Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Giáo Hội Là Gia Đình Của Thiên Chúa - Tháng 04 năm 2012

  1. Lời Chủa Chăn
  2. Thư Mục Vụ
  3. Diễn Giải Thư Mục Vụ
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Trang Linh Mục
  9. Trang Tu Sĩ
  10. Trang Sống Ơn Gọi
  11. Trang Thiếu Nhi
  12. Trang Giới Trẻ
  13. Trang Gia Đình
  14. Trang Giáo Lý Viên
  15. Sống Đẹp
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Hỏi Đáp Mục Vụ
  18. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦA CHĂN

TOÀ GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2Vĩnh Long

Ngày 23.3.2012


Kính gởi:  Các Linh Mục,
                 Các Tu Sĩ Nam Nữ,   
                Anh Chị Em Giáo Dân Địa Phận Vĩnh Long

V/v Hội Thánh  là Gia Đình của Thiên Chúa

1. Trong Sách Lễ Rôma,  chúng ta tuyên xưng Hội Thánh là Gia Đình của Thiên Chúa:

Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa hằng xót thương chăm sóc gia đình của Chúa, Vì chúng con chỉ cậy trông vào ơn bởi trời, xin Chúa luôn giữ gìn chúng con.  (Chúa Nhật V Thường Niên, lời nguyện đầu lễ).

Cũng trong Sách Lễ Rôma, chúng ta đọc :

Lạy Chúa, xin ban cho Gia Đình của Chúa  ngày càng hăng say làm các việc thiện, xin  cho chúng con khi sống ở đời nầy, được đầy đủ những ơn cần thiết, nhờ đó  chúng con đạt tới  phúc lộc đời sau (Thứ Tư tuần II Mùa Chay).

Thư chung hậu Đại Hội Dân Chúa xác quyết rằng "Hình ảnh Giáo Hội - Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam" (số 10).

Thế nhưng chúng ta có thể nhận thấy ảnh hưởng của xã hội thực dụng hôm nay đang làm lung lạc gia đình, phá đổ nền tảng vững bền của tổ chức nầy, khi dung túng cho việc nam nữ chung sống ngoài hôn nhân, hôn nhân đồng tính, ly hôn ly dị . Và tất nhiên  không tôn trọng cũng như không thấy trách nhiệm đối với sự sống của con cái.

2. Chân Phước Gioan Phaolô II đã gọi Hội Thánh là Cộng Đoàn Hiệp Thông bắt nguồn từ Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi, tham dự vào sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, xây dựng theo hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi:

"Khi sống tại thế, Chúa Giêsu đã gọi những ai Người muốn, để giữ họ lại bên Người và để chuẩn bị họ theo gương Người sống cho Chúa Cha và cho sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận (x. Mc 3,12-15). Vậy nên Người đã khai sinh một gia đình mới tập hợp qua mọi thời đại những ai sẵn sàng 'thi hành ý muốn của Thiên Chúa' (x. Mc 3,32-35). Sau khi về trời, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Người đã thiết lập chung quanh các Tông đồ một cộng đoàn huynh đệ, được tập hợp trong lời ca tụng Thiên Chúa và trong một kinh nghiệm hiệp thông cụ thể"  (x. Cv 2,42-47; 4,32-35) (x. Tông huấn  Vita consecrata, 41).

Dựa trên Kinh Thánh,  Công Đồng Vaticanô II gọi các tín hữu là con cái Thiên Chúa, và họp thành một gia đình trong Chúa Kitô (x. Do Thái 3,6 ;  LG 6 , 28, 51).

Thiên Chúa đã dựng nên con người không phải để sống riêng rẽ, nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội: Theo hình ảnh Chúa, Ngài đã dựng nên con người là nam là  nữ  (x. St 1,27). Cũng thế, Thiên Chúa không muốn thánh hoá và cứu rỗi nhân loại cách riêng rẽ, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một đoàn dân, để họ nhận biết  chính Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện ( LG 9; GS 32).

3. Mầu Nhiệm Hiệp Thông là mục đích của công trình tạo dựng và kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, là điều căn bản (x. Gioan Phaolô II, Đời Thánh Hiến, số 41). Hiệp Thông với Thiên Chúa trong tình con thảo với Cha, và hiệp thông với nhau như anh chị em một nhà.

Chúa Giêsu là Nguyên Lý của sự Hiệp Thông: "Là trưởng tử của một đoàn anh em đông đúc, sau cuộc tử nạn và phục sinh, Người đã thiết lập nhờ hồng ân của Thánh Thần Người một sự kết hợp huynh đệ mới giữa tất cả những kẻ đón nhận Người với đức tin và đúc ái trong chính thân thể của Người là Hội Thánh, ở đó mọi người là chi thể với nhau, tuỳ theo những ơn đã lãnh nhận mà phục vụ lẫn nhau "  (GS 32).

Người cũng là mẫu gương cho chúng ta, gương yêu mến và vâng phục Chúa Cha: Người là Con Chí Aùi của Chúa Cha (Mt 3,17; 17,5). Được kêu gọi để hợ thành gia đình các con cái Thiên Chúa, chúng ta cử hành Thánh Lễ, để học sống theo gương vâng phục của Chúa Giêsu (Phil 2,,8) và gương yêu thương phục vụ của Người (Gioan 13,1; 15,13; Gal 2,20). Khi lãnh nhận Phép Thánh Thể, chúng ta được ban thêm lòng mến Chúa, thêm tình huynh đệ, cùng thêm ơn thánh để khử trừ các thói xấu ích kỷ, kiêu căng để khiêm tốn đón nhận tha nhân.

Vì thế, Chân Phước Gioan Phaolô II đã mạnh dạn quả quyết: "Việc tham dự vào sự hiệp thông Ba Ngôi có thể thay đổi những tương quan nhân bản" (Đời sống Thánh Hiến, số 41).

Sau cùng, Gia Đình của Thiên Chúa giúp ích gì cho các gia đình ?

Gia đình gặp khó khăn, bất hoà, con cái bất phục tùng, lêu lổng, nghiện ngập , gây ra nhiều đau khổ. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI  ngỏ lời với các gia đình như sau:

"Chắc hẳn anh chị em đã nhận thấy rằng không có một đôi vợ chồng nào, tự sức riêng mình, lại có thể mang đến cho con cái của mình tình yêu và ý nghĩa của cuộc sống một cách thích đáng. Quả thật, để có thể nói với một ai đó: Cuộc đời của bạn thật tốt đẹp, mặc dầu tôi không biết được tương lai của nó, thì quyền bính và tính đáng tin đó phải lớn hơn quyền của các bậc làm cha làm mẹ.

Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa đã giao quyền bính có một tầm vóc lớn hơn nầy cho một gia đình rộng lớn hơn mà Ngài đã thiết lập trong lịch sử nhân loại, nhờ Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, và nhờ ơn Chúa Thánh Thần, gia đình ấy là Hội Thánh.

Chúng ta thấy Tình Yêu vĩnh cửu và bất diệt nầy đang tác động trong lòng Giáo Hội, một tình yêu mang lại một ý nghĩa trường tồn cho đời sống của mỗi người trong chúng ta, ngay cả khi chúng ta không biết được tương lai của cuộc sống.

Chính vì thế, mỗi gia đình Kitô giáo được xây dựng trong lòng Giáo Hội, là một Đại gia đình. Giáo Hội nâng đỡ và ôm lấy gia đình của anh chị em vào trong lòng mình, và làm cho anh chị em xác tín rằng gia đình của anh chị em được bảo vệ, bây giờ và mãi mãi về sau..." (Giảng tại giáo xứ Santo Antonio, Luanda, CN IV Mùa Chay 2009).

Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ của Hội Thánh, Mẹ của chúng ta. Bên Mẹ, chúng ta có thể tìm lại được sự thanh thản và hy vọng làm cho chúng ta được hạnh phúc trong Chúa, và không hề cảm thấy mỏi mệt trong cuộc chiến vì sự sống.

Xin Mẹ gìn giữ  chúng ta luôn hợp nhất trong Đại gia đình của Thiên Chúa.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
         Giám mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

Giáo Hội thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông. Các tín hữu là những "người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa" (Ep 2, 19). Hình ảnh Giáo Hội-Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và người dân Việt nói chung. Hình ảnh đó trình bày Giáo Hội như một cộng đoàn hợp nhất yêu thương, liên đới, chung tay làm việc, chứ không nặng cơ cấu và luật lệ, nên dễ được đón nhận hơn đối với tâm thức người Việt. Do đó, cần nghiên cứu, suy tư và trình bày Giáo Hội như gia đình của Thiên Chúa, để hội nhập thần học Kitô giáo vào xã hội Việt Nam. Trên nền tảng thần học đó, các mục tử xây dựng những kế hoạch mục vụ "giáo xứ là gia đình của các gia đình",  canh tân cử hành phụng vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia đình, cũng như phát triển những hoạt động mục vụ gia đình. (Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 10).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Có "những chuyến trong cuộc xe đời" người tín hữu đặc biệt mang đậm dấu ấn  Nhà thờ Họ đạo của mình.

Chuyến xe đầu đưa ta đến nhà thờ để nhận ơn làm con Chúa, trở thành con cái của gia đình Hội Thánh qua Phép Rửa tội. Kể từ đó, người tín hữu chính thức gắn kết đời mình với Chúa, với Hội Thánh và với Nhà thờ  xứ  đạo của mình cùng với biết bao thăng trầm buồn vui cuộc đời.

Thời gian trôi mau với độ tuổi trưởng thành, người tín hữu hân hoan dẫn người bạn đời trên chuyến xe hoa, đến Nhà thờ cử hành lễ cưới, dưới sự chứng giám của cộng đoàn Họ đạo, trong phúc lành của Thiên Chúa.

Chuyến xe cuối cùng đưa ta trở lại Nhà thờ khi đã hoàn tất chặng đường dương thế, chào tạm  biệt gia đình Họ đạo thân yêu để trở về với Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ kính yêu, trong niềm thanh thản của người con đã hoàn tất cuộc sống trần thế của mình: trở về Nhà Cha trên trời.

Nhà thờ Họ đạo chính nơi nuôi dưỡng người tín hữu lớn lên trong đời sống thiêng liêng - nhờ ơn Chúa được ban qua các Bí tích - trong tình hiệp nhất yêu thương với các anh chị em cùng sống chung một niềm tin. Bao kỷ niệm cuộc đời người tín hữu đều diễn ra và gắn bó với Nhà Thờ Họ đạo thân thương của mỗi người chúng ta.

Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Chúa và con cái Hội Thánh. Như vậy, "Hội Thánh thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông." (Thư Chung Hội Đồng Dân Chúa, số 10).

Chính Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh.  Ngài cho ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, giúp ta giao hoà với Thiên Chúa và anh em bằng Bí tích Hoà giải, giúp ta kết hợp với Chúa Giêsu bằng Bí tích Thánh Thể, giúp ta kết hiệp với các tín hữu trong Chúa Kitô khi ta tham dự các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Ngài làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, và được cùng với Chúa Giêsu chia sẻ sự sống và vinh quang của Thiên Chúa.

Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn, ban ơn và thánh hóa Hội Thánh để Hội Thánh không ngừng loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi dân tộc. Nhờ đó, Hội Thánh trở thành phương thế, dấu chỉ mà Chúa dùng để thực hiện ý định cứu độ giúp con người kết hợp với Thiên Chúa và hợp nhất với nhau. Vì vậy Hội Thánh cũng được gọi là Bí tích phổ quát của ơn cứu độ.

Trong Hội Thánh, nhờ Chúa Thánh Thần,  cuộc sống của các tín hữu sẽ trổ sinh những hoa trái tốt lành thánh thiện (x. Gl 5,22-23), làm cho Thiên Chúa được tôn vinh và qua đó các tín hữu làm chứng cho Tin Mừng, làm chứng cho Chúa.

Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa, thì phải sống theo "tinh thần của Thiên Chúa" (x. 1Cor 2,10-11).  Chính Chúa Thánh Thần đưa cách sống của Thiên Chúa vào Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa với ba nét lớn của mầu nhiệm Hội Thánh: Tình yêu hiệp thông, Tình yêu cứu độ và Tình yêu phục vụ.

Hội Thánh thời các Tông đồ đã sống mầu nhiệm hiệp nhất, yêu thương, cứu độ cách rất mẫu mực. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: "Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ... Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ." (Cv 4,32; 2,42.46-47).

Sinh hoạt chính yếu của Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là:

-      Một lòng một ý hiệp thông với nhau (tình yêu hiệp thông).

-      Siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh (tình yêu chia sẻ, phục vụ).

-      Ngày càng có thêm ngưởi được cứu độ (tình yệu cứu độ).

Giáo xứ ngày nay là Hội Thánh thu nhỏ "là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội." (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu , về Giáo xứ, số 130).

Làm thế nào để cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương để ngày càng có thêm nhiều người được cứu độ?

Với các linh mục Chính xứ:

Nên tổ chức điều hành Giáo xứ trong tình yêu thương như một gia đình, trong đó các thành viên hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ lẫn nhau.

Với người tín hữu:

- Nhà thờ của mỗi Giáo xứ giống như nhà tổ của một gia tộc, là nơi cộng đoàn họp vào mỗi Chúa nhật và cả các ngày trong tuần nếu được, để dâng Thánh lễ biểu lộ lòng tôn thờ, cảm tạ, xin ơn lành hồn xác và đón nhận ơn Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích. Do đó, người tín hữu thể hiện sự gắn bó với Hội Thánh qua sự hiện diện tại Nhà Thờ Giáo xứ trong các Thánh Lể, nhất là Thánh Lễ Chúa Nhật để hiệp thông và góp phần duy trì sinh hoạt chung của Giáo xứ. Các gia đình tín hữu còn có nhiệm vụ góp phần xây dựng và tu sửa Nhà Thờ Giáo xứ của mình.

