Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Lễ Hiển Linh Năm 2015

  1. Ánh Sáng Soi Đời
  2. Ðấng Cứu Ðộ Tỏ Mình Cho Muôn Dân
  3. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
  4. Muốn Gặp Chúa.
  5. Dâng Tấm Lòng Con 
  6. Thiên Chúa Tỏ Mình Cho Nhân Lọai
  7. Tìm Kiếm Chúa
  8. Bền Tâm Tìm Chúa
  9. Tiến Dâng Lễ Vật
  10. Sân Khấu Cuộc Đời
  11. Hành Trình Đức Tin
  12. Đức Kitô Ơ Đâu?
  13. Thiên Chúa Tỏ Mình
  14. Đi Tìm Chúa Nhờ Ngôi Sao Lạ
  15. Thiên Chúa Tỏ Mình
  16. Tìm Chúa
  17. Bài Giảng Lễ Chúa Hiển Linh
  18. Ngôi Sao Dẫn Đường
  19. Món Quà Trao Tặng
  20. Niềm Vui Gặp Chúa
  21.  “Lời Nguyền” Của Phù Thủy Bilơam
  22. Ngôi Sao Sáng
  23. Hành Trình Của Các Đạo Sĩ
  24. Tính Phổ Quát Của Ơn Cứu Độ
  25. Mỗi Người Là Một Anh Sao Cho Nhau
  26. Dõi Theo Anh Sao
  27. Chúa Tỏ Mình Ra Cho Những Tâm Hồn Thiện Chí
  28. Thái Độ Của Con Người Đối Với Thiên Chúa
  29. Theo Anh Sao Lạ
  30. Việc Phụng Thờ Thiên Chúa Chân Chính
  31. Lễ Hiển Linh
  32. Anh Sáng Thế Gian
  33. Lễ Hiển Linh
  34. Chúa Tỏ Mình Ra Cho Mọi Người
  35. Dân Ngoại Tìm Kiếm Chúa Và Đã Gặp Được Người
  36. Hành Trình Đức Tin
  37. Lễ Hiển Linh
  38. Lễ Hiển Linh
  39. Gương Sáng Là Sao Dẫn Đường

ÁNH SÁNG SOI ĐỜI 
Mt. 2, 1 - 12

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt là cho những ai thành tâm tìm kiếm Chúa.

Ngày xưa, người ta thường cho rằng, việc giáng sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện những ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán định mệnh của con người. Ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng vừa tường thuật cho chúng ta nghe là những người rất thành thạo về khoa chiêm tinh, nhìn thấy ngôi sao lạ, họ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu thế, Vua dân Do thái nên họ đã quyết lòng đi tìm gặp Đấng Quân vương mà họ khao khát mong chờ.

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh rất tế nhị nhưng cũng rất thời sự trong cuộc sống của con người. Đó là sự tồn tại của hai hạng người đối nghịch nhau trong cách sống. Hạng người thứ nhất là hạng người xem ra rất trí thức, thông biết nhiều điều, nhưng biết chỉ để cho biết chứ không dẫn đến hành động. Đó là trường hợp của những đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái. Những người này biết rõ nơi Đức Giêsu sẽ sinh ra, nhưng họ không tha thiết gì trong việc tìm gặp Đấng cứu thế, Đấng thủ lãnh chăn nuôi dân Israel dù sau khi họ nghe những nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến nói cho họ biết điềm lạ ấy. Hạng người thứ hai là những người khao khát chân lý, say sưa kiếm tìm và quyết tâm đạt đến chân lý. Đó là trường hợp của ba nhà đạo sĩ mà chúng ta được nghe nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay. Các ông hăng hái lên đường khi đã thấy điềm lạ là ánh sao lớn xuất hiện. Với ánh sao này, các đạo sĩ nhận ra có một vĩ nhân, một Quân vương mới vừa ra đời. Thái độ tích cực tìm kiếm sự khôn ngoan và chân lý của ba nhà đạo sĩ hoàn toàn đối lập với thái độ của các đại giáo trưởng và những luật sĩ trong dân Israel.

Nếu biết chỉ để cho biết, chỉ để tỏ ra cho người ta thấy mình uyên bác mà thôi thì quả thật đáng chê trách và đáng tội nghiệp cho họ. “Cái biết” thật sự phải dẫn đến cách sống và lối sống phù hợp với sự thật thì mới làm trổ sinh hoa trái được. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo rằng: “Ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu xây nhà mình trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7, 26-27). Trong cuộc sống chúng ta cũng thấy có nhiều người rất uyên thông nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với tôn giáo, nhưng họ lại là những người vô thần hoặc trở thành những người đả kích các tôn giáo. Cái biết của những con người kiêu căng, muốn dạy đời cho thiên hạ nhưng không biết dùng cái biết đó để kiếm tìm chân lý và sự thật. Rốt cuộc, họ chỉ là những con người kiêu căng đáng thương.

Chuyện kể rằng, có một sinh viên đang theo học tại một trường Đại học nổi tiếng bên Pháp. Một hôm, anh bước lên chiếc xe buýt và bắt gặp một ông cụ già đang ngồi lần chuỗi ở một dãy ghế dưới cùng của chiếc xe. Anh bước tới và làm quen với ông cụ ấy. Anh ta khuyên ông cụ thôi đừng làm những trò nhảm nhí ấy nữa. Sống trong thời đại văn minh rồi mà còn tin dị đoan như thế thì lạc hậu vô cùng. Anh ta lần lượt giới thiệu hết tác phẩm nổi tiếng này đến các sách bách khoa khác cho ông lão để ông mở mang trí thức và mở rộng tầm nhìn của mình ra thế giới. Gần đến tạm xe, anh ta xin địa chỉ của ông lão để có dịp anh ta sẽ gửi sách cho ông hoặc giới thiệu những quyển sách hay cho ông lão tìm mua. Ông lão khiêm tốn lấy tấm danh thiếp của mình ra trao cho chàng sinh viên, anh ta vô cùng hốt hoảng và xấu hổ bước đi, vì tấm danh thiếp ấy ghi “Pasteur, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp”. Như thế, đức tin, sự khiêm tốn, cách sống cao thượng . . . không là kết quả của những hiểu biết trên sách vở hay qua những phương tiện truyền thông.

Ngày nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho chúng ta trong cuộc sống qua nhiều dấu chỉ khác nhau: qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống, qua những thay đổi của đất trời, qua những biến chuyển của thời gian và lịch sử . . . nhưng chúng ta đã có thái độ nào trước những dấu chỉ ấy? Chúng ta chỉ nhìn ngắm những dấu chỉ ấy để bàn luận và đùa cợt hay để suy gẫm và thay đổi cách sống? Hoa trái của đời sống đức tin tuỳ thuộc vào việc tích cực sống theo thánh ý của Thiên Chúa được biểu lộ qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời chúng ta.

Đọc Tin mừng, chúng ta thấy được sự thật này: những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho con người thường được những người bị coi là thấp cổ bé miệng và nghèo khổ đón nhận hơn là những người giàu có và trí thức trong xã hội. Quả thật, những ai tự phụ, kiêu căng thì không thể đến gần Thiên Chúa và tiếp cận với Thiên Chúa được. Họ không còn sự khát khao Thiên Chúa nữa những lòng họ đã đầy ắp những dự định, tính toán tham lam trong lòng mình rối. Thời đại nào cũng có những con người như thế. Vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải những mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn nhưng lại giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan được biết. Hay nói đúng hơn là những người tự hào mình là khôn ngoan đã không đón nhận những mầu nhiệm Nước trời mà Đức Giêsu đã mặc khải cho họ. Họ chỉ tìm cách chống lại và đả phá những gì Đức Giêsu rao giảng. Chân thành và khiêm hạ trước Thiên Chúa luôn là thái độ cần thiết và khôn ngoan đối với con người. Những ai tự hạ mình trước Thiên Chúa sẽ được Ngài nâng dậy và được Ngài cho hiểu biết sự thật và được Sự thật giải thoát cho khỏi những mê lầm trong cuộc sống thế trần này.

Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta hãy noi gương các nhà Đạo sĩ biết hăng hái lên đường tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa để được Thiên Chúa cho gặp Ngài và được Ngài đong đầy tâm hồn chúng ta tình yêu Chúa để chúng ta được sống hạnh phúc với Chúa mãi mãi trong vinh quang Nước trời mai sau.

ÐẤNG CỨU ÐỘ TỎ MÌNH CHO MUÔN DÂN
Mt. 2, 1 - 12

Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc,
Xin tỏa ánh rạng ngời trên chúng con
Cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa
Và muôn nước biết ơn cứu độ của người. (Tv 66, 1-4)

Lời cầu xin của dân Do thái trong thánh vịnh 66 đã được Thiên Chúa Yavê nhậm lời. Vào thời viên mãn, Ngài đã tỏ mình ra không những cho những người Do thái mà thôi mà còn cho muôn dân được biết ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô.

1. Chúa Giêsu tỏ mình cho dân Israel: Thiên Chúa yêu thương dân Israel và luôn luôn tỏ mình ra cho họ trước. Đầu tiên, Chúa tỏ mình cho những người nghèo, những người chăn chiên đang mong được đổi đời, được cứu độ: Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Sứ thần Chúa hiện đến bên họ báo tin vui: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô và là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (x. Lc 2, 9-12). Những người chăn chiên này được Chúa chọn làm đại diện cho dân Israel đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến.

Chúa đã để ngôi sao biến đi trong một khoảng thời gian để các nhà đạo sĩ đến gặp vua Hêrôđê, gián tiếp loan tin Chúa cứu thế ra đời: vua Do thái hiện sinh ra ở đâu. Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người. Vua Hêrôđê và tất cả Giêrusalem đều bối rối về thông tin này. Vua mình ngự đến mà mình không biết, không lo đón tiếp, còn những người ngoại lại nhận biết. Giải thích sao bây giờ! Vua triệu tập tất cả đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân để hỏi cho biết nơi Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu: xứ Bêlem, đất Giuđa như lời tiên tri đã chép. Như vậy, Chúa đã gián tiếp tỏ mình ra cho dân Israel khi mới sinh ra. Ai có lòng tìm kiếm sẽ gặp được Người. Tuy nhiên, có điều đáng buồn là ai cũng lo công ăn việc làm hoặc coi trọng việc vui chơi giải trí hơn nên không tìm đến làng Bêlem để tìm gặp Chúa! Chỉ có Hêrôđê là muốn tìm gặp Chúa nhưng không phải để tỏ lòng kính tôn mà để giết hại Đấng Cứu Thế cho ngai vàng trần gian mình được vững!

2. Chúa tỏ mình cho dân ngọai: Chúa Giêsu xuống thế làm người không chỉ để cứu độ dân Israel mà còn cứu chuộc muôn dân nữa. Vì thế, Chúa đã tỏ mình qua một dấu chỉ là ngôi sao lạ trên bầu trời khiến những người ngọai biết tìm hiểu về ơn cứu độ và những dấu hiệu của trời đất có thể nhận biết và tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng và sự hăng hái tìm Chúa của họ đáng cho con cái Chúa phải giựt mình về sự thờ ơ của mình.

Chúa đã thưởng công khó nhọc và lòng chân thành tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế trong hình dạng một em bé mới sinh. Họ tin, quỳ gối xuống thờ lạy Người rồi dâng tiến những lễ vật quý giá tượng trưng cho lòng thành kính của họ : vàng, nhũ hương và mộc dược.

Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian đã tỏ mình ra cho những người Do thái cũng như dân ngoại và hôm nay đang tỏ mình qua Giáo hội của Ngài. Giáo hội là Bí tích ơn cứu độ muôn dân còn chúng ta là thành phần của Giáo Hội, là con cái Chúa. Chúng ta có bổn phận giúp người khác tìm đến Chúa bằng gương sáng và đời sống nhiệt thành với đạo Chúa, tốt với mọi người để Chúa được tỏ mình ra cho mọi người qua chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta hãy thiết tha cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trong lòng mọi người.

CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH
Mt. 2, 1 - 12

Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại diện cho dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa. Người còn tỏ mình ra cho Các Đạo Sĩ Phương Đông , đại diện cho lương dân, qua ánh sao lạ. Các Đạo Sĩ này là những người thành tâm, thiện chí, họ khao khát đi tìm ý nghĩa của ánh sao lạ ấy ....Khi đã gặp được Hài Nhi, họ dâng lễ vật cho Ngài.
Trước đó bảy thế kỷ, Isaia đã hé mở cho dân Chúa thấy ý nghĩa lớn lao ngang qua sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa “Hãy bừng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem. Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân”. Điều Isaia loan báo, đã không chỉ làm nức lòng những trái tim héo úa, làm phấn khởi những ngón tay rã rời. Khơi lên niềm hy vọng lón lao cho dân, mở ra con đường trở về cho dân ngoại. Chính trong bối cảnh đó, Thiên Chúa đã nhìn đến con người, và Ngài đã sai Con của Ngài sinh bởi người nữ. Ngài đang tỏa sáng trên dân Ngài, nhưng không phải chỉ riêng cho người Do Thái mà là cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Thật vậy, hôm nay bằng ánh sao lạ, Ngài đã chỉ cho các đạo Sĩ của Phương Đông, trông lên trời cao  và tìm đến để thờ lạy vị Vua Cứu Tinh vừa mới giáng sinh. Vượt lên trên mọi tính toán, mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi vất vả, các đạo sĩ đã vội vã lên đường. Bằng tấm lòng chân thành khát khao tìm chân lý và ánh sáng, các đạo sĩ đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu, mang trong mình hành trang là niềm tin để bước theo ánh sao lạ. Tuy nhiên, cũng không thiếu giây phút mà ngay cả một chút ánh sáng của niềm tin cũng vụt tắt để nhường lại cho những mò mẫm của đêm tối tăm. Cho dù găp phải hoàn cảnh bất lợi như thế, ba đạo sĩ không thất vọng, không chán nản bỏ cuộc, trái lại bằng tất cả sự nổ lực, các ngài đã tìm đấn với Vua Hêrôdê, để khơi thêm ánh sáng cho niềm tin đã sắp tắt lịm. Quả thật, Thiên Chúa không để cho những kẻ tìm kiếm Ngài phải hổ ngươi thất vọng. Đáp lại tấm lòng của họ, Thiên Chúa đã tỏ mình, hiển linh trước mặt họ trong thân phận của một Hài Nhi, hiền hòa trong trắng nằm trong máng cỏ. Sự kiên trì, chân thành tìm kiếm của họ nay đã được toại nguyện. Với tất cả sự thành kính, họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu: Vàng, Nhũ hương, Mộc Dược..tượng trưng cho lòng tin, cậy, mến yêu của mình. Đáp lại lòng thành kính và những lễ vật của họ, Ngài đã ban tặng họ niềm vui, sự an bình,..và mở ra cho họ con đường mới, một lối đi của tình thương và hạnh phúc, không còn âm mưu và nguy hiểm.
Còn Hêrôđê và Giêrusalem khi nghe biết về ánh sao lạ mà các nhà đạo sĩ cho biết thì đâm ra lo lắng, hoang mang, bối rối,...Họ chỉ lo cho cuộc sống trước mắt, cơm áo gạo tiền.Danh vọng và quyền uy đã chiếm hết trong cuộc sống của họ. Sự ảnh hưởng, quyền lợi ích kỷ...đã làm cho mắt họ không còn nhìn thấy ánh sao lạ, lòng họ không còn trong sáng đủ để khám phá ra tiếng Chúa đang hối thúc, và không còn sự khát khao đi tìm kiếm chân lý...Cuộc sống của họ đang “ngon cơm ngọt canh” mà bổng dưng Vị Vua mới lại xuất hiện...Có thể Ngài sẽ phá vỡ nồi cơm hay chăng? Và Ngài sẽ làm họ mất ảnh hưởng, cùng đi theo là mất luôn những quyền lợi trần thế...Do đó, họ phải hoảng sợ và lo lắng.
Khi đặt mình trước bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy mình đang được Chúa tỏ mình ra qua các dấu chỉ và các biến cố xảy đến hằng ngày. Vậy  ta lấy mắt đức tin để nhìn ra các ánh sao mà Chúa đang gởi đến: Lời Chúa, Giáo Huấn của Giáo Hội, các Bí Tích, qua lương tâm, qua các biến cố trong cuộc sống, để giống như các đạo sĩ, ta quảng đại dấn thân, quên mình không ngại khó, kiên trì và nhẫn nại đáp lại lời  mời gọi của Chúa.
Ngôi sao đã vụt tắt khi các đạo sĩ dừng chân tại Giêrusalem. Trong cuộc sống, tiền bạc, quyền lực khôn ngoan,..không phải là chỗ dựa vững chắc để ta tìm gặp Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy giúp ta dứt mình ra khỏi những níu kéo của tiển bạc vật chất, mà ngược lại ta phải bám chắc vào Lời Chúa để làm hành trang tìm kiếm Chúa cho cuộc đời mình.
Gặp được Chúa, Các đạo sĩ đã được đổi mới. Mỗi lần gặp Chúa, phải được đánh dấu bằng cuộc đổi mới. Nếu ta thành tâm thiện chí, khao khát muốn gặp Chúa, thì Chúa sẽ có cách tỏ mình ra, Ngài sẽ thánh hóa, thăng tiến và biến đổi con người chúng ta nên tốt hơn, thánh thiện hơn.
Xin cho chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra ánh sao Lời Chúa, dâng lên Chúa tấm lòng yêu mến chân thành, những nổ lực, hy sinh,...từ bỏ con đường cũ để theo ánh sáng Chúa, ta đến với Chúa để đón nhận niềm vui, bình an và hạnh phúc của Chúa.

MUỐN GẶP CHÚA.
Mt. 2, 1 - 12

Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại( Mt 2, 1-12). Ngay từ giây phút đầu tiên hạ sinh tin vui Thiên Chúa hạ sinh đã được loan báo cho các mục đồng và họ đã đến chiêm bái Người. Hôm nay thì đến lượt ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến kính thờ. Dấu chỉ ánh sao mà ba nhà đạo sĩ dõi theo để tìm ra Ấu Chúa có khó tìm lắm không ? Nếu không thì tại sao lại chỉ có ba đạo sĩ nơi xa xôi này?

Tin Mừng theo Thánh Mathêu ghi lại việc ba đạo sĩ nhìn thấy ánh sao của vua Do Thái xuất hiện bên phương Đông và các ông đã theo ánh sao đất Do Thái, đến hoàng cung để hỏi về dấu chỉ ánh sao. Nghe tin ấy vua Hêrôđê và dân Giêrusalem đều xôn xao và họ cũng tìm ra được lời giải đáp là ở Bêlem. Nhưng không vì thế mà họ đi tìm Chúa. Chỉ có ba đạo sĩ ra đi và họ đã được toại nguyện là nhận ra Ấu Chúa ( x Mt 2, 1-12). Qua đoạn Tin Mừng này cho tôi hai suy nghĩ về việc muốn gặp được Chúa.

Muốn gặp được Chúa phải có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn. Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa làm người không chọn cho mình nơi hoàng cung, lầu các....mà chọn cho mình một người Mẹ là một thôn nữ bình thường ở làng Nagiareth, chọn cho mình một người cha cũng bình thường, chọn cho mình sống trong một gia đình bình thường.... tới lúc hạ sinh Người không tỏ lộ mình ra cho những bậc vua chúa, quan quyền nhưng Người chọn các mục đồng để tỏ lộ Người đã giáng sinh, và hôm nay là các đạo sĩ. Tại sao Chúa lại chọn thế? Theo tôi vì các mục đồng là những người đơn sơ khi nghe Thiên Thần loan tin thì đã mau mắn đến bái thờ, các đạo sĩ khi thấy ánh sao lạ thì đã dõi theo ánh sao mà đến chiêm bái Hài Nhi. Đời sống người Kitô hữu chúng ta tuy mang danh là Kitô hữu nhưng có nhiều lúc ta lạc mất Chúa do những ham muốn, những tự phụ, những tính toán, những cách đặt vấn đề của chúng ta. Chúa thì luôn hiện diện nhưng những thứ đó đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa khiến ta khó nhận ra. Chúa Giêsu đã từng nói “ai không nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời”. Thế nên muốn được gặp Chúa trước hết phải có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Có thấy mình thiếu thốn, có thấy mình cần Chúa thì Chúa mới có thể lấp đầy.

Muốn gặp Chúa phải kiên nhẫn đi tìm. Các đạo sĩ đã rất gian nan để tìm đến nước Do Thái, có những lúc lạc mất ánh sao nhưng không vì thế mà họ nản lòng. Họ dùng đủ mọi cách để tìm cho được Hài Nhi. Và Chúa đã không phụ lòng họ. Có lẽ ánh sao không chỉ là dấu chỉ cho ba nhà đạo sĩ mà thôi nhưng chỉ có ba đạo sĩ tìm ra Chúa. Bằng chứng là vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem xôn xao nhưng không ai đi tìm như ba đạo sĩ. Chúa Giêsu nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”. Ơn gọi của chúng ta là ơn gọi nên thánh, nên thánh là được ở bên Chúa, nên giống Chúa. Theo Chúa không phải một ngày một lúc nhưng đòi hỏi ta luôn nép mình luôn trong tình thương Chúa cho dù có lúc ta như lạc lối nhưng với sự kiên trì chắc chắn ta sẽ gặp được Ngài như ba đạo sĩ.

Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho ba đạo sĩ phương Đông, cho lương dân cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa không là độc quyền của dân tộc hay quốc gia nào nhưng là phổ quát cho mọi dân tộc, mọi người. Vì thế, ta có nhiệm vụ là làm sáng lên trong ta ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chưa nhận biết Chúa ( Ba đạo sĩ dù được ánh sao chỉ đường nhưng phải nhờ đến dân Do Thái và Thánh Kinh mới tìm ra được Vì Cứu Tinh ). Các đạo sĩ đã dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Chúa Hài Đồng tượng trưng cho Vương Quyền, Thiên Tính và Khổ Nạn của Chúa Giêsu, nay chúng ta đến với Chúa ta có gì dâng Chúa, Chúa muốn đón nhận tất cả những ai đến với Chúa với tâm lòng thành thật khiêm tốn, cho dù có những vết thâm tím của những lần lưu lạc nhưng tin chắc rằng Chúa sẽ đón nhận, chữa lành và thêm sức cho ta vững bước về cùng Chúa.


DÂNG TẤM LÒNG CON

Mt. 2, 1 - 12

Ngày nào đó bước lên chuyến xe khách thử hỏi hai người cùng đi tơí một địa điểm chắc chắn ta sẽ nghe được hai mục đích khác nhau. Cũng vậy, Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay sẽ cho thấy hai thái độ khác nhau của việc tìm kiếm Chúa Giêsu Hài Đồng.

Với các Hiền sĩ từ phương Đông, họ đi tìm trong thái độ thật lòng và khiêm tốn. Họ đã lặn lội từ phương xa theo ánh sao lạ dẫn đường. Vàng, nhũ hương và mộc dược là những lễ vật họ mang theo để dâng tiến Chúa Hài đồng. Vàng là thứ dành riêng cho vua. Nhũ hương chỉ đặc biệt một mình vị thượng tế sử dụng. Còn mộc dược là thứ để dành cho việc ướp xác. Những lễ vật này chứng tỏ các vị ấy phần nào đã công nhận thân thế và sự nghiệp thật của Hài nhi Giêsu. Hài nhi Giêsu chính là vị Vua Messia mà muôn dân đang trông đợi. Cũng chính Người sau này sẽ dùng cái chết của mình làm hy tế dâng lên Chúa Cha đền thay tội lỗi muôn dân.

Ngược với các Hiền sĩ là thái độ tò mò và ghen ghét của vua Hêrôđê. Vì sợ mất quyền ảnh hưởng nên vừa nghe các Hiền sĩ hỏi thăm, ông hết sức bối rối đến nỗi làm cho cả thành Giêrusalem xôn xao. Câu nói: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" thật sự chỉ là ác ý. Trong tâm trí ông luôn bị ám ảnh đến sự mất ngôi. Vì thế, ông sẵn sàng làm mọi cách để tiêu diệt những ai có ảnh hưởng đến vị thế ấy. Bằng chứng rỏ ràng, sau đó ông đã ra lệnh giết tất cả trẻ em Do thái từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng lân cận. (Mt 2, 16)

Thật vậy, ông bà ta thường nói: “Dò sông dò biển dể dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người.” Cùng một biến cố Hài nhi Giêsu nhưng trước mắt ta đã thấy hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau. Từ đó đã đưa đến hai kết quả cũng khác nhau. Các Hiền sĩ đã được ngôi sao dẫn đường đi đến chiêm ngắm Hài nhi Giêsu. Còn Vua Hêrôđê không được ai chỉ đường đến Bêlem thì làm sao chiêm ngắm.

Biến cố Ngôi Hai nhập thể là sự thật. Đây cũng chính là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Chỉ những ai biết để cho mình bé mọn trước Chúa thì sẽ được biết nhữnng điều cao cả (Mt 11, 25). Chỉ cần ta hết lòng dâng cho Người thì sẽ được Người ban thêm cho (Mt 25, 29). Hãy tha thiết nài xin Hài nhi Giêsu cho ta biết khao khát và thật lòng đi tìm chân lý trong cuộc sống.


THIÊN CHÚA TỎ MÌNH CHO NHÂN LỌAI
Mt. 2, 1 - 12

“Các đạo sĩ bước vào nhà, thấy Hài nhi và thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở tráp lấy vàng nhử hương và mộc dược mà dâng lên…” (Mt 2, 11)

Câu chuyện Phúc âm của ngày lễ Hiển linh hôm nay thật lạ lùng, lạ lùng không phải vì chỉ có thánh Matthêu ghi lại, nhưng chính là vì nội dung của câu chuyện này. Ba nhà chiêm tinh từ đâu xa lắc bên xứ Á rập, Ba Tư, nơi người ta rất quan tâm về khoa chiêm tinh, đã nhận thấy sao lạ hiện ra; họ đã bỏ mọi sự để đi tìm vị vua của ánh sao lạ đó. Cuối cùng họ đã tìm gặp và họ đã thờ lạy, bỏ công bao lâu nay đi tìm kiếm… Câu chuyện lạ lùng y như câu chuyện thần tiên; vậy mà chính Kinh thánh ghi lại cho chúng ta cách chi tiết như vậy. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a. Truyền thuyết cho ta biết ba nhà đạo sĩ có tên gọi là: Gaspar, Balthasar và Melchior. Nhờ ánh sao dẫn đường, ba đạo sĩ đã gặp Chúa và đã quỳ xuống thờ lạy Người. Sự việc này được coi như cuộc Hiển linh (tỏ mình ra) cho bất luận là ai, không phải chỉ một mình dân tộc Do thái.

Khi ba đạo sĩ vừa đến Giêrusalem, ngôi sao dẫn đường biến mất; họ đành phải đi hỏi thăm các thày thư ký, các thông luật, các thượng tế và cả Hêrôđê nữa. Lúc đó Phúc âm ghi, cả thành đều xôn xao. Vua Hêrôđê bối rối. Thái độ bối rối của ông vua này không phải vì không biết Vua dân do thái sinh ra ở đâu, nhưng đó chỉ là vì sợ chiếc ngai vàng của ông bị lung lay khi hay tin Vua dân do thái chào đời…. Khi các đạo sĩ được cho biết rồi, họ ra đi và đã gặp Vua mới sinh. Họ đã sụp lạy và dâng lên Người : vàng – nhủ hương và mộc dược… Ba món lễ vật này, chính là để tỏ lòng tôn kính. Vàng chỉ vương quyền của đức Kitô; nhủ hương chỉ thiên tính; mộc dược chỉ cuộc tử nạn sau này.

b. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho ta hai ý suy niệm:

* Hình ảnh cuộc hành trình đi tìm Chúa Hài nhi của ba nhà đạo sĩ, cũng chính là hành trình cuộc đời mỗi người chúng ta, hôm nay. Thật vậy, việc tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm Thiên Chúa của con người ở mọi thời đại đều giống nhau. Khi xưa, ba nhà đạo sĩ đã không ngại bỏ nhà cữa, gia đình, nệm ấm chăn êm, lao đao vất vả, để đi đến chân trời vô định mà tìm kiếm Vua mới sinh. Công việc xem ra không chút hi vọng gì! Vậy mà cuối cùng họ đạt được ý nguyện. Hành trình đức tin chúng ta cũng tương tợ như thế. Trên đường đi, gặp khó khăn cản trở, đó là điều tất nhiên. Ba nhà đạo sĩ đầy quả cãm, kiên trung; chính vì thế họ đạt được thành công trọn vẹn, là gặp Đấng Cứu thế. Cuộc hành trình đức tin, cũng dài và cũng không êm ả như vậy. Vì thế nó đòi hỏi ta phải can đãm, kiên trì sống theo Lời Chúa, hiệp nhất với Ngài ngay trong cuộc sống ở đời này. Có như vậy mới đạt tới đích là gặp gở Đấng Cứu thế như ba nhà đạo sĩ …..

* danh từ: Hiển linh có nghĩa: Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, đại diện chính là ba nhà đạo sĩ. Lẻ ra người được Thiên Chúa tỏ mình ra trước tiên phải là dân tộc Do Thái, vì từ Cựu Ước, họ đã lãnh nhận lời hứa trở thành dân thánh của Chúa, và Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Tinh sinh ra từ dân tộc này. Điều này muốn nói lên: ơn cứu rổi là dành cho tất cả mọi người, không riêng dân tộc Do thái. Chính vì thế, Con Thiên Chúa giáng sinh hôm nay, là cho mọi người, không phân biệt ai cả. Tại sao các kinh sư, thượng tế lại không được đón nhận hồng ân này…

c/. Gợi ý suy niệm:

* Lễ Hiển Linh chính là để nói lên Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không phải chỉ dân tộc Do thái. Mừng lễ Hiển linh, ta có suy nghỉ nào đây? Ta có muốn TC tỏ mình ra cho chính ta không?

* Các nhà chiêm tinh đã lặn lội vất vã ngày đêm, để tìm đến và thờ lạy Chúa Hài nhi. Khi nhận ra dấu chỉ Chúa mạc khải, họ sẵn sàng bỏ tất cả, gia đình, vợ con, quê hương để đi tìm Vua mới sinh. Còn ta thì sao? Ta có sẵn lòng bỏ tất cả để theo Vua Giêsu không?


TÌM KIẾM CHÚA
Mt. 2, 1 - 12

 Các nhà chiêm tinh từ phương Đông phát hiện ngôi sao lạ và các ông nhận ra là có một vị Vua mới sinh ra nên các ông vội vả mang lễ vật lên đường tìm kiếm để thờ lạy vị Vua mới sinh ấy. Hành trình của các nhà chiêm tinh thật vất vả, các ông phải lặn lội đường xa theo dấu ngôi sao lạ mà đi. Đến Giêrusalem thì ngôi sao lạ biến mất, các ông phải tìm hỏi khắp nơi làm xáo trộn cả thành Giêrusalem, làm cho Vua Hêrôđê vô cùng bối rối: “Nhà Vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế và Kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu". Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđa, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Belem, miền Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-el dân Ta sẽ ra đời”. Các nhà chiêm tinh lại tiếp tục lên đường theo hướng Bêlem, miền Giuđa. Đến nơi, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với Mẹ Người là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”.

Trong sách Giáo Lý Công giáo số 27 và 35 dạy: “Tận đáy lòng, con người khao khát tìm kiếm Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa, … vànhờ những năng lực của mình, con người có thể nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa …và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc …”. Và trong Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma dạy “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ …”. Các nhà chiêm tinh nhờ vào sự hiểu biết của mình mà nhận ra Vị Vua mới sinh và mau mắn lên đường tìm gặp Ngài. Các nhà chiêm tinh đã dùng khả năng Chúa ban để đi tìm kiếm Ngài. Ngược lại, các Thượng tế và Kinh sư nhờ đọc sách Thánh mà biết được vị Vua sẽ sinh ra tại làng Bêlem nhưng không tìm kiếm Ngài, những điều các Thượng tế và Kinh sư biết được trong sách Thánh chẳng đem lại ích lợi gì cho các ông, vì các ông không tìm Chúa.

Thật trớ trêu thay, các nhà chiêm tinh không hiểu biết kinh thánh nhưng nhờ vào sự hiểu biết thiên văn mà nhận ra vị Vua xuất hiện, rồi đến với Ngài. Còn các Thượng tế và Kinh sư thì không. Đúng là “kẻ trước hết sẽ nên sau hết, kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết”.

Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy xét mình lại, dù chúng ta đã đã được rửa tội, dù chúng ta đã lãnh nhận các Bí tích, nhưng chúng ta có chân thành tìm kiếm Chúa mỗi ngày trong cuộc sống không ? Chúng ta có có dùng khả năng Chúa ban để tìm Chúa như các nhà chiêm tinh không hay chúng ta lại an tâm vì mình đã được rửa tội, đã được nghe Lời Chúa và lãnh các bí tích rồi không cần tìm kiếm Chúa nữa như thế chúng ta giống các Thượng tế và Kinh sư xưa.

Các nhà chiêm tinh đã không quản ngại đường xa vất vả, không ngại tốn thời gian, không ngại tốn của cải, gặp khó khăn trở ngại họ không hề chùng bước thối lui, họ cố gắng vượt qua tất cả để gặp được Chúa hài nhi.

Chúng ta có được thái độ như thế không ? Đường xá xa xôi có làm chúng ta ngại đến nhà thờ tham dự thánh lễ không ? thời gian đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ có làm cho chúng ta ngán ngại không ? Những khó khăn, buồn phiền, thất mùa, thiên tai có làm cho chúng ta chậm bước chân đến với Chúa không ? Một chút thử thách đó có làm cho chúng ta “thay lòng đổi dạ” với Chúa không ? Chúng ta có tin vào quy luật “sau cơn mưa trời lại sáng” để luôn vững niềm tin vào Chúa không ?

Lạy Chúa, xin cho con luôn biết hết lòng tìm Chúa trong mọi sự như lời Chúa dạy: “tiên vàn hãy tìm những sự trên trời còn mọi việc khác Chúa sẽ ban cho”.

BỀN TÂM TÌM CHÚA
Mt. 2, 1 - 12

Mt 1, 18-24: TC là Đấng trung tín, Người đang thực hiện lời đã hứa ….

Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc sinh ra của Đấng Cứu thế như sau: tôi xin nói lại, câu chuyện sau đây chỉ là sự thêu dệt và là ý tưởng của văn sĩ nọ thôi… Câu chuyện kể: Chúa Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ bò lừa, rất hôi tanh và lạnh giá vì không có lò sưởi. Chúa Nhi biết rõ như thế, nhất là biết cha mẹ của mình đã quá vất vả mới có được chổ ở này, vì họ nghèo quá! Chúa Nhi thông cảm cho họ lắm. Các mục đồng lại đến viếng thăm làm cho cha mẹ và cả Chúa Nhi rất vui… Mấy hôm sau lại có ba đạo sĩ đến thăm, dâng lên Chúa Nhi, vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Nhi hiểu rõ lòng của họ, nên đã mĩm cười với họ khi họ tiến dâng lễ vật. Sau đó họ lui xuống để bò lừa dâng lên hơi ấm; trong lúc đó ba đạo sĩ nói nhỏ với nhau, nhưng Chúa Nhi nghe rõ lời họ nói: vua Hêrôđê dặn họ khi tìm thấy Vua mới sinh, phải trở về cho ông hay để ông cũng đến triều bái người. Chúa Nhi nhìn thấu ruột gan của Hêrôđê, biết ông đang tìm cách giết mình. Hơi tức giận, Chúa Nhi dùng quyền năng mình, biến nên một tấm lưới vô hình trong suốt, bao bọc xung máng cỏ nhà đang ở, để người ngoài nhìn vào không thấy gì, cũng không thấy ai….Sau khi ba nhà đạo sĩ đi rồi, Chúa Nhi dùng quyền năng của mình, làm cho nơi mình đang ở bay đi sang qua Ai cập; dù bay, nhưng mọi người vẫn thấy căn nhà như đứng yên tại chổ…Chỉ trong nháy mắt, đã tới bên Ai Cập…

a/. Câu chuyện trên đây chỉ là tưởng tượng, không có thật, và cũng đi ngược lại ý nghĩa mầu nhiệm giáng sinh. Thực ra văn sĩ không đồng ý với Chúa Hài Nhi, vì đã để cho vua Hêrôđê rượt đuổi, tìm giết mình. Nhưng điều này lại là cốt lỏi của mầu nhiệm giáng sinh, của bài học của khiêm hạ tột cùng của Đấng cứu thế. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Nhi sẵn sàng sinh ra trong cảnh nghèo nàn, vất vả, bị rượt đuổi như thế vì vâng lời Chúa Cha, nhất là để làm trọn chương trình cứu rỗi… Đó là phần Chúa Hài Nhi. Bên dưới đây chúng ta hãy bàn về các nhà đạo sĩ đông phương:

b/. Các đạo sĩ đông phương:

  • Họ phấn đấu đi tìm chân lý và sự khôn ngoan: Các ông đã nhiều năm nghiên cứu, tìm kiếm ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, từ đó tìm ra ý nghĩa của biến cố. Thái độ của họ là cởi mở, sẵn sàng đi tìm chân lý, nên khi thấy ngôi sao lạ, các ông đã cảm nhận ra đó là dấu lạ từ Thiên Chúa.
  • Họ đã lên đường tìm kiếm Chúa Hài nhi, trong đức tin: với niềm xác tín riêng tư, họ bạo dạng lên đường tìm Chúa. Chính đức tin đã thúc đẩy họ lên đường; họ tự mình dấn thân vào cuộc hành trình vất vả tìm kiếm và mong gặp chân lý. Có khi thiên hạ cho là điên khùng, nhưng họ bất chấp; họ bỏ ngoài tai…
  • Họ đã hỏi thăm sự giúp đở của dân chúng : trên đường đi, có khi ánh sao biến mất, họ vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người xung quanh… nhất là những người khôn ngoan như hỏi các kinh sư trong bài Phúc âm hôm nay…
  • Họ chấp nhận điều Thiên Chúa dẫn họ tới, và tin vào đó : Họ đi tìm vị vua, vất vả biết bao nhiêu, vậy mà khi bước vào nhà, họ chỉ thấy một Hài nhi nhỏ bé với ông thợ mộc và Mẹ Nguời trong cảnh nghèo nàn. Chẳng có gì quý giá, chẳng có gì là dòng dỏi vua chúa cả! Làm sao tin? Thế mà các đạo sĩ đã tin; họ tin vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua những dấu hiệu rất tầm thường.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: đời sống của mỗi người kitô hữu cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, dù không vất vả như ba đạo sĩ, nhưng phần ta, ta có bền tâm đi tìm Chúa như họ không? Ta có để đức tin hướng dẫn ta trong hành trình tìm Chúa không?

TIẾN DÂNG LỄ VẬT
Mt. 2, 1 - 12

Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng tiến bước lên đường, hướng về cùng một nơi, đó là nơi mà ngôi nhà thờ mới được hoàn thành. Những người này đã được báo tin qua những cánh thiệp mời, qua những lời tha thiết. Những người tới đây cùng hoà chung niềm vui của biết bao người, cùng tận hưởng niềm vui chung với sự chuẩn bị thật chu đáo, bằng công sức, của cải vật chất mà họ gọi là lễ vật. Còn những người không có mặt thì sao? Có phải không được biết gì hết không?

Có người không hay biết gì hết về ngày lễ hôm nay, nên họ không thể đến được. Có người biết rất rỏ ngày giờ và lý do của ngày lễ, nhưng họ không được mời trực tiếp, nên họ không thể hoà niềm vui chung. Nhưng cũng có những người biết rỏ và được báo tin, được mời gọi tha thiết, vậy mà giờ này họ cũng không có mặt để hoà cùng niềm vui với mọi người. Sự vắng mặt với đầy đủ lý do, có khi chính đáng, cũng có khi không chính đáng. Có những người cũng lên đường nhưng lại không đến nơi được. Có những người không cảm thấy vui cùng niềm vui với mọi người nên họ cũng không đến.

Những nhà đạo sĩ từ phương xa họ nhận được lời mời, họ vui mừng chuẩn bị hành trang lên đường, họ vui mừng vì lễ vật của họ đã được trao một nơi thật xứng đáng, họ càng vui mừng hơn khi họ đã hoà được niềm vui của mọi người và Thiên Chúa.

Những người Do Thái, những người kinh thành và cả Hêrôđê đã nhận được lời mời trước tiên. Họ lại tính toán hơn thiệt, họ không dám lên đường, vì họ sợ. Trước tiên họ sợ cực khổ cho bản thân; họ không muốn vất vã để đến với người khác, vì họ quen ở yên một chỗ để người khác đến với họ và cung phụng cho họ. Tiếp đến họ sợ mất đi danh vọng mà họ cố công để tìm kiếm được, nên giờ đây họ không muốn từ bỏ nó. Họ cũng sợ mất đi những của cải vật chất mà họ rất trân trọng, vì họ sợ phải tiến dâng lễ vật, họ không muốn từ bỏ. Họ còn sợ mất đi bản thân mình vì họ quá coi trọng bản thân và yêu quý nó. Nên họ tìm cách phá đi sự việc mà họ lo sợ. Nhưng họ đâu biết rằng: những gì là của Thiên Chúa thì con người không thể làm gì được. Chính vì thế họ luôn sống trong lo sợ, họ không thể có được niềm vui.

Niềm vui chỉ đến được với những tâm hồn thư thái, biết từ bỏ và cho đi, còn với những tâm hồn luôn tính toán và so đo thì khó mà tìm được niềm vui.

Trong cuộc sống đời người, chúng ta cũng mãi miết đi tìm, nhưng chúng ta có tìm được gì không? Giờ đây, mỗi người để một ít phút suy tư, nhìn lại quãng đời đã qua …. Chúng ta đã từng được mời gọi đến với Chúa, trở về với Chúa, mời gọi sống trong niềm vui của Ngài. Chúng ta càng biết rất rõ mình phải làm gì và chuẩn bị những gì.

Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng cũng cảm thấy hối hận về những việc mình làm cho người khác, hối hận về những bất công, về sự ích kỷ chỉ biết lo cho mình mà quên đi những lời kêu than của người chung quanh, không nhìn thấy nỗi đau xé lòng mà mình gây nên cho họ. Nhưng nỗi lo sợ lại nỗi lên: sợ mất danh dự, mất uy tín, mất thời giờ, tiền bạc …. nên đến giờ nầy, chúng ta vẫn không tìm được niềm vui trong Chúa. Con người của bao nhiêu năm vẫn không khá hơn mà trái lại, có khi giờ nầy, mình còn nham hiểm độc hại hơn trước. Đó có phải là chúng ta lập lại công việc mà ngày xưa vua Hêrôđê và những người kinh thành Jerusalem đã đối xử với Chúa Giêsu và các nhà đạo sĩ phương xa sao?

Nếu có lần trong cuộc sống, chúng ta biết nới rộng vòng tay yêu thương để ban phát cho những người kêu cầu đến. Đó là lúc chúng ta nhận ra được lời mời gọi và cất bước lên đường với những lễ vật trong tay. Nếu chúng ta nhận thấy được những lỗi lầm thiếu sót của mình mà sẵn sàng sữa đỗi cho tốt hơn, nếu chúng ta biết sống quảng đại, để biết thông cảm và tha thứ thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì khi đó chúng ta tìm găp được Chúa và dâng lên Ngài lễ vật mà chính bản thân đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sáng suốt để biết lắng nghe lời mời gọi và đáp lại cho xứng đáng.

