Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Năm Đức Tin Mời Gọi Hoán Cải và Đổi Mới - tháng 03 năm 2013

  1. Lời Chủ Chăn   
  2. Tự Sắc Porta Fidei
  3. Diễn Giải
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Trang Linh Mục
  9. Trang Tu Sĩ
  10. Trang Sống Ơn Gọi
  11. Trang Thiếu Nhi
  12. Trang Giới Trẻ
  13. Trang Gia Đình
  14. Trang Giáo Lý Viên
  15. Trang Quới Chức
  16. Sống Đẹp
  17. Chuyện Thường Ngày
  18. Hỏi Đáp Mục Vụ
  19. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN  

Toà Giám Mục Vĩnh Long
103 Đường 3/2
Vĩnh Long

Ngày 26.02.2013

 

V/v Năm ĐứcTin : Hoán Cải và Đổi Mới

Kính gởi : Các Linh Mục,
                 Các Tu Sĩ Nam Nữ,

                 Anh Chị Em Giáo dân

 

Phúc Âm thanh luyện và canh tân  (Bênêđitô XVI,  Buổi tiếp kiến ngày 27.02.2013).

"Nếu Thầy có mặt ở đậy, thì em con đã không chêt" (Gioan 11,21).Một lời trách móc? với một chút tin tưởng, chờ đợi? Chúng ta hãy đến Bêtania, làng của Martha và Maria, là nơi Lazarô đã chết, nhưng được Chúa cho sống lại.  

Thánh Gioan viết: Trước đó mấy hôm, hai chị em Martha và Maria đã cho người đi báo tin cho Chúa Giêsu  "Thầy ơi, người Thầy thương mến đang lâm bệnh" (11,3). Chúa Giêsu thương mến các chị em Martha, Maria và Lazarô. Người biết họ có lòng tin , nên khi lâm vào tình cảnh éo le, họ kêu đến Người .

Nghe tin Lazarô lâm bệnh, Chúa Giêsu còn lưu lại thêm hai ngày (11,6). Tại sao Người không đi ngay?  Người nói với các môn đồ: "Lazarô đã chết. Thầy mừng cho các con, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để các con tin" (1114-15).

Chúa đến Bêtania, mà không đi vào làng. Martha ra đón Người: Phải chi Thầy có mặt ở đây, thì em con không chết. (11,21). Sau đó Maria cũng ra đón Chúa và thân thưa với Người: Nếu Thầy có mặt ở đây,thì em con đã không chết'(11,32).

Như thế, đối với các bà, Chúa Giêsu có thể cứu chữa bệnh nhân khỏi chết. Thế nhưng Người có quyền cho kẻ chết sống lại không?  Xem ra điều nầy khó tin.

Cùng với các bà, Chúa đi đến nơi cất xác Lazarô. Đứng trước ngôi mộ, Chúa mời gọi tin vào Người. Chính Người sẽ làm cho Lazarô được sống lại. Người bảo: "Đem phiến đá nầy đi" (11,39) . Chúa nói về tảng đá đậy cửa huyệt .

Martha do dự: Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày' (11,39),  Thực sự ở đây khó mà tin vào quyền năng phục sinh của Chúa Giêsu.

Người bảo: "Nếu con tin, con sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa" (11,11,40). Người ta đem phiến đá đi. Chúa Giêsu  kêu lớn tiếng: Lazarô, hãy ra khỏi mồ. Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn  (11,43-44).

Bây giờ, Martha có thể hiểu và tin nhiều hơn, mặc dầu trước đó bà đã quả quyết: "Thưa Thầy, vâng. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phải đến trong thế gian" (11,27).

Qua việc cho Lazarô sống lại, Chúa Giêsu báo trước mầu nhiệm phục sinh của Người: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dầu có chêt , cũng sẽ được sống (11,26).  Và sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa làm cho Thánh Tôma Tông Đồ  tuyên xưng  đức tin trọn vẹn:  "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con"(Gioan 20,28).

Đấng đã cho Lazarô sống lại, chính Người cũng đã sống lại từ cõi chết, Người là Chúa và đang hiện diện mời gọi chúng ta bước vào đời sống mới làm một với Người.

Nguy cơ cho đời sống đức tin cần phải tránh:

Lối sống thực dụng  làm lung lạc và sẽ đánh mất đức tin nơi các tín hữu. Não trạng của con người chuộng danh lợi hơn đạo nghĩa, 'cuốn theo chiều gió', lơ là việc cầu nguyện, bê trễ trong việc giữ Ngày Chúa Nhật và lãnh nhận các Bí Tích nhất là Bí Tích Giải Tội, thiếu quan tâm đến ơn Chúa Thánh Thần trong Bí Tích Thêm Sức, coi thường việc học hỏi Giáo lý và Giáo huấn của Hội Thánh, cuối cùng sẽ coi việc cử hành phụng vụ như những thứ tập quán vô vị, không hợp thời.

Những lạm dụng  được phổ biến dần dần nhằm thu hút tính hiếu kỳ của một số các tín hữu: Đặt tay chữa lành, Làm Phép Nước Thánh và rảy Nước Thánh, cung cấp Nước Thánh cho bệnh nhân uống, lối thực hành nầy cổ võ  một cách sống đạo vụ lợi, tin vào linh nghiệm của Nước Thánh hơn tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh hiện diện và nâng đỡ đức tin của chúng ta, tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Quan Phòng muốn giải thoát chúng ta khỏi những vướng mắc tội lỗi, ích kỷ.

Lời giảng thay vì biểu lộ tình yêu trong chân lý, lắm lúc chỉ nhằm đánh vào tình cảm, không liên hệ bao nhiêu với đức tin, với ơn cứu rỗi.

Với xác tin rằng ở đâu có Thiên Chúa, thì ở đó có tương lai, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã muốn để lại cho các tín hữu một Lời Trối, một Di Sản Tinh Thần :

"Cha mong muốn các con cảm nhận niềm vui được làm Kitô hữu, cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho chúng ta".

Chúng ta thương nhớ Đức Thánh Cha già yếu, muốn tiếp tục phục vụ Hội Thánh bằng đời sống cầu nguyện trong thầm lặng.   Chúng ta cầu nguyện cho ngài và cho Hội Thánh, cho các Đức Hồng Y sớm tìm cho Hội Thánh một người kế vị  mới trên ngai toà Thánh Phêrô, cho Hội Thánh luôn sống hiệp thông để rao giảng  Chúa Kitô. 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
      Giám Mục của Anh Chị Em

TỰ SẮC PORTA FIDEI

CHỦ ĐỀ: NĂM ĐỨC TIN MỜI GỌI HOÁN CẢI VÀ ĐỔI MỚI

Cuộc canh tân Giáo hội cũng còn được thực hiện qua chứng từ cuộc sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân lý Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen Gentium, đã khẳng định: "Trong khi Chúa Kitô, 'thánh thiện, vô tội, không tì vết' (Dt 7, 26) không hề biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5, 21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân (Dt 2, 17), thì Giáo hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế, Giáo hội là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi thanh luyện chính mình, không ngừng phải nỗ lực thống hối và canh tân (Porta Fidei, 6).

DIỄN GIẢI

Từ sám hối hay hoán cải được dùng trong tiếng Hy lạp là metanoia, có nghĩa là thay đổi tư tưởng riêng, thay đổi ý tưởng mình. Từ này được dùng trong Kitô Giáo để nói về sự thay đổi tâm linh, đời sống, và trở về để sống gần gủi với Thiên Chúa.

Sám hối là "đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm nữa" (DS 1676). Như vậy, sám hối là nhận biết mình có tội, xót xa vì tội đã phạm và quyết tâm thay đổi, trở về với Chúa,

Bernard Lonergan, thần học gia dòng Tên, đã đề cập tới ý nghĩa của việc "hoán cải ba tầng nấc toàn vẹn";  đó là sự hoán cải về trí tuệ, luân lý, và tôn giáo. 

