Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Họ Đạo Ba Châu

z51178218921031a095724db0eb19ccfa35efdebe7af1e

Địa chỉ: ấp Phú Tân, xã Châu Hòa, Giồng Trôm, BẾN TRE

Bổn mạng: Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa 1/1

Chầu lượt:CN Phục Sinh

Số giáo dân:1.709

Năm thành lập:

Giờ lễ:                       

Chúa nhật:         05g00     ;   16g00

Ngày thường:        Thứ 2,3,4:  05g00

                            Thứ 5,6:    17g30

Linh mục Chánh sở: Phêrô Nguyễn Minh Thái

LỊCH SỬ HỌ ĐẠO

I. VỊ TRÍ HÔM NAY

      Họ Đạo Ba Châu nằm trên trục lộ giao thông chính, từ Bến Tre đi về Giồng Trôm và Ba Tri, cách TP. Bến Tre 12cs, ở về mạn Nam. Địa bàn Họ Đạo năm trên hai xã là Châu Hòa (mạn Đông) và Lương Qưới (Mạn Tây). Xã Lương Qưới có một khu chợ nổi tiếng là Chợ chanh, sát trục lộ 885, nhóm họp vào giờ đêm.... Chợ Lương Quới khi xưa còn được gọi là Chợ Bàu Sấu... Nghề nghiệp chính của người dân địa phương là làm vườn; tuy nhiên kinh tế vẫn chưa cao, vì dân số ngày càng “đẻ”, mà đất đai không hể “đẻ” thêm lên...Người giáo dân vùng này đến 75% sống bằng nghề làm vườn, nên chưa bảo đãm cái ăn cái mặc cho cuộc sống, chính vì ông bà tổ tiên của họ bao đời đã sinh sống tại đây...Đó chính là hình ảnh tiêu biểu biểu của một Họ Đạo vùng sâu Miền Tây Nam Bộ.

II. GỐC TÍCH PHẦN 1 (Ghi lại từ Báo Nam Kỳ Địa Phận, Năm 1920, Trang 665, Trang 295 và Trang 328)

       Cha Phaolô Tuyết là cha Phó của cha Gernot, cha sở Cái Mơn (ngụ tại Cái Mơn). Từ các năm 1867-1875, cha P. Tuyết cai quản họ Cái Bông với trách nhiệm là Phó biệt cư, nên ngụ tại Cái Bông (trích Monographie de Cái Bông). Có thể vào thời gian đó, cha đã lên dựng Nhà Dạy bằng cây lá cho Ba Châu. Hiện nay chúng ta không có những cứ liệu rõ ràng về việc này. Nam kỳ địa phận chỉ nói, cha Phaolô Tuyết đã lập Họ Đạo Ba Châu. Có thể phỏng đoán từ 1880 đã có những người Công giáo đầu tiên tại đây...

       Một người giáo dân có công rất lớn trong việc thành lập Họ Đạo này là Thầy Sơn; cả gia đình Thầy ngụ tại Châu Thới, đã xin giử đạo tử tế. Sau này khi con cái lớn lên, đã qua định cư bên họ Chà Và; một người con gái của Thầy kết bạn, đã về Giồng giá. Nhờ gia đình này, những người bà con của Thầy Sơn, còn bên lương lần hồi xin giử đạo, đã tăng con số lên đáng kể.

       Nhà Thờ đầu tiên: Cha Phêrô Nguyễn Nhậm, khi còn là Đại Chủng sinh, đã đến giúp tại Ba Châu vài năm. Sau khi làm Linh Mục, cha làm Phó Bến Tre một năm; năm sau (1904), được sai về làm sở Ba Châu. Cha dựng ngay một Nhà Thờ bằng cây lá tại Làng Châu Phú.

        Trước khi cha đến, nơi đây chưa có Nhà Thờ; giáo dân chỉ có mấy gia đình rất nghèo; Cha sở cũng nghèo. Nhà Thờ bằng cây, lợp lá có 4 căn, phía sau có một thảo bạc để cha ở đó... Cha lo lắng hết sức sao cho có Nhà Thờ để mọi người thờ phượng Chúa.

       Năm 1915, cha dựng  nhà xứ 3 căn 2 chái, phong tô tốn hết 2.000$. Trong thời gian này, làng Châu Thới và Châu Bình cũng có Nhà Thờ nữa, dĩ nhiên bằng vật liệu nhẹ cây lá... Năm 1916, cha mua một sở ruộng 13 mẫu để cho giáo dân canh tác... Cha còn tổ chức “chơi Hụi” cùng với giáo để có tiền lo cho sinh hoạt Họ Đạo. Cha là người chín chắn, kỷ lưỡng, lại quảng đại hay tha thứ, không nóng tính, hay giúp đở ọi người... nêu gương tốt cho xung quanh.