SÂN KHẤU CUỘC ĐỜI
Mt. 2, 1 - 12.

Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2014 của Đức Giêsu. Nói đến lần thứ 2008, thì có nghĩa là phải có lần thứ nhất. Như vậy, chúng ta lấy mốc thời gian nào để tính là năm thứ nhất. Câu trả lời là dựa vào năm Đức Giêsu sinh ra. Như vậy, biến cố Đức Giêsu ra đời là khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Dù ngày hôm nay, các chuyên viên có tính lại là năm Chúa Giêsu sinh ra không phải là năm thứ 1, nhưng Ngài được sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Đấy là vì ông Denise thuộc thời Trung cổ tính sai. Dẫu vậy, nhưng trong tâm trí của ông Denise và cũng như của tất cả nhân loại đều lấy ngày Chúa Giêsu giáng sinh là trung tâm của lịch sử. Ngài đã bước vào lịch sử của nhân loại và làm xoay chiều lịch sử ấy. Ngài mặc cho lịch sử trần tục của con người một ý nghĩa mới, lịch sử cứu độ. Từ đây, Thiên Chúa đã làm người và ở với con người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần gian để cho con người trần gian được bước lên trời. Đất với trời đã giao duyên!

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là chúng ta mừng kính việc Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho 3 nhà đạo sĩ Đông phương và cũng là cho tất cả chúng ta. Nhưng biến cố ấy thay vì trở thành niềm vui cho hết nhân loại thì lại trở thành tin buồn và thảm hoạ cho một số người. Tại làm sao lại có chuyện ấy xảy ra? Có phải vinh quang của Thiên Chúa không có sức mang lại hạnh phúc cho con người không? Có phải Thiên Chúa đã chịu thua sự nhẫn tâm của con người rồi chăng? Ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên thần đồng thanh tung hô rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”, nhưng xem ra việc Chúa Giáng trần chỉ mang lại tai hoạ cho con người mà thôi!

Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu. Ngài yêu thương hết thảy con người cho dẫu rằng con người có nhận ra điều đó hay không? Chúa không muốn biến con người thành những cổ máy Robot, nên đã trao cho họ tự do. Và vì lạm dụng tự do, nên con người đã chống lại Thiên Chúa; coi Thiên Chúa như đối thủ của mình, như người tranh giành hạnh phúc của mình. Thật là một điều đáng buồn cho con người.

Chúa Giêsu vẫn sinh ra cho con người dẫu rằng con người có đón tiếp Ngài hay không? Và quả thực, con người đã chối từ Ngài ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời dương thế của Ngài. Nhưng Ngài chấp nhận tất cả và chịu sinh ra trong cảnh nghèo nàn nhất của kiếp người. Nhà bảo sanh là chuồng bò, chiếc nôi là máng cỏ, thời tiết là giữa mùa Đông giá rét run người. Người ta không muốn đón tiếp Chúa vì Chúa đến trong thân phận của người nghèo khổ và quá âm thầm.

Hơn nữa, ngày mà Chúa tỏ vinh quang cho nhân loại thì lại trở thành ngày buồn thảm: Hêrôđê bối rối vì sợ bị chiếm ngôi, các gia đình có con trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Giuđêa và các vùng lân cận phải một trận khóc than thảm thiết vì con trẻ của họ bị giết! Lý do là vì sự độc ác của con người, cụ thể là vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là đại diện cho tất cả những con người ham hố quyền lực trên thế giới. Họ sẵn sàng gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho nhân loại để bảo vệ uy quyền cho mình. Ngày nào trên thế giới còn có những con người ham hố quyền lực thì ngày đó nhân loại còn phải chịu đau khổ và chết chóc.

Sân khấu lịch sử cuộc đời còn có vai của những con người trong vai các kinh sư và luật sĩ. Họ thông thạo Thánh kinh, biết rõ nhiều vấn đề nhưng họ sợ cực khổ, sợ mất mát, ngại hy sinh nên đem những hiểu biết của mình chôn vùi trong tủ kính. Vì thế, những hiểu biết của họ không giúp ích gì cho ai và cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho bản thân họ. Họ là hạt giống có lớp vỏ vàng óng. Họ cố bảo vệ lớp vỏ của mình cho thật đẹp và không chịu làm trở thành thân phận của hạt giống, phải chịu thối đi để sinh ra trăm nghìn bông hạt mới. Vì thế, mãi mãi họ là hạt lúa cô đơn, hạt lúa vàng vô ích và sẽ có ngày sẽ hư mất.

Nhưng cũng may là thế giới này cũng còn có những con người khát khao tìm kiếm chân lý như 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông. Nếu không, thì cuộc đời này sẽ biến thành nghĩa trang lạnh lùng, đầy dẫy những xác chết, và trái tim con người sẽ hoá đá! Hình ảnh 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông trở thành mẫu mực cho những ai khao khát sự thật và sự sống. Khi nhận ra được ánh sáng chân lý rồi, thì họ không ngần ngại hy sinh, sẵn sàng chịu cực khổ, mất mát và nguy hiểm để lên đường tìm kiếm. Và những cố gắng của họ đã được đền bù xứng đáng. Họ đã được Thiên Chúa đong đầy sự khao khát của họ. Vì “Phúc cho ai biết khao khát nên trọn lành và tìm kiếm chân lý, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho được đầy no”.

Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm lại chính mình xem chúng ta đang có trong mình hình ảnh của ai? Của Hêrôđê, của những Kinh sư hay của ba nhà Đạo sĩ Phương Đông? Chúng ta có phải là những người đang ham hố quyền lực để sẵn sàng tiêu diệt, loại trừ người khác để bảo vệ uy thế và chỗ đứng cho mình không? Hay chúng ta lại là những người Kinh sư, thông thạo Thánh kinh, biết rất nhiều về Lời Chúa nhưng lại không làm theo và không màng gì đến những Lời ấy? Hay chúng ta là những Nhà Đạo sĩ đang khao khát và kiếm tìm chân lý, để khi nhận ra được chân lý đang soi dẫn cuộc đời của mình thì sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan, hy sinh mọi sự để lên đường tìm kiếm chân lý? Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đang mang trong mình hình ảnh của những nhà Đạo sĩ Phương Đông ngày xưa!


HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Mt. 2, 1 - 12

Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng hỏi trong vui sướng:

  • Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào ?
  • Anh không thấy đường sao ?
  • Thấy thì còn hỏi anh làm gì

Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:

Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.

  • Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ ?
  • Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng mù như anh vậy
    ( Hàn Lâm Tử)

Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác ái… rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.

Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù. Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn mọi người “bị mù” tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về. Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng trần gian” ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.

Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam , còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi trong hành động của chúng ta.

Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà. Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của Chúa.

Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.


ĐỨC KITÔ Ở ĐÂU?
Mt. 2, 1 - 12

Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá. Thôi thì đủ loại, đủ cỡ, đủ hình dạng, màu sắc. Có cái rất hoành tráng, trang trí cầu kỳ, từ những vật dụng đắt tiền; nhưng cũng có cái làm từ phế liệu. Đặc biệt nhất là bộ tượng. Ngoài những bộ tượng theo truyền thống Do thái, còn có cả những bộ tượng người Tàu, người Mông Cổ, Ả rập, Châu Âu và cũng không thiếu những bộ tượng người Việt với trang phục khăn đóng - áo dài hay khăn rằn - áo bà ba rặt nam bộ. Nói chung, Tin Mừng đi đến dân tộc nào thì hang đá và các nhân vật trong hang đá mang hình ảnh dân tộc đó. Người thiết kế muốn diễn tả hình ảnh Thiên Chúa thật giống với người bản địa. Điều nầy chắc không làm Thiên Chúa phiền lòng bởi từ trời cao Ngài đã xuống trần chẳng phải là để cho gần con người sao?

Nhưng đáng buồn thay. Trong khi Thiên Chúa đang cố gắng rút ngắn khoảng cách cách giữa Ngài và con người, thì con người lại hững hờ không muốn đón nhận thiện ý đó. Dân tộc mà lẽ ra phải mở tiệc tưng bừng để đón Sinh Nhật Vua Trời thì lại lạnh lùng từ chối. Vua Hêrôđê tỏ ra quan tâm, ân cần với các nhà hiền sĩ Đông phương: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tần về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bài lại Người” (Mt 2,8). Hoàn toàn không phải vì ý tốt mà là muốn giết Chúa Giêsu để níu giữ ngai vàng sắp đổ của mình.

Vào lễ Hiển Linh năm nào ta cũng nghe câu chuyện ba nhà Đạo Sĩ đi theo ngôi sao tìm Chúa. Rồi sau đó dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng. Cảnh tượng thật xúc động! Càng xúc động hơn khi biết rằng cả ba nhà Đạo Sĩ đều là dân ngoại - một dân tộc không biết gì về Thiên Chúa lại được Thiên Chúa tỏ mình ra. Còn dân Do thái đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra. “Nay mầu nhiệm được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp” (Ep 3,6).

Nói vậy, chẳng phải là Thiên Chúa thiên lệch, cho người nầy không cho người khác, nhưng bởi dân Do Thái thiếu lòng tin đó thôi. Hơn thế, chẳng đời nào Ngài lại bỏ đứa con mà Ngài đã từng cưu mang.

Ba nhà đạo sĩ vất vả lên đường tìm Chúa. Họ đã phải luôn miệng hỏi: "Đức Giêsu - Vua dân Do thái mới giáng sinh ở đâu?". Ngày nay, ta không còn vất vả nữa, vì Chúa đã được các nhà truyền giáo đem đến tận tay chúng ta rồi. Chúng ta chẳng còn phải nghi ngờ Đức Giêsu là ai, sinh ra ở đâu nữa. Nhưng liệu chúng ta có giống dân Do Thái xưa không? Thấy đó, nhưng không thể nào tin được? Ngày Rửa Tội ta được xếp vào hàng con cái Chúa. Ngày chịu phép Thêm Sức ta được mời gọi lên đường làm chứng, rao giảng Nước Chúa. Nhưng chính bản thân chúng ta cũng chưa một lần thể hiện được lòng tin của mình thì làm sao chúng ta có thể giới thiệu được một Đức Giêsu bé nhỏ, trần trụi, nghèo nàn đó cho trần gian? Hãy mạnh mẽ đi theo hướng khác mà trở về nhà mình, đừng ù lì trong những lề thói ấu trĩ, ích kỷ của chính mình nữa. Hãy đứng dậy lên đường giới thiệu Đức Kitô bằng đời sống yêu thương của mình.

Hơn 2000 năm qua, Đức Giêsu vẫn giáng sinh mỗi ngày trong trần gian. Ngài không chỉ giáng sinh nơi hang đá Bêlem thuộc xứ Palestine, trong dòng tộc Đavit nữa; mà Ngài hiện diện trong từng con người cụ thể trên khắp hành tinh nầy, trong tất cả mọi sắc tộc, trong mọi nền văn hóa. Ngài ở giữa chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Ngài còn ở trong chính ngôi nhà tồi tàn, rách nát của một vùng quê nào đó. Ngài đang bị cầm tù, đang cô đơn trong những nhà dưỡng lão, những trại mồ côi, bệnh viện, trại tập trung. Ngài là em bé bị lạm dụng sức lao động, đang ngày đêm giơ tay cầu cứu sự giúp đỡ. Ngài là những công nhân cần có những đồng lương xứng hợp. Ngài là những nạn nhân của những cuộc xung đột, chạy đua vũ trang, hay của những chế độ độc tài, bất công, nghèo đói... Bạn không cần phải đi qua tận thánh địa xa xôi để mong gặp Chúa, mà bạn hãy đi ra khỏi lòng mình. Ra khỏi những ích kỷ, tư lợi, đam mê thấp hèn của chính bạn. Rồi bạn sẽ gặp Đức Kitô ngay thôi. Ngài đang hiện diện ngay trước mặt bạn đấy!


THIÊN CHÚA TỎ MÌNH
Mt. 2, 1 - 12

Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.

Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện cho những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy bỏng. Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh ra. Các đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự nhiên. Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.

Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.

Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà Thiên Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải trong sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương trời xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.

Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.

Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng “Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6, 20-21).

Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: “Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban” (Eph 3,6).

Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.

Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối. Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng Messia.

Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này. Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.

Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta : “Đức Giêsu là ai?”. Hãy trả lời cho họ đi. Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo….

Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống thường ngày.

ĐI TÌM CHÚA NHỜ NGÔI SAO LẠ
Mt. 2, 1 - 12

Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo hay vào các xóm đạo chúng ta sẽ thấy người ta nô nức cùng nhau làm ngôi sao. Dường như thiếu ngôi sao thì lễ Giáng sinh không thành được. Cho nên bằng mọi cách người ta phải cố gắng làm theo khả năng của mình. Nơi nào khá thì làm ngôi sao đẹp và đắc tiền hơn. Hình ảnh ngôi sao trong mùa Giáng sinh phải chăng là nhắc tới ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.

Ba vua này được gọi là những nhà chiêm tinh. Họ đã nghiên cứu và thấy được có một ngôi sao lạ xuất hiện bên phương đông. Từ đó họ đã quyết định lên đường tìm Hài nhi Giêsu để thờ lạy cùng mang theo những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Người.

Ðiều đáng nói ba vị vua này lại là lương dân từ xa đến. Ðang khi đó vua Hêrôđê là vua Do thái ở kế bên đó thì lại chẳng hay biết. Tại sao ba vua này lại được thấy ngôi sao lạ còn vua Hêrôđê thì không. Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25). Thật ra Chúa chẳng muốn giấu ai. Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được chiêm ngưỡng Con Mình. Tuy nhiên ở đây còn tùy vào sự đón nhận của con người. Ngôi sao thì có sẵn trên bầu trời nên chỉ có những ai thành tâm thiện chí và thật lòng khao khát thì mới được gặp Người.

Vua Hêrôđê chỉ vì tham quyền cố vị và tưởng rằng mình là nhất trên đời nên chẳng muốn đón nhận gì thêm. Hơn nữa, khi nghe biết có Hài nhi Giêsu sinh ra thì ông lại sợ mất quyền ảnh hưởng nên cũng căn dặn ba vua: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8). Ðó chỉ là lời lẽ che đậy âm mưu bên trong. Bằng chứng sau đó ông đã ra lệnh: “giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. (Mt 2, 16b)

Hằng ngày Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta rất nhiều ngôi sao lạ. Ðó là tiếng nói của Chúa trong lương tâm.Tiếng nói lương tâm thúc đẩy ta làm lành lánh dữ. Ðó là những lời nhắc nhở của người thân. Ðặc biệt là lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội.

Mừng lễ Hiển linh năm nay, chúng ta hãy thành tâm xét mình trước Chúa về cách đón nhận những ngôi sao lạ mà Chúa đã gởi đến cho mình. Hãy xin Hài nhi Giêsu cho chúng ta thêm lòng tin và quảng đại đón nhận những ngôi sao lạ đó để chúng ta ngày càng được đến gần Chúa hơn.

THIÊN CHÚA TỎ MÌNH 
Mt. 2, 1 - 12

Hằng năm cứ đến mùa Giáng Sinh, sau lễ Thánh Gia chúng ta luôn được mừng lễ Hiển Linh. Lễ này nhắc nhở cho chúng ta việc Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Ba Vua. Ba Vua đã theo ánh sao lạ dẫn đường đến chỗ Hài Nhi Giêsu vừa mới sinh ra.

Mặc dù Hài Nhi Giêsu bé nhỏ nhưng Ba Vua đã tỏ thái độ rất cung kính: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người ” (Mt 2, 11)

Không phải Thiên Chúa chỉ muốn tỏ mình cho Ba Vua nhưng Người cũng muốn tỏ mình cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, chỉ ai những thật lòng và thành tâm thiện chí mới có thể gặp được Ngài. Như có lần Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25). Bởi lẽ, Thiên Chúa không tỏ mình ra một cách rầm rộ, oai quyền. Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong hoàn cảnh rất đơn sơ, nghèo nàn và bình dị. Ðồng thời Người tỏ mình qua thân phận một trẻ thơ yếu ớt. Tất cả chỉ vì thương con người.

Ngày nay, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục tỏ mình ra cho chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau. Như Linh mục Nhạc sĩ Thái Nguyên đã viết trong một bài thánh ca: “…Chúa hẹn gặp con, Chúa chờ đợi con qua bao biến cố buồn vui qua những lo toan đời thường, qua ngàn sầu thương vấn vương. Ước gì con trông thấy Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, ước chi con không bỏ rơi cơ hội đến trong thường ngày để được gặp Chúa trên muôn nẻo đường …”

Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta qua vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta qua những biến chuyển của cuộc sống và qua những biến cố vui buồn của cuộc sống thường ngày. Thiên Chúa còn tỏ mình ra cho chúng ta qua những lời nhắc nhở của những người có trách nhiệm, ngay cả những người nhỏ hơn mình.

Ðồng thời, Thiên Chúa cũng muốn tỏ mình ra cho những anh chị em xung quanh qua từng người chúng ta. Một người cha và một người mẹ gương mẫu đạo đức và thánh thiện là một trong những điều kiện tốt để Thiên Chúa tỏ mình ra cho con cái . Một người tín hữu sống ngoan đạo luôn biết tuân giữ tốt lề luật và giới răn của Chúa cũng là điều kiện tốt để Thiên Chúa tỏ mình ra cho anh chị em lương dân.

Hyã xin Chúa Giêsu Hài Ðồng cho từng người chúng ta biết khôn ngoan sáng suốt đề nhận ra Chúa. Cũng vậy, xin Người cho mỗi người chúng ta cũng biết để Chúa sử dụng để tỏ mình ra cho anh chị em xung quanh.

TÌM CHÚA
Mt. 2, 1 - 12

Lễ Hiển Linh ngày xưa còn gọi là lễ Ba Vua, kỷ niệm Chúa Giêsu tỏ mình cho các đạo sĩ . Các ngài tìm đến vua Do Thái để dâng lễ vật. Họ là những hạn người nào? Chắc chắn họ là những người có học thức ở vùng Babilon, phía đông Palestin, và họ còn đại diện cho những người luôn quan sát thiên nhiên và truy tìm chân lý. Khi tìm thấy chân lý thì họ đã không quản ngại khó khăn để tìm đến sự thật. Tuy nhiên, cuộc hành trình tìm kiếm không phải trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất, nhưng nhờ họ kiên trì, ánh sao đã suất hiện trở lại và cuối cùng cũng đến nơi. Thế nhưng, không phải ai cũng gặp được Chúa. Có những người dù họ biết rất rõ những chỉ dẫn về Thiên Chúa nhưng họ không gặp được Chúa.

Có thể nói: những kinh sư, biệt phái. Là những người rất am hiểu Thánh Kinh khi ba nhà đạo sĩ vừa đến hỏi thăm, thì họ đã đọc thuộc lòng lời các ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bê-lem. Tiếc thay họ vẫn không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết quá nhiều mà không thực hành. Họ không chịu tìm Chúa mà cứ ở một chỗ, họ chỉ chú ý tới chữ nghĩa của sách vở, lý thuyết suông mà không chú ý tới cuộc sống con người, không tìm những dấu chỉ trong đời thường.

Còn đối với vua Hê-rô-đê. Bạo vương này dù đã dùng binh hùng tướng mạnh để lùng kiếm Chúa Giêsu nhưng ông đã không gặp được Chúa. Ông không gặp được Chúa là vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông và ông vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.

Những người này xem ra rất gần gũi, hiểu biết am tường Kinh Thánh, có đầy đủ phương tiện tôi tưởng chừng như họ có thể dễ dàng gặp được Chúa thế nhưng họ đã không gặp được Chúa. Trái lại những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở thì họ lại gặp được Chúa. Họ là những ai ? họ là các mục đồng (khi được Thiên Thần báo tin cho Đấng Cứu Thế đã sinh ra, họ đã hối hả lên đường đến với Thiên Chúa và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay. Sở dĩ

Họ đã gặp Chúa là vì họ đã mau mắn lên đường. Dù họ không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Sự lên đường của họ đã nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Họ sẵn sàng dấn thân, cương quyết đi tìm, chấp nhận gian khổ để đạt được điều họ mơ ước.

Họ lên đường và họ đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát chân lý. Vì khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết ngay. nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Mặc dù trong cuộc tìm kiếm đó rất khó khăn gian khổ vì đôi lúc ánh sao biến mất nhưng họ không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.

Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thoả lòng khao khát chân lý chứ không để thoả mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.

Ngày nay trong cuộc sống hằng ngày, sống đạo của chúng ta cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ có thể gặp được Chúa nếu chúng ta biết noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa thật sự, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.

Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.

BÀI GIẢNG LỄ CHÚA HIỂN LINH
Mt. 2, 1 - 12

Trước đây, chúng ta quen gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua. Tuy quen gọi là Ba Vua nhưng đúng ra phải gọi là các nhà đạo sĩ. Bởi vì Phúc Âm không nói rõ các vị đạo sĩ này là vua và không nói rõ có bao nhiêu vị. Phúc Âm chỉ cho thấy các vị đạo sĩ này là những vị đại diện cho dân ngoại, đã nhận ra Chúa Giêsu là vua mới ra đời và họ đã tìm đến bái lạy người, dưới sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Bên cạnh đó, nếu đặt tên cho ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua thì đã quá nhấn mạnh về phía con người trong việc tìm kiếm Chúa. Trong khi đó, vai trò soi sáng và hướng dẫn của Thiên Chúa đối với cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa của con người thì quan trọng hơn so với sự tự nỗ lực của con người. Chính vì vậy mà hôm nay, Giáo hội đã sử dụng tên gọi Chúa Hiển Linh thay vì gọi là Ba Vua như trước đây. Gọi tên ngày lễ hôm nay là Chúa Hiển Linh là để mừng kính việc Chúa Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho mọi dân tộc trên thế giới.