Hoán cải về trí tuệ

Nói đến trí tuệ là nói đến khả năng xem xét, hiểu biết và đánh giá các sự việc. Hay nói cách khác đó là khả năng nhận biết chân lý của con người.  Nếu chúng ta nhìn đời, nhìn người  bằng cặp mắt màu đen, thì hình ảnh phản chiếu lại nơi ta sẽ có gam màu đen, tiêu cực, lệch lạc và méo mó.

Trong cuộc sống, chúng ta thường sai lầm rất nhiều về mặt nhận thức và hiểu biết. Chúng ta thường hiểu và phản ánh một sự việc theo cái nhìn chủ quan của mình, nhiều lúc chúng ta gán tư tưởng riêng cho sự việc. Hoặc nhiều lúc sự việc và sự thật bị "uốn cong" và "lèo lái" theo mục đích riêng của ta. Đó là sự "bất lương" trong nhận thức và hiểu biết. Nhất là trong việc trình bày chân lý, trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. Người ta nói rằng: "Nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng nửa sự thật thì không còn là sự thật nữa". Cần phải để ý về điểm này để tránh những sai lạc và méo mó trong nhận thức và hơn hết là để đạt tới sự thật khách quan, sự thật tự thân nó.

Hoán cải về luân lý

Hoán cải về luân lý là chọn lựa và quyết định điều gì thực sự là tốt, thiện hảo, ngay cả khi có sự đối nghịch với chính những ước muốn và thỏa mãn riêng của ta.

Tôi chọn lựa và sống theo điều thiện hảo, hay tôi làm điều thiện vì tự thân nó là một giá trị đáng làm, chứ không chỉ vì "tôi thích" hay vì nó làm thỏa mãn những nhu cầu tâm lý của tôi. Ví dụ: Tôi giúp người nghèo và làm việc bác ái, vì đó là một giá trị đáng làm, chứ không phải làm để được người khác biết đến, được khen ngợi hay vì lợi ích riêng thúc đẩy. Cùng một vấn đề nhưng hai cách làm mang lại giá trị luân lý hoàn toàn khác nhau.

Vì thế, một người tốt đích thực không chỉ "tỏ ra mình là người tốt" bên ngoài mà phải thực sự tốt tự bên trong, tốt tự thân.

Hoán cải về tôn giáo

Nếu niềm tin và lòng yêu mến Thiên Chúa của người kitô hữu chỉ dừng lại trên bình diện lý trí như hiểu một số điều về giáo lý, thuộc một số kinh; hoặc chỉ dựa trên những tình cảm nhân loại chóng qua; hay chỉ thực hành một số việc đạo đức, thì niềm tin đó chưa thực sự dấn thân trọn vẹn và toàn vẹn con người cho Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI  trong loạt bài Giáo Lý về Năm Đức Tin, lần thứ 17, thứ Tư 13-2-2013 vừa qua với chủ đề "Những cơn cám dỗ của Chúa Giê-su và cuộc hoán cải trở về với Nước Thiên Chúa" đã suy tư về cuộc chiến đấu của Chúa Giê-su trước những cám dỗ trong hoang địa, dẫn đến câu hỏi căn bản: điều gì thực sự quan trọng trong cuộc sống của tôi? Và đâu là chổ đứng của Thiên Chúa trong đời sống của tôi?

 

Đức Thánh Cha nói:

Vượt qua cám dỗ để đặt mình phục tùng Thiên Chúa, cũng như vượt qua những sở thích riêng hay đặt chúng vào một góc để rồi sắp đặt lại cho đúng vị trí vốn có, nghĩa là đặt Thiên Chúa vào chỗ nhất của đời sống mình, ấy chính là một hành trình mà mỗi người Ki-tô hữu luôn phải đi trở lại. "Hoán cải" là một lời mời mà chúng ta sẽ được nghe nhiều lần trong Mùa Chay này.

"Hoán cải"nghĩa là bước theo Đức Giêsu bằng cách để cho Tin Mừng của Người hướng dẫn đời sống cụ thể, nghĩa là để cho Thiên Chúa biến đổi chúng ta, không còn nghĩ rằng chúng ta là những người duy nhất xây dựng nên cuộc sống của mình; nghĩa là nhận biết chúng ta là thụ tạo, phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, vào tình yêu của Người, chỉ khi "đánh mất" cuộc sống của chúng ta nơi Người chúng ta có thể tìm thấy được nó.

Hoán cải có nghĩa là hãy để Thiên Chúa biến đổi chúng ta, và đừng nghĩ thế này nữa rằng chính chúng ta mới là nhà kiến tạo cho chính mình.

Và Hoán cải nghĩa là hãy chân nhận chúng ta là phận thụ tạo mà thôi, chúng ta được sống là nhờ Thiên Chúa, nhờ vào tình yêu của Ngài, thế nhưng không đơn thuần là "phó mặc" đời sống chúng ta cho Ngài, mà là chúng ta cũng phải trông chừng/trách nhiệm với đời sống của mình.

Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đưa ra những chọn lựa của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa. Mỗi ngày hãy trở nên Ki-tô hữu hơn, cũng như đừng coi mình chỉ là một hậu quả đơn thuần của sự kiện sống trong một xã hội có gốc Ki-tô giáo, nghĩa là với những ai được sinh ra trong gia đình Ki-tô giáo và được giáo dục tôn giáo, thì mỗi ngày hãy canh tân quyết chọn làm Ki-tô hữu của mình, đó là hãy dành cho Thiên Chúa chỗ nhất trong đời sống của mình; nghĩa là đứng trước những cám dỗ mà một nền văn hóa bị tục hóa đang lôi kéo, trước những tiêu chuẩn phán đoán rất ư tạm bợ, người Ki-tô hữu hãy canh tân lại chọn lựa làm Ki-tô hữu của mình.

Đức Thánh Cha kết thúc Bài Huấn Giáo: Hoán cải nghĩa là không còn khép mình lại trong việc tìm kiếm thành công, danh vọng và địa vị, nhưng là để cho chân lý, niềm tin vào Thiên Chúa và tình yêu trở nên điều quan trọng trong những điều nhỏ bé thường ngày.

Do đó, sự hoán cải tôn giáo là sự trở về với Thiên Chúa, để  Ngài chiếm chổ nhất trong tâm hồn và yêu mến Ngài bằng toàn bộ con người và đời sống của chúng ta.

Đó là sự trở về, gắn bó và sống hoàn toàn cho Đấng Tuyệt Đối bằng một tình yêu như Kinh Thánh nói: "Yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực ngươi" (Dnl 6,5). Điều nầy bao hàm ý nghĩa: trước hết, là yêu mến Thiên Chúa với toàn bộ con người chúng ta;  thứ đến, là đặt Thiên Chúa ở chỗ nhất và quan trọng nhất trong bậc thang giá trị để chọn lựa, phán đoán và hành động, và từ đó để "yêu thương anh em như chính mình vậy" (Mt 19,19).

Nguồn: RadioVaticana, 13-12-2013: Bài Giáo Lý thứ 17 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI; lamhong.org: Lm Phê-rô Nguyễn Văn Hương, Sự Hoán Cải Toàn Vẹn.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Những ai tiếp xúc Chúa Giêsu, tin vào Lời Chúa, họ ngay lập tức có sự hoán cải nội tâm và đổi mới. Quyền năng Chúa, sức mạnh của Lời Chúa hoán cải và đổi mới họ theoý ý Chúa. Năm Đức Tin mời gọi ta mạnh tin hơn. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: "Đức tin con đã cứu chữa con". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, thanh lọc đức tin mình khỏi phù phiếm, hoán cải và đổi mới đức tin mình ngày càng phù hợp với mạc khải của Chúa.

2. Chúa phán: "Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu rỗi". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu hoán cải nội tâm, xa lánh dịp tội, tránh những niềm tin lầm lạc, và canh tân đức tin mình theo lời Hội Thánh dạy.

3. Chúa phán: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu khi tin vào Lời Chúa dạy, thì cũng biết ăn năn sám hối tội lỗi, và thay đổi cuộc sống theo đúng như Lời Chúa dạy.