-  Các linh mục chánh xứ và linh mục phụ tá được coi như người cha tinh thần sinh ra các tín hữu qua phép Rửa tội, và như thầy dạy đức tin, nên các tín hữu có bổn phận phải hiếu kính đối với các ngài. Lòng hiếu kính được biểu lộ qua việc năng cầu nguyện cho các ngài được hồn an xác mạnh, động viên tinh thần khi các ngài gặp những khó khăn. Nhất là các tín hữu nên tình nguyện trở thành cánh tay nối dài bằng việc tham gia phục vụ trong Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ, các Hội đoàn Công giáo tiến hành và các sinh hoạt chung trong Giáo xứ để lòng đạo được nâng cao và sống gắn bó với nhau hơn.

- Cầu nguyện cho Giáo xứ: Bằng lời cầu nguyện, chúng ta sẽ là nguồn trợ lực siêu nhiên cho những thành viên trong đại gia đình giáo xứ, nhất là khi có những người khô khan, nguội lạnh, đau liệt và qua đời.  Nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp đời sống Giáo xứ mỗi ngày một phát triển sinh động và thánh thiện và thêm đông số người thợ phượng Thiên Chúa.

Thánh Phaolô dạy chúng ta sống yêu thương hiệp nhất như con cái Thiên Chúa trong đại gia đình là Hội Thánh của Người: "Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương,  và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt."  (Eph 5,1-2).

Nguồn: Lm. Đinh Văn Vãng, Gia đình và Giáo xứ; Chúa Thánh Thần trong đời sống Hội Thánh, tinvuixuanloc.vn.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Gia đình là một tập thể có nhiều thành phần cùng chung một nếp sống, chung một mái ấm, cùng yêu thương nhau, cùng xây dựng hạnh phúc thật. Vậy, Hội Thánh là một gia đình của Thiên Chúa. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.    Chúa phán: "Ai là anh chị em Ta, ai là Mẹ Ta? Đó là những người làm theo thánh ý Thiên Chúa". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn vâng theo ý Chúa, để xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

2.    Chúa phán: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu luôn tuân giữ Lời Chúa, yêu mến Chúa để luôn được sống trong Chúa.

3.    Chúa phán: "Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần, sẽ không được vào Nước Trời". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu luôn làm lớn mạnh ơn bí tích Rửa Tội, để được sự sống của Chúa, và được ở trong gia đình của Chúa.

4.    Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, và làm cho mọi người nên môn đệ Thầy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết xây dựng gia đình mình nên chứng tá của gia đình Thiên Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Ngôi Hai Chúa xuống thế làm người trong gia đình Thánh Thất, để quy tụ mọi người vào gia đình của Chúa.  Xin Thánh Thần Chúa trợ giúp chúng con sống xứng đáng là con Chúa. Chúng con cầu xin....Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

NOI GƯƠNG GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA

Giáo hội là Gia Đình của Thiên Chúa. Ta hiểu mầu nhiệm này như thế nào? Và áp dụng ra sao vào đời sống Giáo hội cũng như là đời sống cá nhân của mỗi người chúng ta?

Gia đình Thiên Chúa là làm sao? Điểm nổi bật nơi gia đình Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất và sự dấn thân. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông nhau và kết quả của sự hiệp thông là hiệp nhất, nên Một Chúa trong Ba Ngôi riêng biệt. Tình yêu trọn hảo nơi Thiên Chúa là mối dây liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và lan toả tình yêu ấy cho con người, cho các loài thụ tạo. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau và muốn thông ban tình yêu ấy nên Thiên Chúa đã dựng nên con người cùng muôn loài muôn vật.

Khi nói: Giáo hội là gia đình Thiên Chúa chính là một sự xác tín Giáo hội chính là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian, là nối dài mầu nhiệm Thiên Chúa cách hữu hình nơi các loài thụ tạo.

Như vậy Giáo hội là Gia đình của Thiên Chúa hiệp nhất. Hiệp nhất là kết quả của một tiến trình, là điểm đến của sự hiệp thông (thông phần, chia sẻ và kết hợp với nhau). Sự hiệp nhất của Ba Ngôi vừa là nguồn gốc, vừa là mạch sống, vừa là mẫu mực cho sự hiệp nhất của Giáo Hội: được sinh ra bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông trong Giáo Hội cũng sẽ trở về với Chúa Cha nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, cho đến ngày tất cả mọi sự quy phục Người Con, Đấng đến lượt mình sẽ cũng trao lại mọi sự cho Chúa Cha, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự (1 Cr 15, 28).

Cha Yves Congar nhận định rằng: "sự hiệp nhất của Giáo Hội là một sự chuyển thông và nối dài sự hiệp nhất trong Thiên Chúa". Còn thánh Phaolô đã diễn tả tình hiệp thông giữa các tín hữu như là hình ảnh của một thân thể con người: ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.

"Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể.... Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một chi thể." (x 1 Cr 12, 5-27).

Như vậy chúng ta có một sự hiệp thông sâu xa dựa trên cùng một đức tin, các bí tích và Lời Chúa và chia sẻ cùng một Thánh Thần để nên Thân Thể Đức Kitô. Đó là sự hiệp thông đích thực giữa các Kitô hữu đối với nhau. Nói như vậy cho thấy việc từ chối nhau hay chia rẽ nhau trong Giáo hội là không thể hiểu nổi, phải nhận thấy sự hiệp thông sâu xa đó để chúng ta cần phải thay đổi thái độ và lối sống của mình đối với anh chị em. 

Giáo hội là Gia đình Thiên Chúa dấn thân. Cùng nhau thi hành Sứ Vụ loan báo Tin Mừng, chính là hình ảnh Nước Trời tại thế mà chúng ta đang xây dựng. "Nước Trời như một tấm lưới thả xuống biển" (x. Bài thuyết trình của Đc Phêrô Châu Ngọc Tri tại Đại Hội Dân Chúa năm 2010). Mỗi người chúng ta như một mắt lưới cũng vững chắc đan kết vào nhau làm thành tấm lưới thả xuống biển đời. Những người được mời gọi tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng trong mọi môi trường, hoàn cảnh sống của mình. Vì thế, chúng ta không phải chỉ là những người thụ động thực thi, nhưng cũng được mời gọi tích cực tham dự vào việc xây dựng đường hướng mục vụ truyền giáo của Giáo Hội.

Công việc loan báo Nước Trời và công việc cứu độ, Chúa không làm một mình, nhưng Ngài kêu mời nhiều người góp tay vào công việc mở mang Nước Thiên Chúa. Bởi vì Chúa luôn cần những người tiếp nối công việc của Ngài, để Nước Thiên Chúa được mở rộng. Đừng ai tiêu cực nghĩ rằng mình chẳng quan trọng gì trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì "không có mợ, chợ cũng đông". Như một mắt lưới bị rách, mẻ lưới sẽ thất thu; nhiều mắt lưới bị thủng, mẻ lưới chẳng còn con cá nào.

Xác tín Giáo hội là Gia đình Thiên Chúa để mỗi người tín hữu biết sống hiệp thông để được hiệp nhất theo mẫu gương Thiên Chúa duy nhất và dấn thân đem mọi người chưa nhận biết Chúa vào Gia đình của Thiên Chúa là Hội Thánh

HỌC KINH THÁNH

BÀI 16:   THƯ GỬI TÍN HỮU CÔLÔSÊ  (Col)

1/ Ai là tác giả thư Côlôsê ?

Chính tác giả đã giới thiệu mình ở đầu thư (1, 2) như sau: "Phaolô tông đồ của Đức Giêsu Kitô và người anh em là Timôthêô kính gửi các thánh ở Côlôsê".

2/ Côlôssê nằm ở vị trí nào trên bản đồ thời thánh Phaolô ?

Trong thời tân ước, Côlôsê là một thành phố nho nhỏ thuộc miền Phrygia, nổi tiếng về thương mại nằm trong vùng Tiểu Á.

3/ Lá thư được viết vào thời nào và được viết ở đâu?

Thư được viết khoảng năm 62-63 sau Chúa Giáng sinh. Thư được viết tại Rôma lúc Phaolô bị tù (4, 3.10).

4/ Nội dung thư Côlôsê như thế nào?

Thư nhằm chống lại những nguy cơ đe dọa tín hữu Chúa

không chỉ từ bên ngoài mà ngay trong chính cộng đoàn, nên

Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò tối thượng của Chúa Kitô.

-      Người là khởi điểm và là cùng đích của Tin mừng,

-      Người Kitô hữu tìm đạt sự hoàn hảo và trưởng thành không hệ tại ở việc nắm giữ lề luật cách tỉ mỉ mà là tự hủy mình phục vụ và yêu thương như Đức Kitô đã làm gương.

5/ Bố cục vắn tắt thư Côlôsê ra sao?

Bố cục lá thư như sau:

      1, 1 - 2   : Nhập đề

I.    1, 3 - 2,3 : Phần đạo lý

II.   2, 4 - 3,4 : Đề phòng lạc giáo

III.  3, 5 - 4,6 : Những lời khuyên

       4, 7 -18    : Thư kết thúc bằng ít tin tức, gởi gắm và chào hỏi.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

SỰ PHÂN LY  ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG TRONG GIÁO HỘI (tt)
(Đ. 1141-1155)

3. Xin giáo quyền cho ly thân

Trong phần thứ ba nầy, chúng ta tìm hiểu về sự phân ly đời sống vợ chồng mà Giáo luật gọi là "ly thân". Đây là điểm mới mẽ so với luật cũ, vì hôn ước đã thiết lập cách hữu hiệu thì đôi hôn nhân có quyền và nghĩa vụ sống chung để thực hiện những đặc tính và mục đích của hôn nhân. Tuy nhiên có những đôi hôn nhân đã làm cho mối tương giao của họ trở nên xấu đến độ đi ngược lại những gì mà một hôn nhân đích thực đòi hỏi. Vì thế, xét trên phương diện luân lý và mục vụ, Giáo hội cho phép những đôi hôn nhân lâm vào hoàn cảnh như vậy được phép xin Giáo quyền cho ly thân, như là phương thế để tránh đi những sự xấu lớn hơn, điều nầy cũng nhằm mục đích tìm cơ hội để hàn gắn lại cuộc sống gia đình của họ.

Trước khi đi vào chi tiết, để tránh nhằm lẫn, chúng ta nên phân biệt  hai khái niệm "ly thân" trong Giáo hội và "ly dị" ở toà án dân sự:

  • Ly thân trong Giáo hội là sự phân ly đời sống vợ chồng tạm thời hay đôi khi vĩnh viễn, nhưng dây hôn phối và những ràng buộc căn bản khác của hôn nhân vẫn còn. Vì vậy, họ không được quyền kết hôn lại bao lâu người chồng hay vợ mình còn sống.
  • Ly dị ở toà án dân sự là sự chia tay (chấm dứt) vĩnh viễn quan hệ vợ chồng do toà án dân sự công nhận hoặc quyết định. Những người đã ly dị được quyền tái hôn. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa ly thân trong Giáo hội và ly dị ở toà đời.

Khởi đi từ điều 1151 của bộ Giáo luật, Giáo hội miễn chuẩn cho một số đôi hôn nhân quyền và nghĩa vụ sống chung (ly thân) khi có lý do chính đáng: "Những người phối ngẫu có bổn phận và có quyền bảo vệ đời sống chung vợ chồng, trừ khi được miễn vì một lý do hợp pháp". Điều đặt ra: "lý do hợp pháp" để được ly thân là những lý do nào?   

Tiếp theo điều 1151 là điều 1152 và 1153, Giáo hội đưa ra những nguyên nhân có thể đưa tới việc ly thân hợp pháp:

3.1. Ly thân vì ngoại tình: điều 1152 quy định như sau:

§1. Mặc dầu thiết tha khuyên nhủ người phối ngẫu vì đức bác ái Kitô giáo và vì ích lợi của gia đình, đừng từ chối tha thứ cho bên ngoại tình và đừng cắt đứt đời sống chung vợ chồng, tuy nhiên, nếu họ đã không minh nhiên hoặc mặc nhiên tha thứ lỗi lầm cho bên kia, thì có quyền cắt đứt đời sống vợ chồng, trừ khi họ đã chấp nhận việc ngoại tình, hoặc họ đã gây ra nguyên nhân của tội ngoại tình, hoặc chính mình cũng đã ngoại tình.

§2. Có sự tha thứ mặc nhiên, nếu sau khi biết có tội ngoại tình, người phối ngẫu vô tội vẫn tự nguyện sống chung đời vợ chồng với người phối ngẫu kia; nhưng sự tha thứ này được suy đoán, nếu người phối ngẫu vô tội vẫn sống chung vợ chồng trong sáu tháng, và không nại đến nhà chức trách Giáo Hội hay chính quyền nhân sự.

§3. Nếu người phồi ngẫu vô tội tự ý cắt đứt đời sống chung vợ chồng, thì trong vòng sáu tháng phải đưa vụ  án ly thân ra trước tòa chức trách Giáo Hội; sau khi đã xem xét tất cả mọi hoàn cảnh, nhà chức trách Giáo Hội phải thẩm định xem có thể làm cho người phối ngẫu vô tội tha thứ lỗi lầm và không kéo dài mãi cảnh ly thân hay không.

