Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Huấn Luyện Lương Tâm Theo Lời Chúa - Tháng 10 năm 2012

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Thư Mục Vụ
  3. Diễn Giải Thư Mục Vụ
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Sống Đạo
  9. Trang Linh Mục
  10. Trang Tu Sĩ
  11. Trang Sống Ơn Gọi
  12. Trang Thiếu Nhi
  13. Trang Giới Trẻ
  14. Trang Gia Đình
  15. Trang Giáo Lý Viên
  16. Trang Quới Chức
  17. Sống Đẹp
  18. Chuyện Thường Ngày
  19. Hỏi Đáp Mục Vụ
  20. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN

Toà Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Ngày 24.09.2012

V/v Huấn Luyện Lương Tâm ngay chính theo Lời Chúa

Kính gởi: Các Linh Mục,
                 Các Tu Sĩ
                 Và Anh Chị Em Giáo Dân
 
                 Địa Phận Vĩnh Long.

Trong Thư gởi Cộng Đồng Dân Chúa, ngày 07.10.2011, các Giám Mục Việt Nam kêu gọi mọi thành phần  chú tâm đến việc dạy và học Giáo Lý, dựa trên Lời Chúa để huấn luyện lương tâm ngay chính (số 4).

1.  Việc huấn luyện lương tâm cần thiết và cấp bách nhất là trong xã hội hôm nay. Cuộc sống mới với nhiều tiện nghi có thể mang đến niềm vui và hy vọng. Nhưng lối sống và hành động của nhiều người lại làm cho chúng ta lo ngại.

Nhà vườn dùng những kỹ thuật mới để tạo những giống mới, dùng thuốc kích thích cho cây ra hoa ra trái, thuốc giữ  cho trái không bị sâu rầy đục khoét, dùng thuốc cho trái mau chín, bảo quản  cho trái lâu hư thối, nhưng tác hại đến sức khoẻ người tiêu dùng.

Nhà nông dùng nhiều loại thuốc  diệt sâu rầy và vô tình làm cho hột lúa cũng như  nguồn nước bị ô nhiễm.

Xã hội phát triển nhờ công nghiệp, tạo công ăn việc làm, lợi nhuận cao, có nhiều sản phẩm phục vụ đời sống, hấp dẫn quá, nhưng người ta đang báo động  môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng do các chất thải, rất nguy hại cho  sức khoẻ của con người cũng như các sinh vật.

Thời đại của điện tử cuốn hút các bạn trẻ.  Họ có thể đọc thấy nhiều sự, tốt cũng có mà xấu cũng không thiếu trên mạng thông tin, rồi  bắt chước thực hành, sống theo phong trào, sống theo sở thích, sống hợp thời.

Còn phải nói đến tham vọng của con người, làm sao để có tiền, có thêm nhiều tiện nghi, nhiều của cải để thụ hưởng, cho riêng mình , bất chấp quyền lợi của người khác. Do đó xảy ra bao nhiêu vụ bạo hành, hỗn loạn trong cuộc sống xã hội.

2.  Người ta đang sống theo chủ nghĩa thời cơ, thực dụng, theo đó mọi cái đều tương đối. Vậy thì đâu còn  gì là chân lý tuyệt đối, đâu còn phải nghĩ đến tội phúc. Dĩ nhiên không còn nhắc đến Thiên Chúa là Chân Lý Tuyệt Đối, không nhắc đến lương tâm là tiếng  của Thiên Chúa nói trong thâm tâm của con người, bảo cho biết điều gì là đúng, điều gì là sai, cái nào là tốt và cái nào là xấu .

Sứ mạng của Hội Thánh, sứ mạng của chúng ta là rao giảng Chúa Giêsu Kitô là Đàng, là Sự Thật và là Sự  Sống  (Gioan 14,6) cho muôn dân  để họ tin và được sống (Gioan 20,31).

Giáo dục đạo đức, huấn luyện lương tâm  không dễ dàng,  khi người ta không muốn tin vào một Thiên Chúa Tối Cao, Tuyệt Đối, tin có một Lề luật mà mọi người phải tuân theo. Mà cũng không thể nào hiểu được, nếu chỉ có cuộc sống hiện tại, hay thay đổi, chóng qua.

3. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nhắc cho chúng ta: Có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi  trong trái tim con người, Và tiếng nói của lề luật đó  luôn luôn kêu gọi con người yêu mến và làm điều tốt cũng như phải  tránh điều xấu  (số   1776).

Thiên Chúa ban cho con người lý trí để phân biệt và phán đoán  điều gì hợp với lề luật của Chúa điều gì không, điều gì  nên làm và điều gì không nên. Đó là tiếng lương tâm (số 1777, 1778 )..

Trong mọi trường hợp, phải nhớ (số 1789) :

-      Không bao giờ được làm điều xấu , dầu là nhằm đạt một điều tốt.

-      Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta (Mt 7,12).

-      Đức mến luôn đòi buộc tôn trọng người lân cận và lương tâm của họ : Phạm đến anh em và làm thương tổ lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô (1 Cor 8,12).

Người Công Giáo chúng ta còn có phương tiện để huấn luyện cho lương tâm ngay chính và chắc chắn, đó là Lời Chúa: Phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong  đức tin và kinh nguyện, và phải đem ra thực hành  (số 1785) .

"Ở đâu không có Thiên Chúa thì ở đó không có tương lai" (Bênêđitô XVI phát biểu tại Đức quốc). Bởi vậy việc huấn luyện lương tâm  bao giờ cũng đi theo việc đào tạo đức tin,  tin có Thiên Chúa Duy Nhất, Tạo Thành vạn vật, nắm giữ quyền bính trên muôn loài, bảo đảm quyền của con người và buộc người ta tôn trọng nhau.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
          Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM THEO LỜI CHÚA

Các linh mục phải coi trọng việc giảng Lời Chúa trong Thánh lễ, chuẩn bị bài giảng kỹ luỡng nhờ cầu nguyện và suy niệm, giúp người giáo dân làm quen với Lời Chúa, chú tâm đến việc dạy và học giáo lý, dựa trên Lời Chúa để huấn luyện lương tâm ngay chính  (Thư Mục Vụ của HĐGMVN 2012, số 4).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Trong một chuyến xe lửa ở Bavière, cô Emma, 18 tuổi cùng ngồi với bạn bè ở toa sau hết. Emma nói với chị em "Tôi đi ra ngoài chút..." Thế rồi, đến ga mọi người đều xuống, nhưng không thấy Emma đâu cả. Họ đến báo cáo với ông trưởng ga.

Sau khi đi dọc lại suốt hai tiếng đồng hồ trên đường sắt, các nhân viên hỏa xa đã gặp xác Emma nằm bên lề trên vũng máu. Thân cô bị đâm mấy nhát dao.

Cảnh sát hỏi cung tất cả hành khách, trong đó có một chàng sinh viên, 24 tuổi, bạn thân của cô Emma.  Chàng ta tái người đi và nói ngượng nghịu rằng không biết gì cả. Cảnh sát cũng tin vì chàng ta vốn là người điềm đạm và thẳng thắn.

Hai tuần sau, chàng sinh viên xin đi tu ở dòng Biển đức.  Có người bảo chàng ta buồn tình vì đã mất Emma, nhưng kỳ thực vì chàng ta sợ.

Bốn bức tường của tu viện, chôn chặt cái bí mật huyền ảo của chàng trong hai năm.  Chàng ít nói về đời dĩ vãng, và rồi chàng được chọn vào nhà Tập.

Chú đệ tử được hai tuần nghỉ để về thăm bà con cha mẹ.

Ngày đầu tiên "chú" đã đến ngay con đường sắt, nơi mà Emma, hai năm trước, đã nằm sõng sượt trên vũng máu. "Chú" chắp tay cầu nguyện; và mai lại, từ sáng tinh sương "chú" đã đến quỳ bên nấm mộ Emma.

Chú thổn thức nghẹn ngào :"Tôi không còn can đảm gánh nổi sức nặng của tội được nữa". Chú đi tìm cảnh sát và thú tội, mà hồ sơ đã vùi sâu dưới bao lớp hồ sơ khác. "Chính tôi đã đẩy cô Emma xuống tầu, trong phút ghen tức tôi đã nhảy theo và đâm thêm hai nhát dao, rồi tôi chạy đến ga rửa tay đã đẫm máu".

(sưu tầm)

Tiếng cắn rứt của lương tâm không dung thứ cho bất kỳ tội ác nào con người đã phạm, dù không một ai hay biết: Thiên Chúa thấy và biết tất cả, Ngài nói qua tiếng  lương tâm của mỗi người.

Chính Thiên Chúa khắc ghi trong thâm sâu tâm hồn con người một lề luật thúc bách mọi người phải tuân theo. Đó là tiếng nói của  lương tâm "luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng ấy vang lên đúng lúc trong tâm hồn con người..." (GLCG 1777).  Đó là tiếng của Thiên Chúa bảo ta làm lành lánh dữ.

"Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm, đang làm hay đã làm, là tốt hay xấu. Trong lời nói và trong hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa" (GLCG 1778).

Lương tâm là tiếng nói sâu thẳm trong lòng mỗi người, tuy nhỏ nhẹ nhưng rất mãnh liệt và vang lên đúng lúc: ngay khi ta làm điều lành, nó tức khắc khen thưởng, kèm theo đó là sự bình an thơ thới; ngay khi ta làm điều dữ, nó tức khắc khiển trách và sự cắn rứt đêm ngày khôn nguôi. Vì thế,  văn hào Chateaubriand của Pháp, thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: "Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một đồng loại của mình".

Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Do Thái dạy: "Dân ngoại là những người không có luật Môsê, nhưng mỗi kho họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Mô-sê. Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải" (Rm 2,14-15). Đó chính là luật tự nhiên hay lương tâm mà Chúa khắc ghi vào trong tâm hồn mỗi con người.

Khi nghe theo tiếng lương tâm là chúng ta vâng theo tiếng của Chúa. Bởi vì chân lý mà lương tâm dựa vào là chính thế giá của Thiên Chúa,  Đấng ban mệnh lệnh cho con người.

Lương tâm luân lý tự bản chất là ngay thẳng và chân thật (lương : tốt lành, thiện hảo), nên không có việc lương tâm xấu, lương tâm đen tối, lương tâm sai lạc. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết về xã hội và Giáo hội, hoặc do những dục vọng thấp hèn che lấp  hay do danh vọng, quyền lực, tiền tài lấn áp, lương tâm có thể có những phán đoán lệch lạc, sai lầm.

Thái độ vô cảm của xã hội ngày nay: vô cảm trong tình người, vô cảm trong  đời sống đạo đức, vô cảm trước tình thương của Thiên Chúa, không ăn năn sám hối... phản ảnh phần nào lối sống thiếu hiểu biết và và lối sống thiếu trách nhiệm do những phán đoán lệch lạc của lương tâm gây ra.

Vì thế lương tâm cần phải được huấn luyện và huấn luyện suốt đời. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm:  "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (TV 119, câu 105).

Đứng trước một chọn lựa lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp theo lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc ngược lại phán đoán sai.  Một vài quy tắc có thể áp dụng trong mọi trường hợp:

-      Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt.

-      "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng phải làm cho người ta" (Mt 7,12; x. Lc 6,31; Tb 4,15).

-      Đức ái Kitô giáo luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ. "Phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm của họ... là phạm đến Đức Kitô" (1Cr 8,12) (GLCL1789).

Muốn lương tâm không trách cứ chúng ta điều gì, cần phải có sự bình an trong tâm hồn. Vì hễ đâu có tội ở đấy không có bình an (x. Is 48,22 ; 57,21). Thánh Phaolô nói: "Chúa chính là sự bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Vậy muốn được sự bình an của Chúa -  bình an trong tâm hồn - tất nhiên chúng ta cần phải sạch tội, sống trong ơn nghĩa với Chúa.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Chúa ban cho mỗi người có một lương tâm, Chúa đặt lề luật tự nhiên nơi mỗi người. Muốn cho lương tâm đó được trong sáng và bén nhạy trước mọi hoàn cảnh, mọi người cần phải huấn luyện lương tâm theo Lời Chúa. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: "Trong ngày sabbat, người ta nên làm việc lành hay việc ác?". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn biết dùng Lời Chúa để huấn luyện một lương tâm ngay chính, giúp ứng xử mọi việc theo thánh ý Chúa.

2. Chúa phán: "Lời Chúa là ngọn đèn soi dẫn bước chân con". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu biết dùng Lời Chúa để huấn luyện lương tâm mình được thêm sáng tỏ, nhằm quyết định chọn điều phải mà thực hiện.

3. Chúa phán: "Sao các ngươi bỏ huấn lệnh Thiên Chúa, mà giữ tập tục phàm nhân?". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu siêng năng đọc và hiểu Lời Chúa, tuân giữ các lệnh truyền Chúa mà huấn luyện lương tâm mình.

4. Chúa phán: "Ai nghe và thực hành Lời Chúa là mẹ và anh chị em Ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dùng Lời Chúa để huấn luyện lương tâm mình, xứng danh là con Thiên Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa ban Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng con. Xin ban Thánh Thần huấn luyện lương tâm chúng con nên trong sáng, giúp chúng con tuân giữ huấn lệnh Chúa, hầu ngày sau đặng hưởng phước thiên đàng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

KHUÔN MẪU ĐÀO LUYỆN LƯƠNG TÂM

Đức Khổng Tử đã nói: nhân chi sơ tính bản thiện, có nghĩa rằng: con người khi sinh ra đã được phú bẩm cho bản tính thiện. Theo viễn cảnh này thì xã hội loài người quả là hạnh phúc, quả là một xã hội ai cũng mong ước và quả là thiên đàng ngay tại thế. Nhưng hình như xã hội loài người không được như vậy.

Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông người ta thấy rất nhiều những hành động dã man, những hành động đi ngược lại với luân thường đạo lý. Trên thế giới ta có thể có những người có thể ôm bom giết hại nhiều người chỉ vì cuồng tín, người ta có thể xả súng giết hại rất nhiều người chỉ vì sự thù ghét... ngay cả trên đất nước Việt nam hằng ngày có biết bao nhiêu những vụ án, có cả những vụ án rợn người như: cướp tiệm vàng ở Bắc giang của sát thủ Lê văn Luyện, hay giết người vì muốn làm anh em Lê văn Luyện ở Thanh Hóa... Như vậy, có điều gì đó cần được tìm hiểu rõ hơn cho việc đào luyện một con người trở thành thiện hay ác.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: lương tâm là tiếng Thiên Chúa nói trong lòng mỗi người, dạy ta làm lành, lánh dữ, trong Hiến chế Vui mừng và hy vọng nói rất rõ: "Lương tâm là điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu." Một cách nào đó có thể nói lương tâm chính là tính thiện nơi mỗi người được phú bẩm, được trao phó và mời gọi làm cho tính thiện ấy ngày một trong sáng.

Tính thiện hay lương tâm được phú bẩm cho mỗi người như là hạt giống, là mầm được gieo để trở thành một cây hữu ích. Nhưng để được như vậy đòi hỏi phải được uống nắn, cắt tỉa theo một hình dáng kiểu mẫu nhất định phù hợp với ý muốn người chăm sóc. Cũng vậy con người cũng phải được uốn nắn, cắt tỉa giống như vậy để trở thành người thiện, người đạo đức. Trồng cây tạo dáng theo sách vở, theo sở thích còn trồng người theo khuôn mẫu nào, vì tất cả mọi sự trên trần gian này đều hữu hạn không thể uốn nắn cách rập khuôn như là chỉ nam của cuộc đời mình. Có những đạo lý ngày nay xem ra hợp thời nhưng chưa chắc đã hợp lý cho đời sau, có những giáo huấn xem ra là đúng nhưng vẫn có những mặt trái cần khắc phục... Vậy lấy gì để đào luyện con người.

Con người là nhân linh, có hồn thiêng bất tử thì phải được Đấng Cội Nguồn sự bất tử giáo huấn, hay cụ thể hơn là phải dùng chính Lời Chúa làm đèn soi cho cuộc đời mình. Lời Chúa là bất biến, là trường tồn, là Chính Chúa nên phải dùng Lời Chúa đào luyện lương tâm, đào luyện tính thiện nơi con người. 

Việc huấn luyện lương tâm quan trọng nhất là lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của Hội Thánh :

Từ khi nguyên tổ phạm tôi, thì tiếng nói vô hình của Thiên Chúa trong tâm hồn con người, tức là lương tâm, bị tội lồi làm lu mờ. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, Ngài đã ban cho loài người tiếng nói hữu hình, chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh, để bổ túc cho tiếng nói vô hình là lương tâm. Quả thật Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời là Chúa Giêsu đến ở giữa loài người để dạy dỗ loài người một cách đầy đủ và chính xác. Như vậy, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh để huần luyện lương tâm ngay chính.