4. Chúa phán: "Ai có đức tin bằng hạt cải, thì có thể đổi núi dời non". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết thực hành nhiều việc lành việc đạo, những đòi hỏi của mùa chay để làm tăng trưởng đức tin mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người tin mà được sống đời đời. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con sống Mùa Chay, sống Năm Đức Tin cách có hiệu quả là đức tin lớn mạnh, biết hoán cải và đổi mới cuộc sống theo ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TIN -  HOÁN CẢI - ĐỔI MỚI

Trong các sách Tin mừng, nhiều lần Chúa Giêsu gặp gỡ những người đau yếu bệnh tật, người thu thuế tội lỗi, người bị bách hại, ném đá... Chúa Giêsu đã chữa lành họ cả thể xác lẫn tinh thần và nhiều lần sau khi chữa lành bệnh cho họ Người nói: "con hãy về và đừng phạm tội nữa" (Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người đau liệt 38 năm tại cửa Chiên đền thờ). Chúa Giêsu không những muốn tha thứ cho người ta mà còn muốn cho họ được tốt hơn, đổi mới hơn. Như thế, Chúa Giêsu mời gọi tin vào Ngài không phải bằng một đức tin bất động nhưng phải là một niềm tin sống động và đổi mới, một niềm tin luôn hướng về Ngài là cùng đích của sự hiệp thông với Thiên Chúa.

Trong Tin mừng, nhiều người đã được hoán cải và đổi mới nhờ gặp và tin vào Chúa Giêsu như: Maria Mađalêna, Lêvi, Giakêu... Những con người này sẽ là bỏ đi, sẽ đi vào ngõ cụt nếu không gặp được Chúa và tin vào Người. Giakêu là một thí dụ điển hình rõ rệt nhất.

Lúc ấy, Đức Giêsu tới cửa thánh Giêricô và đã chữa lành một ngưòi mù. Thông tin này chắc chắn phải loan truyền nhanh chóng. Và một trong những người đầu tiên biết tin này hẳn là Giakêu. Ông chẳng những là người thu thuế, hạng người bị người Do thái khinh miệt vì làm tay sai cho ngoại bang, làm giầu bất chính, tội nhân công khai mà ông còn là trưởng của những người thu thuế, vì thế, sự khinh miệt của người Do thái dành cho ông càng nặng nề hơn.

Nhưng niềm tin và sự hoán cải có lẽ đã manh nha trong tâm hồn ông ngay từ lúc ông nghe biết về Đức Giêsu, và tha thiết muốn gặp Ngài. Điều đó chưa thể hiện bằng lời lẽ công khai, nhưng bằng hành vi công khai khi trèo lên cây sung bên vệ đường để nhìn Đức Giêsu đi qua. Tin mừng cho biết vì ông thấp người nên phải làm thế. Nhưng đường đường là một quan chức thuế vụ, chức tước đâu phải nhỏ mà làm như thế. Nếu không có một ước muốn hoán cải mãnh liệt thì ông đã không dám táo bạo trèo lên cây như vậy. Đó là chuyện của trẻ con, không phải của người lớn, càng không phải của người có địa vị như ông. Trèo lên cây xem Chúa đi qua, tức là ông coi trọng Chúa hơn danh giá của mình.

Với cái nhìn tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất, Chúa Giêsu đi bước trước để khai mở. Ngài nhận ra tâm trạng và ước muốn hoán cải của Giakêu qua tính cách bên ngoài của ông, nên Ngài cất tiếng gọi: "Giakêu xuống mau đi, vì hôm nay Ta đến trọ nhà ông". Giakêu thật sự náo nức, ngỡ ngàng: "Ông vội vàng tuột xuống và mừng rỡ đón rước Ngài". Trong khi đó thì dân chúng xì xầm phê phán Đức Giêsu: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào". Dân chúng nói cũng phải thôi, một tiên tri như Chúa Giêsu mà lại đến cư ngụ trong nhà người tội lỗi.

Thế rồi Đức Giêsu vào nhà Giakêu với thái độ thân thiết, chẳng đòi hỏi ông điều gì, cũng chẳng bắt ông phải hoán cải hay bỏ nghề thu thuế. Nhưng ánh mắt, lời nói, thái độ của Đức Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng ông tan chảy. Những gì xưa kia trói buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Vui mừng và sung sướng vì sự hiện diện của Chúa, ông tự động đáp lại bằng tất cả tấm lòng: "Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". Quả thực, tin và hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu.

Lời tuyên bố của Giakêu hẳn cũng nhắc cho ta lời của một người Biệt Phái lên đền thờ cầu nguyện, được Luca ghi lại trong một dụ ngôn trước đó. Người Biệt Phái này thưa với Thiên Chúa: "Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con"(Lc 18,12). Tuy nhiên, giữa hai lời đó, một của người khoe khoang làm tròn nhiệm vụ, một của người quảng đại vì được ơn Chúa tác động.

Lời tuyên bố của Giakêu còn hàm ý cho người khác hiểu rằng: Chúa đã chọn đúng nhà, và người mà Chúa giao tiếp không xấu như các người tưỏng đâu! Đừng công kích Chúa nữa. Giakêu mạnh mẽ bênh vực Chúa là Đấng ông tin tưởng.

Việc gặp gỡ Chúa khiến Giakêu bị mất mát nhiều, trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông cũng được bình an và hạnh phúc hơn xưa nhiều. Những mất mát bên ngoài chẳng là gì. Nếu không dám mất đi cái gì, thì cũng chẳng thêm được cái gì. Những cái mất đó là những cái đáng phải mất, đáng phải trút bỏ, để sau khi trống trải thì Chúa mới có thể đổ vào sự sống mới. Từ nay, cuộc đời Giakêu đã được đổi mới nhờ tin vào Chúa Giêsu

Hành trình tin, hoán cải và đổi mới của Gia kêu cũng là hành trình của mỗi người Kitô hữu, tin vào Chúa để thấy tình yêu của Người, để hoán cải lòng mình cho xứng với tình yêu ấy và thanh thản bước đi trên con đường đổi mới vì được tình yêu Chúa soi dẫn.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 26. THƯ GỬI CHO PHILÊMÔN (Phm)

1/ Ai là tác giả lá thư gửi cho Philêmôn?   

Tác giả đã tự giới thiệu mình ở đầu thư như sau: "Phaolô, tù nhân của Đức Giêsu Kitô, cùng với người anh em là Timôthêô gửi lời thăm anh Philêmôn thân mến". (Plm 1)

2/ Phaolô viết thư này cho ai?   

Cho Philêmôn là "cộng sự viên thân mến cùng chị Aphia và Archippô, chiến hữu của chúng tôi, làm một với Hội Thánh họp tại nhà anh" (1-2).

3/ Philêmôn, Aphia và Archippô là những ai, sống tại đâu?    Ba người có thể là bà con hay bạn bè thân thiết, cũng có thể là vợ chồng và con. Có lẽ sống tại Côlôssê vì Onêsimus được nhắc tới câu 10 và Epaphas trong câu 23 cũng được nhắc tới trong thư gửi giáo đoàn Côlôssê. Có thể Philêmôn là một thương gia ở Thành Phố Côlôssê.

4/ Phaolô viết thư này có mục đích gì?   

Phaolô viết thư này nhằm giải hòa Philêmôn với Onêsimus người nô lệ có lẽ đã làm điều gì phật ý chủ nên đã chạy trốn. Từ đó Phaolô tạo lập một mối giao hòa mới với Onêsimus " không còn là nô lệ mà là như người anh em rất thân mến" (1, 16).

5/ Lá thư được viết lúc nào và viết tại đâu?    Lá thư có thể được viết năm 62 và được viết trong tù vì c.1 thánh Phaolô viết ngài là "một tù nhân của Đức Kitô" cũng như c.10 "Onêsimus, đứa con của tôi, tôi đã sinh ra trong xiềng xích" và c.23 "Epaphas người bạn tù với tôi trong Đức Kitô". Rồi ngài bày tỏ hy vọng những lời cầu nguyện của bạn bè thân hữu ngài sẽ được thả tự do c.22.