Thế là ngày lễ hôm nay được gọi là lễ Chúa Hiển Linh. Thế nhưng, tôi thấy nơi Chúa Giêsu Hài Đồng đâu có gì được gọi là vinh quang để hiển linh. Chúng ta thử tưởng tượng xem. Khi các vị đạo sĩ tìm gặp Hài Nhi Giêsu, các ông sẽ nhìn thấy gì nơi Ngài. Các ông thấy gia đình Ngài trú ngụ trong một hang đá dùng làm chuồng nuôi gia súc là những con bò và những con lừa. Nếu có ai ở đây từng nuôi gia súc thì biết, chuồng nuôi gia súc rất là hôi hám và bẩn thiểu. Không thể ở và sống trong đó được. Chỉ có những người không cửa không nhà và không được ái đón tiếp mới bấm bụng, cắn răng vào ở trong một nơi lạnh lẽo và mất vệ sinh như thế. Vì vậy mà khi các vị đạo sĩ đến gặp Hài Nhi, thì ấn tượng đầu tiên đập vào mắt các ông là: cha mẹ Hài Nhi này rất nghèo. Nghèo đến nỗi không thuê được một chổ ở xứng đáng cho một con người. Phải vào ở trong hang đá lạnh lẽo là một chuồng nuôi súc vật. Aán tượng thứ hai mà các vị đạo sĩ nhận được nơi Hài Nhi Giêsu là Hài nhi này sẽ luôn bị người đời khức từ và chống đối. Nếu Hài Nhi Giêsu không được những người giàu có tham lam tiếp đón thì ít ra còn có những người tốt bụng, những người yêu mến trẻ con sẽ tiếp đón Ngài. Thế nhưng họ cũng không tiếp đón Ngài cho dù họ biết Ngài sẽ gặp nguy hiểm. Cho dù họ biết mùa đông giá rét của xứ Palestin có thể giết chết Ngài lẫn cha mẹ Ngài nếu gia đình Ngài cứ lang thang như thế trong đêm đông giá lạnh.

Sống ở trên đời, thì có gì đau khổ và nhục nhã cho bằng khi mới sinh ra đã lâm cảnh nghèo khó, thiếu thốn và bị người đời khinh khi, xa lánh. Thế thì, cái vinh quang mà Chúa Giêsu đã bày tỏ khi Ngài mới sinh ra là vinh quang gì? Thưa ! Câu trả lời là:

+ Nếu người người ta coi vinh quang chính là của cải, danh vọng và lạc thú của thế gian, và cuộc sống của người ta chỉ nhằm tìm kiếm những thứ vinh quang đó thì họ sẽ chẳng thấy được vinh quang mà Chúa Giêsu đã bày tỏ. Hơn thế nữa, họ sẽ giống như vua Hêrôđê, là tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình vì họ sợ Thiên Chúa sẽ cướp đi vinh quang của họ. Và kết cục đời họ sẽ giống như vua Hêrôđê. Không tới hai năm sau khi vua cho thủ hạ truy sát Hài Nhi Giêsu, vua đã chết trong một tâm trạng cuồng loạn tâm thần. Trước khi chết, vua đã giết vợ và một số đứa con của mình vì sợ chúng cướp ngôi. Đó là kết cục chung của những kẻ luôn chạy theo vinh quang của thế gian mà không nhận ra vinh quang của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu.

+ Còn ngược lại, nếu người ta coi Chúa là vinh quang duy nhất của cuộc đời mình, thì cho dù Chúa có sinh ra trong cảnh cơ hèn, cho dù Chúa có bị người đời chối bỏ, thì người ta cũng sẽ giống như các vị đạo sĩ, là nhận ra vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu. Vinh quang đó chính là Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa đã được trao ban cho con người qua con đường cứu độ gian nan và đau khổ của Chúa Giêsu. Và nếu ai đón nhận vinh quang ấy, thì vinh quang ấy sẽ giải thoát họ khỏi những hành vi gian ác và tội lỗi. Vinh quang ấy sẽ giải thoát họ khỏi tay tử thần, nghĩa là khỏi phải chết đời đời, cho họ được sống lại ở đời sau và được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa.

Chúng ta đang được hưởng một phần vinh quang của Chúa ngay ở đời này rồi, qua việc chúng ta sống đạo Chúa Kitô, qua việc ông bà anh chị em sống the gương của Chúa Kitô. Hy vọng chúng ta luôn vững tâm bước theo Chúa để Tình Yêu Cứu Độ của Chúa được hiển linh cách trọn vẹn nơi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Amen.

NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG
Mt. 2, 1 - 12

Trước năm 1975, ở chủng viện, trong dòng tu, hay trong các trường công giáo, dịp lễ hiển linh, vào buổi tối, người ta hay tổ chức trò chơi: “đi tìm Ba vua”. Ai tìm được mật thư đặc biệt, sẽ được bầu lên làm vua. Sau đó nhà vua sẽ chọn hoàng hậu, cung tần mỹ nữ cho mình. Kế đến, vua và hoàng hậu mặc triều phục để đăng quang, ngồi trên ngai, cho thần dân hoan hô triều bái. Dù là trò chơi, nhưng lúc này bầu khí rất tưng bừng và ấn tượng. Ba vì vua, có thể tiếp tục trò chơi theo sáng kiến của mình…một lúc nữa. Nhất là một ông vua đại diện cho cả ba, tuyên bố long trọng: “nhân ngày kỹ niệm đăng quang của Trẫm hôm nay, Trẫm long trọng tuyên bố: ngày mai sẽ cho cả thần dân được nghỉ học một ngày.” Thế là nổi lên tiếng vỗ tay hoan hô như sấm… Nếu ngày hôm sau, là ngày chúa nhật, hoặc ngày nghỉ trong tuần, đương nhiên sẽ được nghỉ; nếu không, khẩu lệnh của nhà vua cũng chỉ là… lời nói cuội…Dĩ nhiên,trò chơi nàykhông nói lên ý nghĩa ngày lễ Hiển Linh, nhưng nó đem lại ấn tượng sâu sắc cho học sinh thời trẻ…Kính mời anh chị em cùng suy niệm mầu nhiệm ánh sao Bêlem được tỏ lộ cho ba nhà đạo sĩ.

a/. Ba nhà đạo sĩ là ai?

Kinh thánh không nói nhiều về họ. Theo truyền thống, chúng ta vẫn gọi họ là Ba vua. Con số là 3, hay nhiều hơn nữa? Không ai biết chắc. Người ta gọi họ là ba vua, ba nhà đạo sĩ, vì dựa vào lời kinh thánh ghi: họ dâng lên Chúa Hài nhi ba lễ vật: vàng biểu tượng lòng trung thành (chỉ vương quyền của Chúa Giêsu); nhủ hương: biểu tượng niềm hi vọng (chỉ chức vụ tư tế của Đấng Cứu thế); Mộc dược: biểu tượng sự hi sinh (chỉ về hi tế trên thập giá, cũng là vật để liệm xác Chúa). Truyền thống nói ba vua có tên là Balthazar, da đen, vua của Á rập. Gaspar, trẻ hơn, không râu quai nón, là vua của India. Melchior, già hơn tóc hoa râm, vua xứ Persia. Truyền thống còn nói họ cởi trên những con lạc đà. Thực ra, Thánh kinh không nói gì về những chuyện này…

Câu chuyện TM : chúng ta thử nhìn lại trong toàn cảnh của câu chuyện: Ba nhà đạo sĩ, hay ba nhà thông thái đã nhận ra ánh sao lạ, nên đã dứt khoát lên đường theo ánh sao lạ, ra đi tìm vì Vua mới sinh. Kế đến, họ theo ánh sao đến nước Do thái, nhưng tại đây ánh sao lặn mất. Họ đành phải vào hỏi thăm vua Herôđê, và được các thượng tế chỉ nơi vua mới sinh ra là Bê Lem. Họ ra đi, và kìa sao lạ lại xuất hiện và dẫn họ tới nơi Hài nhi ở. Họ dâng lễ vật và thờ lại Ngài. Sau đó, họ lên đường khác trở về xứ sở mình…

b/. Câu chuyện TM này muốn dạy cho chúng ta điều gì?

Ngày xưa, ngôi sao lạ, cũng gọi là sao Bêlem, đã chiếu soi cho mọi người được thấy, không phải chỉ riêng ba nhà đạo sĩ; vì ánh sang nó chiếu tỏa trên bầu trời, không chỉ riêng cho ba đạo sĩ, mà là cho cả những người xung quanh. Vậy mà các người Do thái kể cả các thượng tế, các dân ngoại xung quanh cũng đã thấy, nhưng họ lại không được chiếu sáng nội tâm; biến cố đó cũng không ảnh hưởng gì trên cuộc sống của họ. Hóa ra cái nhìn của ba nhà đạo sĩ là cái nhìn của đức tin, luôn luôn biết đi tìm kiếm. Rõ ràng chính các ông khi thấy ánh sao, đã tự nguyện lên đường tìm Chúa. Vì chính các ông đã chú ý đến ánh sáng đến từ vô biên này, nhận ra lời kêu gọi từ trời cao, khơi dậy trong họ một phản ứng, thúc đẩy họ lên đường tìm kiếm…và rồi các ông đã tìm thấy. Như vậy, có phải những ai biết lắng nghe tất cả mọi dấu chỉ trong vũ trụ, đều mang đến một sứ điệp tình yêu và sự sống, phát xuất từ Thiên Chúa không? Vậy mà sứ điệp tình yêu này được tỏ ra cho hết mọi người không chỉ riêng dân tuyển chọn Do thái, mà là cho hết mọi dân tộc trên thế giới, dù nghèo giàu, sang hèn…

Câu chuyện bên dưới đây, cũng minh chứng Ánh sao Bêlem, không chỉ soi sáng cho ba đạo sĩ khi xưa, mà là cho hết mọi người ngày hôm nay, trong tk văn minh này: Alex Jones là mục sư Giáo hội Ngũ Tuần tại thánh đường Maranatha ở Detroit, Hoa Kỳ do ông thành lập vào năm 1982. Alex và Donna vợ ông cùng với 64 thành viên đã trở về với Giáo hội Công Giáo vào Lễ Phục Sinh năm 2000. Một hành trình trở về đã phải mất 40 năm với đầy gian khổ, thử thách và nước mắt. Bốn mươi năm ấy tựa như cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái trong sa mạc và cuối cùng, đã về tới đích. Ông đã trải qua những giây phút thử thách của niềm tin: Làm sao ông có thể: - từ bỏ địa vị chủ chăn của một Giáo hội với khoảng 200 con chiên - từ bỏ ngôi nhà thờ xinh đẹp do ông dựng nên - từ bỏ sự nghiệp, những công việc mà ông yêu mến, chức vụ mà ông đã đạt tới đỉnh cao.

Người ta thường hỏi ông: “Tại sao? Tại sao?” Ông chỉ có một câu trả lời duy nhất” "Làm sao tôi có thể nói "không?" với Chúa được chứ? Ông còn nói tiếp: "Bốn mươi năm trước, tôi tìm được Chúa Giêsu (lúc ông lên 16 tuổi), và mãi bốn mươi năm sau, tôi tìm được Giáo hội của chính Chúa.” Giờ đây, tôi biết cuộc hành trình trở về nhà của tôi cuối cùng đã kết thúc, đó chính là Giáo Hội công giáo". (thanhlinh.net – th 05. 2000)

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ và họ đã rất vui mừng, mãn nguyện khi gặp được Chúa. Họ đã ra về và thay đổi cuộc sống. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta tham dự thánh lễ mỗi ngày, rước Chúa hàng ngày, cũng chính là Chúa Hài nhi trong Máng có hôm nay, vậy mà việc đó có làm thay đổi cuộc đời chúng ta nên tốt hơn, với Chúa và với anh em không?

MÓN QUÀ TRAO TẶNG
Mt. 2, 1 - 12
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài Đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng…Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước Hài Nhi mới sinh. Họ là ai ? Họ từ đâu đến ? Họ thuộc nước nào ? Tại sao họ có mặt ở đây ?

Theo mẫu đối thoại thánh Mát-thêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.

Có nhiều người lại đặt vấn đề : các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại ? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bê-lem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.

Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.

Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui thì khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao ? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao ? Chúng ta còn tin không ? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không tùy thuộc vào hoàn cảnh.

Hơn nữa đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài Đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quý giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài Đồng.

Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu truyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu Hài Đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bê-lem, ông gặp một người lính do vua Hê-rô-đê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài Đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông : “Con đã dâng cho Ta món quà quý giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.

Chúa Giêsu đã nói : “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.

 NIỀM VUI GẶP CHÚA

Mt. 2, 1 - 12

Lm Trần Thanh Sơn

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, cộng đoàn chúng ta hân hoan tụ họp nơi đây để mừng lễ Hiển Linh, lễ này còn có một tên gọi quen thuộc hơn đó là lễ Ba Vua. Truyền thống và Thánh Kinh ghi lại có các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến miền đất Palestin, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ, để tìm gặp và triều bái vua dân Do thái mới sinh. Cuối cùng, sau những cố gắng, lần mò vất vả, cuối cùng các đạo sĩ này đã gặp được Chúa Cứu Thế.

Như thế, chúng ta có thể nói lễ Hiển Linh là lễ của niềm vui được gặp Chúa. Chúng ta vui mừng vì với việc tỏ mình ra cho các đạo sĩ từ Phương Đông đến bái thờ, Thiên Chúa không chỉ Giáng Sinh cho người Do Thái mà còn cho muôn dân, trong đó có chúng ta, mà các đạo sĩ là đại diện. Hay nói một cách khác, lễ Giáng Sinh là lúc Thiên Chúa tỏ mình ra cho người Do Thái, còn lễ Hiển Linh là dịp Thiên Chúa tỏ mình ra cho từng người chúng ta.

Niềm vui này được phụng vụ diễn tả qua bài ca của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một. Khi ấy, từ nơi lưu đày trở về, lòng dân Do Thái tràn ngập niềm vui vì được Thiên Chúa đến viếng thăm và giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Niềm vui đó còn lớn hơn khi mắt họ nhìn thấy từng bức tường Đền Thờ lần lượt được xây lên. Quả thật, không vui sao được vì từ đây, họ lại sắp được lên Giêrusalem để dâng lễ tế tạ ơn Thiên Chúa. Trước nỗi vui mừng ấy, vị ngôn sứ đã cất tiếng ca lên: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi”. Họ còn vui mừng vì từ cảnh tối tăm của kiếp nô lệ, họ đã được ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu, dẫn đưa họ trở về lại với miền đất mà Thiên Chúa đã Hứa cho cha ông họ.

Được linh hứng, vị ngôn sứ còn cho thấy Ánh sáng của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do thái, nhưng còn cho muôn dân: “Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi”. Khi nói điều này, có lẽ trong tâm trí của vị ngôn sứ đang hình dung lại thuở ban đầu tạo dựng, lúc “đất trời trống không, mông quạnh và tối tăm trên mặt uông mang và khí thần là là trên mặt nước. Và Thiên Chúa đã phán: “Hãy có ánh sáng!” và ánh sáng đã có” (St 1, 2-3). Như thế, nếu với việc tạo nên ánh sáng, sự sống nguyên thuỷ bắt đầu được tác sinh, thì giờ đây giữa lúc tối tăm đang bao bọc địa cầu, sự sáng và vinh quang của Con Thiên Chúa cũng sẽ bừng lên ban cho từng người chúng ta sự sống mới của Thiên Chúa.

Như thế, từ niềm vui của một dân tộc được thoát ách nô lệ, vị ngôn sứ đã tiên báo một niềm vui mới, niềm vui của muôn dân trong ngày nhận được ánh sáng ban sự sống của Thiên Chúa. Điều mà vị ngôn sứ loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, như lời xác nhận của Đức Giêsu: “Sự Sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8, 12). Ánh sáng mà Đức Giêsu mang lại cho từng người chúng ta là Ánh Sáng vĩnh cửu làm cho tất cả chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Ánh sáng đó đã được các đạo sĩ nhận ra qua ánh sao lạ xuất hiện từ Phương Đông như lời tường thuật của thánh sử Matthêu mà chúng ta vừa nghe: “Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem thuộc xứ Giuđa,..., có mấy đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: “Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”.

Một vị vua chào đời, đúng ra phải là niềm vui của Hoàng gia, của cả một dân tộc. Thế nhưng, ngay khi vừa nghe các đạo sĩ hỏi, thì “vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua”. Thế đó, Con Thiên Chúa đã bị dân tộc mình chối từ, nhưng lại được dân ngoại đón tiếp, thật đúng như lời thánh Gioan: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài. Còn những ai đón nhận Ngài, thì Ngài đã ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1, 11-12). Vâng, chỉ những ai đón nhận Ngài, thì mới được Ngài ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Mà muốn đón nhận Thiên Chúa, một điều cụ thể mỗi người chúng ta cần phải mở ra và bước tới. Thật vậy, kinh nghiệm thực tế cũng cho ta thấy rõ điều này. Để đón nhận bất cứ một cái gì dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng phải đi tới và mở tay ra, còn nếu như chúng ta cứ đứng lại một chỗ và nắm chắc bàn tay mình lại, thì chắc chắn không bao giờ chúng ta nhận được bất cứ điều gì.

Tới đây, chúng ta thấy nhờ có một thiện chí kiếm tìm và một tâm hồn luôn mở rộng sẵn sàng để đón nhận, mà các đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi đã gặp được Hài Nhi Giêsu, vị Cứu Chúa mà họ đang hết lòng kiếm tìm. Tuy nhiên, sự gặp gỡ này không chỉ là do thiện chí của các đạo sĩ, nhưng trước hết là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính Ngài đã cho xuất hiện vì sao để dẫn đường cho các ông. Xác tín điều đó, thánh Phaolô đã nói với các tín hữu Êphêsô: “Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lời hứa của Người”. Như thế, được làm con Thiên Chúa quả thật là một niềm vui vượt trên mọi niềm vui mà chúng ta có thể có được. Cảm nghiệm niềm vui khôn tả này, vị ngôn sứ đã thốt lên: “tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên”. Còn tác giả Thánh vịnh thì mời gọi mọi người chúng ta hãy “Chúc tụng danh Người đến muôn đời, danh Người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì Người, các chi họ đất Hứa sẽ đuợc chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi Người”.

Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân, cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để có thể gặp gỡ và đón nhận được Ngài, mỗi người chúng ta cũng phải có những cố gắng của bản thân. Ba nhà đạo sĩ không tự nhiên gặp được Chúa. Các ông đã phải nhờ một dấu chỉ trong thiên nhiên là ngôi sao lạ. Đồng thời, cùng với các dấu chỉ thiên nhiên, các đạo sĩ này còn luôn lắng nghe sự hướng dẫn của lời Chúa được loan truyền bởi dân Do Thái trong thời gian họ bị lưu đày. Nhất là các ông đã khiêm tốn học hỏi và lắng nghe lời Chúa cách chính thức bởi những đại trưởng giáo và luật sĩ trong dân Do Thái ngay tại Giêrusalem. Và cuối cùng, điều quan trọng hơn cả là các ông đã thực hiện những gì mà Thánh Kinh đã hướng dẫn. Nhờ đó, cuối cùng các ông đã gặp gỡ được Hài Nhi Giêsu, nghĩa là, các ông đã thiết lập được một mối tương giao riêng tư thân tình với Thiên Chúa. Tất cả chỉ là phương tiện để chúng ta đạt tới Thiên Chúa. Chúng ta không được dừng lại ở những phương tiện, nhưng phải vượt qua những cái đó mới có thể gặp được Chúa.

Các đạo sĩ từ Phương Đông không những đã dám lên đường ra đi trong bấp bênh, trong đêm tối của đức tin, các ông còn sẵn sàng chấp nhận những thua thiệt, những khó khăn thiếu thốn, vất vả trong cuộc hành trình đầy gian nan miễn sao gặp được Chúa. Còn tôi và quý OBACE thì sao? Chúng ta đã làm được những gì để có thể gặp Chúa? Cách ăn mặc, thời giờ dành cho Chúa.... Đó là điều mà tôi và quý OBACE phải suy nghĩ trong ngày lễ Hiển Linh này. Amen.

 

“LỜI NGUYỀN” CỦA PHÙ THỦY BILƠAM

Mt. 2, 1 - 12

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Trên đường tiến về miền đất Thiên Chúa đã hứa cho các Tổ phụ, đoàn dân của ông Môsê đã phải giao tranh với nhiều lân bang thời đó, có khi chỉ vì lý do xin di ngang qua nước của lân bang mà không được chấp nhận, đành phải dùng biện pháp đánh nhau để vượt qua như khi đối đầu với dân Êmôri. Và đoàn dân nhỏ bé của ông Môsê đã không đánh thì thôi, chứ đánh là thắng làm cho các nước lân bang đều run sợ. Một trong những nước lo sợ đạo quân của Môsê đó là vua người Môáp. Chính vì lo phải đối đầu với dân Israel mà vua Môáp sai sứ đến với một phù thủy có tên là Bilơam thuộc đất dân Ammon để xin phù thủy này “trù ẻo” dân Israel để dân này ra suy yếu và vua sẽ nhân vì sự ấy tiến đánh.

Các sứ giả vua Môáp lên đường tìm gặp phù thủy Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng sau, Bilơam nói cùng các sứ giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ hai, dưới tác động của Thiên Chúa, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp. Bilơam đến miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con lừa và bắt nó phải đi trên đường. Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường, con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị cọ sát trầy xước. Tức giận ông phù thủy lại đánh con lừa cách thậm tệ. Nhưng đến khi đến đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con vật mới lên tiếng: “Ông thấy không, có bao giờ tôi chống ông không, tôi có làm gì ông mà ông đánh tôi đến ba lần”. Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc.