Hội thánh đã khẳng định như sau: "Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để huấn luyện lương tâm. Chúng ta phải lãnh hội Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hiện; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn." (DH 14). (GLCG số 1785)

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa: "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa." (Lc 11,28)

"Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá . . . còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát."  (Mt 7, 24.26) (Giuse Hoàng Kim Đại, Huấn luyện lương tâm)

Để tính thiện trong con người được trong sáng, không bất chính, không sai lầm, không phóng túng, không chật hẹp, không giả hình... đòi hỏi mỗi con người luôn biết đào luyện mình luôn mãi trong suốt cuộc đời bằng nhiều phương cách: có thể là luân thường đạo lý của xã hội, của gia đình, có thể là các giáo huẩn của các bậc thánh hiền...nhưng trên hết phải là Lời Chúa vì Lời Chúa là trường tồn, là bất biến, là sự thật, là sự sống, là cùng đích của mọi người.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 22  : CÁC THƯ MỤC VỤ (tt)

7/ Các thư mục vụ nói gì về việc tổ chức Hội thánh?

Các thư ấy đề cập tới cách thức tổ chức Hội thánh, đặc biệt về cơ cấu của giáo đoàn địa phương được cắt đặt như sau:

-      Trước hết là các vị Giám sự (sau nầy gọi là Giám mục) (1 Tim 3, 1-7; Tit 1, 5-9) được đặt tay để truyền chức (1Tim 5, 22; 2 Tim 1, 6), có nhiệm vụ cai quản, dạy dỗ và phân xử (1 Tim 3, 5; 5, 17-19).

-      Kế đến là các vị niên trưởng (sau nầy gọi linh mục) được thiết lập trong mỗi thành (Tit 1, 5) có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ (1 Tim 5, 17).

-      Rồi các phụ tá (sau nầy gọi là phó tế) (1 Tim 3, 8-13).

-      Cũng có cả "Nữ phụ tá" (1 Tim 3, 11). Các vị phụ tá chuyên lo những việc từ thiện trong cộng đoàn. Cuối cùng là các quả phụ, có vai trò phục vụ công ích trong cương vị của mình.

8/ Tác gải các thư mục vụ nói gì về việc truyền chức?

Ngài đã đề tới việc truyền chức như sau:

-      "Đừng vội đặt tay cho ai! Đừng thông với kẻ khác" (1 Tim 5,22).

-      "Đừng bỏ lỡ ân lộc có nơi anh em, ơn được ban cho anh em nhờ ơn tiên tri khi các vị niên trưởng (Giám mục) đặt tay trên anh em" (1 Tim 4,14).

-      "Cha khuyên con hãy nhớ lại ơn huệ Thiên Chúa ban xuống trên con qua việc đặt tay của cha" (2 Tim 1,6).

9/ Thái độ của tác giả thư mục vụ thế nào đối với tuổi trẻ?

-      "Chớ để cho người nào khinh con vì còn tuổi trẻ, nhưng con hãy tỏ cho tín hữu noi gương trong lời nói cách ăn nết ở, trong lòng mến, đức tin và sự tinh khiết" (1 Tim 4, 12).

-      "Trong mọi sự hãy tỏ ra mình là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang tề chỉnh, giảng dạy lời lành mạnh, không ai bắt bẻ được..." (Tit 1, 7-8).

10/ Thánh Phaolô viết thư cho Titô nhằm mục đích gì?Phaolô viết "để đem những người được Thiên Chúa chọn tới đức tin và nhận ra chân lý" (1, 1).Cũng như ngài đã viết cho Timôthêô, ở đây Phaolô viết cho Titô để chỉ vẽ những tư cách của một người lãnh đạo Giáo hội phải có, bổn phận bảo vệ chân lý, chống lại những tà thuyết.

Lời Chúa: "Cha khuyên con hãy nhớ lại ân huệ Thiên Chúa ban xuống trên con qua việc đặt tay của Cha"   (II Tim 1, 6).

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con vẫn ước muốn sống thánh thiện, nhưng quả thật chúng con thiếu bản lãnh để quyết định chấp nhận cuộc thay đổi. Xin giúp chúng con mạnh dạn bước vào hành trình mới do Thánh Thần Chúa dẫn dắt, để chúng con thuộc về Chúa và luôn tìm ý Chúa thực hiện. Amen

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

LINH MỤC QUẢN XỨ THEO CỒNG ĐỒNG VAT.II VÀ BỘ GIÁO LUẬT MỚI (tt)

1. Tương quan giữa CĐ Vatican II và Bộ Giáo-Luật mới

2. Định nghĩa Linh Mục Quản Xứ

3. Những điều kiện để trở thành một Linh Mục Quản Xứ

Sau khi định nghĩa thế nào là một linh mục quản xứ, Bộ Giáo-Luật mới đưa ra bốn điều kiện để trở thành một linh mục quản xứ (điều luật 521).

          Một là, phải vượt trổi về mặt giáo lý tinh tuyền.

Trước hết, linh mục quản xứ  phải vượt trổi về mặt giáo lý, nghĩa là linh mục quản xứ phải hơn người trong lãnh vực chuyên môn của mình, là lãnh vực đức tin. Thánh Salêxiô ví sự thông thái như con mắt của linh mục để thấy đường mà đi và để dẫn đường cho kẻ khác thấy mà đi. Công Đồng Tôlêđô, đầu thế kỷ VII, khẳng định rằng: "Linh mục phải là kẻ không được ngu dốt".

Muốn có một nền giáo lý vượt trổi, linh mục quản xứ nào cũng cần phải hằng ngày học hỏi thêm luôn. Và điều nầy, Đức Giám Mục giáo phận phải hết sức nâng đỡ các linh mục trong giáo phận phận ngài thực hiện cho được, kẻo các linh mục của ngài bị tụt hậu.

Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Mercier bắt buộc các linh mục trong giáo phận ngài mỗi ngày phải ngồi vào bàn làm việc trong ít nữa là hai tiếng đồng hồ để học hỏi thêm, để nghiên cứu thêm.

Còn Đức Giám Mục Bossuet tuy rất thông thái, nhưng ngày nào cũng ngồi trong phòng làm việc để học hỏi thêm. Ngài thường nói chơi với bổn đạo: "Cha học hành chưa đủ". Vì thế, một giáo dân kia thương hại ngài và ao ước: "Chớ gì giáo phận chúng ta có một Đức Cha học hành cho đủ. Đức Cha chúng ta học hành chưa đủ, nên ngày nào, ngài cũng phải học thêm!".

Linh mục quản xứ phải có một nền giáo lý vượt trổi, nhưng nền giáo lý vượt trổi nầy phải là một nền giáo lý tinh tuyền, đi đúng theo con đường đức tin ngàn đời của Giáo Hội.

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy phần lớn những nguyên do gây đau thương cho Giáo Hội là vì có những giám mục, linh mục, tu sĩ, vì không có một nền giáo lý tinh tuyền vượt trổi, nên đã chủ trương nhiều điều sai lạc và gây nhiều thiệt hại nặng nề cho Giáo Hội. Chúng ta hãy kể ra một vài trường hợp: Đức Giám Mục Nestôriô chủ trương Đức Mẹ Maria không phải là Mẹ của Thiên Chúa, linh mục Ariô chủ trương Ngôi Hai không đồng bản tính với Đức Chúa Cha, tu sĩ Lutêrô chủ trương không chấp nhận quyền bính của Giáo-Hội .....

          Hai là, phải vượt trổi về mặt đạo đức thánh thiện.

Phải vượt trổi về mặt đạo đức thánh thiện. Đây là điều kiện quan trọng hơn hết của một linh mục quản xứ.

Kinh nghiệm đau đớn của lịch sử Giáo Hội cho thấy: linh mục thông thái mà không đạo đức thánh thiện thì trước sau gì cũng phản lại Giáo Hội, hoặc không phản lại thì cũng gây ra nhiều gương xấu nặng nề cho Giáo Hội.

Đọc câu truyện sau đây, chúng ta thấy buồn cười, nhưng chúng ta nhận thức được chân lý quan trọng về người đứng ra phục vụ Giáo Hội phải là người đạo đức thánh thiện trước hết. Số là, năm 1904, khi Đức Hồng Y Sêlêxiô, Tổng Giám Mục Palermo, qua đời. Một phái đoàn đạo và đời của thành phố nầy đến Rôma, xin gặp Đức Thánh Cha Piô X để trình lên nguyện vọng có một tân Tổng Giám Mục Palermo có bằng tiến sĩ thần học. Nhớ lại con đường ơn kêu gọi của mình, Đức Thánh Cha Piô X trả lời một cách gián tiếp:

"Cha biết có một linh mục, khi được làm cha sở, không có bằng cấp gì; khi được đặt làm kinh sĩ, cũng không có bằng cấp gì; khi được đặt làm Giám Mục, cũng không có bằng cấp gì; khi được chọn làm Giáo Hoàng, cũng không có bằng cấp gì. Và đó, chính là Cha đang nói với các con đây".

Đức Giáo Hoàng Piô X muốn dạy cho mọi người biết: điều quan trọng trước nhất của một người đứng ra lãnh đạo Giáo Hội, phải là sự đạo đức thánh thiện.

          Ba là, phải có lòng nhiệt thành lo cho các linh hồn.

Các nhà tu đức sánh linh mục không nhiệt thành như một dòng suối khô cạn, không có nước, như một ngôi sao bị tắt, không có ánh sáng, như một thây chết bất động, không có sự sống.

Lòng nhiệt thành là điều tất yếu của một linh mục đạo đức thánh thiện. Linh mục nào đạo đức thánh thiện thì thế nào cũng tràn đầy lòng yêu mến Chúa và hăng hái đem tình yêu Chúa đi nung đốt tha nhân.

Trên mộ Đức thánh Giáo Hoàng Piô X, có khắc câu tiếng Latinh được dịch ra như sau: "Nghèo và Giàu - Dịu Dàng và Khiêm Nhượng trong lòng - Chiến Thắng mạnh mẽ những cuộc tấn công vào Giáo-Hội - Ngài đã cố gắng trong mọi thể cách để tái tạo mọi sự trong Chúa Kitô". Tái Tạo Mọi Sự Trong Chúa Kitô (Instaurare Omnia In Christo) là khẩu hiệu của Đức Giáo Hoàng Piô X.

          Bốn là, phải có tư cách cần thiết theo luật dạy.

Luật chung cũng như luật riêng, đòi buộc linh mục phải là một con người có đầy đủ tư cách về mặt nhân bản, cũng như về mặt thiêng liêng. Những tư cách nầy đem lại uy tín cho linh mục, làm cho linh mục được người ta quý mến, và nhờ đó, công việc tông đồ của ngài được kết quả.

Chúng ta chỉ lôi kéo được những ai yêu mến chúng ta mà thôi. Một thanh niên Ý phạm tội sát nhân, sắp bị đem đi xử tử. Linh mục Cafasso được mời đến để gặp thanh niên nầy trong những giây phút cuối cùng của đời anh. Gặp được một linh mục trong lúc sắp chết là một hồng ân lớn lao Chúa ban. Sau buổi gặp gỡ, thanh niên nầy khóc nức nở, hôn tay linh mục Cafasso và thổn thức nói: "Nếu khi còn nhỏ, con gặp được một linh mục như cha!".

Nguồn: http://tonggiaophanhue.net

SỐNG ĐẠO

SỐNG ĐẠO

Muốn sống đạo thì phải có đạo, giữ đạo, sau đó mới có thể sống đạo.

Cách chung, chúng ta có đạo nhưng có thể có như cái người không biết đạo giữ đạo sơ sài, dĩ nhiên chưa biết nhiệt thành sống đạo.

Dĩ nhiên, chúng ta không phải là hạng vô thần, không nghĩ đến đạo nên đạo đối với những hạng người đó kể như không có.

Còn chúng ta? Chúng ta có biết đạo rõ ràng chưa? Chưa chắc!!! Vì đạo chúng ta có nhiều mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta, học biết chút ít, còn nhiều điều sâu xa chưa biết.

Ngay việc tôn thờ, giới công giáo nhận biết THỜ là nhìn nhận Thiên Chúa là cao cả hơn hết mọi loài, mọi vật (có khi chúng ta cũng tôn sùng Mẹ Maria như tôn thờ Chúa). Thật ra, đối với Mẹ Maria và các Thánh chúng ta chỉ tôn kính mà thôi.

Ngoài Công giáo, có đạo thờ "chúa" còn thờ tất cả thứ gì có vẻ siêu linh như cả những loài vật, cả những cây đa, viên đá... Ngay cả giới Công giáo có khi không phân biệt thờ và kính - chúng ta không thờ Đức Mẹ, thánh Giuse, thánh Antôn...đúng ra không thờ Đấng Thánh nào cả mà chỉ cung kính thôi.

Chỉ thờ Thiên Chúa - Chúa Ba Ngôi, Chúa giáng trần, Chúa chuộc tội, Chúa bao dung, Chúa ban ơn phù hộ, không có chi chúng ta có mà không bởi Chúa.

Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc Chúa, mặc dầu Chúa ban cho chúng ta được tự do, nhưng tự do theo ý Chúa, không phải tự do muốn sống thế nào tự ý.

Chúng ta có hiểu thờ Chúa như thế nào chưa?

TRANG LINH MỤC

Thứ Năm Tuần Thánh 2009:
Linh Mục Và Trách Nhiệm Huấn Luyện Lương Tâm Tín Hữu

"Ngày nay, chắc chắn một trong những ưu tiên mục vụ là huấn luyện lương tâm các tín hữu, bởi vì như tôi đã khẳng định vào nhiều dịp, khi ý thức về tội bị đánh mất thì không may, cảm giác tội lỗi lại gia tăng, và người ta tìm cách giải toả cảm giác đó bằng cách chạy đến những phương dược không thích hợp. Có nhiều phương thế mục vụ và thiêng liêng vô giá góp phần vào việc huấn luyện lương tâm và cần được phát huy. Trong số những phương thế này, hôm nay tôi chỉ muốn nhấn mạnh cách ngắn gọn đến việc dạy giáo lý, thuyết giảng, giảng lễ Chúa nhật, linh hướng, bí tích hoà giải và cử hành Thánh Thể.

Trước hết là dạy giáo lý. Cũng như các bí tích khác, bí tích Giải tội đòi phải học giáo lý trước đó cũng như giáo lý nhiệm huấn nhằm hiểu biết sâu hơn về bí tích "qua nghi thức và kinh nguyện" như Hiến chế về Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II minh định (x. số 48). Dạy giáo lý cho tốt là góp phần thực tiễn vào việc huấn luyện lương tâm con người bằng cách giúp họ có ý thức đúng đắn hơn về tội, vốn là điều đang bị lu mờ ngày nay, và tệ hơn nữa, đang bị che phủ do lối nghĩ và lối sống "như thể không có Thiên Chúa", theo cách diễn tả của Grotius. Lối sống đó đang thịnh hành và hàm chứa thứ chủ nghĩa tương đối khép kín trước ý nghĩa đích thực của đời sống.

Việc dạy giáo lý cần phải phối hợp với việc rao giảng vốn mang nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử Giáo Hội, tuỳ theo tâm thức và nhu cầu mục vụ của các tín hữu. Ngày nay cũng thế, các cộng đoàn của chúng ta sử dụng nhiều loại hình truyền thông, vận dụng những phương thế hiện đại nhất để phục vụ cho mục đích rao giảng. Thật vậy, một đàng, nếu những phương tiện truyền thông ngày nay là một thách đố cần cân nhắc, thì đàng khác, những phương tiện đó lại cung cấp những cơ may đặc biệt cho việc loan báo chân lý vĩnh hằng và bất biến mà Vị Thầy thần linh đã trao phó cho Giáo Hội. Nhờ những phương tiện đó, chúng ta có thể loan báo chân lý một cách mới mẻ, gần gũi với cảm thức của con người hơn.

Nhờ sự canh tân của Công Đồng Vaticanô II, bài giảng lễ (homilia) đã tìm lại được vai trò "bí tích" của mình trong cùng một hành động thờ phượng duy nhất bao gồm phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể (Hiến chế Phụng Vụ, số 56). Chắc chắn đây là hình thức rao giảng phổ biến nhất nhằm huấn luyện lương tâm của hằng triệu tín hữu mỗi Chúa nhật. Trong Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới gần đây, tập trung vào Lời Chúa trong Giáo Hội, các nghị phụ đã đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị của việc giảng lễ và tầm quan trọng của việc thích ứng bài giảng với tâm thức của người đương thời.

"Linh hướng" cũng góp phần vào việc huấn luyện lương tâm. So với quá khứ, ngày nay người ta có nhu cầu lớn hơn trong việc tìm kiếm "các bậc thầy thiêng liêng" khôn ngoan và thánh thiện. Đó là công việc phục vụ quan trọng trong Giáo Hội. Chắc chắn công việc này đòi hỏi một sinh lực nội tâm mà ta phải khấn xin như ơn ban của Thánh Thần qua cầu nguyện lâu dài và mãnh liệt, cũng như phải có sự đào tạo đặc biệt và cẩn trọng trong lãnh vực này.

Hơn nữa, mọi linh mục đều được kêu gọi phục vụ lòng Thiên Chúa thương xót trong bí tích Giải tội, qua đó linh mục tha thứ tội lỗi nhân danh Chúa Kitô và giúp hối nhân bước đi trên con đường vất vả của sự thánh thiện với lương tâm ngay chính và hiểu biết. Để có thể chu toàn tác vụ khẩn thiết này, mỗi linh mục phải chăm sóc chính đời sống thiêng liêng của mình và quan tâm theo kịp thời đại về mặt mục vụ cũng như thần học.