Lời Chúa: "Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện" (Phm 4).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết sống trong tình yêu, để đời con được sống trong hạnh phúc. Những lúc con để lòng thù hằn anh em, đời con chẳng hạnh phúc, mà chính là con tự đày đọa mình. Xin cho con biết sống xứng đáng là con cái Chúa, xứng đáng với danh hiệu làm môn đệ của Chúa Giêsu qua việc biết yêu thương và tha thứ. Amen.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

CÁCH THỨC BẦU ĐỨC GIÁO HOÀNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Trong tâm tình của những người con, chúng ta hiệp thông và cầu nguyện cho Giáo hội mẹ chúng ta trong sự kiện bầu Đức Tân Giáo Hoàng vào những ngày đầu tháng ba này. Để hiệp thông cách trọn vẹn, chúng ta cùng tìm hiểu Tông Hiến Universi Dominici Gregis (Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa) về cách thức bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Cách thức từng tự như sau:

1. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ.

Trong giai đoạn "trống tòa", Đức Hồng Y Nhiếp Chính (Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh), tạm thời điều hành Giáo Triều cho tới khi có Đức Giáo Hoàng mới.

Đức Hồng Y niên trưởng Hồng Y đoàn (hiện nay là ĐHY Angelo Sodano), sẽ triệu tập và chủ sự các cuộc họp khoáng đại để bàn luận về những nhu cầu và thách đố Giáo hội đang đối diện trong thời đại. Đồng thời các ngài cũng chuẩn bị cho việc bầu Giáo Hoàng mới, được gọi là Mật Tuyển Viện. Cuộc họp đầu tiên sẽ diễn ra vào 9g30 sáng ngày 04 tháng 3.

Như vậy, Đức Hồng Y Bertone phụ trách công việc hành chính của Giáo Triều; Đức Hồng Y Sodano phụ trách hướng dẫn Hồng Y Đoàn về mặt tinh thần để chuẩn bị cho cuộc bầu Đức Tân Giáo Hoàng sắp tới.

Khi các Đức Hồng Y trên khắp thế giới đã tề tựu về Rôma theo ngày tháng đã được ấn định, các Hồng Y cử tri bắt đầu các buổi họp khoáng đại dưới sự chủ tọa của Đức Hồng Y niên trưởng. Các Hồng Y được nhận bản Tông Hiến Universi Dominici Gregis. Tiếp đó lần lượt từng vị tuyên thệ tuân thủ những chỉ thị của Tông Hiến và tuyệt đối giữ bí mật về tất cả mọi việc liên quan đến cuộc bầu Đức Tân Giáo Hoàng (x. UDG 12).

2. TIẾN TRÌNH CHUẨN BỊ BẦU CỬ.

Theo Tông Hiến Universi Dominici Gregis, chỉ có những Hồng Y dưới 80 tuổi (kể từ ngày Đức Giáo Hoàng qua đời hoặc từ nhiệm) mới có quyền tham gia Mật Nghị (Conclave) bầu Đức Giáo Hoàng mới (x. UDG. 33).

Mật nghị bầu Đức Giáo Hoàng sẽ diễn ra bên trong lãnh thổ của Giáo Triều trong những khu vực và tòa nhà đã được ấn định dành riêng cho việc này (x.UDG 41). Cụ thể lần nầy các Hồng Y sẽ cư ngụ tại tòa nhà Domus Sanctae Marthae (x. UDG 42), cách Nguyện Đường Sixtina chừng hơn 300m. Tòa nhà hai tầng này có 106 phòng (gồm phòng làm việc, phòng ngủ, phòng tắm) và 22 phòng đơn.

Một điều rất được nhấn mạnh trong Tông Hiến là tính bảo mật nghiêm nhặt của Mật Nghị (x.UDG 43). Kể từ lúc ấn định việc bắt đầu cuộc bầu cử cho đến lúc có Đức Giáo Hoàng mới tòa nhà Domus Sanctae Marthae và nhà nguyện Sixtina phải được đóng kín và canh giữ nghiêm nhặt cho đến khi bầu cử hoàn tất. Cách riêng, cũng cần nhờ các chuyên viên đáng tin cậy để bảo đảm không có các thiết bị thu âm, truyền thanh và truyền hình được lắp đặt ở những nơi kể trên, đặc biệt là Nhà nguyện Sixtina, nơi sẽ diễn ra các vòng bầu phiếu. Những ai vi phạm sẽ bị nghiêm phạt theo quyết định của Đức Giáo Hoàng tương lai (x.UDG 55). Cả khu vực Giáo Triều cũng phải được tổ chức để bảo đảm bí mật cũng như diễn tiến bầu cử được dễ dàng. Đặc biệt là không để cho bất cứ ai tiếp cận với các Đức Hồng Y cử tri khi các ngài di chuyển từ tòa nhà Domus Sanctae Marthae đến Điện Giáo Hoàng.

Trong suốt thời gian diễn ra cuộc bầu cử các Đức Hồng Y sẽ không có bất cứ một tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp nào với thế giới bên ngoài, sẽ không liên lạc thư từ, điện thoại hay bằng những phương tiện truyền thông khác với những nguời ngoài khuôn khổ nơi diễn ra cuộc bầu cử, trừ những chuyện đặc biệt khẩn cấp phải đựợc chuẩn nhận bởi Đức Hồng Y Nhiếp Chính và 3 Hồng Y phụ tá (x. UDG 44). Mọi phương tiện truyền thông hoàn toàn giới hạn. Các Đức Hồng Y sẽ không được xem báo hay tạp chí, không nghe radio hay xem truyền hình, không điện thoại hoặc điện thư, không gửi hoặc nhận thư tín từ bên ngoài thành phố Vatican (x.UDG57).

Trong thời gian bầu cử, một số người cần thiết khác được phép phụ giúp các Hồng Y. Tất cả đều cư ngụ chung tại toà nhà Domus Sanctae Marthae, và đều phải tuyên thệ tuyệt đối giữ bí mật về mọi việc xảy ra trong tiến trình bầu cử. Nếu vi phạm tính bí mật bằng lời nói, chữ viết hay dấu hiệu hay bằng cách nào khác sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết, dành riêng cho Tòa Thánh (x. UDG 58).

3.THỂ THỨC BẦU CỬ.

Vòng bầu phiếu đầu tiên:

Cuộc bầu cử chính thức bắt đầu bằng một Thánh Lễ trọng thể "Pro eligendo Papa " vào buổi sáng tại Đền Thánh Phêrô. Sau đó buổi chiều các Hồng Y tụ họp tại nhà nguyện Pauline của Điện Giáo Hoàng trong cuộc rước trọng thể đến Nhà Nguyện Sixtina, và nơi đây một lần nữa các ngài đặt tay lên Sách Thánh long trọng tuyên thệ tuân theo đúng các chỉ thị của Tông Hiến, tôn trọng kết qủa bầu cử, bênh vực và bảo vệ quyền lợi Giáo Hội, và đặc biệt "tuyệt đối giữ bí mật về tất cả mọi sự việc liên quan đến cuộc bầu cử Đức Giáo Hoàng ".

Tiếp theo vào buổi chiều, các Hồng Y ngồi vào ghế được kê chung quanh các bức tường của nguyện đường, và vòng bầu phiếu lần thứ nhất bắt đầu, chỉ có một vòng bỏ phiếu trong ngày đầu tiên mà thôi.

Tông hiến "Universi Dominici Gregis" quy định chỉ có một cách bầu duy nhất là bỏ phiếu kín "per scrutinium" (x. UDG 62).

