Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Loan Báo Tin Mừng Hôm Nay - Tháng 08 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN
TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Ngày 20.7.2011

V/v  Loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hôm nay

 

Kính gởi : Các Linh Mục, các Tu Sĩ và Anh Chị Em Giáo dân
                Giáo Phận Vĩnh Long

 

"Các con là ánh sáng trần gian. Sự sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy các công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, là Đấng ngự trên trời" (Mt 5,14-.15).

 

1. Do tự bản tính, Hội Thánh là Thừa Sai, vì đã lãnh nhận sứ mạng nầy từ chính Chúa Kitô, sứ mạng loan báo Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Tinh duy nhất cho trần gian: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu chuộc; còn ai không tin, thì sẽ bị luận phạt" (Mc 16,15-16). Cho tới nay, sau  hơn hai mươi thế kỷ, Hội Thánh có mặt tại  các Châu Lục, có đại diện của Đức Thánh Cha tại hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên còn rất nhiều người  chưa biết Chúa Kitô. Ngay trong Địa phận Vĩnh Long của chúng ta, trên bốn triệu dân chỉ có gần 200.000 người Công Giáo. Nếu xét đến tình trạng giữ đạo, thì cũng phải nhìn nhận có nhiều người bê trễ, rối rắm, đó lại là một trở ngại cho việc loan báo Tin Mừng.

 

2. Không thể có việc phúc âm hóa thật sự nếu không có việc loan báo một cách rõ ràng Đức Giêsu là Chúa (x. 2 Cor 4,5; Tông Huấn Gíao Hội tại Châu Á, 19). Loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho người Do Thái hay cho thế giới ngoại giáo gặp phải nhiều khó khăn (x. chứng từ của Thánh Phaolô, Roma 8,35) và bằng nhiều hy sinh. Nhưng vì xác tín rằng làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô chính là sự phục vụ cao quí nhất mà Hội Thánh có thể cống hiến cho các dân tộc, vì nó đáp ứng nguyện vọng sâu xa của họ là đi tìm Đấng Tuyệt Đối, và khai mở cho họ những sự thật và những giá trị bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của con người, nên  trong suốt hai mươi thế kỷ Hội Thánh vẫn liên tục ra đi gặp gỡ các dân tộc và chia sẻ cho họ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.

 

Ngày nay, Hội Thánh phải vất vả rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho thế giới tục hóa, cho một Châu Âu đang chối bỏ nguồn gốc căn cội Kitô giáo của mình. Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Úc Châu cuối năm 1986, Đức Gioan Phaolô II  đã được một chú bé hỏi ngài: "Thưa Đức Thánh Cha, con muốn biết điều gì làm cho Giáo Hoàng đau khổ nhất ". Đức Thánh Cha đáp lại : "Đau khổ lớn nhất của Giáo Hoàng là thấy nhiều người không đón nhận tình yêu của Chúa Giêsu."

 

3. Tại Việt Nam chúng ta, mọi thành phần Dân Chúa đều cảm thấy trách nhiệm của mình đối với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Điều nầy được nêu lên  trong Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa năm 2010 :

"Hội Thánh Chúa Kitô có mặt trong lịch sử nhân loại với sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong quyền năng Thánh Thần. Cũng thế, Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam có sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô"  (ĐHDC số 2).

Chúng ta đang gặp phải những tình huống thật khó khăn cho việc sống và làm chứng đức tin. Đất Nước của chúng ta đang cố gắng chạy theo đà phát triển của thế giới bên ngoài, nhưng không quan tâm đến việc phát triển nhân cách, phát triển đạo đức. Do đâu mà có tệ nạn tham ô, bất công, bạo hành khắp nơi. Chủ nghĩa tương đối thực dụng lan tràn, khiến người ta nghĩ rằng có thể làm bất cứ điều gì để có lợi, hưởng lợi, miễn là không bị ai bắt gặp, không bị ai nhìn thấy. Thái độ dững dưng đối với  Đạo Nghĩa, xem thường những giá trị đạo đức như tình gia đình gia tộc, tương thân tương ái, đưa tới nguy cơ phá đổ nền đạo đức truyền thống, bất lợi cho việc rao giảng Tin Mừng.

4. Phải chăng đây là lúc chúng ta cần  nghe lập lại lời của Thánh Phaolô: "Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ" (2 Tim 4,2).

Đức Gioan Phaolô II, rồi cả Đức Bênêđitô XVI, thực hiện nhiều chuyến đi đến các Quốc Gia. Để làm gì, nếu không phải là nhằm củng cố các tín hữu trong lòng tin, tinh thần và đức hạnh, và khơi dậy sức sống truyền giáo.

Tuân  theo lệnh truyền của Chúa Kitô "Hãy ra khơi" (Lc 5,4) noi gương các Đức Giáo Hoàng, chúng ta hãy "đến với muôn dân", để phục vụ Nước Thiên Chúa, vương quốc sự thật, sự sống, công chính , yêu thương và bình an

 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
   Giám mục của Anh Chị Em

 

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY

Mọi tín hữu công giáo đều được kêu gọi và có trách nhiệm tham gia vào sứ vụ của Giáo Hội, bắt nguồn từ chính sứ vụ của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Tâm điểm của sứ vụ này là loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu bằng cả con người và cuộc đời mình. Sứ mạng loan báo Tin Mừng cần được thực hiện ở cả ba mức độ. Mức độ thứ nhất là đón nhận và để cho Tin Mừng thấm nhập vào tất cả đời sống Kitô hữu, do đó đòi hỏi tín hữu phải thường xuyên hoán cải và trở về với Chúa. Mức độ thứ hai là đem Tin Mừng đến cho người khác qua lời rao giảng cũng như qua đời sống làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Người. Mức độ thứ ba là đem những giá trị của Nước Thiên Chúa - Vương quốc của sự thật, thánh thiện, công chính, yêu thương, hòa bình - thấm nhập và biến đổi mọi lãnh vực trong đời sống con người (Tài Liệu Làm Việc Của Đại Hội Dân Chúa 2010, số 37).

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Đức Tổng Giám Mục Angelo Comastri - đại diện Tòa Thánh đặc trách đền thánh Đức Mẹ Loreto, miền Bắc nước Ý -  đã nói về mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), sáng lập viên dòng các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái Đã nói về Mẹ Têresa Calcutta như sau: 

 

Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

- "Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?".       

Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:          

- "Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?". Mẹ Teresa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

- "Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!".

Thật vậy, nhiều lần, Mẹ Têrêsa cho nhét vào các lá thư của Mẹ một tấm thiệp nhỏ viết như sau:

"Không cầu nguyện thì không có đức tin,
Không có đức tin thì không có tình mến,
Không có tình mến thì không có phục vụ,
Không có phục vụ thì không có niềm vui, không có bình an."

 

Đó là 4 bước căn bản: Cầu nguyện-Đức Tin-Tình mến-Phục vụ. Kết quả là niềm vui nội tâm và hòa bình trong xã hội. Để đạt được kết quả này, điều kiện tiên quyết là: Cầu nguyện đòi thinh lặng bên trong và bên ngoài. Thinh lặng con mắt, thinh lặng lỗ tai, thinh lặng tâm trí, thinh lặng tưởng tượng. Người ta phải tự tập trung, mở lòng cho sự soi sáng của Chúa. Thinh lặng bên ngoài từ những ồn ào của thành thị, đòi người ta tìm một góc thinh lặng trong căn phòng hay trong công viên.

 

Thiên Chúa nói trong thinh lặng của tâm hồn. Nếu bạn đối diện với Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ nói với bạn. 

 

Có một câu chuyện sống động  Mẹ thường hay nhắc lại khi có dịp:

"Tôi không bao giờ quên, một hôm tôi xuống phố, và chợt thấy vật gì động đậy ở trong rãnh. Tôi gạt bùn đi, và thấy đó là một người. ông ta bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi đem về nhà , chúng tôi phải mất 3 tiếng đồng hồ để lau rửa  cho ông. Người sống dơ bẩn trong rãnh này, sau cùng đã nói:

 

- Tôi đã sống như con vật trên đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một thiên thần, được yêu mến và được săn sóc. Và ngay khi chúng tôi còn cầu nguyện với ông, cầu nguyện cho ông, ông nhìn vào một Sơ mà nói:

 

- Sơ ơi, tôi sắp đi về nhà Chúa, rồi ông chết. Trên mặt ông nở nụ cười rạng rỡ. Tôi chưa hề thấy nụ cười nào giống như thế.

Sức mạnh nào đã giúp Mẹ Têresa Calcutta hăng say dấn bước phục vụ những người cùng khốn nhất, bị hắt hủi nhất? Đây là câu trả lời của Mẹ: "Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta để yêu thương và được thương yêu, và đây là khởi đầu của việc cầu nguyện, đó là biết rằng Ngài yêu thương tôi, tôi được dựng nên cho những gì là cao cả". (sưu tầm)

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về Chủ đề Loan Báo Tin Mừng Trong Hoàn Cảnh Hôm Nay như sau:

  1. Mọi tín hữu đều có nhiệm vụ tham gia vào sứ vụ của Hội thánh
  2. Sứ vụ của Hội thánh là sứ vụ của Chúa Kitô - loan báo Tin mừng bằng cả con người, cả cuộc đời.
  3. Thể hiện sứ mạng bằng ba việc nầy:
    1. Học biết và sống Phúc âm. Không biết thì không nói được, không sống thì nói ai tin?
    2. Rao giảng và biểu lộ bằng đời sống làm chứng...
    3. Rao giảng chính là đem Phúc âm...là Vương quốc của Sự thật, thâm nhập và biến đổi thế giới.

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin hôm 29/05/2011 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã ca ngợi vai trò của các nhà truyền giáo qua các thế kỷ cho đến nay và nêu hai mẫu gương vĩ đại truyền giáo của thời hiện đại là Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II và Mẹ têresa Calcutta.  "Vì bất cứ nơi đâu Tin Mừng đến, cuộc sống khởi sắc, như vùng đất khô cằn, được mưa tuôn tuới, lên màu xanh tươi".

1. Chân phước Gioan-Phaolô II có tên khai sinh là Karol Józef Wojtyla (18 tháng 5 năm 1920 - 2 tháng 4 năm 2005 tức 84 tuổi), là vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Ngài lấy tông hiệu là Giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Cho đến khi qua đời, triều đại của ngài  đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại giáo hoàng dài thứ hai trong lịch sử hiện đại, sau triều đại dài 32 năm của Đức Giáo hoàng Piô IX (31 năm 7 tháng 21 ngày), không kể triều đại của Thánh Phêrô. Do đời sống thánh thiện của Ngài, nên thủ thục phong chân phước được miễn chước khỏi phải chờ đợi thời gian 5 năm sau khi qua đời. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức được phong chân phước do Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI ngày  ngày 1 tháng 5 năm 2011.

 

Ngài còn là vị Giáo hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Giáo hoàng Ađrianô VI năm 1520. Ngài  được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20  và cả những năm đầu thế kỷ 21. Đức Thánh Cha cũng đã phong tước cho 232 vị hồng y, trong đó có một vị 'còn giữ kín', đã bổ nhiệm trên 3 ngàn rưởi trong số gần 4 ngàn 200 vị giám mục trên thế giới. Với 247 chuyến viếng thăm mục vụ trong và ngoài Ý quốc, Ngài đã đi 1.167.295 cây số , trên 28 lần chu vi trái đất hay 3 lần khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng. Ngài có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ (ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt.

 

Trong 14 thông điệp, 14 tông huấn, 11 tông hiến, 42 tông thư và 22 tự sắc chưa kể đến hằng trăm sứ điệp và thư tín khác thì Thông điệp  Sứ Vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio) (4/3/1979) là Thông điệp đầu tiên, khởi đầu và  khái quát về triều đại của Ngài.

 

Theo Đức Hồng Y Georges Cottier , (vị linh mục người Thụy Sĩ dòng Đaminh sinh năm 1922, được ĐTC bổ nhiệm làm thần học gia cố vấn cho Ngài vào 12/1989 và  được Ngài phong tước hồng y ngày 21/10/2003) thì tầm mức quan trọng của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes) đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ĐGH Gioan Phaolô II, khi viết Thông điệïp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế. Hiến chế nầy chủ trương rằng Chúa Kitô gần gũi với hết mọi người khi tỏ mình cho họ nơi mầu nhiệm của Người. Và chỉ ở nơi Chúa Kitô con người mới hoàn toàn nhận thức được bản thân mình. Đó là một tư tưởng được thấy liên tục nơi giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II. Ngài vẫn thường nhắc nhở việc nhận thức được rằng nơi mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô đã liên kết bản thân Người với hết mọi người, cho dù là kẻ hèn mọn nhất, vẫn là một mãnh lực đặc biệt đối với cái nhìn của Ngài (Zenit.org, 7/3/2004).

Theo nhận định của Đức Giám mục Rino Fisichella, viện trưởng Đại Học Giáo Hoàng Lateranô về ĐTC Gioan Phaolô II: "Ngài đã dùng trọn cả giáo triều của mình để giúp cho con người gặp gỡ Đức Kitô". Yếu tố chính yếu để nhìn lại hoạt động mục vụ của Đức Gioan Phaolô II được tìm thấy nơi bức thông điệp đầu tiên của Ngài, "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần", một bức thông điệp Ngài đã viết là "hết mọi con người bất kỳ ai đều được kêu gọi để gặp gỡ Chúa Kitô". Bởi thế, trong cuộc hành trình này, "không ai được ngăn cản Giáo Hội, một Giáo Hội phải loan báo điều ấy". Đây không phải là một giai đoạn mà thực sự là một chương trình sống được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II áp dụng vào hết mọi sự ở khắp nơi trên thế giới (Hội nghị tại Viện Đại Học Lateranô từ 7/5 -10/5/2003).

Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho biết lý do tại sao Ngài cần phải thực hiện quá nhiều cuộc tông du mục vụ: "Ngay từ ngày Tôi được bầu làm Giám Mục Rôma, 16/10/1978, Tôi đã nghe thấy một cách mạnh mẽ và thôi thúc tiếng vọng của lệnh Chúa Giêsu truyền: 'Các con hãy đi khắp thế gian và giảng dạy Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật'. Bởi thế Tôi cảm thấy có nhiệm vụ cần phải bắt chước Thánh Tông Đồ Phêrô, vị 'đã đi đây đó để đến với tất cả mọi người trong họ' hầu củng cố và liên kết tình trạng sinh động của Giáo Hội trong việc trung thành với Lời Chúa cũng như trong việc phục vụ cho chân lý; nói cho hết mọi người biết rằng Giáo Hội yêu thương họ, Giáo Hoàng yêu quí họ, cũng nhờ đó cảm thấy phấn khởi trước gương sáng sống thiện hảo của họ, sống đức tin của họ".

ĐTC nhấn mạnh là những chuyến tông du của Ngài đã làm cho Ngài có thể thực hiện "một việc đặc biệt của thừa tác vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, đó là, trở thành 'đường lối và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình cho mối hiệp nhất trong đức tin và niềm hiệp thông'" (Buổi tiếp kiến 200 người đã cộâng tạc với Ngài trong chuyến tông du mục vụ lần thứ 100 của Ngài vào thứ năm 12/6/2003).