Cuối cùng, lương tâm của người tín hữu được thanh lọc nhờ tham dự Thánh Lễ cách sốt sắng và tích cực vì Thánh Lễ là hi tế của Chúa Kitô nhằm tha thứ tội lỗi. Bất cứ khi nào linh mục cử hành Thánh Lễ, ngài đều nhắc lại trong Kinh nguyện Thánh Thể rằng Máu Chúa Kitô đổ ra để tha thứ tội lỗi chúng ta. Chính vì thế, khi tham dự cách bí tích vào việc tưởng niệm hi tế Thập giá, sự gặp gỡ yêu thương giữa Chúa Cha và mỗi người chúng ta được hoàn thành.

Tôi thúc giục các linh mục hãy trân trọng tất cả những gì đã học về bí tích Giải tội. Các linh mục sống và làm việc trong những môi trường khác nhau, nhưng dù ở đâu, linh mục cũng phải nhớ rằng chúng ta phải là những thừa tác viên xứng đáng của lòng thương xót Chúa và là những nhà giáo dục lương tâm. Ước gì chúng ta được nâng đỡ nhờ gương mẫu của các vị giải tội thánh thiện và các bậc thầy về đường thiêng liêng. Trong số các vị đó, tôi đặc biệt nhớ đến cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, mà năm nay chúng ta kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của ngài. "Ngài đã hướng dẫn giáo xứ được trao phó cho ngài cách tuyệt vời hơn 40 năm... với sự cần mẫn giảng dạy, cầu nguyện và một đời sống đền tội. Hằng ngày, qua giờ giáo lý dạy cho trẻ em và người lớn, qua việc ngồi toà giải tội cho hối nhân, qua những công việc thấm đẫm tình yêu nồng cháy mà ngài rút lấy từ Thánh Thể như từ dòng suối, ngài đã đi rất xa đến nỗi gieo vãi lời khuyên của ngài đi khắp nơi và đem số đông về với Chúa" (Lịch Các Thánh Tử Đạo, ngày 4.8). Đây là mẫu mực cho ta noi theo và đấng bảo trợ ta cầu khấn mỗi ngày.

Cuối cùng, Đức Trinh Nữ Maria đang chăm sóc thừa tác vụ linh mục của mỗi chúng ta. Trong mùa Chay, chúng ta khẩn cầu và tôn vinh Mẹ là "Người môn đệ của Chúa" và là "Mẹ của ơn hoà giải". Với những tâm tình này, tôi thúc giục mỗi người trong anh em hãy tận tâm tận lực với việc ngồi toà giải tội và linh hướng, và tôi ban phép lành cho anh em."

Từ Vatican, ngày 12 tháng 3 năm 2009

Bênêđictô XVI, Giáo Hoàng

SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY

Khi đọc Phúc âm, tôi thấy Chúa Giêsu đã so sánh những  người Pharisiêu và giới lãnh đạo tôn giáo thời đó giống như những lũ trẻ đường phố rủ nhau chơi đùa: "Chúng tôi thổi sáo sao anh em không nhảy múa, hát điệu bi ai sao anh em không khóc,  Nói gì thì nói nó cũng không chịu chơi. Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh không uống rượu, họ bảo Gioan Tẩy Giả Bị quỷ ám. Còn Chúa Giêsu đến, cũng ăn uống như ai, họ bảo Chúa là tay ăn nhậu" (Lc7,3134).  Làm gì cũng không vừa lòng họ được.  Là linh mục của Chúa lắm lúc ta cũng gặp trường hợp giống hệt như vậy. Nên nhớ rằng ta làm gì cũng không thể làmvừa lòng mọi người, chúng ta phải có tiêu chuẩn của Chúa mới được. Hãy làm đúng theo Lời Chúa dạy, đừng vì hoàn cảnh hay vì người ta.         

Lời Chúa phải là ngọn đèn soi bước chân tôi, là kim chỉ nam hướng dẫn cung cách ứng xử của tôi đối với mọi người, là mẫu số chung để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Là linh mục tôi phải biết thương và thông cảm với giáo dân. Thương không có nghĩa là chiều chuộng, không dám nói sợ mất lòng. Thương đúng nghĩa phải là thương trong chân lý, vì "Lời Cha là chân lý, xin hãy thánh hóa chúng trong sự thật" (Ga 17, 17),và chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta.        

Khi mới về Họ đạo, với hoàn cảnh thực tế, có những thuận lợi và khó khăn. Là linh mục của Chúa tôi không để cho hoàn cảnh chi phối mình, nhưng hãy biết tận dụng hoàn cảnh để làm theo ý của Chúa, vì biết rằng tất cả là hồng ân. Như Thánh Phaolô đã mạnh dạn tuyên bố: Dù thuận lợi hay không thuận lợi, cũng phải rao giảng Lời Chúa. Hãy rao giảng Lòi Chúa không chi trên bục giảng, mà bằng cả cuộc sống . Hãy nhập vai Thầy Giêsu trong mọi cảnh huống cuộc đời mình, để mọi người nhìn thấy Chúa Giêsu trong linh mục. Hãy cảm nhận những vui buồn sướng khổ với Chúa Giêsu, nếm trải thành công thất bại với Chúa , cùng dong duổi với Chúa trên mọi nẻo đường và ước muốn được nên giống Chúa mỗi ngày nhiều hơn có thể.    

Là linh mục cũng có người thương kẻ ghét. Người thương ta, ta cám ơn người, nhung ta không giữ độc quyền cho mình mà phải dẫn họ đến với Chúa. Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga21,17). Chiên là của Chúa, nhiều khi ta quên điều này và cứ tưởng rằng chiên là của mình nên xẩy ra nhiều điều đáng tiếc. Kẻ ghét ta, thậm chí chửi rủa ta thậm tệ, phản ứng của ta là buồn và tìm cách trả đũa. Tôi nhớ lại câu chuyện trong Thánh Kinh, khi Shimơi nguyền rủa Davit bằng những lời lẽ độc địa khinh miệt đến nỗi các bộ hạ nổi nóng và muốn lấy đầu y. Davit trả lời thế này: "Hãy để nó nguyền rủa , vì Yavê đã bảo nó làm thế. Có lẽ Yavê sẽ đoái nhìn dến nỗi khốn khó của ta, và Yavê sẽ trả lại phúc lành cho ta thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay"( 2Sam16,11-12). Khi đem những tâm tình của Vua Davit áp dụng vào trong hoàn cảnh của mình ta mới thấy thấm thía và lòng đầy bình an.

Gioan Tẩy Giả là người đạo đức như vậy, Chúa Giêsu là Đấng Thánh Thiện vô cùng mà người ta còn nói được, phương chi chúng ta . Nói như vậy không có nghĩa mình làm bừa, nhưng phải dựa vào tiêu chuẩn của Chúa. Hãy làm đúng theo Lời Chúa dạy, đừng vì hoàn cảnh hay vì người khác.

TRANG TU SĨ

ĐỂ CÓ CÁI TÂM YÊU THƯƠNG

Con người ngày nay chỉ có thể có cái tâm yêu thương khi họ được ôm ấp trong môi trường của yêu thương, của tình yêu. "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", sống trong môi trường yêu thương như thế ắt hẳn con người sẽ cảm nhận được tình yêu thương dành cho họ và tâm yêu thương của con người sẽ được khơi dậy và hành động đúng theo tiếng lương tâm chân thật là chính Đức Ki Tô.

Gia đình chính là cái nôi của sự sống và tình yêu, chính tình yêu thương của cha mẹ sẽ thúc đẩy người trẻ sau này hành động theo con tim yêu thương của lòng nhân ái. Đặc biệt, nơi đây cha mẹ khơi dậy cho con cái có lương tâm thật can đảm khước từ những gì không chính đáng.

Con người ngay từ lúc sinh ra đã được dạy dỗ, được huấn luyện để sống là một con người, dạy dỗ để trở thành người tự do và có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Dạy dỗ huấn luyện về học vấn, đức hạnh... để con người sống đúng phẩm giá của mình.

Đối với người Kitô hữu, lương tâm là điểm sâu thẩm nhất của con người và là nơi Thiên Chúa hiện diện. Chính vì thế, khi nghe theo tiếng lương tâm, ta có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với chính mình và nhờ phán quyết của lương tâm, ta ý thức và nhận ra những quy luật của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của xã hội hôm nay, một cuộc sống đầy vội vã - hưởng thụ, nhìn những gì trước mắt mà sống chứ không cần để tâm lắng đọng, lắng nghe tiếng nói nơi tâm hồn mình. Giáo Hội mời gọi mỗi con người phải biết tìm về cội nguồn, tìm về chính Thiên Chúa, để nghe tiếng Ngài, nhưng trong cuộc sống xao động này, tôi làm sao lắng nghe tiếng Chúa nói với tôi bên tai được ? Chỉ còn cách tôi trở về với chính mình, cần lắng đọng tâm hồn, hồi tâm suy nghĩ kiểm điểm trong thinh lặng và suy niệm, để ta có thể gặp gỡ Đấng gần bên ta hơn chính tim ta gần ta. Và để cậy nhờ vào Thần Khí Chúa - Đấng Bảo Trợ quyền lực tuyệt đối, hằng gìn giữ, soi sáng hướng dẫn.

Lương tâm là một ân ban do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải do con người mà có, tuy nhiên nó có thể bị biến chất không còn tinh tuyền như ban đầu trong môi trường ta sống. Như thế ta cần phải đặt lương tâm ta dưới ánh sáng Lời Chúa để ta được huấn luyện trường kỳ và để sống xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần.

Huấn luyện lương tâm không chỉ một ngày là xong nhưng còn là một quá trình dài lâu, là mỗi ngày là một bắt đầu huấn luyện. Lời Chúa đóng vai trò quan trọng trong việc huấn luyện lương tâm con người. Nói cách khác, nhờ Lời Chúa, lương tâm sẽ đạt đến sự phát triển trọn vẹn.

"Trong Đức Kitô, tôi nói thật, tôi không nói dối, trong Thánh Thần, lương tâm tôi làm chứng cho tôi" ( x. Rm9,1). Nói đến lương tâm là nói đến mối tương quan với Thiên Chúa. Huấn luyện lương tâm là để Thiên Chúa huấn luyện ta, lương tâm cũng có nghĩa vụ tìm kiếm chân lý..

"Nhân chi sơ tính bản thiện", do sống trong môi trường không được đào luyện lương tâm đúng đắn, lương tâm người trẻ dần trở nên xơ cứng dẫn đến chai lỳ. Đôi khi mất cảm thức về tội nên lương  tâm của họ cũng chẳng còn biết đâu đúng đâu sai.

Đọc, tìm hiểu, suy niệm , lắng nghe Lời Chúa để tìm ra sự thật, để lương tâm luôn trao dồi, đổi mới, như máu vẫn cần cho cơ thể thì Lời Chúa cũng cần cho lương tâm của mỗi chúng ta như vậy.

Đức Giêsu phán: "THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG" ( Ga 14,6), vì vậy đọc hiểu suy niệm Lời Chúa chính là để cho lương tâm đến gần Chúa hơn, nói cách khác, chính Ngài mới thỏa mãn những cơn khát sự thật về Thiên Chúa, về con người, về cuộc đời và thế giới. Và với Lời Chúa, với Đức Ki tô, chúng ta có thêm sức mạnh để đương đầu với những thách đố của thời đại, của những gian dối, những thú vui lạc thú.... Một khi gặp gỡ với Đức Ki tô với Lời Chúa, lương tâm con người tìm thấy sự thật để hướng dẫn họ làm điều thiện và tránh điều ác vì yêu mến Đức Ki tô.

MTG Cái Nhum

ĐỂ CÓ MỘT LƯƠNG TÂM TỐT

Câu chuyện của tôi - Vào một buổi chiều Chúa Nhật của tháng 8 năm 1997, tôi đang giúp các em thiếu nhi ổn định chỗ ngồi chuẩn bị thánh lễ trong nhà thờ, thì có một giọng nói từ phía sau:

-       "Thưa Dì, con đang trên đường về nhà thì bị móc túi sạch trơn rồi.  Giờ hai bà cháu không còn tiền đi xe nữa.  Dì thương cho con mượn ít tiền về xe, khi về tới nhà, con sẽ gởi trả lại cho Dì. Cháu con từ sáng giờ chưa được ăn gì hết, tội quá Dì ơi!"  Giọng người đàn bà nghe rất tội nghiệp. 

Tôi quay lại, bà này khoảng 50 tuổi đi cùng với đứa cháu nhỏ, dáng cũng đáng thương.  Thoạt đầu tôi có chút phân vân, vì tôi sợ mình bị gạt; vả lại trong người lúc đó không có đồng nào.  Nhưng sau đó tôi nghĩ: nếu người ta đã vào tới nhà thờ, mình lại đang mặc áo dòng thế này mà họ mở miệng xin giúp... thì lẽ nào tôi lại không ra tay giúp đỡ.  Vả như họ lợi dụng mình là người tu hành mà gạt, mình có mất mát một chút, thì cũng không sao; nhưng lỡ như họ thật sự đang cần mà mình không giúp thì lòng mình sẽ áy náy không yên.  Nghĩ vậy nên tôi hỏi bà ta:

-       "Nhà bà ở đâu? Bà cần bao nhiêu để về tới nhà?"

-       "Nhà con xa lắm, ở Đà Lạt lận Dì ơi!" Bà ta trả lời.

-       "Con không có tiền nhiều, chỉ có ít tiền để dành gởi xe khi đi học thôi. Nhưng hiện giờ không có ở đây. Bà đợi con về nhà lấy."

Trên đường về cộng đoàn, tôi nghĩ bụng: không biết người ta có thật với mình không. Nhưng lòng trắc ẩn lớn hơn sự nghi ngờ và Lời Chúa nói: "Ai xin thì con hãy cho..." (Lc 6, 30) luôn ở bên tai, thôi thúc tôi quyết định giúp bà ấy.  Tôi cố gắng tìm trong bóp tất cả chỉ có 60,000 đồng.  Trở lại nhà xứ, tôi không ngần ngại đưa hết số tiền gom được cho bà với ý nghĩ: số tiền này chắc chắn sẽ không bao giờ được hoàn lại.  Và đúng như vậy, mãi cho tới bây giờ bà ta đã không bao giờ quay lại nữa.  Còn tôi thì không bao giờ tiếc nuối hay hối hận vì đã làm điều đó.

Câu chuyện thứ hai - Ngày 15/11/2011, một tên trộm đã đột nhập vào một gia đình tại thị trấn Lower Saxony, thành phố Schawanewede, Đức để trộm cắp tài sản. Mặc dù đã trấn áp được người giữ trẻ của gia đình bằng súng, nhưng sau đó hắn đã bỏ trốn mà chẳng lấy một chút tài sản nào trong nhà. Chỉ vì hắn đã quá xấu hổ khi hai em bé của gia đình này đề nghị hắn hãy lấy hết số tiền mà các em tiết kiệm được và thả chị giữ trẻ ra.

Suy nghĩ - Hai câu chuyện có thật trên đây đã cho chúng ta thấy được hai khía cạnh của lương tâm: một người dù biết việc làm của mình là sai (người đàn bà), nhưng chỉ vì lợi ích riêng tư mà cố tình đạt cho được mục đích, không nghĩ đến sự mất mát bất lợi của người, bất chấp tiếng lương tâm.  Còn người kia (anh trộm) đã không làm thế: anh ta cũng có ý xấu là muốn trộm cắp tài sản của người khác.  Nhưng lòng tự trọng và tiếng nói trong lương tâm anh mạnh hơn ý muốn đó: anh đã biết xấu hổ trước hành động của hai em bé và suy nghĩ lại.  Và quyết định cuối cùng của anh là thà mất đi một mối lợi cá nhân chứ không đánh mất lương tâm và không làm hại người.

Trong xã hội hôm nay, còn có quá nhiều những con người như người đàn bà trong câu chuyện trên, và còn tệ hơn thế nữa, nhiều người đã bán rẻ lương tâm, coi thường nhân tính (gian lận, trộm cướp, phá thai, giết người, loạn luân,...) để cuối cùng đem đến hậu quả khôn lường cho chính mình và người khác. Nhưng "Nhân chi sơ tính bản thiện." - Nếu như xã hội chúng ta còn nhiều người như tên trộm kia, chỉ cần một chút suy nghĩ theo lương tâm, thì tệ nạn xã hội sẽ giảm bớt đi rất nhiều.

Thiên Chúa đã khắc ghi trong lòng mỗi con người một lề luật, đó chính là lương tâm.  Người có lương tâm lành mạnh thì luôn nghe theo lương tâm phán đoán, sẽ hướng về điều thiện. Nhưng là con người thì không ai hoàn hảo, tội lỗi, dục vọng, cùng với những ước muốn không lành mạnh sẽ khiến chúng ta dễ dàng bất tuân luật lương tâm.  Để có một lương tâm ngay chính, chúng ta cần được huấn luyện luôn, vì "Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời..." (GLGHCG số 1784).  Và chỉ có Lời Chúa là phương thế tốt nhất để hướng dẫn và giúp lương tâm chúng ta hành động đúng theo ý Chúa, vì "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Tv. 117)).

