Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Học Giáo Lý Để Trở Thành Chứng Nhân Tin Mừng - Tháng 12 năm 2010

LỜI CHỦ CHĂN

Tòa Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Ngày 14.11.2010

V/v : Phục vụ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô

“Các con là ánh sáng cho trần gian.
Sự sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy các công việc tốt đẹp các con làm mà tôn vinh Cha các con trên trời” (Mt 5,15-16).

1. Dạy giáo lý hay giáo dục đức tin là một công tác rất cần thiết để phát triển đức tin và Hội Thánh ( Vat. II, AG 17). Đức tin là ơn Chúa ban. Nhưng Chúa lại muốn có sự cộng tác của con người. Không có ai nói thì làm sao biết mà tin (Rom 10,17). Và để được ơn đức tin thì cũng phải biết lắng nghe.

Đức tin là khởi điểm của đời sống (Gal 3,11), của mọi cử hành Phụng Vụ. Cộng Đoàn sống là nhờ có các sinh hoạt: có dạy giáo lý, có Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích, có các giờ viếng Chúa, chầu Thánh Thể, các giờ kinh chung ở Nhà Thờ, giờ kinh gia đình. Trong các buổi cử hành phụng vụ, Lời Chúa luôn được suy tôn. Lời Chúa sáng soi và củng cố niềm tin của các tín hữu. Việc giáo dục đức tin và việc thờ phượng biểu hiện tính tiên tri và tư tế của Dân Chúa. Hai sinh hoạt nầy luôn liên kêt với nhau.

2. Thế nhưng, Kitô giáo không phải là một nhóm tín hữu, một cộng đoàn khép kín. Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, nên Đạo là sự hiệp thông với Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô, hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi (Vat. II, PO, số 5), và trong Chúa Kitô các tín hữu hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông của Hội Thánh được thể hiện nhờ đức tin và Phép Rửa, nhờ được rước Mình và Máu Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể. “Không cộng đoàn nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vào việc cử hành Bí Tích Thánh Thể” (Vat II, PO, số 6).

Bao lâu còn có người chưa biết Chúa Kitô, thì sự hiệp thông vẫn chưa đầy đủ như Chúa muốn: “Ta còn nhiều chiên khác không thuộc về ràn nầy, Ta phải đi dẫn chúng về” (Gioan 10,16). Làm sao Hội Thánh có thể quên đi sứ mạng đã lãnh nhận từ Chúa Kitô Phục Sinh: “Các con hãy đi thu thập môn đồ khắp muôn dân” (Mt 28,19). Đến với muôn dân là lệnh truyền của Chúa, mà cũng là bổn phận, là cách thức mà đoàn dân được tuyển chọn bày tỏ lòng tri ân: “Còn anh em, dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương, nước thánh thiện, dân được hcọn làm sở hữu, ngõ hầu anh em loan truyền các huân công của Đấng đã gọi anh em từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Người” (1 P 2,9).

3. Hội Thánh được mời gọi trở thành bí tích, nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân loại (x. Vat.II, LG, số 1) nhất là nhờ cử hành Hy Tế của Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể. Hội Thánh cử hành Thánh Lễ, và Thánh Lễ xây dựng Hội Thánh (Henri De Lubac).

Để trở thành ánh sáng cho thế gian (x. Mt 5,13-16), Hội Thánh luôn cố gắng bảo vệ sự hiệp nhất trong đức tin, xây dựng nếp sống đạo hạnh của các tín hữu, của các gia đình.

Trong Thánh Lễ, Hội Thánh tuyên xưng Đức Kitô chịu chết và sống lại để hòa giải phàm nhân tội lỗi với Chúa Cha, và chính Đức Kitô Phục Sinh cho các tín hữu tham dự Tiệc Thánh Thể, nên một thân một thể với Người (x. 1 Cor 10,16-17). Nhờ sức mạnh thiêng liêng của Bí Tích Thánh Thể, con cái Chúa được biến đổi, Hội Thánh thực thi sứ mạng thu thập môn đồ khắp muôn dân, đưa họ vào đời sống hiệp thông với Chúa Kitô, đặc biệt thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô trong Bí Tích Bàn Thờ. Đó là mục tiêu của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng (Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia 22).

Caritas Christi urget nos ! Thánh Phanxicô Xaviê đầy lòng mến Chúa, làm sứ giả nhiệt thành rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc Á Châu. Xin Thánh Thần Chúa ban lửa mến cho mọi tín hữu, để cùng với Hội Thánh và trong Hội Thánh, mỗi người chúng ta biết loan truyền những công trình kỳ diệu của Lòng Thương Xót Chúa cho lương dân. Dạy Giáo lý là gieo niềm hy vọng : “Quà tặng quí giá nhất mà Hội Thánh có thể trao ban cho thế giới lạc hướng và lo âu hôm nay, là đào tạo những Kitô hữu đích thực và hạnh phúc trong đức tin của mình” (Gioan Phaolô II, CT, 61).

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
                     
Giám mục Vĩnh Long

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ:
HỌC GIÁO LÝ ĐỂ TRỞ THÀNH CHỨNG NHÂN TIN MỪNG

Sau cùng, chúng tôi các giám mục đặc biệt ngỏ lời với các con, anh chị em dự tòng, các học viên giáo lý, các bạn trẻ, thiếu niên và nhi đồng đang tuổi học giáo lý. Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương anh chị em và các con. Chúa mong ước anh chị em và các con học hiểu giáo lý Tin Mừng để nhận biết chúa, yêu mến Chúa và theo chúa cách hào hùng, vui tươi và quảng đại.

Thật đáng khen khi đa số anh chị em và các con, dù hoàn cảnh khó khăn, vẫn chuyên chăm học giáo lý. Giáo Hội hy vọng nhiều nơi anh chị em và các con. Nhờ chuyên chăm học giáo lý, anh chị em và các con sẽ trở thành chứng nhân của Chúa (TMV số 33).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Một nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, để dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau:

- Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.

Nhà tuyền giáo trả lời :

- Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.

Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại :

- Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng : không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.

Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ.
(Hạt giống âm thầm, trang 179)

Qua Bí tích Rửa Tội, người tín h?u đón nhận đức tin từ Mẹ Giáo Hội trao ban, được nhập vào đời sống của Chúa Ba Ngôi, và được thông chia đời sống và chức vụ của Chúa Giêsu và nên con cái Hội Thánh (sống niềm tin của Hội Thánh).

Ngưiời tín hữu một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, cũng phải thi hành chức vụ tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Nhiệm vụ tư tế là phải hy sinh cầu nguyện để cho người ta trở lại với Chúa. Nhiệm vụ tiên tri là phải nói Lời Chúa cho người ta nghe để họ biết Chúa mà tin Chúa. Nhiệm vụ vương đế là trở thành người phục vụ, hướng dẫn, nghĩa là phải nêu gương sáng để cho người ta bắt chước sống theo mà theo Chúa.

Bởi thế, ai đã đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để trở thành con Chúa, mà không thi hành ba chức vụ trên đây để làm việc truyền giáo, để làm việc tông đồ, thì họ không còn xứng đáng là con của Chúa nữa. Và khi nhận lãnh phép Bí Tích Thêm Sức, mỗi người chúng ta được trở nên mạnh mẽ nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần để can đảm thi hành ba chức vụ trên.

Đức tin là một ơn ban từ Thiên Chúa, qua Hội Thánh, nhưng cũng là lời đáp trả của con người. Ơn Chúa thì vô cùng, nhưng con người phải học biết cách đáp trả vô điều kiện như Abraham, như Mẹ Maria. Muốn được như vậy cần phải biết ý Chúa, nhờ học Giáo Lý, để thấm nhuần Lời Chúa, và năng lãnh nhận ơn Chúa qua các Bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể để nên giống Chúa ngày một hơn. Bởi vì ơn gọi Kitô hữu là nên thánh, nghĩa là nên giống như Chúa, phản chiếu hình ảnh thánh thiện của Chúa: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” Rồi sau đó trở thành ánh sáng cho muôn dân: “Các con là anh sáng thế gian” để mọi người nhận thấy việc lành chúng ta làm mà ngợi khen Cha trên trời. Như trường hợp của văn sĩ John Bayern, vào phút cuối cuộc đời, đã nói những lời giã từ người vợ thân yêu như sau: “Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.

Tâm điểm của đời sống người tín hữu là Chúa Kitô. Qua Chúa Kitô chúng ta biết Chúa Cha, nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Được trau dồi giáo lý ngày một hơn theo sự phát triển của độ tuổi, chúng ta nhân ra rằng chính Lời Chúa và Mình Chúa nuôi sống linh hồn người tín hữu: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56). Thật vậy, có Chúa Kitô, kết hợp với Chúa Kitô và sống cho Chúa Kitô chính là lẽ sống của mỗi tín hữu.

Thật vậy, các Môn đệ cũng đã từ bỏ tất cả và đã theo chân Đức Giêsu Kitô cho đến chết, không phải vì họ đã hiểu được một cách cặn kẽ và tường tận mọi giáo huấn của Người; nhưng vì chính Đức Kitô đã dạy những điều ấy. Con người Đức Kitô đã thuyết phục được lòng tin tưởng của các Môn đệ: “Bỏ Thầy, chúng con biết đi với ai, vì chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Cũng tương tự như vậy, Đức Trinh Nữ Maria đã thưa vâng và chấp nhận sứ mệnh làm trung gian trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên chúa, không phải vì Mẹ đã hiểu hết tất cả mọi chi tiết của sứ mệnh đó, nhưng Mẹ tin và chấp nhận, vì Mẹ xác tín chắc chắn rằng sứ mệnh ấy là do Chúa giao phó.

Giáo Hội không những tồn tại mà còn luôn sinh động và phát triển một cách mạnh mẽ, trước hết là nhờ có Đức Kitô luôn hiện diện và đồng hành với Giáo Hội. Giáo Hội chính là cộng đoàn các tín hữu, là cộng đoàn Các Thánh, vì Đức Kitô, thủ lãnh của Giáo Hội, là Thiên Chúa, là Đấng Thánh tuyệt đối. Và chính các Kitô hữu những người đã thể hiện niềm tin sống động của mình vào Đức Kitô đã khơi dậy và thắp sáng niềm tin nơi người khác. Chính cuộc sống đức tin sống động của họ mới là trọng điểm có sức thu hút và thuyết phục được các lương dân, chứ không phải các giáo lý họ rao giảng.

Như vậy, làm việc cho Chúa chưa đủ; người tín hữu cần phải làm việc với Chúa, pảhn ánh khuôn mặt của Chúa qua đời sống của mình, để lôi kéo mọi người đến với Chúa. Đó chính là truyền giáo.

Đức tin giúp chúng ta xác tín về sứ mạng cứu độ của Chúa Cha, giúp chúng ta hoà nhập thành một với Đức Giêsu Kitô, gắn bó mật thiết với Chúa Thánh Thần và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội. Đó là bốn đặc điểm của một nhà truyền giáo. Được như thế, chúng ta sẽ trở thành hình ảnh sống động của Chúa Ba Ngôi và đời sống chúng ta sẽ trở thành bằng chứng sống động của Tin Mừng. Như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (x. Gl 2,20).

Theo Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, việc truyền giáo ngày nay chính là chia sẻ Đức Kitô mà chúng ta đã tiếp nhận được như bẻ ra một tấm bánh chia cho người khác trong bữa ăn hằng ngày (x. Sứ điệp Truyền giáo 2005 của ĐTC Gioan Phaolô II, số 4).

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu bảo Hội Thánh rao giảng Tin Mừng, tức là dạy giáo lý. Trước khi có người dạy, thì ắt phải có người nghe, người học. Sau mười một bài nói về việc dạy giáo lý, kỳ này, chúng ta cầu nguyện cho việc nghe và học giáo lý.

  1. Chúa phán: “Những người biệt phái ngồi trên toà Môi sen, các con hãy nghe lời họ”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, phải biết lắng nghe Lời Chúa, qua Kinh Thánh, giáo lý, kinh nguyện và các sự kiện của thời đại.

  2. Chúa phán: “Ai nghe các con là nghe Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu biết lắng nghe lời Chúa qua các bài giảng của hàng giáo sĩ và tu sĩ, trong những dịp các ngài hướng dẫn giáo lý và cầu nguyện.

  3. “Maria cứ ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi dân mọi nước, chăm chú lắng nghe lời Chúa dạy, để tăng thêm lòng tin tưởng và lòng yêu mến Chúa.

  4. Chúa phán: “Ai nghe và tuân giữ lời Ta, thì như người khôn xây nhà trên đá”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn lắng nghe lời Chúa, hiểu biết ý Chúa, và can đảm thực hành điều Chúa muốn.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa ban Con Chúa đến dạy dỗ chúng con. Xin cho chúng con đón nhận Thánh Thần Chúa, giúp chúng con lắng nghe và thực hành giáo lý Chúa, trong suốt đời chúng con hầu đáng được sống đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

SỐNG THEO Ý CHÚA

Những dòng cuối cùng của Thư mục vụ năm 2009 về Sứ Vụ Dạy Giáo Lý, Các Giám mục đã mời gọi: “chúng tôi các Giám mục đặc biệt ngỏ lời với các con, anh chị em dự tòng, các học viên giáo lý, các bạn trẻ, thiếu niên và nhi đồng đang tuổi học giáo lý. Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương anh chị em và các con. Chúa mong ước anh chị em và các con học hiểu giáo lý Tin Mừng để nhận biết chúa, yêu mến Chúa và theo chúa cách hào hùng, vui tươi và quảng đại” (Sứ Vụ Dạy Giáo Lý số 33). Như thế, một cách thật chắc chắn rằng, Hội Đồng Giám Mục Việt nam mời gọi mọi người hãy loan báo tin mừng của Thiên Chúa bằng việc hăng say học hỏi giáo lý, nhờ việc học giáo lý mà có một đứng tin kiên vững và sẳn sàng làm chứng cho Chúa.

Tại sao muốn nhận biết Chúa phải học giáo lý, muốn yêu mến Chúa phải tìm đến với Lời của Người?. Nhìn lại dòng lịch sử cứu độ, dân Do thái sau khi được Môsê dẫn dắt ra khỏi đất Ai Cập, họ cảm nhận được rằng: không ai hùng mạnh bằng Chúa của họ, không ai thương họ hơn Vị Thiên Chúa mà Môsê đang đại diện… vì thế, họ xin Môsê thưa cùng Thiên Chúa cho họ biết Thánh Ý của Người, để họ tuân giữ và nhờ thế họ mãi đi trong đường lối của Người hầu múc lấy nguồn sống từ nơi Thiên Chúa tình thương. Sách Xuất hành đã tường thuật lại việc Thiên Chúa ban Giao Ước và toàn dân nhất quyết tuân giữ “Toàn dân nhất trí đáp lại: "Mọi điều ĐỨC CHÚA phán bảo, chúng tôi xin làm theo” (x. Xh 19, 8tt). Như vậy, Lời Chúa không ban ra vì Chúa mà vì con người, Thiên Chúa ban cho Lời Chúa và mời gọi con người hãy thực thi để nhận được sự sống. Lời Chúa là một hướng dẫn hơn là một sự ràng buộc pháp lý, Chúa chỉ con đường sống và con người có đủ tự do để quyết định sự chọn lựa của mình.