Thủ tục bầu phiếu sẽ diễn ra gồm ba giai đoạn:

1. Tiền bầu phiếu: bốc thăm để chọn ra 3 vị giám sát, 3 vị thu phiếu, 3 vị kiểm phiếu ( x.UDG 64).

2. Bầu phiếu: bỏ lá phiếu vào bình đựng, trộn lẫn các phiếu bầu, mở phiếu bầu.( x.UDG 66)

3. Hậu bầu phiếu: Tính phiếu để đắc cử, kiểm tra lại các phiếu, đốt phiếu bầu (x.UDG 70).

Các Đức Hồng Y được trao phiếu bầu cử, trong đó có ghi hàng chữ tiếng La tinh "Eligo in...summum Pontificem", có nghĩa là "Tôi xin bầu...lên chức vị Giáo Hoàng". Các Hồng Y viết vào phiếu bầu tên người mà mình muốn bầu cho, gấp lại làm tư, giơ cao phiếu bầu và lần lượt từng vị tiến lên đọc to lời thề như sau: "Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ phán xét tôi, làm chứng là tôi bầu cho người mà, trước mặt Chúa, tôi xét là đáng được bầu". Sau đó đặt phiếu bầu của mình vào một bình lớn có khay che để trên bàn thờ. Sau khi tất cả các Đức Hồng Y đã bỏ phiếu vào bình. Một vị giám sát sẽ lắc bình nhiều lần để trộn lẫn các phiếu. Rồi sau đó một vị khác sẽ kiểm từng phiếu một. Từng phiếu bầu được lần lượt mở ra và đọc lớn tên người được ghi trên phiếu bầu để các Hồng Y cùng theo dõi kết qủa. Nếu tên vị nào được hai phần ba tổng số phiếu bầu, vị đó được đắc cử Giáo Hoàng.

Đức Hồng Y Nhiếp Chính sẽ viết báo cáo về các buổi bầu phiếu cũng như các kết quả. Báo cáo này cần được 3 Hồng Y phụ tá chuẩn nhận. Bản này sẽ được trình cho Đức Giáo Hoàng mới và lưu vào văn khố (x. UDG 71).

Từ vòng bầu phiếu thứ hai:

Ngày đầu tiên của cuộc bầu cử nếu không có vị nào đắc cử trong vòng bầu phiếu thứ nhất, cuộc bầu cử được tiếp tục ngày hôm sau. Mỗi ngày, bầu hai lần buổi sáng và hai lần buổi chiều. Cứ sau mỗi hai vòng bầu cử, tất cả các phiếu bầu và giấy tờ ghi chép đều phải đốt bỏ. Các phiếu bầu được tẩm chất hóa học khi đốt khói ra màu đen, dấu hiệu cho thế giới bên ngoài biết là chưa bầu được Giáo Hoàng.

Sau 3 ngày bầu cử, nếu chưa bầu đựơc ai làm Giáo Hoàng, các Hồng Y có thể quyết định nghỉ một ngày để cầu nguyện, bàn thảo và nghe một giáo huấn ngắn của vị Niên Trưởng Hồng Y đẳng Phó Tế trước khi tiếp tục cuộc bầu cử (x. UDG74). Sau đó cứ sau mỗi 7 vòng bầu cử, lại có thể tạm nghỉ để cầu nguyện, trao đổi và nghe giáo huấn lần lượt của Niên Truởng Hồng Y đẳng Linh Mục rồi Niên Trưởng Hồng Y đẳng Giám mục. Sau vòng bầu phiếu thứ 30, nếu vẫn chưa có vị nào đủ 2/3 số phiếu đòi hỏi, Đức Hồng Y Nhiếp Chính sẽ mời các Hồng Y phát biểu cách tiến hành bầu cử. Tùy theo quyết định của các Hồng Y - với đa số tương đối - mà có thể tiếp tục bầu như trước hoặc để đắc cử chỉ cần đa số tuyệt đối hay theo cách giữ lại hai vị nhiều phiếu nhất ở vòng 30 làm ứng viên cho vòng bầu thứ 31. Kể từ vòng thứ 31, có thể chỉ cần đa số tuyệt đối hay đa số qúa bán là được đắc cử Giáo Hoàng (x. UDG 75).

Cuộc bầu cử cứ tiếp tục cho tới khi bầu được Giáo Hoàng mới. Không có giới hạn thời gian bầu cử là bao lâu, và cũng không giới hạn số vòng bầu cử là bao nhiêu. Tuy nhiên trên thực tế, cuộc bầu cử chỉ cần vài ngày là các Hồng Y bầu được Giáo Hoàng mới. Từ năm 1831 đến nay, chưa có cuộc bầu cử Giáo Hoàng nào kéo dài hơn 4 ngày.

4. ĐỨC GIÁO HOÀNG MỚI

Khi có một vị đã đạt được số phiếu bầu cần thiết, ngài sẽ được vị Niên Trưởng Hồng Y Đoàn hỏi: "Ngài có chấp nhận cuộc bầu cử theo giáo luật đặt ngài làm Giáo Hoàng không?" Và ngay sau khi ngài trả lời ưng thuận thì ngài sẽ được hỏi: "Ngài lấy danh hiệu Giáo Hoàng là gì?". Việc đặt danh hiệu Giáo Hoàng là truyền thống bắt đầu có từ thế kỷ thứ X.

Nếu vị được đắc cử đã là Giám Mục thì ngay lập tức ngài trở thành Giám Mục Giáo Phận Rôma, là Giáo Hoàng đứng đầu Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu và là thủ lãnh của Giám mục Đoàn toàn thế giới ( x. Giáo Luật 331).

Nếu người đắc cử chưa có chức Giám Mục thì ngài sẽ được tấn phong ngay (x.UDG 88). Vị Niên Trưởng Hồng Y Đoàn sẽ đảm nhận việc phong chức cho vị đắc cử Giáo Hoàng. Mật nghị kết thúc ngay khi vị tân Giáo Hoàng chấp thuận việc bầu cử ngài.

Theo truyền thống, dấu hiệu đầu tiên cho thế giới bên ngoài biết đã bầu được Giáo Hoàng mới, đó là cho khói trắng bốc lên từ ống khói Nguyện Đường Sixtina do việc đốt các phiếu bầu và các giấy tờ ghi chép vòng bầu cuối cùng có tẩm chất hóa học tạo thành khói trắng. Lần này thì thì khói trắng sẽ bốc lên kèm theo chuông báo. Vì lần trước khi bầu được Đức Giáo Hoàng khói trắng lại có màu xám khiến giáo dân đứng ngoài không phân biệt được. Tiếp theo, các Hồng Y lần lượt tiến lên chúc mừng và hứa vâng phục Đức Giáo Hoàng mới.

Từ ban công tiền đình Vatican Basilica, Niên trưởng Hồng Y đẳng Phó Tế công bố với thế giới bằng tiếng La tinh "Habemus Papam", nghĩa là "Chúng ta có Giáo Hoàng", và tuyên bố danh hiệu của vị tân Giáo Hoàng. Đức Tân Giáo Hoàng xuất hiện trên ban công ban huấn từ và phép lành cho thành Roma và Thế Giới "Urbi et Orbi ".

Sau nghi lễ nhậm chức long trọng của Đức Tân Giáo Hoàng, vào thời điểm thích hợp, Ngài sẽ đến nhận nhiệm sở tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Lateranô là Nhà Thờ Chánh Tòa Giáo Phận Rôma.

TRANG LINH MỤC

Trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần
Suy niệm  Ga 13, 31-38.

Kinh nghiệm của thánh Phêrô cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người môn đệ sau này. Chúa đã chọn thánh Phêrô, mặc dầu ông đầy bất toàn và yếu đuối; Chúa chọn người linh mục, mặc dù bản thân người linh mục cũng chẳng hơn gì những người anh em của mình, vẫn yếu đuối, vẫn bất trung, vẫn chối Chúa không những ba lần mà còn hơn thế nữa. Đối diện với những giới hạn của bản thân mình, người linh mục cảm nhận rằng tất cả đều là ân ban, là quà tặng nhưng không, là tình yêu vô lượng hải hà của Thiên Chúa. Một khi thấy được hồng ân của Chúa, xin cho người linh mục cũng thấy được chính bản thân mình.