Bởi vì theo ĐTC, một trong những điểm qui chiếu căn bản nhất đối với  Ngài, đó là chú trọng đến con người như là tâm điểm của hết mọi khoa triết lý và thần học: "Chúa Kitô là chân lý giải phóng tất cả mọi người chân thành và kiên tâm tìm kiếm Người. Người là sự thật được Giáo Hội không ngừng loan báo bằng nhiều cách thức khác nhau khi rao giảng một Phúc Âm cứu độ duy nhất cho đến tận cùng thế giới cũng như làm cho Phúc Âm ấy hội nhập vào các miền khác nhau trên thế giới."  (Buổi tiếp kiến của ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Sáu 9/5/2003)

Còn theo ĐHY Roger Etchegaray, Đức Gioan-Phaolô II du  hành rất nhiều bên ngoài nước Ý là "để nói cho thế giới  đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô". Chính vì thế "Đức Giáo Hoàng là một người lữ hành trên các nẻo đường thế giới; nỗ lực mục vụ của Ngài vô giới hạn"(Hội nghị tại Viện Đại Học Lateranô từ 7/5 -10/5/2003).

Trong nổ lực đến với mọi người để Chúa Kitô được mọi người nhận biết, Đức Gioan-Phaolô II rất quan tâm đến thành phần trẻ. Chính Ngài đã lập nên Ngay Giới Trẻ Thế Giới và khuyến khích giới trẻ hãy sống như  "những chứng nhân không chút sợ hãi của Tin Mừng ".  "Hỡi những bạn trẻ, Chúa Kitô cần tới các con để thắp sáng địa cầu, để chỉ cho nhân loại 'nẻo đường đi tìm sự sống (Ps. 16:11). Thách thức mới là các con cần phải thể hiện sự có mặt của Giáo Hội Chúa bằng chính cuộc đời và lối sống cụ thể của các con. Các con hãy sắp sẵn trí khôn, tài năng, lòng nhiệt thành và tình thương của các con để đối diện với đời sống và phục vụ đời sống.

Các con đừng sợ xuống đường để đi tới những nơi công cộng như các thánh Tông Đồ xưa. .. Các con đừng sợ phá vỡ nếp sống tiện nghi và thói quen để chấp nhận thách đố: làm thế nào để khuôn mặt Chúa Giêsu được thế gian biết đến?...." (Diễn từ tại Denver, Colorado, USA, nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 1993).

2. Chân phước Têrêsa Calcutta sinh ngày 26/8/1910 ở Skopje, Albania, với tên Rửa tội là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Vào năm 18 tuổi, được thúc đẩy bởi ý định trở thành một nhà truyền giáo, Gonxha đã bỏ gia đình vào tháng 9/1928 để dâng mình cho Chúa trong Dòng Trinh Nữ Maria, tức tu hội Nữ Tu Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Tại đây chị được đặt tên là nữ tu Maria Têrêsa, để tưởng nhớ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tháng 12/1928, chị  lên đường đi Ấn Độ và tới Calcutta ngày 6/1/1929. Ngày 24/5/1937  Nữ Tu Maria Têrêsa được khấn trọn, để trở thành, như chị nói, "hiền thê của Chúa Giêsu cho đến trọn đời". Từ đó trở đi, chị được gọi là Mẹ Têrêsa.

Bước ngoặc cuộc đời của MẹTêrêsa, sau khi suy nghĩ, cầu nguyện, tham vấn các bề trên, là hiến thân phục vụ người nghèo cách trọn ven hơn nữa, bằng cách sống như người nghèo để lo cho những người nghèo nhất, qua việc lập Dòng Thừa Sai bác Ái, với tu phục là bộ sari trắng viền xanh. Ngày 7/10/1950, hội dòng mới Thừa Sai Bác Ái đã được chính thức thành lập tại TGP Calcutta.  Không đầy 5 năm sau, cộng đoàn được nâng lên thành hội dòng Tòa Thánh, có nghĩa là trực thuộc Đức Thánh Cha. Từ khi thành lập cho tới năm 1997, Dòng Thừa Sai Bác Ái đã có số nữ tu lên đến 4000 người và đã  thiết lập   được 600 cơ sở ở 123 quốc gia trên thế giới.

Sau một thời gian dài tận tụy với những người cùng khốn nhất, vào lúc 9 giờ 30 tối ngày 5/9, Mẹ Têrêsa qua đời ở Nhà Mẹ của Hội Dòng. Mẹ đã được Ấn độ cữ hành quốc táng vào ngày Thứ Bảy 13/9/1997.  Thi hài của Mẹ đã được rước trên chiếc xe đã từng chở thi thể của Mahatma K. Gandhi và Jawaharlal Nehru, qua các đường phố Calcutta. Rất nhiều vị tổng thống, thủ tướng, nữ hoàng và đặc sứ thay mặt các quốc gia trên khắp thế giới đã hiện diện trong cuộc lễ an táng Mẹ. Mẹ đã sống như một người thật nghèo giữa những người cùng khốn và đã chết như một người giàu sang vinh hiển.

Mẹ nhận được sự tôn vinh qua  nhiều giải thưởng:

Giải Padmashri của Ấn Độ, năm 1962.

Giải Hoà Bình của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, năm 1971.

Giải Nêru vì có công thăng tiến nền hòa bình và sự thông cảm trên thế giới, năm 1972.

Giải Nobel Hòa Bình, năm 1979; trong khi đó, các phương tiện truyền thông càng ngày càng ca tụng Mẹ hết lời qua các công việc Mẹ làm.

Mẹ đón nhận tất cả 'vì vinh danh Thiên Chúa và nhân danh người nghèo'.

Mẹ đã từng nói: "Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu Công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian. Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu." 

Với dáng người nhỏ bé, nhưng với một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêxa thành Calcutta được giao phó sứ mạng công bố tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với những người cùng khốn nhất. "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo". Mẹ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước duy nhất: "xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh hồn". Mẹ nói: "Hãy hăng say yêu Chúa Giêsu. Hãy yêu mến Ngài một cách tin tưởng, đừng rụt rè, sợ sệt. Hãy hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu... Hãy thiết tha yêu mến thật nhiều và hãy mến yêu tình yêu không được yêu mến" (Mẹ Têrêsa ngày 2/6/1962).          

Ngay khi còn tại thế, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được tiếng là thánh thiện, là một vị thánh sống, một con người phi thường đối với con mắt của tín đồ Ấn giáo, một con người cứu nhân độ thế trước con mắt của tín đồ Phật giáo. Vì đời sống thánh thiện quá hiển nhiên của Mẹ như thế, đến nỗi, văn kiện tuyên phong chân phước cho Mẹ đã gọi Mẹ là "biểu hiệu của Đức Bác Ái Kitô giáo", và trường hợp của Mẹ đã miễn chước khỏi  phải chờ đợi cho đến sau 5 năm qua đời theo qui định của Giáo Hội Công giáo.  Mẹ Têrêsa được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II chính thức phong chân phước  ngày 19 tháng 10 năm 2003.

 

Đức Giáo Hoàng Giona-Phaolô II nhận  định về Mẹ Têrêsa Calcutta nhu sau:

"Chúng ta đã quá rõ đâu là bí mật của Mẹ, đó là Mẹ được tràn đầy Chúa Kitô, nhờ đó, Mẹ đã nhìn thấy mọi người với con mắt và bằng trái tim của Chúa Kitô... Bởi thế Mẹ đã không ngần ngại 'thừa nhận' người nghèo như con cái của Mẹ".

"Nơi nụ cười, lời nói và việc làm của Mẹ Têrêsa, Chúa Giêsu lại bước đi trên các nẻo đường thế giới như người Samaritanô Nhân Lành".

Hai đấng chân phước Gioan-Phaolô II và Têrêsa Calcutta là hai mẫu gương tiêu biểu truyền giáo thời nay, giúp chúng ta rút ra những bài học để sống tinh thần truyền giáo.

 

Truyền giáo (theo nguyên ngữ tiếng La Tinh là "missio", do động từ "mitere") có nhiểu nghĩa, nhưng thường được hiểu là: gửi đi, sai phái đi, để làm một công tác quan trọng.

 

Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, để cứu độ con người. Chính Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường, để cộng tác với Ngài trong sứ mạng cao cả này.

Như vậy, truyền giáo là ra khỏi chính con người của mình, khỏi cái "tôi" ích kỷ và đầy định kiến của mình và để Chúa lấp đầy tâm hồn, ra đi đến với người khác, nhằm mục đích kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu qua chính đời sống của mình, là sống như Chúa Giêsu đã sống, yêu như Chúa Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa.

Muốn thực hiện công cuộc truyền giáo như thế cần một lòng yêu mến Chúa thiết tha được vun đắp bằng việc cầu nguyện liên lỉ, kết hợp với Chúa, để tình yêu Chúa thúc bách chúng ta đến với anh em bằng cả tấm lòng.

Và khi chúng ta thực hiện theo ý Chúa, hướng lòng trí, tâm tình đến những người cùng khốn nhất là chúng ta thể hiện yêu mến Chúa: "Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,40).  Bởi vì chỉ có yêu thương Chúa hết lòng, chúng ta mới có sức mạnh để yêu thương người khác hết tình!

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc Loan báo Tin Mừng Trong Hoàn Cảnh Hôm Nay như thế nào:

1. Có biết mình có nhiệm vụ cộng tác với Hội thánh không?

2. Có bao giờ nghĩ đến đời sống mình phải rao giảng Tin mừng không?

3. Sống đạo là để được rỗi mà không bao giờ nghĩ sống đạo cũng là làm chứng cho Tin mừng, cho Chúa.

4. Không mấy khi chúng ta nhận định sống đạo, sống Phúc âm cũng là đem nhiều lợi ích cho sống đời.

5. Dám sống đạo, sống Phúc âm lan rộng ra chắc chắn giúp cho cuộc sống trần gian nầy được bình an, được sống yêu nhau và cuộc sống nên tốt hơn.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Theo văn kiện hậu Đại Hội Dân Chúa, sứ mạng loan báo Tin Mừng được thực hiện ở ba mức độ, được cứu rỗi, loan truyền ơn cứu rỗi cho mọi người, và thấm nhuần tinh thần Tin Mừng cho mọi tạo vật. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: "Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, biết tận dụng mọi phương thế Chúa ban trong Hội Thánh, để được ơn cứu rỗi.

2. Chúa phán: "Các con hãy làm cho muôn dân được nên môn đệ của Thầy". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu biết dùng gương sáng, việc đạo đức, và đời sống đức tin mà làm cho mọi người cùng được hưởng ơn cứu rỗi.

3. Chúa phán: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu biết làm cho mọi sự vật trong thế gian được nhuần thấm giá trị Tin Mừng cứu rỗi.

4. Chúa phán: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần con, hãy theo Ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dám thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng, ngay bây giờ và ở đây, mà không hề chần chừ do dự.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được cứu rỗi. Chúa cũng muốn chúng con thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mình, cho mọi người và cho vạn vật. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng ấy.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.  Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

ĐỘNG LỰC TRUYỀN GIÁO

Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ra lệnh các tông đồ "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin mừng nước Thiên Chúa cho muôn dân"(Mt 28,19-20). Lời mời gọi ấy vẫn vang vọng trong đời sống các Kitô hữu từ thời Giáo hội sơ khai cho đến ngày nay. Trải qua hơn 20 thế kỷ, Tin mừng của Chúa đã ngày một lan rộng, nhưng thành quả ấy chưa đáng là bao với dân số trên toàn thế giới ngày nay, vì vậy đòi hỏi các Kitô hữu phải đẩy mạnh công tác truyền giáo nhiều hơn nữa để tin mừng của Chúa có thể được đến với muôn dân.

Nói đến truyền giáo ta phải nói đến động lực đểtruyền giáo.

Truyền giáo không những phát xuất từ lệnh Chúa truyền, mà còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong mỗi người chúng ta. Những ai được tháp nhập vào Giáo hội phải cảm nhận được đặc ân này, vì lý do này mà người tín hữu phải làm chứng cho đức tin cũng như cho đời sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của mình và là một sự đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Con người có quyền được biết sự thật về phẩm giá của mình. Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp "Sứ Vụ Đấng Cứu Thế" số 11 đã  nói "Sự sống mới trong Chúa Kitô là một "Tin Mừng" cho con người nam nữ ở mọi thời đại: tất cả mọi người được kêu gọi đến sự sống mới này và được ấn định để thừa hưởng sự sống ấy". Như thế một cách nào đó Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh đến phẩm giá con người, một phẩm giá cao trọng, phẩm giá là con cái Chúa mang trong mình sự sống thần linh của Thiên Chúa. Phẩm giá ấy hệ tại việc Thiên Chúa yêu thương con người, mời gọi con người thông dự vào sự sống của Ngài, nhờ hồng ân cứu rỗi qua Đức Kitô.

 

Sắc lệnh Truyền giáo của Công đồng Vaticanô II cũng đề ra 3 lí do để truyền giáo đó là:

  • Chúa Giêsu trước khi về trời đã dạy: " Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân: rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28,19-20). Nên Hội Thánh phải vâng lời Đức Kitô mà thi hành sứ mạng truyền giáo cho muôn dân.
  • Chúa dạy: "Hãy đi khắp trần gian rao giảng Phúc Âm cho hết mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu rỗi: còn ai không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16,15). Vì Giáo hội gọi là Công giáo nên phải truyền giáo cho mọi người, ở mọi nơi trên khắp thế giới bởi sứ mạng của đời sống người tín hữu.
  • Với lời mời gọi "Chúng con là muối đất và ánh sáng trần gian" (Mt 5,13-14), nên theo Công đồng Vaticanô 2, "Trong tình trạng thế giới hiện nay đặt nhân loại trong một hoàn cảnh mới, vì thế Giáo Hội, càng được kêu mời khẩn thiết hơn để cứu rỗi và canh tân mọi loài, hầu mọi sự được tái lập trong Chúa Kitô, và nơi Ngài mọi người họp thành một gia đình và một Dân Chúa duy nhất" (Sắc lệnh Truyền giáo số 4) (nguồn: dccthaingoai.com)

Cảm nghiệm sâu xa về tình thương của Thiên Chúa và ý thức về mệnh lệnh truyền giáo của Đức Giêsu, mỗi người cũng phải luôn canh cánh trong lòng như lời thánh Phaolô: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1C 9,16). Và thánh Phaolô còn căn dặn mọi người: "Phải rao giảng Lời, lúc thuận cũng như lúc nghịch" (2Tm 4,1-2).

 

Ước gì mỗi Kitô hữu luôn canh cánh bên lòng mệnh lệnh của Đức Kitô và giáo huấn của Hội thánh để mang trong mình một ngọn lửa nhiệt huyết để dấn thân đem Tin mừng của Chúa đến với mọi người ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh.