Nhìn lại lịch sử để áp dụng vào cuộc sống đạo của người tín hữu ngày nay, Không thể nào hiểu đạo là gì? Chúa thương ta ra làm sao? Và sống đạo như thế nào nếu ta không học hỏi về giáo lý của Chúa, hay chỉ học một cách sơ xài. Nơi các họ đạo còn nhan nhãn những cách dự lễ “đạo dòng” (ở vòng vòng ngoài nhà thờ dự lễ), hay cách sống đạo “chẳng đặng đừng” hoặc kiểu sống đạo “trả nợ quỷ thần” cho xong, cho rồi bổn phận. Thật ra những biểu hiện trên đây là hệ quả của sự hiểu biết về Chúa một cách hết sức hạn hẹp vì sự lơ là trong việc tìm biết Thánh Ý Chúa qua việc học giáo lý. Trong chiều hướng ấy, người ta thường nghĩ Thiên Chúa như một vị thần khắt khe luôn hạn chế sự tự do của con người và thích được người ta ca tụng. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa là Đấng Thiện Hảo nơi Người không có một khiếm khuyết nào vì thế việc ta ca tụng, thờ lạy… và tuân giữ các giới răn của Người là đang đi trong đường lối của sự sống, của yêu thương. “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang lại cho chúng con ơn cứu độ” (Kinh tiền tụng chung IV).

Vì vậy, học biết giáo lý Tin mừng là một việc hết sức cần thiết trong đời sống người tín hữu. Có hiểu biết Chúa, rõ ràng Ý Chúa thì ta mới có thể thực thi trong đời sống mình. Có cảm nhận Chúa yêu thương thì ta mới có thể sống bình an và hạnh phúc vì ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa. Mặt khác, học giáo lý cũng là phương thế cho người tín hữu truyền giáo. Một đời sống đạo vui tươi, bình an, yêu thương anh chị em chính là một bằng chứng hùng hồn về đời sống đức tin. Có thể dưới bàn tay dẫn dắt của Chúa, đời sống đức tin của người tín hữu lại là một sự khởi đầu cho việc tìm hiểu về Chúa của những anh chị em lương dân.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 59: SÁCH KHÔN NGOAN

Đây là cuốn sách viết sau cùng trong Cựu Ước và có nhiều điểm giáo huấn rất gần với Tân Ước.

1/ Giáo huấn: Sách Khôn ngoan mạc khải sáng tỏ một số điểm như:

Sau khi chết những kẻ lành sẽ được sống lại với Thiên Chúa mãi mãi.

Quan niệm cổ truyền cho rằng: không con là điều bất hạnh và tên tuổi sẽ bị mai một. Sách Khôn ngoan cho biết, người không có con cái mà đạo đức có thể sinh hoa trái là việc thiện và sẽ được Chúa thưởng công.

Sách Khôn ngoan cũng hình dung được đức khôn ngoan như một ngôi vị, có nguồn gốc cao siêu, hoạt động thâm thúy và rất gần với Thiên Chúa.

2/ Sách Khôn ngoan với chúng ta:

Nhiều đoạn sách Khôn ngoan có thể xa lạ đối với chúng ta. (như chuơng 10-19 chẳng hạn), nhưng 1-5 rất hữu ích để giúp ta hiểu ý nghĩa giá trị cuộc sống. Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và nhân từ, Ngài hướng dẫn tất cả. Người công chính có thể gặp thử thách nhưng sẽ được phần thưởng huy hoàng. Sách Khôn ngoan giúp ta giữ vững niềm tin và can đảm. Nền tảng của sự khôn ngoan là kính sợ Thiên Chúa.

Lời Chúa:“Vậy phàm ai nghe các lời nầy của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Mưa đổ, sóng tràn, gió lùa vào nhà ấy, nhưng nó không sập, vì nó có nền móng trên đá.” (Mt 7, 24-25).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, khôn ngoan đích thực là biết kính sợ Chúa. Xin Chúa thương ban cho chúng con sự khôn ngoan nầy để chúng con nhận ra Thánh ý Chúa trong đời sống và can đảm thi hành. Amen.

SỐNG ĐẠO

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi."
(Mk 3:35).

Truyện kể trong một tu viện Phanxicô có một thầy trợ sĩ chuyên làm nghề thợ may áo dòng cho các thầy. Ngày thầy Leon sắp từ giã cõi trần, các thầy khác vây quanh cầu nguyện cho kẻ liệt. Bỗng thầy nói: Xin đem cho tôi chiếc chìa khóa mở cửa thiên đàng. Người ta đem đến cho thầy cuốn: Chìa Khóa Mở Cửa Thiên Đàng. Thầy lắc đầu. Người ta lần lượt đưa cho thầy: Thánh giá, qui luật, tràng hạt, nhưng cũng không phải. Ai cũng ngỡ ngàng! Sau cùng có một thày đoán ra và đi tìm chiếc kim khâu mà thầy Leon đã dùng bao năm qua. Mặt thầy sáng lên nở nụ cười mãn nguyện. Thầy nói: Hỡi bạn cũ kỹ, chúng ta đã làm việc nhiều nhưng tôi đã hiến dâng mọi công việc để rạng danh Chúa. Giờ đây sự ràng buộc đã hết, bạn là chìa khóa mở cửa thiên đàng cho tôi. Nói rồi, thầy tắt thở. Nở nụ cười trên môi.

1. Thao Thức

Mỗi người có những thao thức sống đạo khác nhau. Có những người được Thiên Chúa yêu thương ấp ủ ngay khi mới mở mắt chào đời như thánh Nữ Maria Goretti và thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Có những vị đã trải qua bao đau thương dằn vặt tìm kiếm, cuối cùng đã nhận biết tình yêu của Chúa như thánh Phaolô và thánh Augustinô. Có những bậc tìm kiếm Thiên Chúa qua những suy tư thần học và triết học như thánh tiến sĩ Thomas Aquinô và thánh Bonaventura. Chúa đến với mỗi người một cách khác nhau. Điều quan trọng là tâm hồn của chúng ta có dám mở cửa đón Chúa vào hay không.

Có những người đón nhận Chúa cách rất đơn sơ qua những kinh nguyện và những sinh hoạt đời thường. Có những người cần những bước xa hơn và cao hơn để gặp gỡ Chúa như canh thức, đi cấm phòng, đi hành hương hay viếng thăm đất thánh. Lại có những người gặp gỡ Chúa nơi tha nhân ngay chỗ làm việc và hội họp. Có những người cần có liều lượng mạnh hơn như phải dấn thân vào các hoạt động tôn giáo và xã hội. Có những người tìm kiếm Chúa mọi nơi và họ thích những cách thế mới lạ để tìm gặp Chúa một cách cụ thể có thể sờ chạm được. Biết rằng không phải chúng ta cứ vào nhà thờ hay tụ họp đọc kinh là chúng ta gặp gỡ được Chúa. Có nhiều lúc tâm hồn chúng ta chạm đến Chúa qua lời kinh đơn sơ, qua một nụ cười với tha nhân, qua một cử chỉ yêu thương với người khác hay một câu nói xây dựng sự hiệp thông.

2. Sống Niềm tin

Dân Do-Thái xưa, được Chúa yêu thương dẫn dắt từng bước trong sa mạc về Đất Hứa. Khi vào đất hứa rồi, dân dần dần sống xa Chúa, tôn thờ các thần ngoại bang và rơi vào các thói tục của dân ngoại. Chúa đã sai gởi các tiên tri mời gọi Dân Chúa trở về nhưng chứng nào vẫn tật đó. Họ bị kéo lôi và xuôi theo những nhu cầu khao khát của bản năng con người và cứ thế họ cứ từ từ xa Chúa. Chúa cảnh cáo họ, rồi ra hình phạt, bắt đi lưu đầy và chịu mọi cơ cực lưu đầy. Đau khổ đến cùng tận, dân Chúa vẫn còn hy vọng và họ lại ăn năn sám hối trở về. Chúa vẫn yêu thương ấp ủ và tha thứ. Cuộc sống đạo của mỗi người chúng ta cũng giống như những người Do-thái thời xưa. Chúng ta cũng nhiều lần thờ ơ sống đạo. Chúng ta đã lạc xa Chúa tìm kiếm nơi nương tựa là của cải phù vân. Chúa mời gọi chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Chúng ta càng sống đạo lâu, càng phải cố gắng nhiều hơn. Chúng ta cần cầu nguyện, trau dồi sự hiểu biết về đạo và thực hành sống đạo nhiều hơn. Để củng cố lòng tin, chúng ta cần có những tổ chức sinh hoạt, tham dự học hỏi và phấn khích niềm tin.

Có nhiều người chân thành nhận biết Chúa một cách rất đơn sơ như các mục đồng khi xưa nơi hang Belem. Có nhiều người cảm nghiệm tình yêu của Chúa qua đời sống gia đình và nơi con cái. Có người nhận biết Chúa qua lời cầu kinh và kinh đẹp nhất là kinh “Lạy Cha”. Có người nhận ra Chúa qua ơn Chúa Thánh Thần đánh động trong tâm hồn. Thiên Chúa đã mời gọi mỗi người tham dự vào chức vị làm con Chúa. Khi nhận biết và tin theo Chúa, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa. Theo Chúa lúc thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi: Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc. 9:23).

3. Theo Đạo

Theo đạo, giữ đạo, sống đạo và hành đạo phải là một cố gắng không ngừng. Cuộc sống đạo là một hành trình đi về nhà Cha. Chúng ta cũng không thể gấp gáp đòi hỏi mọi người phải hoàn thiện ngay được. Thời gian là thuốc chữa tất cả các chứng bệnh trong đời sống. Có những người theo đạo cả cuộc đời nhưng chẳng thấu đáo lẽ đạo. Có những người giữ đạo rất cẩn thận, tỉ mỉ chu toàn các giới răn của Chúa, thi hành điều luật của giáo hội nhưng tâm đạo thì nguội lạnh, thờ ơ. Có những người sống đạo lấy lệ, đôi khi còn khoe là đạo gốc ba bốn đời nhưng không thực hành đạo. Có những tín hữu, nhìn xem hình thức bề ngoài rất tốt, họ tham gia mọi sinh hoạt cộng đoàn nhưng thiếu lòng bác ái yêu thương. Như thế để trở thành một người Kitô hữu tốt, phải là người có tâm đạo và sống thực với niềm tin của mình. Niềm tin đối với Thiên Chúa và với tha nhân.

Mức độ tìm kiếm Chúa nơi các tín hữu rất khác biệt. Có những người thông thái tìm kiếm Chúa trong sách vở và lý thuyết. Có người tìm kiếm Chúa nơi các khoa học, họ muốn một Thiên Chúa cụ thể và có chứng nghiệm, đôi khi họ tìm mãi mà chẳng gặp. Có những người tìm kiếm Chúa nơi những suy tư triết học, những chiêm niệm sâu lắng. Có những người gặp Chúa ngay khi mở mắt nhìn những kỳ công của Chúa. Chúng ta biết rằng Chúa đã không mặc khải cho những kẻ khôn ngoan biết những mầu nhiệm của nước trời nhưng tỏ ra cho những kẻ bé mọn. Đây là cách thế Thiên Chúa đã dùng để tỏ lộ và sống với con người. Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25).

4. Giữ Đạo

Hôm rồi tôi đi bác sĩ, sau khi khám và chẩn bệnh, đương nhiên là ai trong người chẳng có chút tật này bệnh nọ. Tôi hỏi bác sĩ là có cần uống thuốc không? Bác sĩ nói rằng không nên uống thuốc khi không cần thiết. Khi uống quen thuốc rồi, sẽ phải uống tiếp. Nếu chúng ta dùng loại thuốc nào, chúng ta cứ phải dùng hoài và càng dùng càng phải lên đô. Nhu cầu của thân xác cũng như những nhu cầu đòi hỏi của tinh thần. Thân xác con người có những nhu cầu cần đáp ứng, nhất là sự yếu đau bệnh tật. Mỗi người cần dùng những liều lượng thuốc khác nhau. Khi những người không quen dùng thuốc chỉ cần uống một vài viên thuốc như Aspirin cũng có hiệu qủa và khỏi bệnh. Bệnh nào thuốc đó, thuốc đắng giã tật mà. Thuốc dùng để phòng bệnh và chữa bệnh, để giúp thân xác được khỏe mạnh. Ai trong chúng ta cũng phải dùng thuốc. Thuốc chữa bệnh, thuốc ngừa bệnh, thuốc tăng sinh lực và thuốc giúp điều hòa sự lưu chuyển máu huyết trong cơ mạch.

Thuốc thang giống như ơn thiêng cần có cho linh hồn. Ơn thiêng giúp chúng ta tăng nguồn sinh lực sống đạo. Như cành nho nối kết với cây để có sự sống, chúng ta liên kết với Chúa và với nhau để truyền lan sự sống thiêng liêng.

5. Sống Đạo

Nhìn chung qua cách sống đạo, chúng ta nhận thấy rằng có nhiều thành phần tham dự vào đời sống Giáo Hội khác nhau. Có một số người thì thích gia nhập nhiều Hội Đoàn, lòng chay nào cũng có nước mắt. Họ muốn tham dự vào mọi biến cố và dịp lễ của cộng đòan giáo xứ. Nhưng trái lại cũng có rất nhiều tín hữu đang sao lãng việc giữ đạo và hành đạo. Một số người chỉ đến nhà thờ vào vài dịp lễ lớn hay dịp có ấn tượng như lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Rước Lễ Lần Đầu và Bí Tích Thêm Sức. Họ tham dự một năm vài lần vào dịp Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Phục Sinh và Lễ Quan Thầy … Nhiều người không còn đến nhà thờ thường xuyên nữa. Họ không muốn tham dự vào bất cứ đoàn thể hay sinh hoạt nào của giáo xứ.

Nhiều người vẫn muốn mang danh là người Kitô Hữu nhưng niềm tin và cuộc sống còn khoảng cách rất xa. Tôi gặp rất nhiều anh chị em tín hữu thường đi tham dự các cuộc hội họp, cầu nguyện và cả tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Đi vào đời sống cụ thể, tôi cũng không hiểu cách thực hành đạo thế nào mới là thích hợp. Vấn đề bức xúc nhất, vẫn là vấn đề cuộc sống hôn nhân gia đình. Phần lớn những người đến từ Nam Mỹ, họ quan niệm và sống rất tự do về vấn đề hôn nhân. Họ có con, có cháu, có bà nội, bà ngoại nhưng các con cháu ít biết về ông và bố. Vai trò của người đàn ông không còn quan trọng nhiều trong gia đình. Có rất nhiều người mẹ đơn chiếc (single mother) nuôi dậy và giáo dục con cái. Họ vẫn cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc.