Điều luật trên không nói tới, nhưng không thể bỏ qua vai trò của các mục tử trong việc tìm mọi cách để hàn gắn gia đình của họ, và thiết tha khuyên nhủ người bạn vô tội, hãy vì đức bác ái Kitô giáo và vì lợi ích gia đình mà tha thứ cho người bạn lầm lỗi. Tuy nhiên, Giáo luật nhìn nhận cho người vô tội được quyền khước từ đời sống chung, hay nói khác đi là quyền được ly thân.

Xét riêng về bản chất của việc ngoại tình là một lỗi lầm lớn: về luân lý, lỗi giao ước với nhau: "Tôi...nhận em/anh...làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em/anh khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời tôi" (nghi thức chính yếu của bí tích hôn phối); lỗi trung thành với nhau.

Theo lịch sử, trong truyền thống Kitô giáo hay ngoài Kitô giáo, ngoại tình bị coi là một xúc phạm lớn nhất trong mối quan hệ vợ chồng. Theo luật Rôma và những hệ thống luật trước đó, ngoại tình thường được coi là điều xúc phạm nặng nề tới quyền sở hữu của người chồng. Còn trong truyền thống Kitô giáo, thì quan niệm khác biệt căn bản về sự trung thành hôn nhân. Bất cứ bên nào ngoại tình cũng đều bị coi là xúc phạm tới quyền đòi hỏi sự trung thành mà cả vợ lẫn chồng đều phải tuân giữ. Đồng thời lỗi đến luật Chúa là điều răn thứ Sáu và thứ Chín.

Tuy nhiên, để việc ngoại tình được xem là nguyên nhân dẫn tới ly thân thì phải hội đủ các yếu tố:

1.    Có quan hệ xác thịt là hành vi vợ chồng;
2.    Có tự do, nghĩa là thuận tình (kể cả vì sợ mà ngoại tình x.125§2);
3.    Có chứng cớ chắc chắn về sự ngoại tình.

Do vậy những trường hợp sau khiến ngoại tình không còn là cớ cho phép ly thân:

1.    Đồng ý minh nhiên hay mặc nhiên cho ngoại tình;
2.    Trực tiếp gây nguyên cớ để người bạn đời ngoại tình;
3.    Chính mình cũng ngoại tình;

4.    Minh nhiên hay mặc nhiên hoặc phỏng đoán là tha thứ.

3.2. Ly thân vì những lý do khác

Điều 1153 quy định:

§1. Nếu một trong hai người phối ngẫu gây nguy hiểm nghiêm trọng về tinh thần hay thể xác cho bên kia hoặc cho con cái, hay nếu bằng cách nào khác làm cho đời sống chung trở nên nặng nề, thì bên nọ tạo cho bên kia một lý do hợp pháp để ly thân, hoặc là do một sắc lệnh của Đấng Bản Quyền địa phương, hoặc là do quyền riêng của mình, nếu có nguy cơ phải chờ đợi.

§2. Trong tất cả mọi trường hợp, khi hết lý do ly thân thì phải lập lại cuộc sống chung vợ chồng, trừ khi nhà chức trách Giáo Hội đã ấn định cách khác.

Những lý do khác dẫn tới ly thân vợ chồng có thể rất nhiều và khác biệt, chúng làm ảnh hưởng đến chính bản thân người phối ngẫu hoặc đến con cái: nguy hiểm phần hồn (xúi giục phạm tội trọng về đức tin hay luân lý); nguy hiểm phần xác (liên quan đến tính mạng hay thân thể); đời sống chung trở nên bế tắc.

So sánh giữa ly thân vì ngoại tình và ly thân vì "những lý do khác", chúng ta thấy rằng: ly thân vì "những lý do khác" có phần phức tạp hơn và vì để tránh những lạm dụng, nên buộc những người ly thân trong hoàn cảnh nầy phải được phép của Đấng Bản quyền. Trong trường hợp đợi chờ lâu sẽ gây nguy hại lớn khó lường thì người vô tội được phép ly thân trước rồi trình với Bản quyền sau.

Có lẽ nhiều người đặt vấn đề: tại sao phải xin phép hoặc phải trình Bản quyền khi vợ chông ly thân? Điều nầy cũng dễ hiểu thôi: trước hết vì bổn phận vợ chồng phải sống chung, như điều 1151 dạy rằng: "Vợ chồng có nghĩa vụ và quyền lợi duy trì đời sống chung vợ chồng, trừ khi có lý do hợp thức miễn cho việc đó". Vì vậy, để miễn cho nghĩa vụ nầy và đồng thời quyền lợi của người phối ngẫu kia không bị thiệt thì cần phải được miễn chuẫn; kế đó, hôn nhân là một khế ước công khai nên phải tuỳ thuộc vào một quyền bính ở trên vợ chồng.  

Một vấn đề khác là: vợ chồng Công giáo có được tự tiện dẫn nhau đến toà án dân sự để giải quyết vấn đề ly thân không? Trên nguyên tắc chúng ta phải nói là không, vì những yếu tố chúng ta vừa nói trên. Tuy nhiên, Giáo luật chỉ xét đến khía cạnh luân lý của việc ly thân, những khía cạnh thực tế về tài sản, cấp dưỡng và để bảo vệ người phối ngẫu vô tội thì phải nhờ đến pháp luật dân sự can thiệp, nên khi có lý do chính đáng thì phải được phép của Đấng Bản quyền.

Việc ly thân đời sống gia đình là việc ngoại lệ và đi ngược lại với đặc tính và mục đích của hôn nhân Kitô giáo, nên khoản 2 của điều 1153, mời gọi đôi bạn hãy tái lập đời sống gia đình một khi nguyên cớ ly thân đã chấm dứt, hoặc vì lòng bác ái Kitô giáo mà người bạn vô tội đã tha thứ cho người bạn kia.

TRANG LINH MỤC

LINH MỤC GIÁO PHẬN: NGƯỜI CỦA DÂN CHÚNG !

 Dịp bế mạc Năm Linh Mục, có một 'diễn đàn mở' của Đức Thánh Cha vào buổi tối tại Quảng Trường Thánh Phêrô, với sự hiện diện của hàng chục ngàn linh mục từ khắp nơi trên thế giới qui tụ về. Câu hỏi đầu tiên là của một cha sở đến từ Brazil, nêu ra nỗi khó của các cha sở hôm nay trước trăm công ngàn việc. Vị giáo hoàng - dù sơ yếu lý lịch của ngài cho thấy hình như chưa bao giờ làm cha sở - đã tỏ ra rất cảm thông khi ngài thẳng thắn nhìn nhận rằng "làm cha sở ngày nay thật là khó."

Cái 'khó' ở đây, trong hàm ý của cả người hỏi và người trả lời, trước hết gắn liền với khối lượng công việc ngày càng bề bộn đặt trên vai các cha sở, nhất là ở những xứ cựu trào Kitô giáo. Tình trạng thiếu linh mục buộc các địa bàn giáo xứ phải phình ra. Bốn, năm, hay có khi cả chục giáo xứ gộp thành một. Nhiều trường hợp không gộp được, thì xẻ cha sở ra làm hai, làm ba, làm bảy... để cùng lúc ngài phục vụ nhiều giáo xứ. Đàng khác, giáo xứ chẳng còn toàn tòng nữa. Ngay cả nhiều gia đình trong giáo xứ cũng không toàn tòng. Nhà thờ, nhà xứ, cha sở thời trước vốn là biểu tượng tinh thần cho cả một vùng dân cư, thì ngày nay lọt thỏm ở đâu đó giữa một thế giới và cuộc sống rất là lãnh đạm với đức tin, một thế giới thậm chí có nhiều yếu tố công khai đối nghịch lại Tin Mừng, một thế giới không ngừng dồn thêm gánh nặng lên vai các cha sở song lại không còn ngoan ngoãn 'ăn nhời' các "đấng làm thầy" như trong thuở vàng son nào đó đã qua rồi. Làm cha sở ngày nay quả thật là khó!

Đó là nói cái 'khó' theo một khía cạnh, khía cạnh công việc. Cái khó này là thực tế đang diễn ra hằng ngày ở Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Châu Âu. Ở Việt Nam mình, tạ ơn Chúa, tình hình chưa căng như thế, ít là cho tới hôm nay. Đành rằng những hệ lụy của xã hội toàn cầu hóa hiện đại cũng đang đặt ra cho các cha sở Việt Nam ngày nay bao loại thách đố mục vụ rất mới, song đáng mừng là các đại chủng viện vẫn đang đầy kín, các lễ truyền chức vẫn đều đặn diễn ra tại các giáo phận. Khách quan mà nói, ngoại trừ vài giáo phận phía cực bắc và giáo phận Kontum ở cao nguyên miền trung, thì Giáo Hội ở Việt Nam hiện không bị áp lực nhiều lắm về nhân sự linh mục mục vụ giáo xứ. Tại một số giáo phận, bình quân mỗi linh mục hiện đang săn sóc chừng 400 hay 500 giáo dân. Một tỉ lệ 'nằm mơ' đối với người ta ở bao nơi khác!

Tình hình là như vậy, song câu hỏi vẫn mè nheo: Làm cha sở ở xứ mình phải chăng không khó? Chắc là sẽ thú vị lắm, nếu dùng câu hỏi này mở một cuộc thăm dò hai nhóm đối tượng có thẩm quyền nhất để trả lời nó - một là, hỏi chính các cha sở (và các cha phó nữa), hai là, hỏi bà con giáo dân. Bao nhiêu phần trăm sẽ nói "khó", và bao nhiêu phần trăm sẽ bảo rằng "không khó" đây ? Và tại sao "khó" hay tại sao "không khó"? Dù kết quả cuộc thăm dò ấy thế nào đi nữa, một điều chắc chắn là khi trả lời, nhiều người sẽ qui chiếu đến các khía cạnh khác nữa trong đời sống của một linh mục giáo phận, chứ không duy chỉ nghĩ đến có một chuyện là khối lượng công việc ít hay nhiều. Vấn đề không chỉ là - và không chủ yếu là - vấn đề áp lực công việc. Thật vậy, khoảng bốn chục năm trở lại đây, người ta nghe nói nhỏ nói to đó đây về những "khủng hoảng trong hàng linh mục," song thực sự chưa bao giờ và chưa nơi nào xảy ra loại khủng hoảng trong đó hàng loạt linh mục 'cháy máy' (burnt out) hay 'chạy làng' vì công việc cả. Khủng hoảng, như đã xảy ra, là những khủng hoảng sâu xa hơn nhiều - chẳng hạn, khủng hoảng về căn tính (như làn sóng 'hồi tục' hồi cuối thập niên 1960, thập niên 1970), khủng hoảng về nhân cách, về đạo đức (như những ồn ào mới đây ở Mỹ, rồi ở Ai-len, và nhiều nơi khác)...

Chính vì vậy, liền sau khi nhìn nhận "làm cha sở ngày nay thật là khó," Đức Thánh Cha cũng nhìn nhận và biết ơn "rất nhiều cha sở ở khắp nơi trên thế giới hôm nay đang dốc hết sức mình để loan báo Tin Mừng và để giúp cho người ta cảm nhận được sự hiện diện của Chúa." Ngài thừa nhận rằng "chúng ta không thể làm hết tất cả những việc mà mình cần phải làm, vì sức chúng ta có hạn, và vì các hoàn cảnh khó khăn trong xã hội ngày càng đa diện và phức tạp hôm nay." Đức Thánh Cha cũng xác quyết rằng điều quan trọng tiên vàn là anh chị em giáo dân không nhìn cha sở chỉ như ai đó làm một nghề, có những giờ làm việc, rồi cũng có những thời gian tự do để sống chỉ cho bản thân mình. Không, người tín hữu phải nhìn thấy được nơi cha sở là "một con người say mê Đức Kitô, một con người mang nơi mình ngọn lửa tình yêu của chính Đức Kitô."

Đức Bênêđictô XVI vốn đặc biệt nhấn mạnh niềm vui trong đời linh mục. Suốt mấy chục năm trời, khi suy niệm, chia sẻ hay giảng dạy về đời sống linh mục, ngài luôn nêu bật khía cạnh niềm vui như một chìa khóa, một thứ bí quyết  - [trên trang xuanbichvietnam chúng tôi đã từng có bài điểm sách "Servitori della vostra gioia" của ngài]. Ở đây, đề cập đến nỗi khó của các cha sở, ngài lại một lần nữa có dịp nhấn mạnh đến chiếc chìa khóa "niềm vui" ấy. Ngài nói: "Nếu anh chị em giáo dân nhìn thấy cha sở đầy niềm vui của Chúa, họ sẽ thông cảm khi cha sở không thể làm hết mọi việc, họ chấp nhận những giới hạn của ngài và họ sẽ giúp ngài." Và Đức Thánh Cha nói tiếp: "Tôi cho rằng điều quan trọng nhất là người ta phải thấy và cảm nhận được rằng cha sở mình thực sự xác tín ngài được Chúa kêu gọi và đầy tràn tình yêu của Chúa, đầy tràn niềm vui của Tin Mừng. Sau đó mới là chuyện chọn lựa, chuyện thiết lập thứ tự ưu tiên các công việc, chuyện ấn định có thể làm việc gì và đến mức nào..."

