiêu cực, những điều xấu nho nhỏ cũng xảy ra quanh ta hằng ngày, xuất phát từ chính người lớn khiến cho các em nhỏ bị lây nhiễm. Việc hay chửi thề, nói tục, việc thiếu thành thật...chẳng hạn, xem ra là những việc nho nhỏ nhưng những thói quen không tốt ấy sẽ ảnh hưởng rất lớn trên trẻ nhỏ. Một đám cháy lớn thường xuất phát từ những đóm lửa nhỏ.

Người lớn cần biết phát huy việc làm tốt tưởng chừng bé nhỏ và chỉ dạy con em mình thì họ cũng cần lưu ý loại bỏ những thói quen không tốt vì nó cũng sẽ ảnh hưởng trên trẻ nhỏ và cộng đồng. Nếu mỗi người ý thức và tích cực thực hiện những việc làm tốt tuy bé nhỏ tôi tin rằng nó sẽ giúp biến đổi môi trường chúng ta đang sống ngày càng "trong lành" và tốt đẹp hơn.

Caritas VL

TÌM HIỂU VỀ ĐỨC TIN

 12- Thưa Cha, theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã tạo dựng Ađam và Eva để sinh nở khắp cùng mặt đất. Cốt truyện nầy có thể tin được không? Giáo Hội nghĩ gì về thuyết tiến hóa của Darwin?

Trước hết, bạn nên nhớ rằng Kinh Thánh bao gồm nhiều tác phẩm khác nhau, được biên soạn trong nhiều thế kỷ. Những tập sách khác nhau nầy tường thuật việc Thiên Chúa từ từ thành lập một dân riêng, để yêu mến Ngài và theo chân Ngài trong suốt cuộc hành trình trên dương thế. Các cốt truyện đều mang những sắc thái văn chương riêng biệt của từng thời kỳ. Vì vậy, không thể đọc cốt truyện trong sách Sáng Thế, cũng như các cốt truyện khác, theo sát mặt chữ. Cốt truyện liên quan đến Ađam và Eva đề cao sự thống nhất của nhân loại và nguồn gốc của mọi người.

Giáo Hội đã ghi nhận những khám phá khoa học của thế kỷ XX nhằm làm sang tỏ quá trình phát triển trong vũ trụ, trong thế giới động vật và trong thế giới nhân sinh. Điều đó hoàn toàn không phương hại gì đến ý niệm về sự tạo dựng của Thiên Chúa, ngay vào bước khởi đầu của quá trình phát triển, mà còn tạo them ý nghĩ và phương hướng cho vấn đề đó.

Đức tin và khoa học, mỗi bên có cách đặt vấn đề khác nhau. Sách Sáng Thế quan tâm đến vấn đề "tại sao", theo nghĩa của mỗi sự việc. Khoa Học đặt vấn nạn "bằng cách nào", truy tìm những quy luật thống trị vũ trụ. Đức Tin không thể và cũng không nên chối bỏ Khoa Học, hay ngược lại.

13- Thưa Cha, danh xưng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh là gì ?

Trong sách Xuất Hành, chương 3, Thiên Chúa sai Môsê đi làm nhiệm vụ. Môsê thưa với Chúa: "Con phải dung danh nào để nói về Chúa cho dân Israel". Thiên Chúa đáp lại: "Người nói với con cái Israel thế này: "Chúa (....) sai tôi đến với anh em" (câu 15). Thực ra, danh xưng "Chúa" được phiên âm từ tiếng Do Thái thành Giavê. Nhưng vì tôn kính tính siêu việt của Thiên Chúa, tín hữu Do Thái không phát âm danh xưng đó. Để thế lại, họ dung từ Adonai theo ngôn-ngữ hy- bá- lai, dịch thành "Kyrios" theo hy ngữ và có nghĩa là "Chúa".

(còn tiếp)
JEAN-MICHEL DI FALCO, GIẢI ĐÁP 100 VẤN NẠN VỀ ĐỨC TIN, Nxb Centurion, 1993).

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang trình bày và giới thiệu.

5213    13-02-2014 16:04:11