       Cha còn giúp các Họ Đạo khác như Cái Sơn – Hương Điểm – Phong Mỹ – Bình Khương. Chẳng những cha tận tình lo cho công việc Họ Đạo, cha còn rất quan tâm lo lắng cho đời sống con chiên của mình nữa... Cha vẫn ao ước xây dựng một Nhà Thờ kiên cố; công việc đang dở dang, đột ngột cha bị bệnh dịch tả mà qua đời ngày 04.05.1920. Ngay hôm sau, lúc 02g chiều, có Thánh lễ an táng và cha được chôn cất tại Họ Đạo gần bên nhà xứ.

       Nhà Thờ thứ 2, cũng là Nhà Thờ hiện nay: Khi Cha Phêrô Nguyễn Toàn Năng về nhậm họ Ba Châu (1932 – 1937), ngài phải lãnh nợ ngôi Nhà Thờ bị sập. Vì nhu cầu cấp bách, cha phải khởi sự công việc xây dựng ngay, dù rất vất vả; kinh phí rất eo hẹp, nên công việc xây dựng khá kéo dài. Tuy nhiên nhờ giáo dân đồng lao cộng khổ với cha, ngày 15.8.1936 (?) ngôi Nhà Thờ mới được khánh thành trong niềm phấn khởi của bao người. Đó chính là ngôi Nhà Thờ hiện tại mà chúng ta đang thấy đây, dù có ít nhiều sửa đổi qua thời gian...

III. GỐC TÍCH PHẦN 2

       Các Linh mục qua các thời kỳ (Dựa vào sổ sách, nhất là sổ Rửa tội còn được lưu giử). Chúng ta cũng nên lưu ý điều này: Địa sở Ba Châu từ khi thành lập cho đến 1975, gồm có cả Họ Đạo Giồng Trôm – Tân Thanh – Bình Khương nữa (xã Châu Bình).

        Cha Phaolô Tuyết đã có công thành lập Họ Đạo Ba Châu lối năm 1880.

       Từ 1904 – 1920: Cha Phêrô Nguyễn văn Nhậm, dựng Nhà Thờ lá, Nhà Thờ thứ 2 và nhà xứ. Ngài bị bệnh dịch tả và qua đời, được chôn cất tại đây...

      Từ 1920 – 1932: Cha Phêrô Đặng Ngọc Thái tiếp nối công việc của vị tiền nhiệm, sửa sang trong ngoài, trồng nhiều cây sao, tạo bóng mát và cảnh quan cho Nhà Thờ.

      Từ 7.1932 – 7.1937: Cha Phêrô Nguyễn Toàn Năng lảnh nợ ngôi Nhà Thờ bị sập. Nhờ sự cộng tác nhiệt tình của giáo dân, ngày 15.8.1936, ngôi Nhà Thờ mới được khánh thành như còn thấy hiện nay (năm 2012, sau 76 năm).

        7.1937 – 01.1941: Cha Phêrô Nguyễn Linh Nhạn.

      02.1941 – 11.1943: Cha Vincentê Nguyễn Ngọc Thanh. Ngoài việc mục vụ, cha còn thích vẽ tranh ảnh đạo, trang trí chân tường, góc cột đủ màu sắc hình ảnh...

       11.1943 – 07.1945: Cha Bêneđitô Trương Thành Thắng. Cách sống đơn sơ và khôn ngoan của cha, được nhiều người mến mộ.

      8.1945 – 02.1946: Cha GBt Lê Văn Gấm, đến nhận Họ Đạo trong lúc tình hình chính trị  vô cùng khó khăn. Chỉ mấy tháng sau, ngày 18.02.1946, người ta giả danh mời cha đi xức dầu, họ đem cha đi âm thầm xử bắn, xác thả trôi sông. Sau đó giáo dân vớt lên đem về an táng trong khuông viên Nhà Thờ.

      8.1946 – 02.1949: Cha Bênêđitô Trương Thành Thắng. Mấy tháng sau, cha Ben. Thắng lại được cử về nhậm Ba Châu lần thứ hai.

        02.1949 – 02.1952: Cha Giuse Nguyễn Văn Bạch đến Ba châu.

       4.1952 – 6.1961: Cha Phêrô Lê Văn Ngộ. Cha rất thông thái; sở trường của cha là trị bệnh và dạy học. cha cho xây núi Đức Mẹ và dựng nhiều vỡ kịch đạo, vẫn còn được nhiều người lớn nhắc nhở.

