Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Họ Đạo Giồng Giá

z528071853203991fd34cda044e7e43cd4c55373e6a2deĐịa chỉ: ấp 3, xã Vĩnh Hòa, huyện Ba Tri, BẾN TRE

Bổn mạng: 

Chầu lượt:CN VIII Thường Niên

Số giáo dân:742

Năm thành lập:1835

Giờ lễ:                       

Chúa nhật:      05g00 ;   17g00                                                           

Ngày thường: 05g00

Linh mục Chánh sở: Ph. Xaviê Trần Tuấn Kiệt

LỊCH SỬ HỌ ĐẠO

I. NĂM THÀNH LẬP: 1835.

II. SỐ BỔN ĐẠO

            Khi mới thành lậpó 2 gia đình từ Miền Trung vào, khoảng 13 người.

            Hiện nay (năm 2011): 742 giáo dân.

            Kể từ thời chinh phục của đạo giáo ở Giồng Giá được các Cha sau đây cai quản:

III. CÁC LINH MỤC PHỤ TRÁCH

            1864 – 1868: Cha Gernot: ở Cái Mơn.

            1868 – 1875: Cha Tuyết: ở Cái Bông.

            1875 – 1879: Cha Fourgerouse: ở Cái Bông.

            1879 – 1886: Cha Sidot: ở Cái Bông.

            1886 – 1898: Cha Sâm: ở Giồng Giá.

            1898 – 1901: Cha Đoài và Cha Nhơn: ở Giồng Giá.

            1901 – 1905: Cha Việc: ở Cái Bông.

            1905 – 1922: Cha Phêrô Nguyễn Phước Khánh: ở Cái Bông, cất Nhà Thờ lá.

            1922 – 1932: Cha Gioan Baotixita Nguyễn Linh Nhạn: ở Cái Bông.

            1932 – 1932: Cha Giuse Thiên: ở Giồng Giá 6 tháng.

            1932 – 1940: Cha Giuse Năng.

            1940 – 1943: Cha Phêrô Ninh.

            1943 – 1947: Cha Philípphê Phan Văn Tuyền: ở Giồng Giá, bỏ mình vì phận sự.

            1949 – 1950: Cha Phêrô Nguyễn Văn Chính: ở Giồng Giá, cất Nhà Thờ.

            1950 – 1956: Cha Phaolô Nguyễn Văn Mừng: ở Giồng Giá.

            1956 – 1961: Cha Dôminicô Lê Minh Tỏ: ở Ba Tri.

            1961 – 1966: Cha Micae Văn Công Nghi: ở Ba Tri.

            1966 – 1969: Cha Phêrô Nguyễn Văn Vỡ: ở Ba Tri.

            1969 – 1976: Cha Anrê Nguyễn Trung Binh: ở Ba Tri.

            1976 – 1978: Cha Gioakim Dương Văn Ngoan: ở Cái Bông.

            1978 – 1993: Cha Gioakim Nguyễn Ngọc Quang: ở Cái Bông.

            1993 – 2002: Cha Eusêbiô NguyễnVăn Tiền: ở Cái Bông.

            2002 – 2003: Cha Phaolô Trương Tấn Lực: ở Ba Tri.

            2003 – nay: Cha Phêrô Lê Hoàng Lâm

            Các Cha ở tại Giồng Giá

            1932 – 1932: Cha Giuse Thiên: ở Giồng Giá 6 tháng.

            1943 – 1947: Cha Philípphê Phan Văn Tuyền: ở Giồng Giá, bỏ mình vì phận sự.

            1949 – 1950: Cha Phêrô Nguyễn Văn Chính: ở Giồng Giá, cất Nhà Thờ.

            1950 – 1956: Cha Phaolô Nguyễn Văn Mừng: ở Giồng Giá.

            1943 – 1947: Cha Philipphê Phan Văn Tuyền: ở Giồng Giá, bỏ mình vì phận sự.

            1949 – 1950: Cha Phêrô Nguyễn Văn Chính: ở Giồng Giá, cất Nhà Thờ.

            1950 – 1956: Cha Phaolô Nguyễn Văn Mừng: ở Giồng Giá.

IV. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

      Những người Công giáo đầu tiên đến Giồng Giá: 

     Ông Cậy và Ông Huấn là những tín hữu đầu tiên được biết đã đến Giồng Giá và kế đến là Giồng Bông, xã lân cận của Giồng Giá, nhưng hướng ra biển. Khoảng năm 1780, trước khi những tín hữu từ miền thượng du đến ở miền này, người ta nói còn có những người Khmer nữa.

     Ông Cậy chỉ có một người con trai tên là Tài, Ông Tài có 8 người con. Thời gian lâu sau khi ông Cậy ở Giồng Giá, ông Huấn đã đến ở Giồng Bông, ông Huấn còn có 2 người con và 13 người cháu.

     Vậy theo nguyên tắc hai gia đình này được coi là nhữmg cư dân Việt Nam đầu tiên đến ở xứ này.