Vậy thì, làm cha sở không chỉ khó hôm nay, mà thời nào cũng khó vậy thôi. Bởi tình yêu ấy, niềm vui ấy luôn là cái gì thách đố tận trong sâu thẳm con người của cha sở, chứ không chỉ là vấn đề thời khóa biểu hay vấn đề kỹ năng làm việc này việc nọ. Đức Bênêđictô XVI, trong Thông Điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu," từng cảnh giác cách riêng đối với 'chủ nghĩa hoạt động' (activism) và tinh thần duy thế tục ngày càng tăng thậm chí nơi nhiều Kitô hữu làm việc trong lãnh vực từ thiện xã hội ; và ngài khẳng định rằng cần phải ý thức lại tầm quan trọng của cầu nguyện. Vị tiền nhiệm của ngài, Chân Phước Gioan Phaolô II, thì từng có một ghi nhận nhức nhối: "Ngày nay nhiều linh mục đắm chìm trong các 'công việc của Chúa' mà lại quên mất Chúa của các công việc!"

Nói cho cùng, cha sở bận tâm nhiều đến công việc thuộc sứ vụ của ngài là điều hoàn toàn chính đáng. Cũng hoàn toàn chính đáng khi người ta nghĩ đến cha sở thì đồng thời nghĩ đến công việc sứ vụ của ngài. Bởi ngài đã được thánh hiến cho sứ mạng. Bởi ơn gọi của ngài là người phục vụ. Bởi ngài là người được sai đến với dân chúng, một người của dân chúng. Và nhất là, bởi vì ngài có nên thánh hay không, nên thánh ít hay nhiều, tùy ở cung cách ngài đảm nhận sứ vụ "một người của dân chúng" ấy. Đó là nét làm nên đặc điểm riêng trong ơn gọi của các cha sở, hay nói chung trong ơn gọi của các linh mục giáo phận, trong phân biệt với ơn gọi của - chẳng hạn - một tu sĩ.

Câu chuyện của Cha Jean-Jacques Olier, vị sáng lập Hội Các Linh Mục Xuân Bích, là một ví dụ thú vị. Ban đầu Olier nghĩ mình sẽ trở thành một tu sĩ, song rồi rất nhanh chóng Olier nhận ra ơn gọi của mình là trở thành một linh mục triều. Cuộc đời Olier, trước và sau khi làm linh mục, có vài cơn khủng hoảng, trong đó cơn khủng hoảng nặng nề nhất xảy ra khi Olier còn là một linh mục trẻ, mới chịu chức được sáu năm. Đang hăng say và đầy cảm hứng trong sứ mạng, bỗng dưng ngài bị suy sụp tinh thần trầm trọng. Mọi sự bỗng trở nên quá khó với ngài: khó giảng thuyết, khó giải tội, ngay cả khó cầu nguyện. Có vẻ như tất cả đều bỏ ngài, kể cả Thiên Chúa. Những lời khuyên của những người xung quanh chỉ khiến ngài thêm ngột ngạt, nặng nề. Hầu như mọi điểm tựa đều đổ vỡ. Trong cái đêm tối mịt mùng ấy Olier chỉ còn lại duy nhất một điều thôi, đó là nơi sâu thẳm tâm hồn mình ngài vẫn còn nguyên mối khắc khoải quan tâm đến dân chúng, đến những người được trao cho sự săn sóc của ngài. Nghĩa là, Thiên Chúa dường như cũng 'mất', chỉ còn lại các linh hồn thôi ! Và chính mối quan tâm còn lại này đã là điểm tựa để Olier vượt qua khủng hoảng, đi vào một kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa, về chính mình, và mặc lấy một nhiệt tình dấn thân mới mẻ vào sứ mạng.

Một cha sở, hay nói chung một linh mục giáo phận, là một người của dân chúng. Ngài là một người của dân chúng được chọn riêng ra để thánh hiến và được sai trở lại với dân chúng. Vì thế ngài trở thành 'một-người-của-dân-chúng' trong tư cách 'một-người-của-Thiên-Chúa', như Đức Kitô. Hay có thể nói, ngài là hiện thân của Đức Kitô, một người của Thiên Chúa đang làm công việc của Thiên Chúa ở giữa dân chúng và cho dân chúng. Dân chúng phải nhìn thấy được Đức Kitô nơi ngài, và Đức Kitô phải gặp được dân chúng qua ngài. Hiện hữu của ngài là một hiện hữu lưỡng phân, như Đức Kitô, Đấng thuộc về Cha trăm phần trăm, và cũng thuộc về chúng ta trăm phần trăm. Linh mục phải thường xuyên ở trong mối căng thẳng, và mối căng thẳng này làm cho ngài trở thành "mầu nhiệm", vì ngài "sống trong hai thế giới" - theo cách diễn tả của Đức Cố Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen.

Xin cho tất cả chúng ta, những người đang hướng tới hay đang sống đời linh mục giáo phận, có đủ tình yêu và sự quảng đại, để sống hết mình mối căng thẳng ấy, một mối căng thẳng tuy khó nhưng cũng rất vui và rất đáng (thánh) giá !

Thiên Phong

TRANG TU SĨ

ĐIỀU CAO QUÝ HƠN

"Gia đình" - hai tiếng thân quen nghe thật ấm áp làm người ta có cảm giác thật bình yên và an toàn. Gia đình - nơi mà mỗi người chúng ta được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương nuôi dưỡng của mẹ cha, môi trường đầu tiên con cái được truyền dạy Đức Tin và những gương lành từ ông bà cha mẹ mình.  Ngay từ đầu, Hội Thánh cũng được hình thành từ những gia đình tín hữu này như những hòn đảo nhỏ mang sự sống Chúa Kitô đến cho những người ngoại giáo xung quanh.  Do đó, mọi gia đình Kitô hữu được mời gọi thông dự vào cuộc sống của Hội Thánh, mà Hội Thánh chính là Gia Đình của Thiên Chúa.

Nhiều người quan niệm "Tu là cõi phúc, Tình là dây oan".  Vậy là tôi cũng được trong số những người đang sống trong cõi phúc.  Mà thật, tôi đang rất hài lòng và hạnh phúc về cuộc sống hiện tại của mình. Thỉnh thoảng, những lần về thăm gia đình gặp lại những người bạn lúc nhỏ ở quê.  Thời gian đó chúng tôi từng học giáo lý chung, từng ở chung trong ca đoàn, sinh hoạt thiếu nhi trong họ Đạo... Bây giờ lớn lên mỗi người một cảnh sống, đa số trong họ đã lập gia đình có cuộc sống của riêng mình, nhưng vì suốt ngày phải chạy đua với thời gian lo cơm áo gạo tiền cho gia đình nên trông già đi trước tuổi. Nhưng điều đáng quý là ai cũng giữ đạo tốt. Đó là nhờ truyền thống gia đình đạo đức nhất quyết không cưới gã con cái cho những người không Công Giáo, hoặc không Công Giáo mà muốn cưới thì phải cùng một Đạo. Chính vì vậy những đứa con sinh ra được chịu phép Rửa Tội và trở nên người Công Giáo tốt. Tuy nhiên giữa hai đời sống Dâng Hiến và Hôn Nhân Gia Đình thì người ta vẫn cảm thấy đời sống tu trì cao quý hơn, vì người đi tu hiến thân cho Thiên Chúa, để phục vụ Chúa qua mọi người chứ không giới hạn nơi một người nào, hay dừng lại ở bất cứ quyền lợi gì.

Mỗi lần về thăm Ba Má, gặp lại các cô chú cậu dì ở quê ai nấy đều thương mến vui vẻ thăm hỏi đời sống của tôi trong Hội Dòng, nhưng hầu hết những lời thăm hỏi đều có kèm theo câu "ráng tu nhen con, ở ngoài khổ lắm!". Thoạt đầu nghe qua tôi cũng chưa cảm được gì nhưng ngày từng ngày trong đời tu tôi mới thấy con đường tu không phải đi trên thảm hoa, nhưng cũng không phải là nơi để trốn đời hay là chốn nương thân cho những bước đường cùng của những người thất bại trong tình cảm như người ta thường nghĩ.  Tôi nhớ lại câu nói của Cha cho tôi đi tu lúc tôi hỏi ngài: "Cha ơi, đi tu khó hay dễ?" - "Khi nào đi tu rồi con sẽ biết!" - Cha mỉm cười trả lời tôi - Tuy nhiên Cha cũng gợi ý giúp tôi định hướng ơn gọi của mình.  Thật vậy, có trải nghiệm thì mới cảm nhận được giá trị của việc mình làm.  Ngày trước, khi chưa đi tu tôi không hình dung được đời tu sẽ như thế nào, so sánh được với cái gì.  Lúc đó tôi chỉ nghĩ, sau khi ra khỏi sự quan tâm chăm sóc của Ba Má và các anh chị tôi sẽ có cuộc sống hoàn toàn độc lập tự do của riêng mình. Nhưng thực ra không phải vậy, những kỷ luật nơi Nhà Dòng đã dần dần đưa tôi hòa nhịp vào trong cuộc sống chung của đại gia đình Hội Dòng, nơi mà tôi xem như gia đình thứ hai của mình. Có Bề Trên là cha mẹ luôn chăm lo đầy đủ - chu đáo cho hơn hai trăm Nữ tu từ vật chất đến tinh thần, những quan tâm lo lắng của những người không cùng máu huyết lại giống như chị em ruột thịt... làm sao một người bình thường có thể làm được những việc như vậy nếu không phải là ơn Chúa giúp?! ...Tuy nhiên, không phải là không có những buồn phiền tranh cãi, cũng không ít lần "nước mắt giọt ngắn giọt dài", nhưng điều quan trọng là chúng tôi biết ngồi lại nói chuyện để giải quyết những khúc mắc hiểu lầm.  Mọi việc rồi cũng được tốt đẹp nhờ Tình Yêu Thiên Chúa và bác ái huynh đệ trong cộng đoàn.

Là những đứa con do Mẹ Hội Thánh sinh ra, chúng ta được giáo dục - hướng dẫn và mặc khải cho biết về Tình Yêu Thiên Chúa qua Lời Chúa và các Bí Tích, đặc biệt về tình yêu hiến mình và hy sinh mà Chúa Giêsu đã dành cho toàn thể nhân loại. Để đáp lại lời mời gọi và Tình Yêu Thiên Chúa dành cho từng người trong mọi bậc sống dù là đời sống tu trì hay hôn nhân gia đình vẫn có những vui buồn hạnh phúc và khó khăn của nó, nhưng giá trị ở chỗ là tùy thuộc vào đối tượng để hiến dâng, vào thái độ sống, và vào lối suy nghĩ của mỗi người.  Đặc biệt là niềm tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa sẽ giúp ta trung thành đời sống của mình. Tất cả đều thể hiện được vai trò và giá trị của mỗi người trong lòng Mẹ Hội Thánh.

MTG Cái Nhum

Những Người Đau Khổ Nầy Là Ai Vậy?

Khi đang phục vụ một họ đạo thuộc vùng duyên hải của tỉnh Trà Vinh, tôi được Cha sở phân công đảm trách Legio của Họ đạo. Một hôm, trong giờ phúc trình công tác của nhóm Legiothiếu niên, tôi lần lượt được nghe các em báo cáo.

Mộng Thanh nói:

-  Tuần vừa qua, em đi thăm một bạn bị nhiễm HIV, em cố gắng đến thăm để chia sẻ đau khổ và muốn  làm một việc gì đó để giúp đỡ và an ủi bạn, nhưng khi nhìn thấy tay chân bạn bị lỡ loét, em sợ quá nên chỉ đứng xa xa mà nhìn. Cuối cùng em ra về và bây giờ cảm thấy hối hận lắm.

Trưởng nhóm tiếp lời:

- Ở cuối xóm em có một cụ già nghiện rượu, say xỉn li bì, nhậu vô thì chửi Cha mắng Thầy, sống rất dơ bẩn. Em muốn đến thăm nhưng ngại quá. Có thể em chưa đủ can đảm Dì Năm ơi!

Tấn Sĩ là hội viên trẻ tuổi nhất chậm rãi thưa:

- Bà cụ gần bên nhà con bỏ đạo hơn 10 năm rồi. Hiện nay Bà bị lao phổi, không ai chăm sóc hết. Chiều hôm qua con đến thăm Bà, ngồi đọc sách Lời Chúa cho Bà nghe. Bà cũng chịu nghe lắm. Thấy hoàn cảnh của Bà cũng tội nghiệp thiệt. Nhưng khi thấy Bà lên cơn ho, con sợ bị lây nhiễm nên bỏ chạy về nhà.

Sau khi nghe các em phúc trình công tác xong. Một thoáng nghĩ ngợi, tôi liền nói:

- Trong tuần nầy Dì Năm sẽ sắp xếp công việc để cùng đi thăm những gia đình nầy với các em.

Mộng Thanh nhanh nhẹn lên tiếng:

- Nhà của bạn bị nhiễm HIV ở xa, vả lại trời mưa, đường trơn trợt khó đi lắm Dì Năm đi không xuể đâu! Ăn chơi cho đã rồi mắc bệnh thì ráng mà chịu. Hơn nữa, em thấy Dì Năm có giờ đâu mà đi thăm.

Với ánh mắt đâm chiêu lo lắng nhìn các em, tôi nhẹ nhàng nói:

- Không có giờ chúng ta cũng phải cố gắng, phải sắp xếp việc làm để đến với họ... Mình phải lo cho những người khốn khổ đáng thương nầy, cho dù họ có thế nào đi nữa; họ cũng là phần tử của Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa và là người nhà với chúng ta mà.Thanh Hà thắc mắc:

-  Gia đình của Thiên Chúa nghĩa là sao? Con muốn hiểu rõ hơn. Thưa Dì Năm!