       7.1961 – 11.1971: Cha Tađêô Võ Văn Nam. Xây dựng dãy trường Tiểu học cạnh Nhà Thờ bên cánh trái; có 6 Nữ tu Cái Mơn đến dạy, vừa văn hóa vừa giáo lý. Nơi đây là chiếc nôi đào tạo sơ cấp cho hầu hết các Thiếu nhi trong thời kỳ này.

        12.1971 – 6.1982: Cha Phêrô Nguyễn Văn Vỡ. Ngài gặp nhiều khó khăn trong ngoài. Biến cố 1975, làm cho cha sở đã già thêm già yếu hơn, không chống nổi phong ba từ nhiều phía, nên đôi khi, ngài phải bỏ nhà xứ, tá túc ở nhà giáo dân.

         01.1982 – 3.1982: Cha Gioakim Dương Văn Ngoan, được cử về làm phó cho cha già, cũng là để chuẩn bị thay cho cha già sau này, nhưng ngài gặp quá nhiều rắc rối, đành phải bỏ đi. Đến tháng 06, cha già (Phêrô Vỡ) cũng ra đi nốt...

         6.1982 – 12.1989: Họ Đạo trống vắng mục tử, không Thánh lễ hàng ngày kể cả ngày Chúa nhật. Nhà xứ thành nơi sản xuất Tiểu thủ công nghiệp chiếu cói, thảm chỉ xơ dừa. Giáo dân mất phương hướng, đức tin lung lay. Thảm trạng này kéo dài một thời gian rất lâu; đến năm 1987, cha Stanislas Bùi văn Lựu ở Giồng Trôm, mới được phép đến dâng lễ ngày Chúa nhật và ban các Bí tích; mỗi lần đến là phải có giấy phép; tuy nhiên nếu cha Năm Lựu không đến được, thì giáo dân đến với cha tại Giồng Trôm. Từ th 06.1982, cha vẫn lo lắng mục vụ tận tình cho Ba Châu, tại Giồng Trôm; chính bút tích sổ Rửa tội nói lên rất rõ điều đó... 

        29.9.1989 – 12.2000: Cha Antôn Nguyễn Văn Lệ. Việc đầu tiên của cha phải làm là tái thiết lại cơ sở vật chất hư hại, xuống cấp trầm trọng: thay toàn bộ đòn tay, lợp lại mái Nhà Thờ, lát gạch men, đóng thêm bàn quì... ổn định sinh hoạt mục vụ Họ Đạo sau bao năm không người chăm sóc; nhờ thế sinh hoạt Họ Đạo từng bước được phục hồi và đi vào nề nếp.

      12.2000 – 02. 2006: Cha Giacôbê Nguyễn Văn Tươi, tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm; xây tháp chuông, sửa lại mặt tiền Nhà Thờ; các hội đoàn được tái lập, có cả đội lân và đội bóng chuyền làm sôi động sinh hoạt Họ Đạo...

        02. 2006 – 09. 2010: Cha Tôma Trần Quốc Hùng và hai cha Phó, DCCT. Các ngài vừa có trách nhiệm cả Giồng Trôm và Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Lamã nữa. Tại Ba Châu, cha Tôma Hùng cho xây lại Núi Đức Mẹ, lợp lại dãy trường học sau cơn bão Durian, di dời và tái thiết phần mộ hai cha Phêrô Nhậm và GBta Gấm như có hiện nay.

        06. 09. 2010: Cha Phaolô Trương Tấn Lực.

       Trong tháng 10, tháng 11, Cha cho xây đài Thánh Cả Giuse trước nhà xứ, cán lại lập là xung quanh Nhà Thờ cho sạch sẻ và làm đẹp cảnh quan. Cha kêu gọi Họ Đạo hãy quan tâm đến người già, bệnh tật, kẻ liệt, nghèo khó, đem MTC hàng tuần cho họ – trợ cấp cho người già neo đơn, an ủi tuổi già của họ...

        Năm 2011, nhân chuẫn bị lễ vinh qui cho Cha Fx. Nguyễn Tấn Hạp (29.6.2011), người con trong Họ Đạo, đã xây lại cung Thánh – Sơn phết trong ngoài Nhà Thờ thêm khang trang...

       Năm 2012, đóng trần thạch cao hai bên – làm lại lầu hát – đóng lại số bàn quì mới hơn phân nữa Nhà Thờ – xây mới hàng rào và cổng chánh – sửa lại 2 phòng học để làm “Thư viện Thánh Minh” giúp con em trong Họ Đạo thêm kiến thức đạo đời... Trong năm này, Họ Đạo nhộn nhịp việc các nhóm nhỏ đi thăm bệnh nhân liệt lào, đem MTC, giúp đở gia đình neo đơn, thiếu thốn... Cũng nhờ đó, có một số người, gia đình trở lại đáng phấn khởi...