Trong bài diễn văn chúc phúc đó, phù thủy Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa :”Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17) Sở dĩ phải kể câu chuyện phù thủy Bilơam là vì nó liên quan đến Lời Chúa Chúa nhật hôm nay. Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Các ông đã tìm gặp điều mình mong đợi, vui mừng tôn kính bái thờ Người.

Các nhà chiêm tinh đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong hang bò lừa lạnh lẽo chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh đó chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo, từ Bêlem, sẽ xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel. (x. Mk 5,1) Việc các nhà chiêm tinh tìm đến tôn thờ và bái lạy Hài nhi nằm trong máng cỏ nhằm loan báo đã đến lúc Hài nhi này sẽ nắm giữ vương quyền phổ quát, là dấu chỉ cho dân ngoại nhìn nhận ngay khi Người mới chào đời. Nơi Hài nhi Giêsu, ứng nghiệm điều ngôn sứ Isaia đã loan báo khi xưa về ngày dân ngoại sẽ lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo những lễ vật trân quý để tiến dâng Người (x. Is 60) Tại Trung đông xưa, các nhà chiêm tinh hay các đạo sỹ là những nhà trí thức của thời đại, thường thuộc hàng Tư tế và làm cố vấn cho các vua. Các nhà chiêm tinh trong tin mừng đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của phù thủy Bilơam. Các nhà chiêm tinh đó là ai? Vào thế kỷ VIII, thánh Bêđa đã miêu tả các nhà chiêm tinh như sau:

- Người thứ nhất tên là Melchior. Đây là một cụ già với mái tóc trắng và chòm râu bạc phơ. Ông đến dâng cho Chúa vàng như là dấu chỉ để chân nhận Vương quyền của Chúa.

- Người thứ hai tên là Gaspar. Đây là người còn trẻ, da đỏ. Ông dâng lên Chúa nhũ hương để chân nhận Thiên tính của Chúa. - Vị thứ ba tên là Balthasar. Là một người da ngăm đen, râu rậm. Ông dâng Chúa mộc dược, vì biết rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa mà cũng là con loài người và Ngài phải chết để cứu độ chúng ta. Ngôi sao mà các nhà chiêm tinh nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền, nó nhắc lại lời sấm chúc phúc của phù thủy Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Các nhà chiêm tinh không đến viếng Chúa tay không, các ông đến để dâng lên Chúa Vàng, Nhũ hương và Mộc dược là những lễ vật quý nơi quê hương các ông. Theo các Giáo phụ, lễ vật mà các nhà chiêm tinh mang đến để dâng Chúa gồm vàng, nhủ hương và mộc dược tượng trưng cho vương quyền, Thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu. Cho hay, dân các nước -mà các vị chiêm tinh là đại diện, không chỉ đến triều bái Hài nhi Giêsu chỉ vì hiếu kỳ, nhưng còn để tuyên xưng niềm tin –cách nào đó, vào vị Cứu Tinh nhân loại.

Mừng lễ Chúa Hiển linh, phải chăng đó là dịp để mỗi người trong chúng ta một lần nữa nhận ra sự đối kháng rõ rệt giữa thái độ thờ ơ và thù nghịch của dân Dothái đối với Hài nhi và lòng tin mau mắn cách quảng đại của dân ngoại. Các thượng tế và kinh sư vốn nắm vững Kinh thánh và lời các Ngôn sứ mà không nhận ra Đấng Cứu Thế; trái lại những người ngoại đạo lại nhìn nhận dấu chỉ của Người và lên đường kiếm tìm để thờ lạy. Lên đường tìm kiếm Chúa và thờ lạy Ngài không phải là việc của một dân tộc, một màu da, một nền văn hoá mà là của toàn thể thế giới đại đồng.

 

NGÔI SAO SÁNG

Mt. 2, 1 - 12

LM Anphong Trần Đức Phương

Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ qúy giá các ‘Đạo Sĩ’ dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Matthêu 2,11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc; nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà “Thông thái” hay “Đạo sĩ” hoặc “Chiêm tinh” dịch từ chữ ‘Magi’ (số nhiều của chữ ‘magus’) là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American Bible dùng chữ ‘Magi’; có những bản dịch khác dùng chữ ‘Wise Men’ (những Nhà Thông Thái).

Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2, 1-12), các ‘đạo sĩ’ đã được ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị ‘Cứu Tinh’ mới sinh ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ “Phương Đông” (tức là từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.

Hai Bài đọc trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái.

Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60, 1- 6) đã báo trước việc ‘Vinh quang Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.’ Bài Đọc II trích trong thơ Ephêsô (3, 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc nhân loại.

Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này gọi là ‘The Epiphany’ gốc từ chữ Hy Lạp ‘Epiphaneia’có nghĩa là ‘sự tỏ hiện’).

Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các ‘đạo sĩ’ đến để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.

Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các ‘đạo sĩ’ cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Tinh. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.

Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta noi gương các ‘đạo sĩ’: biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc sống phong phú, đầy đủ.

Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv… Đó là những thói xấu thế gian, những thói xấu biến chúng ta thành những ‘ngôi sao lạc’ dẫn đưa vào nơi tăm tối lầm lỗi.

Chúng ta, tất cả đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu, tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.

Xin Chúa ‘thắp sáng lên trong chúng ta’ ngọn lửa tình yêu để chúng ta nhận ra ‘con đường ngay thẳng’, ‘con đường công chính’ và dám dấn thân đến với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.

 

HÀNH TRÌNH CỦA CÁC ĐẠO SĨ

Mt. 2, 1 - 12

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ ra cảm phục trước ý chí vượt khó diệu kỳ của thầy trò Đường Tăng. Quả vậy, để đến được núi Tây Thi thỉnh Kinh Phật, họ đã phải trãi qua một cuộc hành trình dài với bao nhiêu chông gai thử thách. Đường xa vạn dặm, lại thêm vô vàn cạm bẫy của đủ thứ yêu ma quỉ quái khiến cho cả 4 thầy trò nhiều phen muốn bỏ cuộc. Hành trình đó thực sự là một cuộc thử thách của cả lý trí (biểu tượng qua nhân vật Tôn Ngộ Không) lẫn con tim (biểu tượng qua nhân vật Tam Tạng).

Đọc lại trình thuật Tin mừng Mathêu, chúng ta thấy hành trình của ba nhà đạo sĩ Phương Đông cũng không kém phần gian truân. Nhưng đó cũng là một hành trình rất đẹp. Để có thể triều yết Đấng mà họ gọi là Đại Vương, Vua Dân Dothái, họ đã phải vượt qua một chặng đường dài thăm thẳm. Dĩ nhiên đây là một cuộc hành trình có thật, chứ không phải do tác giả hư cấu như hành trình của thầy trò Đường Tăng. Ở đây chúng ta thấy hành trình của các đạo sĩ quả là một hành trình của lý trí, của con tim và của đức tin.

- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của lý trí khám phá:

Là những nhà Thiên văn, các ông đã biết dùng những kiến thức của mình để khám phá những dấu chỉ của điềm trời, đặt biệt là ánh sao chiếu mệnh. Họ đã biết sử dụng chất xám để nghiên cứu các hiện tượng lạ trong thiên nhiên, trong vũ trụ. Và chỉ có họ mới phát hiện ra ánh sao lạ, bởi lý trí của các ông đã được dùng đúng chổ, nhằm phục vụ cho chân lý, chứ không phải để phục vụ cho danh lợi thú đời này như Hêrôđê, như các Luật sĩ và Biệt phái. Đặc biệt là trong thời đại ngày hôm nay, rất nhiều người sử dụng lý trí của mình không đúng mục đích. Thậm chí còn sử dụng để phục vụ cho những ý đồ đen tối, thay vì để phục cho công lý, cho sự thật và đem lại lợi ích cho đồng loại. Các đạo tặc tìm kiếm những chiêu thức nhằm lường gạt và hãm hại người khác. Các gian thương tìm cách làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; các tin tặc tạo ra các loại vi rút máy tính phá hoại các chương trình, các dữ liệu; các nhà khoa học vô lương tâm sáng chế ra các thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt….

Các nhà đạo sĩ luôn là một điểm son cho chúng ta noi theo trong việc sử dụng lý trí của mình.

- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của con tim khao khát:

Con tim khao khát tìm kiếm chân lý. Con tim thao thức dấn thân lên đường tìm gặp sự thật. Điều này không có nơi Hêrôđê và có rất ít nơi dân thành Giêrusalem và những người Biệt phái.

Vì khao khát tìm kiếm chân lý nên họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: gia đình vợ con, quê hương xứ sở, nhà cửa sự nghiệp,… để lên đường theo ánh sao lạ. Vì khao khát kiếm tìm sự thật, nên họ bất chấp tất cả: đường xá hiểm nguy, núi rừng cách trở, thử thách đợi chờ. Thật đáng khâm phục. Họ ra đi mà không biết sẽ đi đến đâu. Họ ra đi mà không biết ngày nào trở lại, tựa như Abraham ngày xưa vậy. Chính tình yêu đối với vị “Chánh Vương” là động cơ thôi thúc họ thượng lộ khẩn trương. Đúng như lời quả quyết của thánh Phaolô sau này: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.

- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của đức tin soi dẫn:

Khi thấy sao lạ xuất hiện, đức tin đã mách bảo cho các ông biết có Đại Vương, có Đấng Cứu Tinh xuất hiện. Khi ánh sao biến mất, đức tin đã chỉ lối cho các ông tìm đến với Giêrusalem – Kinh đô của Kinh Thánh để được tham vấn. Khi đối diện với một hài nhi nghèo hèn nằm trong máng cỏ, theo lý trí tự nhiên không ai dám mạnh dạn tuyên xưng đó là Con Thiên Chúa, nhưng đức tin đã soi sáng cho các ông nhận ra đó chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Và cũng chính đức tin đã biến đổi cuộc đời họ. Họ đã trở thành những vị tông đồ đích thực của Đấng Thiên Sai Giêsu. Theo khẩu truyền, ba nhà đạo sĩ đã đi giảng đạo tới tận trời Tây, và hiện nay một ngôi mộ được coi là của ba nhà đạo sĩ ấy, vốn rất được nhiều người kính viếng ở thành Phố Cologne, bên bờ sông Rhin, nước Đức.

Như vậy, rõ ràng hành trình của các đạo sĩ không chỉ là hành trình của lý trí khám phá, của con tim khao khát, mà còn là hành trình của đức tin soi dẫn. Vì nếu không có đức tin soi dẫn thì có lẽ họ đã lạc lối, và bỏ cuộc khi gặp thử thách. Nếu không có đức tin mách bảo thì có lẽ họ đã không nhận ra một trẻ thơ nghèo hèn là một bậc Đế Vương, là một vị Cứu Chúa. Và nếu không có đức tin soi sáng, chắc chắn họ không dại gì phải sụp lạy trước một hài nhi bé bỏng yếu ớt, càng không dại gì phải uổng phí những lễ vật quí báu của mình, nếu họ không tin nhận đó là Vị Cứu Tinh của họ. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, từ ngữ “sụp lạy” ám chỉ một sự qui phục chỉ dành cho Thiên Chúa.

Phần tôi thì sao ? Tôi đang sử dụng lý trí của mình, kiến thức của mình thế nào ? Con tim của tôi đã đặt đúng chổ chưa ? Tôi thường yêu mến, thường khao khát những gì ? Có phải là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”; hay chỉ là tiền tài, danh vọng, sắc dục và những thú vui hưởng thụ đời này? Trong hành trình dương thế của tôi, đức tin đóng vai trò nào ? Tôi có coi trọng và biết cầu xin ơn đức tin mỗi ngày, nhất là trong những lúc gặp thử thách, gặp bế tắc trong cuộc sống hay không ?

Ước gì gương của ba nhà đạo sĩ luôn được chúng ta soi nhìn. Để trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn đi đúng đường, đúng hướng và đạt tới cùng đích mà chúng ta mong ước. Đó là Nước Chúa, nơi Đức Kitô đang đợi chờ chúng ta. Amen.

 

TÍNH PHỔ QUÁT CỦA ƠN CỨU ĐỘ

Mt. 2, 1 - 12

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ ( x. 1Tm 2,3-4 ). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định về tính phổ quát của ơn cứu độ rằng: “Trong đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” ( Eph 3,5-6 ). Như thế, ơn cứu độ không dành riêng cho một ai, cho một dân tộc nào. Họp mừng Lễ hiển linh hay là Lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân, Hội Thánh không gì hơn là muốn khẳng định với chúng ta rằng ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi thời, mọi hoàn cảnh, đồng thời cảnh báo chúng ta một mặt tránh xa thái độ cao ngạo độc quyền chân lý, nhưng mặt khác dạy ta cần tích cực sẻ chia cho tha nhân kho tàng ân sủng mình đã lãnh nhận theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Ơn cứu độ là dành cho mọi người. Ngôn sứ Isaia loan báo cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem và cư dân Đông Tây, sẽ tay bế tay bồng dìu nhau đến thờ lạy, ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa ( x. Is 60,3-5 ). Thiên Chúa là Đấng công bình và đầy tình lân ái. Người tỏ mình cho mỗi người mỗi cách khác nhau tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của họ. Chúa công bình vì Người tỏ mình cho tất cả mọi người, chẳng trừ một ai. Chúa lân ái nên Chúa tỏ mình bằng nhiều cách thế để mỗi người theo mỗi hoàn cảnh có thể gặp được Người.

Với những người chăn chiên cừu vốn ít học nhưng đơn sơ chất phác, thì lời loan báo cuả vị Thiên Sứ cùng với tiếng hát của đoàn cơ binh Thiên Thần trong ánh sáng huy hoàng quả là một sứ điệp không gì bằng. Dòng lịch sử minh chứng cho ta sự thật này: Chúa Kitô, Mẹ Maria thường hiện ra với những người thôn quê, dân dả, nghèo hèn hơn là với những người trí thức, học cao, hiểu rộng hay chốn thị thành. Với các nhà đạo sĩ Đông phương thì sự xuất hiện một ánh sao lạ trên bầu trời hẳn là một lời mời gọi thiết thực với những người hành nghề thiên văn. Còn với các kinh sư, các thượng tế Do thái giáo thì thử hỏi có gì quan trọng cho bằng Thánh Kình. Chúng ta không quên việc họ thường mang Lời Chúa được ghi trên các dải vải đính ở tay áo. Thế thì một duyên cớ để họ đọc lại lời của Ngôn sứ Mikêa: “Phần người, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” ( Mk 5,1 ), quả là một lời mời gọi hay nói cách khác, là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách tuyệt vời cho họ. Rồi với Vua Hêrôđê, một vị vua trần thế vốn tham quyền cố vị thì câu hỏi của các nhà đạo sĩ Đông phương: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu” đúng là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách đúng đối tượng.

Thiên Chúa luôn tỏ mình ra với mọi người theo cách thức Người chọn phù hợp với từng người theo từng hoàn cảnh, số phận khác nhau của họ. Như thế, ta có thể nói là bất cứ ai cũng đều có thể tìm gặp chân lý, tìm đến cội nguồn hạnh phúc vĩnh cửu theo khả năng, hoàn cảnh của mình. Giáo lý Công giáo khẳng định rằng ngoài phép rửa bằng nước còn có phép rửa bằng máu và bằng lòng mến. Thánh Công đồng Vatican II dạy chúng ta: “ Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh cứu độ của Đức Kitô, tham dự bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết mà thôi. ( MV số 20 ). Ơn cứu độ là dành cho muôn dân, vì thế chúng ta có thể rút ra một vài hệ luận như tất yếu sau:

Không được phép độc quyền chân lý: chân lý không thuộc riêng một ai, một tập thể nào. Khi ta độc quyền chân lý cách này cách khác là khi ta tự biến mình thành ngẫu tượng. Cần phải bỏ dần thái độ cao ngạo tự tôn của một thời quá khứ khi ta đồng hoá mọi niềm tin, tôn giáo khác ta đều là lầm lạc, là ma quỷ, bụt thần… Cần phải minh định rằng “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Kitô” ( x.Ga 14,6 ). Tuy nhiên cũng cần cảnh giác thái độ tự tôn cho rằng “ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ”, một thái độ thiếu tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” ( x. Ga 3,8 ). Khi ta có thái độ độc quyền chân lý là lúc ta tưởng như mình đã nắm trọn vẹn chân lý và hữu ý hay vô tình ta đã rơi vào chước cám dỗ của Satan ngày xưa khi cám dỗ tổ tiên loài người: Cứ ăn trái cấm này đi thì hai ông bà sẽ nên như Thiên Chúa, biết được điều lành điều dữ ( x. St 3,5 ).

Thiên Chúa tỏ mình cho mỗi người mỗi cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên để nhận biết Thiên Chúa, phần phía con người cũng cần có sự đáp trả cân xứng. Một vài thái độ đáp trả cần có đó là:

Một tâm hồn biết lắng nghe: đây là thái độ khiêm nhu chân thành, luôn khao khát tìm về chân, thiện, mỹ. Người có tâm hồn biết lắng nghe là người có tấm lòng thành trước những những gì là chính đáng, là phải đạo. Các nhà đạo sĩ Đông phương và những người mục tử thôn dã lúc bấy giờ là những người có tấm lòng thành. Tấm lòng thành ở đây được hiểu như là sự hướng thượng và hướng thiện. Quân vương Hêrôđê chắc chắn không có tấm lòng thành. Các thượng tế, kinh sư ở thành Giêrusalem lúc bấy giờ thì ta không dám quả quyết nhưng chắc chắn họ thiếu động thái lên đường, ra đi.

Một động thái lên đường, ra đi: Khi đã nhận ra tiếng nói của chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu, thì cần phải lên đường, ra đi. Chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu đòi hỏi chúng phải ra đi khỏi cái vị thế hiện tại. Không một ai ở trần gian này có thể nắm được tình yêu vĩnh cửu hay chân lý toàn thiện. Tất thảy đều ở phía trước, chính vì thế cần phải lên đường, ra đi. Các thượng tế và kinh sư ở thành Giêrusalem năm nào dù đã nhận ra Ánh Sáng cứu độ nhưng vì họ đã không lên đường nên không thể gặp được Đấng Cứu Thế. Trái lại khi nhận được dấu chỉ mời gọi, các đạo sĩ Đông phương và các mục tử đã biết lên đường, ra đi. Ra đi là chấp nhận từ bỏ. Lên đường là chấp nhận hy sinh và gian khó.

Mừng mầu nhiệm Chúa Hiển Linh, ước gì chúng ta mãi luôn nuôi dưỡng cái tấm lòng thành nơi chúng ta bằng thái độ khiêm nhu biết lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần. Lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần không chỉ trong Thánh Kinh, trong các cử hành Phụng vụ, trong lời dạy của Hội Thánh…mà còn trong các biến cố lịch sử, trong các nét đẹp thánh thiêng nơi các niềm tin, tôn giáo ngoài Công giáo, nơi các nghĩa cử cao đẹp của những người chưa tin hay chưa nhận biết Thiên Chúa. Lắng nghe không phải để đứng nhìn mà can đảm lên đường tìm kiếm và đón nhận. Sự thật toàn vẹn luôn ở phía trước, vì có đó nhiều điều ngay các Tông đồ vẫn chưa thấu hiểu. Chính Thánh Thần là Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự thật toàn vẹn ( x. Ga 16,12-13 ). Người là Đấng đang mãi hoạt động cho đến ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Không ai có thể trao ban điều mình không có. Tích cực tìm kiếm và đón nhận chân lý là tiền đề tất yếu để ta chia sẻ cho tha nhân hồng ân cứu độ.

 

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT ÁNH SAO CHO NHAU

Mt. 2, 1 - 12

Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen chẳng có tác dụng gì với con người.

Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó. Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.

Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống. Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.

Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho trần gian.

Ánh sa từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân cách, nhân phẩm của chính mình.

Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau. Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.

Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen

 

DÕI THEO ÁNH SAO

Mt. 2, 1 - 12

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cứ mỗi lần mừng lễ Hiển Linh, tôi lại mường tượng một ánh sao hiện ra trên bầu trời và như ba nhà đạo sĩ dõi theo ánh sao đó dẫn họ tới hang đá Bêlem tìm gặp Hài Đồng Giêsu. Rồi có một dạo khi ánh hỏa châu còn lóe trên nhiều nơi, tôi lại nghĩ đường đi tới Chúa có muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một con đường duy nhất để thấy và gặp được Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá.