Linh mục với sự  bất toàn, yếu đuối

Chẳng ai trong chúng ta dám tự hào là mình mạnh mẽ. Hơn một lần chúng ta cảm nhận thế nào là sự yếu đuối của bản thân, có thể thất trung với Chúa bất cứ lúc nào ; thế mà, cũng chính con người yếu đuối ấy lại được Chúa kêu gọi, được chọn lựa để trở nên người linh mục của Chúa. Liệu tôi có thể chu toàn sứ mạng của người linh mục ? Liệu tôi có thể vượt qua được những yếu đuối, bất toàn của mình để bớt bất xứng hơn trước tình thương của Chúa ?... Trước những vấn nạn đại loại như thế, xin được chia sẻ một chút tâm tình Phó Thác & Tin Tưởng.

"Hãy yên tâm, Chính Thầy đây, đừng sợ". Lời Chúa trấn an các môn đệ cũng là điều Chúa nói với người linh mục trong cơn thử thách, xao xuyến. Lời Chúa nhắc nhở : "Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi". Bền đỗ đến cùng có nghĩa là vững tin đến cùng, sống trong ơn nghĩa Chúa đến cùng. Luôn biết nhìn lên Chúa, biết cậy trông và phó thác nơi Chúa : vận mạng, tương lai, thành công, thất bại, thánh thiện, tội lỗi..., tóm lại là trọn vẹn cuộc sống.

Niềm tin sẽ giúp người linh mục vượt thắng mọi lo âu và sợ hãi. Niềm tin đó mời gọi lên đường : "Ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi" (Lc 14,27). Vác thập giá là mang lấy những đau khổ do hậu quả của tội lỗi (St 3,16-19), là đón nhận những yếu đuối của bản thân và biến nó trở thành thánh giá qua sự trung thành với Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến (Rm 12,1).

Tin tưởng không có nghĩa là không còn xao xuyến, không còn gục ngã. Chúng ta học kinh nghiệm này nơi thánh Phêrô, thánh nhân đã thốt ra với Chúa một lời cam kết rất tuyệt vời : "Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy". Có người cho rằng thánh Phêrô bốc đồng, nghĩ sao nói vậy chẳng kịp suy nghĩ gì, vì thế Chúa mới đánh thức ông : "Thật vậy sao? Thầy nói cho anh biết, đêm nay, gà chưa gáy thì anh đã chối Thầy ba lần". Và sự thể diễn ra thế nào, hẳn chúng ta đã rõ : một sự thất trung khủng khiếp ! Nhưng không phải thế là đặt dấu chấm hết cho cuộc hành trình, Thiên Chúa tự mở cho ông một con đường mới để vượt qua bên kia sự thất bại.

Nhận ra mình yếu đuối và bất toàn, để người linh mục của Chúa biết khiêm tốn hơn, biết cậy trông vào Chúa hơn là tin tưởng vào sức riêng mình. Chúa nói với các môn đệ rất rõ: "Không có Thầy, anh em không làm gì được" (Ga 18,5).
Linh mục cũng là tội nhân

Linh mục được mời gọi "nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện", nhưng linh mục chưa phải là hoàn thiện. Trước nhan Chúa, mọi người đều là tội nhân. Người linh mục được trao phó sứ  mạng là muối, là ánh sáng cho đời, là những nắm men làm cho thế giới dậy men Tin mừng (Xc. Mt 13,13) ; nhưng trong cuộc đời người linh mục có thể có những lúc nhạt muối nhiệt tình, có những lúc ẩn khuất trong bóng tối, và thiếu men yêu thương.

Chọn cho mình vị trí là tội nhân, để người linh mục không bao giờ được phép khinh chê hay kết án anh chị em của mình ; chọn cho mình vị trí là tội nhân, để người linh mục thấy mình cần cảm thương hơn với anh chị em đồng loại ; chọn cho mình vị trí là tội nhân, để người linh mục có thể tìm được một nơi ẩn náu trong trái tim nhân lành của Thiên Chúa. Chỉ khi nào ý thức mình là tội nhân, người linh mục mới cần thấy mình phải hoán cải, hoán cải mỗi ngày để đón nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa ; và cũng chính qua việc hoán cải này, người linh mục lại được mời gọi trở nên dấu chỉ của lòng thương xót Thiên Chúa hằng thi thố cho dân Người.

Tôi muốn dùng bức tranh của họa sĩ Rembrandt thế kỷ XVII, vẽ chân dung "người cha nhân hậu", để làm hình ảnh gợi ý kết thúc những dòng suy tư này. Trong bức tranh của tác giả, người ta thấy người cha già mắt như đã mù lòa, hai tay ôm lấy bờ vai người con đang quỳ gục đầu vào ngực mình. Tác giả khắc họa người con trong tấm thân khắc khổ, tấm áo lót ngả mầu cáu bẩn, đôi xăng đan mòn vẹt gót, chiếc mất chiếc còn, cái đầu trọc lóc như một tên tử tội.

Thật là cảm động, sau những ngày lưu lạc, chỉ lúc này đây người con mới tìm lại được chính mình, chỉ nơi trái tim cha, người con mới thấy tim mình rộn lên nhịp sống. Đôi tay cha đã đón nhận con, và cái đầu trọc lóc của con một lần nữa như được làm trẻ thơ trở về cung lòng mẹ, đó cũng là nơi con ra đi, và là nơi hôm nay con lại trở về.

Đức Giêsu là hình ảnh người cha đó. Người là hiện thân của Chúa Cha, Đấng giàu lòng xót thương, Người là người bạn đang lặng lẽ bên đời tôi. Cuối cùng Người là Đấng cứu độ tôi, ban cho tôi sức sống mới, phục hồi phẩm giá cho tôi và đưa tôi vào dự tiệc mừng.
Linh mục vẫn cần một ánh nhìn thông cảm

Thánh Augustinô nói :

"Làm Giám mục cho anh em tôi rất sợ ; làm tín hữu đối với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem lại ơn cứu độ".

Quả thực, ơn gọi căn bản và cao quý nhất của mỗi người, đó là ơn gọi được làm Kitô hữu. Qua Bí tích Thanh tẩy, người tín hữu được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, được quy tụ thành dân Thiên Chúa, được chia sẻ ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Dù là giáo dân hay giáo sĩ, tất cả đều bình đẳng và được trân trọng như những bộ phận khác nhau trong cùng một thân thể.

Thế nhưng không biết từ bao giờ, bậc giáo sỹ vẫn được đề cao hơn bậc giáo dân. Vô hình chung, người linh mục cho mình được quyền hơn người khác, và phần lớn người tín hữu thuần thành cũng muốn dành cho mình quyền "được nghe dạy bảo". Người tín hữu có thể thần tượng người linh mục, ép người linh mục vào những khuôn mẫu có sẵn của mình với những đức tính cao cả, phẩm chất nổi bật ... và một khi người linh mục không sống đúng được với khuôn mẫu ấy, thì lập tức "thần tượng" bị sụp đổ. Người linh mục cũng cần được cảm thông biết bao, cần được nâng đỡ biết chừng nào !

Quả thực, người linh mục cũng còn nhiều giới hạn, cần phải nên hoàn thiện mỗi ngày. Được trao phó coi sóc đoàn chiên, nhưng người linh mục cũng là con chiên vì chỉ có Đức Kitô là mục tử. Được mời gọi để lắng nghe, để cảm thông với anh chị em mình, nhưng đồng thời người linh mục cũng cần được lắng nghe, cần được thông cảm. Được mời gọi thi thố lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng người linh mục cũng cần được đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa và của cộng đoàn. Và chính khi được lắng nghe, được thông cảm, được xót thương như thế, người linh mục càng có khả năng lắng nghe, thông cảm và xót thương người khác. Người linh mục cũng cần một ánh nhìn thông cảm là như vậy.