Tôi ôn tồn giải thích:

- Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ yêu mến, tự bản tính Ngài là Đấng quyền phép oai linh, chủ tể mọi loài trong vũ trụ nầy. Khi con người sa ngã, Thiên Chúa đã khước từ ngôi vị cao sang, Ngài đã mặc lấy thân phận con người và đến cư ngụ giữa chúng ta, chia sẻ trọn vẹn kiếp người với chúng ta và sống như một người cha trong gia đình. Trong gia đình, cha luôn thương yêu lo lắng cho con cái. Cho dù con cái có ngỗ nghịch, bị bệnh tật yếu đau cách nào đi nữa, thì người Cha cũng thương yêu, tha thứ, chăm lo... Anh chị em trong gia đình, mỗi người đều có trách nhiệm liên đới với nhau, có bổn phận yêu thương lo lắng cho nhau.

Thấy các em chăm chú lắng nghe. Tôi cắt nghĩa rõ hơn:

- Thiên Chúa không coi chúng ta như người xa lạ, nhưng chúng ta thuộc về gia đình của Ngài. Qua Bí Tích Rửa Tội, Chúa Giêsu liên kết tất cả những ai tin kính Ngài vào một gia đình đó là Giáo Hội. Giáo Hội chính là gia đình của Thiên Chúa. Nơi gia đình nầy, Thiên Chúa là Cha và mọi người đều là anh chị em với nhau. Thế nên, những người khốn khổ, bệnh tật trong họ đạo chúng ta, những người mà các em đến thăm đều thuộc về Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa và là anh chị em một nhà với chúng ta. Chúng ta phải thương họ nhiều, phải quan tâm đến họ vì họ gánh chịu bệnh tật thay thế chúng ta, họ đang chia sẻ Thập giá với Đức Kitô đó.

Thanh Hà đứng lên nói:

- Thưa Dì Năm, bây giờ con đã hiểu thế nào là gia đình của Thiên Chúa rồi. Con cám ơn Dì Năm.

Tôi tiếp lời:

-  Chúng ta cùng tiếp tục buổi họp và cầu nguyện cách riêng cho những người khốn khổ nầy.

MTG  Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TỪ BỎ
(Khó Nghèo Trong Đời Tu)

Có câu "tiền chi thập vạn, khả dĩ thông thần" nghĩa là "có tiền mua tiên cũng được". Câu nói này hàm chứa một sức mạnh vạn năng của đồng tiền, có tiền là có tất cả: có uy tín, có tiếng nói, có danh vọng... Hơn thế nữa, đồng tiền còn có thể bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen. Chúng ta đang sống trong một xã hội vô thần, một xã hội thực dụng, một xã  hội luôn đề cao tiện nghi và thụ hưởng. Một xã hội mà tiền bạc, vật chất được tôn thờ như "Chúa" của mình. Người nào có nhiều tiền thì cũng có nhiều quyền, nói theo cách bình dân là "có tiếng nói trên giang hồ"; đi đến đâu cũng được tiếp đón nồng hậu, vinh quang rực rỡ.

Sống trong một xã hội như thế, những người theo ơn gọi tù trì không thể không bị ảnh hưởng. Đây là một thách đố cho đời sống tu trì trong thời đại hôm nay, vì ngày nay người ta thích đi tu nhưng thích đặt vấn đề có sống thoải mái, tiện nghi hay không chứ không đặt vấn đề về đời sống khó nghèo.

Ngày xưa, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu đã thấy trước viễn cảnh các môn đệ của mình có thể bị cuốn theo tiền bạc, của cải vật chất, nên Ngài đã dặn dò các môn đệ đừng mang theo gì, đừng quá lo lắng về chuyện bên ngoài, nếu không sẽ xao lãng nhiệm vụ chính yếu là rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa. Vì thợ thì đáng được trả công, Chúa sẽ lo liệu "anh em đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang theo bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn" (Mt 10, 9-10). Thật vậy sự khó nghèo tự nó không có giá trị gì, nhưng sự khó nghèo là dịp để đạt đến sự giàu có thiêng liêng: "Thiên Chúa cho những người nghèo được ăn uống no nê" (Tv 22, 27).

Trên bước đường dấn thân theo Chúa không thể thiếu đức tính khó nghèo. Và từ ban đầu Thiên Chúa đã khẳng định điều này và cho những người muốn bước theo Chúa phải hiểu và chấp nhận cuộc sống tu trì: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có nơi tựa đầu" (Mt 8, 20).

Ngày nay cũng vậy, những người theo đuổi ơn gọi tu trì, cũng được mời gọi sống đúng căn tính của mình. Mỗi người  phải lo chu toàn nhiệm vụ, bổn phận của mình. Đừng quá bận tâm vào tiền tài, của cải vật chất "Vì không ai có thể làm tôi hai chủ, nên các con hãy coi mọi đam mê xác thịt và tiền tài là ách nô lệ tà thần" (x. Bài giảng của Đức Giám Mục trong nghi thức phong phó tế, Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, cẩm nang các nghi thức Bí Tích và Á Bí Tích"). Vì nếu quá chú tâm vào nó, Linh Mục sẽ đánh mất căn tính của mình.

Công đồng vatican II cũng đề cập đến sự nghèo khó trong đời sống thánh hiến, một sự lựa chọn để cụ thể hoá việc dấn thân theo Đức Kitô. Công đồng dựa vào Thánh Kinh cho thấy rằng sự nghèo khó là phương thế không thể thiếu được để bước theo Đức Kitô.

Đây quả là một thách đố cho ơn gọi tu trì trong thời đại hôm nay. Vì trước khi bước vào dòng tu hoặc chủng viện thì chúng ta đã thấm nhiễm qúa nhiều những đam mê của thế gian. Đành rằng, biết đi tu là chấp nhận tất cả để bước theo Đức Kitô "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16, 24) , nhưng đã là một con người thì ai cũng có "tham, sân, si". Vì vậy, để tránh bị lôi cuốn vào lối sống thực dụng, hưởng thụ phải ý thức mình đã "chọn Chúa làm gia nghiệp", cuộc đời của mình phải rập theo khuôn mẫu là Đức Kitô, phải đồng hình đồng dạng với Ngài. Nói cách khác, Thầy Giêsu sống làm sao, thì môn đệ của Ngài phải sống như thế.

Một sai lầm lớn trên con đường bước theo Chúa mà không sống theo Chúa, nhưng thích chạy theo xu hướng của thời đại, coi chức Linh Mục là một nghề béo bở, để rồi sau một thời gian "nín thở" thì vẫn "chứng nào tật nấy" chỉ lo tích góp tiền của, thích sống hưởng thụ với đầy đủ tiện nghi, người đời có thứ gì thì mình cũng phải có thứ đó. Cho nên, có nhiều người ví von rằng: linh mục sống "khó mà nghèo". Đây là một lối sống hoàn toàn xa cách với Thầy Giêsu, trái ngược lại với căn tính Linh Mục. Kinh nghiệm cho thấy, một  người tu quá lo tích cóp tiền của, quá lo lắng, bận tâm về tiền bạc thì dần dần sẽ bước vào "con đường của Giuđa",  sẽ xa Chúa, và đánh mất căn tính của mình. Vì "kho tàng anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó" (Lc 12,34). Do đó, để sống đúng căn tính linh mục, chúng ta cần phải tránh thu tích tiền bạc, của cải vật chất, tránh xa lối sống hưởng thụ. Đồng thời, hãy biết sử dụng tiền của để mưu cầu ích lợi cho tha nhân, biết quảng đại cho việc mục vụ, việc tông đồ, việc bác ái, việc mục tử.....

Tóm lại, tiền bạc của cải vật chất tuy rất cần cho cuộc sống đời thường, nhưng nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích của con người. Vì thế, khi bước theo Chúa thì đừng quá bận tâm về vấn đề này, nhưng hãy biết sống thanh thản và siêu thoát với nó. Và không cần phải lo lắng vì chính Chúa Giêsu đã bảo đảm cho ta: "thợ thì đáng được nuôi ăn". Vì vậy, chỉ có một điều cần thiết trong đời ơn gọi tu trì là hãy bước theo Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng trở nên nghèo khó để làm cho anh chị em mình được trở nên giàu có, hạnh phúc.  Đó là lý tưởng của đời sống tuy trì.

TRANG THIẾU NHI

DẠY CON CẦU NGUYỆN
BÀI  4. CẦU NGUYỆN KHI CON THỨC GIẤC

"Những lời tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy.. (Đnl 6, 15) 

Cha mẹ dạy con bắt đầu ngày mới bằng lời cầu nguyện khi vừa thức giấc. Ngay cả khi chưa rời khỏi giường, con có thể cầu nguyện đơn giản: .Xin chào Chúa Giêsu. Cám ơn Chúa cho con ngày hôm nay!. 

Hãy tìm một thời khắc trong buổi sáng bận rộn để cả gia đình cùng cầu nguyện: sau bữa ăn sáng, trước khi con cất bước đến trường, hay có thể khi cha mẹ chở con đi học. Đó là thời khắc tuyệt vời để cùng cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. 

Lạy Cha chúng con ở trên trời Chúng con nguyện danh Cha cả sáng Nước Cha trị đến Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày Và tha nợ chúng con, 

Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen (Mt 6, 9-13). 

Cha mẹ dạy con Kinh Lạy Cha trước khi con vào lớp một vì không có lời cầu nguyện nào dâng lên Chúa Cha hoàn hảo hơn. 

Khi giúp con học thói quen cầu nguyện đầu ngày, cha mẹ đã dạy con 'mặc lấy áo giáp của Thiên Chúa' như trong thư Êphêsô 6, 6-12. Cha mẹ có thể khuyến khích con cầu nguyện khi chính con đang thay đổi y phục. Dễ nhất, hãy dạy con đọc một câu của thư Ephêsô khi thay một món y phục. Thí dụ, khi thay áo, các em có thể đọc ...... 

Cha mẹ cũng nên khuyến khích con cầu nguyện trước bất cứ âu lo nào các em có thể gặp trong ngày. 'Lạy Chúa, xin giúp con cố gắng thật nhiều tại trường. Xin cho con sức khỏe và đưa con về nhà an toàn khi tan lớp'. 

Những âu lo của các em có thể kéo dài. Các em nên tâm sự với Chúa về những âu lo ấy mỗi ngày. Em bé Lan Nhi khóc vì 'ở trường mới, chẳng bạn nào thích chơi với con'. Ba má Lan Nhi đã dạy em cầu nguyện vào mỗi buổi sáng trước khi em đi học: 'Lạy Cha trên trời, xin giúp các bạn dễ thương với con và cho con chơi đùa chung với họ. Xin Cha giúp con có những người bạn mới'. 

Trong vòng một tuần, Lan Nhi kể về hai cô bạn nhỏ đã rủ em chơi chung. Lan Nhi hết thấy cô độc. Rõ ràng cô bé tự tin hơn. 

Nhiều cha mẹ lo âu vì con đến trường không đủ áo, mũ khi trời nắng mưa. Xin hãy quan tâm để đưa con rời khỏi nhà tới lớp mang theo bình an của Thiên Chúa sau khi đã cầu nguyện với Ngài. 

Thành Tín, dunglac.org

TRANG GIỚI TRẺ

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG
Điều gì xảy ra sau khi chết? (tiếp theo)

6. Nghĩ sao về sự luân hồi?

Thuyết luân hồi, đang phổ biến trong thời đại chúng ta - có 22% người Âu châu tin vào thuyết này - không chỉ quả quyết rằng khi chết linh hồn người quá cố lại nhập vào trong một hữu thể sống động khác, nhưng còn đề ra một cái nhìn toàn bộ về cuộc đời.

Công việc của mỗi người được đặt lên bàn cân. Chính các việc lành hoặc dữ ấy sẽ định đoạt sự nhập xác trong tương lai của ta: nếu cân nghiêng về bên tốt, ta sẽ được nhập vào một hữu thể cao hơn, còn nếu cân nghiêng về bên xấu, ta sẽ nhập vào môt cuộc đời trắc trở hơn hay thậm chí nhập vào một con vật. Khi linh hồn thanh tẩy xong, vòng luân hồi mới chấm dứt. Thuyết này làm cho một số người cảm thấy được an ủi khi đứng trước cái chết. Tuy nhiên, nếu suy xét một chút ta sẽ thấy sự an ủi này thật vắn vỏi. Trước hết, vì khoa học bảo đảm rằng sẽ có ngày không còn sự sống nào có thể tồn tại trên mặt đất nữa; lúc bấy giờ ta sẽ ra sao? Tiếp nữa, có ích gì để trở thành một nhân vật mới lạ mà không còn ý thức được rõ ràng về bản thân ta cùng với những quan hệ yêu thương của ta trước kia?

Ta không thể dung hoà niềm tin này với đức tin Kitô giáo. Các môn đệ của Đức Kitô tin chắc rằng đến ngày phục sinh, họ sẽ trở thành những con người mới. Sức mạnh của Thánh Linh sẽ biến đổi thân xác họ. Nhưng cái thân xác mới thiêng liêng và không thể hư hoại này cũng sẽ chính là thân xác của chúng ta chứ không phải của một ai khác. Thân xác chỉ phục sinh một lần duy nhất mà thôi. Thiên Chúa yêu thương ta và Người đã cứu độ xong mỗi người chúng ta. Giáo lý này sẽ an ủi ta nhiều hơn thuyết luân hồi.

7. Có cần tin vào sự phục sinh của thân xác không?

Trong kinh Tin kính, ta luôn xác quyết điều đó. Không có xác, con người không còn là người nữa. Thân xác được sống lại là một điều hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên con người vừa có xác vừa có hồn.