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

XIN VÂNG NHƯ MẸ

Cứ mỗi lần đến tháng Mân Côi lại làm cho tôi nhớ đến đức "Vâng Lời" nơi Mẹ Maria. Nhờ hai tiếng "Xin Vâng" mà Mẹ đã trở thành dụng cụ đắc lực trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa và là mẫu gương trong việc vâng theo thánh ý Chúa.

Thật vậy, ngày Thiên Thần Truyền Tin cho Mẹ Maria là một biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Thiên Chúa đề nghị và Mẹ đã chấp nhận. Nhờ đó, mầu nhiệm Nhập thể đã được thực hiện. Khi nghe Thiên Thần báo tin Mẹ Maria đã Xin Vâng trọn vẹn và lập tức đáp lại lời mời gọi đó: "Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói" (Lc 1, 38)Mẹ đã tin Chúa cần đến mình để thực hiện chương trình của Chúa. Và Mẹ đã cất bước lên đường theo thánh ý Chúa.

Hành trình tiến đến thánh chức Linh Mục hoặc tu sĩ cũng phải là một hành trình biết lắng nghe và đáp lại tiếng Xin Vâng đối với Chúa. Qua những biến cố xảy ra trong đời Mẹ, mời gọi những người được Chúa chọn cách đặc biệt cũng phải biết nhận ra những biến cố đang xảy ra trong đời mình, nhất là một đời sống hiến dâng cho Chúa trọn vẹn. Tôi có thật sự biết nhận ra những đòi hỏi của Chúa trong cuộc sống và biết thưa Xin Vâng không? Với Mẹ, khi đã nhận ra được ơn gọi của mình, Mẹ hoàn toàn tín thác vào Chúa. Do đó, chúng ta cũng phải hoàn toàn tin và sẵn sàng để Chúa làm tất cả nơi mình. Khi biết chấp nhận cách dứt khoát, xin hãy làm cho con theo ý Chúa, thì lúc đó chương trình của Chúa mới được bắt đầu nơi tôi. Đặc biệt, là trong ngày truyền chức linh mục, tay trong tay Giám Mục và tuyên hứa: "Con xin hứa kính trọng và vâng phục cha cùng các Đấng kế vị cha". Chúng ta có thể khẳng định một điều chắc chắn nếu đi tu mà không có đức vâng lời thì người đó không có ơn gọi tu trì. Nếu có "nín thở qua cầu" thì sau này chỉ làm hại tình hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn: với Giám Mục, với Bề Trên với anh em mà thôi.

Nhìn vào, đức vâng phục nơi Mẹ, Mẹ cũng phải bỏ ý riêng để vâng theo ý "BỀ TRÊN" khi Mẹ chấp nhận 'xin hãy làm cho tôi như ý Ngài',  thì có thể nói cũng ngay tức khắc đời sống của Mẹ đã bị xáo trộn, bị phiền nhiễu... Mẹ khởi đầu cuộc đời đau khổ, nhưng cũng bắt đầu nhận được hồng ân bao la Chúa dành cho Mẹ. Người sống ơn gọi tu trì chắc chắn không thể thiếu những lúc bị hiểu lầm, bị ngờ vực và kéo theo những đau khổ. Chính vì vậy mà những người chấp nhận dâng mình cho Chúa cũng phải biết học nơi Mẹ. Mẹ sẵn sàng chấp nhận tất cả. Mẹ đã nhẫn nại chờ đợi, và luôn lắng nghe tiếng Chúa... và chỉ có sự nhẫn nại mới có thể để cho Chúa thực hiện tất cả những ý định của Ngài. Lịch sử cho thấy bà Sara đã không nhẫn nại được vì bà đã thiếu sự tin tưởng vào Chúa, và muốn làm thay Chúa. Khi bắt đầu chấp nhận ơn gọi nào cũng là lúc chúng ta chấp nhận "cuộc chơi". Vậy khi chấp nhận bước vào con đường tu trì là chấp nhận Xin Vâng theo Ý Chúa để cho Chúa làm tất cả như Mẹ Maria đã làm điều đó.

Khi chấp nhận hai từ Xin Vâng Mẹ cũng chấp nhận thánh giá và thử thách: sinh con trong cô quạnh thiếu thốn, một cuộc sống nghèo nàn vất vả tại làng quê Nazarét... Ở đời chắc chắn ai cũng muốn làm được những việc vĩ đại. Chúng ta nhiều lúc không thoát khỏi được cám dỗ đó, là mong muốn mình sẽ thực hiện được những công việc "để đời" với những "phát minh" chưa ai làm, hoặc những công trình xây dựng "đồ sộ". Do đó, mà hiện tại con vẫn chưa thể vâng lời bề trên con được. Thế nhưng Thánh ý Chúa nhiều lúc lại khác: Ngài cần sự vâng lời hơn những công việc "để đời" có khi đó là một đời sống hết sức tầm thường giữa những con người tầm thường ; cũng có khi đó là một cuộc sống với những đau khổ, nhiều phiền toái, và nhiều khi còn bị hiểu lầm như Mẹ... Nhìn vào Mẹ, ta thấy Mẹ không mong muốn làm những công việc to tát, nhưng Mẹ luôn biết để cho Chúa làm những sự vĩ đại nơi mình, để Chúa tự do thực hiện chương trình của Ngài nơi Mẹ. Điều duy nhất Mẹ luôn gắng sức thực hiện là hy vọng mặc dù không còn gì để hy vọng, phải tin tưởng rằng thất bại chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Và sự thực là Chúa đã làm những điều vĩ đại nơi Mẹ. Các thánh nói thất bại là dấu hiệu dành riêng cho đức tin, báo trước những công trình lạ lùng của Thiên Chúa. Trong việc của Chúa thì hãy để Chúa là người chủ động, khởi xướng chứ không phải là ta, và cũng chính Chúa sẽ là Đấng hoàn tất mọi sự nơi ta.

Noi gương Mẹ, chúng ta cũng hãy biết từ bỏ ý riêng để mà sống theo Ý Chúa, chấp nhận dâng mình cho Chúa là chấp nhận trở thành dụng cụ của Chúa: là để cho Chúa hoàn toàn tự do hành động nơi mình và qua mình, để nhờ đó mà chương trình của Chúa sẽ luôn được thực hiện cách trọn vẹn. Cũng như Mẹ, chúng ta không phải là người có thể hiểu được Chúa luôn trong từng giây phút, nhưng là phải luôn biết thưa Xin Vâng. Sự cao cả của Chúa chỉ thực sự được thực hiện nơi những tâm hồn biết hoàn toàn tín thác cho Chúa.

TRANG THIẾU NHI

LỜI HỨA

Nhà giáo dục Carmel Wynne nói: "Khi cha mẹ không chân thật với con cái hoặc thường xuyên không giữ lời hứa, điều đó có thể phá hủy niềm tin và gây rắc rối trong các mối quan hệ". Dạy con cái chân thật và trung thực là một trong những nhiệm vụ khó nhất đối với các bậc cha mẹ ngày nay. Dù chúng ta chấp nhận điều đó hay không, chúng ta vẫn sống trong một xã hội mà việc nói dối được chấp nhận như một phần bình thường của cuộc sống hàng ngày. Người ta cho rằng ai cũng nói dối, vậy vấn đề là gì?

"Nói dối trắng" (nói dối vô hại) hầu như không được coi là nói dối. Nó được coi là giao tiếp không chân thật nhưng được coi là khí cụ hữu ích để thoát khỏi tình huống khó xử. Quan điểm phổ biến là "điều gây thiệt hại". "Nói dối trắng" được dùng để làm ngơ cảm giác của ai đó hoặc tránh làm thất vọng một đứa trẻ, để ngăn chặn tình huống xảy ra, hoặc để bảo vệ một nhân viên có thể gặp rắc rối.

Dĩ nhiên, sự thật là hầu như mọi người đều nói dối, nhưng đa số các bậc cha mẹ không biết sự dối trá lan rộng trong gia đình mình tới mức nào. Ngày nay, tôi không có ý gây "sốc" mọi người hoặc làm mọi người cảm thấy mình đang bị phê phán. Tôi chỉ có ý thu hút mọi người chú ý đến vấn đề xảo quyệt tăng lên khiến trẻ em cảm thấy không an toàn, hủy hoại niềm tin và gây rắc rối trong các mối quan hệ. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng biết: "Lỗ nhỏ làm đắm thuyền".

Lời hứa quan trọng

Tuy nhiên, nếu một đứa trẻ phải xử lý với người cha/mẹ luôn đổi ý, vấn đề có thể có hệ quả rất khác. Trường hợp Kim Yến là một ví dụ.

Kim Yến muốn mặc chiếc quần jean và áo sơ-mi trắng đi học vi tính. Nó xin mẹ chuẩn bị sẵn cho nó sau khi nó đi học ở trường về, nhưng khi nó về thì người mẹ nói không có thời gian ủi đồ cho nó nên bảo nó mặc đồ khác. Nó thất vọng và khóc, người mẹ la rầy nó: "Đừng ồn ào về chuyện nhỏ nhặt như vậy. Áo sọc kia cũng hợp với quần jean vậy!". Niềm tin của Kim Yến đã giảm sút!

Phá vỡ niềm tin

Người cha sẽ đón con gái từ lớp tin học, và Kim Yến biết cha mình thường đến trễ, không bao giờ người cha đến đón con gái đúng giờ như đã hứa. Dễ hiểu lý do khiến Kim Yến có thói quen thay đổi giờ giấc, vì nó phải thay đổi để không phải chờ người cha đến đón, và tại sao người cha thất vọng khi ông đến trễ.

Dĩ nhiên, đó không phải lỗi của người cha, có thể do kẹt xe hoặc lý do khách quan nào đó! Giao thông ngày nay như mớ bòng bong, ùn tắc giao thông là chuyện thường xuyên, thậm chí có khi phải mắt hàng giờ để chỉ nhích được vài chục mét. Nghĩa là sau khi người cha đón Kim Yến, ông phải đi đường vòng để về nhà vì ông còn phải làm việc khác. Kim Yến buồn vì không xem được bộ phim tuổi học trò mà nó đang say mê theo dõi, nhưng nó phải nén nỗi thất vọng vì sợ cha mẹ thất vọng khi nó có động thái bực tức và họ cho đó là "chuyện nhỏ".

Nói dối gây bất an

Theo một cách dối trá, việc chấp nhận thất hứa và "nói dối trắng" làm tổn hại niềm tin trong các mối quan hệ, đồng thời gây ra nhiều sự bất an và nỗi đau không đáng có. Hãy nhìn những người xung quanh và bắt đầu nhận thức về vô số cách mà xã hội chúng ta thấy để tích cực hành động đối với những gì chúng ta thấy và nghe - tạm gọi là động thái thính thị. Chúng ta quá quen với những người luôn cố gắng biện minh cho hành động sai trái của mình. Họ liệt kê đủ lý do để chúng ta tin họ nói thật, họ không hề dối trá hoặc vô trách nhiệm, thực ra họ đang loại bỏ các hệ quả của sự thật. Chúng ta vẫn thường nói: "Một sự bất tín, vạn sự không tin", lẽ nào không thực hành?

Hình ảnh cũng có thể dối trá

Sợ trễ giờ nên người cha chạy nhanh, bất chấp tín hiệu giao thông. Điều đó cũng gây ấn tượng xấu ở trẻ, vì ngược với những điều nó được học ở trường. Trẻ rất chân thật vì còn trong trắng, môi trường xã hội khiến chúng dần dần biến đổi theo vô thức. Trăm nghe không bằng một thấy. Lời được nghe có thể dễ bị quên, nhưng hình ảnh hiển nhiên đập vào mắt thì khó quên. Hình ảnh thât đó tạo nên ảo giác về sự hoàn hảo, trẻ sẽ cho đó là ảo tưởng hoặc không tưởng. Rất nguy hiểm!

Trong thế giới thực tế, không có con người hoàn hảo - vì "nhân vô thập toàn", vậy cũng không có những cha mẹ hoàn hảo. Dĩ nhiên, con cái sẽ cảm thấy thất vọng khi chúng được dạy phải hy vọng thú vị không cụ thể hóa. Nguy hiểm là chúng sẽ cảm thấy không thể tin những lời hứa của cha mẹ nếu điều thất hứa thường xuyên xảy ra. Có đáng tiếc khi nhiều cha mẹ không biết điều này?

Người ta nói rằng máy quay hình không nói dối, nhưng đó là thời chưa có máy quay hình kỹ thuật số. Ngày nay người ta có thể dùng photoshop để "dựng" nhiều chuyện tày trời mà phải chuyên nghiệp lắm mới có thể phát hiện. Chỉ một cái nhấp chuột là người ta có thể "đổi trắng thay đen". Điều đó tưởng như chỉ có trong phép lạ. Kỹ thuật nhiếp ảnh ngày nay có thể làm được "điều kỳ diệu", có thể lấy "râu ông nọ cắm cằm bà kia" trong nháy mắt, biến Thị Nở thành Tây Thi.

Vĩ ngôn

Trong mỗi gia đình luôn có nhiều tình huống xảy ra, cha mẹ có thể giải thích giúp con cái hiểu đúng để chúng không ảnh hưởng xấu từ cách cư xử không kiên định của người lớn. Ngoài xã hội cũng luôn có những chuyện khiến trẻ có thể "nghi ngờ" - tận mắt chứng kiến chuyện thật, xem ti-vi, nghe radio, đọc báo, nghe kể lại,... Khi trẻ sống với người cha/mẹ hay thay đổi, không giữ lời hứa (dù điều nhỏ), trẻ biết rằng nó không thể tin những gì cha mẹ nói. Cha Mẹ không dạy con cái nói dối nhưng chúng đã trải nghiệm và tự động tiêm nhiễm vào tiềm thức, và cứ thế chúng sẽ coi việc dối trá là bình thường, không còn cảm giác ray rứt về điều xấu. Con cái không tin cha mẹ thì sẽ cảm thấy bất an. Bây giờ chúng ta có thể cảm thông với những cha mẹ "quá tải" với công việc, họ cảm thấy khó làm những việc gia đình như nấu ăn, rửa chén, giặt giũ và ủi quần áo.

Nói chung, rất cần thiết phải giữ lời hứa. Cách giữ lời hứa tốt nhất là "không hứa". Hứa thì phải làm, đừng hứa cho xong lần, hứa suông! Giữ lời hứa là tự trọng, không tự trọng thì không được người khác tôn trọng. Người không giữ lời hứa thì không đáng tin, dù đó là ai. Càng ít thất hứa càng tốt, không "hứa cuội" là tốt nhất, điều này sẽ ảnh hưởng tích cực tới mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái - và các mối quan hệ khác.

Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn" (Mt 18:6). Chắc hẳn chúng ta còn nhớ chuyện kể ở Mt 21:28-32, nói về hai người con. Người cha sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nó "vâng, dạ" rồi không đi; người cha lại sai người con thứ hai, nó cãi lệnh nhưng rồi nó hối hận và đi làm vườn nho. Chúng ta muốn là người con nào? Ai cũng khen người con thứ hai, nhưng liệu chúng ta có sống như người con này? Đó mới là vấn đề: Làm thật, không nói suông!

TRẦM THIÊN THU,  tonggiaophanhanoi.org

TRANG GIỚI TRẺ

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGÔN SỨ ÊLIA
"Việc Thờ Phượng Chân Chính không Phá Hủy, nhưng Canh Tân"

Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ sáu về Cầu Nguyện của ĐTC Bênêdictô XVI ban hành trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày Thứ Tư 15 tháng 6, năm 2011. ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Cầu Nguyện. Lần này ngài suy niệm về cầu nguyện trong Thánh Kinh, đặc biệt là lời cầu nguyện của ngôn sứ Êlia trên núi Carmel.

Anh chị em thân mến,

Trong lịch sử tôn giáo Israel cổ thời, người ta rất đề cao tầm quan trọng của các ngôn sứ, cũng như các giáo huấn và lời rao giảng của các ngài. Trong số đó, nhân vật nổi bật nhất là ngôn sứ Êlia, được Thiên Chúa linh hứng để hoán cải dân chúng.  Tên của ông có nghĩa là "Chúa là Thiên Chúa của tôi".  Và ông đã sống theo đúng nghĩa của tên này bằng cách để cho Thiên Chúa điều khiển đời mình qua việc hoàn toàn hiến thân cho trọng trách làm cho mọi người nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất.  Ông Ben Sira nói về ngôn sứ Êlia rằng: "Rồi ngôn sứ Êlia xuất hiện như ngọn lửa, lời của ông tựa như đuốc cháy bừng bừng." (Hc 48,1). Với ngọn lửa này dân Israel đã khám phá ra con đường đến cùng Thiên Chúa. Trong sứ vụ của ông, ngôn sứ Êlia cầu xin Chúa cho con trai của người góa phụ đang cho ông trú ngụ sống lại (x. 1 V 17,17-24).  Ông kêu cầu cùng Thiên Chúa trong mệt mỏi và lo âu khi ông chạy thoát thân vào hoang địa lúc bị hoàng hậu Giêzebel tìm giết (x. 1 V 19,1-4).  Nhưng đặc biệt là trên núi Carmel, ông đã chứng tỏ cho người ta thấy tất cả quyền năng của lời cầu xin của ông, trước toàn thể dân Israel, ông đã cầu xin Thiên Chúa tỏ Mình ra và hoán cải tâm hồn dân chúng.  Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về cảnh này như được tả trong chương 18 của sách Các Vua Quyển I.