Một khi ý thức sâu xa sự liên đới với cộng đoàn, ý thức sự liên lụy với cộng đoàn cả trong ân phúc và tội lụy, ý thức mình được chọn lựa giữa cộng đoàn, vì cộng đoàn và cho cộng đoàn, người linh mục được mời gọi sống chan hoà hơn. Xin được mặc lấy tâm tình của thánh Inhaxiô như một lời khẩn nguyện :

"Xin cho con biết phụng sự mà không tính toán, biết chiến đấu không sợ thương tích, biết làm việc không tìm an ủi, biết tận lực không chờ phần thưởng nào khác hơn là biết con làm theo ý Chúa".

Kết luận

Đối diện trước sự bất toàn và yếu đuối của thân phận con người, người linh mục được mời gọi hãy luôn cậy trông vào Chúa. Thiên Chúa thích dùng những gì là yếu đuối để hạ gục những gì hùng mạnh. Chỉ khi nào tự sâu thẳm tâm hồn, người linh mục nhận ra thân phận của mình, thì mới có thể nhận ra tất cả những gì bản thân có thể làm được, đều là ân huệ, là tình thương của Chúa ; và như thế người linh mục chẳng bao giờ có thể tự cao tự đại hay tự mãn về mình.

Có như vậy, ta mới phần nào hiểu được câu nói của thánh Phaolô : "Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi, vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" ; "Ở đâu tội lội đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20).

TRANG TU SĨ

BƯỚC QUAY  VỀ

Chú tôi làm nghề chạy xe ôm. Cái nghề có vẻ quê mùa nghèo khổ, thế nhưng vào thời điểm đó chạy xe ôm lại là nghề hái ra tiền. Hồi đó chẳng có mấy nhà có xe gắn máy, thị trấn lại ở xa nên muốn đi bác sĩ, mua sắm hay đi công việc xa... đều phải nhờ bến "bác xe ôm". Nhờ chạy xe, gia đình chú tôi trở nên khá giả hơn. Thế rồi, nền kinh tế phát triển - đường xá lưu thông... nhà nào cũng có xe gắn máy. Từ đó chú tôi thường xuyên "bị thất nghiệp" nên đâm ra chán nản rượu chè cờ bạc để giết thời gian. Đến một ngày nợ nần chồng chất, các chủ nợ lần lượt kéo đến đòi gia đình thanh toán nợ. Vì không đủ tiền trả nợ nên từng món đồ sang trọng mà chính chú đã sắm trước đây đều bị lấy đi, cả chiếc xe cũng bị bán luôn. Mọi người ngỡ ngàng đau xót khi vỡ lẽ ra chú bị bài bạc làm cho tán gia bạn sản. Từ đó chú trốn biệt 5 - 6 năm trời không tin tức mặc cho ông bà nội đêm nhớ ngày mong đau lòng tuổi xế bóng. Cuối cùng chú cũng trở gia đình về nhưng sự tự ty mặc cảm và lòng oán hận trong lòng đã làm cho chú từ đó không đến Nhà Thờ nữa mặc cho mọi người khuyên bảo năn nỉ.

Trong một lần về phép, tôi đến thăm chú với hy vọng chú sẽ nghe lọt tai những lời khuyên nhủ của đứa cháu đi tu mà quay về với Chúa, nhưng đón tôi trước cửa nhà với gương mặt lạnh lùng và lời chào hỏi qua loa "Bà sơ mới về hả?", rồi chú đi luôn xuống nhà dưới mặc tôi đứng đó ngần ngại. Suốt một tuần trôi qua đều đặn tôi vẫn không đủ can đảm mở lời với chú dù chỉ một lần. Trước ngày đi, tôi đến chào tạm biệt chú:

- Chú ơi sáng mai con đi rồi, chú ở nhà mạnh khỏe. Cầu nguyện nhiều cho con với nhé.

- Bà Sơ thánh thiện rồi cần gì ai cầu nguyện cho nữa. Chú tội lỗi quá đâu dám . . .  -  Chú  thấp giọng và cúi mặt.

- Trời đất! Chú làm như con đi tu là đã là thánh rồi vậy. Con còn cần nhiều lời cầu nguyện của mọi người lắm! - Vừa nói tôi vừa ôm lấy cánh tay gầy guộc của chú.

Khoảng cách lạnh lùng không còn nữa, chú cháu tôi cùng cười và ngồi xuống gốc cây vú sữa sau hè. Tôi kể cho chú nghe cuộc sống trong nhà tu, tâm sự với chú những yếu đuối sai phạm trong đời tu do tính nóng nảy cố chấp của bản thân. Chú lặng thinh ngồi nghe tôi nói, cảm thông với những khó khăn của tôi nhưng đồng thời mối thắt trong lòng chú cũng dần dần được tháo mở... Rồi chú bỗng thở dài:

-  Lâu quá chú không đi Lễ, chắc Chúa quên chú luôn rồi.

- Không đâu chú, Chúa đang đợi chú. Chú đến gặp Cha sở xưng tội và đi Nhà Thờ lại nghe chú để còn đi dự lễ khấn của con nữa chứ!

Chú không hứa cũng chẳng cho tôi một tia hy vọng nhưng tôi không bỏ cuộc và tự nhủ "con làm hết sức mình, mọi việc còn lại xin phó thác cho Chúa". Chiều đó về nhà tôi cố tình mở to bài hát mà tôi tâm đắc mà mỗi khi gặp khó khăn thử thách tôi vẫn thường nghe. Tôi mở đi mở lại bài hát cố ý để chú nghe thấy: "Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con... Nhưng lòng Chúa vẫn bao la, dù cho bao phen con yếu đuối, thành tâm xin ăn năn thống hối là Ngài lại thứ tha...". Đúng như mong đợi của tôi, lời bài hát kia đã đánh động lòng chú. Sau khi tôi đi, chú qua nhà mượn đĩa hát ấy về nghe đi nghe lại nhiều lần, không lâu sau chú đã trở lại đạo. Giờ đây chú không những đi Lễ Chúa Nhật như ngày trước mà còn đi Lễ Misa mỗi ngày.  Hôm về nhà gặp lại chú vui vẻ bảo tôi: "Đi Lễ thứ năm nào chú cũng nhớ cầu nguyện cho Bà Sơ được ơn bền đỗ để chú còn có dịp đi dự lễ khấn trọn đời của con nữa chứ". Tôi vui mừng không kể xiết và luôn xem đó như phép lạ, là Hồng ân cao cả của tình thương Chúa dành đặc biệt cho gia đình chúng tôi.

Trong mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và kêu gọi con người hoán cải đời sống mình để được ơn tha thứ tội lỗi. Năm Đức Tin mời gọi mỗi người chúng ta hãy hoán cải một cách đích thực để được đổi mới. Hãy trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ chúng ta. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Tình Yêu của Người vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được và Người sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai tín trung cậy trông nơi Người. Xin cho mọi Kitô hữu biết giữ vững niềm tin vào Đức Kitô trước những khó khăn  thách đố của thời đại để được lớn lên trong Ân Sủng và Tình Yêu của Người.

MTG Cái Nhum

NHÌN LẠI ĐỂ HOÁN CẢI

Những ngày Tết náo nhiệt, tưng bừng đã nhanh chóng trôi qua, nhường chỗ cho thời gian chay tịnh êm đềm, tĩnh lặng.  Năm nay, mùa Xuân tràn trề sức sống của người Công Giáo Việt Nam như khiêm tốn hơn trước một mùa Chay ân sủng - mùa của hoán cải và đổi mới tâm hồn, để sức sống mãnh liệt từ ơn cứu độ được tuôn trào.  Cùng với Giáo Hội, tôi bước vào mùa chay trong Năm Đức Tin này với lời kêu gọi hoán cải và đổi mới

Tôi lần về nguồn gốc của lời kêu gọi hoán cải.  Đây là sứ điệp căn bản của Tin Mừng và là nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: "Anh em hãy sám hối (hoán cải) và tin vào Tin Mừng" (Mc 1, 5). Lời mời gọi đó được Giáo Hội nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ và đặc biệt trong mùa Chay thánh này.