 

HỌC KINH THÁNH

 

BÀI 8: SÁCH TÔNG ĐỒ CÔNG VỤ (Tđcv)

 

1/ Sách Tông Đồ Công Vụ có nghĩa là gì?

Tông Đồ Công Vụ là cuốn sách tóm lược việc rao giảng cả cuộc hành trình và bách hại của các Kitô hữu trong buổi đầu sơ khai của Hội thánh. Đây là một câu truyện dài tóm lược những nổ lực của các Tông đồ và môn đệ Đức Kitô đã rao giảng từ Giêrusalem tới Rôma, từ thành thánh tới một kinh đô huy hoàng nhất vào thời đại ấy.

 

2/ Ai là tác giả của sách Tông Đồ Công Vụ?

Theo như nhập đề của cuốn sách thì Thánh Luca là người đã ghi chép lại. Ngài đã đề tặng Têôphilô tác phẩm này (Cv 1, 1) cũng như đã đề tặng trong cuốn Phúc âm (Lc 1, 1).

 

3/ Sách được viết lúc nào?

Việc xác định sách được viết vào năm nào vẫn là một vấn đề còn được tranh luận. Một số tác giả dựa vào chương kết của Tông đồ công vụ (28, 30-31) mà đưa ra giả thuyết là sách phải được viết sau năm 62 là năm Thánh Phalô được trắng án, nhưng không thể muộn hơn năm 80, là những năm mà thư của Thánh Phaolô chưa được phổ biến.

 

4/ Sách Tông Đồ Công Vụ được biên soạn tại đâu?

Theo những biến cố Luca ghi lại nhiều nơi trong sách Tông đồ công vụ nên có thể ngài viết tại Antiochia, Roma hay Êphêsô.

 

Lời Chúa: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tân cùng trái đất". (Cv 8b)

 

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn biết tìm mọi cơ hội để trình bày niềm tin của mình cho những người chung quanh, với niềm xác tín rằng đây là sứ mạng hàng đầu của mình. Amen.

SỐNG ĐẠO

Sống Thế Nào Mới Đúng Là Sống Đạo?

Chúng ta biết đạo là đường, là lề lối, là luật lệ chỉ bảo chúng ta cách sống đạo, cho chúng ta nên người lành, người tốt, người có phẩm giá. Nhưng thử hỏi chúng ta biết sống đạo chưa? Chưa chắc!

 

Dầu chúng ta là con nhà đạo và đã chịu phép Rửa tội, nhưng vì chưa dùng được lý trí và tình yêu nên không biết có Chúa...

 

Lớn lên 3, 4 tuổi cha mẹ dạy đọc kinh Lạy Cha, Kính  Mừng, đọc giỏi, thuộc cả kinh hôm, kinh mai.

 

Tới 6, 7 tuổi, học xưng tội rước lễ, bắt đầu biết Chúa, biết luật Chúa, bắt đầu giữ đạo, nhưng không xác tín, cho nên lối giữ đạo gần như bắt chước người lớn: người lớn làm, mình làm theo.

 

Đến tuổi trưởng thành, nghĩa là đến tuổi mà lý trí và tình cảm khá đủ để phân biệt chân lý và yêu mến những thiện hảo. Trưởng thành mới biết rõ có Chúa phải phượng thờ, có luật Chúa phải tuân giữ để bảo vệ phẩm giá và đạt mục đích tối chung.

 

Nota: Tuổi trưởng thành chúng ta cho là lối 17, 18 tuổi..chưa chắc! Khổng Tử kể 30 tuổi mới trưởng thành: tam thập nhi lập - 30 tuổi mới đứng vững.

 

Cùng một lượt với hiểu biết và nhận định đó lại nhận thấy có những trở ngại, khó khăn trong việc giữ đạo. Chính trong con người mình có những khuynh hướng không tốt; hoàn cảnh xung quanh có rất nhiều tác độâng qua những hình ảnh khiêu khích; lại ma quỷ quyến rũ.

 

Giữ đạo ít nhiều phải chiến đấu. Thực tế đòi hỏi, nhưng nhiều khi chúng ta không chú tâm. Có khi chúng ta giữ đạo vì sợ Chúa phạt và mong Chúa ban phước. Đó chưa hẳn là sống đạo!

 

Sống đạo là xác tín có Chúa, biết Chúa là Đấng Tạo Dựng và đã ra chỉ thị cho mình sống, mến Chúa, sống theo ý Chúa, thì kể là sống đạo chính đáng. Sống như thế mới bảo vệ được nhân phẩm của mình và chắc được hạnh phúc tối chung mà Chúa hứa ban.

 

Có biết sống đạo và thể hiện đời sống đạo chưa?

Sống Hiệp Lễ

Hễ có thờ thì phải có cúng, cúng là dâng lễ vật để tỏ lòng tôn thờ. Có giây phút nào mà chúng ta nói được là khỏi thờ Chúa? Thờ thường xuyên thì phải cúng thường xuyên. Nhan đèn đã đành, mà hoa quả cũng phải liệu sao cho có thường xuyên trên bàn thờ, giường thờ.

Thánh lễ đáng lý cũng phải thường xuyên như thế! Làm sao thực hiện?

Lời của chủ tế: "Lễ đã xong chúc anh chị em đi bằng yên". Chúng ta hiểu: lễ chấm dứt rồi anh chị em hãy trở lại với cuộc sống bình thường... Hiểu như thế là sai. Phải hiểu "Ite, missa est" là hãy tiến vào đời, đem tâm ý tôn thờ dâng lễ cho mọi người, chính chúng ta cũng phải thường xuyên hoá thánh lễ. Đó là Sống Hiệp Lễ.

Trong thánh lễ, đúng ra vật lễ hiến dâng là nhân tính của Chúa Giêsu và chính bản tính của con người chúng ta làm vật lễ hiến tế. Việc hiến tế tôn thờ Chúa phải thường xuyên, của lễ cũng phải thường xuyên, làm cho thánh lễ được thường xuyên! Đó là Sống Hiệp Lễ.

Thánh Phaolô đã nói: "Dầu ăn, dầu uống, dầu làm bất cứ việc gì, hãy làm cho sáng danh Chúa". Chúng ta có thể đổi ý đôi chút: dầu ăn uống, ngủ nghỉ vui chơi...bất cứ công việc gì...chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu, nhớ mình lệ thuộc tôn thờ Chúa, tuân phục yêu mến, sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống yêu mến Chúa.

Sống như thế là Sống Hiệp Lễ, biến đổi con người hèn kém chúng ta nên con cái Chúa, bảo đảm được cuộc sống thánh thiện, và chắc được hạnh phúc chân thật vĩnh cữu.

Đời sống con người là một thánh lễ, vinh hạnh quá! Phước lạc trên những mong ước.

ĐỜI SỐNG LINH MỤC LÀ PHỤC VỤ

Điểm đáng mến đáng phục trong đời sống linh mục là phục vụ. Linh mục đã được Chúa gọi và trao cho nhiệm vụ thì con người linh mục không còn thuộc về mình nữa mà hoàn toàn thuộc về Chúa. Sứ mạng Chúa giao phó, có thể nói là phục vụ nhân loại, đúng hơn trước tiên phục vụ con cái Chúa.

Chúa không chọn linh mục để cai trị, tổ chức nhưng có thê nói: Chúa sai các linh mục để phục vụ các linh hồn.

Ban bí tích Rửa tội: đó là phục vụ cho con người được sinh ra.

Bí tích Thêm sức: phục vụ cho người lớn lên

Bí tích Thánh thể: phục vụ bàn thánh, dọn bàn, dọn của ăn cho con cái Chúa.

Bí tích Giải tội: phục vụ cho con cái Chúa khỏi bịnh tật linh hồn.

Đến giở kể là sau hết, bí tích Xức dầu đòi hỏi bất cứ giờ nào, lúc nào, linh mục phải luôn túc trực giúp đỡ, giúp cho tín hữu chuẩn bị ra trước toà Chúa.

Bí tích Hôn phối, linh mục phục vụ cho tuổi trẻ sống gia đình hợp pháp, hợp lý; sống đúng theo ý Chúa.

Linh mục phải phục vụ dạy con chiên biết Chúa, sống theo luật Chúa; những con chiên lạc phải tìm kiếm, vác trên vai đem về; những người ngoài ràn, cũng phải cố gắng sao cho chúng qui tụ cùng nhau.

Đúng là đời sống phục vụ. chúng ta ít nghĩ đến, ít nhớ ơn, và ít cầu nguyện cho ngài chu toàn nhiệm vụ!

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

CHA SỞ (tt)
(đ. 519-544)

 

5. Nhiệm Vụ Của Cha Sở (đ.528-530)

  1. Nhiệm Vụ Giảng Dạy (x. NSMV GPVL tháng 6). 
  2. Nhiệm Vụ Thánh Hoá (x. NSMV GPVL tháng 7).
  3. Nhiệm Vụ Cai Quản (đ.529)

Nhiệm vụ cai quản của cha sở là một trong ba nhiệm vụ do chức thánh linh mục thừa tác và do chức vụ là cha sở. Từ điều 529 và các điều tiếp theo của bộ Giáo luật 1983, đề ra những nhiệm vụ đặc biệt và những nhiệm vụ khác gắn liền với chức vụ cha sở, trong việc cai quản họ đạo. Điều 529 dạy rằng:

Để nhiệt thành chu toàn trách nhiệm chủ chăn, cha sở phải cố gắng tìm hiểu các tín hữu đã được trao cho ngài coi sóc; ngài cũng  phải đi thăm các gia đình, chia sẽ những nỗi lo âu, nhất là những ưu tư và tang tóc của các tín hữu, bằng cách nâng đỡ họ trong Chúa và sửa dạy họ cách khôn khéo, nếu họ sai sót cách nào đó; ngài phải giúp đỡ những người đau yếu, nhất là những người đang hấp hối với một lòng bác ái vô biên, bằng ân cần ban các bí tích tăng sức cho họ và phó dâng linh hồn họ cho Thiên Chúa; ngài phải đặc biệt quan tâm đến những người nghèo, những người bệnh tật, những người cô đơn, những người tha hương, cũng như đang gặp những khó khăn đặc biệt; ngài cũng phải ra sức nâng đỡ các bậc vợ chồng và các bậc cha mẹ trong việc chu toàn bỏn phận riêng của họ và phải cổ vũ sự thăng tiến đời sống Kitô giáo trong gia đình (đ.529§1).

Cha sở phải nhận biết và cổ vũ phần đóng goáp riêng của giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội, bằng cách cổ động các hội đoàn của họ nhằm các mục tiêu tôn giáo, Ngài phải cộng tác với Giám Mục của mình và với linh mục đoàn của giáo phận, ngài cũng phải làm sao để các tín hữu biết quan tâm đến sự hiệp thông trong giáo xứ, để họ cảm thấy mình vừa là thành phần của Giáo Hội phổ quát, và để họ biết tham gia và nâng đỡ những công cuộc nhằm mục đích cổ vũ sự hiệp thông đó (đ.529§2).

Điều luật trên phát hoạ một khuôn mẫu cha sở thật lý tưởng. Chúng ta có thể tóm lại những nhiệm vụ đó như sau:

Triệt 1: Cha sở với các thành phần khác nhau của đoàn chiên:

Cha sở là chủ chăn nên cần phải biết từng con chiên của mình, tiếp cận với họ trong thực tế đời sống; cha sở sẽ viếng thăm các gia đình, các nơi lao động, các môi trường sinh thái riêng biệt, để biết rõ, hiểu rõ hoàn cảnh của mỗi người mà giúp đỡ phần hồn phần xác (người đau yếu, hấp hối, tang tóc, người cô đơn, tha hương...);

Cha sở không phân biệt đối xử với con chiên, không tính toán sang hèn, không khinh bần trọng phú, ngược lại, hãy tận tâm tập trung dành ưu tiên cho người nghèo là người cần đến Giáo hội nhiều hơn;

Khi cần phải sửa dạy, cha sở chú ý đến thanh danh, hoàn cảnh, mà hành động cách hữu lý, tích cực xây dựng, nghĩa là có lợi hơn có hại (x. 2Cr. 7,9), và làm nơi khác hơn là nơi toà giảng;

Cha sở nên dành nhiều thời giờ để mục vụ cho các gia đình Công giáo, nhất là những gia đình hôn nhân khác đạo để họ chu toàn bổn phận với nhau cũng như giáo dục con cái trong đức tin của Giáo hội. i

Triệt 2: Cha sở với các cộng sự viên của mình trong nhiệm vụ cai quản:

Trong công việc của cha sở, có sự cộng tác của các cá nhân và của các hội đoàn tuỳ theo vai trò của mỗi thành phần, đó là điều đáng khích lệ. Kể từ Công đồng Vat. II, Hội thánh mong muốn các cha sở như là những viên gạch nối để xây dựng họ đạo thành một cộng đoàn đức tin sinh động, một sự hiệp thông trọn vẹn không những ở tại họ đạo, mà còn trong Địa phận và với Hội thánh toàn cầu nữa (xem thêm Vat. II, sắc lệnh về đời sống linh mục, về tông đồ giáo dân, về hoạt động truyền giáo).

Những nhiệm vụ khác trong việc cai quản của cha sở:

1/. Của dâng cúng (đ. 531)

Theo truyền thống hợp pháp lâu đời trong Hội thánh, khi cử hành các bí tích và á bí tích, các tín hữu có thói quen dâng cúng giúp nhà thờ (khác với bổng lễ), có khi là tự ý tự nguyện, có khi là lệ phí có tính công bình bắt buộc. Trong Giáo luật hiện nay, cả hai trường hợp trên được gọi là của dâng cúng. Theo tinh thần của CĐ Vat. II, của dâng cúng nhân dịp các công việc phục vụ thiêng liêng (cũng như trong những trường hợp khác) phải được coi là thuộc về họ đạo, trừ khi người dâng cúng minh nhiên dâng biếu cho cha sở (x. thêm "Chú giải mục vụ" của cha Ng. Ngọc Thử và Vat. II, PO.20).

2/. Đại diện pháp lý (đ.532):

Pháp nhân bao giờ cũng có thể nhân (cá thể hay tập thể) đại diện cho nó trước pháp luật và hành động nhân danh nó (x.đ.98§2 và 118). Cha sở đương nhiên là đại diện pháp lý của họ đạo vì là người đứng đầu của họ đạo. Hơn nữa, điều 532 quy định cách rõ ràng ngài là đại diện pháp lý của họ đạo (chỉ có ba nố nói rõ người đại diện pháp lý trong Giáo luật: Giám mục (đ.393), giám đốc chủng viện (283§2) và cha sở (đ. 532) mà thôi).