Cách sống thử và tạm thời trong cuộc sống lứa đôi đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến lớp trẻ Á châu. Những năm qua, đã có nhiều bạn trẻ Việt đang chạy theo kiểu sống vội này. Các bạn trẻ dần dần rời xa nền văn hóa truyền thống gia đình tốt đẹp. Có nhiều người trẻ muốn có con mà không muốn lấy chồng. Có người thì sống chung với nhau như bạn trai, bạn gái không có hợp luật và hợp lệ. Có nhiều bạn trẻ công giáo chỉ làm giấy hôn thú ngoài tòa đời và không muốn dấn thân sống đời hôn nhân trong Bí Tích Hôn Phối. Mục vụ nói gì bây giờ. Phải rất tế nhị khi đặt vấn đề với họ. Nên thánh hay sống thánh là một tiến trình và từng bước tiến gần tới Chúa. Nếu chúng ta không quan tâm tới họ, họ sẽ buông xuôi luôn. Và chúng ta sẽ không có cơ hội gặp lại. Chúng ta chỉ còn biết phó thác vào lòng nhân lành của Chúa.

6. Hành Đạo

Hôm đó, đi tham dự thánh lễ về, chị buồn và nói rằng giá đừng đi lễ và đừng nghe giảng thì lương tâm đâu có bối rối. Tôi hỏi sao thế? Chị ta nói rằng hôm nay cha giảng về đức công bằng và sự thành thật. Mà cuộc sống này làm sao mà áp dụng chứ. Nếu cứ công bằng đóng thuế cho nhà nước, thì lấy gì mà ăn. Đây là tâm trạng chung của nhiều người tín hữu. Khi đi tham dự thánh lễ, nếu cha giảng nói về luân lý đạo đức thì nhiều người không vui. Họ lại than phiền rằng cha nói bóng nói gió về mình, chứ không lo tự xét mình thế nào. Vậy là họ tẩy chay cha xứ và không muốn nghe cha giảng nữa. Thực hành đạo là đời sống đi đôi với lời nói và việc làm. Biết rằng chúng ta không thể ngày một, ngày hai có thể thực hành tốt mọi điều luật truyền dạy. Có khi cả đời chúng ta cũng chưa tập tành được một nhân đức nhưng sự cố gắng tiến lên trọn lành là điều quan trọng.

Có một số người lý luận rằng tôi không đi xưng tội nữa, vì tôi xưng rồi, sau lại tái phạm. Tôi đâu có giữ được lời hứa, vậy tôi xưng tội để làm chi? Đúng thế, có những tội, chúng ta xưng đi xưng lại cả đời mà cũng chẳng chừa được. Nhưng sống và hành đạo cũng như chúng ta ăn cơm mỗi ngày, ăn rồi lại đói, đói rồi lại phải ăn. Hoặc hôm nay chúng ta tắm rồi, mai lại tắm nữa. Cuộc sống là những chuỗi giây kết hợp đi tới. Khoảng đời đã qua là đã đi vào qúa khứ. Chúng ta đang sống với những giây phút hiện tại. Sống giây phút này trong tình yêu của Chúa vẫn là một hồng ân. Tin đạo, theo đạo, giữ đạo, sống đạo và hành đạo phải luôn đan kết với nhau làm thành một đời sống. Sống đời Kitô Hữu là một dấn thân không ngừng. Bước theo Chúa Kitô không phải tùy hứng hay theo mùa nhưng là vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa. Thánh Phaolô nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Galát 2:20).

Nói tóm lại, chúng ta được mời gọi theo Chúa Kitô qua Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta cùng được chia sẻ một nguồn sống là ơn Chúa qua các kinh nguyện và hiệu qủa của các Bí Tích. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta sẽ gặp nhiều gian nguy, cám dỗ, thách đố, chịu đựng, khổ đau nhưng phần thưởng vinh quang đang đợi chờ chúng ta ở cuối đường. Chúng ta cùng chạy đua và hãy đua đến cùng đường và giữ vững đức tin trọn vẹn. Xin Chúa đổ tràn ơn thiêng xuống cho mỗi người, để chúng ta cùng được thông hiệp với Chúa như cành nho tháp nhập vào thân nho. Chúng ta sẽ cùng chung hưởng hạnh phúc muôn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng, Bronx, New York

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- TỔ CHỨC NỘI BỘ CỦA GIÁO PHẬN tt–

I. Tổ chức Giáo phủ

  1. Ngành Tài Chánh (x. nguyệt san tháng 5)
  2. Ngành Hành Chánh (x. nguyệt san tháng 6 và 7)
  3. Ngành Tư Pháp (x. nguyệt san tháng 8- )
Quyền tài phán
Các cấp toà án
Đối tượng xét xử
Đại diện tư pháp
Thẩm phán Giáo phận
Công tố viên/Bảo hệ viên
Thư ký

f. Công tố viên/ Bảo hệ viên

Đối với Công tố viên, Giáo luật điều 1430 quy định như sau:

Đối với những vụ án hộ sự trong đó công ích có thể bị lâm nguy cũng như đối với những vụ án hình sự, phải đặt một Công tố viên trong Giáo phận, Công tố viên có bổn phận lo cho công ích.

Đối với Bảo hệ viên, điều 1432 quy định:

Đối với các vụ án liên quan đến sự vô hiệu của việc truyền chức thánh hoặc liên quan đến sự vô hiệu hay sự phân ly của hôn nhân, phải đặt một Bảo hệ viên trong Giáo phận, vị nầy có bổn phận phải đề nghị và trình bày tất cả những gì có thể được dẫn chứng cách hợp lý để chống lại sự vô hiệu hay sự phân ly.

Như điều 1430 và 1432 của Bộ giáo luật vừa trích dẫn trên, các nhà chú giải Giáo luật thường phân các vụ kiện tụng thành hai loại:

  1. Thứ nhất: tranh tụng giữa các tư nhân với nhau hay còn gọi là tranh tụng tư pháp (hộ sự). Chẳng hạn: ông A đòi ông B bồi thường thiệt hại cho ông A vì những việc làm của ông B đã gây ra cho ông A; ông B nói rằng việc làm của ông không gây ra thiệt hại hay là ông có quyền làm việc đó…Ông A thấy mình bị thiệt hại nên kiện ông B ra toà nhờ thẩm phán xét xử.
  2. Việc tranh tụng thứ hai có ảnh hướng tới công ích, hay còn gọi là tranh tụng công pháp (hình sự). Chẳng hạn: anh C vi phạm luật của Giáo hội; các vụ xin tuyên bố sự thành hiệu của bí tích truyền chức thánh và hôn phối. Trong trường hợp tranh tụng tư pháp thì bên A kiện bên B, nhưng trong những vụ kiện tụng công pháp thì ai sẽ kiện tụng, hay là khởi tố? Dĩ nhiên anh C sẽ không dại gì mà đi kiện bản thân mình. Người khởi tố chính là Công tố viên, đại diện và bảo vệ cho công ích. Cũng vậy, đôi hôn nhân không còn muốn sống chung với nhau nữa, cùng đồng tình xin toà án hôn phối tuyên bố giá thú bất thành. Trường hợp nầy nếu thẩm phán không lắng nghe được những lý lẽ đối nghịch thì việc xét xử dễ bị lệch lạc. Vì vậy một chức vụ được đặt ra nhằm bảo vệ dây hôn phối, bảo vệ công ích chung được gọi là Bảo hệ viên.

Vì là người bảo vệ công ích nên các vụ án hình sự bao giờ Công tố viên cũng phải có mặt (x.đ.1430-1431). Cũng vậy, Bảo hệ viên bao giờ cũng có mặt trong các vụ án tuyên bố việc truyền chức thánh vô hiệu (x.đ.1708-1712) và tuyên bố hôn nhân bất thành (x.đ.1671-1691). Sự hiện diện nầy có tính cách thành hiệu, nghĩa là nếu họ vắng mặt thì bản án sẽ vô hiệu. Họ phải dự các buổi thẩm vấn, duyệt xét các chứng cứ, tài liệu và án văn (x.đ.1433).

Luật buộc Giám mục Giáo phận phải đặt Công tố viên và Bảo hệ viên trong toà án của Giáo phận (x.đ.1430 và 1432), nhưng không nhất thiết phải đặt cùng lúc hai người khác nhau cho hai giáo vụ nầy. Một người có thể vừa giữ chức vụ Công tố viên vừa giữ chức vụ Bảo hệ viên, miễn là không phải trong cùng một vụ án (x.đ.1436§1). Cũng vậy, hai chức vụ nầy có thể đặt lên để làm việc cho mọi vụ án hay là trong từng vụ án, nhưng các vị nầy có thể bị Giám mục bãi nhiệm vì lý do chính đáng (x.đ.1436§2).

Cả hai chức vụ trên đều được Đức giám mục Giáo phận bổ nhiệm, họ là giáo sĩ hoặc là giáo dân, miễn là người có thanh danh, khôn ngoan, nhiệt hành với công lý và có bằng tiến sĩ hay cử nhân giáo luật (x.đ.1435).

g. Thư ký

Giáo vụ Thư ký toà án được Đức giám mục Giáo phận bổ nhiệm, có thể là một giáo dân hay là một giáo sĩ, nhưng trong những vụ án liên quan tới thanh danh của một tư tế, Thư ký phải là một tư tế (x.đ.483§2).

Thư ký toà án là người chịu trách nhiệm về thể thức của thủ tục, ghi chép các sự việc, chứng thực những lời khai viết tay của nguyên đơn và bị đơn, đánh số và ký vào mỗi trang giấy của tập hồ sơ (x.đ.1472§2). Trong trường hợp kháng án, Thư ký có trách nhiệm chứng thực các văn kiện và chuyển lên toà trên. Nếu án từ viết bằng một ngôn ngữ mà toà cấp trên không biết, thì Thư ký có trách nhiệm phải dịch ra một ngôn ngữ khác mà toà đó biết (x.đ.1474). Sau cùng, đối với các hồ sơ riêng tư phải trả lại cho chủ nó sau khi kết thúc vụ án, thì Thư ký chỉ trả lại sau khi đã giữ lại bản sao có chứng thực trong hồ sơ của vụ án đó (x.đ.1475§1).

TRANG LINH MỤC

BÂY GIỜ CON GHIỀN CHÚA

Cha mẹ bạn theo đạo Tin Lành được hơn một năm, riêng bạn chưa có đạo và muốn kết hôn với một người có đạo Công Giáo nên đồng ý đi học giáo lý cho xong chuyện. Sau vài tuần học giáo lý bạn nói rằng:

- Con không ngờ đạo dạy những điều hay quá.

Tôi nghĩ thầm chắc bạn khen theo kiểu ngoại giao đấy thôi. Cho đến một hôm, một hôm trời mưa thật to, sấm chớp rền trời và tôi nghĩ mình được nghỉ dạy giáo lý một bữa, ai ngờ bạn khoác áo mưa lững thững đi tới làm tôi giật mình. Buổi học giáo lý hôm ấy làm tôi hơi thẹn với bạn và nghĩ rằng Chúa đã chinh phục được bạn rồi. Sau ba tháng học giáo lý bạn chia sẻ cảm nghiệm của mình:

Bây giờ con ghiền Chúa.

- Tôi hỏi : Xưa nay người ta nói ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền cà phê …cha mới nghe nói ghiền Chúa lần dầu tiên! Vậy ghiền Chúa nghĩa là sao con?

Bạn trả lời : ghiền Chúa nghĩa là hay nghĩ đến Chúa, và ngày nào không đến nhà thờ con cảm thấy thiếu một cái gì đó.

Tôi nói: Cha nghe nói có một cuốn sách viết về một người từ say rượu đến say Chúa, cha hy vọng con đã ghiền Chúa thì đừng bao giờ bỏ Chúa nghen.

- Dạ! Con xin hứa. Bạn trả lời như một lời tuyên thệ trước mặt tôi.

Thế rồi sau khi lập gia đình, bạn vẫn tiếp tục “ghiền Chúa” chứ không bỏ Chúa như người ta thường mỉa mai:” Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi, cưới được vợ rồi con thôi nhà thờ “. Bạn được cha mẹ cho ra riêng và cất một cái chòi ven sông để buôn bán. Tiệm của bạn còn lụp sụp nhưng lúa nào cũng đông khách, có lẽ nhờ “ghiền Chúa” mà bạn luôn vui vẻ tử tế có sức hút với mọi người.

Bẵng đi một thời gian, cha mẹ bạn đến gặp tôi và xin trở lại đạo công giáo. Tôi hỏi lý do và được biết chính nhờ cách sống của bạn làm cha mẹ bạn phải suy nghĩ và thay đổi cách nhìn về đạo, cuối cùng họ quyết định xin học giáo lý. Và thật vui mừng, ngày rửa tội cho con bạn cũng là ngày ông bà nội của nó được chính thức trở thành con cái Chúa.

Khi tôi viết những dòng này thì tôi không còn ở chỗ cũ nữa mà được thuyên chuyển đến một nơi khác. Nhưng tôi biết bạn vẫn còn bám trụ ven sông và lời bạn hứa với tôi vẫn không thay đổi, bởi vì một khi đạo đã ăn sâu thấm vào xương tủy làm sao mà bỏ. Và tôi tin rằng với cách sống “ghiền Chúa” của bạn sẽ có sức hút và chinh phục nhiều người về với Chúa được. Tôi thầm cám ơn Chúa đã ban cho có những con người như thế và như một lời nhắc nhở cho tôi, Linh mục phải biết “ghiền Chúa” hay nói cách khác phải biết say mê Thiên Chúa để trở thành nhân chứng cho Ngài

TRANG TU SĨ

CHỨNG NHÂN SỰ THẬT

Hạ Vy được sinh ra trong một mái ấm, gia đình tuy chỉ tạm đủ ăn nhưng được sự quan tâm giáo dục thật chu đáo của gia cha mẹ. Ngay từ tuổi thơ, Hạ Vy được mẹ dẫn đi dự Thánh lễ hằng ngày. Tuy chưa đến tuổi khôn, nhưng Hạ Vy cũng đã được cha mẹ gieo vào tâm hồn tư tưởng không tham lam, không gian dối. Với thời gian, Hạ Vy lớn lên được học giáo lý qua các lớp do các Dì phụ trách: Khai tâm, Rước lễ vỡ lòng, Thêm sức… Nhờ sự động viên và kiểm tra của cha mẹ, Hạ Vy thường là học sinh giỏi trong các lớp giáo lý; luôn thuộc bài và được giải nhất trong các kỳ thi Giáo lý của giáo xứ.

Cuối hè năm lớp 9, sau khi nhận được giải thưởng thi Giáo lý, Hạ Vy đến cám ơn Dì Hai Phụ trách lớp và xin phép nghỉ học Giáo lý vì gia đình chuyển về thành phố. Dì Hai hỏi:

- Kỳ thi vừa qua con được giải nhất là nhờ bài nào?