Thánh Phaolô khẳng định sự kiện thân xác chúng ta sẽ sống lại. Ngài mô tả đôi điều về tình trạng này. Sự phục sinh của chúng ta không phải là một sự nhập trở lại vào một cái xác trên đất này, cũng không phải là sự hồi sinh của một tử thi, như trường hợp Ladarô, cũng chẳng phải là sự tái tạo thân xác đã bị hoả thiêu như Giáo hội hiện nay cho phép.

Không, thân xác phục sinh là một cử chỉ yêu thương mà Thiên Chúa toàn năng tặng không cho ta. Người sẽ hoàn tất nơi ta điều Người đã hoàn tất nơi Đức Giêsu khi cho Đức Giêsu sống lại. Chắc chắn chúng ta sẽ có thân xác của mình, nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, một thân xác không chịu ảnh hưởng của trọng lực, không bị đói rét, mệt nhọc hay bệnh tật. Một thân xác đã được giải thoát, có khả năng thông hiệp trọn vẹn với những người khác, một thân xác thiêng liêng - nhưng không phải "bằng hơi", một thân xác hoàn toàn vâng phục Thần Khí của Chúa đang ngự trong mình.

Thiên nhiên đã giúp ta linh cảm được sự biến đổi của thân xác con người qua một vài ví dụ: con sâu lê lết lại sinh ra con bướm nhẹ nhàng bay bổng, hạt lúa mục nát trong lòng đất lại phục sinh trong bông lúa đẹp đẽ mùa hè!

Khi nào những người chết sống lại? Vào thời cuối cùng, lúc Đức Kitô Phục sinh trở lại trong vinh quang để xét xử lần sau hết. Còn về ngày giờ thì chẳng ai biết được. Trong cõi đời đời, sẽ không còn thời gian nữa, đó chính là bí mật của Thiên Chúa - đó sẽ là chặng cuối cùng của lịch sử cứu độ.

8. Cuộc chung thẩm

Mọi người đều biết cảnh phán xét cuối cùng được mô tả trong Tin mừng Mátthêu chương 25: "Ta đói... các người đã cho ăn."

Kinh thánh đặt cuộc chung thẩm vào lúc thời gian kết liễu. Đó sẽ là lúc toàn thể nhân loại chạm trán với vẻ chói ngời rực rỡ của tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô.

Lúc bấy giờ, thiên hạ sẽ biết ai là người thuộc về Đức Giêsu và ai là kẻ chống lại Ngài. Đức Kitô sẽ cho thấy những gì đang chất chứa trong lòng mỗi người, mỗi dân tộc, bất luận họ thuộc chủng tộc, văn hoá, tôn giáo, văn minh nào.

Lúc ấy, mọi người sẽ tự xét xử mình trong tương quan với Chúa. Một số người sẽ tiếp tục khẳng định họ khước từ sự sống vĩnh cửu và do đó, sẽ xa cách Chúa mãi mãi; một số khác vẫn khẩn cầu Chúa thương xót và sẽ được tham dự bữa tiệc vĩ đại của thời tận thế, nơi đó chính Đức Giêsu sẽ đích thân phục vụ họ.

Rồi sẽ có Trời mới Đất mới, ngay cả vũ trụ cũng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa và của những kẻ Người tuyển chọn.

Giáo lý Kitô giáo khác xa với những phong trào được gọi là "Thiên niên kỷ", loan báo một triều đại hạnh phúc ngàn năm sẽ đến sau khi hệ thống xưa này sụp đổ tan tành, hay học thuyết của một số giáo phái, một số lời sấm loan báo rằng ngày tận thế sắp đến nơi rồi.

9. Ở trên trời sẽ chán lắm?

Không can gì. Khi nói đến việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa một cách vĩnh viễn, ta không có ý nói rằng mình sẽ cứ ngắm đi ngắm lại mãi. Chúng ta sẽ không ngừng sững sốt ngạc nhiên trước một Thiên Chúa đẹp đẽ và yêu thương ta như biển cả bao la. Chúng ta sẽ khám phá ra tôn nhan Người mỗi lúc một hơn, không hề mỏi mệt. Mỗi người sẽ tuỳ theo sự thánh thiện của mình mà được hưởng chân phúc tương xứng, không ghen tị với người khác. Khi vùi sâu trong Chúa, chúng ta sẽ nên giống Người, tương tự như thép cháy sáng lên khi được vùi trong lửa vậy.

Sẽ chẳng còn chết chóc, khóc than, đau khổ nữa, và Chúa sẽ lau khô nước mắt ta (x. Kh 21,1-4). Vả lại, chúng ta sẽ tham gia vào một dân tộc mừng lễ hội. Ta sẽ tiếp tục sống với những người khác, đặc biệt với các thành viên trong gia đình của ta.

Chúng ta sẽ yêu thương và sẽ được yêu thương. Chúng ta sẽ hiểu biết và sẽ được hiểu biết. Mọi ước vọng của chúng ta sẽ được đáp ứng tràn trề.

Nhiều người thích tác phẩm"Sự sống sau cuộc sống" ("La Vie après la vie") của học giả Moody, trong đó ông phân tích một cách khoa học các cuộc "hồi sinh" của các bệnh nhân sau một cơn mê trầm trọng, sau một cái chết lâm sàng. Thân chủ nhớ lại một khoảng khắc cực kỳ bình yên, sáng láng, khoan khoái và tự do. Trong một vài trường hợp, người bệnh nhớ lại họ đã có một thị kiến từ bên ngoài thân xác của mình như thể họ đã có lúc bước ra khỏi bản thân mình vậy. Hồi sinh thường có vẻ lâm ly bi đát và đau đớn. Các bệnh nhân thường nói rằng: "Đã thấy dễ chịu rồi, xin hãy để tôi yên".

Sự kiện trên đây chẳng ăn nhập gì với sự sống vĩnh cửu, nơi ta được thấy Chúa và từ đó được hạnh phúc không bút nào tả được..

Nước Trời đang khỏi sự từ dưới thế gian này, ngay trong chính lịch sử. Tin mừng không xúi ta đào tẩu. Khi xây dựng một thế giới công bằng và nhân bản hơn là ta đang chuẩn bị cho Nước Trời đến, Nước Trời này sẽ vượt quá nhiều điều ta hy vọng. Tạm thời lúc này, Đức Giêsu Phục sinh sẽ đồng hành với ta trên những nẻo đường nhân loại. Chết chẳng qua chỉ là được gặp gỡ trọn vẹn với Đấng lúc này đang bước đi bên ta. Giây phút hiện tại chuẩn bị cho cuộc sống sắp tới của ta.

Như vậy, đức tin là nguồn Hy vọng đẹp đẽ nhất. Có một sự sống sau cuộc đời này. Chết không phỉ là đi vào hư vô. Đức Giêsu Kitô là tương lai của chúng ta. Một nữ sinh lớp 12 đã hiểu được điều này. Cô viết như sau: "Tôi không buồn vì ông tôi đã chết, bởi tôi biết rằng ông đang sống bên Chúa. Và ở đó, chắc chắn ông hạnh phúc hơn khi ở đây với chúng tôi. Quả thật, đó là điều an ủi tôi nhiều nhất trong lúc ưu phiền này."

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur:  Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

Mọi ý kiến, thắc mắc của các bạn trẻ về đức tin và luân lý có thể thể gửi về cha đặc trách giới trẻ theo địa chỉ  dưới đây để tham vấn:

Cha Tôma Nguyễn Ngọc Tân
Nhà Thờ Chánh Toà Vĩnh Long
141, Lê Thái Tổ, P. 2 - Tp. Vĩnh Long
Email: gioitrevinhlong@gmail.com

 

TRANG GIA ĐÌNH

HẠNH PHÚC HÔN NHÂN
Bí quyết tránh những mâu thuẫn, khủng hoảng      

Những mâu thuẫn thường xảy ra cho hai vơ chồng sau thời gian chung sống, với nhiều vui mừng và đau khổ như sau :  

Quen qúa hoá nhàm: Trước đây hai người là tình nhân, tâm hồn rạo rực, muốn chiếm đoạt nhau, nên ăn nói ý tứ. Sau khi lấy nhau rồi tình yêu không còn nồng nàn nữa, vì gần gũi nhau hàng ngày nên thấy rõ những khuyết điểm của nhau. Một nhà văn Pháp đã nói:   

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, tình hết vui khi đã vẹn câu thề.

Thói đời thường ham của lạ, họ hay quên cái mình hiện tại đang có. Vậy bạn luôn tăng cường tình yêu của mình nhu sau: 
1/ Tỏ lòng kính trọng nhau: Nói lời êm ái, nhẹ nhàng, khích lệ, tạo niềm vui, lịch sự, nhã nhặn, khen những nết tốt của nhau.   

Yêu nhau chia áo chia quần, ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra.     

Nếu bạn biết giữ gìn, tình yêu của mình dần dần sẽ thăng tiến, mặn mà, không xảy ra thầm lén với người khác, lúc đó mới tiếc:

Khi xưa ngọc ở tay ta, bởi vì chểnh mang ngọc ra tay người.           

2/ Bàn cách tổ chức gia đình: Hàng tuần, hàng tháng vợ chồng nên bàn bạc cách xếp đặt đời sống gia đình mỗi ngày có ngăn nắp hơn, mỗi người một trách nhiệm. Săn sóc con cái, nâng đỡ nhau, nấu nướng, ăn uống, vệ sinh sạch sẽ trong ngày v..v...    

3/ Bàn bạc việc chăn gối: Tạo những giờ phút gần guĩ nhau một cách thoải mái, ấm cúng, hy sinh và làm vui lòng trong yêu mến và tôn trọng nhau. Nói cho nhau những ý muốn và xếp đặt những thì giờ thật tốt cho sức khỏe của nhau, không ích kỷ. 

4/ Bàn cách giáo dục con cái: Vợ chồng cùng thống nhất trong việc nói năng dạy bảo con, ăn ý với nhau trong tư tưởng, lời nói và hành động, để giúp con kính trong bố mẹ và mau mắn thi hành. Chồng hãy tôn trọng lòng thương con bề ngoài của vợ, vợ hãy tôn trọng tính nghiêm nghị của chồng, để cùng nhau giáo dục con. Không ai lấn áp ai, như vậy gia đình bạn sẽ êm ấm đề huề. Tránh kiểu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, con không biết theo ai !  

5/ Bàn bạc trong việc chi tiêu: Vợ chồng luôn bàn bạc trong việc mua sắm tuỳ theo đồng lương hàng tháng, để tránh thiếu hụt. Nên nhớ câu châm ngôn sau đây: "chỉ mua những thứ rất cần" (nghĩa là không có không được), vì nhiều khi mua những món không rất cần, ít khi dùng đến, nên gia đình sẽ bị thiều hụt tiền bạc.   

6/ Đối xử với họ hàng đôi bên: Bạn hãy đối xử với họ hàng đội bên thật trung dung, không nên thiên vị, kỳ thị, nhất bên trọng, nhất bên khinh. Nên coi nội ngoại là của mình cả, luôn ăn nói, xử sự tế nhị. Luôn nhìn vào những điểm tốt của nhau để khen ngợi, thăm hỏi, đi lại những ngày giỗ tết một cách đồng đều, mến trọng nhau.          

7/ Đối với người hàng xóm: Chuyện kể có vợ chồng nọ đi thăm một bà cụ già ở cùng xóm, không có người thân thích. Vào một buổi chiều mùa đông, hai vợ chồng thấy cụ đẩy xe vào bãi nhặt rác mà không thấy về, hai vợ chồng đã thu xếp việc nhà đi tìm kiếm bà.     


Cuối cùng họ tìm thấy bà ngồi trên chiếc xe cút kít, đầu gục xuống mệt mỏi và tuyệt vọng. Vợ chồng này đã chạm vai và nhẹ nhàng lay bà dậy. Bà đã vui mừng ngẩng đầu lên và cám ơn không hết lời. Bà nói: Cảm ơn Trời Phật, nếu anh chị không tới giúp tôi, thì đêm nay tôi sẽ chết cóng tại đây, thật anh chị có một tình thương vô bến bờ. Hai vợ chồng đã đưa bà cụ về nhà sưởi ấm cho bà và họ cùng nhau ăn bữa tối trong bầu không khí vui mừng và đầy yêu thương.   

Câu chuyện trên là một hình ảnh cụ thể, khi hai vợ chồng đồng tâm nhất trí, bàn với nhau trong mọi công việc, hay đi làm một việc thiện nào thì gia đình sẽ có nhiều bình an, vui vẻ và hạnh phúc.         

Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn.

Phó tế: JB Nguyễn văn Định, vietcatholic.com

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 3. THĂNG TIẾN CON NGƯỜI (tiếp theo)

2. Thăng Tiến Tha Nhân

Dựa vào những hoạt động bên ngoài, người ta đã định nghĩa về người giáo lý viên như sau : "Giáo lý viên là người vun trồng, bảo vệ và thăng tiến đời sống làm người và làm con Chúa, trong Giáo Hội, theo mẫu Chúa Giêsu Kitô, nơi những người được ủy thác cho mình". Như vậy giáo lý viên là người luôn biết quan tâm đến hạnh phúc hiện tại và vĩnh cửu của tha nhân.

 2-1. Sẵn sàng tiếp nhận tha nhân.

Giáo lý viên là người luôn biết đón nhận người khác cách niềm nở và luôn kính trọng nhân vị của họ, bất kể đó là ai. Đây là một yêu sách cơ bản đối với giáo lý viên. Khi tiếp đón người khác, giáo lý viên phải ra khỏi thế giới của mình với những thói quen, những kiểu cách riêng để đi vào thế giới của người khác với tất cả những gì khác biệt của họ. Hơn nữa, tiếp nhận tha nhân không phải là thái độ của người trên tiếp nhận người dưới hay thái độ của người cho đối với người nhận.