Chúng ta ở vương quốc miền Bắc, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, thời vua Ahab, là thời mà ở Israel đã phát triển một tình trạng hỗn hợp tôn giáo công khai.  Ngoài Chúa, dân chúng còn thờ thần Baal, là vị thần mà họ nghĩ rằng có thể đảm bảo hồng ân mưa cho họ, do đó đã được họ nhìn nhận như có quyền ban sự sống và khả năng sinh sản cho đồng ruộng, con người và gia súc.  Trong khi tự nhận là theo Chúa, một Thiên Chúa vô hình và bí nhiệm, dân chúng đã tìm nương tựa nơi một vị thần họ có thể hiểu và tiên đoán được, mà họ nghĩ rằng có thể làm cho họ có khả năng sinh sản và trở nên thịnh vượng, và họ đáp lễ lại bằng các hy tế.  Dân Israel đã làm theo lời dụ dỗ của việc thờ ngẫu tượng, một cám dỗ liên tục đối với các tín hữu, ảo tưởng rằng mình có thể "làm tôi hai chủ" (x. Matthew 6:24, Lc 16:13), cùng biến những con đường khó khăn của niềm tin vào Đấng Toàn Năng thành dễ dàng qua việc đặt niềm tin vào một vị thần bất lực được tạo nên bởi con người.

Chính để vạch trần sự điên rồ của thái độ này mà ngôn sứ Êlia đã cho dân Israel tập họp trên núi Carmel và đặt trước họ điều cần thiết mà họ phải chọn lựa: "Nếu Chúa là Thiên Chúa thì hãy theo Ngài. Nếu Baal là Thiên Chúa thì hãy theo nó "(1 V 18, 21). Và vị ngôn sứ, người mang tình yêu Thiên Chúa, không bỏ mặc dân của ông trước lựa chọn này, nhưng giúp họ bằng cách cho họ dấu chỉ chứng tỏ đâu là sự thật: Cả ông và các tiên tri của Baal sửa soạn một hy lễ và cầu nguyện, và Thiên Chúa thật sẽ tỏ Mình ra qua việc đáp lời bằng cách lấy lửa thiêu hủy lễ vật.  Như thế là bắt đầu cuộc chạm trán giữa ngôn sứ Êlia và những người theo Baal, mà trên thực tế là giữa Chúa của Israel, Thiên Chúa của ơn cứu độ và sự sống, và một ngẫu thần câm lặng, vô hồn, không thể làm được việc gì dù tốt hay xấu (xem Gr 10:5). Đây cũng là khởi đầu sự tương phản giữa hai cách hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện hoàn toàn khác nhau.

Thực ra, các ngôn sứ của Baal đã khóc lóc, lắc mình, nhảy múa, rơi vào một trạng thái cuồng nhiệt đến nỗi rạch cả thân xác mình "bằng gươm giáo đến chảy máu" (1 V 18:28).  Họ tự hành hạ để được đến gần thần minh của họ, bằng cách dựa vào những khả năng riêng của mình để được thần minh đáp lời.  Do đó thực chất gian tà của ngẫu tượng bị lộ tẩy:  Con người nghĩ rằng ngẫu tượng là một điều gì đó họ có thể điều khiển được và quản trị được bằng những nỗ lực riêng của họ, có thể đến gần được dựa trên chính mình và những sức mạnh sống còn của mình.  Thay vì giúp mở tâm hồn con người ra cho Đấng Khác, và cho một mối liên hệ tự do, là liên hệ cho phép một người rời xa những ranh giới hạn hẹp của tính ích kỷ để bước vào những bình diện của tình yêu và ban tặng lẫn nhau, thì việc thờ ngẫu tượng lại làm cho con người tự khép mình trong vòng độc quyền và tuyệt vọng của tính trục lợi.  Và sự lừa dối ấy là, trong khi thờ ngẫu tượng, con người thấy mình bị bắt buộc phải lệ thuộc vào những hành động cực đoan, trong cố gắng hão huyễn tự đặt mình dưới sự điều khiển của ý muốn của mình.  Vì vậy, các tiên tri của Baal đi đến độ làm hại chính mình, tạo ra những vết thương trên cơ thể, bằng những cử chỉ mỉa mai tức cười.  Để được trả lời, một dấu chỉ là thần minh của họ đang sống, họ phải tự lấy máu phủ mình, như thế tượng trưng cho việc phủ mình trong cái chết.

Một thái độ cầu nguyện vượt trên những thái độ trên rất nhiều là thái độ của ngôn sứ Êlia.  Ông yêu cầu dân chúng đến gần, như thế làm cho họ liên hệ đến hành động và lời cầu xin của ông. Mục đích của thách thức mà ông đưa ra cho các tiên tri của Baal là để đem dân đã lầm lạc vì đi theo ngẫu tượng trở về với Thiên Chúa, vì thế ông muốn dân Israel kết hợp với ông, và như thế trở thành tham dự viên và vai chính trong cầu nguyện của ông và trong tất cả những gì đang xảy ra.  Sau đó, vị ngôn sứ dựng một bàn thờ, sử dụng, như văn bản viết, "mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Giacob, người đã được Chúa phán bảo rằng: 'Tên ngươi sẽ là Israel'" (c. 31 ).  Những phiến đá này đại diện cho tất cả dân Israel và là những điều nhắc nhở hữu hình về lịch sử của ơn tuyển chọn, ơn được Chúa thương cách riêng và ơn cứu độ mà trong đó dân chúng là đối tượng.

Cử chỉ phụng vụ của ngôn sứ Êlia có một ảnh hưởng quyết định: bàn thờ là nơi thánh ám chỉ sự hiện diện của Chúa, còn những phiến đá được dùng để hình thành nó tiêu biểu cho dân chúng, là những người mà giờ đây qua sự trung gian của vị ngôn sứ, được đặt cách biểu tượng trước Nhan Thiên Chúa, trở thành "bàn thờ", nơi dâng lễ vật và hy tế.

Nhưng biểu tượng này cần phải trở thành một thực tại, là dân Israel nhìn nhận Thiên Chúa thật và tái khám phá ra căn tính riêng của mình như dân riêng của Chúa.  Vì vậy ngôn sứ Êlia xin Chúa tự tỏ Mình ra, và mười hai viên đá được dùng để vừa có ý nhắc nhở dân Israel về chính thực trạng của họ, mà còn có ý nhắc nhở Thiên Chúa về đức trung tín của Ngài, là điều mà ngôn sứ nại đến trong lời cầu nguyện. Những lời cầu khẩn của ông có đầy đủ ý nghĩa và niềm tin: "Lạy Chúa, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Israel Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ." (cc. 36-37; x. St 32:36-37).  Ngôn sứ Êlia hướng về Chúa và gọi Ngài là Thiên Chúa của các Tổ Phụ; và như thế ông gián tiếp nhắc đến những lời hứa của Thiên Chúa và lịch sử của việc tuyển chọn và giao ước là những điều liên kết Thiên Chúa với dân Ngài mà không thể nào phân ly được nữa.  Sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử con người thật vĩ đại đến nỗi Danh của Ngài giờ đây liên kết một cách bất khả phân ly với các Tổ Phụ, và ngôn sứ nói lên Danh Thánh ấy để cho Thiên Chúa nhớ lại và biểu lộ lòng trung tín của Ngài; nhưng ông cũng làm như thế để dân Israel có thể nghe thấy mình được gọi tên và nhận chân lòng trung tín của chính mình. Nhưng việc ngôn sứ Êlia công bố Danh Thiên Chúa có một điểm hơi 'đáng ngạc nhiên. Thay vì sử dụng công thức thông thường, "Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacob," ông dùng một tên ít phổ biến hơn: "Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel."  Việc thay thế tên "Giacob" với "Israel" nhắc lại cuộc chiến đấu của ông Giacob ở sông Giaboc cùng việc đổi tên mà người kể chuyện nói đến một cách rõ ràng (x. St 32:31), và tôi đã đề cập ở một trong những bài giáo lý gần đây nhất. Sự thay thế này mang một ý nghĩa sâu sắc trong lời cầu xin của ông Êlia.  Vị ngôn sứ đang cầu nguyện cho dân của vương quốc Miền Bắc, thực ra được gọi là Israel để phân biệt với Giuđa, là vương quốc Miền Nam.  Giờ đây, dân chúng, hầu như đã quên nguồn gốc của mình và mối liên hệ đặc quyền của mình với Chúa, nghe thấy mình được gọi đích danh, cũng như Danh Thiên Chúa, được gọi là Thiên Chúa của các Tổ Phụ và Thiên Chúa của dân, một cách thật rõ ràng: "Lạy Chúa, Thiên Chúa [...] của Israel, hôm nay xin hãy làm cho người ta biết rằng Ngài là Thiên Chúa trong Israel."

Một lần nữa, dân mà ngôn sứ Êlia cầu nguyện cho lại được đặt trước thực trạng của họ.  Vị ngôn sứ cũng xin cho chân lý của Chúa được tỏ lộ; xin Ngài can thiệp vào việc hoán cải dân Israel bằng cách làm cho họ từ bỏ sự lừa dối của việc thờ ngẫu tượng, nhờ đó dẫn họ đến ơn cứu độ.  Lời cầu xin của ông là dân chúng sau cùng nhân biết, và biết cách tường tận, ai thực sự là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ dứt khoát quyết định chọn lựa chỉ theo Ngài, là Thiên Chúa thật. Vì chỉ bằng cách này mà Thiên Chúa được công nhận theo Bản Tính của Ngài, là Đấng Tuyệt Đối và Siêu Việt.  Vì thế người ta không thể đặt Ngài bên cạnh các thần minh khác, vì làm như thế là phủ nhận Tính Tuyệt Đối của Ngài qua việc tương đối hóa Ngài.  Đây là niềm tin làm cho dân Israel trở thành dân Thiên Chúa; đó chính là đức tin được công bố trong câu Thánh Kinh thời danh của Israel là 'Shema Israel': "Hãy nghe, hỡi Israel: Chúa Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất; và anh em phải yêu mến Chúa, là Thiên Chúa của anh em với hết tâm hồn, và hết linh hồn và hết sức anh em" (Đnl. 6:4-5).  Đối với tính tuyệt đối của Thiên Chúa, các tín hữu phải đáp trả bằng một tình yêu tuyệt đối và hoàn toàn, cam kết cả cuộc đời, sức lực và tâm hồn mình. Và bằng lời cầu nguyện của mình, vị ngôn sứ  cho dân chúng ơn hoán cải cho tâm hồn: "Ôi lạy Chúa, để dân này có thể nhận biết rằng Ngài là Thiên Chúa thật, và xin Ngài làm cho họ thay đổi tâm hồn!" (1 V 18:37). Qua lời chuyển cầu của ông, ngôn sứ Êlia xin Chúa những gì chính Thiên Chúa muốn làm, là tỏ Mình ra bằng tất cả lòng thương xót của Ngài , trung thành với bản thể của Ngài như Chúa Sự Sống là Đấng tha thứ, hoán cải và biến đổi.

Và đó là những gì xảy ra, "Bấy giờ lửa của Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ toàn thiêu, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: 'Chúa quả thật là Thiên Chúa! Chúa quả thật là Thiên Chúa!" (cc. 38-39). Lửa, một nguyên tố vừa  cần thiết vừa khủng khiếp này, liên quan đến việc Thiên Chúa tỏ Mình ra nơi bụi gai bốc cháy và ở núi Sinai, giờ đây được dùng để chỉ tình yêu của Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện và tỏ Mình ra cho dân Ngài. Baal, ngẫu tượng lặng câm và bất lực, đã không đáp trả lời cầu khẩn của các tiên tri của nó.  Chính Chúa là Đấng đã trả lời, và một cách rõ ràng, không chỉ qua việc thiêu hủy của lễ toàn thiêu, nhưng còn làm khô tất cả nước đã được đổ quanh bàn thờ. Dân Israel không còn có thể nghi ngờ gì nữa, lòng thương xót của Thiên Chúa đã đáp trả sự yếu hèn, nghi ngờ và thiếu đức tin của họ. Giờ đây, Baal, ngẫu tượng vô hồn đã bị đánh bại, và dân chúng, những kẻ dường như bị lạc đường, đã tìm thấy con đường chân lý và đã tái khám phá ra chính mình.

Anh chị em thân mến, câu truyện trong quá khứ muốn nói gì với chúng ta? Câu truyện này muốn trình bày điều chi?  Điều được đặt ra đầu tiên và tiên quyết là sự ưu tiên của Giới Răn Thứ Nhất: chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa.  Khi vắng bóng Thiên Chúa, con người rơi vào vòng nô lệ của việc thờ ngẫu tượng, như những chế độ độc tài của thời đại chúng ta đã chứng tỏ, cùng với những hình thức khác nhau của chủ nghĩa hư vô, làm cho con người lệ thuộc vào các ngẫu tượng, vào việc thờ ngẫu tượng - chúng biến họ thành nô lệ. Thứ đến: mục đích chính của cầu nguyện là hoán cải: lửa của Thiên Chúa biến đổi tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, có thể sống theo ý Thiên Chúa và sống cho nhau.  Điểm thứ ba: Các Giáo Phụ cho chúng ta biết rằng câu truyện về ngôn sứ này cũng có tính tiên tri, các ngài nói, mặc dù chỉ là hình bóng về tương lai, về Đức Kitô trong tương lai, nó là một bước trong hành trình hướng về Đức Kitô.  Và các ngài cho chúng ta biết rằng ở đó chúng ta thấy lửa thật sự của tình yêu Thiên Chúa, là tình yêu dẫn Chúa đến tận Thánh Giá, đến việc hoàn toàn tự hiến.  Như thế, việc thờ phượng Thiên Chúa cách chân chính là hiến mình cho Thiên Chúa và tha nhân.  Thờ phượng thật là yêu thương thật.  Và việc thờ phượng Thiên Chúa thật không hủy diệt, nhưng canh tân và biến đổi.  Tất nhiên, lửa của Thiên Chúa, lửa tình yêu bốc cháy, biến đổi và thanh luyện, nhưng chính bằng cách này mà lửa ấy không tiêu hủy mà tạo ra sự thật về con người chúng ta, tái tạo tâm hồn chúng ta.  Và như thế, chớ gì nhờ được thực sự sống bằng ân sủng của ngọn lửa Chúa Thánh Thần, của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta trở thành những người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Chân Lý.

Xin cám ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org/vn

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 5. CÁC THỦ TỤC VÀ NGHI LỄ HÔN PHỐI

Ta hãy vui mừng hoan hỉ, hãy tôn vinh Chúa!
Vì này đã đến rồi, tiệc cưới Chiên Con,
và hiền thê của Ngài đã trang điểm sẵn sàng.

Và nàng được mặc trúc bâu rạng ngời tinh sạch.

(Kh 19,7-8)

Tự bản chất, hôn nhân mang tính xã hội, vì nối kết đôi bạn trước mặt gia đình, bạn bè, cũng như trước mặt toàn thể xã hội. Chính vì thế, xã hội nào cũng có những quy định về cưới hỏi, tạo nên những phong tục, tập quán riêng.

Đối với Kitô giáo, hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh và đã được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích. Bởi vậy, đối với bí tích Hôn phối, Hội Thánh cũng có những thủ tục và lễ nghi nhằm diễn tả bản chất đích thực của giao ước hôn nhân, đồng thời giúp đôi tân hôn đón nhận dồi dào ơn sủng do bí tích Hôn phối mang lại.

Là Kitô hữu Việt Nam, khi tổ chức hôn lễ, chúng ta cần diễn tả đức tin theo nét văn hoá truyền thống của mình.

1. Các thủ tục và nghi lễ dân sự

1.1. Các thủ tục về mặt dân luật

- Đăng ký kết hôn: tại Ủy ban Nhân dân, nơi đang cư trú (xã, phường, thị trấn) của một trong hai bên kết hôn[1].

Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật, cơ quan hữu trách sẽ kiểm tra hồ sơ; nếu xét thấy hai bên có đủ điều kiện thì sẽ tổ chức đăng ký kết hôn[2].

- Tổ chức đăng ký kết hôn: Khi tổ chức đăng ý kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ. Đại diện cơ quan yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý, thì sẽ trao Giấy chứng nhận kết hôn[3].