- Thưa Dì Hai, con được điểm 10 là do con thuộc và hiểu bài “ Đức Công Bằng”. Con nhớ hôm ấy, Dì Hai cắt nghĩa bài rất kỹ, nên con trả lời câu nào cũng đúng. Con cám ơn Dì Hai nhiều… Bước lại gần bên Dì Hai, Hạ Vy lễ phép thưa:

- Xin Dì Hai cầu nguyện cho con lên thành phố được ngoan và học giỏi như ở đây.

Dì Hai ân cần nhắc nhở Hạ Vy:

- Cuộc sống ở chốn thị thành phức tạp lắm, những gì con đã học hiểu qua các lớp Giáo lý: con hãy sống như thế. Chúa sẽ chúc lành cho con. Chúc con luôn học giỏi, là con ngoan của cha mẹ. Dì Hai sẽ nhớ cầu nguyện nhiều cho con. À! Chuyển trường, đổi lớp, học hành thế nào! Con nhớ cho Dì Hai biết nha Hạ Vy.

- Dạ! Con cám ơn Dì Hai nhiều. Dì Hai ở lại mạnh khỏe nha.

- Thưa Dì Hai con về.

Vừa bước ra khỏi nhà Dì khoảng 5 phút, Hạ Vy vội vã chạy vào trên tay cầm một cái bóp và nói:

- Thưa Dì Hai, con nhặt được bóp nầy gần cổng Nhà thờ. Con đưa Dì Hai giữ, ai đánh rơi cho họ xin lại. Con nghĩ là chắc họ lo lắng lắm.

Dì Hai hỏi:

- Có cái gì trong đó vậy con.

- Dạ! Con thấy có nhiều tiền và giấy tờ. Có điện thoại di động nữa.

Dì Hai bước lại cầm tay Hạ Vy và nói:

- Con ngoan lắm, nhặt của đánh rơi mà biết làm thế nầy thật tốt. Dì Hai sẽ nhờ Cha Sở thông báo để ai mất cho họ xin lại.

Qua 2 năm lên thành phố học, cuối năm lớp 11, được tin Ông Nội mất. Sau khi về thọ tang Ông. Hạ Vy đến thăm Dì Hai, Dì Hai rất mừng khi gặp lại học trò ngoan. Dì Hai hỏi:

- Sao! Hạ Vy, Ba mẹ con có khỏe không? Lên thành phố con học giỏi không?

- Dạ! Ba mẹ con vẫn khỏe. Học tập thì con luôn chuyên cần nhưng kết quả chỉ đạt trung bình thôi.

- Sao vậy con? Dì Hai nhớ khi ở đây con luôn là học sinh giỏi của trường mà.

- Dạ! Lên thành phố, ba mẹ con đi làm ở xí nghiệp nên con phải lo phụ việc nhà với mẹ con hằng ngày. Hơn nữa, lớp con chỉ có số ít bạn biết lo học; phần nhiều các bạn cóp bài, mình hiền lành ngay thẳng thì thua thiệt. Con nhớ Dì Hai dạy con rất kỹ về sự tham lam, gian dối, gạt gẫm, ăn gian ... khi học về đức công bằng đó, nên con không dám làm theo các bạn. Chấp nhận học trung bình mà lương tâm con bình an. Con rất tự hào vì con sống những gì con đã được học qua các lớp Giáo lý tại quê nhà.

Ánh mắt Dì Hai trìu mến và cảm động nhìn người học trò ngoan với lòng đầy khâm phục. Những gì Hạ Vy đã học ở lớp Giáo lý thì Hạ Vy đang thực hành trong đời sống của mình. Có thể nơi trường đời hôm nay Hạ Vy thua thiệt bạn bè, nhưng tâm hồn của Hạ Vy luôn ngời sáng và bằng an; nhất là Hạ Vy đã trở thành chứng nhân của một xã hội đầy gian dối giữa lòng đã trở thành chứng nhân của một xã hội đầy gian dối giữa lòng

TRANG ƠN GỌI

TÌNH BẠN TRONG ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Giữa phố xá ồn ào đông người qua lại, xe cộ dọc ngang, người ta có thể nhìn thấy ngày càng nhiều những khuôn măt ngơ ngác và lạc loài. Hình như con người, khi bận tâm cho mình nhiều thứ, lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn. Và giữa một thế giới đông vui tấp nập, nhiều người lại cảm thấy khó khăn để tìm được người đồng cảm.

Giữa dòng người ngược xuôi, có rất nhiều linh mục tu sĩ cùng chung bước. Họ có cô đơn chăng? Xem ra câu hỏi hơi có vẻ “xúc phạm” vì ai dám bảo nhưng người sống đời tu lại cô đơn, bởi họ luôn có Chúa bên cạnh cơ mà! Đúng vậy, khác với mọi người, những người linh mục, tu sĩ khi lựa chọn sống đời thánh hiến, họ hiểu rằng cuộc đời mình phải được đặt trong tương quan mật thiết với Chúa, với tất cả tâm hồn, tấm lòng, trí khôn. Ngài phải là bạn đời, bạn đường của họ. Và nếu Thiên Chúa thực sự được lựa chọn cách triệt để như thế thì ta có lý để nói rằng các linh mục, tu sĩ khó mà cảm thấy cô đơn.

Tuy nhiên, giống như tất cả mọi người, dấu hiệu của sự cô đơn nơi những người sống đời thánh hiện vẫn không thiếu. Không ít các bạn trẻ khi có dịp tiếp xúc và quan sát các cha, các thầy… đã kêu lên: “Sao mà nghiêm quá, sao mà kín quá, sao mà khó gần quá, sao mà buồn rầu quá chẳng thấy muốn tiếp xúc với ai cả…”. Tất nhiên đây chỉ là những cảm nhận thiên về mặt cảm xúc và nhiều khi phụ thuộc vào nhận định cá nhân chủ quan (vì vui quá cũng có khi ta lại bị gán cho tính cách “hời hợt, nhẹ dạ”…), nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ra rằng: có những biểu hiện về cảm xúc nơi những người sống đời thánh hiến xem ra “không ổn”, khi họ đóng kín mình hay chỉ “mở ra” cho một vài đối tượng nhất định trong sự kín đáo và “bí mật”. Trường hợp này còn xảy ra theo kiểu “bạn riêng”, “yêu riêng” một vài đối tượng, và còn mang một nguy cơ khác là gây hiểu lầm hay gây tranh cãi về các bệnh tâm lý (lệch lạc tính dục) trong “giới nhà tu”.

Có rất nhiều định nghĩa về tình yêu, tình bạn. Có rất nhiều dạng biểu hiện của tình yêu, tình bạn. Khi nói về tình bạn của những người sống đời thánh hiến, chúng ta tạm hiểu rằng: Tình bạn là một khía cạnh của tình yêu thương và của lòng bác ái Kitô giáo. Trong đời tu, cùng những người bạn chung lý tưởng, ta có thể chia sẻ, tin tưởng, tâm sự và hiệp thông. Như một phương tiện tự nhiên, tình bạn có thể giúp ta vượt lên trên nhiều hoàn cảnh khó khăn hay trong những thử thách nhờ sự nâng đỡ, khích lệ, cảm thông. Tuy vậy, không phải tự nhiên với bất kỳ ai, ta cũng có thể yêu thương và cảm thông hoàn toàn. Để có thể chia sẻ tình cảm bạn bè, phải biết tìm kiếm người khác dựa trên những gì chung về sở thích, quan điểm, ước mơ. Tình bạn theo kiểu tu đức có nét đặc biệt hơn, vượt qua những gì có vẻ tự nhiên vì có sự hiện diện của Đức Ái, dựa trên sự đồng nhất về tinh thần Tin Mừng hay đặc sủng, và là một nhân đức thay vì là một hoạt động “hữu nghị” và thoả hiệp “đôi bên cùng có lợi” như trong nhiều kiểu tương quan khác. Đó là một kiểu sống hiệp thông trong sự hiện diện của Chúa Kitô, là mối tương quan liên vị với Thiên Chúa và với người khác qua đời sống cộng đoàn.

Sẽ có ý kiến hỏi rằng: Tại sao lại nói về sự cô đơn trong khi nói về sống chung nơi cộng đoàn? Thực tế ta có thể thấy rằng nơi đời sống chung luôn tiềm ẩn những nguy cơ của sự phân cách hoặc tách nhóm riêng vì sự khác biệt độc đáo của nhiều cá nhân, hay vì nhiều nguyên nhân mang tính nhân loại mà nhiều khi sức mạnh tinh thần không thể vượt qua. Chúng ta có thể nói đến những sự thoái hoá sau:

Một thoái hoá đầu tiên là cảm thấy tình bạn trong Chúa Kitô như là một biểu hiện của bổn phận hay sự bắt buộc vào thế “chẳng đặng đừng”: “Chúng tôi sống cùng với nhau trong cộng đoàn vì nghĩ là được Chúa gọi, và chúng tôi phải sống cuộc sống ấy như là một biểu hiện của sự hiệp thông, không còn cách nào khác để lựa chọn!”. Bản chất của sự thoái hoá này là thiếu khoé nhìn về đức tin và ân sủng, và chỉ cảm thấy người khác với mình là một định mệnh, là gánh nặng đời mình; sống chung với nhau là một sự chịu đựng dai dẵng hơn là một món quà sự sống cần chia sẻ và là một hồng ân cần khám phá và tạ ơn.

Biểu hiện thứ hai của tình bạn trong Chúa Kitô bị thoái hoá là quan niệm cộng đoàn được hình thành như một kiểu tổ chức để hoàn tất một công cuộc. Chủ trương “đoàn kết là sức mạnh” xem ra thích hợp với kiểu cộng đoàn này, vì như vậy người ta có đủ nhân sự, có thể hợp tác để hoàn thành chương trình, kế hoạch. Điều này có thể là một sự cám dỗ tinh tế và nguy hiểm bởi vì dựa vào cảm xúc về lòng quảng đại dựa trên sự chia sẻ công việc theo khả năng riêng. Đây cũng là biểu hiện của căn bệnh “duy hoạt” thời nay trong đời sống cộng đoàn thánh hiến: chỉ dựa vào công việc, chỉ cần làm được việc là vào guồng máy, còn ai không có khả năng thì nằm ngoài lề và cô đơn; hoặc là “việc anh anh lo, việc tôi, tôi làm”, miễn sao công việc “chạy” là được!

Biểu hiện thứ ba của sự thoái hoá tình bạn nơi đời sống thánh hiến có thể thoát thai từ quan niệm xem cộng đoàn như là một nơi tạm trú lý tưởng, một chổ để mình trốn thoát khỏi thế giới phức tạp. Điều nguy hiểm nằm ở chổ là cá nhân sẽ tìm kiếm trong cộng đoàn điều họ xem là tốt lành và thích hợp cho mình là hạnh phúc mà cả cộng đoàn phải tìm kiếm và xây dựng; và từ các sở thích cá nhân tương hợp sẽ hình thành một sở thích tập thể “dị biệt” theo nhóm loại trừ (chỉ có vài thành viên cùng sở thích với nhau). Sở thích này dần dần kéo họ ra khỏi mối bận tâm về sứ mạng được giao phó bởi vì chỉ nghĩ đến những gì được cảm nhận và quan tâm theo kiểu riêng, bỏ qua một bên những ai hơi khác biệt mình.

Thiên Chúa tạo dựng con người để sống hiệp thông. Có lẽ vậy sự cô đơn của con người là dấu chứng của sự dữ và là một bi kịch. Có một người nói đùa rằng Chúa Kitô gọi mười hai tông đồ không phải vì ngài sợ cô đơn khi phải làm người, hay vì mưu toan chứng minh mình là con Thiên Chúa có quyền phép và cần được nhìn nhận, tung hô từ đám thuộc hạ. Ngài chỉ muốn loan truyền một tình yêu huynh đệ, sự hiệp thông đại đồng, chia sẻ cuộc sống, trao ban và hy sinh bản thân mình vì người khác... là những điều xem ra “bất khả thể” với con người mọi thời. Với Thiên Chúa, điều này là khả thể, và cùng với Ngài, con người có thể nói chung một tiếng nói - Tiếng của tình yêu thương - trong sự khác biệt và đa dạng vậy.

Lê An Phong, SDB - Nguồn: donboscovn.org

TRANG THIẾU NHI

NHỚ VỀ THẦY CÔ GIÁO LÝ VIÊN

LỊCH SỬ NGÀY NHÀ GIÁO được khai sinh từ một Tổ Chức Quốc Tế của các Nhà Giáo Tiến Bộ ở Paris thành lập vào tháng 7-1946. Tổ chức này lúc đầu lấy tên là FISE: Féderation International Syndicale des Enseignants – Liên Hiệp Quốc Tế Các Cộng Đồng Giáo Dục. Năm 1949, tại hội nghị Vacxava (thủ đô Ba lan), tổ chức FISE đưa ra một “Hiến chương các nhà giáo” gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là: đấu tranh chống nền giáo dục tư bản, phong kiến, xây dựng nền giáo dục tiến bộ, bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo, đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề dạy học và nhà giáo.

Ngày xưa, ngày Nhà Giáo được nhắc đến như một điểm nhấn về vai trò trách nhiệm của nhà giáo, về quyền lợi của thầy cô. Ngày nay tinh thần đó vẫn còn nhưng có phần gia giảm để nhường chỗ cho những tình cảm thầy trò sẵn sàng bày tỏ cùng nhau. Ngày nay, ngày Nhà Giáo lại là điểm hẹn của những chân tình mà thầy trò tự do trải lòng mình trong những năm tháng dạy và học. Cách riêng dành cho những học trò muốn bày tỏ tấm lòng nhớ về những công ơn thầy cô đã nuôi dạy mình khôn lớn. Thầy cô nơi giảng đường là gương mẫu cho học trò thì thầy cô Giáo lý viên cũng phải là chứng nhân cho Tin Mừng Nước Chúa.

Công ơn Cô Thầy nào ai kể siết. Khi nhỏ, người học trò cũng biết và hiểu về ơn nghĩa thầy cô lắm. Nhưng khổ nỗi ta không biết dùng ngôn từ nào để diễn tả, không biết xử sự thế nào cho xứng hợp. Muốn nói rất nhiều mà lại chẳng nên câu, muốn bày tỏ tấm lòng mà lại không biết cách. Trong tâm tình nhớ ơn thầy cô, ta cùng nhau suy nghĩ và nhớ về những thầy cô là những người đã ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

Có nhiều hình ảnh diễn tả khi nói về thầy cô. Anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian. Giáo lý viên không chỉ truyền đạt những kiến thức mà còn làm chứng cho một niềm tin. Hình ảnh muối và ánh sáng gợi cho ta nhớ về những hy sinh thầm lặng mà những thầy cô phải trải qua. Có ba hình ảnh thường được nhắc khi nghĩ về những hy sinh âm thầm đó: Thầy cô là kỷ sư tâm hồn, là người đưa đò thầm lặng và là nốt trầm xao xuyến.