Cha sở đồng thời cũng là quản trị viên bẩm sinh các tài sản của họ đạo, nên phải quản trị theo luật định ở các điều 1281-1288. Vì là người quản trị, quản lý chớ không phải là chủ sở hữu của tài sản họ đạo, nên ngài cần có sự cộng tác của giáo dân (HĐ kinh tế của họ đạo) nếu cần thưa kiện hay hầu toà đời về vấn đề tài sản vật chất của họ đạo (x.đ.1288); quản trị viên cũng phải được phép của Đấng bản quyền về những thay đổi, mua bán, chuyển nhượng... tài sản mà mình đang quản trị. Vì vậy, nếu cha sở quản trị sai, hoặc có hại nặng cho Hội thánh, thì đó sẽ là lý do để ngài có thể bị bãi chức (x.đ.1741§5).

3/. Cư sở (đ.533)

Nhằm bảo đảm cho việc chu toàn các nghĩa vụ mục tử trong họ đạo, điều 533 buộc cha sở phải cư trú trong nhà xứ gần nhà thờ. Thêm vào đó, sách CNLM, 27.j nói rõ hơn: "đối với các chủ chăn, việc cư trú tại nhiệm sở là một đòi buộc gắn liền với nhiệm vụ của mình". Vì vậy, điều 1396 xem việc vắng mặt bất hợp pháp là điều đáng khiển trách và có thể bãi chức nếu đã được nhắc nhở mà không thay đổi. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt vì lý do chính đáng, Bản quyền sở tại có thể cho phép cha sở trọ ở nơi khác, miễn là phải dự liệu sao để các nhiệm vụ thuộc họ đạo được chu toàn cách chu đáo và đắc lực.

Luật phổ quát cũng dự liệu cho phép cha sở mỗi năm được đi nghỉ một tháng liên tiếp hay đứt đoạn - không kể những ngày đi tĩnh tâm, trị bệnh (x.đ.533§2). Điều luật nầy được CĐ Vat. II (số 20, sắc lệnh về đời sống linh mục) du nhập từ luật lao động của các quốc gia ở Tây phương. Nhưng không phải ai cũng được hưởng vì các linh mục coi họ đạo không tìm ra người thay thế cho mình lúc vắng mặt, vì trên hết luật vì "phần rỗi các linh hồn" mà các linh mục là người chăn dắt nên không thể để cho đoàn chiên bơ vơ được.

Ngoài ra, điều luật trên cũng nói thêm khi cha sở đi vắng khỏi họ đạo một tuần lễ thì phải xin phép và có sự ưng thuận của Đấng bản quyền (x.đ.533§2; CNLM.27,J; Com., 1982,tr.225); nếu đi vắng khỏi họ đạo trên ba ngày phải thông báo với cha Quản hạt (x.QC LM GPVL).

(Còn tiếp)

Nguồn: Bộ Giáo luật 1983; Cha Nguyễn Ngọc Thử, Chú giải mục vụ và pháp lý; Phan T. Thành, Giải thích Giáo luật; John P. Beal et al., New Commentary on the Code of Canon Law).

 

TRANG LINH MỤC

Loan Báo Tin Mừng Trong Thời Đại Hôm Nay

Thi hành lệnh truyền

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền lại và mong muốn các môn đệ của mình thực hiện sứ vụ: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin mừng nước Thiên Chúa cho muôn dân"(Mt 28,19-20). Lệnh truyền của Chúa Giêsu luôn vang vọng đối với tất cả mọi tín hữu và đặc biệt là những người theo Chúa trong ơn gọi tu trì. Ngay từ thời kỳ đầu, các Tông đồ đã hăng say với sứ vụ mà Chúa Giêsu đã giao phó và với sự nhiệt tình này, các Ngài đã quy tụ được số người tin theo Chúa mỗi ngày một đông. Dù trong hoàn cảnh nào, Giáo hội ngày nay vẫn luôn tha thiết kêu gọi mọi người hãy lên đường làm nhân chứng cho Tin mừng, đem Tin mừng của Chúa đến với những người chưa nhận biết.

Tất cả mọi người Kitô hữu đều được mời gọi tham gia vào sứ vụ truyền giáo. Ngay khi lãnh nhận bí tích rửa tội, mỗi chúng ta đã mang trong mình một trọng trách, đó là sống và loan báo Tin mừng nước Thiên Chúa. Cuộc sống với muôn vàn những lo toan và vất vả về cơm áo gạo tiền đã lôi cuốn người tín hữu vào. Điều này đã làm cho các tín hữu không còn nhớ trách nhiệm truyền giáo của mình. Vì thế mà ngày nay sứ vụ truyền giáo dường như hoàn toàn do những tu sĩ đảm trách và được coi là công việc của các tu sĩ, những người môn đệ của Chúa Kitô trong thời đại này.

Ngày hôm nay, chúng ta là những người đang bước theo Chúa Kitô trên con đường dâng hiến. Vì thế một cách nào đó, buộc chúng ta phải lên đường thi hành sứ vụ, làm cho nước Chúa được hiện diện khắp nơi và muôn người được đón nhận Tin mừng.

Những trăn trở về hành trang

Chúng ta không thể cho người khác những thứ mà mình không có. Muốn mời gọi mọi người đến với mình, trước hết phải có cái gì đó để cho họ. Cho ở đây không nhất thiết là cho về vật chất, nhưng có thể cho những cái mang giá trị tinh thần. Trong hành trình truyền giáo, chúng ta không biết trước được sẽ đi trong bao lâu, có khi phải đi suốt cuộc đời. Lịch sử đã cho chúng ta thấy, có những nhà truyền giáo ra đi mà không có ngày trở về quê hương. Họ sẵn sàng hy sinh thân mình, để đổi lại Lời Chúa được sinh sôi nảy nở ở nơi mình đến.

Nhắc lại lịch sử để chúng ta thấy rằng phải chuẩn bị những gì cho chuyến đi xa. Chúng ta cũng đừng quá lo lắng, bởi vì chắc chắn trong bước đường truyền giáo của chúng ta luôn có Chúa đồng hành và chuẩn bị cho chúng ta những thứ cần thiết. Trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đi, Người cũng đã dặn các ông là đừng mang theo bao bị mà hãy đi người không. Hay như trong chuyến truyền giáo đầu tiên của các môn đệ, vì muốn cho tất cả các dân tộc đều nhận biết Tin mừng, Chúa Thánh Thần đã ban cho các ông được ơn nói tiếng lạ, để các ông có thể đến được với các dân tộc khác nhau (Cv 2, 1-13). Cũng vậy, ngày nay chúng ta lên đường để truyền giáo, cũng đừng mang cho mình quá nhiều những thứ không thật cần thiết. Vì nếu mang theo nhiều đồ đạc sẽ chỉ làm vướng bận và sẽ níu chân chúng ta trên bước đường truyền giáo. Chúng ta cũng phải xác định mục đích của chúng ta là gì trong việc truyền giáo. Nếu xác định được mục đích ấy, chúng ta sẽ biết mình phải chuẩn bị những gì. Truyền giáo được hiểu là loan báo Tin mừng Phục sinh của Chúa Giêsu cho những người chưa nhận biết. Vì vậy, điều cần thiết mà chúng ta phải có đó là kiến thức và sự hiểu biết về Thiên Chúa. Sứ vụ truyền giáo là giới thiệu cho người khác biết về Chúa Giêsu Kitô. Muốn cho người khác dễ dàng đón nhận Tin mừng, chúng ta cần phải có đời sống giống như Chúa Kitô. Như vậy, ngoài kiến thức ra, chúng ta cũng cần phải có một đời sống nhân bản tốt, một con tim biết yêu thương và một đời sống nhiệm nhặt trong kỷ luật. Đời sống của chúng ta trở nên như một tấm gương, để qua chúng ta, người khác có thể nhận ra được hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta phải thể hiện làm sao để cho người khác hình dung được Thiên Chúa là một Đấng gần gũi, đầy yêu thương, hiện diện thật trong cuộc sống chứ không phải là một Đấng xa lạ.

Công cuộc truyền giáo là một công việc hết sức khó khăn. Để có được kết quả tốt, mỗi người chúng ta phải tự trang bị cho mình một tinh thần nhiệt huyết, sẵn sàng dấn thân vào những nơi có thể nói là nguy hiểm nhất, không tháo lui khi gặp khó khăn gian khổ. Để qua chúng ta nhiều người được đón nhận Tin mừng và được sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa.

Những khó khăn gặp phải trên bước đường truyền giáo

Truyền giáo là đến những vùng đất mới, đến những nơi xa lạ với cuộc sống thường ngày của chúng ta. Khi nói đến truyền giáo chúng ta nghĩ ngay đến việc ra đi. Ra đi đến những biên giới mới, đến với những nơi mà ánh sáng Tin mừng chưa được hiện diện. Vì vậy, không thể tránh khỏi những khó khăn nhất định. Những khó khăn đó có thể đến từ thiên nhiên và cũng có thể đến từ con người. Trong bài viết này, tôi chỉ đưa ra một vài rào cản mà chúng ta dễ dàng gặp phải trong bước đường truyền giáo.

Cản trở đầu tiên chúng ta gặp phải đó là cản trở về văn hoá và phong tục tập quán. Mỗi dân tộc, mỗi vùng, mỗi miền đều có những nét văn hoá và những phong tục riêng. Để tránh được sự va chạm này, chúng ta cần phải hết sức khéo léo, phải biết hòa vào và phải biết dung hòa giữa cái cũ và cái mới. "Đáo giang chọn khúc, nhập gia tuỳ tục", thật đúng trong trường hợp này. Chúng ta không thể áp đặt cái mới, cũng như ngay lập tức có thể thay đổi được những thói quen đã có từ bao đời của một dân tộc. Muốn cho người ta đón nhận cái mới, chúng ta phải đi từng bước một. Chúng ta phải ta biết nương theo những giá trị cũ để lồng vào những giá trị mới. Có như vậy, người ta mới dễ dàng đón nhận cái mới và không bị sốc. Ngày nay danh từ "Hội nhập văn hoá" đã được sử dụng rộng rãi. Các dân tộc nhờ sự hội nhập mà ngày càng đến gần nhau hơn. Cũng vậy Tin mừng muốn đến được với mọi người và mau chóng sinh sôi nảy nở thì cũng cần thiết phải hội nhập.

Chúa Giêsu là một tấm gương của sự hội nhập văn hoá. Trước khi bắt đầu cuộc đời rao giảng. Chúa đã học sống theo những phong tục và tập quán của người Do Thái. Chúa Giêsu đã sống lề luật và tuân thủ theo những quy định của giáo quyền cũng như thế quyền một cách triệt để. Để cho giống như dân chúng, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả. Người cũng đóng thuế thập phân cho nhà cầm quyền như những công dân khác.

Cản trở thứ hai đó là sự đối đầu với những tôn giáo bản địa. Đây thực sự là một vấn đề nhạy cảm. Chúng ta không thể ngày một ngày hai mà thay đổi được niềm tin tôn giáo của một con người. Tin mừng của Chúa không thể áp đặt mà để cho mọi người tự khám phá và tin theo. Bất cứ một tôn giáo chính thống nào cũng dạy người ta phải ăn ngay ở lành, không tôn giáo nào lại dạy phải làm điều xấu. Vì vậy, nếu chúng ta là những người đến sau, thì chúng ta phải tôn trọng về vấn đề tự do tín ngưỡng của người dân nơi mà chúng ta đến. Trong những trường hợp này, muốn ánh sáng Tin mừng hiện diện, chúng ta nên kiên nhẫn chờ đợi thời gian, "Mưa lâu thấm đất". Công việc truyền giáo mà chúng ta nhắm tới không phải ngày một ngày hai mà có thể có kết quả, mà phải là một quá trình lâu dài.

Thực tế cho thấy có những chuyến truyền giáo theo kiểu mì ăn liền, khua chiêng múa trống rất to, nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi tắt ngúm. Truyền giáo theo kiểu này thực sự không mang lại hiệu quả. Truyền giáo thực sự không phải như vậy, nếu chúng ta chỉ gieo xuống rồi bỏ đó, thì Đức tin của những người mới đón nhận Tin mừng không thể bén rễ sâu được. Chỉ cần một biến cố nào đó xảy đến với họ trong cuộc sống, họ sẽ bỏ đạo. Thật là uổng phí công sức chúng ta bỏ ra. Vì vậy, để đức tin được vững chắc trong vùng đạo mới, ngoài gieo vãi, chúng ta còn phải chăm bón và săn sóc. Chăm bón có thể bằng những sinh hoạt về đạo, chẳng hạn như: Tổ chức các hội đoàn, các nhóm sống đạo, hay các lớp giáo lý...

Một điều rất tốt để giữ được niềm tin cho những người mới đón nhận Tin mừng chính là sự hiện diện của chính chúng ta. Không có gì sống động và thu hút người khác cho bằng chính đời sống của chúng ta. Qua đời sống của chúng ta người khác có thể nhận ra ánh sáng Tin mừng. Trong thời của thánh Đaminh, để lôi kéo được những người theo lạc giáo trở về chính đạo, ngoài việc giảng thuyết, Cha Đaminh đã dùng chính đời sống của mình để làm gương cho giáo dân. Ngài cũng đi chân đất và thực hiện việc ăn chay hãm mình như phái lạc giáo. Chính đời sống nhiệm nhặt của mình, cuối cùng thánh Đaminh cũng đã thuyết phục được rất nhiều những người theo lạc giáo trở lại với chính đạo.

Một trở lực mà chúng ta sẽ gặp phải trong công cuộc truyền giáo đó là vấn đề về ngôn ngữ. Thế giới ngày nay như xích lại gần nhau hơn. Con người đang sống trong quá trình toàn cầu hóa. Công việc truyền giáo của chúng ta ngày càng được mở rộng không chỉ gói gọn trong một quốc gia, mà còn mở rộng ra phạm vi thế giới. Chính vì vậy, vấn đề về ngôn ngữ đóng một vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu. Chúng ta không thể nói cho người khác hiểu được nếu như chúng ta không biết ngôn ngữ của họ. Rất nhiều trường hợp chúng ta không thể dùng được tiếng Anh (ngôn ngữ mang tính quốc tế). Bởi vì việc truyền giáo thường nhắm tới đối tượng là số đông chứ không phải là một tầng lớp nào mà thôi. Theo chia sẻ của một Linh mục sau chuyến truyền giáo tại Hàn Quốc cho biết: khó khăn lớn nhất cha gặp phải đó là vấn đề ngôn ngữ. Khi mới sang vì không biết tiếng Hàn, nên mọi việc đều phải có người hướng dẫn, từ việc đi lại cho đến các giao tiếp thông thường. Trước khi sang Hàn, cha chỉ chuẩn bị vốn tiếng Anh. Nhưng khi sang đó tiếng Anh không thể sử dụng, vì đa số người dân đều nói tiếng bản địa, chỉ có một số ít nói được tiếng Anh. Cha kết luận một câu: "Thật như đứa trẻ lên ba, mọi thứ đều phải tập lại từ đầu". Như vậy chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng của ngôn ngữ. Để việc truyền giáo ngoài biên giới quốc gia được thành công, ngoài việc phải hiểu biết về nền văn hóa của đất nước sở tại, chúng ta cũng cần phải biết ngôn ngữ của đất nước họ.