1.2. Các nghi lễ theo truyền thống Việt Nam

Nghi lễ cưới hỏi của Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hoá Trung Quốc. Theo sách xưa, việc hôn nhân gồm có: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp tệ, Thỉnh kỳ, Thân nghinh[4]. Ngày nay, các lễ trên đã được đơn giản hoá và thu gọn vào trong ba lễ sau:

1.2.1. Lễ dạm hay chạm ngõ

Trước đây, việc hôn nhân là do cha mẹ ấn định qua người mai mối (ông mai bà mai), nên nhiều đôi trai gái không hề biết nhau. Lễ "chạm ngõ" là để chàng trai xem mặt cô gái, và cũng để cô gái thấy mặt chàng trai của mình. Đây cũng là dịp để gia đình hai bên chính thức xác nhận việc mai mối của ông mai bà mai.

Lễ dạm là nghi thức đầu tiên, sau khi đôi trai gái yêu nhau và được cha mẹ hai bên đồng ý. Dạm là ướm hỏi xem có ưng thuận không. Gia đình hai bên gặp nhau để xin cho đôi trai gái được chính thức đi lại tìm hiểu nhau. Nghi thức này thường được tổ chức giới hạn trong gia đình hai bên. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nơi đã bỏ lễ này, chỉ còn giữ lễ đính hôn và lễ cưới.

1.2.2. Lễ đính hôn (hay lễ hỏi, đám nói hay đám hỏi)

Sau thời gian tìm hiểu, bên nhà trai mang lễ vật đến nhà gái chính thức xin cầu hôn. Lễ hỏi thường gồm trầu cau, rượu, chè (trà) và bánh trái. Tất cả được đựng trong hộp màu đỏ hoặc gói giấy đỏ vì màu đỏ chỉ sự vui mừng.

Những lễ vật của nhà trai mang tới được nhà gái đặt một ít lên bàn thờ gia tiên. Lễ xong, bánh trái, trầu cau, chè được nhà gái "lại quả" cho nhà trai một ít, còn lại nhà gái dùng để chia cho họ hàng, thân quyến. Mục đích của việc chia bánh trái, biếu trầu cau là để báo tin cho họ hàng bạn bè nhà gái biết con gái mình đã đính hôn.

1.2.3. Lễ cưới (trai thì Thành Hôn, gái thì Vu Quy)

- Lễ Vu Quy:

Lễ cưới cử hành tại nhà gái được gọi là Lễ Vu Quy, tức là lễ cho con gái về nhà chồng. Trước đây, lễ này còn được gọi là lễ nghênh thân hay lễ nghênh hôn, vì trong lễ này chú rể phải tới nhà bố mẹ vợ để đón cô dâu. Bởi vậy, lễ nghênh thân còn được gọi là lễ đón dâu. Nhà trai đem lễ vật đến đặt trước bàn thờ. Nhà gái kiểm lại xem có đầy đủ như đã thỏa thuận không. Sau khi công nhận đầy đủ, thì cho thắp đèn trên bàn thờ để chú rể và cô dâu làm lễ gia tiên.

Chú rể lạy bốn lạy trước bàn thờ để trình diện gia tiên, tiếp đến cô dâu lạy để xin phép xuất giá. Sau đó, chú rể và cô dâu lạy ông bà, cha mẹ, cô dì, cậu mợ, chú bác, và họ hàng nhà gái. Đây cũng là lúc cha mẹ và những người trong thân tộc nhà gái tặng tiền hay quà cho dâu rể mới. Tiếp đến là tiệc mặn hay lạt. Cuối tiệc, trước khi cho đón dâu về nhà chồng, đại diện nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, xin nhà trai đón nhận người con dâu vào trong gia đình và chỉ giáo thêm.

Tại Nam Bộ, Lễ Vu Quy được tổ chức long trọng ngày hôm trước lễ cưới. Trong lễ này, nhà gái mời tất cả thân tộc nội ngoại và cô dâu mời bạn bè dự tiệc. Thường chú rể cũng phải đến trong bữa tiệc này để trình diện dòng họ nhà gái. Tối hôm trước ngày cưới, thường có nghi lễ xuất giá rất cảm động, cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên, rồi ông bà, cha mẹ, những người thân trong gia đình. Lúc này, những người trong thân tộc tặng quà, tiền cho cô dâu.

- Lễ Thành Hôn:

Lễ cưới được tổ chức tại nhà trai gọi là lễ rước dâu. Đây mới chính là lễ Thành Hôn.

Đoàn rước về đến nhà trai, cô dâu được đưa đến trước bàn thờ để làm nghi lễ thành hôn. Nghi thức nổi bật nhất là đốt đèn trên bàn thờ gia tiên. Sau đó cô dâu lạy ông bà, cha mẹ chồng, chào những người trong dòng họ nhà chồng. Lúc này, những người trong thân quyến bên chồng sẽ tặng quà, tiền. Sau đó là nhập tiệc.

Cuối tiệc, đại diện nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, và nhà trai giã từ nhà gái.

2. Các thủ tục và nghi lễ tôn giáo

2.1. Các thủ tục theo giáo luật

Các thủ tục của Hội Thánh có mục đích bảo đảm những điều kiện trên, giúp đôi bạn cử hành Bí tích Hôn phối được thành sự.

- Chuẩn bị: Khi có ý định tiến tới hôn nhân, hai bên nam nữ cần đến gặp cha xứ (thường là cha xứ bên nữ).

Cha xứ sẽ trao đổi và giúp anh chị làm tờ khai hôn phối, để biết anh chị có đúng là Kitô hữu không (đã Rửa tội, Rước lễ và Thêm sức chưa), có hiểu rõ ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo, có biết rõ nhiệm vụ của vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu không[5]. Ngài sẽ giúp anh chị học hoặc ôn lại giáo lý hôn nhân cũng như cách sống đức tin trong đời sống hôn nhân và gia đình[6]. Việc chuẩn bị này là điều rất quan trọng để lời cam kết của hai anh chị trở thành một hành vi tự do và có trách nhiệm, cũng như hôn ước của anh chị có được nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu dài[7].

Để giúp anh chị kết hôn thành sự và hợp pháp theo như luật của Hội Thánh quy định, ngài cũng cần phải biết chắc hai anh chị không bị mắc ngăn trở nào[8]. Nếu có, ngài sẽ giúp anh chị giải quyết. Ngoài ra, anh chị cũng cần được hướng dẫn để hiểu rõ ý nghĩa các nghi thức khi cử hành bí tích Hôn phối[9].

- Nếu anh hoặc chị thuộc một giáo xứ khác thì phải trình giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức. Việc chịu phép Rửa tội là cần thiết để lãnh nhận thành sự bí tích Hôn phối. Còn đối với bí tích Thêm sức, luật Hội Thánh quy định: "Người Công giáo nếu chưa Thêm sức, phải lãnh nhận bí tích này trước khi kết hôn[10]. Bí tích Thêm sức giúp củng cố và làm tăng trưởng đức tin trong đời sống vợ chồng và của con cái sau này. Riêng đối với bí tích Giao hoà và Thánh Thể, Hội Thánh khuyên: "Để lãnh nhận bí tích Hôn phối cho có kết quả, hết sức khuyên đôi vợ chồng lãnh nhận các bí tích Giao hoà và Thánh Thể[11]."

- Rao hôn phối[12] : Sau khi học hỏi giáo lý hôn nhân xong, nếu hai bên quyết định dứt khoát kết hôn, thì trình cho cha xứ bên gái biết. Ngài sẽ làm lời rao hôn phối và rao trong ba Chúa nhật ở giáo xứ của mỗi bên.

Việc rao hôn phối tại mỗi xứ nhằm để cho mọi người trong cộng đoàn biết, thêm lời cầu nguyện và xem xét có gì ngăn trở thì giải quyết trước hoặc trình báo với cha xứ, đồng thời cũng để ấn định lễ cưới[13].

Sau cùng, anh chị cũng cần nhớ: trước khi làm lễ cưới ở nhà thờ, anh chị phải hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn theo dân luật.

(Còn tiếp)

[1] x. Luật Hôn nhân và Gia đình điều 11-12

[2] Luật Hôn nhân và Gia đình điều 13 §1

[3] Luật Hôn nhân và Gia đình điều 14

[4] x. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương (tái bản), Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1998, trang 215

[5] x. GL 1063; 1067

[6] x. CBHP 50-51

[7] GLHT 1632

[8] x. GL 1066

[9] x. CBHP 52

[10] GL 1065 §1

[11] GL 1065 §2; GLHT 1622

[12] GL 1067

[13] GL 1063-1070

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh

Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004
+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho
   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 11. HUẤN LUYỆN THẦN HỌC (tt)

2.    PHỤNG VỤ

Niềm tin của người kitô hữu được diễn tả qua việc cử hành phụng vụ. Tất cả các mầu nhiệm Kitô giáo được loan truyền trong giáo lý và được cử hành trong phụng vụ. Do đó việc huấn luyện phụng vụ sẽ giúp các tín hữu sống kinh nghiệm tôn giáo của con người trải qua bao thế kỷ.

Qua phụng vụ, chúng ta đi sâu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, chúng ta lắng nghe Lời Chúa được công bố và diễn giải, rồi chúng ta nói, hát, hành động để đáp lại Lời Chúa.

Vì vậy giáo lý và phụng vụ liên kết chặt chẽ với nhau. Tương quan này rất sống động nhưng thường trong thực tế ta không dễ thấy được điều đó. Phụng vụ và giáo lý cũng bổ túc cho nhau :

-       Giáo lý chuẩn bị người ta tham dự phụng vụ cách tích cực và sống động qua việc giúp đỡ họ hiểu biết về các mầu nhiệm được cử hành cũng như hiểu biết về bản chất, nghi lễ và dấu chỉ của phụng vụ.

-       Phụng vụ làm cho giáo lý trở thành cụ thể, sống động, giúp sự hiểu biết bằng trí tuệ thành cảm nghiệm bằng tâm hồn. Do đó phụng vụ có một giá trị sư phạm rất lớn trong lãnh vực giáo lý.

Kinh nghiệm cho thấy rằng giáo lý và phụng vụ liên kết với nhau trong bốn lãnh vực :

Thái độ của người Kitô hữu. Qua giờ giáo lý, giáo lý viên là người khuyến khích và giúp người khác biết cầu xin, tạ ơn, sám hối, phó thác và cởi mở tâm hồn với Thiên Chúa trong các giờ phụng vụ và trong đời sống hằng ngày. Những tâm tình này chính là hồn sống của phụng vụ... Chẳng hạn, nếu không có thái độ tạ ơn thì bí tích Thánh Thể sẽ thiếu đi cái hồn của nó. Nếu không có lòng sám hối thực thì sẽ không có bí tích hòa giải. Vì thế, để đạt tới chiều sâu trong khi cử hành phụng vụ, giáo lý viên cần thiết phải nuôi dưỡng những "thái độ phụng vụ" này nơi chính mình và nơi các học viên giáo lý của mình. Chúng ta thực hiện điều này bằng gương sáng của mình hơn là chỉ bằng việc cổ vũ bên ngoài

Nhạy cảm với các dấu chỉ. Phụng vụ được thể hiện qua các hành động và các sự vật mang tính chất biểu tượng như làm dấu, bẻ bánh, phép lành, xức dầu thánh, nước, lửa...

Con người ngày nay sống trong môi trường khoa học, điện toán là những gì có thể thử nghiệm, đong đếm, mua bán hơn là những cảm nghiệm, lễ nghi và các dấu chỉ... Vì thế giáo lý viên cần học hỏi để biết rõ những ý nghĩa thâm sâu của ngôn ngữ biểu tượng và các chất liệu dùng trong phụng vụ để giúp người khác hiểu và tham dự cách sốt sắng hơn. Theo James Dunning: "Giáo lý đầy dẫy biểu tượng và truyện tích, điều kỳ diệu và việc cầu nguyện, im lặng và huyền nhiệm, tưởng tượng và cảm kích... Phụng vụ là thế đấy".

Nền tảng Kinh Thánh. Biểu tượng phụng vụ được tìm thấy trong các câu truyện Kinh Thánh cũng như trong hình ảnh và các biểu tượng tự nhiên. Chẳng hạn, việc đổ nước trong bí tích rửa tội mang biểu tượng tự nhiên của nước là làm sạch, làm tươi mát, làm cho sống và làm tái sinh. Nhưng nước rửa tội nói lên ý nghĩa phong phú hơn rút ra từ những câu truyện Kinh Thánh về nước, chẳng hạn : Câu chuyện sáng tạo, lụt hồng thủy, vượt qua biển đỏ, băng qua sông Jordan tiến về đất hứa...

Việc hiểu biết những câu truyện Kinh Thánh và ý nghĩa của nó rất cần thiết để thấu hiểu những lễ nghi phụng vụ. Giáo lý viên có trách nhiệm hướng dẫn các em về ý nghĩa phong phú của các câu truyện Kinh Thánh

Nối kết phụng vụ với giáo lý. Bằng mọi nỗ lực, chúng ta nối kết việc dạy giáo lý với tâm tình phụng vụ.

Chính vì mối tương quan mật thiết hai chiều giữa giáo lý và phụng vụ mà các sách giáo lý ngày nay thường trình bày nội dung giáo lý theo diễn tiến của phụng vụ. Một số giáo lý viên xây dựng toàn bộ giáo lý xung quanh các bài đọc trong thánh lễ theo chu kỳ phụng vụ.

Một số giáo lý viên khác áp dụng trong lớp học những yếu tố phụng vụ như :

a. Mùa phụng vụ. Bồi dưỡng kiến thức phụng vụ trong các bài học, không những chỉ đề cập đến mà thôi nhưng còn áp dụng nó. Chẳng hạn trong mùa vọng có màu sắc mùa vọng, nghệ thuật, những câu chuyện Kinh Thánh mùa vọng, những bài hát dân gian, hoặc những tấm hình nói lên sự mong mỏi chờ đợi.

b. Lời nguyện phụng vụ. Áp dụng ngay trong lớp những lời nguyện thích hợp lấy từ thánh lễ hay các giờ kinh phụng vụ. Nhiều lời nguyện rất thích hợp cho giáo lý có thể trở thành đề tài trong buổi học.

c. Thánh vịnh và thánh ca. Chọn những bài hát, những thánh vịnh ngày chúa nhật để tạo cầu nối giữa lớp học và nhà thờ.

 d. Biểu tượng và nghi lễ phụng vụ. Một vài cử chỉ điệu bộ, phong cách, và những vật dụng được dùng làm biểu tượng trong phụng vụ có thể làm cho bài học sống động hơn. Việc nối kết các yếu tố phụng vụ và giáo lý không khó lắm một khi ta cảm nhận được giá trị của nó.

3. CÁC NHÂN CHỨNG

Nội dung giáo lý còn bao gồm đời sống gương mẫu của các Thánh, của Giáo Hội và của các chứng nhân kitô hữu. Những giáo huấn của Đức Thánh Cha, của các Công đồng, các Giám Mục, những người có trách nhiệm giảng dạy là những chứng từ sống đức tin và là một phần trong kho tàng Đức tin của Giáo Hội.

Ngày nay, Giáo hội rất quan tâm đến đời sống những kitô hữu gương mẫu. Giáo hội coi đời sống của kitô hữu dấn thân như dấu chỉ của Giáo Hội giữa thế giới và là thành phần sống động của nội dung giáo lý. Các thánh và các bậc anh hùng còn sống cũng như đã qua đời đã cung cấp cho chúng ta những tấm gương thật sự sống động, để giúp ta biết sống thế nào như những người theo Chúa Kitô và như những người đáng được biểu dương. Để hiểu biết về đời sống các thánh, ta nên :

Theo dõi lịch phụng vụ. Thường Giáo Hội tôn kính một hay nhiều vị thánh vào một ngày nào đó trong năm. Nên có một cuốn lịch phụng vụ để theo dõi và dành ít phút trong ngày để học hỏi về vị thánh được kính nhớ trong ngày.

Nên đọc thêm những sách đề cập đến các vị anh hùng nam nữ mà đời sống của họ có ý nghĩa đặc biệt khi phải vượt thắng những thách đố đương thời.

Ta có thể có những sáng kiến về việc phát huy đời sống các Thánh và từng bước đưa đời sống các Thánh ảnh hưởng vào đời sống của ta cũng như của các em học viên giáo lý qua việc cầu nguyện, diễn thơ văn, nghệ thuật, giải đáp thắc mắc, diễn kịch, bản đồ, phim ảnh, vidéo...

Ta cũng có thể sử dụng những phương tiện thông tin như báo chí hằng ngày, tin tức trên tivi, radio, tạp chí các loại để tìm những mẫu gương về đời sống dấn thân của các Kitô hữu.

Chúng ta nên quan tâm cả đến những mẫu gương đáng khâm phục của người trong gia đình, thân nhân, hàng xóm, những người trong xã hộiv.v...

4. NHỮNG DẤU CHỈ KHÁC TRONG ĐỜI SỐNG

Lời Chúa có thể đến với chúng ta bằng nhiều cách qua những dấu chỉ của thiên nhiên, của lịch sử. Qua những dấu chỉ này, con người khám phá ra sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa[7]. Do đó Giáo Hội không ngừng tìm kiếm và khám phá ý nghĩa của những biến cố bên trong và ngoài Giáo Hội.

Ta có thể nêu lên một số dấu chỉ khác tạo nên nội dung phong phú của giáo lý [8].