Kỹ sư tâm hồn

Nếu cha mẹ là thầy dạy đầu tiên cho con cái thì thầy cô là người tiếp nối công việc đào luyện khá dài cho học sinh. Người kỷ sư tâm hồn luôn miệt mài trong việc tập tành, hướng dẫn, uốn nắn. Niềm vui của Thầy là niềm vui của trò khi tung tăng cắp sách đến trường, khi hí hoái làm tốt bài kiểm, khi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Rồi người kỷ sư tâm hồn cũng có những nỗi buồn khi các cô cậu học trò quậy phá, chịu đựng cảnh học sinh vô lễ với những lời lẽ và hạnh động không hay. Nếu nghiêm khắc thì trò cho mình là “khó ưa”. Nếu cố gắng làm cho tốt mọi việc thì bị cho là “quá cứng nhắc”. Làm kỷ sư bình thường khi chế tạo vật gì thì thật khoẻ, bởi nếu không tốt, không hoàn chỉnh thì huỷ đi và làm cái khác. Làm kỷ sư tâm hồn thì không thể được. Kỷ sư tâm hồn phải biết đối diện để khắc phục những tình trạng khó xử, phải uốn nắn chứ không huỷ đi, phải đấu tranh tư tưởng thật nhiều để tìm ra phương án giải quyết. Và rồi kỷ sư tâm hồn cũng phải biết buồn, biết khóc cho những học trò nghịch ngợm gây ra biết bao muộn phiền. Thật đáng nễ phục cho những kỷ sư tâm hồn phải cặm cụi miệt mài trong giảng dạy để nâng thế hệ học trò vươn cao.

Người đưa đò thầm lặng

Nghề giáo thường được ví như nghề đưa đò, và thầy cô được ví như là người đưa đò. Người đưa đò có nhiệm vụ đưa khách sang sông. Hình ảnh đó nói lên một việc làm trong âm thầm, lặng lẽ. Người khách đến bờ chỉ trả vài xu, có khi với vẻ mặt lạnh lùng không bỏ lại tiếng cám ơn. Người lái đò vẫn tiếp tục chuyến này sang chuyến khác. Những chuyến đò âm thầm chở từng lớp người, từng lớp học trò ngày ngày đến bến bờ trí thức. Con đò cứ lặng lẽ theo dòng thời gian mang người lữ khách đến nới họ cần đến.

Ôi, lặng lẽ con đò đưa đón khách
Khách đi rồi chỉ còn bến với sông
Bến yên tĩnh còn sông thì cứ chảy
Chỉ còn đò trăn trở mãi mà thôi.

Người lái đò không phải lúc nào cũng gặp suôn sẻ, đôi khi cũng gặp phải sóng gió, bão bùng. Nhưng ta thừa biết rằng người đưa đò không chỉ dùng kỷ năng của đôi tay để giử vững máy chèo mà còn dùng cả con tim để đối phó trong mọi hoàn cảnh. Người đưa đò cứ tiếp tục đưa, có biết được rằng người khách hôm nào có ai nhớ về mình không? Trong tâm tư của mỗi thầy cô luôn chuẩn bị tinh thần để đón nhận sự thật đó. Có thể nói đây là nét đặt trưng của nghề giáo so với các nghề khác. Người đưa đò không đòi hỏi trông mong người đi đò phải nhớ đến mình. Những hy sinh thầm lặng vẫn là nét đẹp đáng nhớ của người thầy người cô.

Nốt nhạc trầm xao xuyến

Thật là bạo dạng khi so sánh Thầy cô như một nốt nhạc, mà lại là nốt nhạc trầm. Sao không là nốt nhạc cao cho mọi người nghe thấy. Ta muốn ví Thầy cô như Nốt nhạc trầm vì nốt trầm khi vang lên nghe êm đềm nhưng dai dẳng, không thánh thót nhưng dễ làm xao xuyến lòng người. Sự hy sinh thầm lặng của Thầy cô làm nên những giai điệu nhẹ nhàng cho cuộc sống.

Bạn có thấy cuộc đời thầy cô giáo
Rất đơn sơ tập giáo án gối đầu
Viên phấn trắng hương cuộc đời bay bỗng
Mực chấm bài là màu đỏ trong tim.

Viên phấn trắng và mực chấm bài luôn gắn liền với Thầy cô như hình với bóng. Giá trị vật chất của nó chẳng đáng là bao nhưng đem lại giá trị tinh thần thật lớn lao. Phấn trắng viết rồi xoá đi, không còn ai biết, nếu có nhớ thì nó được nhắc đến như thứ bụi làm ô nhiễm môi trường. Bột phấn âm thầm là thế, bị lãng quên là thế nhưng nó lại mang đến hương sắc cho cuộc đời là sự trưởng thành nơi mỗi học sinh. Mực chấm bài rồi cũng phai nhưng nó gửi gấm tấm chân tình của Thầy cô trong đó. Màu mực đỏ là màu máu con tim vì Thầy cô đã dành tất cả tình thương, tất cả tâm huyết cho học trò. Ước mong những nốt nhạc trầm tiếp tục được vang lên để cuộc đời luôn có thêm những giai điều tuyệt vời và sâu lắng.

“Dẫu có đếm hết sao trời đêm nay, dẫu có đếm hết lá mùa thu rơi, nhưng làm sao em đếm hết công ơn người Thầy”. Những ca từ trong bài hát “Người Thầy” của Nguyễn Nhất Huy đã diễn tả rất thực về công ơn Thầy Cô giáo. Có thể nói, công ơn của Thầy Cô như thể đã chạm đến ranh giới vô biên của những gì cao quý nhất.

Sẽ không bao giờ quên những Thầy Cô đang miệt mài trên bụt giảng. Sẽ không bao giờ quên bao cống hiến của những Thầy Cô giờ đã nghỉ ngơi vì tuổi cao hay do đau bệnh. Và không bao giờ quên những Thầy Cô đã đi xa mãi mãi trên cuộc đời này. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời tạ ơn và lời cầu nguyên chân thành cho Thầy cô còn đang sống hay đã khuất.

Mai sau dù có bao giờ hình ảnh của người Thầy, người Cô vẫn luôn cao đẹp trong mỗi chúng ta. Những kỷ sư tâm hồn vẫn làm việc ngày đêm, những người đưa đò vẫn âm thầm chở khách, những nốt nhạc trầm vẫn tiếp tục vang lên. Xin Thiên Chúa tiếp tục giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp nơi mỗi Thầy cô. Xin cho những học trò biết ghi sâu và sống xứng đáng với công ơn Thầy cô. Mong cho tình thầy trò luôn tươi đẹp, luôn là tấm gương sáng phản chiếu tình Chúa tình người khắp muôn nơi.

TRANG GIỚI TRẺ

Có nhiều cách để truyền giáo. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng đời sống của mình qua những công việc bình thường hàng ngày là chúng ta, các bạn trẻ, đã dự phần vào côg cuộc phi thường là đưa mọi người về với Chúa để cùng hưởng ơn cứu độ.

Truyền giáo: Làm chứng nhân bằng cách nào?

Bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Vì thế bất cứ ai, qua Bí tích Rửa tội thì đều mang trong mình bản chất ấy. Đó là truyền giáo, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá Phúc âm, là kể chuyện Chúa Giêsu, là làm tông đồ cho Chúa….

Một cách tổng quát giúp ta có những chuẩn bị chu đáo, hành động khôn ngoan, và trung thành với sứ vụ cao cả mà Chúa và Giáo hội mời gọi.

Làm chứng bằng cách nào?

Bằng cách sống gắn bó với Chúa Giêsu. Ngài luôn kết hợp và tìm ý Cha để thực hiện. Một khi biết Ý Cha thì mau mắn thi hành. Lương thực của Ngài là làm theo ý Cha. Có được lương thực quý giá này là nhờ cầu nguyện liên lỉ sớm hôm, chiều tối, và trong suốt cả đời. Khi bình an cũng như gặp sóng gió, khi khỏe mạnh cũng như khi nguy tử.

Đời ta có quá nhiều chuân chuyên, vì thế càng phải tựa nương vào sức mạnh của Chúa để vượt qua thử thách của cuộc đời, nhất là khi gặp thất bại, cô đơn, bị hiểu lầm… Cầu nguyện là lối thoát tuyệt vời nhất, giúp mở ra con đường hy vọng, tin tưởng, phó thác vào tình yêu quan phòng của Chúa, Người không bao giờ bỏ rơi con người bao giờ.

Bằng cách làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh thần hoạt động rất nhẹ nhàng. Ngài như hơi thở trong từng nhịp đập của trái tim, Ngài như tiếng gọi từ vách núi cho người lạc đường, Ngài như gió mát cho kẻ vất vả lầm than, Ngài như thầy thuốc xoa dịu mọi vết thương thể xác lẫn tâm hồn, Ngài như người bạn có mặt trong mọi lúc, như mẹ hiền sát cánh trong mọi biến cố, trong từng bước hành trình của đời ta. Ngài hiện diện tuy nhẹ nhàng, nhưng chính sự nhẹ nhàng của tình yêu làm cho ta được ấm lòng, được an ủi, nhất là luôn nhắc nhở hãy làm lành lánh dữ. Báo cho ta biết những nguy cơ xấu của ma quỷ, chỉ cho ta con đường phải đi, và mời gọi ta mau mắn quyết định và giúp ta thực hiện cho đến cùng một cách tốt đẹp hợp ý Chúa.

Đời ta luôn phải đứng trước những chọn lựa giữa tốt và xấu, giữa phải và trái, giữa điều nên và không nên, giữa cần thiết và nhanh chóng… Đứng trước những giây phút ấy, ta hãy nghe theo Thánh Thần qua sự mắc bảo của lương tâm. Khi nhận ra sự tốt xấu, ta hãy mau mắn quyết định để chọn điều lành, nhờ vậy mà chọn lựa của ta luôn chuẩn xác, đáng tin, yên tâm.

Bằng cách tôn sùng Thánh Thể và Mẹ Maria. Đến với Chúa Giêsu, nhờ Mẹ. Đây là cách an toàn và nhanh nhất cho ta. Tràng chuỗi mân côi giúp ta có thêm người hậu thuẫn là Đức Mẹ, thì chắc chắn ta sẽ được thông hiểu nhiều mầu nhiệm của Chúa hơn, sẽ có sức mạnh hơn và tin tưởng đi theo đường Chúa đi. Trên con đường đi đầy đói khát và mệt mỏi, vì thế, càng cần có lương thực Hằng sống là chính Thánh Thể Chúa. Chính Lương thực này mới giúp ta no thỏa, đủ sức khỏe, đủ sức đề kháng khỏi mọi dịch bệnh, mọi lây nhiễm của cám dỗ và yếu đuối do ma quỷ bày ra.

Đường đời ta đi có rất nhiều thứ nước giải khát cho đỡ thèm, có thức ăn ngon cho tha thưởng thức và nhiều bóng mát cho ta nghỉ chân. Nhưng ta đừng nhầm lẫn rằng nó là tất cả, để rồi quá tin vào những lương thực mau hư nát mà ta cũng sẽ phải hư nát theo chúng.

Bằng cách tìm ý Chúa để sống khiêm tốn. Ai sống trong tình yêu của Chúa thì không thể kiêu căng được. Vì bản chất của Thiên Chúa là khiêm nhường. Ngài dạy ta phải sống “hiền lành và khiêm nhường, phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Ngay cả con người cũng không ai chấp nhận thói kiêu căng hống hách, nói chi là Chúa, bởi nó nghịch lại với tình yêu.

Sống khiêm tốn giúp tạo tình thân hữu dễ dàng, sẽ được nhiều người mến thương giúp đỡ, sẽ được sống trong bình an hạnh phúc, sống tình Chúa, tình người.

Bằng cách sống gương mẫu. Đức Khổng Tử nói: “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ”. Việc đầu tiên phải làm, là trở nên gương sáng, thành người mẫu mực cho người khác bắt chước. Đời sống của ta phải có kỷ luật, có trật tự để trau dồi nhân cách, giúp có sức khỏe dồi dào, tinh thần mạnh mẽ, lòng mến sắt son, lòng cầy vững vàng. Nhờ thế, ta mạnh dạn dấn thân, can đảm tiến bước trên đường phục vụ. Nhờ thân xác cường tráng, trí tuệ sáng suốt, ta có cái nhìn đúng đắn về con người và cuộc sống, rồi đưa ra những phán quyết phải lẽ công bằng, đúng ý Chúa, hợp lòng người. Một đời sống gương mẫu sẽ tạo thêm được tin tưởng, thêm được sức mạnh vượt khó và có thêm được nhiều người hăng say cộng tác vào công trình tình yêu.

Bằng cách sống yêu thương. Yêu thương người khác là bằng chứng rõ nhất mình đã được yêu. Người ta không thể yêu ai, nếu chính mình chưa cảm nếm được thế nào là yêu thương. Tình thương là dây liên kết con người với Chúa và với nhau. Tình thương có sức mạnh hàn gắn mọi chia rẽ, những vết những, những đau thương do yếu đuối của con người gây ra. Sống yêu thương luôn là nhu cầu của mọi người, của mọi thời đại, và là đòi hỏi cấp bách để giúp người khác được sống trong thương yêu đùm bọc. Thánh Thần luôn thúc dục ta phải sống yêu thương bằng cách bao dung, tha thứ và mạnh dạn giúp đỡ để tất cả mọi người được sống trong bầu khí mát mẻ trong lành của tình yêu.

Bằng cách chia sẻ. Một người sống tốt, đầy lòng yêu thương, không bao giờ cho phép thu tích mọi thứ lợi lộc, danh dự hay uy quyền cho mình, nhưng bị thôi thúc để chia sẻ giúp đỡ người khác. Không những bằng cầu nguyện, động viên, an ủi, khích lệ, mà còn bằng mọi hành động cụ thể để giúp người khác. Sẵn sàng dành thời giờ, kiến thức, kinh nghiệm, tiền bạc vật chất cùng với sự khéo léo tế nhị giúp người khác vượt qua khó khăn, vơi đi chán nản tuyệt vọng mà vui sống, mạnh dạn sống để giúp ích cho đời, cho người.

Bằng cách làm hậu thuẫn. Trong trường hợp không thể trực tiếp hành động hoặc vì muốn đào tạo để có thêm người khác cộng tác, ta cần phải đứng phía sau giúp đỡ, hỗ trợ tối đa về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần để người khác có đủ phương tiện cần thiết giúp họ có thể chu toàn tốt công mọi công việc được giao. Dù đứng phía sau nhưng luôn phải quan sát diễn tiến công việc để kịp xử lý các tình huống, tránh xảy ra những chuyện đáng tiếc. Dù đứng phía sau, nhưng trách nhiệm trực tiếp mình vẫn phải gánh vác.

Bằng cách chu toàn trách nhiệm. Truyền giáo thì tốt lành và cần thiết, nhưng không vì thế mà cho phép mỗi người bỏ bê trách nhiệm và bổn phận trực tiếp đối với gia đình, cha mẹ ông bà hay vợ chồng, con cái. Không ai được thanh minh rằng, tôi đã lo việc bác ái, nên khỏi cần phải lo cho gia đình. Việc chu toàn trách nhiệm còn phải được thể hiện rõ nét trong mỗi bậc sống, mỗi tư cách, trong từng nghề nghiệp và chức vụ của mình một cách lương thiện, chu đáo, cẩn thận để làm chứng cho công lý và sự thật, cho tình yêu và tha thứ của Chúa.