Năm xưa ấy, cách đây hơn 2.000 năm, có một ánh sao lung linh thắp sáng dẫn đường, chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ đi tìm Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ánh sao ấy theo như Tin Mừng Mt 2,1-12 viết cứ ẩn hiện và rồi dừng ngay nơi hang đá Bêlem để ba nhà đạo sĩ tới cung chiêm Vua Giêsu.Thoạt đầu, họ đến Giêrusalem và hỏi: ” Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi bái lạy Người “ ( Mt 2, 2 ). Hêrôđê bối rối trước tin báo của ba nhà đạo sĩ. Ông lo âu và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao, náo động.Sở dĩ Hêrôđê sợ sệt, bối rối, âu lo vì Ông là con cáo già e sợ uy quyền, ngai vàng của mình sẽ bị lung lay. Ông rất sợ bị lật đổ khi nghe tin Chúa Giêsu sinh ra. Giêrusalem không đón nhận Chúa dù rằng: ” Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa mọi người” ( Ga 1, 14 ). Vâng, cả Hêrôđê và cả dân kinh thành Giêrusalem đều không được Thiên Chúa soi sáng, đều không được Chúa Thánh Thần tác động. Họ không thể nhận ra Hài Đồng Giêsu là Vua nhưng là Vua Hòa Bình:” Nước của Ngài không thuộc thế gian này “. Do đó, họ xao xuyến, hoang mang đến cùng tột. Hêrôđê và triều thần của Ông, cùng bàn dân thiên hạ vẫn không hiểu Hài Đồng Giêsu với hình hài một trẻ thơ, khiêm hạ, khó nghèo, Hài nhi ấy chỉ là Vua theo nghĩa thiêng liêng: Ngài là Chúa muôn loài, muôn vật, Ngài là Vua vũ trụ và vua con người.Do đó, Hêrôđê sợ hãi mất ngôi vì Ông nghĩ nông cạn, hời hợt theo cái nhìn trần gian. Thay vì đón chờ, đi tìm để cung chiêm, thờ lạy Vua Giêsu.Hêrôđê lại cho triệu hồi tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu ( Mt 2, 4 ). Hêrôđê hỏi kỹ càng không phải để đến tìm gặp Chúa để thờ lạy Chúa nhưng để mưu đồ tiêu diệt một vị Vua thiêng liêng mà Ông lầm tưởng là sẽ đứng lên để chiếm đoạt ngôi báu của Ông. Chính vì thế, khi Ông bị các nhà đạo sĩ không trở lại nữa, Ông đã nổi cơn thịnh nộ ra lệnh cho tru diệt hết những trẻ em từ hai tuổi trở xuống.Ông tưởng làm thế là thoát được món nợ và ngai báu của Ông sẽ vững bền thiên thu…Ông đã lầm và Ông đã quá ác độc.Ông đã là con người thật tầm thường. Ba nhà đạo sĩ lại theo ánh sao và gặp được Hài Đồng Giêsu.

Chúa đã dùng ánh sao lạ để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương Đông tới hang đá Bêlem để gặp Hài Đồng Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Với ơn soi sáng của Thiên Chúa, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, tất cả như bừng sáng vì họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu của Người là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến ( Mt 2, 11 ). Thiên Chúa đã dùng một ánh sao để dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ tìm gặp Người. Thiên Chúa cũng dùng các thiên thần để báo tin cho các mục đồng tới Bêlem để gặp Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ba nhà đạo sĩ phương Đông đã thực sự gặp được Chúa bởi vì họ có lòng thành, tâm hồn trong sạch, đôi bàn tay tinh khiết. Họ đã thương Chúa, kính Chúa thực tình và họ đã cung tiến, dâng cho Chúa những báu vật của quê hương họ. Họ đã được Chúa đoái thương và chấp nhận.

Xưa chúa tỏ mình ra bằng ngôi sao lạ để các nhà đạo sĩ tìm được nơi Chúa sinh ra. Ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều kiểu, nhiều cách. Chúa đã nói với con người, với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người. Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Bao kỳ công của thế giới, bao vẻ đẹp của vũ trụ là bấy nhiêu ánh sao dẫn đường chỉ lối để con người tìm gặp được Chúa. Bao nhiêu cử chỉ tế nhị, thân thiện, bao nhiêu việc bác ái là bấy nhiêu ngôi sao lạ đưa đường dẫn lối để con người đi tìm gặp Chúa.

Hãy bừng sáng Giêrusalem…Hãy bừng sáng, đây là lời khuyên người môn đệ Chúa hãy làm lan tỏa niềm vui được thấy Chúa cho những người chung quanh. Hãy trở nên men, nên muối cho đời, hãy trở nên men đạo đức cho thế giới, cho mọi người. Người môn đệ Chúa phải chiếu sáng cuộc hành trình đức tin của người khác như ngôi sao lạ Bêlem, ngôi sao mà ba nhà đạo sĩ thấy thì hết sức vui mừng vì họ tìm được Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy tỏ ra cho chúng con thấy được Chúa như xưa Chúa đã dùng ánh sao Bêlem để dẫn đường chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ gặp được Chúa Cứu Thế. Amen.

 

CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ

Mt. 2, 1 - 12

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.

Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.

Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác.Trong khi đó, Chúa Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.

Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.

Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.

Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.

Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.

Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.

Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.

Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.

Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là đức cha Kim ở giáo phận Kontum vào những năm 60.

Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.

 

THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA

Mt. 2, 1 - 12

Lm Nguyễn Hữu Thy

Bài Phúc Âm tường thuật sự xuất hiện của các Ðạo Sĩ đi tìm Ðấng Thiên Sai là đề tài khiến các nhà thần học Kitô giáo qua mọi thời đại phải suy nghĩ. Các Giáo Phụ dạy là có ba vị Ðạo Sĩ, tức ba vị đại diện cho ba lục địa trong thời cổ đại lúc bấy giờ: Âu Châu, Á Châu và Phi Châu. Còn Úc Châu và Mỹ Châu vào thời đó chưa được khám phá ra. Các ngài cho rằng qua ba vị Ðạo Sĩ, lời Thánh Kinh «mọi dân nước trên mặt đất sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa» hoàn toàn được nên trọn.

- Các Ðạo Sĩ là dẫn chứng cụ thể cho việc tất cả mọi người trên khắp trái đất đi tìm kiếm Ðấng Cứu Thế.

- Các Luật Sĩ người Do-thái là biểu tượng cho tất cả những ai thông hiểu mọi giáo lý về đức tin, nhưng lại không muốn động tay động chân ra sức thực hành đức tin. Vậy họ là biểu tượng của sự thờ ơ lạnh lùng và cố chấp.

- Cuối cùng các Giáo Phụ coi Hê-rô-đê là hiện thân cho tất cả những ai ham hố chức quyền danh vọng, những kẻ chỉ vì quyền lợi và phẩm hàm của mình, đã sẵn sàng thực hiện bất cứ thủ đoạn nào, trước hết họ tìm mọi cách hạ bệ và tiêu diệt một cách dã man các đối thủ của mình, bất cứ là ai, dù cho đó chỉ là một đứa trẻ vừa mới được sinh ra từ dòng giống hoàng tộc, cũng không được tha.

Sự phân định con người làm ba loại như thế, tức: Những kẻ thành tâm tìm kiếm chân lý - những kẻ thờ ơ hững hờ - những kẻ ham hố quyền hành - vẫn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong suốt dòng lịch sử qua mọi thời đại và mãi cho đến ngày nay.

Vâng, ngày nay giữa các dân tộc trên khắp thế giới vẫn luôn có cả hàng triệu «đạo sĩ» đã và đang can đảm bỏ lại «nhà cửa và quê hương vô đạo» của mình để đi theo ánh sáng của «ngôi sao đức tin» hướng dẫn, tìm về với Ðức Kitô trong lòng Giáo Hội của Người. Trên khắp các lục địa, đặc biệt ở Á và Phi Châu, số tân tòng được lãnh nhận bí tích Rửa Tội mỗi ngày mỗi tăng. Ở Châu Mỹ La-tinh, các Kitô hữu mạnh mẽ tranh đấu cách ôn hòa cho sự canh tân xã hội, chính trị và tín ngưỡng. Trong khi đó ở các nước chủ trương vô thần hay thù địch với Kitô giáo, mặc dầu hằng ngày phải đối mặt với những bắt bớ, đàn áp và kỳ thị, số người trưởng thành nói chung và số thanh thiếu niên nói riêng coi việc đi tìm kiếm Thiên Chúa như một khát vọng to lớn của đời họ vẫn tăng triển.

Trong khi đó, ở mọi thời đại bao giờ cũng có những kẻ trí thức, thông hiểu luật lệ và giáo lý, những lý thuyết gia Kitô giáo hững hờ khô khan, những kẻ luôn có thể cắt nghĩa rành mạch từng câu từng chữ về giáo lý, về đức tin, nhưng lại không hề quan tâm tới việc rút tỉa cho cuộc sống của riêng mình những hệ luận và những quyết định thích ứng. Vâng, đã có bao nhiêu Kitô hữu đã trở nên mệt mỏi và ù lì trong đức tin. Ðó là những Kitô hữu đi tìm cho mình những vũ trụ quan thoải mái và không muốn đi tìm kiếm Ðức Kitô nữa, vì họ cho rằng họ đã tìm gặp Người rồi. Phải chăng cuộc sống đức tin hằng ngày của chúng ta cũng đã bao lần trở nên mệt mỏi như thế? Phải chăng chúng ta đã nói về Ðạo rất nhiều, nhưng lại sống Đạo rất ít? Phải chăng các tổ chức và các hội đoàn trong các giáo xứ thì không thiếu, nhưng lại có rất ít người có được hứng khởi, lòng nhiệt thành và hăng hái thực thi đúng đắn tinh thần của các tổ chức và của các hội đoàn thánh thiện đó?

Sau cùng, xưa kia cũng như ngày nay bao giờ cũng có những cuộc chiến của những kẻ có thế quyền lực chống lại Kitô giáo và chống lại các Kitô hữu. Họ là những người có quyền thế và không bao giờ chấp nhận những kẻ khác còn có quyền thế hơn mình hay ngang hàng với mình. Ðó là những nhà độc tài hay những tập đoàn, đảng phái chuyên chính ở khắp nơi trên thế giới, và để bảo vệ quyền hành, họ luôn nắm trọn các phương tiện truyền thông trong tay để độc quyền chi phối dư luận theo chiều hướng chủ quan và lệch lạc của họ. Ðiều làm cho họ lo sợ nhất, đó là quyền bính của một Trẻ Sơ Sinh vừa đến trong trần gian để làm chứng cho sự thật và cho tình yêu chân chính. Bởi vậy, những kẻ hay những tập đoàn độc tài chuyên chính đó đã làm đủ mọi cách để loại bỏ sức mạnh của tinh thần bằng những khủng bố thể lý hay bằng những cuộc áp đảo và đe dọa về mặt tâm lý.

Tất cả ba lớp người - những người thành tâm tìm kiếm chân lý - những người thờ ơ hững hờ - những người nắm quyền lực đầy tham vọng – vẫn luôn hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống đức tin và trên đường tìm kiếm Ðức Kitô. Ðức Kitô vẫn luôn là mục đích tìm kiếm của ba nhà Ðạo Sĩ từ Phương đông và của tất cả những ai muốn bước theo vết chân của các ngài. Nhưng đồng thời Ðức Kitô cũng chính là Ðấng bị các thầy thông luật và những kẻ nối tiếp họ qua mọi thời đại tẩy chay chối từ, họ là những kẻ thông hiểu hết mọi góc cạnh, mọi ý nghĩa của chân lý, nhưng lại không chịu chấp nhận chân lý và không sống theo chân lý, không quì gối tôn thờ Ðấng là Chân Lý Tuyệt Ðối. Sau cùng, Ðức Kitô cũng là Ðấng bị Hê-rô-đê và tất cả những kẻ nắm giữ quyền hành đầy tham vọng tìm mọi cách để bắt bớ và tiêu diệt. Ðức Giêsu Kitô luôn hiện diện một cách vô hình giữa lòng lịch sử nhân loại. Người là mốc giới phân định giữa sự cứu rỗi và sự hư mất, giữa hạnh phúc và sự bất hạnh, giữa Thiên đàng và hỏa ngục. Trước ngai tòa Ðức Giêsu, dù dưới bất cứ hình thức nào, chỉ có sự tôn thờ hay chối từ, chứ không hề có thái độ trung lập được.

Các Giáo Phụ xưa cũng hiểu rõ Kinh Thánh và các ngài đã biết rất rõ, không có gì có thể bảo đảm chắc chắn được rằng ba Ðạo Sĩ là ba vị vua cả. Tuy vậy, trong các bức tranh người ta thường trình bày các nhà Ðạo Sĩ với mũ triều thiên đội trên đầu và khoác y phục của các bậc vương giả. Nhưng đối với chúng ta dữ kiện ba nhà Ðạo Sĩ có phải là ba vị vua hay không, chuyện đó không quan trọng. Thật ra không có gì xứng đáng với phẩm hàm vương giả của con người hơn là việc con người biết can đảm lên đường tìm kiếm chân lý, và rồi biết quì gối kính thờ tình yêu nhập thể của Thiên Chúa.

Hôm nay, tất cả chúng ta cũng như các nhà Ðạo Sĩ xưa kia, sấp mình bái thờ Con Trẻ nằm trong máng cỏ để nhận diện được tình yêu trọng đại của Thiên Chúa đã hiện thân hữu hình giữa loài người chúng ta.

 

THEO ÁNH SAO LẠ

Mt. 2, 1 - 12

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cứ mỗi lễ Hiển Linh, ngôi sao lạ dẫn đương cho ba nhà Đạo sĩ Phương Đông đến tìm gặp Hài Nhi Giêsu lại hiện rõ trong trí tưởng tượng của mỗi người. Và người ta vẫn thắc mắc tại sao một ngôi sao lại có thể dẫn đường cho ba nhà Đạo sĩ tìm gặp triều bái Vua Giêsu ? Ngôi sao có thật hay không hay chỉ là câu chuyện huyền thoại, câu truyện cổ tích của dân Do Thái ? Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay viết rất rõ: ” Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại “ ( Mt 2, 9 ).

Câu chuyện ngôi sao dẫn đường chỉ lối cho ba nhà Đạo sĩ hay nói chính xác hơn ba nhà chiêm tinh dân ngoại. Họ khao khát ơn cứu độ. Họ là dân ngoại nhưng lại có niềm tin. Họ đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới. Thấy ánh sao là dấu chỉ trong vũ trụ thiên nhiên. Họ được thúc đẩy bởi tiếng gọi thiêng liêng. Họ lên đường. Họ đã liều lĩnh chấp nhận ra đi, bỏ lại tất cả và chấp nhận bước đi trong đêm tối. Và các nhà Đạo sĩ này chỉ theo ánh sao lạ khi ẩn khi hiện, khi tỏ khi mờ. Các nhà đạo sĩ đã có một niềm tin thật vững chắc, do đó, các ngài mới dám dựa, dám cậy trông vào một dấu chỉ xem ra mỏng manh như thế ! Với một đức tin phi thường, họ đã dám vui mừng: ” Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria “. Các nhà Đạo sĩ thực tế đã có một đức tin kiên vững, đức tin mạnh mẽ, họ mới dám tin rằng một Vị Vua Giêsu mà lại nằm trong hang đá máng lừa và rồi họ rất khiêm tốn, bái lạy Hài Nhi Giêsu, rồi mở bão tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến ( Mt 2, 11 ).

Câu chuyện của ba nhà Đạo sĩ xưa vậy là câu chuyện của mỗi người chúng ta hôm nay.Ánh sao khi ẩn, ánh sao khi mất. Ba nhà Đạo sĩ đã tìm lại ánh sao khi nó xuất hiện và họ hết sức phấn khởi, hạnh phúc. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm tin, của hy vọng. Trong cuộc đời thường ngày có rất nhiều ánh sao dẫn chúng ta tới Chúa chẳng hạn một cử chỉ đẹp, thông cảm, yêu thương của người nào, một nụ cười của một người đánh tan căng thẳng, một lời khuyên thành thực chân thành, một nghĩa cử bác ái, một gương sáng khiến chúng ta cảm động, một câu Kinh Thánh đánh động chúng ta. Chúng ta cũng phải trở nên những ngôi sao sáng chỉ đường, dẫn người khác tới Chúa.

Ngày nay, nhiều nước trên thế giới mừng lễ Hiển Linh rất long trọng và lớn hơn cả lễ Giáng Sinh. Bởi vì, lễ Hiển Linh là lễ Chúa tự tỏ mình ra cho muôn dân, tỏ mình cho dân ngoại trên khắp thế giới. Lễ Giáng Sinh là lễ Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái, lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho chư dân. Đức Giêsu đã rao giảng Nước Trời khi Ngài bắt đầu sứ mạng công khai và Ngài đã thực hiện sứ vụ ấy trong suốt cuộc đời của Ngài ở trần thế này. Công việc của Chúa cũng phải được chúng ta tiếp tục mãi mãi. Chúa Giêsu đã thiết lập Nước yêu thương, công bình và hạnh phúc, một Nước mà trong đó những người nghèo được quan tâm, được yêu thương và mọi người sống với nhau như anh em. Đó là Tin Mừng. Đó là sứ điệp lễ Hiển Linh chúng ta phải công bố.

Éliot đã viết một câu chí lý: ” Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không là ánh lửa non cao,


Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình “.
Xin được tóm tắt sứ điệp lễ Hiển Linh bằng một hình ảnh rất sống động:


“ Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng và đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu,
để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hòa bình cho mọi người,
và để hòa nhạc bằng trái tim “.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con mau mắn giới thiệu Nước Trời cho nhiều người. Amen.

 

VIỆC PHỤNG THỜ THIÊN CHÚA CHÂN CHÍNH

Mt. 2, 1 - 12

Lm Trần Bình Trọng, USA

Để sửa soạn cho việc con Thiên Chúa ra đời cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc làm dân riêng để làm máng chuyển ơn cứu độ cho các dân tộc khác. Trải qua suốt dòng thời gian cựu ước, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri, các tổ phụ để biểu lộ cho dân được chọn về bản tính và quyền năng của Thiên Chúa, cũng như thử thách họ để luyện lọc thanh tẩy đức tin của họ. Tuy nhiên không phải vì thế mà các dân tộc khác phải đứng ngoài chầu rìa cho tới muôn kiếp. Vì thế mà có câu chuyện ba vua đi tìm Chúa mới giáng sinh. Và muốn tìm hiểu về Chúa giáng sinh, các nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là ba vua đã phải tìm đến với dân tộc mà Thánh kinh được mạc khải cho họ. Trước hết họ đến thủ đô Giê-ru-sa-lem để yết kiến triều đình nhà vua. Tuy nhiên họ đã hỏi lầm người. Vua Hê-rô-đê vì sợ mất ngai vàng đã toan âm mưu đánh lừa họ.

Cái thái độ và mục đích của việc ba vua đi tìm Đấng cứu thế mới sinh đáng cho ta chú ý. Họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như Hê-rô-đê. Theo phong tục Á đông, họ đến để thờ lạy Đấng cứu thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh ra nơi cung điện huy hoàng. Ở đây Chúa cứu thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hoàng, trong nhà thờ mùa giáng sinh. Vậy thì làm sao ba vua có thể quì xuống thờ lạy một Hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa? Đâu là cái dấu hiệu để ba nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng cứu thế? Theo Thánh kinh thì cái dấu hiệu là ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng cứu thế giáng sinh tại Bê-lem đã được tiên tri Mi-ca loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng cứu thế sinh ra, mà dân được chọn không nhận ra? Lý do là vì họ mong đợi Đấng cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Người chọn sinh ra tại hang bò lừa, họ không nhận ra Người.

Thường người ta dùng những dấu hiệu và biểu tượng bề ngoài để biểu lộ tâm tình và lòng tin tưởng bên trong. Vậy ta cần tìm hiểu xem Ba vua đã dùng những biểu tượng nào để bày tỏ tâm tình với Đấng cứu thế mới sinh? Phúc âm hôm nay thuật lại: Họ quì sụp xuống bái lậy Người và dâng cho Người những lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng tượng trưng cho vương quyền. Khi dâng vàng cho Đấng cứu thế mới sinh, ba vua mặc nhiên công nhận cái vương quyền của Đấng cứu thế. Nhũ hương là một tặng phẩm chỉ được dùng dâng lên Thiên Chúa. Bằng cách dâng hương, họ thừa nhận thiên tính của Đấng cứu thế. Mộc dược được dùng để ướp xác trong khi chôn cất. Khi dâng mộc dược, họ công nhận cái bản tính loài người của Đấng cứu thế.

Người Công giáo dùng những biểu hiệu và biểu tượng trong khi thờ phượng. Những tác động như: đứng, ngồi quì, chắp tay, cúi đầu, làm dấu thánh giá... là những biểu hiệu giúp khơi dậy trong ta những tâm tình thích hợp. Chỉ nguyên cái vị thế của thân người cũng diễn tả được cái gì mà không cần lời nói. Việc quì gối cầu nguyện biểu lộ cái tâm tình khiêm tốn, nói lên cái tâm trạng yếu hèn của loài người, là cần dựa vào Chúa. Vậy là người công giáo, ta cần trả lời cho những câu hỏi liên quan đến việc thờ phượng như: Tại sao quì gối? Tại sao đứng? Tại sao ngồi? Tại sao bái quì? Tại sao cúi đầu? Tại sao làm dấu thánh giá?...

Người công giáo phải coi thánh lễ là trung tâm điểm của đời sống người. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm, với việc gia đình và cá nhân. Mỗi tuần ta dành cho Chúa vỏn vẹn có một giờ vào Chúa nhật. Ta đến nhà thờ để được bồi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Cuối tuần khi kiệt sức về thể xác cũng như tinh thần, ta lại đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng Lời Chúa và Mình Thánh Chúa...

 

LỄ HIỂN LINH

Mt. 2, 1 - 12

Lm. Thu Băng, CMC

Thiếu Tá Gilbert Emilio là một sĩ quan của không lực Hoa Kỳ tại Colorado Springs, Tiểu bang Colorado. Ông cũng còn là một Điêu Khắc Gia lỗi lạc. Tới năm 1960, ông đã tham dự 740 lần trình diễn nghệ thuật điêu khắc khắp thế giới. Trong các nghệ thuật của ông, đa số là nghệ thuật tôn giáo. Ông quảng diễn một số các nghệ thuật điêu khắc về khuôn mặt và diện mạo Chúa Giêsu trên các loại đá quí. Nghệ thuật sâu sắc tôn giáo của ông đã được ông diễn tả :"Tôi thấy tôi là một dụng cụ tinh xảo và tế nhị của Thiên Chúa. Ngài đã dùng cánh tay tôi để diễn tả những nét uy thần và sâu sắc, Những vẻ nhân từ và khoan dung, những nét đầy cảm thương và đầy Thiên Chúa tính của Ngài".Ông đã chiếm được 7 giải Huy Chương vàng nghệ thuật, thì 3 tấm diễn tả về dung mạo của Chúa Giêsu.