4.1. Dấu chỉ thiên nhiên

Những dấu chỉ thiên nhiên của Lời Chúa luôn có chung quanh chúng ta vì Thiên Chúa luôn ở với chúng ta mọi nơi mọi lúc và Chúa Kitô phục sinh làm phong phú mọi sinh hoạt của con người. Chẳng hạn như một bữa ăn gia đình, một sự kỳ diệu của thiên nhiên như : bông hoa, con bướm, giòng suối, trận động đất, một biến cố chính trị, một lời nói hay một cử chỉ thân thiện, một ổ bánh mì hay một ly rượu, một thành quả khoa học như máy vi tính, một bức tranh tuyệt đẹp, một bài hát hay... tất cả đều có thể là những dấu chỉ Thiên Chúa ngỏ lời với con người. Đó là lý do mà sách giáo lý ngày nay nói đến tất cả kinh nghiệm sống của con người.

4.2. Những dấu chỉ của thời đại

Đức Gioan XXIII nhấn mạnh đến nhu cầu phải đọc những " dấu chỉ thời đại" để nhận thức điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Ngài đã dùng ý tưởng " dấu chỉ thời đại" rút từ trong Tin Mừng Matthêu 16,3 : "... Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi."

Để triển khai ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Hội dạy dân Chúa biết nhận thức dấu chỉ xác thực về sự hiện diện và ý định của Thiên Chúa trong các biến cố, những nhu cầu và những khát vọng mà con người cảm nghiệm khắp nơi [9]. Các kinh nghiệm cá nhân, biến cố xã hội, chính trị, vấn nạn muôn thuở, những giá trị nền tảng, các vấn đề thời đại... Đó là tất cả những điều mà sách giáo lý gọi là dấu chỉ thiêng liêng của Lời Chúa. Khi loại bỏ hay lướt qua phần kinh nghiệm của con người trong giáo lý là chúng ta cắt xén truyền thống giáo lý với đời sống hằng ngày.

Vậy chúng ta ứng dụng kinh nghiệm đời sống như thế nào ?

Xét về tầm quan trọng của những kinh nghiệm sống của con người trong giáo lý, chúng ta cần tìm kiếm những đường hướng có hiệu quả để giúp khám phá những gì đang xảy ra trong đời sống con người. Sau đây là những bước mà chúng ta thấy là hữu ích :

a. Suy tư dựa trên kinh nghiệm riêng

Bước thực hành quan trọng nhất là xác tín của ta vào truyền thống giáo huấn của Giáo Hội. Truyền thống này hướng dẫn chúng ta nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện và ngỏ lời với chúng ta trong những kinh nghiệm của đời sống hằng ngày.

Sau đó hãy suy tư xem nơi nào và cách nào giúp ta gặp Chúa tốt nhất, thời gian nào ảnh hưởng nhất đến mối tương giao của ta với Thiên Chúa. Con người, công việc, cơ hội, tai nạn, sức khỏe tốt, xấu đã giúp ta nhận thấy Thiên Chúa đang tác động nơi đời sống của mình như thế nào ?

b. Suy tư và đặt vấn đề

Trước mỗi hoàn cảnh, biết đặt vấn đề, biết lắng nghe và biết nhạy cảm bằng con tim cũng như đôi tai, như vậy ta sẽ khám phá được ý nghĩa của từng vấn đề, sẽ cảm thấy năng lực được biến đổi.

c. Vận dụng kinh nghiệm của người khác .

Để đào sâu và mở mang kinh nghiệm riêng cũng như biết suy tư cách sâu xa và nghiêm túc, chúng ta nên chia sẻ cho người khác những kinh nghiệm sống và lắng nghe kinh nghiệm của người khác.

Những câu chuyện, thơ văn, những bức tranh và những hình thức nghệ thuật khác, phim ảnh, vidéo, âm nhạc... tất cả đều là những phương tiện làm phong phú kinh nghiệm bản thân.

Các phương tiện truyền thông hiện đại : Nhật báo, tạp chí... sẽ cung cấp cho ta những thông tin, những câu chuyện, những chủ đề, những hình ảnh, quảng cáo.... Chúng không chỉ mở mang vốn hiểu biết về những biến cố xảy ra trên thế giới, nhưng còn giúp đào sâu những kinh nghiệm chung của con người.

-------------------------------------------------

[7] Hiến chế Mục Vụ số 11

[8] Carl J. PFEIFER, Để dạy giáo lý hữu hiệu hơn (How to be a better catechist), Bản dịch của nhóm ABC, trang 12

[9] Tiếng nói của Thánh Linh mà Đức Giêsu, qua Chúa Cha, đã truyền đạt cho các môn đệ, cũng phải được lắng nghe qua các biến cố lịch sử. Giữa những đổi thay của tình hình hiện tại và giữa những động lực sâu sa của mọi thách đố đang đặt ra cho việc loan báo Tin Mừng, ta phải khám phá "các dấu chỉ đích thực về sự hiện diện hoặc về ý định của Thiên chúa". Sự phân tích này phải được thực hiện dưới ánh sáng đức tin với lòng trắc ẩn và khoan dung. Sự giúp đỡ của các khoa học nhân văn luôn luôn cần thiết giúp Giáo Hội tìm cách khám phá ý nghĩa của tình trạng hiện tại trong lòng lịch sử ơn cứu độ. Những phán đoán của Giáo Hội về thực tại luôn là những chẩn đoán dành cho việc truyền giáo. (Trích trong Chỉ Nam việc dạy giáo lý số 27).

Tu viện Dòng Mân Côi Chí Hòa 2009

TRANG QUỚI CHỨC

Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn. Đó là câu mà chúng ta thường nhắc nhau mỗi Chúa nhật và đã được Chúa Giêsu tóm lược rất ngắn gọn vào hai ý tưởng: trước là mến Chúa trên hết mọi sự sau là yêu người như chính mình vậy.

Nhìn vào mười điều răn, ta thấy rõ trật tự đó. Các điều răn của Chúa qui về hai đối tượng, Thiên Chúa và con người. Ba điều đầu qui về Chúa, bảy điều sau qui về con người, trật tự này không phép được đảo lộn.

Trong bảy điều qui về con người, điều đầu tiên là thảo kính cha mẹ, dĩ nhiên ta phải hiểu từ cha mẹ đây theo nghĩa rộng: ông bà cha mẹ, cô bác, thầy cô...những người ta phải tôn kính, sau là đến những người quanh ta. Như vậy điều răn thứ bốn là điều răn đứng đầu trong các điều răn về cách ứng xử với đồng loại, cũng vì thế mà ta biết được Chúa muốn chúng ta phải sống đạo làm người như thế nào. Trước tiên phải hiếu kính cha mẹ thì mới mong được sống, được hạnh phúc: "Hãy trọng kính cha mẹ ngươi như Yavê Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, ngõ hầu ngày đời ngươi được kéo dài và phúc đến cho ngươi trên thửa đất Yavê Thiên Chúa của ngươi sắp ban cho ngươi." (Đnl 5,16). 

Liên quan tới điều răn này, Thiên Chúa cũng nói rất rõ trong sách Huấn ca như sau: "Kẻ tôn kính cha sẽ được xóa lỗi lầm, và trọng kính mẹ khác gì tích trữ bảo tàng. Kẻ tôn kính cha mẹ sẽ hoan lạc nơi con cái, và vào ngày khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời. Kẻ trọng quí cha sẽ được dài ngày, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa. Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha. Nó sẽ làm tôi các bậc sinh thành ra nó như chủ của nó. Nơi việc làm và lời nói, con hãy tôn kính cha con, ngõ hầu mọi chúc lành đổ xuống trên con; vì chúc lành của cha làm cho rể chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây...." (Hc 3,3-9)

Trong hán tự, chữ Hiếu được cấu thành bởi chữ Lão (tuổi già) bỏ phần dưới thay vào bằng chữ Tử (con) bằng cách tượng hình, nó dạy cho người ta rằng con cái phải tôn các bậc cao lão trên đầu, có lớn có nhỏ, có tôn ti trật tự. Chữ hiếu có nghĩa là : hết lòng thờ cha mẹ. (Theo Đào Duy Anh, Tự điển Hán-Việt, NXBKHXH)

Ngày xưa tội bất hiếu là một trong mười trọng tội, bị phạt rất nặng.

Dù bất cứ ở đâu, có đạo hay không có đạo, con người cũng biết đến chữ Hiếu, như vậy chữ Hiếu chính là luật thiết định, Thiên Chúa ban cho loài người và trong đạo Công giáo dù không văn vẻ không ồn ào, nhưng việc thảo hiếu được xếp vào vị trí thứ nhất trong các giới răn về đối nhân là một đòi buộc cao nhất đối với con người về cách đối nhân xử thế.

Thiên Chúa, qua Đức Giêsu, muốn nhận chúng ta làm con. Nhưng trước khi làm con Thiên Chúa, chúng ta phải làm con người, vì thế muốn sống trọn đạo làm con Chúa, chúng ta phải sống đạo làm con đối với cha mẹ, ông bà là những đấng bậc sinh thành, thay mặt Chúa để nuôi dưỡng và dạy dỗ ta.

Chúng ta đã sống chữ hiếu như thế nào đối với cha mẹ mình ? Nếu như không muốn gặp bất hạnh vì những đứa con bất hiếu sau này thì hãy giữ trọn điều răn thứ bốn bởi như sách Huấn ca đã nói: "Kẻ tôn kính cha mẹ sẽ hoan lạc nơi con cái", và đó cũng là cách hiếu thảo mà Cha ở trên trời muốn vậy.

SỐNG ĐẸP

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA (tt)

10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu

Những chia sẻ "10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu" do ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm Vui Sống Đạo" của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

3.  Chúa Giêsu không sành luận lý

Chúa Giêsu không những không cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược lại sự khôn ngoan bình thường của con người.

"Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc... (Lc. 14, 12-14).

Trong dụ ngôn về đồng bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh mất 1 đồng: "bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được." - Khi tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ phải đến chung vui với mình.

Chúa Giêsu ví mình như người phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là đủng đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay; nôn nóng đem nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ ngơi trong đêm vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý luận con của người.

"Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc. 15, 10).

(Còn tiếp)

Đức Hồng Y Px.  Nguyễn Văn Thuận

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

YÊU THƯƠNG CHA MẸ

Có một câu nói rất hay mà hôm nay tôi mới đọc được: Không có người cha nào hoàn hảo, chỉ có những người cha yêu thương con bằng tình thương hoàn hảo!

Dường như tuổi trẻ khiến cho không ít người luôn than phiền về cha mẹ của mình, chưa lúc nào tôi hài lòng về cách mà cha đối xử với tôi, thường xuyên cãi vả và xung đột, tôi tìm kiếm sự thỏa thuận từ cha và con nhưng dường như đó là điều không thể xảy ra! Thế nên mâu thuẫn ngày càng nhiều, điều đó làm cha con ngày càng xa cách!

Tôi để ý thấy rằng: cha và con cái đó là mối quan hệ chứa quá nhiều ảo tưởng, và sự ảo tưởng đó đẩy cha mẹ và con cái ngày càng rời xa nhau! Tại sao lại như vậy? Khi cha không muốn lắng nghe và chỉ biết yêu cầu con cái tuân theo khiến cho rất nhiều người cảm thấy bức bối khi bị thúc ép và quản lý!

Nhiều người không ý thức được điều đó xuất phát từ tình thương mà cha mẹ dành cho mình nên cứ lãng tránh, lãng tránh và ngày ngày khoảng cách đó càng thêm rộng ra. Khá nhiều bạn trẻ không muốn cha mẹ mình thể hiện sự quan tâm và luôn tìm cách chối bỏ sự quan tâm đó. Bạn không đế ý thấy rằng: Cha mẹ chỉ sống với mình nhiều nhát cho đến khi mình thực sự làm cha mẹ! Và khi đó, bạn chỉ biết chăm lo cho cuộc sống của gia đình nhỏ mà quên đi cha mẹ của mình!

Rất nhiều người đã hối hận suốt đời vì không dành nhiều thời gian nói chuyện với cha mẹ, không quan tâm và an ủi khi họ về già! Cha mẹ đâu thể nào sống cùng bạn suốt đời được đâu, thế nên đừng bao giờ tìm cách lãng tránh tình yêu thương mà cha mẹ dành cho bạn! Thay vì lúc nào cũng cau có khí cha mẹ hỏi: Đi đâu? Làm gì? Đi với ai ? Mà hãy trấn an cha mẹ bằng những lời hứa và hành động chín chắn! Chỉ có cha mẹ mới yêu thương bạn vô bờ bến! Dù sau này bạn có người yêu bạn đến mức từ bỏ cuộc sống vì bạn thì hãy luôn ghi nhớ rằng: cha mẹ mới là người hi sinh tất cả cho bạn! Người dám từ bỏ mạng sống vì bạn? Sẽ không bao giờ bạn tìm thấy được người như thế giữa cuộc đời này! Bạn chỉ nhìn thấy những người si tình như thế trong tiểu thuyết và phim ảnh mà thôi! Chỉ duy nhất cha mẹ mới  có thể hi sinh cho bạn mà thôi! Nếu có người như thế, chắc hẳn đó không phải là người tốt nhất dành cho bạn, bởi mạng sống của họ họ còn không quý trọng thì làm sao họ yêu thương bạn hết lòng!

Đừng bao giờ để đến lúc nào đó mới nhận ra rằng: cha mẹ thật đáng quý biết bao! Có bao nhiêu người trên thế gian không có cha mẹ! Có bao nhiêu người trên thế gian khao khát cha mẹ sống lâu dài với mình để phụng dưỡng và chăm sóc nhưng không có cơ hội! Khi cha mẹ còn bên bạn, hãy yêu thương và chăm sóc họ! Nếu bạn không thể hiện tình yêu thương của mình đến lúc nào đó bạn sẽ hối hận vì điều đó!

Nguồn: hanhtrinhdelta.com

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

NĂM ĐỨC TIN CẦN NUÔI DƯỠNG VÀ SỐNG ĐỨC TIN THẾ NÀO ?

Như Đức Thánh Cha Bê-nê-đichtô 16 đã quyết định và loan báo, ngày 11 tháng 10 tới đây, Lễ khai mạc Năm Thánh sẽ được Đức Thánh Cha long trọng cử hành tại Công Trường Thánh Phêrô, Rôma. Năm Thánh sẽ chắm dứt ngày 24 tháng 11 năm 2013.

Nhân dịp này, Đại Hội Đồng Giám Mục Thế giới sẽ họp phiên thứ 13 thường lệ  với chủ đề "Tân Phúc Âm hóa để loan truyền  Đức tin Kitô-Giáo"

Là người tín hữu Chúa Kitô sồng trong thế kỷ 21 này, chúng ta phải canh tân và sống đức tin cách nào để không những mưu ích cho chính mình mà còn mời gọi thêm những người khác chưa biết và tin Chúa Kitô  được nhận biết Chúa để cùng hưởng Ơn cứu Chuộc đã mua bằng giá máu Chúa đổ ra trên thập giá năm xưa.

Thật vậy, Đức tin là một quà tặng nhưng không và vô giá ( gratuitous and invaluable) mà Thiên Chúa đã ban để giúp ta nhận biết Người là Cha Toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình. Đặc biệt, Thiên Chúa tạo dựng con người "giống hình ảnh của mình" (St 1: 27) và muốn cho " mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý." ( 1Tm 2 : 8) .

Thiên Chúa  tạo dựng  và mong muốn cho con người  được hạnh phúc chỉ vì tình thương vô vị lợi của Người dành cho tất cả chúng ta, những con người được sinh ra trên trần thế này và có diễm phúc được biết Chúa qua ơn mặc khải mà  Chúa Kitô đã cảm tạ Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta về quà tặng đức tin quí giá này:

"Lạy Cha là Chúa Tể trời đất , Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này,nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lậy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha." ( Lc  10: 21 )

Như thế có nghĩa là nếu Thiên Chúa không tự mặc khải Người cho ai thì không ai có thể tự mình nhận biết có Thiên Chúa và tin yêu Người.

Tại sao những bậc thông thái, khoa học gia biết cắt nghĩa sự hình thành của vũ trụ và mọi qui  luật chi phối đời sống của con người và mọi loài động vật , thực vật, và thảo mộc, nhưng lại không khám phá ra được Thiên Chúa là chính Đấng dựng nên mọi loài mọi vật đó ?

Lý do duy nhất  để trả lời câu  hỏi này là vì họ không được Thiên Chúa mặc khải hay ban quà tặng đức tin vô giá nên họ không thể  biết gì về Thiên Chúa với kiến thức tuy  rộng lớn đối với con người nhưng  lại  quá hạn hẹp đối với Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song.

Vậy đối với những ai đã được điễm phúc biết Chúa nhờ đức tin thì phải bồi dưỡng và sống đức tin ấy ra sao đặc biệt trong Năm Đức Tin này ? 

1- Trước hết, phải làm gì để bồi dưỡng đức tin cho lớn mạnh thêm nữa ?