Bằng cách sẵn sàng giúp đỡ. Tùy vào thời gian, hoàn cảnh mà ta cần giúp đỡ người khác, không phân biệt tôn giáo hay trình độ, để họ có những cơ hội làm nhiều việc lành phúc đức, cùng chung sức phát triển xã hội, kiến tạo hòa bình, tạo được hiệp nhất giữa người với người.

Bằng cách tôn trọng các giá trị truyền thống. Dù lòng nhiệt thành tông đồ đến đâu, cũng không cho phép ta phá hoại gia phong, những truyền thống đạo đức, văn hóa, để giới thiệu đạo giáo của mình. Tất cả phải đặt trên nền tảng tôn trọng người khác, cùng với mọi giá trị nhân sinh tốt đẹp của họ.

Bằng cách khéo léo gợi ý. Có thể vì chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm, hay vì lý do nào đó mà người khác không nhận ra vấn đề. Hãy tế nhị gợi ra những ích lợi chung, những thuận lợi, những ưu điểm, những hiệu quả khi có họ cộng tác, hoặc những cách thức tốt nhất để giúp họ hoàn thành công việc tốt, trong tình nghĩa yêu thương, thì sẽ không làm tổn thương họ, mà vẫn đạt được mục đích của phục vụ.

Bằng cách hy sinh phương tiện. Toàn bộ thời gian, sức khỏe, kiến thức, kinh nghiệm, tiền bạc vật chất chính là phương tiện hiệu quả để giúp chính mình và người khác làm việc tông đồ. Điều đáng quý là ta biết cho đi một cách kịp thời, đúng lúc, đúng nơi, đúng người, đúng nhu cầu, nhờ vậy mà lòng tốt được đền đáp bằng niềm vui cho mình và ích lợi cho nhiều người.

Bằng cách chấp nhận gian khổ. Danh vọng càng cao, gian nan càng dày. Làm việc cho Nước Chúa thì chẳng có vinh quang nào sánh bằng. Nhưng muốn hưởng được vinh quang này, bất luận là ai, đều phải đi xuyên qua thập giá. Chúa nói: “anh em hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta” (Mc 8,34). Vì thế, muốn hái quả thì phải trồng cây, muốn gặt thì phải gieo. Muốn được trở thành bạn hữu Chúa thì phải đánh đổi bằng mồ hôi và khó nhọc, thời gian và sức khỏe, thân xác và linh hồn. Phải đánh đổi cả mạng sống đời này, thì mới có được sự sống bên Chúa mãi mãi.

Bằng cách từ bỏ ý riêng. Con đường theo Chúa là làm theo ý Ngài, để Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đức Giêsu là khôn mẫu cho sự vâng phục này. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng một theo ý Cha, đừng theo ý con”. (Mt 26, 39). Con người cũng thế, muốn làm vinh danh Chúa, thì phải làm theo hướng dẫn của Chúa, thì tác phẩm tình yêu cứu độ của Ngài mới được họa lại một cách đẹp đẽ, chính xác. Nếu làm theo ý riêng, tìm cách thể hiện ý mình thì sẽ phá đổ đi kế hoạch của Chúa mà thôi.

Bằng cách sống trung thành. Trung thành chứng mình niềm phó thác tuyệt đối của mình vào Thiên Chúa, và chọn lựa này là chính xác. Vì thế, bằng mọi giá không được bỏ cuộc. Dù gian nan cách mấy, dù khổ đau thế nào. Vì: “Ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Lòng trung thành cũng nói lên tình yêu mạnh mẽ của mình đối với Chúa mà chẳng có gì có thể tách ra khỏi trái tim tình yêu của Ngài được. Thánh Phaolô tông đồ nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39)

Bằng cách sống tin tưởng lạc quan. Có thể mất nhiều thứ, thiếu nhiều điều, nhưng người ta không thể sống hiếu hy vọng. Vì hy vọng ngày mai tươi sáng, ngày mai sẽ tốt hơn, mà con người mới có thể cố hết sức, gắng hết mình để trườn qua những khúc quanh bi ai, đau thương nhất của cuộc đời. Sống trong hy vọng là sống bằng cái nhìn hiện tại xuyên suốt của Thiên Chúa. Nhờ biết rằng còn có Chúa luôn hiện diện nên đời sống của mình luôn lạc quan, yêu đời, vui sống và ham sống. Thái độ lạc quan không bao giờ chịu khuất phục trước nghịch cảnh, không bao giờ chịu cúi đầu trước bất cứ thế lực của sự dữ nào, là bằng chứng rõ nét về sự thật công lý của Chúa đang hoạt động nơi ta. Làm chứng cho Chúa mà ủ rũ héo tàn, chán chường, mệt mỏi, thoái thác, thất vọng, bi quan thì không thể chấp nhận được, vì nó ngược lại với bản chất của Thiên Chúa là hoan lạc, bình an, hạnh phúc, vui tươi…

Thanh Thanh (Vietcatholic)

TUỔI TRẺ – ĐỨC TIN – CUỘC SỐNG

H. Có thể tin vào sự phục sinh của Đức Kitô hay không?

Một sự kiện lịch sử có thể kiểm chứng được là niềm tin của những môn đệ của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá, bắt đầu từ ngày thứ 3 sau khi Thầy họ qua đời. Họ quả quyết rằng mình đã thấy Người đang sống. Cái tin này sẽ được họ và những người kế tục họ loan báo vào những năm tháng sau đó tại Giêrusalem, trong khu vực Địa trung hải, thậm chí cả ở Rôma nữa, rồi sau đó lan ra khắp bốn phương trời.

Ta phải giải thích tại sao những con người, mà vào ngày thứ sáu khổ nạn trước đó còn hèn nhát, đào ngũ, lại có một niềm tin nhất trí như thế. Một sự kiện đã bất ngờ xảy ra, một điều gì đó đã đổ vào lòng họ một niềm xác tín, một niềm vui, một niềm hy vọng, một nhiệt tình dễ lây lan. Sau đó, họ không thể không nói ra. Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại, chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy (Cv 2,32). Đó là điều họ đã công bố trước mặt thế giới bất chấp những đe doạ, những khổ hình và cái chết – một con dấu đóng ấn lên lời chứng của họ.

Còn có một sự kiện lịch sử trọng đại khác nữa: đó là niềm tin của toàn thể Hội thánh tiên khởi vào Đức Giêsu Phục sinh. Nhờ thánh Phaolô mà chúng ta có được bản kinh Tin kính cổ xưa nhất của những Kitô hữu đầu tiên. Bản kinh này được tìm thấy trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Côrintô, được viết từ Êphêsô khoảng năm 56-57. Thánh Phaolô nhắc cho cộng đoàn bé nhỏ, mà ngài đã lập nên trong giới bình dân của thành phố, giáo lý ngài đã giảng dạy khi có dịp ghé qua đó mấy năm trước.

“Vì trước mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh, Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15, 3-8).

Thánh Phaolô giả thiết rằng độc giả của mình không còn hồ nghi việc Đức Giêsu sống lại nữa. Trong bản văn trên, ngài muốn chứng minh cho họ thấy rằng các người chết sẽ sống lại chỉ vì Đức Giêsu đã sống lại. Đức Giêsu đang sống là bảo chứng cho sự phục sinh của mỗi người chúng ta.

Đó chính là niềm tin của những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Bởi chưng Phaolô truyền đạt lại điều mà chính mình đã nhận được. Lúc nào? Khi ngài lưu trú ở Antiôkia vào khoảng năm 40-42. Như thế, chừng 20 năm sau khi Đức Giêsu chịu đóng đinh năm 30, truyền thống Kitô giáo đã tin vào sự Phục sinh và đã truyền đạt đức tin của mình dưới hình thức một kinh Tin kính đơn giản, dựa trên thế giá của các nhân chứng tận mắt mà lúc đó vẫn còn sống.

Sau hết còn một sự kiện lịch sử thứ ba nữa: đó là đức tin hiện hành của Hội thánh Công giáo Rôma vào sự Phục sinh của Đấng sáng lập Hội thánh. Đức tin này đã được công bố từ nhiều thế kỷ trong các thánh đường mọi ngày chúa nhật. Hơn thế nữa, lễ Phục sinh là đỉnh cao của năm Phụng vụ. Trong suốt dòng lịch sử, hàng vạn Kitô hữu đã liều mình chịu tử đạo để minh chứng cho đức tin của mình vào sự sống vĩnh cửu với Đức Giêsu người Nadarét, Đấng đã chết và đã sống lại.

Hội thánh Công giáo thách đố người viết sử và yêu cầu họ đưa ra chứng cứ nào không thể cãi lại được để chứng minh rằng các cộng đoàn tiên khởi đã bịa đặt ra việc Đức Giêsu phục sinh. Càng trở về nguồn, ta càng thấy niềm tin vào Đấng Phục sinh được khẳng định một cách rõ ràng. Thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì đức tin của ta thật vô ích” (1 Cr 15,17). Phủ nhận đức tin của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là phủ nhận sự hiện hữu của chính Hội thánh.

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur: Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990
Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

Tôi là qưới chức trong họ, tôi và gia đình tôi đều thương mến Cha Sở, vì Ngài là người dễ thương, sống đơn sơ giản dị, không cầu kỳ, không kiểu cách. Ngài gần gũi yêu thương, lo lắng và hy sinh cho họ đạo về mọi mặt: từ tinh thần, đời sống đạo, đến vật chất. Gia đình tôi cảm nhận: Ngài vui với người vui, khóc với người khóc, thương kẻ khó nghèo, và sẵn sàng ra tay giúp kẻ khốn khó. Ngài không quản ngại nề hà phục vụ. Rồi đầu tháng 11 năm 2010, Ngài ghé thăm gia đình tôi, đang khi tôi xây dựng một văn phòng giao dịch mua bán cho gia đình. Trong lúc vui, Ngài nói với gia đình tôi: chúng con suy nghĩ xem người đang học đạo (học giáo lý) có thể làm chứng cho Tin Mừng được không? Lúc đó mọi người gia đình tôi nhìn nhau cười vì mọi người đều đồng tình: “Học giáo lý làm sao làm chứng cho Tin Mừng được?” Thấy cả nhà đều im lặng, Cha Sở nói: Cả gia đình suy nghĩ bàn bạc rồi cho Cha hay. Cha Sở từ giã ra về. Cả nhà suy nghĩ bàn bạc, nhưng không ai thấy được câu trả lời.

Một buổi chiều ghé thăm Cha lấy tờ Mục Vụ tháng 10 Cha cho, tôi hỏi Cha: “Theo Cha, người học giáo lý làm chứng cho Tin Mừng thế nào?” Cha Sở chậm rãi trả lời: Trước tiên ta có thể làm chứng Tin Mừng cho ai? Cho người đaang tin mạnh mẽ để tin mạnh mẽ hơn, cho người niềm tin đang chao đảo để họ vững tin, cho người hết tin để họ lại tin, cho người chưa tin để họ bắt đầu tin. Như vậy ta có thể làm chứng Tin Mừng cho 4 loại người. Bây giờ Cha lấy sự kiện cụ thể chứng minh.

1. Cho người mạnh tin tin mạnh: Anh bạn T, 30 tuổi học giáo lý để lập gia đình với cô công giáo. Anh hiền lành chăm chỉ đi học và trả bài mỗi ngày thật dễ thương. Cha Sở thấy anh nhiệt tình học và sống giáo lý Cha rất phấn khởi thích thú, hăng hái dạy giáo lý. Anh T qua việc học giáo lý tốt đẹp đã trở nên nhân chứng đức tin cho Cha Sở trong việc phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ con người.

2. Cho người chao đảo vững tin: Anh K học giáo lý đại khái để lãnh bí tích, nên hiểu đạo không sâu, do đó để hồ nghi điểm này, thấy điểm nó khó tin, cách sống đạo của anh chông chênh, bán tin bán nghi. Nhờ anh t cần cù chăm chỉ, siêng năng đi học mỗi ngày, nên anh cũng hăng hái vào gặp Cha Sở, chuyện trò thân tình, cởi mở, anh xin đi học giáo lý với anh T, kiến thức tập tành sống đạo ngày một vững, quả thật đi một ngày đàng học một sàng khôn, anh trở nên thông rành giáo lý và vững tin.

3. Cho người hết tin tìm lại niềm tin: Chị M mất đức tin bởi thấy anh chị em trong họ đạo sống hẹp hòi, ích kỷ, tham lam, lừa đảo, lường gạt cho nên chị không đọc Kinh, không đi lễ, không lãnh nhận các bí tích. Chị thấy người con trai này (anh T) đi học, đi lễ đều đặn, tính tình thay đổi tốt hơn, cách ứng xử lịch lãm hơn, chị thầm nghĩ: “Người hư, đạo không hư”. Chị và gia đình tìm lại niềm tin (đức tin đã mất), chăm chỉ sống đạo tốt đẹp hơn.

4. Cho người chưa tin bắt đầu tìm hiểu để tin: Chòm xóm anh T thấy anh mỗi ngày đều đi học giáo lý, và thấy anh chăm chỉ học ở nhà, nên thắc mắc hỏi: “Đạo Chúa có gì hay mà mày ham thế?” Nhân dịp này, anh thực hiện đều Cha Sở đã chỉ dẫn anh khi Ngài dạy giáo lý cho anh: “Đạo Chúa là con đường chính Chúa dạy cho con người để trung thành đi trên con đường ấy con người đến được với Chúa. Con đường ấy là một Đấng, Đức Giêusu Kitô con Thiên Chúa làm người đã đến ở giữa nhân loại, vì yêu thương nhân loại đã chết trên thập giá để đền tội nhân loại, cứu sống nhân loại, khỏi quyền lực ma quỷ, tội lỗi và sự chết, dẫn đưa mọi kẻ tin theo Ngài, được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đi về với Chúa giàu lòng thương xót là nguồn tình yêu, ân sủng và hạnh phúc đời đời. Muốn đạt dược tình yêu, ân sủng và hạnh phúc ấy, con người phải sống theo thánh ý Chúa, sống đẹp lòng Chúa….” Anh nói với họ: Nếu các bạn muốn biết rõ hơn, các bạn hãy đến gặp ông Cha Sở, ông sẽ giải đáp cho các bạn mọi thắc mắc. Nếu các bạn ngại, tôi sẽ dẫn các bạn đến gặp ông cha, ông nói chuyện vui lắm”. Như vậy anh T đã làm chứng nhân Tin Mừng cho những người chưa tin, qua trung gian của anh, họ có thể tìm về gặp gỡ sự thật cứu rỗi và bắt đầu tin để được sống đời đời.