Trên đây chúng ta mới chỉ đề cập đến việc truyền giáo ra nước ngoài. Nhưng còn việc truyền giáo trong nước thì sao? Đây cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Đất nước Việt Nam chúng ta là một đất nước đa sắc tộc với con số 54 dân tộc cùng sinh sống. Hiện nay, theo số liệu thống kê, trong cả nước mới có khoảng

TRANG TU SĨ

NÓI VỀ CHÚA CÓ KHÓ KHÔNG?

 

Dòng Mến Thánh Giá theo Đức Cha Lambert,  không chỉ dừng lại ở việc yêu mến Thánh Giá Chúa nhưng còn phải là Hội Dòng tông đồ thừa sai hướng về việc truyền giáo cho lương dân.

 

Bước chân vào dòng, tôi đã được học thuộc lòng linh đạo ấy. Các Dì giáo dạy tôi dâng những hy sinh, hãm mình để cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được biết Chúa. Điều này cũng dễ, và tôi cứ làm theo thói quen trong từng ngày sống, vì thực ra tôi chưa được cơ hội đi truyền giáo ở các họ đạo. Cho đến một hôm, chỉ còn 30 phút nữa là tới giờ xe chạy, tôi mới sực nhớ mình chưa đăng ký chuyến xe Tp. Hồ Chí Minh - Bến Tre. Với tư cách là " Dì Phước", hơn nữa Nhà Dòng là khách thường xuyên của chủ xe, nên chỉ cần điện thoại thì có người lập tức đến chở ra xe liền. Hành khách đã gần đủ, vậy mà bác tài vẫn cho tôi ngồi ghế trước. Yên phận trên ghế, tôi định ngủ một giấc sau một đêm thức trắng thì bất chợt một người phụ nữ vội vàng lên xe, nhất định đòi ngồi chỗ tôi với lý do bà đã đăng ký trước ba ngày để được ngồi ghế này. Bác tài khư khư:

Bà xuống đằng sau đi, có ghế trống. Tới sau mà la lối, ở đây có người rồi.

Mấy người làm ăn kiểu gì vậy? Sao lúc tôi điện thoại không nói trước đi?

Anh tài phụ xen vào:

-     Người ta đặt trước cả tháng rồi bà ơi!

Nhưng người phụ nữ vẫn chẳng thèm để ý, cương quyết đòi ngồi "ghế nhất" cho được.

Hơi áy náy tôi đứng lên:

-     Cô ngồi đi! Con xuống dưới cho.

Anh tài phụ bực bội:

-     Dì cứ ngồi đó. Kệ bà ta!

-     Không sao, con ngồi dưới được mà.

Tôi đáp và nhanh chóng di chuyển lại phía sau. Lúc này xe mới hết nhốn nháo. Không khí cởi mở, thân tình hơn, bà già băng trước quay lại nhìn tôi:

Mình có đạo mà hen con. Hơn thua gì chỗ ngồi ha!

Tôi dạ thật nhỏ vì chỉ có tôi mới biết mình chính là nguyên nhân của vụ lộn xộn vừa rồi.

Xe bắt đầu lăn bánh, một bà bác ngồi bên cạnh hỏi thăm:

-     Quê con ở đâu?

-     Dạ, ở ngoài miền trung.

-     Xa dữ. Mà con vô đây chi vậy?

-     Con đi tu.

-     Hèn gì...

Câu nói bỏ lửng của bà bác làm mấy người xung quanh không ai hiểu chuyện gì nhưng chỉ có tôi và bà bác hiểu,  chúng tôi nhìn nhau cười thân thiện. Chẳng mấy chốc, mọi người xung quanh thay nhau hỏi về đời tu. Chị bên kia cũng quay qua chỉ vào sợi dây Thánh giá tôi đang đeo hỏi:

-     Bộ đi tu ai cũng phải đeo sợi dây bự này hả?

Tôi mĩm cười

-     Dạ, không bắt buộc. Nhưng Nhà Dòng em khuyên nên đeo Thánh Giá để nhớ Chúa.

-     Chị không theo đạo Chúa, chị hỏi em đừng buồn nha! Sao em đi tu vậy, bộ thất tình hả?

-     Dạ không, em đi từ hồi học lớp 10, sao thất tình được chị.

-     Ủa vậy hả? Chị thấy em cũng được, đi tu uổng quá!

-     Có gì đâu mà uổng chị ...

Cứ thế tôi giải thích cho chị những thắc mắc về đời tu, về đạo Chúa, tôi tâm sự với chị những lý tưởng, nói với chị những cảm nghiệm về tình yêu Chúa. Chẳng biết Chúa có tác động đến chị không, nhưng ánh mắt chị nhìn tôi rất chăm chú như muốn khắc sâu tùng lời tôi nói. Rồi chúng tôi cùng nhau lắng nghe xung quang: nổi lo của bà mẹ dành cho thằng con trai đang tuổi mới lớn chỉ thích quậy phá, sự túng thiếu của bà cụ bị sỏi mật chẳng đủ tiền chữa trị, cả những băn khoăn cơm áo gạo tiền thường ngày ... Chị chép miệng:

-     Cứ như em, khỏe, chẳng lo lắng sự đời." Chị cũng kể cho tôi những khó khăn do công việc làm ăn của chị, những tâm tư tình cảm đời thường ... Em có tiếc khi từ bỏ tất cả để đi tu không?

-     Dạ không đâu. Tôi cười.

-     Từ bỏ để được lại đó chị. Giống như em bỏ chỗ ngồi trên kia, xuống đây lại được nói chuyện với chị vui vẻ nè!

 

Chị trầm ngâm suy nghĩ . Một khoảng lặng dài, tôi tranh thủ ngủ một chút thì chị lên tiếng

-     Hôm nay được gặp em giống như có duyên vậy đó! Vài bữa nữa về lại Sài Gòn chị sẽ đi nhà thờ. Giờ chị chuẩn bị xuống xe rồi. Thỉnh thoảng chị sẽ về đây, hy vọng lại gặp em.

Rút ra cái bao thơ, chị trao cho bà bị sỏi mật trước sự ngơ ngác của những người xung quanh

- Con biếu bà chút ít để uống thuốc. Mong bà nhận.

Ghé tai tôi, chị nói nhỏ

-     Từ bỏ để được lại đấy mà.

Chuyến xe ấy đối với tôi như một lời nhắc nhở. Người ta nhận ra tôi là tu sĩ khi nhìn trang phục, Thánh Giá tôi đeo, nhưng chính cách sống của tôi mới nói với họ đời sống tôi có Chúa hay không. Chẳng biết rồi chị ấy có theo đạo hay không nhưng từ đó tôi ý thức hơn khi nghiệm ra rằng chỉ cần tình yêu Chúa với một chút thành tâm thiện chí, tôi sẽ có biết bao cơ hội nói về Chúa và đem tình yêu Chúa đến cho mọi người một cách tự nhiên, dễ dàng như thế.

Mtg Cái Nhum 

LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG HOÀN CẢNH HÔM NAY

- Mẹ ơi! Sao lần nầy về, con không thấy Thắm sang chơi hở mẹ?

- Nó đi Thành phố làm mấy tháng nay rồi con à!

- Nó làm gì, ở đâu vậy mẹ?

- Mẹ nghe nói nó làm ở khu chế xuất Tân Thuận gì đó. Đi suốt mấy tháng mới về một lần. Mỗi tháng hổng biết được bao nhiêu tiền mà nghe Dì Tám con bảo: thỉnh thoảng nó gởi tiền về cho Dì Tám con. Tội nghiệp con nhỏ. Nhà có một mẹ một con, nó hổng muốn đi xa bỏ mẹ nó 1 mình, mà ở nhà thì đất đai không có, không có việc gì làm. Làm mướn thì khi có khi không ... Cũng cầu xin cho nó biết đọc kinh cầu nguyện, xin Chúa và Đức Mẹ gìn giữ nó ... chứ đi làm xa một thân một mình như vậy, mướn nhà trọ ở chung chạ với người lạ. Gặp người tốt hổng nói gì, lỡ gặp người xấu rồi bị lôi kéo ...

 

Câu nói bỏ dở và tiếng thở dài của mẹ tôi hàm chứa nỗi ưu tư lo lắng cho đứa cháu gái nhà quê, từ thưở bé thơ chỉ quanh quẩn với ruộng vườn, xóm giềng là những người bà con, quen biết ... giờ một mình phải đối đầu với biết bao cạm bẩy nơi xứ lạ trời xa, như con chim non ngỡ ngàng, dễ lạc loài theo gió cuốn mây trôi.

 

Đây cũng là tình trạng chung của nhiều vùng quê nghèo hiện nay và cũng là mối ưu tư rất nhiều của các vị mục tử: Làm sao giúp người trẻ sống đạo giữa những biến chuyển của xã hội hôm nay nầy?

 

Theo thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, chúng ta được trình bày cho thấy nguyên nhân, hậu quả và phương cách loan Tin Mừng trong hoàn cảnh hôm nay:

 

Là người dân của đất nước, người công giáo chúng ta có bổn phận phải xây dựng quê hương với tinh thần Phúc Âm, theo lời Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ tín hữu Việt Nam: "Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng là người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt" (Sứ Điệp Truyền Giáo 2010 - ĐGH Bênêdictô XVI)

Đất nước Việt Nam đang phát triển theo nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế nầy làm thay đổi xã hội chúng ta. Sinh hoạt làng quê cổ truyền dần dần được thay thế bằng nếp sống đô thị. Dân chúng, nhất là người trẻ đổ xô về những thành phố lớn kiếm công ăn việc làm, làm cho mật độ dân cư chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.

 

Tại các thành phố lớn, do tình trạng dân số gia tăng quá nhanh, thiếu chính sách quản lý và phát triển đô thị hợp lý nên gây ra nhiều hậu quả tiêu cực trên sinh hoạt xã hội: môi trường sống thiếu vệ sinh và đang bị tàn phá, hệ thống giao thông và y tế yếu kém, phát sinh nhiều tệ nạn xã hội: nghiện ngập, phá thai, mãi dâm, bạo lực ... Thêm vào đó là chủ nghĩa tương đối và hưởng thụ, tình trạng giáo dục bất cập, những cách trình bày chân lý nửa vời trên các phương tiện truyền thông, những chương trình giải trí thiếu lành mạnh ... đã đưa nhiều bạn trẻ đến một não trạng và lối sống thực dụng, làm bất cứ điều gì để hưởng lợi, miễn là không bị bắt hay không ai nhìn thấy. Tiêu chuẩn tốt xấu trở thành tương đối và như thế, có dấu hiệu về sự phá sản lương tâm.

 

Trong thời đại mà con người không chỉ thích đón nhận Tin Mừng bằng cách "nghe" mà là phải "thấy", chúng ta cần chú trọng đến cung cách sống và phục vụ của mình. Người ta không thích chúng ta nói suông mà chỉ muốn nhìn đời sống và công việc của chúng ta vì bao giờ nói cũng dễ hơn là bắt tay lăn xã vào công việc. Nói yêu thương phục vụ, ai nói cũng được nhưng đâu phải ai cũng dễ dàng phục vụ ...

Thư Chung còn đề ra nhiều phương cách để loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh ngày nay, nhưng chú trọng cách đặc biệt hơn đến lãnh vực giáo dục, nhất là lãnh vực giáo dục học đường. Chúng ta luôn ý thức đó là chìa khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước và muốn cống hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình để giúp đào tạo những con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta chỉ có thể kêu gọi mọi người hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền quê và đồng hành với giới giáo chức công giáo.

 

Nhưng việc giáo dục căn bản phải dẫn con người đến Đức Kitô. Vì thế, việc giáo dục đức tin phải là sợi chỉ xuyên suốt, là tinh hoa và cùng đích của hết thảy nỗ lực giáo dục của gia đình, học đường và xứ đạo. Một cách đặc biệt, việc giáo dục lương tâm là hết sức cần thiết vì nếu có lương tâm ngay chính, con người có thể thoát khỏi chủ nghĩa tương đối về luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình, giúp họ sống đạo cách ý thức và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống tốt một cách can đãm sẽ là một thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định sống tốt.

 

Đây là một việc làm không dễ nhưng đối với Thiên Chúa, không gì là không thể được. Chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện. Rồi mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau. "Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho mọc lên". Mọi sự đều có lợi cho người có lòng yêu mến, tín thác vào Chúa. Lạy Chúa, chúng con tín thác vào Chúa!

Mtg Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

LỜI KINH TRONG CUỘC ĐỜI: Con Xin Theo Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài Là Con Người Hoàn Hảo.

 

Ôi lạy Chúa Kitô, Ngài là con người tuyệt hảo, con xin theo Ngài để trở thành con người hoàn hảo hơn.


Trở thành người hơn bởi một tình yêu dũng mạnh và tinh tế.


Trở thành người hơn nhờ liên đới sâu xa với định mệnh của mỗi người;


Trở thành người hơn nhờ biết sống hiền từ, tốt lành và thông cảm;

 

Trở thành người hơn nhờ biết chấp nhận mọi đau khổ của người khác và chia sẻ âu lo của kiếp người;


Trở thành người hơn nhờ biết cảm thông để rồi mau mắn chia sẻ và mang lại những giúp đỡ ân cần;

 

Trở thành người hơn nhờ có một lương tâm được soi dẫn và hoàn toàn thật sự được tự do.

 

Trở thành người hơn nhờ biết quan tâm nhiều hơn nữa đến những nỗ lực xây dựng và những khó khăn của nhân trần;


Trở thành người hơn nhờ biết rằng khát vọng muốn được truyền thông chính là hạnh phúc .


Trở thành người hơn nhờ ý chí muốn trở nên mọi sự cho mọi người;


Trở thành người hơn để được lãnh nhận dồi dào hơn nữa sức sống thần linh của Ngài, ôi lạy Chúa Kitô, Ngài là Người tuyệt hảo. Amen


(Prière au coeur du monde, J. Galot, sj.)
Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch (ubmvgd.org)

 

"Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ" (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 16,10)

 

TRANG THIẾU NHI

HÀNH TRANG NGƯỜI GIEO GIỐNG

 

Những ai từng gắn bó với quê nghèo đồng ruộng luôn có tình cảm riêng cho cảnh vật quê nhà. Tôi đi học xa nhà không quá mười năm nhưng mỗi lần trở về cảnh vật phần nhiều đã đổi khác. Cánh đồng lúa hai bên đường dần dần đã nhường chỗ cho những ngôi nhà khang trang mọc lên chen chút.

 

Đất ruộng đã hết, nghề nông không còn, người làm ruộng chắc đã chuyển nghề để tìm kế sinh nhai. Ký ức đã kéo tôi về những ngày xưa khiến lòng luôn khác khoải: liệu những nhà nông đã bỏ nghề, hay đã tìm được cuộc sống ổn định nơi một nghề khác? Hoặc họ cũng rất yêu thích nghề nông nhưng vì hoàn cảnh khiến họ không còn đất đâu để dụng võ.