Một nguy hiểm luôn rình rập người giáo lý viên là dễ chú ý đến những người thuộc về mình, những người mình ưa thích. Nếu giáo lý viên chỉ chú ý đến những người cùng họ hàng, giai cấp, nơi chốn, văn hóa, những người ngoan ngoãn, dễ bảo... điều này không phù hợp với tinh thần của Tin mừng. Chúa Giêsu đã cảnh giác các thầy dạy " Người tội lỗi sẽ vào thiên đàng trước các ngươi" (MT 21-31). Ngài còn nói với các môn đệ : "Ai tiếp đón một kẻ bé mọn nhất trong những người này vì Danh Thầy là tiếp đón chính Thầy" (Mt 18, 5).

Như vậy sự tỉnh thức theo Tin Mừng đòi hỏi Giáo lý viên không được phân biệt hay loại trừ ai. Trong việc dạy giáo lý, chúng ta không được phép bỏ rơi những người nhỏ bé, người dốt, khó bảo hay không thích hợp với kiểu cách, thói quen, phong tục của chúng ta. Tất cả đều có quyền học giáo lý và có quyền được hưởng sự kính trọng, sự ân cần niềm nở và sự quan tâm đặc biệt của chúng ta.

2-2. Chia sẻ

Đặc tính căn bản của cuộc đời tông đồ chính là chia sẻ, chia sẻ với người khác sự sống của Đức Kitô. Giáo lý viên là người đồng hành với Đức Kitô (Cv 1,21). Họ được Chúa kêu mời, lên đường với người, lắng nghe Nguời, cầu nguyện với Người và sau đó được Người sai đi chia sẻ lại những gì đã lãnh nhận. Nhưng chia sẻ cách nào ?

Chia sẻ những khổ đau: Giáo lý viên không phải chỉ là nói về Chúa cho người khác, nhưng còn là gánh lấy những đau khổ và tuyệt vọng của họ. Cụ thể, sứ mệnh của giáo lý viên không hứa cho chúng ta một kiểu cách sống yên ổn, không xáo động nhưng có khi làm chúng ta phải vất vả, mất thăng bằng vì muốn tìm hạnh phúc của người khác, nó sẽ thẩy chúng ta vào một chỗ khác, nó thúc đẩy chúng ta đi đến những môi trường mới để vươn tới và ôm ấp lấy những gì rất xa lạ, và cũng có khi rất khó chịu. Ngoài ra, lòng trắc ẩn của giáo lý viên còn đỏi hỏi một sự chia sẻ vật chất : chia cơm sẻ áo cho người đói rách và biết tìm chỗ tựa nương cho những ai không tìm được mái ấm. Nói chung, đời tông đồ cũng có lúc làm chúng ta bị thương tổn và có khi rất căng thẳng, nhưng tất cả những điều đó chỉ là cơ hội để chúng ta chia sẻ hạnh phúc của mình cho tha nhân. Vì phương thế tốt nhất để chia sẻ hạnh phúc là biết chia sẻ hạnh phúc.

Chia sẻ những gì tốt đẹp: Một trong những hình thức cao độ của tình yêu là chia sẻ những gì tốt đẹp nhất của mình cho người khác. Đó có thể là khả năng, đức tính, những gì nâng cao đời sống tha nhân và nhất là làm cho họ cảm thấy được yêu thương. Giáo lý viên là người có tình yêu thương và tình yêu này trải rộng đến bất cứ ai. Giáo lý viên luôn sống trung thực với điều mình giảng dạy là truyền đạt sứ mệnh yêu thương. Giáo lý viên luôn gieo rắc bình an hạnh phúc và làm cho người khác tươi nở vì sự quan tâm kính trọng của mình. Tóm lại giáo lý viên là người nhờ ơn Chúa để yêu thương và để tự hiến bản thân mình vì lợi của tha nhân.

2-3. Tích cực xây dựng cộng đoàn xứ đạo: Trách nhiệm của giáo lý viên là tích cực cộng tác với cha xứ để xây dựng xứ đạo. Việc xây dựng này có khi phải đánh đổi bằng những mất mát, những đau thương, những hiểu lầm, những va chạm, nhưng chính qua những cái đó giáo lý viên mới có thêm kinh nghiệm và khả năng kiến tạo và trao tặng hạnh phúc cho người khác. Là thành viên của một xứ đạo, giáo lý viên không có quyền tách biệt khỏi nhịp sống của xứ đạo và nhất là không có quyền hạnh phúc một mình. Vì vậy chúng ta nên tự hỏi : Tôi có làm cho người khác được triển nở khi họ sống với tôi không? Tôi có cho người khác cơ may chia sẻ những gì họ gặp không ? Tôi có tích thực tham gia những công việc chung của xứ đạo không ?

Khi cùng sống trong một cộng đoàn giáo xứ, vai trò giáo lý viên phải là sợi dây nối kết mọi người trong tình huynh đệ hiệp thông. Tất cả đều cần đến nhau để nâng đỡ, khích lệ và để làm gương sáng cho nhau.

Với những tâm tình ấy, chúng ta không quên một điều là Chúa không cần gì vĩ đại vượt sức mỗi người nhưng cần sự cố gắng cộng tác dù là nhỏ bé thôi. Đời sống chúng ta phải tỏa được Chúa cho người khác, và ngần nào có thể, dù chỉ là một nụ cười.

Trước khi kết thúc, chúng ta nhắc lại câu nói của ECKHART : "Không nên lo lắng quá nhiều về những điều chúng ta phải làm, tốt hơn nên nghĩ cách phải sống thế nào. Nếu bản thân và đường lối của chúng ta tốt, thì những gì chúng ta làm sẽ tỏa sáng".

Kếtluận: Một người giáo lý viên đúng nghĩa phải là người dung hòa được cả hai đời sống tâm linh và hoạt động tông đồ. Hoạt động mà không biết cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hành động là thiếu đất gieo hạt. Nhưng trong thực tế, chúng ta dễ rơi vào tình trạng mất quân bình, nghĩa là chỉ để ý phải lo dạy giáo lý thế nào mà không chú ý đến việc củng cố đời sống tâm linh. Thật ra, để dạy giáo lý cho có hiệu quả, chúng ta phải không ngừng trau dồi về đời sống tâm linh và khả năng tông đồ. Nhưng nói cho cùng thì điểm phải nhắm tới trước tiên là việc gắn bó với Chúa Kitô và lấy Lời Ngài làm nền tảng cho mọi lời rao giảng của chúng ta. Chúng ta nhắc lại ở đây câu nói của LYAUTEY: « Tất cả mọi sự đều phải quân bình và có trật tự. Đồng hành với hoạt động là cầu nguyện; đồng hành với những cố gắng bên ngoài là đời sống nội tâm ».

Tóm lại, giáo lý viên là người :

-      Luôn say mến Chúa Kitô và muốn cho mọi người cũng biết và yêu mến Ngài.

-      Luôn gắn bó với Giáo Hội trong tinh thần cộng tác, hiệp thông và vâng phục.

-      Luôn thao thức về cuộc sống hiện tại và mai sau của con người đồng thời tìm mọi cách để đem hạnh phúc đến cho họ.

Sau cùng Giáo lý viên nhìn lên Đức Maria như mẫu gương tuyệt hảo của mình: luôn mau mắn lắng nghe, đón nhận và rao truyền Lời Chúa, luôn biết cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ và luôn nhạy cảm trước mọi nhu cầu của con người.

Nguồn: Huấn Luyện Giáo Lý Viên, mancoichihoavn.com

 

SỐNG ĐẸP

Cách Nhìn Cuộc Sống

John là một ông lão ít nói và thông thái. Ông thường ngồi trên chiếc ghế bành cũ kỹ trước hiên nhà, nhìn mọi người qua lại. Đôi khi ông vẫy tay chào họ. Một hôm, cô cháu gái nhỏ của ông John ngồi xuống cạnh ông mình, và cả hai cùng nhìn những người qua lại trước nhà họ.

Một người đàn ông lạ, cao lớn, anh ta nhìn quanh như tìm một nơi nào đó để dừng chân, rồi tiến đến gần hỏi ông John:

- Trong ngôi làng này người ta sống kiểu gì hả ông lão?

Ông John chậm rãi hỏi lại:

- Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi, người ta sống ra sao?

Người lạ nhăn mặt:

- Nơi ấy hả? Mọi người chỉ toàn chỉ trích nhau. Hàng xóm thì ngồi lê đôi mách và nói chung là một nơi rất đáng chán!

John nhìn thẳng vào mắt người lạ và nói:

- Anh biết không, nơi này cũng như thế, hệt như nơi anh vừa đi khỏi vậy!

Người đàn ông không nói gì, anh ta quay đi. Một lát sau, một chiếc ôtô dừng lại bên vệ đường. Người đàn ông trên xe đỡ vợ con mình xuống xe. Người vợ hỏi ông John có thể mua một ít thức ăn cho bọn trẻ ở đâu, còn người đàn ông ở lại chỗ chiếc xe. Anh ta lại gần ông John và hỏi:

- Thưa ông, nơi này sống có tốt không ạ?

Vẫn như lần trước, ông John hỏi lại:

- Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi thì thế nào?

Người đàn ông tươi cười :

- Ở đó, mọi người sống rất thân thiết, luôn sẵn lòng giúp đỡ nhau. Chúng tôi không muốn ra đi chút nào, nhưng vì điều kiện làm việc nên phải chuyển tới đây.

Ông John nở một nụ cười ấm áp:

- Đừng lo, nơi này cũng giống như nơi anh vừa đi khỏi đấy mà, cũng tốt lắm!

Vợ con người đàn ông quay lại, họ cảm ơn và tạm biệt hai ông cháu John rồi lái xe đi. Khi chiếc xe đã đi xa, cô cháu nhỏ cất tiếng hỏi ông:

- Ông ơi, tại sao ông nói với người thứ nhất là nơi đây không tốt lành còn với người thứ hai ông lại nói là một nơi tuyệt vời?

Ông John âu yếm nhìn vào đôi mắt xanh băn khoăn của đứa cháu nhỏ và bảo:

- Cháu ạ, dù có đi đến đâu, mỗi người vẫn mang thái độ của chính mình đối với cuộc sống đi theo. Chính thái độ của riêng mình, cộng với phản ứng của những người xung quanh với thái độ đó thì nơi mới đến có thể rất tồi tệ, hoặc rất tuyệt vời theo cảm giác của riêng họ mà thôi.

Nguon: songdep.xitrum.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Muối

Một chàng trai trẻ đến xin học một ông giáo già. Anh ta lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn. Một lần khi chàng tai than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, người thầy im lặng lắng nghe rồi đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ.

-      Cốc nước mặn chát. Chàng trai trả lời         

-      Con cho thìa muối này vào cốc nước và uống thử đi       

Lập tức chàng trai làm theo rồi uống thử.          

-      Cốc nước mặn chát. Chàng trai trả lời         

Người thầy lại dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước. Bây giờ con hãy nếm thử nước trong hồ đi.

-      Nước trong hồ vẫn vậy thôi, thưa thầy. Nó chẳng hề mặn lên chút nào. Chàng trai nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử.          

Người thầy chậm rãi nói:  
" Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Và những khó khăn đó giống như thìa muối này đi. Nhưng mỗi người hoà tan nó theo một cách khác nhau. Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc nước họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học được điều gì có ích."

Theo Internet

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Giáo Hội Nào Là Giáo Hội Thật Của Chúa Kitô ?

Hỏi:   

1- Xin cha giải thích Giáo Hội nào là Giáo Hội thật của Chúa Kitô ?

2- Người Công giáo có thể bỏ Giáo Hội để  gia nhập Giáo Hội khác được không ?

Trả lời:

I.  Trong một bài viết trước đây tôi đã có dịp nói đến nhiều Giáo Hội, giáo phái khác nhau, mặc dù cùng chia sẻ chung niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đã thiết lập Giáo Hội duy nhất của Người trên đá tảng Phêrô: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16,18).

Nhưng Giáo Hội duy nhất thánh thiện này đã trải qua nhiều sóng gió từ sau ngày Chúa về trời cho đến nay. Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước sự phân ly trong Thân Thể  Nhiệm  Mầu  của Người là Giáo Hội, cho nên trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa đã tha thiết cầu xin  Chúa Cha "cho chúng được nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22).

Hậu quả của sự  ly giáo trên cho đến nay là sự xuất hiện của các Giáo Hội Chính thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) từ thế kỷ 11, hàng ngàn các giáo phái Tin lành (Protestant Denominations) và Anh Giáo (Anglican Communion) từ thế kỷ 16 (...)

Các nhóm tự nhận là Giáo Hội (Church) hay Giáo phái (Denominations) cho đến nay vẫn chưa muốn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo và nhận quyền cai trị của Đức Giáo Hoàng. Vì thế, con đường tiến đến hiệp nhất trong cùng một  niềm tin, một Phép Rửa, một  phụng vụ thánh, và một quyền bính cai trị vẫn còn quá nhiều trở ngại, khó khăn phải vượt qua.