Ngồi nghe Cha Sở trình bày “Chứng Nhân Tin Mừng qua việc học giáo lý” tôi lấy làm tâm đắc. Tôi nghĩ Cha Sở tôi là con người thức thời, ngài không hướng dẫn giáo dân sống đạo tình cảm, trái lại, ngài chỉ bảo giáo dân đến gặp Thiên Chúa yêu thương mạc khải, Thiên Chúa ấy dạy con người biết sự thật, sống theo sự thật qua Kinh Thánh và giáo lý. Chính ngài giảng về Chúa qua các bài Kinh Thánh hằng ngày, chính Ngài cắt nghĩa các bài đọc mỗi Chúa Nhật vào các buổi tối cuối tuần, rút ra chủ đề và chỉ dẫn giáo dân cách sống theo chủ đề ấy. Ngài dạy giáo lý các bạn trẻ mỗi ngày, mỗi lớp chừng 20 phút hiểu bài, thuộc lòng và sống theo điều mình đã hiểu đã thuộc để thấm nhuần giáo lý qua cuộc sống thực tế hằng ngày. Ngài cũng dạy giáo lý chung hàng tuần vào sáng chiều Chúa Nhật, dài thì 3 câu, ngắn thì 4 - 5 câu trước giờ lễ.

Gia đình tôi, thực tế không hăng hái tham gia chương trình Kinh Thánh và giáo lý của Ngài. Sau khi đã nghe Ngài, tôi suy nghĩ và vào sau bữa cơm tối kế đó, gia đình còn ngồi trong bàn ăn, tôi mới cắt nghĩa cho gia đình điều tôi đã học được với Cha Sở chiều hôm trước. Nghe tôi nói mọi người đều sáng ra vì đã khám phá ra đều mình chưa biết. Nhân đây tôi nói nửa đùa nửa thật: “Gia đình chúng ta có dịp làm chứng Tin Mừng qua việc học Kinh Thánh và giáo lý của họ đạo mà mình chưa làm. Hôm qua không làm vì chúng ta chưa biết, hôm nay biết rồi thì cả gia đình chúng ta phải làm đến nơi đến chốn.” Tôi không lấy quyền gia trưởng để ép buộc, dù đó là việc làm tốt đẹp. Riêng tôi, tôi sẽ làm kể từ việc tham dự Thánh lễ sáng mai. Còn em và các con thì sẽ quyết định thế nào? Chúng ta có thể tự do biểu quyết bằng giơ tay. Dù vậy, để không ai bị áp lực, mọi người đều tự nguyện tham gia, ba sẽ là người đứng ra đôn đốc, nhắc bảo, nên ba mở mắt để kiểm tra kết quả biểu quyết, còn em và các con nhắm mắt và nói rõ ý định của mình: tham gia thì giơ tay, mà không tham gia thì cứ xui tay. Sau khi kiểm tra kết quả buông tay xuống mọi người hãy mở mắt. Mọi người thống nhất chưa? Một tiếng “Dạ” lớn nhất trí. Tôi tuyên bố cuộc biểu quyết bắt đầu, vợ tôi và các con đếu nhắm mắt và đồng loạt giơ tay. Tôi tuyên bố cuộc kiểm tra biểu quyết đã xong, mọi người đều mở mắt ra. Rồi tôi công bố kết quả gia đình ta tham gia chương trình Kinh Thánh và giáo lý của họ đạo 100%. Tôi hô hào một tràn pháo tay chúc mừng cho ác nhân chứng Tin Mừng qua việc học giáo lý, một tràn pháo tay giòn giã, hào hứng vang lên. Tôi tạ ơn Chúa, thay vì đọc kinh Sáng Danh kết thúc bữa ăn, tôi cất bài hát: “Hống Ân Thiên Chúa Bao La” cả nhà cùng hát vang với cả tấm lòng tin yêu và hy vọng.

Chiều hôm sau tôi vào gặp Cha Sở, tôi kể lại cuộc biểu quyết của gia đình tôi tích cực tham gia học Kinh Thánh và giáo lý do Cha Sở chủ xướng. Tôi quan sát Cha Sở thật kỹ, Ngài chăm chú nghe tôi trình bày vui cười sung sướng ứa nước mắt. Ngài vui vì gia đình tôi từ nay làm chứng nhân Tin Mừng cho Ngài. Ngài vui vì họ đạo tôi đang đi đúng đường lối của Hội Thánh Việt Nam “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để đem lại hạnh phúc cho dồng bào Việt Nam”.

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

CHUẨN BỊ BÀI GIÁO LÝ(Giáo Án)
Cho Thanh Thiếu Niên (từ 12-25 tuổi)

I. Chương trình chung:

  1. Mỗi bài giáo lý trong độ tuổi này là một phần của chương trình chung kéo dài trên 3; 6; 12 tháng... Điều này rất cần thiết, vì nó giúp ta thấy rõ công việc sẽ đi tới đâu và phải làm những gì trong hiện tại và tương lai.
  2. Mỗi chương trình là một chặng đường dẫn sâu vào mầu nhiệm để biến cải cuộc sống hầu quy thiện. Vì thế, phải có tính đánh động lòng thiếu niên cho nên tốt hơn.
  3. Phải phác hoạ một chương trình chung:

A. Chương trình theo đòi hỏi nhu cầu luận lý

Ví dụ: Giáo hội:

a. Mầu nhiệm Giáo hội

Thành lập Giáo hội.
Bản chất Giáo hội.
Đặc tính Giáo hội.
Sinh hoạt của Giáo hội trong thế giới.

b. Sứ mệnh của Giáo hội:

Sứ mệnh truyền giảng (ngôn sứ / tiên tri).
Sứ mệnh thánh hoá (tư tế).
Sứ mệnh quản trị (vương giả).

Trình bày theo lối này thoả mãn được đòi hỏi về lý trí nhưng chỉ thích hợp cho người lớn.

B. Theo nhu cầu tâm lý:
Người ta thường nghĩ gì về Giáo hội? Giáo hội là gì?
Chúng ta làm gì trong Giáo hội? Giáo dân tham dự vào chức vụ tiên tri, tư tế, vương giả thế nào?
Giáo hội đồng hành với thế giới như thế nào?
Lối trình bày này phù hợp với nhu cầu tâm lý thiếu niên tuy cần có giáo thuyết, nhưng mở đầu bằng những vấn đề cụ thể gây chú ý và thích thú.

II. Xác định phương hướng của mỗi bài:

Giáo lý viên phải xác định mình phải trình bày vấn đề này theo lối nhìn nào? Đó là xác định phương hướng căn bản của bài giáo lý. Ví dụ: Đề tài “Bí tích Thánh Thể”

Rõ ràng đường hướng căn bản của bài giáo lý là: trình bày bí tích Thánh Thể như là một phương thế hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em.

Theo lối “Huấn giáo khoa” (thích hợp với thanh niên)

Bài giáo lý nhằm chủ đích trình bày chân lý nhiều hơn. Phải nắm chắc ba điểm này khi soạn bài giáo lý.

a. Giáo thuyết về vấn đề này như thế nào?Nghĩa là Thánh Kinh, Giáo hội, thần học nói gì và giải quyết như thế nào?

b. Vấn đề liên quan cụ thể đến người nghe như thế nào?

Học viên hiểu thêm Chúa Kitô như thế nào?
Soi sáng gì, giải đáp ra sao cho người tín hữu?

c. Cần trình bày vấn đề diễn tiến ra sao?

Bài chia làm mấy phần? Theo thứ nào cho dễ hiểu? Dựa vào những sự kiện nào?

Theo lối “Huấn giáo tiên tri” (thích hợp với thiếu niên-sống động). Lối này nhằm lay động tâm hồn và hoán cải cuộc sống, chủ đích giáo dục con người toàn diện với tuổi thiếu nhi, thiếu niên.

Theo lối này, giáo lý viên đóng vai trò chứng nhân, tức là người đã sống (hơn là lập là bài đã có sẵn của người khác). Ba câu hỏi định hướng để giáo lý viên chuẩn bị bài kiểu giáo huấn này là:

a. Tôi phải loan mừng như thế nào?

Tức là đề cao Tin mừng phải loan truyền nhắm vào tâm hồn hơn là trí tuệ.

b. Tin mừng này liên quan đến người nghe như thế nào?

Nghĩa là nó có đáp ứng ước vọng sâu xa của các em không?

c. Chính tôi có sống Tin mừng ấy không?

Nghĩa là nỗ lực hoán cải đời sống phải bắt đầu từ bản thân giáo lý viên. Khi chuẩn bị bài theo giáo huấn tiên tri này, chính giáo lý viên phải kiểm điểm đời sống của chính mình.

III. Soạn thảo bài giáo lý:

1. Nên viết thành văn như là một giáo án.

Điều này có một lợi điểm: tránh được lối ứng khẩu, kém mạch lạc, nội dung nghèo nàn. Vì khi viết ta phải suy nghĩ, sắp xếp ý tưởng, loại bỏ cái không cần thiết, không lạc đề.

2. Viết bài giáo án thế nào?

Chia cuốn vở thành 2 cột A và B

Cột A rộng hơn vì bài dài dễ nói.

Cột B rộng hơn để tóm cho học viên chép (chừng 10-11 dòng kẻ cho bài nói lâu một giờ), bài viết ngắn gọn, dễ hiểu: chọn từng chữ, từng câu.

TRANG QUỚI CHỨC

CHỌN NHÂN SỰ

Điều 2: Thành phần Ban Quới Chức gồm có: Trùm, Câu, Biện.

Ông Trùm: là người đứng đầu ban Quới Chức, người có uy tín và có khả năng quy tụ người khác.
Ông Câu: là người cộng tác với Ông Trùm, để đôn đốc công việc.
Ông Biện: là người đứng đầu một địa sở hay một sở biện.

Tuỳ theo họ đạo lớn hay nhỏ mà có một hay hai ông Trùm, có 2 hay 4 ông Câu, và có nhiều ông (bà) Biện. Tuỳ nhu cầu, có thể thêm Phụ tá Biện để cộng tác với Biện Sở và tiếp nối công việc sau này (Điều lệ Quơí chức, GPVL, điều 2).

Xin mượn bài nói chuyện của Cha Giuse Nguyễn Ngọc Thích trong ngày Đại Hội Quới chức năm 2008 như là một gợi ý trong việc chọn lựa nhân sự trong Ban Quới Chức.

Ông Trùm trình Cha sở:

- Thưa Cha, vợ Tám Búa nhờ con xin Cha cho chồng nó làm Biện.

Cha sở dư biết tên Tám Búa này nên ngạc nhiên hỏi ông Trùm:

- Nghe tên nó tôi hết hồn, sao ông dám đề cử anh ta làm biện, ông không biết tánh anh ta trời thần đất địa đó sao?

- Dạ biết lắm. Anh ta thì nhậu nhiều, và nhậu ba sợi thì chửi vợ, đánh con, hàng xóm không chịu nổi.

- Thế ông tưởng tôi, ông và Hội Đồng Quới Chức chịu đựng được sao, mà anh làm biện để làm gì?

- Thưa vì tánh va kỳ khôi vậy nên vợ nhờ xin cho anh làm Quới chức xem có khá hơn không. Biết đâu khi vào Quới chức anh ta sẽ sửa mình.

- Ông tưởng sửa mình dễ lắm sao? mà Hội Đồng Quới Chức đâu phải trại cải huấn.!

Ông Trùm cười huề với cha sở:

- Thì vợ nó nhờ nói dùm, con trình Cha, nhưng biết chắc là Cha không tán thành rồi.

- Ông trình thưa kiểu này coi chừng mất uy tín bởi nguyên tắc của họ đạo mình, muốn đề cử Quới chức thì trước tiên nhìn ngó những anh thanh niên thường đi lễ trong tuần, biết tánh của người vợ, xem việc dạy dỗ con cái, kinh tế và sinh hoạt gia đình, quan hệ với hàng xóm…

Qua trao đổi giữa ông Trùm và Cha sở giáo xứ trên đây tôi xin mạo muội góp ý vài điều về đời sống cá nhân của ông Biện sở:

1. Để đánh giá đẳng cấp của một giáo xứ chúng ta có nhiều cách nhìn, nhiều điều cần quan sát như: đông người đi làm công tác; dọn lễ tưng bừng; nhiều hội đoàn; nhà thờ, nhà xứ khang trang, rộn ràng công tác xã hội và đi lễ đông người… Nhưng theo thiển ý của kẻ hèn này thì điều quan trọng nhất là có đông người rước lễ. Đây mới là đỉnh của việc sống đạo. Xây cất nhà thờ để có chỗ dự lễ sốt sắng, mà dự lễ thì rước lễ. Dạy giáo lý để đưa con người đến Bàn Thánh cách xứng đáng nhất; sinh hoạt của các đoàn thể nhầm quy tụ giáo dân chuẩn bị tốt con người đến với Thánh Thể… Tất cả các tổ chức của giáo xứ với nhiều mục đích khác nhau, nghĩa là sinh hoạt rất đa dạng nhưng nếu không đưa họ đến gặp Chúa Giêsu Thánh Thể là thua. Theo nguyên tắc này thì ông biện là người đi lễ, rước hằng ngày, nếu không cũng vài ngày trong tuần, trừ khi nhà quá xa, dầu vậy không bao giờ được phép bỏ Chúa Nhật và kiêng việc xác. Ông biện phải là người đạo đức nghĩa là năng dự lễ, rước lễ.

2. Người đạo đức thì không ăn nói thô tục, chửi thề, tiếu lâm mặn làm gương xấu cho thanh niên. Một ông trùm khi chết được mấy đứa con thuật lại cho khách: ba con không bao giờ chưởi thề, nói nặng, khi giận lắm chỉ “ứ hự Chúa tôi ơi”. Không khoát lác, không nói chuyện kiểu dao búa là người hiền rồi. Người đời thường “chơi với người hiền, bạn với người đạo đức”. Có được hai đức tính này thì mọi người sẽ thân, đến với ông và nghe ông khuyên bảo.

3.. Không oan ức chút nào khi nói có những ông biện đời sống luân lý không khá: có tánh hay dê, hay tệ hơn lén lúc có bà nhỏ. Vấn đề này nghiêm trọng không thể nhận vào làm quới chức, nếu đang làm việc thì phải cấp tốc điều chỉnh, không thì đề nghị xin từ chức.