 

Cánh đồng trần thế ngày một thu hẹp nhưng cánh đồng truyền giáo lúc nào cũng mênh mông. "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít"(Mt 9,37). Người gieo giống thửa ruộng trần gian có thể chuyển đổi hay bỏ nghề nhưng người gieo rắt Tin Mừng thì đòi buộc phải dấn thân. "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy đến tận cùng thế giới" (Mc 16,15). Người gieo rắt Tin Mừng hôm nay cần chuẩn bị những thứ hành trang quan trọng: không cần hiện đại nhưng phải quảng đại, không cần tốn kém nhưng phải hy sinh.  

 

Đôi tay luôn gieo vãi

Người gieo giống đôi tay lúc nào cũng gieo cũng vãi. Hình ảnh đó diễn tả lòng bao dung, quảng đại. Cũng như hạt giống tiềm ẩn sức sống thế nào thì người gieo cũng chan chứa hy vọng về mùa gặt mai sau thể ấy. Tư thế gieo vãi chính là lối sống không tính toán của chứng nhân Tin Mừng. Người loan báo Tin Mừng có thể phải tốn hao thiệt thòi nhiều thứ: không làm việc cho mình nhưng cho Chúa, không vì tư lợi cho mình nhưng vì ích lợi của tha nhân; chấp nhận mất thời giờ, mất sức khỏe, mất tiền của. Thực tế đôi lúc người gieo cũng đón nhận phủ phàng khi gieo rất nhiều nhưng gặt hái chẳng bao nhiêu, làm việc cực lực nhưng kết quả thì không đáng giá. Không sao, Thiên Chúa là ông chủ quyền năng, biết trước mọi điều nhưng Ngài không ngừng gieo rắt ân ban. Phần chúng ta, là những người công tác với Ngài, cần gì phải tính toán thiệt hơn. Hãy làm việc cho Chúa và kết quả là do Chúa.

 

Đôi chân bước miệt mài

Người chứng nhân Tin Mừng cũng cần có đôi chân miệt mài dấn thân không ngại. Vì chúc ngôn của Chúa Giêsu là phải đi đến "tận cùng trái đất". Người tông đồ đôi khi cũng viện lý do để tránh né sứ mạng được trao phó. Nơi đó không còn ai tin Chúa nữa, ta đến rao giảng chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc mà thôi, không ích lợi gì. Nơi đó người ta sống trong lầm lạc, tội lỗi lắm, khả năng cải hóa dường như không có, ta đến làm gì cho phí công. Những lý luận đó khiến người tông đồ sẽ chùng bước không muốn dấn thân.

 

"Cứ nói mãi là tại kẻ khác không sẵn sàng nghe Phúc âm, nhưng xét lại là tại chúng ta không rao giảng Phúc âm cho họ" (Đức Hồng Y Joseph Suénens). "Nếu không có ai chỉ dẫn, làm sao họ biết đâu là chân lý? Làm sao giúp họ xóa tan lầm lạc, nếu ta cứ thinh lặng không đá động đến việc này" (Cv 8,30-31) Do vậy, nếu người tông đồ không miệt mài dấn thân thì không mang lại kết quả.

 

Có sáng kiến cho rằng ngày nay phương tiện thông tin hiện đại, ta có thể rao giảng trên đài phát thanh, phân phát cho người ta tài liệu về đạo nhưng thế được rồi cần chi phải dấn thân cho mệt nhọc. Thực ra, truyền thanh hay báo chí chỉ mở đường và phụ lực cho việc đem chiên về với đàn còn việc chính vẫn là sự gặp gỡ của từng cá nhân. Chúa Giêsu gọi tên từng môn đồ và chọn họ. Ngài đã gặp Giakêu, gặp viên đại đội trưởng, gặp người phụ nữ tại giếng Giacóp, những lần ấy đều mang lại hiệu quả.

 

Đôi lúc có vị chủ chăn viện lý do phải chăm sóc đoàn chiên quá nặng nề còn đâu thời giờ để đem con chiên ngoài đàn vào. Nhưng kết cục chiên trong đàn tìm lối chạy ra, chiên ngoài đàn thì chạy xa mất dạng.

 

Con tim đầy tình thương

Người gieo giống cần có những kỹ năng để mang lại kết quả trong mùa gặt. Cùng với những đặc tính cần thiết người tông đồ phải mang trong mình con tim biết yêu thương. Có tình thương ta mới có nhiều sáng kiến. Có tình thương ta mới đủ sức vượt qua những gai chông, khốn khó trên đường. Có tình thương ta mới đủ sức miệt mài không nghi ngại. Có tình thương ta mới phản ánh cách trung thực hình ảnh chứng nhân mà Chúa đòi buộc. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy thương yêu nhau (Ga 13,35).

 

Đức Piô XI đã long trọng tuyên bố: "Lý do sống còn của Hội thánh là mở rộng Vương quốc Chúa Kitô trên thế giới, để mọi người cùng hưởng ơn cứu chuộc". Ơn cứu độ là phần thưởng thật lớn lao. Người tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng chính là trao tặng món quà quý nhất, lớn nhất mà ta không tìm đâu có nơi trần gian. Hạt giống Tin Mừng luôn được dự trữ và ban bố cách dư đầy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho bản thân luôn biết đón nhận cách xứng đáng. Cầu nguyện cho Hội thánh ngày có thêm những tông đồ miệt mài dấn thân rao truyền Nước Chúa.

TRANG GIỚI TRẺ

NGƯỜI TRẺ SỐNG DẤN THÂN VÀ LIÊN ĐỚI

Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta đã để lại cho nhân loại một gia sản cao quý Tin mừng. Tin Mừng là những lời được ghi lại trong Sách Thánh. Hơn nữa, Tin mừng trọng đại nhất là chính bản thân Người. Người đã đem đến một bầu khí mới - một bầu khí yêu thương trọn vẹn. Tin mừng ấy như muối như men cần được lan tỏa ra cho nhiều người. Vì Tin mừng được gọi là Lời Hằng Sống nên phải sống động.

 

Những người đón nhận Tin mừng là những người làm cho hạt giống Tin mừng được gieo trong lòng họ sinh hoa kết trái. Hoa trái do hạt giống Tin mừng đem lại là hoa trái của lối sống dấn thân và tinh thần liên đới.  

 

Chúa Giêsu đã nói mời gọi các Tông đồ cũng là mời gọi mỗi người chúng ta hãy ra đi loan báo Tin mừng ấy cho những anh chị em xung quanh (Mt 28, 19). Lời mời gọi này càng khẩn thiết hơn với người trẻ.

 

Người trẻ sống dấn thân cho những lý tưởng cao đẹp. Người trẻ lên đường hòa nhập vào những nhóm phục vụ anh chị em đồng loại có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Người trẻ can đảm sống cho sự thật giữa một xã hội đầy dẫy những sự lừa lọc nhau. Người trẻ biết đứng lên bênh vực cho cho lẽ phải và lẽ công bằng. Người trẻ dám nói không với những tệ nạn xã hội như ma túy, trộm cắp, cờ bạc hay băng đảng quậy phá.

 

Ngoài ra người trẻ còn được mời gọi sống tinh thần liên đới với những anh chị em xung quanh. Liên đới là sống hòa mình chứ không đố kỵ hay phân biệt giai cấp hay giàu nghèo. Tinh thần liên đới sẽ tạo nên một sức mạnh thiêng liêng cao quý. Chính tinh thần liên đới sẽ có sức diệt đi những cái ác cái xấu trong xã hội.

 

Ước mong người trẻ Công giáo biết thể hiện lối sống dấn thân và tinh thần liên đới để hạt giống Tin mừng thật sự luôn được sinh hoa kết trái trong lòng mọi người.

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

Chúng Ta Có Thật Sự Tự Do Không? (tiếp theo)

6. Đức Kitô, kiểu mẫu và nguồn mạch tự do

Đức Giêsu đã đến giải phóng con người khỏi mọi điều tất định. Toàn bộ Kinh thánh là một lịch sử dài viết về Thiên Chúa là Đấng giải thoát Dân Người khỏi mọi ách nô lệ. "Hỡi anh em, anh em đã được kêu gọi để được tự do" (Gl 13).

Đức Giêsu đã tỏ mình là một con người tự do, nghĩa là sống theo những xác tín trong thâm tâm của mình, không bị quy định bởi con người cũng như bởi các truyền thống gia tộc, xã hội, tôn giáo. Thái độ của Người không chỉ có tính cách tự do, mà còn mang lại tự do, còn tôn trọng tự do của người khác nữa. Người đề nghị chứ không áp đặt: "Nếu anh em muốn nên trọn lành..."

Đức Giêsu hoàn toàn tự do đối với gia đình. Người cũng không để cho quê cha đất tổ ảnh hưởng lên Người. Người tỏ ra tự do trong các việc lựa chọn các môn đệ. Người tự do đối với các thành kiến xã hội và tôn giáo của thời đại bằng cách rộng tay đón tiếp các kẻ bị xã hội khai trừ: những người phong cùi, tội lỗi, những người xa lạ.  Người tôn trọng mọi phụ nữ dù cho đời họ có ra sao đi nữa. Người ôm ấp các trẻ em đến độ các môn đệ phải càu nhàu. Người tiến về sứ mạng của mình một cách tự do hoàn toàn đối với những thể chế nhân loại và những quyền lực đã được quyết định. Chỉ có sự hài lòng của Thiên Chúa mới là lý do đủ sức khuất phục ý muốn của Người. Đối với Người, chỉ có Vương quốc của Thiên Chúa và ơn cứu độ của con người là đáng kể. Và Người đã hoàn toàn tự do bước vào cuộc khổ nạn. Chỉ trích, đe doạ, và thậm chí cái chết vẫn không thể làm Người xa lìa sứ mạng Chúa Cha đã trao phó.

Đức Giêsu đã sống hoàn toàn tự do vì Người hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Việc phục vụ Chúa mang lại tự do cho ta.

Đức  Kitô, Đấng chiến thắng đau khổ, sự dữ và sự chết, rất muốn chúng ta thông dự vào sự tự do của Ngài. Người muốn giải thoát ta khỏi những ràng buộc nơi bản thân: các bản năng không được điều khiển đúng đắn, xác thịt nổi loạn chống lại tinh thần, các thói quen xấu, các mối quan hệ lệch lạc, sự mù quáng dưới đủ mọi hình thức, chủ nghĩa chủng tộc quá khích, các sự bất công, các thành kiến... Đức Giêsu trợ giúp chúng ta - nhưng Người không làm thay cho ta - vì một đàng tự do là ân huệ của Chúa, nhưng đàng khác tự do cũng là kết quả chinh phục của con người, và đây chính là niềm hãnh diện của họ. Không ai được tự do một cách bẩm sinh mà phải dần dần trở nên tự do. Sự tự do đích thật là một cuộc chiến đấu từng ngày để làm chủ các hoạt động nội tâm, các hành vi bên ngoài và toàn bộ đời sống của mình. Nhưng ơn Chúa luôn cứu trợ ta.

Như vậy, người tự do đích thật là người mỗi ngày cố gắng thực hiện ý Chúa đối với mình, vì đó quả là một ý muốn mang lại tự do và sự sống, Người xưa có nói: "Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống". Sự tự do đích thật là sự tự do nội tâm.

Tự do đích thật là vui lòng chịu lệ thuộc vào Đấng cao cả hơn mình, nhưng đó là một sự lệ thuộc trong tình yêu. Chính vì thế, các thánh là những người tự do hơn cả, và trong số các ngài, Đức Trinh Nữ Maria đứng cao hẳn. Chính trong khi ràng buộc đời mình với Chúa mà Mẹ được lớn lên, chính khi vui lòng trở thành nữ tì khiêm nhượng của Đấng Tối cao, Mẹ đã được triển nở tối đa về mặt nhân bản cũng như về mặt thiêng liêng. Chính Mẹ đã chọn con đường tự do đích thật. Bởi chưng, như lời thánh Phaolô: "Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do" (2 Cr 3,17). Và Mẹ luôn tràn đầy Thánh Thần, là Thần Khí tự do.

7. Tuổi trẻ và tự do

Ta học tập để được tự do. Từ các chi tiết nhỏ nhặt cho đến các hành động lớn lao, việc nào cũng có tầm quan trọng riêng của nó. Định giờ thức dậy và giờ đi ngủ, cách tiêu tiền, nghỉ lễ, chọn bạn bè, sách báo, nghề nghiệp, hết thảy đều là những dịp để cho người trẻ tập sống tự do, tập thể hiện nhân cách của mình, đối đầu với các áp lực cả ở bên trong lẫn bên ngoài đang làm ta trở nên yếu nhược. Rốt cuộc, anh hiểu ra rằng cách tốt nhất để kiện toàn bản thân vẫn là tận tâm lo cho người khác, để giúp họ cũng trở nên những con người tự do. Anh sẽ vui mừng khám phá ra rằng dấn thân cho đời một cách hoàn toàn quảng đại và gan dạ là một hành vi tự do. Trong hôn nhân, trong chức linh mục, trong đời tu, ta không chối bỏ tự do của mình, nhưng đẩy nó tới mức hoàn hảo nhất. Chiến thắng của những con người tự do là có thể tận hiến trọn vẹn bản thân mình vì yêu thương vô vị lợi.

Một linh mục nói: "Con người được phú cho tự do để có khả năng yêu thương."

André Malraux đã từng nói: "Tôi gọi một người là tự do khi người ấy có khả năng ép mình vâng phục một điều gì đó ở trong thâm tâm nhưng lại trổi vượt hơn mình."

Quả thế, chính lúc đó ta đang vâng phục Đấng đã vì yêu thương mà tạo ra sự tự do cho ta.

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur:
Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990
Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG HOÀN CẢNH HÔM NAY

 

Sau buổi đọc kinh Liên Gia tối thứ ba tại nhà anh chị DT, các bạn trẻ bu quanh ông Trùm và hỏi : "Cha Sở bảo chúng con phải loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hôm nay tại họ đạo chúng ta. Vậy chúng con phải làm gì ? ông Trùm không biết phải trả lời các bạn trẻ làm sao,ông nhanh trí nói : " Các bạn cảm thông với Bác Hai, suốt ngày hôm nay đi học giáo lý nâng cao, chiều về đọc kinh trong nhà thờ, dự lễ, giờ đọc kinh Liên Gia Bác mệt quá. Thôi, để khi Bác khoẻ Bác trả lời cho các bạn. Các bạn thông cảm nhe !" Nghe vậy các bạn trẻ không vui, nhưng cũng tỏ ra thông cảm và nhắc : "Bác Hai nhớ trả lời cho chúng con".