    Khoảng năm 1835 bắt đầu cuộc truy hại lớn, các con cháu của hai gia đình này đã cưới hỏi nhau tạo ra thêm 15 gia đình lập thành số tín hữu của Giồng Giá.

   Ở thời kỳ này họ có Nhà Thờ không? Đó là giả thuyết, nhưng không thể xác định. Đấng Chân Phước Marchand đã viếng thăm những tín hữu của Giồng Giá là Cha Gagelin, lợi dụng việc đi du lịch (hay là những chuyến du lịch) ở Cái Bông để đến Giồng Giá.

     Khi cuộc bách hại bùng nổ Ngài phải ở Giồng Giá, có khoảng 15 gia đình Công giáo. Trong thời kỳ hổn loạn này cái gì xảy đến cho họ? Không thể có hướng dẫn chính xác. Thường thì những tín hữu phải đi nơi khác để lãnh nhận các Bí tích. Đấng Chân Phước Cuénot, khi đó là Cố Trí, đã đến thăm có thể ở Giồng Giá và Cái Bông trong khi truy hại. Bởi vì tên của Ngài đã đề cập cho tôi với các Thánh Marchand và Gagelin, nhưng không đích xác. Chính thời kỳ này có nhiều gia đình từ Giồng Giá dọn đến ở Cái Mơn và những nơi khác.

     Đàng khác, trong số con cháu thuộc dòng dõi của ông Huấn đã bỏ đạo. Theo sự tường trình năm 1856, Ông Lựu (Thánh Lựu) phụ trách ở Giồng Giá và có 149 tín hữu…

    Vào năm 1864 Cha Gernot tìm thấy chỉ có 158 tín hữu ở Giồng Giá, Cha Gernot cho biết những tín hữu này đã được Thánh Marchand Rửa tội.

    Vào năm 1865 Cha Gernot cho biết có 168 tín hữu ở Giồng Giá. Chính vào thờ kỳ này Nhà Thờ được xây lại trên địa thế hiện nay.

    Các Cha Nhậm và Cha Thông sinh ở Cái Mơn thuộc dòng dõi ông Cậy, mẹ của các ngài là cháu chắc của ông Cậy. Cha Sao qua đời năm 1910 cũng sinh ở Cái Mơn, con của Thầy Vĩnh thuộc thế hệ thứ tư của ông Cậy.

    Thời đó có 2 Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn sinh tại Giồng Giá (theo tài liệu của Tòa TGM Sài Gòn).

   Giồng giá gặp phải những cuộc chiến tranh kéo dài, có nhiều người giữ đạo vì thời cuộc, nhiều năm vắng bóng Linh Mục, giáo dân bỏ xứ.

V. NHỮNG NHÀ THỜ ĐƯỢC XÂY DỰNG Ở HỌ ĐẠO GIỒNG GIÁ

     Nhà Thờ đầu tiên 1905-1922. Cha Phêrô Nguyễn Phước Khánh ở Cái Bông thực hiện công trình này.

     Nhà Thờ thứ 2 không biết xây dựng năm nào! Nhưng có một Nhà Thờ với tháp chuông rất kiên cố. Nhưng khi Cha Philípphê Phan Văn Tuyền bị giết năm 1947 thì ngôi Nhà Thờ bị tàn phá.

      Nhà Thờ thứ 3 được xây trong những năm 1949-1950. Cha Phêrô Nguyễn Văn Chính xây dựng

     Nhà Thờ thứ 4 được xây năm 2006. Cha Phaolô Trương Tấn Lực khởi công và Cha Phêrô Lê Hoàng Lâm hoàn thành việc xây dựng Nhà Thờ vào năm 2009.

       Những cơ sở khác: 

                        Nhà Dì xây dựng năm 2006.

                        Nhà xứ xây dựng năm 2009 có 1 tầng lầu dành dạy giáo lý.

                        Nhà đa dụng mua lại của giáo dân năm 2007 trong khu vực Nhà Thờ.

VI.NHẬN ĐỊNH VÀ TÌNH TRẠNG GIÁO DÂN TRONG HỌ ĐẠO

1. Tinh thần đạo đức

       Họ Đạo phần đông chỉ là người già và trẻ nhỏ, người trẻ đi học và buôn bán ở nơi xa. Ngày Chúa nhật có 2 lễ và ngày thường 1 lễ. Giáo dân đi lễ tương đối.

2. Tình trạng kinh tế

       Hầu hết giáo dân sống nghề nông, làm lúa và chăn nuôi. Ngoài ra, họ phải lên Sài Gòn buôn bán kiếm thêm thu nhập để trang trải trong gia đình. Nhờ buôn bán nên đời sống bớt vất vả và các con được đi học.

VII. HƯỚNG TỚI

        Mỗi Chúa nhật dạy giáo lý trong Nhà Thờ cho mọi thành phần, đẩy mạnh việc đạo đức, nhất là việc dạy giáo lý cho thiếu nhi.

        Xung quanh Họ Đạo có rất nhiều người ngoài Công giáo. Mọi người luôn ý thức việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân, thăm viếng và những công việc bác ái cụ thể.

 

3499    12-01-2011 09:52:48