Thiếu tá Emilio cố gắng trình bày khuôn mặt của Chúa Kitô với đầy nét thần uy, đầy khoan từ và nhân hậu. Trong lễ Hiển Linh đầu tiên Thiên Chúa cũng muốn trình bày diện mạo của Chúa Cứu Thế càng rõ ràng, chân thật đầy vẻ người mà lại đầy vẻ Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy một nhân tính đầy thùy mị, đầy hiển dung và khôn sáng, do máu huyết của một Trinh Nữ tuyệt diệu đã có trong ý định của Ngài từ muôn thuở. Thiên Chúa đã tỏ cho những người đơn thành và thiện tâm dưới thế nhận biết Ngài qua ánh sao Belem. Ngài cũng tỏ cho ba nhà Đạo Sĩ, đại diện cho muôn dân, là những người thiện tâm và đạo hạnh được biết và thờ lạy Ngài, dưới diện ngôi sao lạ dẫn đường chỉ lối cho các ngài tới ngắm nhìn khuôn mặt thực của Ngài, dưới hình thức một em nhỏ. Ngài đã soi trí cho các đạo sĩ thấy Ngài từ việc sưu tầm Thánh Kinh đến địa vật. Từ xa xưa đến những dấu hiệu gần cập, để các ngài nhận biết và tôn thờ. Như trong bài đọc hôm nay :"Lạy Chúa, Chúa đã dùng ngôi sao dẫn đường mà tỏ cho muôn dân biết Con Một Chúa". và Chúa lại lập lại trong bài đáp ca :"Mọi dân trên địa cầu đều thờ lạy Chúa".

Ngày nay, Chúa không dùng Sứ Thần hoặc ánh sao để chỉ cho thế giới nữa. Nhưng Ngài lại dùng ngôi đèn chầu chỉ lối Chúa ngự. Chúng ta hãy theo ngôi sao đó đến thờ lạy Ngài. Chúng ta hãy tới tham dự Thánh Lễ để gặp Ngài và hãy nhớ tới lời tạ lễ hôm nay :"Lạy Chúa, xin dùng ánh sáng thiên quốc dẫn đưa chúng con mọi nơi mọi lúc, để khi Chúa muốn chúng con tham dự mầu nhiệm này, Chúa cũng cho chúng con biết nhìn ra và lãnh nhận với lòng yêu mến xứng đáng".

 

ÁNH SÁNG THẾ GIAN

Mt. 2, 1 - 12

Sr. Cecilia, CMR

Một buổi tối lập đông, gió bấc thổi từng cơn se lạnh, đó đây đì đùng tiếng súng, thỉnh thoảng một ánh hỏa châu loé lên giữa bầu trời đêm. Ngôi làng nhỏ vẫn mù mịt khói sau trận oanh tạc sáng nay. Dân chúng đã kéo nhau chạy vào núi để ẩn náu. Trong một căn nhà nhỏ bé, đổ nát vì bom đạn, một cô bé gượng đứng bên khung cửa sổ, ngước nhìn lên trời và thở dài. Nhờ ánh trăng hiu hắt chiếu qua khung cửa, cô bé cúi xuống quờ quạng kiếm tìm. Một tiếng 'xẹt' khô khan giữa đêm vắng, một ánh nến chập chờn trong căn nhà đổ nát, hai dòng lệ lăn dài trên gò má ngây thơ. Mấy hôm sau, người ta tìm thấy xác cô bé, co rúm lại vì lạnh, một chân bị thương vì trúng bom, tay đang cầm hộp diêm nhàu nát, bên cạnh là xác của ba mẹ cô bé.

Chúng ta đang trong Mùa Giáng Sinh. Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta suy niệm mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, mang thân phận con người, sống giữa con người. Hôm nay, Lễ Hiển Linh, Giáo Hội gọi mời chúng ta đi sâu hơn nữa trong việc chiêm ngắm Chúa Kitô: Ánh Sáng Thế Gian. Chúa Kitô chính là 'Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối' (Jn 1:5), là Sao Mai lấp lánh giữa trời đêm, soi đường dẫn lối cho con người đến Nguồn Sự Sáng; sưởi ấm tâm hồn băng giá của con người bÄng hơi nóng của tình yêu chân thật từ trời cao.

Thế nhưng, 'Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận' (Jn 1:9-11). Đó chính là thái độ chối từ của vua Hêrôđê. Mặc dù các Vị Đạo sĩ đã thuật lại với vua về sự xuất hiện của ngôi sao lạ và sự chào đời của Vua dân Do-thái, lòng ghen tương và sự ham mê địa vị, giàu sang, thế lực trần gian đã khiến vua nhìn thấy nơi Con Trẻ hình ảnh của một tử thù mà vua phải tìm cách tiêu diệt bÄng bất cứ cách nào, ngay cả bÄng sinh mạng của biết bao trẻ em vô tội. 'Người đi trong bóng tối thì chẳng biết mình đi đâu vì bóng tối làm cho mắt người ấy ra mù quáng' (1Jn 2:10). Đó cũng là thái độ tự nhiên của con người. Con người thích bóng tối hơn sự sáng. Trong bóng tối, người ta được tự do, thoải mái làm điều mình muốn mà không sợ dư luận xôn xao, láng giềng cười nhạo, ngay cả lương tâm trách cứ.

Thái độ mà Giáo Hội mời gọi chúng ta và Thiên Chúa mong đợi nơi chúng ta là thái độ vâng phục, chấp nhận. Trong Mùa Vọng, Giáo Hội dùng tấm gương đón nhận của Mẹ Maria, của Thánh Giuse và Bà Elizabeth để mời gọi chúng ta. Trong đêm Giáng Sinh, Giáo Hội dùng hình ảnh các mục đồng để phấn khích chúng ta. Và hôm nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương của các Vị Đạo sĩ phương Đông. Nhìn thấy Ngôi Sao lạ trên nền trời, các Vị đã xem đó như một lời mời gọi. Bỏ tất cả, các Vị không quản nề vất vả, lao nhọc, hiểm nguy, băng rừng vượt núi theo sự hướng dẫn từ trời cao. Cả khi ngôi sao hướng lộ vụt tắt, các Vị cũng không chùn chân. Hang đá lạnh lẽo, máng cỏ nghèo nàn đã không làm các Vị xao xuyến. Các Vị tin nhận Con Trẻ nghèo hèn, bé nhỏ là 'Vua dân Do Thái' và 'họ đã quì gối xuống, sụp lạy Người, và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược' (Mt 2:11).

Chúng ta có thể đồng hóa thái độ tâm hồn của mình với ai? Từ chối như Hêrôđê hay đón nhận như các đạo sĩ? Hoặc nếu đón nhận thì hành trình đón nhận ấy thế nào? Có dám từ bỏ, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ để theo lời mời gọi của Vì Sao lạ, để theo đuổi cuộc hành trình đến với Ánh Sáng không? Có dám liều, dám ra đi, bỏ cảnh sống quen thuộc, bỏ những tiện nghi mình đang có, để đi theo sự soi sáng của ân sủng, dấn mình vào cuộc lữ hành vô định của đức tin, để không dừng lại ở ngôi sao lạ, nhưng coi đó như lời mời gọi từ trời cao, như sự hướng dẫn từ trời cao để tìm đến hang đá và khiêm tốn tôn thờ Vua Vũ Trụ nơi Con Trẻ trong máng cỏ???

Trong cuộc hành trình đức tin, đôi khi vì sao hướng lộ vụt tắt... điều đó có làm đôi chân lảo đảo và ý chí lung lay không? Một tâm hồn tin tưởng và thiện chí sẽ biết tìm phương cách để được tiếp tục hướng dẫn tới cùng đích như các nhà Đạo sĩ. Bóng tối bên ngoài không đe dọa niềm tin cậy và phủ lấp được đức ái bên trong.

Con Thiên Chúa đã nhập thể để đem ánh sáng của chân lý, công bình đến cho những ai đang ở trong bóng tối u mê của ngờ vực, của bất công. Ngài đem hơi ấm tình thương và hy vọng đến những người đang sống trong cô đơn, thất vọng, hận thù, ghen ghét.. cho những người bị xã hội ruồng rẫy, bỏ rơi. Hôm nay, Ngài gọi mời chúng ta hãy trở nên ánh sáng cho nhau, đem ánh sáng chúng ta đã lãnh nhận từ Ngài đến cho tha nhân vì 'không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng để trên giá đèn hầu soi cho mọi người trong nhà '(Lc 11:33). Đặc tính của ánh sáng là soi sáng và sưởi ấm. Đón nhận ánh sáng từ Thiên-Chúa-làm-người, chúng ta cũng hãy trở nên ánh sáng, soi sáng và sưởi ấm tha nhân bÄng chính cuộc sống của mình, bÄng lời cầu nguyện, bÄng lời nói và những hành động cụ thể.. Thế giới chúng ta đang sống hôm nay tràn đầy bất công, hận thù, ghen tương, tràn đầy đau thương và nước mắt.. Ước mong hôm nay bạn sẽ đốt lên một ngọn nến để soi sáng và sưởi ấm một tâm hồn nào đó.. Ước mong một ngày nào đó tiếng khóc sẽ không còn, chiến tranh sẽ chấm dứt, hận thù được xoá bỏ để không còn những cô bé chết đơn côi vì lạnh, chết tang thương vì chiến tranh, vì sự tham lam, thù hận của con người nữa.

 

LỄ HIỂN LINH

Mt. 2, 1 - 12

Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR

Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo, một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.

Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau đớn thất bại và bệnh tật...

Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình của Người.

Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng, nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không. Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô. Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.

Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá nào.

Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 

CHÚA TỎ MÌNH RA CHO MỌI NGƯỜI

Mt. 2, 1 - 12

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

"Trái tim đã thực sự yêu sẽ không bao giờ quên. Nhưng như tình yêu chân thật thì nó sẽ yêu cho đến cùng hoa hướng dương cũng hướng về chúa của nó (là mặt trời ) khi mặt trời lặn, và cũng quay nhìn như thế khi mặt trời mọc " ( Thomas Moore ). Dõi theo một ánh sao, ba nhà đạo sĩ phương Đông xưa đã gặp được Hài Đồng Giêsu, vua các vua nơi hang đá Bêlem. Hoa hướng dương cũng lần theo ánh mặt trời để chào đón và từ biệt vua mặt trời

Trên bầu trời cao, mênh mông,muôn vàn tinh tú lấp lánh, có một vì sao và chỉ một ngôi sao cứ hiện nguyên hình chiếu soi, dẫn đường đưa lối cho ba nhà đạo sĩ ở phương Đông tới Bêlem để tìm gặp vị vua của muôn vua. Cái ánh sao hay ngôi sao dẫn đường vẫn ẩn hiện khi mưu đồ của Hêrôđê muốn đánh lừa ba vị đạo sĩ lạ ở phương xa. Ngôi sao lạ ấy quả thực đã khuất bóng khi ba nhà đạo sĩ tới gặp con cáo già Hêrôđê và rồi khi hiểu được lòng dạ nham hiểm,thẩm sâu của Hêrođê, ba nhà đạo sĩ đã lén ra đi,không bao giờ quay trở lại gặp Hêrôđê nữa thì này "... ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại" (Mt 2,9 ). Cái trớ trêu ở chỗ một vị Thiên Chúa đã hóa kiếp làm người đến trần gian với hình hài, với con người bằng xương bằng thịt lại nằm trong hang đá Bêlem, nghèo nàn, rét mướt.

Nhưng đoạn Tin Mừng của thánh Matthêô 2,1-12 trích đọc trong lễ Hiển Linh lại diễn tả tấn bi kịch của lịch sử cứu độ của Chúa Giêsu đối với dân riêng Người đã tuyển chọn, đồng thời lại nói lên tấm lòng bao la từ bi nhân ái hay chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa. Hêrôđê là ông vua độc ác,ham quyền cố vị, tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực gian xảo,ti tiện, mưu đồ quỉ quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng như một lẽ sống, như một chân lý của cuộc đời mình. Hêrôđê không biết rằng : "Chúa các vua không phải là một ông vua thế trần gian tham,ham quyền cố vị, nhưng Chúa là vua nhân ái,vua hòa bình,vua khiêm nhượng đến để ban an bình như lời muôn vàn Thiên Thần tung hô ngày Người đản sinh,giáng thế, Đấng đến để thực hiện lời ngôn sứ Isaia :muôn dân muôn nước sẽ nhận biết Người,qui về một mối mà ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát kẻ bị áp bức khỏi tay người quyền thế, thương xót kẻ yếu đuối,cơ bần " (đáp ca).

Đấng Cứu Tinh lại là một Hài Nhi được bọc khăn,đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy,đáng lẽ phải được toàn dân Giêrusalem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ,nhưng lạ lùng và ngạc nhiên thay,dân thành Giêrusalem lại hốt hoảng lên cùng với Hêrôđê khi hay tin Đấng Cứu Tinh Giêsu đã Giáng Sinh. Họ bị mù lòa vì lòng dạ tối đen,mờ ám,họ không nhìn ra ánh sao dẫn đường cho dù họ có thể tìm cách để nhận ra ngôi sao như ba nhà đạo sĩ ngoại đạo Họ biết rõ vị cứu tinh là Giêsu có thể thay đổi họ,có thể ban cho họ sự an bình,nhưng họ ngại hy sinh,họ sợ dấn thân, họ cố bám vào quyền lực trần thế của một con cáo già Hêrôđê. Còn các vị tư tế,thông luật,các nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó dù biết rất rõ nơi vị cứu tinh sinh ra,họ có thể tìm gặp Hài Đồng Giêsu để triều bái, để thờ lạy người vì lời các ngôn sứ đã loan báo cho họ biết rất rõ về nơi ở của Hài Đồng Giêsu, nhưng lòng dạ họ đã đóng lại,con tim của họ đã ra chai đá,đôi mắt của họ đã trở nên mù lòa, họ phất lờ và chẳng màng gì đến Đấng Cứu Thế ! Chỉ ba nhà đạo sĩ, ba người ngoại có thế giá ở phương Đông,ba người đối với dân Do Thái là dân ở ngoài, dân bên lề đã tìm gặp Giêsu với một ánh sao soi dẫn...

Quả thực, đoạn Tin Mừng hôm nay diễn tả lại tất cả công trình cứu độ của Thiên Chúa:Chúa đến không phân biệt ai dù là người Do Thái hay không phải Do Thái, Chúa đến để qui tụ như bài đọc hai của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêrô nói : "Chính nhờ rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã đến với muôn dân muôn nước để chia sẻ ân sủng và lời hứa ban hạnh phúc cho mọi người ".

Vẫn một ánh sao, vẫn một ngôi sao có người đã nhận ra dù họ coi là thành phần ở ngoài,nhưng có nhiều người ở trong đã không nhân thấy vì trái tim của họ đã không thực sự yêu... Nếu yêu chân thật, họ sẽ như hoa hướng dương cũng hướng về chúa của nó (là mặt trời) khi mặt trời lặn, và cũng quay nhìn như thế khi mặt trời mọc (Thomas Moore ).

Ngày nay vào những đêm tối ở nhiều nước còn chiến tranh vẫn có nhiều đốm hỏa châu rực sáng cả bầu trời. Nhưng, ánh sáng hỏa châu vẫn là thứ ánh sáng soi đường cho con người chém giết hận thù lẫn nhau. Ánh sáng hỏa châu quả thực vô nghĩa và hoàn toàn phi lý !

Trên bầu trời ngày nay,vẫn có hằng hà sa số các vì sao thắp sáng,vẫn có nhiều giải ngân hà với triệu triệu ngôi sao tỏa sáng,có ánh sao sáng,có ánh sao lu mờ, có những vì sao con mắt trần không thể nào nhìn thấy được. Ngày nay,với phương tiện truyền thông văn minh tột bậc, với vi tính, É-Mail, Internet... người ta vẫn quảng bá,quảng cáo cho muôn vàn mặt hàng,muôn nghìn cách thức tiếp thị. Nhưng vẫn không có hàng hàng lớp lớp Thiên Thần tung hô,ca ngợi,loan báo cho các mục đồng tìm gặp Chúa ở Bêlem. Cũng không còn ánh sao soi đường chỉ lối như các vị đạo sĩ phương Đông nhất quyết đi tìm gặp Hài Đồng Giêsu: "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông, và chúng tôi đến bái yết Ngài".

Ngày nay, vẫn có nhiều ngôi sao trên bầu trời mênh mông, bát ngát, vẫn có muôn vàn tinh tú đổi ngôi, vẫn thỉnh thoảng có ánh sao băng vụt lòe nhanh nhanh như chớp... nhưng con người không nhìn ra một vì sao chỉ đường để tới gặp Chúa. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Thiên Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là chính Thiên Chúa hóa kiếp làm người ở với,ở cùng và vì con người, vì mọi người.Con Thiên Chúa là Giêsu đã đích thân sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi, ngoại trừ bóng tối âm u, lầm lạc. Ánh sao bây giờ không còn là ánh sáng hỏa châu soi đường cho nhân loại chém giết lẫn nhau. Ánh sáng của ngôi sao dẫn ba nhà đạo sĩ hôm nay không thể là chớp lòa của bom đạn hàng trăm ngàn, hàng triệu tấn trút xuống đồi núi,làng mạc của vùng vịnh hay gần hơn của nước A Phú Hãn. Ánh sao hôm nay, không thể là những đốm lửa lập lòe của khủng bố,phá hoại và ám sát của bom đạn, mã tấu vv... đang rực lên ở nhiều nơi trên thế giới. Ánh sao Bêlem không thể là chém giết, hận thù của Israen và Do Thái, Pakistan và Ấn Độ vv... Ánh sao hôm nay phải là Hài Đồng Giêsu -Ánh sáng chiếu dọi cho mọi dân tộc.

Vậy, Ánh Sao xưa soi chiếu cho các đạo sĩ tới gặp được Chúa Hài Đồng với phẩm vật quí giá là Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược phải là Ánh sáng của đức tin, của lòng vị tha và xả kỷ của mỗi người. Muốn gặp được Hài Đồng Giêsu, ta phải ra khỏi cái vỏ của hận thù, ghen ghét và ích kỷ của lòng ta. Ta phải liều mạng như ba nhà đạo sĩ dù có gặp cáo già Hêrôđê vẫn cương quyết ra đi để tìm gặp Chúa Giêsu.Hãy ra khỏi sự an thân,nhàn hạ và ươn hèn để ra đi.

Chúa đã nói : "Ai cho người đói ăn là cho Ta ăn,cho kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng mặc, thăm viếng kẻ lao tù là thăm chính Ta “(Mt 25,1tt). Ta chỉ có thể gặp Chúa Giêsu Mẹ Maria và thánh Giuse khi ta gặp gỡ tha nhân với tất cả con người của mình, với tất cả lòng bác ái, vị tha, xả kỷ, chia sẻ của mình.

Gặp được Chúa, ba đạo sĩ đã tiến dâng cho Chúa: "Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược" là ba phẩm vật quí giá nhất của miền phương Đông và thế giới muôn thời. Ta hãy dâng cõi lòng ta, con tim quảng đại, yêu thương và lời cầu nguyện liên lỉ của chúng ta cho Vị Cứu Tinh Giêsu.

Ánh sao hôm nay vẫn luôn tỏa sáng,vẫn luôn dẫn đường, nếu chúng ta biết trao tặng tha nhân, nhất là những người nghèo, những người ta cần giúp đỡ với con tim rộng mở của ta.

Qui chiếu các bài đọc hôm nay,trong thánh lễ này, chúng ta tự coi chúng ta là người ở trong, là người Kitô hữu chân chính, là người chắc chắn sẽ lãnh được phần rỗi đời đời.

Chúng ta hãy xét lại thái độ và đời sống đạo của chúng ta xem chúng ta đã sống như những người ở trong, hay chúng ta vẫn hờ hững nhiều khi chưa bằng người bên ngoài.

Chúng ta có nhớ cầu nguyện cho các vị tông đồ,các nhà truyền giáo đã nói Lời Chúa,đã rao giảng Tin Mừng cho ta, nhờ đó ta có đức tin và Chúa Kitô tỏa chiếu trong ta.

Ta có tìm gặp Chúa nơi tha nhân chứ không ngồi đu đưa chờ đợi Chúa như câu chuyện ông già đu đưa trên ghế xích đu chờ đợi Chúa hay không mà tìm gặp Chúa là phải tìm nơi những sự nhỏ hèn,nơi những con người nghèo nàn,cơ nhỡ vv...

Chúng ta hãy đọc tư tưởng của thánh Augustinô :" Thấy miền đất hòa bình là một chuyện,nhưng đặt chân lên con đường dẫn tới miền đất đó lại là một chuyện khác "

DÂN NGOẠI TÌM KIẾM CHÚA và ĐÃ GẶP ĐƯỢC NGƯỜI

Mt. 2, 1 - 12

Lm Đan Vinh

1) MỖI TÍN HỮU PHẢI LÀ MỘT NGÔI SAO LẠ CHO LƯƠNG DÂN :
* Câu chuyện về dân cư trên đảo Ke-rô-lai : Đây là một hòn đảo được coi là hoang vắng từ trước đến nay chưa có một vị thừa sai nào đặt chân đến. Nhưng rồi vào một hôm, một vị linh mục kia có dịp đi ngang qua đảo. Ông dùng ống nhòm quan sát và thấy có nhiều ngôi nhà trên đảo. Ông càng ngạc nhiên hơn khi thấy một trong các mái nhà đó có gắn một cây thánh giá đơn sơ làm bằng tre. Ông cho thuyền ghé vào đảo tìm hiểu và rất vui mừng khi thấy hầu hết dân cư trên đảo đều tin có Thiên Chúa và nhận mình là người công giáo, dù họ chưa hiểu biết bao nhiêu về giáo lý Công Giáo. Số là khoản 20 năm trước đây, một đôi vợ chồng Công Giáo cùng hai đứa con trai đã phiêu bạt đến và sinh sống trên hòn đảo này bấy giờ còn rất hoang vu. Đây là một gia đình công giáo đạo đức : Họ rất thương yêu nhau, và sẵn sàng quan tâm giúp đỡ mọi người. Do đó dần dần họ đã gây được thiện cảm của các người dân sống trên đảo. Về Đức Tin tôn giáo, đôi vợ chồng đã dựng bàn thờ Chúa ngay trong phòng khách và đọc kinh chung gia đình hằng ngày. Vào mỗi buổi tối, cả nhà cùng ngồi quây quần trước bàn thờ, nghe đọc một đoạn Kinh Thánh, rồi gia trưởng sẽ gợi ý giúp suy niệm Lời Chúa và dâng lời cầu tự phát quyết tâm thực hành Lời Chúa và kết thúc bằng một bài thánh ca. Các người hàng xóm lúc đầu đến xem vì tò mò, rồi dần dần được mời vào nhà cùng tham dự buổi cầu kinh. Số người đến dự ngày một gia tăng. Nhờ các buổi kinh nguyện có suy niệm Lời Chúa, kèm theo những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân cách vô vụ lợi, mà gia đình tín hữu này đã đưa được rất nhiều người tin nhận Chúa và trở thành con cái của Ngài.

* Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu thành Phi-líp-phê như sau : "Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa, Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời. .." ( Pl 2,14-15). -Trong Mùa Giáng Sinh này, ngôi sao Đức Tin của mỗi người chúng ta phải phát quang chiếu sáng qua những việc bái ái cụ thể nào để trở nên ngôi sao soi đường dẫn lối cho anh em lương dân nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như chúng ta ?

2) SỨ MỆNH CỦA MỘT NGỌN NẾN NHỎ :
* Vào một đêm mưa bảo, ngọn đèn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng : "Ông đem tôi đi đâu vậy ?". Ông ta trả lời : "Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tàu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn". Cây nến lại nói: "Nhưng tôi chỉ là một cây nến nhỏ bé thế này thì tàu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được ?". Người phụ trách trả lời : "Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu !". Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể sử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tàu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an toàn.

* Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ trong bàn tay Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Chúng ta cần ý thức rằng : Trong mọi sự việc, đặc biệt những việc có liên quan đến Đức Tin siêu nhiên như trình bày về Chúa cho người lương, giúp các tội nhân như những kẻ nghiện ngập, những người vợ nọ con kia, những kẻ phạm pháp được hồi tâm trở về với Chúa...thì là những công việc vượt quá tầm sức của chúng ta. Điều ta có thể làm được là nêu gương sáng, và động viên khuyên bảo họ khi có thể. .. Rồi phó thác kết quả trong tay Chúa quan phòng. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy : "Tôi trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên". Ngoài ra, người ta cũng thường nói : "Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên" - "hãy làm việc hết mình trước đã, rồi Chúa sẽ thêm sức cho sau". Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta cần thực hành theo câu châm ngôn sau : "Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối!".

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Cuộc đời chúng con nhiều khi cũng gặp phải hoàn cảnh bế tắc như các nhà chiêm tinh xưa khi ngôi sao dẫn đường biến mất. Chúng con không biết phải cư xử, giải quyết vấn đề thế nào cho ổn thỏa. Không rõ phải đi theo con đường nào mới là đường Chúa muốn chúng con đi ? trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng con đừng nản lòng thất vọng ! Nhưng biết nói gương các nhà chiêm tinh xưa là không bao giờ nản chí buông xuôi, nhưng kiên trì tìm kiếm.

Xin cho chúng con biết chạy đến với các vị chủ chăn trong Giáo Hội. Con tin rằng : Chúa không muốn chúng con phải chịu đựng quá sức chúng con. Chúa sẽ kịp thời soi sáng, giúp chúng con biết những việc phải làm cho đẹp lòng Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.


2) Lạy Mẹ Maria, Trong cuộc sống hàng ngày, Mẹ luôn tìm hiểu Thánh Ý Chúa và khiêm tốn "xin vâng". Đối với những việc xảy ra mà chưa được hiểu rõ, thì Mẹ đã luôn "ghi nhớ những sự việc ấy và suy niệm trong lòng". Trong cuộc sống hôm nay, chúng con cũng gặp biết bao những khó khăn trở ngại. Xin Mẹ thương nâng đỡ giúp chúng con noi gương Mẹ : luôn tìm hiểu Thánh ý Chúa bằng việc dâng lời cầu nguyện lên Chúa : " Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì trong hoàn cảnh cụ thể này ?", rồi quyết tâm làm những điều tốt nhất theo tiếng Chúa nói trong lương tâm.

Xin cho chúng con biết chiếu sáng Đức Tin bằng những việc yêu thương, quên mình và phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người đau khổ khốn cùng, như thánh Phaolô dạy : "Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15). Hoặc như lời Chúa Giêsu phán : " Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON .

 

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Mt. 2, 1 - 12

Sr. Thùy Trâm

Lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh tuy hướng về hai biến cố khác nhau nhưng cũng qui về một mầu nhiệm duy nhất của mùa Giáng Sinh là Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Lễ Hiển Linh cử hành biến cố ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Họ là ba người ngoài Do Thái, được coi là dân ngoại đã khám phá và tin nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình. Vì thế ngày lễ này được coi là ngày lễ của niềm tin. Chiêm suy ngắm cuộc hành trình đức tin của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có dịp để hâm nóng lại niềm tin của mình.

1. Chiêm ngắm biến cố của ba nhà đạo sĩ, chúng ta thấy được ba bước căn bản ở trong cuộc hành trình đức tin của người Kitô như sau:

- Khám phá Thiên Chúa qua vũ trụ. Đây chính là con đường chung của mọi tôn giáo và cũng có thể nói của mọi tâm hồn khao khát tìm kiếm Chúa. Ánh sao đêm đã trở thành dấu chỉ trước tiên gọi mời các đạo sĩ để lên đường tìm kiếm Chúa Cứu Thế.

Con người luôn có những tra vấn về mình và vũ trụ: vũ trụ do đâu mà có? Tại sao có những định luật vô cùng hài hòa trong không gian bao la này? Mọi vật trong vũ trụ có liên hệ nào với sự sống của con người? Chính khi đặt những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ khám phá ra thế giới và vũ trụ này hẳn không phải do ngẫu nhiên hay tình cờ mà có, nhưng có một Đấng Thượng Trí vô song tác thành.

- Khám phá Thiên Chúa qua Thánh Kinh: Nếu chỉ dừng lại bước thứ nhất, chỉ tin nhận một Thiên Chúa của lý trí thì sự hiểu biết ấy rất đỗi mờ nhạt và rất dễ sai lầm. Ngay một người bạn nếu họ không bao giờ bày tỏ nội tâm của họ, tôi cũng chẳng thể hiểu được họ cách sâu xa; thì đối với Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối cao cả và thiêng liêng, làm sao tôi có thể hiểu được Ngài nếu Ngài không tự tỏ lộ.

Nếu các nhà đạo sĩ đã cần đến lời sự sống của Kinh Thánh để tiếp tục lên đường tìm gặp Chúa, thì chính Thánh Kinh là những bày tỏ, bộc bạch nỗi niềm mà Thiên Chúa muốn ngỏ cho chúng ta. Chính nhờ Kinh Thánh, chúng ta biết rõ nét về chính khuôn dung và tấm lòng đích thực của Thiên Chúa đối với chúng ta.

- Nhưng bước thứ ba mới quan trọng đó là: Gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô. Ở nơi Chúa Giêsu, tất cả chân lý được tỏ hiện nên Ngài là trung tâm điểm của niềm tin chúng ta.

Bước đi của ba nhà đạo sĩ cũng là bước đi của mỗi Kitô hữu chúng ta: từ chỗ khám phá một cách mơ hồ sự hiện diện của Thiên Chúa qua vũ trụ đến chỗ thấy được Ngài rõ nét hơn, đến gần với Ngài hơn qua mạc khải của Kinh Thánh để cuối cùng gặp được Ngài cách sống động nơi Đức Giêsu Kitô.

2. Nhưng phải làm gì để có thể bước qua ba giai đoạn và được gặp Ngài như vậy?

Dựa vào hành trình của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có thể đặt ra những việc cơ bản sau:

- Trước hết mang một nỗi khao khát thật sâu xa về Chúa mong tìm được Ngài.

- Nỗi khao khát ấy thôi thúc chúng ta đi tìm Chúa qua tiếng gọi của vũ trụ, qua dẫn dắt của tha nhân, nhất là qua việc học hỏi Kinh Thánh, qua lắng nghe tiếng Chúa trong thầm lặng cầu nguyện.

- Để cuối cùng khi nhân ra Ngài, chúng ta dám lên đường để tìm gặp Ngài: bỏ lại đằng sau nhà cửa, người thân để lên đường như ba nhà đạo sĩ đã khó. Nhưng bỏ lại đằng sau sự lười biếng, sự tự mãn, kiêu căng, một sự ra đi như vậy đòi hỏi rất nhiều từ bỏ và hy sinh. Nhưng chắc chắn sự từ bỏ này sẽ được đền bù cân xứng của một lần gặp Chúa thật sâu.

3. Gặp được Chúa để ra đi nói về Ngài:

Nếu gặp được Chúa Giêsu hẳn chúng ta cũng sẽ bước vào con đường mà chính Chúa Giêsu đã chọn cho chúng ta, lối sống mà chính Ngài đã dạy cho chúng ta. Gặp Ngài là chắc chắn biến đổi. Để từ đó chúng ta muốn nói về Thiên Chúa cho mọi người, cuộc đời mới của chúng ta trở thành ánh sao dẫn nhiều người về với Chúa. Càng gặp Chúa sâu xa, chúng ta càng có khả năng để nói về Chúa cách hồn nhiên và đầy lôi cuốn.

Chúa Giêsu Hài Nhi hôm nào vẫn đang mời gọi chúng ta đến để tôn thờ và đón nhận. Xin Ngài củng cố niềm tin của chúng ta thêm sâu sắc, để mỗi người chúng ta hôm nay bước vào hành trình mới của niềm tin, hành trình trong niềm vui, hy vọng và chan chứa sự sống.

 

LỄ HIỂN LINH

Mt. 2, 1 - 12

Lm. Augustine SJ.

Ðức Giêsu là người lịch sử. Tin Mừng Matthêu ở hai chương đầu, cho thấy một loạt những địa danh: Bêlem nơi Ðức Giêsu sinh ra; Ai Cập nơi Người lánh nạn; Rama nơi các hài nhi bị giết oan khi Người bị truy lùng như kẻ đe doạ chiếm ngai vàng; Nadarét nơi được chọn để Người sống ẩn dật ba mươi năm.

Nhưng Ðức Giêsu còn là người của lịch sử dân tộc Do Thái, dân riêng của Thiên Chúa. Có một điệp khúc cứ trở đi trở lại nơi hai chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là: "Tất cả các việc này xảy ra để thực hiện đúng như Chúa đã phán qua lời ngôn sứ xưa" (1,22; 2,5.15.17.23).

Chính Ðức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Người sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa của sứ mạng của mình và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.

Tin Mừng Mátthêu ở chương 2, sau khi xác định Bêlem là nơi Người cất tiếng chào đời thời vua Hêrôđê trị vì (năm 37-4 trước Công Nguyên), kể lại biến cố các đạo sĩ từ phương Ðông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Ðó là những nhà chiêm tinh có thể đã đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay một cách đơn giản lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Giacóp (Ds 24,17) đã được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Ðức Giêsu là vị cứu tinh.

Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đến bái lạy Hài Nhi Giêsu (cc.2,8.11), còn ngược lại, các lãnh tụ đạo đời tại thành thánh Giêrusalem, không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua đến bái lạy Hài Nhi mới sinh nhưng chỉ để mưu sát Hài Nhi (c.16).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy phần nào niềm vui lớn lao của Giáo Hội sơ khai khi thấy dân ngoại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng trong khi rất tiếc người Do Thái là dân riêng của Chúa lại tỏ ra cứng tin. Thực ra ngay ở chương thứ hai này Mátthêu đã chuẩn bị cho màn Ðức Giêsu được nhìn nhận là vua người Do Thái (Mt 27,11.29.37) cũng như chuẩn bị cho cuộc phái các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, tức là các dân ngoại (Mt 8,11-12; 28,18-20).

Nay Kitô hữu được mời nghênh đón Chúa cách mới mẻ

Bài Tin Mừng hôm nay nói tới biến cố con người đi tìm Thiên Chúa. Nhưng Tông thư "Tiến Ðến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba" nhắc nhở chúng ta rằng: "Trong mầu nhiệm nhập thể không phải chỉ là chuyện con người đi tìm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói cho con người biết về mình và chỉ cho con người thấy đường để họ có thể đến với Thiên Chúa" (TNK 6a; xem 19,24d). Giáo Hội chính là thân thể nhiệm mầu nối dài của Ðấng Thiên Chúa nhập thể đó. Do đó mà tài liệu Hướng Dẫn Năm Toàn Xá 2000 nói đến việc khởi động một sức mạnh loan Tin Mừng và truyền giáo mới mẻ (trang 34). Cái mới mẻ nói đây bao gồm hai thái độ là tất cả chúng ta cần được loan báo Tin Mừng ngay trong cộng đoàn mình, để đến lượt chúng ta có thể loan báo Tin Mừng cho mọi người và thế là không ai không được nghe Tin Mừng cứu độ, tức biến cố Ðức Giêsu Kitô.

Tài liệu nói trên đề nghị cách cụ thể:

+ Cần nhấn mạnh kinh nghiệm đức tin là một sự ngạc nhiên thích thú trước ơn hiệp thông Chúa ban xuống cho ta do tình yêu và do ý muốn cứu độ của Người.

+ Cộng đoàn cũng như mỗi cá nhân đã được chịu phép rửa, phải nỗ lực tìm ra những phương cách và những hình thức cụ thể cho việc loan Tin Mừng cách mới mẻ, để có thể giải thích tại sao chúng ta tin và chúng ta trông cậy cho tất cả những ai, tuy đã được chịu phép rửa, nhưng không còn tiếp xúc với Ðức Kitô và Giáo Hội nữa… Cần phải có việc làm chứng đồng bộ và có ý nghĩa, về đức tin trong các lãnh vực của cuộc sống: gia đình, giáo dục, quan hệ xã hội, nghề nghiệp dấn thân về mặt xã hội, chính trị và văn hoá.

+ Cần phải có những sáng kiến mới về việc động viên truyền giáo, công tác truyền giáo và giáo dục chuyên môn cho việc truyền giáo, đào tạo tinh thần liên đới và cởi mở đại đồng (xem trang 35).

Một giáo dân giúp người Do Thái tìm kiếm Chúa

Tháng sáu 1996, trong ba ngày 25-27, một cuộc họp rất đáng ghi nhớ được tổ chức tại cơ sở Công Giáo ở Roma. Ðó là cuộc họp các đại diện của 1600 người Do Thái là thành viên và thiện cảm viên của một phong trào hiệp nhất thế giới mà ai cũng biết nòng cốt là người Công giáo. Số tham dự viên là 35 người, trong đó có ba ráp-bi Do thái giáo. Họ đến từ nước Ít-ra-en, Achentina, Braxin và một số nước Âu Châu.

Ðề tài cơ bản của cuộc họp là: lòng mến Chúa và yêu người trong linh đạo Do thái giáo và linh đạo Phong trào Tổ Ấm Focolare. Người ta lấy làm lạ về sự đồng quan điểm giữa linh đạo của phong trào này khi so sánh với quan điểm truyền thống nhất như được ráp-bi David Rosen từ Giêrusalem trình bày về giới răn yêu thương.

Tiếp theo là đời sống chứng tá của một số dự viên nam nữ, cho thấy lý tưởng hợp nhất bằng tình thương giữa con người với nhau, đã mang lại tương quan đáng kể như thế nào ngay trong bối cảnh gia đình và cộng đoàn của những người cùng một tôn giáo với nhau.

Ðỉnh cao của cuộc họp là ngày chót với lời cam kết yêu thương và tha thứ giữa nhau, diễn ra trong cảnh cảm động rướm lệ. Lời cam kết này đã được một dự viên đề nghị và đã được mọi dự viên và các thành viên Focolare khác có mặt hưởng ứng. Thế là tất cả những người có mặt đều tự nguyện tham gia thể hiện cử chỉ hoà giải giữa Do thái và Kitô hữu, cũng như giữa các dự viên Do thái với nhau thuộc nhiều truyền thống khác nhau.

Người ta đặc biệt chú ý đến sứ điệp mà các dự viên cuộc họp gửi tới người phụ trách Phong trào Tổ Aám là chị giáo dân Lưu Bích (Chiara Lubich) hiện ở Balan không về dự được. Sứ điệp nói: "Chị Ciara mến yêu, chị thực là ngôn sứ của hoà bình. Chúng tôi đã tới cuộc họp như những người xa lạ đối với nhau, nhưng tình yêu mà chị đã gieo vào lòng chúng tôi quả thật đã làm cho một thân cây khổng lồ (Phong trào Focolare) mang lại những trái sẽ nuôi dưỡng nhiều người (...). Thiên Chúa thực đã hành động trong quyền năng của Ngài." (Nouvelle Cité, Montréal, Nov - Dec 1996, trg 6).

Tình liên đới và cởi mở hướng tới một thế giới đại đồng đúng là cái mới mẻ mà người Kitô cần phát huy hướng tới năm Toàn Xá 2000, để kỷ niệm hai ngàn năm Con Thiên Chúa làm người. Mục đích Người đến là để trở nên người anh em với mọi người không trừ một ai, để mọi người đều thấy Thiên Chúa yêu thương loài người tới mức nào. Tại Bêlem các đạo sĩ đại diện muôn dân trên thế giới, đã đến bái lạy Người. Vua Hêrôđê đã tìm cách mưu sát Người chỉ vì lầm tưởng rằng Người đến để chiếm ngai vàng mình đang ngồi. Các thượng tế và các kinh sư tuy không nhúc nhích tìm kiếm Vua mới sinh ra để bái lạy, nhưng họ đã xác định chính xác nơi Ðức Giêsu sinh ra là Bêlem (Mt 2,5). Biết đạo chưa đủ, người tin Chúa còn phải đưa cái biết đó vào thực hành. Ðiều cơ bản nhất trong đạo cần được thể hiện là giới răn yêu thương. Giới răn ấy mà đưa ra thực hành thì không riêng người Do Thái nhưng mọi người sẽ hiểu và dễ chấp nhận đạo Chúa dậy.

 

LỄ HIỂN LINH

Mt. 2, 1 - 12

John Nguyễn

1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giê-su, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giê-su nói: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: «Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta» (Gr 29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8,17).

2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem

Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giê-su đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bê-lem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.

Cũng vậy, rất nhiều Ki-tô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giê-su nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.

3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo

Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình» (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9,27).

Chuyện các nhà chiêm tinh - mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc - cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.

4. Thái độ của vua Hê-rô-đê, nhà cầm quyền

Nói tới Hê-rô-đê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: «Đức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị - ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội - có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hê-rô-đê quyết tâm tìm giết con trẻ Giê-su bằng cách «sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những «chiếc ghế» của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng «bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.

Cầu nguyện

Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha - là chân lý, công lý và tình thương - thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.

 

GƯƠNG SÁNG LÀ SAO DẪN ĐƯỜNG

Mt. 2, 1 - 12

Lm Hà Ngọc Đoài

 “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người.”(Mt 2:2) Khi ta ngắm nhìn vũ trụ bao la, công trình tạo dựng của Thiên Chúa, lòng ta tràn đầy niềm vui. Xưa kia, giữa muôn vì sao, Chúa dùng ngôi sao sáng hơn để dẫn đường cho những người thiện tâm biết đến thờ lạy Chúa. Ngày nay, sao lạ mờ dần, thay vào đó nhiều sao sáng sống động, là Kitô hữu, khắp năm châu đang dẫn nhiều người đến với Thiên Chúa. Ngài đã dùng ân sủng để tô đẹp tâm hồn họ và các nhân đức như những tia sáng tỏa ra trong cuộc sống làm chứng nhân giữa lòng đời. Không có một Kitô hữu nào là tầm thường và vô dụng, ngay cả người tàn tật. Tony Melendez là một người tàn tật từ bẩm sinh. Sinh ra thiếu hai tay. Anh không kêu trách than vãn, nhưng biết dùng đôi chân để đánh đàn. Chính nhờ biết dùng "ân phúc bất thường" này mà anh đã đánh đàn cho buổi lễ có hàng ngàn người tham dự khi đức Giáo Hoàng Gioan Phalô ll thăm Los Angeles. Sau khi rước lễ, anh dùng đôi chân ấn lên phím đàn bài ca "Amazing Grace". Tiếng đàn thu hút muôn ngàn đôi mắt hướng về ca đoàn. Tiếng đàn đã khơi nguồn giòng lệ của hàng ngàn người dự lễ. Họ vừa cảm động vừa đê mê. Cảm động vì thấy một người tàn tật thiếu đôi tay, biết dùng đôi chân để phục vụ giờ thờ phượng. Đê mê vì sự chân thành của anh mà tiếng đàn đã giúp nâng tâm hồn của đám đông tín hữu lâng lâng như lên tới thiên đường!

“Nhờ Tin Mừng, các dân ngọai được nên đồng thừa tự trong Chúa Kitô.” (Eph 3:6) Cho dù tội đã làm hoen ố, lu mờ nhiều tâm hồn. Nhưng Chúa vẫn khoan dung, kiên nhẫn ban mùa ân phúc năm nay để ăn năn trở lại và tiếp tục sứ mạng đem ánh sáng của ơn cứ độ cho những ai chưa biết Chúa. Xin thắp lên trong con ánh sáng niềm tin yêu và hy vọng.

Nguồn vietcatholic.org

829    04-01-2015 07:47:17