 

Tối về ông ngồi trầm ngâm suy nghĩ : " Phải trả lời bạn trẻ sao đây?.. !..?". Ông Trùm nhớ lại Cha Sở có trình bày trong ngày " Khánh Nhật Truyền Giáo" : " anh em có thể loan báo Tin Mừng bằng cách cầu nguyện cho một cá nhân hay một gia đình lương dân mình quen. Xin Chúa soi sáng cho họ nhận biết Chúa, tin Chúa, yêu Chúa, cậy trông phó thác nơi Chúa và đi theo Chúa, sống với Chúa. Cũng có thể sống đời chứng nhân, làm gương sáng yêu thương phục vụ mọi người như Chúa Giêsu đã làm, để họ thấy đời sống của anh chị em mà tôn vinh Chúa Cha ngự trên trời. Cũng có thể cắt nghĩa cho họ một câu Lời Chúa, một câu giáo lý mà họ thắc mắc, trực tiếp nói về Chúa cho họ". Nghe thì biết vậy, thực hành đại khái làm sao trả lời. Bí quá chắc phải hỏi Cha Sở, nghe Cha Sở trả lời làm sao mình trả lời như vậy là chắc ăn nhất. Bây giờ phải ngủ cái đã, ngày mai sẽ tính. Ông Trùm đã nhẹ nhàng rơi vào giấc ngủ. Trời càng khuya càng thinh lặng, không khí mát mẻ, ông Trùm ngáy như sấm.

 

Sáng hôm sau gặp Cha Sở ra nhà dặn dò vài chuyện phải làm, ông Trùm mừng quýnh thầm nhủ: " Hôm nay Cha nói con nghe". Sau khi nghe cha dặn dò vài chuyện, con sẽ xin cha giải đáp thắc mắc mà bạn trẻ đã nêu hôm qua, cha cứ nói, con sẽ nghe. Bảo đảm con sẽ nghe chăm chú vì con phải trả lời cho các bạn trẻ. Sau khi mời cha ngồi uống nước, nghe cha dặn dò xong, ông vào thẳng vấn đề : " Thưa cha, muốn loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hôm nay chúng con phải làm gì ?". " Đây là một công tác cụ thể mà mọi người trong họ đạo ta phải làm, vì đó là mệnh lệnh Chúa truyền cho Hội Thánh, là sứ vụ Hội Thánh phải hoàn thành, là bổn phận mà mọi kitô hữu đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội và phép Thêm Sức".

 

Cha sở trầm ngâm suy nghĩ trong chốc lát rồi ngài thong thả trả lời: " Muốn rao giảng Tin Mừng trong hoàn cảnh hôm nay, chúng ta phải hiểu tâm ý của người thời nay thích gương sáng chứng nhân sống động hơn lời nói; thích những người sẵn sàng phục vụ hơn đòi người khác phục vụ. Mặt khác, chúng ta phải xem khi Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Người đã làm gì? Trước tiên Người đã chuyên cần cầu nguyện với Chúa Cha ngay khi còn ở trong mái ấm Nazaréth, nơi đây mẹ Maria và Thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu cầu nguyện, Chúa thuộc lòng những lời nói cầu nguyện của dân Người, với những nhịp độ cầu nguyện trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối. Người cũng quen với kinh nguyện trong hội đường cùng bà con trong thôn làng ấm cúng. Chúa cũng từng cầu nguyện dâng lễ trong đền thờ hằng năm vào những ngày lễ lớn của dân tộc.

 

"Vào khoảng 30 tuổi, Người khởi sự rao giảng" (Lc 3,23). Trước khi rao giảng công khai " Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođăng trở về, suốt 40 ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa" (Lc 4, 1-2) ăn chay, cầu nguyện và chịu ma quỷ cám dỗ. Người đã nương tựa vào Thiên Chúa và đã toàn thắng. Thánh Thần luôn đồng hành với Người cùng nói, cùng hoạt động, cùng sống. " Người xuống Ca- phác- na- um, một thành miền Galilê, và ngày Sa-bát, Người giảng dạy dân chúng. họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền." ( Lc 4, 31-32). " Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra." (Lc 4, 36). " Sáng sớm, Người đi ra một nơi hoang vắng" (Lc 4, 42) để cầu nguyện chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng và kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên với mẻ cá lạ lùng. "Đừng sợ, từ nay anh (Simon- Phêrô) sẽ là người thu phục người ta. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người" (Luc 5, 10b-11).

 

Càng thành công, Người càng cầu nguyện: " Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được Người chữa bệnh. Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện" (Lc 5, 15-16). để chuẩn bị tuyển chọn 12 tông đồ, Đức Giêsu đã cầu nguyện: " trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa" (Lc 6, 12). "Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình" (Lc 9, 18) trước khi nghe lời tuyên xưng của Phêrô " Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa".

 

Bên cạnh việc cầu nguyện, Chúa Giêsu còn yêu thương và quảng đại phục vụ mọi người, đem lại sự giải phóng và hạnh phúc cho mọi người " Hãy đi, và cũng hãy làm như người Samari tốt lành" (Lc 10, 37). " Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ" (Lc 22, 27)

 

Chúa Giêsu yêu thương, tôn trọng, quý mến, đón nhận mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu là người bạn thân thương, gần gũi, dễ mến của mọi người: em bé người không khinh, phụ nữ người không ghét, Người gần gũi chuyện trò, ăn uống với người thu thuế và tội lỗi. Không ai đến với Người mà Người khước từ.

Tóm lại, ông trùm ơi, muốn truyền giáo cho người hôm nay, ông phải biết tâm ý của người thời nay, hãy cầu nguyện, làm gương sáng bằng đời nhân chứng, yêu thương, gần gũi cảm thông với mọi người tôn trọng và quý mến họ, phục vụ vô vị lợi nâng cao đời sống của họ cả tinh thần lẫn vật chất. Ông trùm: " con cám ơn cha, con quyết tâm sẽ thực hiện như vậy". Có bùa trong tay, ông đi tìm các bạn trẻ và thông truyền cho chúng. Ông mong chúng cùng ông là những nhà truyền giáo hăng say nhiệt tình không mệt mỏi đến gặp gỡ các bạn trẻ lương dân, cảm thông, yêu thương, chia sẻ giúp đỡ cả tinh thần và vật chất trong khả năng, qui tụ đến nhà thờ vui chơi, nhờ cha sở ra tay dạy dỗ và giúp đỡ. Chúa sẽ biến đổi trong quyền năng cứu độ: " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Bạn hãy đem hết thiện chí làm việc cách khôn ngoan có tổ chức, Chúa sẽ ra tay, gia đình họ đạo sẽ cùng nhau thăng tiến. " Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho lòai người Chúa thương." (Lc 2, 14)

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 8. NHIỆT TÂM TRUYỀN GIÁO (Phong cách 3)

 

I. Truyền giáo: tiếng gọi khẩn cấp: gọi khẩn cấp: truyền giáo hay loan báo Tin mừng.

1. Phát xuất từ cởi mở với lời Chúa:

Khi giáo lý viên cởi mở để đón nhận lời Chúa, hiểu biết và sống thân tình với Chúa luôn thì không thể nào lại không tìm cách làm cho người khác hiểu biết và sống thân tình với Người. Cởi mở với lời Chúa đòi hỏi vừa đón nhân, vừa đem lời Chúa cho người khác để họ cũng cởi mở với lời Chúa như mình để cùng được lời Chúa cứu độ.

 

2. Phát xuất từ chính Chúa Kitô:

Giáo lý viên không thể bỏ ngoài tai tiếng gọi khẩn cấp của Chúa Kitô: "Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về" (Ga 10,16). Cũng không thể quên lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu đã được ban bố trước khi Ngài về trời: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).

 

3. Phát xuất từ hoàn cảnh cụ thể hôm nay:

Giáo lý viên Việt Nam đang sống trong xứ truyền giáo; cứ 100 người thì chỉ có 3 người là Công giáo, còn 97 người chưa thuộc về đàn chiên của Chúa. Ấy là chưa nói đến toàn thể châu Á ngày nay với gần 4 tỷ người mà chỉ có 100 triệu người Kitô giáo, mà riêng Philippin đã có 50 triệu. Giáo lý viên là một Kitô hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và phép Thêm Sức, lại được mời gọi làm giáo lý viên, nên không thể không quan tâm đén tỷ lệ quá cách biệt giữa người đã chịu phép Rửa Tội và người lương dân.

 

II. Giáo lý viên phải có thái độ nào trước tiếng nói khẩn cấp ấy:

Dạy giáo lý cho các em là một cách đáp lại tiếng gọi của Chúa. Tuy nhiên, giáo lý viên luôn ý thức mình đang ở xứ truyền giáo và luôn sẵn sàng:

 

1. Để cho tình yêu Chúa Kitô thúc bách:

Giáo lý viên đã nghe biết về tiếng gọi và lệnh truyền của Chúa Kitô nên phải khắc ghi trong lòng để suy niệm. Suy nghĩ để có thể nhận ra và cảm nhận rằng Chúa Kitô đã yêu thương ngỏ lời với mình thì mình không thể hưởng thụ tình yêu ấy cho riêng mình, mà phải để cho "tình yêu Chúa Kitô thúc bách" (2Cr 5,14), khiến cho mình "không thể không nói ra những gì mình đã nghe và đã thấy" (Cv 4,20). Dẫu có bị cấm cách, ngăn cản hay bách hại, giáo lý viên không bao giờ hổ thẹn vì Tin mừng của Chúa (x. Rm 1,16).

 

2. Tích cực dấn thân làm cho nhiều người khác nữa biết Chúa Kitô:

Được tình yêu Chúa Kitô thúc bách, giáo lý viên đã dứt khoát không chạy theo xu hướng của người đời chỉ lo kiếm tiền bạc danh vọng để hưởng thụ. Nhưng chọn lựa tìm kiếm vinh dự nơi Chúa Kitô và không muốn loan báo điều gì khác ngoài Chúa Kitô là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Quyết tâm chọn lựa để tình yêu Chúa Kitô thúc bách và tìm kiếm vinh dự trong việc loan báo Chúa Kitô để cho mọi người biết và tin theo Người, đó là điều kiện để cho nhiệt tâm truyền giáo phát triển.

 III.  Giáo lý viên phát triển nhiệt tâm truyền giáo:

Giáo lý viên có thể làm cho nhiệt tâm truyền giáo phát triển bằng cách:

1. Quyết tâm chú ý kiếm tìm chiên lạc cho kỳ được:

Giáo lý viên đã yêu mến Chúa Kitô và khao khát làm cho nhiều người nữa biết Người, thì phải bắt chước tấm lòng của Người đến với các chiên lạc. Đó là những người đáng được chú ý hơn đến nỗi Chúa Kitô ví họ như con chiên lạc mà người mục tử "để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc 15,4). Chúa Kitô còn so sánh nhiệt tâm ấy như tấm lòng của người phụ nữ nghèo "đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?" (Lc 15,8).

2. Quyết tâm làm bất cứ việc gì có thể để cứu được một số người:

Đã cảm nhận được tình yêu Chúa Kitô thúc bách mình và hiểu được tình trạng mất mát của các chiên lạc đang cần dẫn đưa về đàn; giáo lý viên noi gương vị tông đồ Phaolô có nhiệt tâm rất cao, đã sẵn sàng trở nên tất cả cho mọi người "để bằng mọi cách cứu được một số người" (1Cr 9,22).

Nhiệt tâm truyền giáo thôi thúc thánh Phaolô đến nỗi Ngài thú nhận rằng: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1Cr 9,16).

IV.  Dấu chỉ của nhiệt tâm chân thực:

Giáo lý viên đã đem hết nhiệt tâm để đáp lại tiếng gọi khẩn cấp của Chúa Kitô và của chính các chiên lạc chưa thuộc về đàn, giáo lý viên biểu hiện nhiệt tâm ấy trong những lời nói tha thiết với việc truyền giáo; hoặc dành nhiều thời gian để lo hoạt động truyền giáo. Tuy nhiên, nhiệt tâm chân thực truyền giáo của giáo lý viên được biểu hiện như sau:

1. Giáo lý viên khắc hoạ được nơi sâu thẳm nhất của mình: dấu Thánh Giá vinh quang của Chúa Kitô.

Thật vậy, Đức Kitô mà giáo lý viên học hỏi là "Đức Kitô chịu đóng đinh" (1Cr 2,2), Đấng mà giáo lý viên loan báo cũng chính là "Đức Kitô chịu đóng đinh". Nhưng Đấng ấy cũng là Đức Kitô đã phục sinh từ cõi chết. Dấu chỉ nhiệt tâm chân thực là giáo lý viên luôn xác tín cách sâu sắc rằng: mình không thể được vinh quang với Chúa Kitô nếu không đi qua đường thập giá (x. Lc 24,26).

2. Giáo lý viên sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan, thử thách, đau khổ trong đời truyền giáo:

Một khi khắc hoạ nơi sâu thẳm của lòng mình dấu Thánh Giá vinh quang của Chúa Kitô thì giáo lý viên sẵn sầng sống mầu nhiệm tử nan và phục sinh của Chúa Kitô với niềm hy vọng phấn khởi. Sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô tức là trong mỗi hoàn cảnh sống của mình, dù có gặp những hạn chế, bất lực hay những đau khổ nơi bản thân mình, những nghịch cảnh trong gia đình mình, những khó khăn trở ngại trong công tác tông đồ, giáo lý viên luôn quyết tâm đi cho trọn con đường Chúa đã đi, với ý hướng là: "Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24).

 

Kết luận: Nhiệt tâm truyền giáo là phương cách thứ III giúp giáo lý viên hiểu hiện cách rõ ràng cho học viên cũng như cho mọi người nhận ra giáo lý viên thực sự sống linh đạo giáo lý viên. Nhiệt tâm truyền giáo là kết quả cụ thể của việc cởi mở với lời Chúa, vừa đón nhân, vừa ra đi loan báo lời Chúa và cũng là dấu hiệu của mội đời sống thống nhất và chân thực. Vì giáo lý viên chỉ lo thi hành lời Chúa, thực hiện đúng thánh ý Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Như vậy, cả ba phương cách gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để giáo lý viên sống đúng linh đạo, đúng căn tính của giáo lý viên.

TRANG QUỚI CHỨC

BIỆN SỞ VỚI CÁC BÍ TÍCH (tiếp theo)

 

Bí tích Giao hoà

Đời sống đạo căn bản của người Kitô hữu gồm : Kinh nguyện sáng tối (bao gồm việc lần chuỗi), Thánh lễ hàng ngày, Thánh lễ Chúa nhật và xưng tội rước lễ.

 

Kinh nguyện sáng tối là hơi thở của linh hồn. Chúng ta thường không để tâm xem mình có thở hay không, nhưng chúng ta vẫn phải luôn luôn thở. Ai không thở sẽ chết. Linh hồn chúng ta cũng cần được nuôi dưỡng bằng Thần Khí Chúa, chúng ta chỉ có thể hấp thụ Thần Khí đó qua việc cầu nguyện. Một người không cầu nguyện sáng tối thì đời sống đức tin sẽ hao mòn dần. Cụ thể chúng ta hãy nhìn vào đời sống của các Kitô hữu để so sánh thì chúng ta sẽ thấy rõ: Người không đọc kinh sáng tối sẽ rất dễ bỏ lễ Chúa nhật, bỏ lễ Chúa nhật càng nhiều thì càng ít đi xưng tội rước lễ, mà rước lễ là rước lương thực thiêng liêng dưỡng nuôi linh hồn. Ai có thể sống mà có thể nhịn ăn nhịn thở? Sự sống linh hồn của mỗi người cũng thế.