4. Không bài bạc rượu chè (chè thì không sao nhưng coi chừng người ta bảo mình hảo ngọt!). Cá độ bóng đá, số đề thì người trẻ đôi khi có sa ngã nhưng nên cảnh giác coi chừng sinh gương xấu. Đứng ra thầu đề hay ghi số đề, chứa bài thì không chấp nhận được. Vấn đề rượu là thế này: uống rượu theo lễ nghi, cho vui buổi tiệc.. khác với nhậu. Nhậu là tìm hết mọi dịp để uống, bất kể thời gian nơi chốn, mất công ăn việc làm. Kỵ nhất là khi làm công tác nhà thờ mà bày rượu, vừa tốn của thêm tai tiếng bởi người ta quen nghĩ hễ các ông biện họp lại là nhậu, nhậu ở nhà thờ, nhậu với các ông biện, thậm chí có khi với cha phó thì bà xã dầu ghét lắm vẫn phải làm thinh

5. Con cái không đàng hoàng thì sao có thể khuyên người khác. Gia đình ông biện chú ý dạy con lễ phép, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, kính thầy cô, người trên trước. Việc học hành tất nhiên phải lo chu đáo chăm ngoan, học giỏi nên gưong, bởi ông biện còn có trách nhiệm nhắc nhở việc học hành cho các các trẻ trong sở của mình, lo cho học sinh nghèo.. Đừng quen theo thói đời ngày nay, chiều chuộng con chỉ lo học chử mà không lo học giáo lý, đọc kinh, đi lễ. Tất cả các tổ chức của giáo xứ dành cho trẻ, con biện sở phải làm gương tham gia trước hết.

Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thích

SỐNG ĐẸP

SỐNG ĐẸP GIỮA ĐỜI

Dư luận Canada đang xôn xao quanh câu chuyện về hai vợ chồng già trúng xổ số 11 triệu USD và đem cho từ thiện gần hết - một hành động quả là đáng trân trọng và vô cùng hiếm gặp.

Ông bà Allen và Violet Large đã lấy nhau được 36 năm, ở trong căn nhà 147 năm tuổi tại tỉnh Nova Scotia của Canada và đi xe Dodge Diplomat đời 1987, đã trúng số tổng cộng trên 11,2 triệu USD.

Ông bà đem tiền tài trợ cho hơn 70 cơ quan từ thiện gần hết số tiền trúng số này và tuyên bố sau đó: “Chúng tôi có nhau là quá đủ, đâu cần nhiều tiền như thế”. Trong số những cơ quan nhận tiền tặng của ông bà, ngoài nhà thờ, còn có bệnh viện và các trạm cứu hỏa.

Báo chí cho biết ông bà chỉ giữ lại 2% số tiền trúng, khoảng 220.000 USD và cho thân nhân một ít.

Bà Violet Large tuyên bố với báo chí: “Vợ chồng chúng tôi có nhau, đó là chuyện chính. Chúng tôi không sống trong một ngôi nhà tân thời hay đi xe mới gì hết. Mua sắm đồ vật hào nhoáng thì có ích chi, bạn sinh ra đời với hai bàn tay trắng thì bạn lìa đời cũng trắng hai bàn tay”.

Bà Violet Large, 78 tuổi, đang điều trị bệnh ung thư buồng trứng. Bà nói: “Cho tiền rồi lòng mình sẽ thanh thản hơn là nếu cứ khư khư giữ chúng lại”.

Việt Hà (dantri.com.vn)

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

HÃY CAN ĐẢM BƯỚC ĐI

Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi... Tôi hi vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này...

Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy.

Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:

"Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ." Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.

Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới. Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì- nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới... Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ - đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai. Tôi hi vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này...

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI

  • Người thành công biết chính xác những gì mình muốn, tin tưởng vào khả năng của mình và sẵn sàng cống hiến hết thời gian của cuộc đời để đạt được điều đó.
  • Người thất bại không có mục đích cụ thể cho cuộc sống, luôn tin rằng mọi thành công đều là kết quả của vận may và chỉ thật sự bắt tay vào việc khi có sự tác động từ bên ngoài.
  • Người thành công có khả năng ảnh hưởng đến những người xung quanh và hợp tác với họ trong thái độ thân thiện.
  • Người thất bại tìm thấy khuyết điểm của mình ở người khác.
  • Người thành công chỉ bày tỏ ý kiến về những điều mình biết và họ hoàn toàn có thể thực hiện điều đó một cách rất khôn ngoan.
  • Người thất bại phát biểu ý kiến về mọi vấn đề mà họ chỉ biết chút ít hoặc hoàn toàn không có một chút kiến thức gì về chúng.
  • Người thành công dung hoà quan hệ với tất cả mọi người mà không quan tâm đến lợi ích đạt được.
  • Người thất bại chỉ nuôi dưỡng quan hệ với những ai mà từ đó họ sẽ có những thứ mà họ muốn.
  • Người thành công luôn trao dồi kiến thức và mở rộng lòng khoan dung. Họ sống hướng đến quyền lợi chung của cộng đồng.
  • Người thất bại có trí tuệ hạn chế, sự vị kỷ chiến thắng lòng vị tha. Vì vậy họ tách khỏi những cơ hội thuận lợi và mối quan hệ thân thiện với xã hội.
  • Người thành công theo kịp thời đại và xem đây là một trách nhiệm quan trọng để biết được điều gì đang diễn ra.
  • Người thất bại chỉ quan tâm đến bản thân với những nhu cầu trước mắt và bất chấp mọi thứ để thực hiện, không cần biết đó là điều tốt hay xấu.

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

ĐẠO NÀO CÓ ƠN CỨU ĐỘ THẬT?

Lm. Đoàn Quang, CMC

Hỏi: Trên thế giới này có biết bao nhiêu Đạo khác nhau, ngay cả các giáo hội được mệnh danh là Kitô Giáo, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, cùng tuân giữ một Thánh Kinh, nhưng đâu mới là Giáo Hội chân thật đã được chính Chúa Kitô thiết lập? Vậy Đạo nào mới có ơn Cứu Độ thật? Xin vui lòng giải đáp để chúng con được hiểu rõ hơn giáo lý về ơn Cứu Độ. (Một người muốn hiểu rõ)

Đáp: Chào người muốn hiểu rõ,

1-Đúng như bạn nói: Trên thế giới này có biết bao nhiêu Đạo: Kể sơ sơ mấy đạo lớn như Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo...Riêng tại Việt Nam có tới 10 đạo: 1- đạo Ông bà, 2- đạo thờ Thần, 3- đạo Khổng, 4- đạo Lão, 5- đạo Phật, 6- đạo Công giáo, 7- đạoTin lành, 8- đạo Hòa hảo, 9- đạo Cao đài, , 10- đạo Hồi.

Ta thử tìm Ơn cứu độ muôn đời nơi các đạo nói trên thế nào.

- Đạo Ông bà (chiếm đa số dân Việt) tin rằng linh hồn những người lành sẽ về miền Cực lạc ở bên phía tây nào đó, không rõ ràng và không có chứng minh. Phải chăng đó là niềm mơ ước tốt lành của con cháu cho Ông bà đã chết? Đạo thờ Thần, đạo Khổng, đạo Lão không nói tới.

- Đạo Phật (đông hơn các đạo khác) có nói tới Niết bàn (Nirvana) sau khi chết. Nhưng Niết bàn đạo Phật chỉ là một trạng thái (state) của linh hồn đã thoát cõi mê lầm (error) mà vào cõi giác (knowledge), chứ đó không phải là cõi hạnh phúc nào tích cực. Chính Đức Phật đã nói với môn đệ Râdha: "Diệt hẳn ham muốn là Niết bàn". Như thế, Niết bàn của đạo Phật nhấn mạnh về "tiêu cực", diệt bỏ. Vậy những cố gắng, lập công tích đức ở cuộc đời đau khổ này sẽ do ai thưởng, thưởng bằng cái gì?

- Đạo Hồi (Islam) ngày trước cũng như ngày nay đang tìm cách bành trướng trên thế giới, họ coi đạo mình là nhất, do tiên tri Mahomet truyền cho. Nhưng thiên đàng của họ lại nghiêng về vật chất (material). Thiên đàng của họ có nhiều sữa, nhiều rượu, nhiều thiếu nữ đẹp, và được lấy nhiều vợ, được quyền thống trị người khác. Đàn ông nghe thế cũng ham, nhưng có gì bảo đảm chắc chắn không? Có ai chết rồi về cho biết thế nào không?

- Nói chung thì những đạo trên đều do con người lập ra, không phải do Trời truyền dạy, nên không biết gì rõ ràng đời sau, hay chỉ có quan niệm mù mờ, suy đoán...

2. Ơn Cứu độ nơi Đạo Công giáo thế nào?

1- Trước hết, đạo này tin theo Kinh thánh (Bible) là Sách chính yếu của Đạo, nêu những chân lý định giá trị đời này chỉ là cuộc Chuyển tiếp sang đời sau. Ông Tổ đạo là Chúa Giêsu giáng sinh làm người có mục đích rõ rệt "vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, người đã từ trời xuống thế" (kinh Tin kính). Ba năm cuối đời, Người giảng đạo, dạy rất kỹ về Nước Trời. Người xác định: Được lời lãi cả thế gian mà mất phần rỗi nào có lợi gì? (Mt 16, 26). Trước tòa quan Philatô Người quả quyết: Nước tôi không phải là thế gian....Sau cùng, Người chết để chuộc tội nhân loại, (điều này không có nơi các đạo do con người lập ra), rồi Người sống lại hiển vinh, lên trời dọn chỗ cho các tín đồ, Người lập Giáo hội Công giáo để ban cho các tín hữu Ơn cứu độ muôn đời.

2- Thứ hai, đạo Công giáo có Giáo hội (Catholic Church) . Giáo hội này do chính Ông Tổ Giêsu đã lập, đã trao quyền cho tông đồ Phêrô và các người kế vị gọi là giáo hoàng. "Thầy bảo cho anh biết, anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". (Mt 16, 18-19).

Giáo hội có đủ phương thế cho các tín đồ tìm về Nước Trời. Giáo hội săn sóc cho các tín hữu mình từ khi sinh ra tới khi chết qua 7 Bí tích: Bí tích Rửa tội để nhận người ta vào làm con Giáo hội; Bí tích Thánh Thể để con cái được nuôi dưỡng, lớn lên, và được sống muôn đời; Bí tích Giải tội để chữa lành khi con cái lầm lỗi; Bí tích Thêm sức để tăng sức mạnh cho con cái; Bí tích Hôn phối để con cái được ơn thánh sống tốt trong bậc gia đình; Bí tích Truyền chức để các linh mục hiến thân phục vụ dân Chúa; Bí tích Xức dầu để con cái bệnh nạn được bổ sức. Giáo hội còn an táng khi qua đời, và tiếp tục cầu nguyện cho trong các thánh lễ mỗi ngày.

3- Thứ ba, Đạo Công giáo có Bí tích Thánh Thể (The Eucharist). Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh rượu. Đây là bí tích Tình yêu của Chúa Giêsu lập ra để ở lại với con cái mình, nuôi sống linh hồn họ, an ủi họ, thêm sức, thông cảm cuộc sống vất vả của họ…cho đến ngày tận thế. Chính Người phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời" (Gioan 6,51).

Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh sự hiện diện thực sự của Người trong Thánh Thể . Điều này không hề thấy nơi các đạo kia và cả các đạo Tin lành cải cách từ đạo Công giáo.

4- Thứ bốn, Đạo Công giáo có Đức Mẹ Maria (Our Blessed Virgin Mary) để yêu thương, phù hộ, lo lắng dẫn dắt con cái mọi nơi, mọi thời về nước Thiên đàng, hạnh phúc muôn đời.

5- Thứ năm, Đạo Công giáo có những Phép lạ (miracle) do Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thánh làm để ban ơn phúc cho những người tin cậy cầu khấn.

6- Thứ sáu, Đạo Công giáo có những cuộc Hiện ra (apparition) của Chúa Giêsu, Đức Mẹ, như tại Lộ đức (Lourdes, nước Pháp), Fatima, nước Bồ đào nha và nhiều nơi khác để ban ơn và hướng dẫn người ta lo phần rỗi đời sau trên Thiên đàng. Rất nhiều người đã được ơn lạ chữa bệnh phần xác và ơn cải thiện phần hồn để lo tìm về hạnh phúc đời sau.

7- Thứ bảy, Đạo Công giáo cầu cho các linh hồn Luyện ngục (Purgatory). Họ là tín hữu sau khi chết, nếu không phạm tội phải vào Hỏa ngục , cũng chưa đáng vào Thiên đàng, thì Chúa cho một thời gian thanh tẩy, để họ nên thanh sạch, sau đó được nhận vào Thiên đàng hưởng phúc muôn đời. Đó là điều hợp lòng mong ước.

8- Thứ tám, Thiên đàng của đạo Công giáo Roma rất đáng mơ ước:

"Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.

Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to, "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ ở với họ. Họ sẽ là dân Người, Người sẽ là Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất. Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ.

Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị muôn đời” (Khải huyền 21,1-4).

- Lấy lí trí lành mạnh nhận xét, người ta thấy Thiên đàng trong đạo Công giáo có những điều tích cực, lại có những phương thế trong Giáo hội để đạt mục đích trên. Người khôn nên chọn đạo tốt nhất do Ông Trời đã chỉ dạy, đạo có bảo đảm do thế giá Ông Trời. Đạo có giáo lý rõ ràng.

Mọi tín đồ biết rõ con đường mình đang đi về đâu: Thiên đàng hay hỏa ngục? Thiên đàng là được hưởng Tình yêu Thiên Chúa. Hỏa ngục là mất Tình yêu Chúa đời đời.

Nhìn nhận rằng đạo Công giáo không dễ, vì ông Tổ đã nói: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". (Mt 16, 24).

Nhưng cha ông ta nói: "Có khó mới có khôn".

GÓC THƠ

TÂM SỰ CÙNG CHÚA

Có một lần con ngây thơ hỏi Chúa
Sao đời người mang lắm nỗi trái ngang?
Mắt hiền từ, Chúa cười buồn khẽ bảo
"Vì ngang trái đưa con gần đến Ta."

Có môt lần, con ngây thơ hỏi Chúa

Nước mắt nào, sẽ chảy ngược về tim?
Chúa nhìn xa và khe khẽ trả lời
"Đó là dòng nước mắt của yêu thương."

Và lần nữa, con thơ ngây hỏi Chúa
"Chúa thương con?" Rồi nín thở đợi chờ
Chúa mỉm cười nhìn tôi thật trìu mến
"Cha yêu con, nên mới xuống làm người!"

Và lúc này, con chợt nhiên bật khóc
Trong nước mắt miệng buông lời oán trách
"Chúa yêu con sao gieo nỗi oán hờn
Vào dòng đời khi con còn non trẻ?

Chúa nhìn tôi vẫn nét mặt nhân từ
Rồi đưa tay lau những giọt nước mắt
Trong thinh lặng con chợt nhiên hiểu lấy
Đau thương kia, là những điều thử thách

Có một lần con khóc trong tay Chúa
Thánh giá đời con mang nặng bờ vai
"Bẩy và ba, cha mang lấy ghánh bảy
Chẳng khi nào, Cha bỏ con bơ vơ

Lời Chúa nói mang yêu thương mạnh mẽ
Thế sao lòng con vẫn thấy trơ vơ
Cuộc đời con, chỉ là dòng nước mắt
Hết chia ly rồi đau khổ bao trùm

Đức tin nào, đưa con tìm đến Chúa
Trong tủi nhục, con lại về với Chúa
Nguôi cơn đau Cha mỏi mắt đợi chờ
Chờ người con lại một lần quên mất Chúa

Đỗ Hồng Phúc, KC

1251    24-04-2012 08:37:52