IV. ĐẤT ĐAI NHÀ CHUNG

      Họ Đạo Ba Châu cũng có một số đất ruộng vườn, nhưng hôm nay, số này không còn nữa... Đất khuông viên Nhà Thờ, đã có Sổ đỏ, diện tích là 9720 m2. Họ Đạo còn một khu vực Đất Thánh cách Nhà Thờ, lối 400m về mạn Đông; diện tích có mồ mã là gần 4000m2, số còn lại đất trống chưa chôn gần 2500m2. Tuy nhiên trong phạm vi đất đã chôn cất, vẫn còn những khoảng trống cho 30, hoặc 40 mộ nữa... Toàn bộ số đất này đã có Sổ Đỏ...

V. NHÌN HIỆN TẠI, HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI

     Ba Châu có bề dày lịch sử hơn 130 năm. Con số giáo dân theo các cha sở trước ghi lại gần hơn 2000 người. Ba Châu hiện nay có một số Linh Mục, Tu sĩ  là con cái của Họ Đạo như:

     Cha GBt Lê Văn Gấm, mất 1946.

     Thầy Phó tế Carôlô Nguyễn Văn Nhã, sinh 1952, mất 1991.

     Cha Carôlô Đặng Đăng Nguyên, sinh 1977, Lm 2007.

     Cha Fx. Nguyễn Tấn Hạp, sinh 1978, Lm ngày  29. 06. 2011.

     Thầy Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, đang học thần học tại ĐCV Cái Răng, Cần Thơ.

    Thầy Phêrô Phạm Phúc Linh, OFM, Phanxicô Thủ Đức và 14 chị em MTG Cái Mơn, Dòng Thánh Phaolô, Bác ái Vinh Sơn.

     Với lịch sử trên 130 năm của Họ Đạo,1709  giáo dân hiện nay, con số của các Linh Mục, Tu sĩ như trên, vẫn còn là khiêm tốn. Chúng ta hãy khẩn nài Lòng thương xót của Chủ Ruộng, hãy sai nhiều thợ gặt lành nghề đến...Phần chúng ta hãy tỏ hết từ tâm với ơn gọi Linh Mục, Tu sĩ, và công cuộc truyền giáo....      

VI. HỌ BÌNH KHƯƠNG – HỌ CÙ LAO LÁ (Theo Nam Kỳ Địa Phận, Năm 1920, Trang 665)

       Năm 1907, tại Cù Lao Lá có một người Công giáo tên Bếp Phúc, có đức tin mạnh, nhưng rối vợ chồng, lại hay rượu chè. Khi đã lớn tuổi, ông bèn nghỉ, nên lo tu thân, lo đi dạy đạo để mọi người biết Chúa, rồi chắc chắn Chúa cũng lo cho mình được no cơm; vì thế từ đó ông chỉ biết lo việc Chúa, tự nguyện đứng ra dạy đạo, và đã đem nhiều người trở lại tại Cù Lao Lá và Bình Khương. Lúc đó tại Bình Khương có một cái đình bỏ trống, ông muốn xin để làm nhà dạy giáo lý; nhưng vì chuyện đó mà sinh cải cọ, mất lòng. Cha Danvy, cha sở Bến Tre không đồng ý việc đó, và ngài bảo để ngài lo cho có nơi dạy khác cho ông. Bếp Phúc vâng lời. Sau này cha Danvy gặp Bếp Phúc đau nằm trong bệnh viện Bến Tre, đã tuyên xưng đức tin mạnh mẻ, ăn năn thống hối, và đã chết trong bình an.

      Sau đó, nhiều thầy Chủng viện tới dạy chầu nhưng tại Bình Khương. Năm 1910, Bình Khương có 53 người, có Nhà Nguyện nhỏ bằng lá và một trường học; một năm dạy các em một kỳ học chỉ 3 tháng mà thôi. Họ Đạo Bình Khương sau 1960, Nhà Thờ vì bom đạn đã bình địa; giáo dân tản lạc... Cho đến hôm nay, chỉ còn ít di tích về Họ Đạo lẻ nầy của Ba Châu. Phần Họ Đạo Cù Lao Lá, vì sát bên Bình Khương, nên được đề cập ở đây; tuy nhiên Cù Lao Lá lại thuộc về Họ Đạo Giồng Tre, huyện Bình Đại; trước năm 1938, Giồng Tre thuộc về Mỹ Tho; sau đó lại thuộc về Ba Tri, giáo phận Vĩnh Long.

4403    12-01-2011 06:36:57