Nhưng cái khó khắn lớn lao nhất vẫn là làm sao để mọi thành phần trong Giáo Hội-Giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân- được đồng tâm nhất trí sống trung thực, và làm chứng tá cho Tin Mừng Cứu Độ để thuyết phục các anh  em ly khai mau trở về với Giáo Hội, cũng như mời gọi thêm nhiều người chưa biết Chúa được nhận biết để cùng nhau tôn thờ một Thiên Chúa, tuyên xưng một đức tin và được dẫn dắt bởi một Mục Tử duy nhất là Đức Thánh Cha.

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo, qua Hiến Chế tín lý Lumen Gentium của Thánh Công Đồng Vaticanô II, đã long trọng tuyên bố: "Giáo Hội độc nhất của Chúa Kitô được chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền ...  Giáo Hội ấy tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài điều khiển."  (x. LG, số 8)

Trung thành với lập trường này, ngày 10 tháng 7, 2007 trước đây, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (Congregation of Doctrine of the faith) đã công bố một văn kiện mới, nói rõ về chân lý và đặc tính duy nhất của Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội của Chúa Kitô thiết lập như phương tiện hữu hiệu để chuyên chở ơn cứu độ của Người cho muôn dân  đến tận cùng thời gian. Văn kiên này đã được Đức Thánh Cha Bênêđíchtô XVI chấp thuận cho công bố để minh xác điều đã được Thánh Công Đồng Vaticanô II tuyên bố  trên đây, cách nay hơn 40 năm về bản tính và mầu nhiệm của Giáo Hội  Chúa Kitô. Nói rõ hơn, Đức Thánh Cha muốn mọi tín hữu Công giáo hiểu rõ là chỉ có một Giáo Hội duy nhất được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ và Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, dưới quyền cai trị của Đức Giáo Hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, Tông Đồ trưởng (Mt 16,18-19; Ga 21,15-16). Tuyên ngôn trên  chắc đã không làm hài lòng những anh em đang ở trong các "Giáo hội hay Giáo phái" ngoài Công Giáo. Tuy nhiên, để bảo vệ chân lý tinh tuyền, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin không có chọn lựa nào khác.

Nhưng mặc dù xác nhận Giáo Hội của Chúa Kitô tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, Công Đồng Vaticanô II cũng không loại bỏ sự kiện là "bên ngoài cơ cấu của Giáo Hội, còn có nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý. Những yếu tố ấy là những ơn riêng của Giáo Hội Chúa Kitô, nên cũng thúc đẩy đến sự hiệp nhất công giáo." ( x. LG, số 8).

Nói khác đi, Giáo Hội nhìn nhận có ơn thánh hóa và một số yếu tố chân lý nơi các Giáo phái ngoài Công Giáo, nhưng Giáo Hội Công Giáo có đầy đủ phương tiện cứu chuộc của Chúa Kitô đến mức không cần phải được bổ túc thêm yếu tố nào khác từ các giáo hội hay giáo phái đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội. Mọi chân lý đức tin đã được Chúa Kitô dạy dỗ và  mặc khải trọn vẹn cho các Tông Đồ là  nền tảng của Giáo Hội duy nhất của Chúa trên trần gian này. Vì thế, chức năng và danh xưng  Giáo Hội (Church) đúng nghĩa chỉ thuộc về Giáo Hội Công Giáo mà thôi. Riêng với các anh em Chính Thống Đông Phương, Giáo Hội nhìn nhận họ có chung một truyền thống tông đồ (apostolic succession) cũng như có đủ bí tích hữu hiệu như Công Giáo, nhưng không vì thế mà họ là Giáo Hội chính danh như Giáo Hội Công Giáo, hay là một Giáo Hội thứ hai khác mà Chúa Kitô đã thiết lập từ đầu. Sỏ dĩ họ chưa hiệp nhất được với Giáo Hội Công Giáo vì có những bất đồng về tín lý từ năm 1054 cho đế nay, và đặc biết là về quyền bính của Đấng thay mặt Chúa Kitô để lãnh đạo Giáo Hội là Đức Thánh Cha,  Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Trong hoàn cảnh còn phân ly hiện nay, Giáo Hội tha thiết mong tiến đến hiệp nhất với tất cả các anh em còn ở các "giáo hội" ngoài Công Giáo, đặc biệt là anh  em Chính Thống Đông Phương, vì các anh  em này gần Giáo Hội Công Giáo hơn tất cả mọi giáo phái mang danh Kitô khác. Giáo Hội mong muốn sớm đạt được sự hiệp thông sâu xa và trọn vẹn với tất cả mọi anh em còn ly khai để cùng nhau tuyên xưng một đức tin, một Phép Rửa và tôn trọng một uy quyền cai trị.

Kết quả  cho đến nay, nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, một số tiến bộ đã đạt được trong nỗ lực hiệp nhất các Kitô hữu. Cụ thể, trong hai năm qua một số đông các giáo sĩ và tín hữu Anh Giáo (Anglicans) đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và để đón mừng họ và tạo điều kiện thuân lợi cho họ sống đức tin hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, ngày 9-11-09,  đã ban hành Tông Thư Anglicanorum,  cho phép thành lập các Giáo hạt  Tòng nhân cũng như cho phép các cựu tín hữu Anh giáo được duy trì một số nghi thức phụng vụ theo truyền thống văn hóa của họ trong khi hiệp thông với Giáo Hội Công giáo về mọi phương diện khác. Giáo hạt tòng nhân có nghĩa là Giáo hạt được thành lập nơi có các cựu tín hữu Anh Giáo sống đạo trong lãnh thổ của một Giáo Phận Công Giáo Anh Quốc. Giáo hạt Tòng nhân đầu tiên là Giáo hạt  Đức Mẹ Washingham dành cho các cựu Anh Giáo ở Anh và xứ  Wales. Giáo Hạt này được trao cho cha  Keith Newwton coi sóc. Ngài là  một trong ba giám mục Anh Giáo được thụ phong Linh mục Công Giáo ngày 15-1-2011.Sở dĩ các cựu giáo sĩ Anh giáo như Giáo mục và linh mục phải được huấn luyện thêm và chịu chức linh mục Công Giáo vì Giáo Hội không công nhận việc truyền chức của Anh Giáo và các giáo phái ngoài Công Giáo.Chỉ có điểm đặc biệt là các cựu giáo sĩ Anh Giáo, sau khi được chịu chức linh mục Công Giáo, vẫn được phép sống với vợ con, như họ đã sẵn có gia đình từ trước khi gia nhập Công Giáo , nên họ được miễn trừ giữ luật độc thân (celibacy) vẫn  áp dụng nghiêm ngặt cho hàng giáo sĩ tu sĩ Công Giáo.

Về phần cácGiáo Hội Chính Thông Đông Phương thì năm 2010, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI  đã sang thăm viếng Thổ Nhĩ Kỳ, và đã có cuộc gặp gỡ thân mật với Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống ở Istanbul. Riêng Giáo Hội Chính Thông Nga thì chưa tỏ dấu muốn xích lại gần Rôma vì họ cho rằng Giáo Hội Công Giáo muốn "lôi kéo" tín hữu Chính Thống  Nga vào Công Giáo La Mã.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho sự hiệp nhất của các giáo phái còn chưa muốn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo duy nhất của Chúa Kitô trên trần thế này.

II.  Tín hữu Công giáo có được từ bỏ Giáo Hội để gia nhập các giáo phái khác hay không ?

Thực tế cho thấy là có nhiều tín hữu thuộc các tôn giáo hay giáo hội khác đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và ngược lại, cũng có nhiều người Công giáo đã bỏ Đạo để theo Tin lành hay các giáo hội khác hoặc trở thành vô thần (atheist).  Dĩ nhiên, không ai có quyền cấm đoán việc này vì con người có lý trí và tự do mà chính Thiên Chúa còn tôn trọng. Tuy nhiên, để bảo vệ chân lý của Chúa và vì muốn chăm lo cho phần rỗi của đoàn chiên được trao phó cho mình coi sóc, Giáo Hội Công Giáo đã tha thiết noi gương Chúa Kitô, Đấng Chăn Chiên lành không muốn mất một con chiên nào, dù phải bỏ 99 con phía sau để đi tìm con chiên bị lạc. Trong tinh thần và mục đích đó, Giáo Hội cố gắng rao giảng giáo lý tinh tuyền của Chúa Giêsu và làm chứng cho những chân lý ấy để củng cố đức tin của mọi tín hữu trong Giáo Hội và mời gọi  người khác tin và gia nhập đoàn chiên duy nhất   của Chúa Kitô dưới quyền chăn dắt của Chủ Chiên duy nhất là Đức Thánh Cha, Người kế vị Thánh Phêrô trong trách nhiệm lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Mặt khác, cũng  vì tin tưởng vững chắc rằng Giáo Hội của Chúa Kitô, tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, là phương tiện cứu rỗi cần thiết cho mọi người, nên Giáo Hội cũng dạy  rằng : "Vì thế, những ai biết Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Kitô mà vẫn không muốn gia nhập hoặc kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi." (LG, số 14.)

Nói khác đi, những tín hữu đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo qua phép rửa và phép thêm sức cũng như đã được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa Kitô qua Phép Thánh Thể, thì được mời gọi và mong đợi kiên trì sống đức tin, đức cậy và nhất là đức ái trong Giáo Hội để được cứu rỗi.  Nhưng được rửa tội và gia nhập Giáo Hội mới chỉ là bước đầu cần thiết tiến đến ơn cứu rỗi mà thôi. Bước kế tiếp quan trọng hơn là phải thực thi và kiên trì sống những đòi hỏi của Phép Rửa: đó là yêu mến Chúa trên hết mọi sự, yêu thương anh chị em như Chúa Giêsu đã dạy và cộng tác với ơn thánh để chừa bỏ mọi tội lỗi, xa lánh mọi gian tà, độc ác và dâm ô đầy rẫy ở mọi môi trường xã hội ngày nay.. Nếu không thực hành tốt bước thứ hai này thì dù có ở trong Giáo Hội cũng vô ích mà thôi, vì "tuy thể xác họ thuộc về Giáo Hội nhưng tâm hồn họ không ở trong Giáo Hội" (LG, số 14).

Đó là tình trạng của những người Công giáo chỉ có tên chứ không có thực hành, đang sống nửa nóng nửa lạnh, một tình trạng mà Chúa Kitô đã nghiêm khắc cảnh cáo như sau trong Sách Khải Huyền : "Ta biết việc các ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống mà thực ra đã chết. Hãy thức tỉnh, Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn., vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta ..."( Kh 3,1-2).

Như vậy đủ cho thấy là nếu không tha thiết sống Đạo trong Giáo Hội Công Giáo mà cứ nửa nóng nửa lạnh như thực trạng của nhiều tín hữu ngày nay, thì dù đã chịu phép Rửa và gia nhập Giáo Hội cũng không ích gì cho phần rỗi của ai, như Chúa đã cảnh cáo  thêm sau đây : " Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi. Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta." ( Kh 3,15-16).

Mặt khác, những ai từ bỏ Giáo Hội để gia nhập các giáo phái khác thì cũng tương tự như trên.  Lý do là, tuy bên ngoài Giáo Hội,  có thể có một số yếu tố thánh hóa và chân lý nơi các tôn giáo khác, nhưng chỉ trong Giáo Hội của Chúa Kitô, ví như con Tàu ông Noe của thời Tân Ước, mới có đầy đủ mọi phương tiện cứu rỗi hữu hiệu là các bí tích mà thôi. Như vậy, không nên vì một bất mãn nào đó với ai, mà người tín hữu Công giáo có thể từ bỏ Giáo Hội, không muốn sống đức tin Công Giáo nữa để đi tìm phương tiện cứu rỗi ở nơi không có phương tiện hữu hiệu này,  thì chắc chắn sẽ không tìm được như Công Đồng đã dạy trên đây.

Tóm lại, chỉ có một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, là phương tiện  hữu hiệu chuyên chở ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi  người cho đến ngày cánh chung tức ngày  mãn thời gian mà thôi.

Chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã thiết lập Giáo Hội như Con Tàu cứu sống chúng ta trong cơn đại hồng thủy mới đang cuồn cuộn nổi lên để cuốn sâu vào lòng đại dương mọi sinh vật đang trôi dạt bên ngoài Con tàu cứu nguy này.

Lm.  Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Đơn Giản Hãy Gọi Người Là Mẹ

Có một đứa bé sắp chào đời. Nó bèn hỏi Thượng Đế:           

- Họ nói ngày mai Người sẽ đưa con xuống trần gian, nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?      

Thượng Đế đáp:     

- Trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ đợi con và săn sóc con chu đáo.

Đứa bé lại nài nì:    

- Nhưng này con không phải làm việc gì ngoài ca hát và vui cười hạnh phúc chứ?       

Thượng Đế đáp:     

- Thiên thần của con sẽ hát cho con nghe và cũng sẽ tươi cười với con mỗi ngày. Con sẽ cảm nhận được tình thương của người dành cho con và con sẽ thấy rất hạnh phúc.          

Đứa bé lại hỏi:         
- Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng một ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?

Thượng Đế trả lời:  

- Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những ngôn từ nhẹ nhàng và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dạy con biết nói.  
- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Ai sẽ bảo vệ con?

- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của người.        

- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được nhìn thấy Ngài nữa.

- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta dù rằng Ta luôn cận kề con.  

Vào giây phút đó, ở nơi thiên đường ngâp tràn an lạc nhưng người ta vẫn có thể nghe thấy những tiếng gọi vang vọng từ cõi thế, và đứa bé vội vàng hỏi Thượng Đế:

- Thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con.     

- Tên của người không quan trọng, con chỉ đơn giản gọi người là "Mẹ".

Nguồn: songdep.xitrum.net

2573    24-04-2012 20:55:48