Kinh nghiệm đơn sơ của bất cứ người làm vườn (gardener) nào đều  cho biết là khi trồng một loại cây trái  mới nào, người ta phải lựa giống tốt của cây đó. Nếu là hạt thì phải đặt vào nơi đất đã bón phân sẵn và chờ cho hạt đó nẩy mầm rồi tiếp tục nuôi dưỡng với nước và phân bón thích hợp.Nếu không chăm lo vun tưới đều đặn thì hạt sẽ chết khô trong lòng đất, dù là hạt của giống cây tốt.Nhưng từ lúc hạt nẩy mầm cho đến khi mọc thành cây và sinh hoa trái thì người làm vườn phải tốn nhiều thì  giờ và công sức chăm bón mới có kết quả tốt để hưởng dùng.

Cũng tương tự như vậy, đức tin được gieo vào tâm hồn con người như hạt giống được gieo xuống đất.Một em bé , sau khi sinh một hai tháng, được rửa tội để được tái sinh trong sự sống mới.. Nhưng sau khi rửa tội, nếu cha mẹ và thân nhân sống gần em mà không giúp nuôi dưỡng đức tin đó cho em  thì chắc chắn khi lớn lên em bé sẽ không thể tự biết gì về Chúa và tin yêu mến Ngài. Do đó, cha mẹ em phải là người trước hết trực tiếp nuôi dưỡng con mình không những về thể lý cho con lớn lên mạnh khỏe mà đặc biệt còn về mặt thiêng liêng để giúp con cái lớn lên trong đức tin đã lãnh nhận khi được rửa tội.Nghĩa là, trong gia đình cha mẹ phải là thầy dạy đức tin cho con mình bằng cách dạy cho con cái biết có Thiên Chúa là Cha nhân lành, yêu thương hết mọi người.Sau nữa, bằng gương sáng trong gia đình, cha mẹ dạy con cái biết đọc kinh, cầu nguyện  và đem chúng đi dự lễ chung với mình các ngày Chúa Nhật để được nghe giảng về Chúa.Tiếp theo là cho con cái đi học các lớp giáo lý để lãnh các bí tích Thánh Thể, Hòa Giải  và Thêm sức, giúp cho con cái lớn lên trong niềm tin có Chúa.

Khi trẻ đã lớn đủ và những người  đã trưởng thành  ý thức được mình có đức tin, tin có Thiên Chúa , có sự sống đời đời thì đó là lúc họ cần phải chứng tỏ ý muốn sống đức tin ấy bằng hành động cụ thể. Kinh nghiệm thực tế khác cũng cho biết là khi người ta đã có một kỹ năng( skill)  nào như biết bơi, biết lái xe, hay biết chơi một loại nhạc cụ nào như đàn guitar hay piano   thì muốn phát triển kỹ năng đó, người ta phải năng luyện tập để đạt mức hoàn hảo chuyên nghiệp.Nếu không thì kỹ năng đó sẽ mai một theo thời gian.Thí dụ, người biết bơi mà không tập luyện mỗi ngày hay mỗi tuần thì không những sẽ không bao giờ bơi giỏi được mà còn mất dần kỹ năng này theo thời gian nữa..

Cũng tương tự như vậy, tin có Chúa vì sinh ra trong một gia đình có Đạo, hay có cảm nghiêm riêng về Thiên Chúa, thì phải tiếp tục bồi dưỡng cho ánh sáng đức tin ban đầu đó được cháy sáng lên trong tâm hồn đến mức đủ soi sáng cho mình bước đi trên con đường dẫn đến sự sống đời đời. Nghĩa là phải bồi dưỡng đức tin ban đầu với cố gắng  học hỏi thêm về giáo lý của Giáo Hội, đọc Kinh Thánh để hiểu và sống Lời Chúa và nhất là năng lãnh nhận các bí tích quan trọng như Thánh Thể và Hòa giải để được luôn sống trong tình thân với Chúa. Thêm vào đó, phải siêng năng cầu nguyện luôn, vì " Không có Thầy anh  em sẽ chẳng làm gì được." ( Ga  15:5 ).

Không có Thầy nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp nâng đỡ thì  không ai có thể tự mình lớn lên trong đức tin và có đủ sức để chống lại những yếu đuối của bản năng, nhưng dịp tội đầy rẫy trong môi trường sống và nhất là những cám dỗ của ma quỷ,  thù  địch của chúng ta luôn ngày đêm rình rập như  "sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé." ( 1 Pr 5 : 8)

Vì thế, cần thiết phải bồi dưỡng đức tin bằng nỗ lực cá nhân như siêng năng cầu nguyện, đọc Kinh Thánh , giáo lý của Giáo Hội  và năng lãnh nhận hai bí tích rất quan trọng là Thánh Thể và Hòa giải để được thánh hóa và lớn lên trong đức tin.

Nhưng cho được sống đức tin cách vững chắc và cụ thể, ta phải ý thức đầy đủ về nội dung và đòi hỏi của niềm tin là phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự  thể hiện qua quyết tâm xa tránh những gì mâu thuẩn hay đị ngược lại với đức tin có Chúa là cội nguồn của mọi sự tốt lành, thánh thiện, công bình, bác ái, nhân đạo, vị tha. Nghĩa là người có niềm tin nơi Chúa thì không thể cho phép mình làm những sự xấu, sự độc ác như giận ghét, căm thù ai, nói xẩu , vu cáo ai những điều vô bằng cớ, trộm cắp, gian tham, lừa đảo, thay vợ đỗi chồng, cờ bạc, dâm đãng nhất là thâm độc giết hại người khác về thể  lý hay tinh thần... Đây là bộ mặt của sự trống vắng niềm tin, khinh chê mọi giá trị tinh thần, luân lý ,đạo đức. Đây là thực chất của xã hội vô luân, vô  đạo,  của "văn hóa sự chết"( culture of death) đang bành trướng ở khắp nơi trên thế giới ngày nay, đặc biệt là ở những quốc gia tự do quá trớn, tôn thờ  chủ nghĩa khoái lạc ( hedonism) tôn thờ phái tính ( sex worship) tôn thờ  vật chất, tiền bạc, và mọi vui thú phi  luân, vô đạo như thực trạng ở các nước Âu Mỹ hiện nay.

Ở bên kia thái cực, là bộ mặt của xã hội vô thần, vô tôn giáo, hay nói rõ hơn là  thù địch của những ai có niềm tin vào Đấng toàn năng làm chủ vũ trụ và sự sống của con người và   của mọi loài động vật, thưc vật và thảo mộc.Thực trạng ở đây còn đáng sợ hơn nữa vì người ta không  tin có một  Quyền lực thiêng liêng nào thưởng phạt ,  nên  họ mặc sức làm những sự dữ như hà hiếp bóc lột , giết hại những ai chống đối, vơ vết tài sản công để làm giầu cho cá nhân và tập thể cai trị, trong khi quay lưng lại hay dửng dưng trước sự nghèo đói  của người dân và suy thoái đạo đức nặng nề  của xã hội.

Thêm vào đó, chế độ còn dung dưỡng cho các băng đảng  của xã hội đen lộng hành để cướp bóc ,hãm hại người dân lành, cô thân, cô thế.Đây là  tội ác mà xã hội dung dưỡng để chất thêm thống khổ lên đầu lên cổ  người  dân đã phải chịu nhiều tai ương khác của xã hội vô luân, phi nhân, vô đạo. 

2- Phải sống đức tin cách nào đặc biệt trong Năm Đức Tin này ?

Sống trong  xã hội  với các thực trạng trên đây, người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo  hơn bao giờ hết  phải có can đảm  tuyên xưng  đức tin của mình bằng đời sống thực sự công bình, bác  ái, thánh thiện, xa tránh mọi quyến rũ của xã hội vô luân vô đạo đang  lôi kéo con người vào hố diệt vong  vì đam mê của cải và mọi vui thú phi luân, nhắm mắt  bịt tai  trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác.Trước thực trạng này, người có đức tin -và đặc biết sống đức tin ấy trong Năm Đức Tin này- cần nêu cao những giá trị của niềm tin  vào Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian để vạch rõ con đường dẫn đến sự sống và con đường đưa đến hư mất đời đời , như Chúa  đã dạy sau đây:

"Hãy qua cửa hẹp mà vào vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người  lại đi qua đó.Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy." ( Mt  7: 13-14)

Con đường rộng rãi thênh thang mà nhiều người muốn đi và đang đi là con đường của văn hóa sự chết, con đường đưa đến các sòng bạc, nhà điếm, nơi giải trí với mọi thú vui vô luân vô đạo, con đường  tham nhũng , ăn cắp của công , bóc lột và bách hai người dân lành vô tội để  làm giầu cho cá nhân và tập đoàn thống trị gian ác, đang  vơ vét tiền của để gửi  ra nước ngoài  phòng thân. Đó cũng là con đường của bọn tài phiệt tư bản chuyên thao túng thị trường chứng khoán để vơ vét tài sản của bao người đầu tư và thua lỗ vì những kỹ thuật tinh vi của bọn cầm đầu kỹ nghệ xảo quyệt này.

Vì thế, đứng trước một thế giới gian tà từ Đông sang Tây  hiện nay, người tín hữu Chúa Kitô, -cách riêng người có sứ mạng rao giảng chân lý đức tin và tin Mừng Cứu Độ-hơn lúc nào  hết  phải có can đảm mạnh mẽ bênh vực cho sự thật, cho công bình xã hội và lành mạnh hóa con người để chống lại những suy thoái, tụt hậu của xã hội về mặt luân lý ,đạo đức.Nếu làm ngơ, - hay tệ hại hại hơn nữa- thỏa hiệp với kẻ cầm quyền để mưu cầu tư lợi cho mình và bịt tai nhắm mắt trước mọi bất công, sự dữ,  thì đã tự đánh mất niềm tin và chức năng thiêng liêng của người ngôn sứ trong hoàn cảnh cụ thể của xã hội đương thời. Mặt khác, sống đức tin cách hữu hiệu và có sức thuyết phục người khác thì cũng không cần thiết  phải xây thêm hay sửa sang nhà thờ, nhà xứ cho khang trang lộng lẫy khiến phải lặn lội đi xa một năm mấy lần để kiếm tiền. Điều tối cần và quan trọng là phải có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm  để noi gương Chúa Kitô, "Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh  em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có." (2 Cor 8: 9)

Người phục vụ cho Tin Mừng mà không noi gương Chúa Kitô trong cuộc sống thì không thể  làm gương đức tin cho ai và thuyết phục được ai tin và thực hành những điều mình giảng dạy cho  người khác nhân danh Chúa Kitô.

Về phần  người tín hữu Chúa Kitô, người Công giáo chân chính cũng phải làm gì cụ thể để phân biệt mình với những kẻ không có niềm tin, chỉ biết sống với vui thú hiện tại và không thắc mắc gì về một  tương lai mai hậu, khi mà mọi sự ở đời này sẽ mau chóng trôi qua kể  cả sự sống của con người có hay không có niềm tin nào.

Nếu người có đức tin dám  can đảm sống đức tin của mình cách dũng cảm là xa lánh mọi thói hư tật xấu của xã hội  như cờ bạc, lường đảo, dâm ô và vui chơi sa đọa , nhẩy nhót, hút xách,.. thì đã nêu cao giá trị của niêm tin trước mặt người đời. Ngược lại,  nếu người có đức tin mà cũng a dua với kẻ không có niềm tin để cùng nhau làm những việc vô luân ,vô đạo, như gian  tham ,trộm cắp, lương gạt, bất công và bóc lột người khác, vô liêm sỉ , vô lương tâm bỏ vợ già để cưới vợ trẻ, "bồ nhí", thì chắc chắn họ đã chối bỏ đức tin của mình bằng chính đời sống cụ thể trước mặt người khác. Và như thế thì dù họ có kêu cầu ngoài môi miệng " Lậy Chúa, lậy Chúa! cả trăm ngàn lần thì cũng vô ích mà thôi ! đúng như lời Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ xưa như sau:

"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : lậy Chúa !, Lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi." ( Mt 7: 21)

Trong mấy ngày qua, theo dõi tình hình thế giới, chúng ta thấy những người Hồi Giáo đã rầm rộ biểu tình chông Mỹ ở các quốc gia Hồi Giáo chỉ vì một cuốn phim chế riễu Mohammad được sản suất ở Mỹ và trình chiếu trên trang mạng Facebook, Youtube.Có thể chúng ta không đồng ý về cách thức  phản kháng của anh  em  Hồi Giáo, nhưng chúng ta phải khen họ về thái độ hăng say bênh vực  cho tôn giáo của họ , tuy đó là hình thức  khá khích và bạo động không nên làm.

Anh  em Hồi Giáo hăng say bảo vệ tôn giáo của họ như vậy, còn chúng ta thì sao ? Chắc chắn chúng ta không được mong đợi  phải xuống đường để đánh phá những ai nhạo bang Thiên Chúa của chúng ta, nhưng chúng ta được mong phải đợi sống đức tin cách cụ thể bằng tư tưởng và hành động,  bằng việc bác ái vị tha, và nhậy cảm (sensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác. Đồng thời, phải xa tránh mọi điều gian ác, tội lỗi, xấu sa của những kẻ  không có niềm tin hay có mà không dám sống niềm tin ấy trước mặt người đời.

Ai không có can đảm sống niềm tin của mình trước mặt người khác, thì hãy nghe lại Lời Chúa Giêsu đã nói với đám đông xưa như sau:

"Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy, thì Con Người  ( tức Chúa Giêsu) cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần trong vinh quang của Cha Người." ( Mc 8: 38)

Như thế có nghĩa là chúng ta phải có can đảm tuyên xưng đức tin  bằng chính đời sống của mình giữa bao người khác để làm nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để  hiến mạng sống mình "làm giá chuộc cho muôn người." ( Mt 20: 28)

Tóm lại, Năm Đức Tin là thời điểm thuận lợi để mỗi người tín hữu chúng ta dừng chân để nhìn lại cách sống đức tin của mình trong bao năm qua để canh tân lại những gì còn thiếu sót, cần đổi mới cho thích hợp.Cụ thể, nên học hỏi kỹ lời Chúa trong Kinh Thánh và  các tài liệu giáo lý, tín lý, thần học của Giáo hội để bồi dưỡng thêm cho đức tin được vững mạnh thêm nữa  hầu có sức để đương đầu với những thách đố của thời đại  trống vắng niềm tin. Hơn thế nữa, đây cũng là thời gian thuận lợi để chúng ta lập lại quyết tâm sống đức tin vào Chúa Kitô cách cụ thể và sống động hơn nữa để giữa bao người không có đức tin và đang làm những sự xấu, sự gian ác, chúng ta phải sống sao cho phù hợp và  xứng đáng với lời khuyên dạy của Thánh Phaolô sau đây:

"Như thế, anh  em sẽ trở nên trong sạch , không ai chê trách được điều  gì  và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên  Chúa giữa một thế hệ gian tà sa dọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." ( PL 2: 15)

Ước mong mọi người tín hữu chúng ta suy gẫm và thực hành lời dạy trên đây của Thánh Phaolô  trong Năm Đức Tin này.

Lm. Phanxicô  Xaviê Ngô Tôn Huấn
Nguồn: conggiaovietnam.net

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

VỊ TỔNG THỐNG TRUNG THỰC

Tổng thống Abraham Lincoln đã từng được biết đến như là một "Tổng thống trung thực", ông cũng được nhìn nhận như là một con người luôn yêu thích sự thật.

Ngày kia, một vị khách đến thăm viếng nhà ông, người này có thói quen xấu là không biết giữ lời hứa. Ông ta muốn bế một cháu bé là một trong những đứa con của Tổng Thống, nên đã vỗ về cháu bằng cách hứa sẽ cho cháu sợi dây chuyền mà ông đang đeo và chiếc đồng hồ của ông.

Cháu bé vui mừng leo lên lòng ông.  Cuối cùng, khi người khách đó đứng lên ra về, Tổng Thống Lincoln đã nói với ông ta:

-      Ông có định giữ lời hứa của ông đối với con trai tôi không?

Vị khách hỏi:

-      Thưa Tổng Thống, lời hứa gì ạ?

-      Ông nói rằng ông sẽ cho cháu bé sợi dây chuyền này.

-      Nhưng đây không chỉ là một sợi dây chuyền có giá trị, mà còn là một món đồ vật gia bảo của tôi nữa.

Tổng Thống A. Lincoln nói nghiêm nghị:

-      Ông hãy cứ đưa cho cháu bé đi.  Tôi không muốn cho cháu nghĩ rằng tôi đã đón tiếp một người không hề quan tâm gì đến lời nói của mình.

Người khách đó đỏ mặt lên, lặng lẽ cởi sợi dây chuyền ra, đưa cho cháu bé, và ra về với một bài học mà chắc chắn ông ta không thể nào quên được.

(sưu tầm)

Cha mẹ là thầy dạy đầu tiên. Con cái chịu ảnh hưởng trước  tiên từ cha mẹ, theo cách sống của cha mẹ. Tờ giấy trắng tâm hồn nếu được in dấu mực trung thực, các em sẽ biết sống trung thực; nếu in dối trá, các em nghĩ rằng dối trá là đúng,  nên cũng sẽ sống giống như vậy. Đúng là cha mẹ nào thì con nấy thôi!

1975    30-09-2012 20:49:49