 

Một người càng lâu đi xưng tội thì càng ngại đến toà giải tội rồi cũng vì thế có những người ngã lòng trông cậy vào lòng nhân từ Chúa dẫn đến hậu quả: bỏ đạo. Những người đó khi được khuyên đi xưng tội rước lễ thì sẽ trả lời: tội tôi nhiều lắm Chúa không tha hết đâu ! Sẽ rất khó để thuyết phục họ trở về với Chúa.

 

Vì thế các biện sở hãy để tâm đến những gia đình đó, nhắc nhở họ đi lễ và xưng tội, nhất là những người bỏ mùa Phục Sinh, đừng để họ tuột dốc, nghiêng ngã rất khó nâng dậy. Vì chỉ những ai siêng năng đi xưng tội mới nhạy cảm trước điều tốt- xấu, lành- dữ, thiện -ác.

 

Bí tích Thánh thể

Chúa Giêsu đã nói: Thầy là cây nho, các con là cành. Cành nho chỉ có thể sống nhờ sự sống truyền từ cây nho. Cũng thế, đời sống đức tin của Kitô hữu cũng chỉ có thể sống nhờ sự sống của Chúa Kitô. Nếu không rước lấy nguồn sống thiêng liêng ấy, người Kitô hữu sẽ không được nuôi dưỡng để có thể đủ sức chống lại các chước cám dỗ, các tính mê nết xấu, những quyến rũ trần gian, yếu đối xác thịt. Đó chính là điều kiện để tội lỗi, bệnh hoạn của linh hồn sinh sôi nẩy nở. Đó chính là nguyên nhân gây nên sự chết đời đời.

 

Vì thế biện sở phải quan tâm đến các em nhỏ đến tuổi học giáo lý để lãnh bí tích đừng để muộn màng. Trong xã hội ngày nay, các gia đình trẻ thường phải tất bật với cơm áo gạo tiền, nhiều gia đình chỉ chú tâm đến vật chất mà quên đi phần rỗi linh hồn nên thường chễnh mãng việc kinh sách, đốc thúc con em đi học giáo lý, xưng tội rước lễ. Một phần do hoàn cảnh xã hội, một phần do sự bê bối của cha mẹ. Sống trong môi trường như thế, các em càng cần đến sự giúp đở của các ông biện. Hãy thương yêu chúng, hãy nghĩ đến phần rỗi của chúng mà hết tình khuyên răn nhắc nhở.

 

Bí tích Thêm sức

Đứa bé, dù cha mẹ có yêu thương đến mấy, đến lúc cũng phải tập đi, chúng phải đi bằng chính đôi chân của mình. Cũng thế, đời sống đức tin cũng phải trưởng thành, không thể vai mượn của người khác, hơn nữa ơn gọi Kitô hữu là sống chứng nhân, là loan báo Tin Mừng. Vì thế các em nhỏ cần phải trưởng thành trong đời sống đức tin. Điều đó được thể hiện qua việc các em hiểu biết rõ ràng hơn về Thánh Ý Chúa, có thể tự suy xét mà không lệ thuộc vào sự trợ giúp của người khác, có thể giới thiệu Chúa cho người chưa biết. Ngày xưa trước khi các Tông đồ nhận Thánh Thần (bí tích Thêm sức) các ngài đã từng sợ hãi ẩn trốn, sau khi nhận lấy Thánh Thần, tức khắc bắt đầu rao giảng Tin mừng Phục Sinh và đã có 3000 người theo đạo. Sống chứng nhân, rao giảng là bổn phận của mỗi tín hữu, nhưng làm sao để sống, làm sao để rao giảng nếu người đó không thông suốt điều mình nói? Một người không thông thạo giáo lý liệu có sống đúng ý Thiên Chúa được không? Khi lớn lên, kết hôn với một người tân tòng, liệu họ có khả năng lôi kéo bạn đời của họ sống đạo sốt sắng không? Vì thế mà luật Giáo Hội qui định cần lãnh nhận bí tích Thêm sức trước khi lãnh nhận bí tích hôn phối.

 

Ngày nay, chương trình học văn hoá của các em rất nặng nề, nhiều môn học hơn, lại phải học ngoài giờ, càng lên cao càng mất nhiều giờ. Vì thế, việc lãnh bí tích thêm sức càng muộn càng gặp nhiều khó khăn. Thế nên, việc nhắc nhở các gia đình cho các em học biết giáo lý để chúng trưởng thành hơn trong đời sống đức tin đó là việc rất cần thiết. Biện sở hãy là người hỗ trợ, đốc thúc các gia đình. Đó cũng chính là việc tông đồ theo chức phận mình vậy.

SỐNG ĐẸP

LÀM GƯƠNG

Nauy, một chiều đông, tuyết rơi nặng hạt. Một người đàn ông say rượu đang lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 14 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại. Những bước chân ngả nghiêng chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:
- Mày đi kiểu gì vậy ?
Cậu bé trả lời:            
- Dạ con đi theo bước chân của cha!

Sự gương mẫu đối với trẻ em là yếu tố quan trọng nhất trong giáo dục. Chúng ta có thể huyên thuyên giảng giải trong hàng giờ đồng hồ song chúng chẳng nhớ bao nhiêu, thế nhưng những gì chúng nhìn thấy sẽ để lại những ấn tượng rất sâu đậm. Rồi đến một ngày, chúng ta nhìn thấy con em chúng ta nói những lời giống hệt như ta, giận dữ hệt ta, hống hách hệt ta, lười biếng hệt ta ... Và chúng sẽ trả lời với ta rằng :"Con đang bước theo bước chân của ba mẹ!".

(Nguồn songdepxitrum.com)

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

CÂU CHUYỆN CUỘC ĐỜI

Câu chuyện này là câu chuyện của các bạn, câu chuyện về cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta, ngay giờ phút này, ngồi nghĩ lại quãng đời đã qua, hồi tưởng lại các ký ức vui, buồn, các tình cảm mà chúng ta đã từng trải qua,... mọi thứ, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thật sung sướng khi đã trải qua những giờ phút đó. Và từ bây giờ, chúng ta cảm nhận rằng cuộc sống của chúng ta là một quyển sách, đó là quyển sách cuộc đời. Quyển sách này chưa kết thúc, chúng ta là những người viết nên trang sách cho chính chúng ta. Và vì thế, hãy hít một hơi thật sâu vào và bắt tay vào việc.         

Gia đình: Đã có bao giờ bạn nói với cha mẹ, anh chị em của bạn rằng bạn yêu thương họ chưa? Tôi dám nói là chưa. Chúng ta đôi khi không để ý đến những gì chúng ta có và không trân trọng nó. Chúng ta không tỏ bày sự yêu thương của chúng ta với những người trong gia đình, để rồi một ngày kia, ta phải hối tiếc vì điều đó. Tôi đã mất đi ông bà nội, và cả bà cô nữa. Tôi cảm nhận rất rõ sự hối tiếc trong lòng vì đã không nói lên được lời yêu thương đối với họ. Và bây giờ, họ đã ra đi, tôi không còn cơ hội để làm được điều đó nữa.      

Bạn bè: Đã có bao giờ, bạn định nghĩa bạn bè của mình phải là người thế nào chưa? Tôi cũng dám chắc là chưa, và tôi chúc mừng cho bạn vì điều đó. Chúng ta phải có bạn bè, và chúng ta trân trọng tình bạn mà chúng ta đang có với nhau. Tôi rất hân hạnh được làm quen với rất nhiều người bạn, những người đã không hề để ý đến các tính xấu của tôi mà làm bạn và chia sẻ mọi sự với tôi. Và tôi biết rằng khi họ cần, tôi sẽ ở bên cạnh họ.

Tình yêu: Bạn có bao giờ nghĩ người yêu của mình phải là người như thế nào chưa? Tôi dám chắc là rồi. Nhưng có bao giờ bạn nghĩ rằng, người yêu lý tưởng của mình là không hề tồn tại không? Rằng điều bạn cần là một người chia sẻ với mình như một người bạn và hơn thế nữa không. Rằng tình yêu giống như một cuộc chơi kéo co giữa hai người không? Khi bạn và bạn của mình có tranh chấp, nếu cả hai người cùng kéo, sợi dây sẽ đứt, nhưng nếu một người kéo, còn người kia thả, sợi dây sẽ không đứt mà bền vững mãi không. Nhưng bạn hãy nhớ, nếu bạn là người kéo, đừng kéo quá nhiều, vì sợi dây không dài lắm để đối phương thả đâu. Đừng bỏ phí bất kỳ cơ hội nào. Hãy trân trọng những gì mình có.         
Hôn nhân: Bạn có bao giờ nghĩ về cuộc sống gia đình chưa? Tôi không dám nói đến điều này nhiều. Vì bản thân mình cũng chưa có kinh nghiệm, nhưng sự tưởng tượng của con người là vô hạn. Bạn có nghĩ rằng hôn nhân sẽ gắn kết hai người lại với nhau không? Rằng bạn phải chấp nhận tất cả mọi thứ của đối phương và chung sống với nhau. Tôi không nghĩ sâu xa đến thế. Tôi chỉ hy vọng rằng mình làm được điều này. Nếu có một lúc nào đó, tôi, hay đối tượng của tôi tức giận, điều duy nhất tôi làm là ôm người đó vào lòng và nói "Anh yêu em" bởi vì tình yêu thì xóa đi các bất đồng và gắn kết chúng ta lại với nhau.          

Con cái: Con cái là hình ảnh của chúng ta. Vì thế, hãy cố gắng tạo ra một hình tượng tốt, mà qua đó, chúng ta có thể thấy được kết quả của điều chúng ta làm qua con cái chúng ta. Và chúng ta hạnh phúc về điều đó.           

Sự nghiệp: Bạn có bao giờ nghĩ mình sẽ làm gì chưa? Chắc là có rồi bạn nhỉ. Nhưng cho dù gì đi nữa, hãy nhớ lấy nguyên tắc của sự thành công: "Nỗ lực trước, gặt hái sau". Hãy cố chiêm nghiệm điều này. Nó rất quan trọng đối với bạn. Và hãy nhớ, không hề có cố gắng nào là vô ích cả.

(Nguồn internet)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Tại sao phải theo đạo công giáo để lấy vợ, lấy chồng?

Hỏi:  Tại sao đa số người "không Công giáo" khi lập gia đình với người Công giáo lại phải theo Công giáo?

Trả lời: Không là "phải theo", vì mỗi người đều có tự do theo hay không theo, chính Giáo hội Công giáo cũng tôn trọng Tự do Tôn giáo ("Đối với tôn giáo nói chung, Giáo hội chủ trương Tự do Tôn giáo, vì theo mạc khải cũng như gương hành động của Chúa Kitô "Không ai bị cưỡng bách phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn...nhưng cũng yêu cầu các chế độ chính trị thế giới tôn trọng tự do tín ngưỡng, không ai được cản trở người ta tự do chấp nhận đức tin" (Tuyên ngôn Tự do Tôn giáo).

Nhưng như St. Exupery nói rất có lý rằng: "Yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau, nhưng là cùng nhìn về MỘT HƯỚNG"

Thương nhau thật thì theo nhau, như cha ông người Việt nói: "Yêu nhau chữ vị là vì, chữ dục là muốn, chữ tùy là theo" (Ca dao)

Nếu chàng hay nàng thấy đạo Công giáo tốt hơn thì theo. Đã theo thì theo thật lòng, sống thật tình, thật tốt, không giả dối: "Cúi đầu lạy Chúa Ba ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ".

Trên thế giới này từ hơn hai ngàn năm nay, đạo Công giáo đã đem lại muôn điều phúc lợi cho con người, cho gia đình, xã hội, thế giới trong công bình, bác ái.

Nói thật ra, khi hai vợ chồng cùng thờ Chúa, sẽ được ơn Chúa ban qua Bí tích Hôn phối để sống đời vui buồn, sướng khổ để cùng nhau chia sẻ, thông cảm với nhau. Khi có con sẽ dễ giáo dục con theo một hướng. Khi về già dễ nâng đỡ, an ủi nhau. Nhất là vợ chồng có lòng kính mến Đức Mẹ, được Mẹ Chúa Trời quyền phép, nhân từ,  nâng đỡ ủi an thì càng tuyệt.

Trong thực tế, dù thấy có những giáo dân khô khan, sống không đúng tôn chỉ của đạo, không đúng lời Chúa dạy, nhưng không vì thế mà đạo Công giáo không đáng kính đáng yêu.

Linh mục Đoàn Quang, CMC, xuanha.net

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Xin Góp Ý Với Bài Viết
"Linh Mục Cũng Là Con Người!"

Dĩ nhiên linh mục cũng là con người, không phải là thiên thần, nhưng nói: linh mục không phải là bậc siêu phàm, mình không thể chấp nhân. Vì nói như thế thì dường như chối bỏ tánh cách siêu nhiên của tín hữu và dĩ nhiên của chánh linh mục.

Chúa dựng nên người phàm có lý trí và ý chí, nhận biết được chân lý và yêu mến thiện hảo. Dù là phàm nhân, nhưng Chúa lại ban cho thêm lý trí và ý chí giống như lý trí và ý chí của Chúa. Đó là được tham phần sự sống của chính Chúa, đó là sự sống siêu nhiên. Con người không còn là người phàm nữa! Huống chi đời linh mục, đã được Kitô hoá, nghĩa là thông phần sự sống của Chúa Kitô mà lại thể hiện sứ mạng của Chúa, nên linh mục không thể còn là người phàm, mà là người siêu phàm!

Mặc dầu đươc siêu phàm hoá nhưng bản thể phàm tục vẫn còn mãi đến chết. Do đó không thể tách biệt lên trời để sống siêu nhiên, mà phải cùng tại thế sống cuộc đời hiện nay.

Thời xưa, nhà giáo dục muốn chủng sinh khỏi bị kích thích, lôi cuốn nên tổ chức cuộc sống chủng sinh có phần cách biệt. Xem ra khuyết điểm nhưng vẫn có lý do - nên thêm vào đào luyện bí quyết trao đổi, hiệp thông thì có lẽ đẹp hơn.

Hiên nay theo Công đồng Vat. II cởi mở hơn, muốn có đối thoại, gần nhau hơn. Nhưng chúng ta vẫn thấy vấn đề phàm tục hoá mau lan rộng trong Hội thánh!! Ham tiền, ham danh, ham lạc thú, ham tranh nhau!!

Sống siêu phàm, ít thấy hơn lúc trước! Lo cất nhiều cơ sở; tổ chức lắm công đoàn, bao nhiêu cuộc hành hương! Cách chung có bề ngoài nhiều hơn là sống đạo đức thánh thiện.

Chúng ta hãy kiểm lại xem, điểm nào phải sửa đổi, điểm nào phải tìm lại căn cội, điểm nào phải canh tân, điểm nào đem lại nhiều lợi ích cho Hội thánh.

1135    24-04-2012 16:07:06