Ngồi trước Thánh Thể, tôi thầm ôn lại hai biến cố lịch sử đáng ghi nhớ xảy ra trong những ngày mừng Tết Quý Tỵ, để suy nghĩ và tìm cho mình một phương thế hoán cải hữu hiệu.  Đó là việc Đức Thánh Cha Beneđictô XVI tuyên bố từ nhiệm hôm Mồng Hai Tết 11. 02. 1013.  Trước đó, vào ngày 31. 01. 2013, Giáo Phận Vĩnh Long cũng đã đón nhận một đại tang: Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, Nguyên Giám Mục Giáo Phận đã được Chúa gọi về.  Hai sự kiện quan trọng này là những đề tài sống động thôi thúc tôi sống mùa Chay 2013 và Năm Đức Tin một cách ý nghĩa.

Trước hết, đối với sự ra đi của Đức Cha Giacôbê. Nhìn vào đời sống và cái chết của Vị Hiền Phụ khả kính 99 tuổi hiền lành và thánh thiện ấy, tôi thấy mình cần phải thay đổi.  Đức Cha đã sống một cuộc đời yêu thương và lao nhọc vì giáo phận, đúng như khẩu hiệu Ngài đã chọn khi nhận lãnh chức vụ Giám Mục: "Amor et Labor".  Vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đoàn chiên, Ngài đã đương đầu với biết bao thử thách trong giai đoạn khó khăn của đất nước để giữ gìn gia sản quý báu nhất cho đoàn chiên là đức tin.  Ngài đã tự nguyện ở lại trong giáo phận để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với đoàn chiên, và cuối cùng ra đi trong sự nhớ thương của đoàn con thân yêu trong giáo phận. Tình yêu chính là động lực giúp Đức Cha sống tốt sứ mạng chủ chăn của mình.  Còn tôi, gần nửa đời người làm con Chúa trong ơn gọi thánh hiến, tôi chưa dám quên mình vì sợ phiền toái, sợ hy sinh.  Tình yêu nhỏ nhen của tôi chỉ có thể làm vui lòng một ít người mà tôi ưa thích.  Sự hy sinh nhỏ bé của tôi chỉ có thể phục vụ lợi ích riêng tư.  Tôi thật xấu hổ khi nhìn lại cách sống của mình.  Tôi cần phải thay đổi...

Biến cố thứ hai là quyết định từ nhiệm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Điều này chắc chắn là ngoài tầm suy nghĩ của mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội, nhưng không ngoài dự định của Thiên Chúa.  Đó là điều mà bất cứ ai cũng phải thừa nhận, dù mới nghe qua không ít người bàng hoàng sửng sốt.  Cả tôi cũng không muốn tin đó là sự thật.  Phải, tôi khó tin vì lòng tin của tôi còn bị chi phối nhiều bởi tình cảm tự nhiên của con người, vì điều xảy ra không như tôi mong đợi, thay vì đón nhận thánh ý Thiên Chúa với tâm hồn khiêm tốn và phó thác. 

Có nhiều dư luận khác nhau xung quanh sự kiện này, kể cả những bình luận có ý xuyên tạc Tòa Thánh Vatican và Giáo Hội.  Nhưng tôi chắc chắn một điều: biến cố từ nhiệm của Đức Thánh Cha là một sứ điệp cho mọi thành phần Giáo Hội trong Năm Đức Tin.  Đây cũng là bài học cho tôi và nhiều người có thiện chí muốn sống theo tinh thần Tin Mừng - bài học về lòng tín thác, sự khiêm tốn và tinh thần từ bỏ.

Thật vậy, Đức Thánh Cha rất khiêm tốn khi nhìn nhận sự yếu kém về tình trạng sức khỏe của mình trước một trách nhiệm nặng nề, nên Ngài đã can đảm để làm một quyết định táo bạo như thế.  Và một khi đã quyết định rời bỏ chức vụ cai quản Giáo Hội Công Giáo, Đức Thánh Cha hoàn toàn tin tưởng, tín thác vào Chúa Kitô.  Ngài nói: "Tôi được nâng đỡ và soi sáng nhờ xác tín Giáo Hội là của Chúa Kitô, Đấng sẽ không bao giờ để cho Giáo Hội bị thiếu sự hướng dẫn và chăm sóc của Ngài."

Việc Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI từ nhiệm một lần nữa nhắc nhở tôi phải hoán cải.  Là con của Thiên Chúa là Cha, tôi quyết luôn luôn yêu mến Người, tin tưởng tuyệt đối, và phó thác tất cả trong tay Người, bất chấp những khó khăn thử thách, những cám dỗ và quyến rũ của một thế giới đầy cãm bẫy hôm nay.  Là người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu, tôi phải theo gương Người: yêu thương anh chị em với tình yêu của Chúa qua những việc làm cụ thể. 

Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho Giáo Hội Chúa, cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, và Đức Tân Giáo Hoàng. Xin Chúa Thánh Thần luôn ban ơn thánh hóa, gìn giữ và canh tân Giáo Hội, nhất là trong những ngày này, để Giáo Hội có được một Vị Lãnh Đạo Giáo Hội như lòng Chúa ước mong. 

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

SỐNG KHÓ NGHÈO

Muốn làm điều gì cho có kết quả mỹ mãn cũng cần có sự chuẩn bị như phương pháp và đường hướng để thi hành công việc ấy. Cũng vậy, việc tận hiến cho Thiên Chúa để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân của những tâm hồn quảng đại cũng cần có những phương thế. Một trong những phương thế hữu hiệu để dâng mình cho Chúa trọn vẹn là sống khó nghèo. Khó nghèo không phải là phương thế do con người khởi xướng nhưng chính Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã tha thiết mời gọi tất cả những ai muốn theo sát chân Ngài là hãy sống khó nghèo như Ngài. Trong một lần trả lời cho vị thủ lãnh giàu có muốn theo Chúa, Chúa Giêsu đã nói: "ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi." (Lc 18, 22-23). Đối với Chúa Giêsu, giàu có không phải là cái tội nhưng nó như một trở ngại và nguy hiểm cho những ai muốn nên thánh "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa." (Lc 18, 25). Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ của những kẻ "đi hàng hai" "không ai có thể làm tôi hai chủ...." Vậy, ta phải sống nhân đức này thế nào? Và nó có giá trị gì đối với đời tu ?

Khi bàn tới những giá trị của sự khó nghèo, cả Kinh Thánh lẫn thần học không chủ trương bần cùng hoá xã hội. Sự bần cùng, nghèo nàn là một tai ương xã hội, trái ngược với ý định của Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, cũng muốn cho con người liên đới với nhau, nhường cơm sẻ áo cho nhau. Sự bần cùng, xét như một hậu quả của ích kỷ và bất công, cần phải bị diệt trừ. Khi nói tới giá trị thần học của sự khó nghèo, ta phải hiểu là "khó nghèo về tinh thần", như thánh Matthêô đã chú giải phúc thứ nhất: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (5,3). Thật vậy, không phải bất cứ người nghèo nào cũng đương nhiên trở thành thánh nhân. Vì Thánh Kinh không lên án sự giàu sang, tài sản vật chất. Tuy nhiên, Kinh Thánh cảnh giác con người về lòng tham vô độ, cũng như sự khai thác bóc lột tha nhân để làm giàu: "Tiền là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đầy tớ tốt". Sự nghèo khó ở đây là chấp nhận và sống theo tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô.

  • Tinh thần khó nghèo đặt con người trong thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo không có gì vênh váo. Họ chỉ có bàn tay trắng, và trông chờ mọi sự nơi Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta coi kho tàng của chúng ta là của cải vật chất thì lòng chúng ta cũng sẽ nằm lỳ ở đó, và chúng ta sẽ trở thành nô lệ cho mọi ham muốn hưởng thụ, không thể nào được tự do đích thực để vươn lên cùng Thiên Chúa là Cha của chúng ta và là cùng đích tối hậu.
  • Sự khó nghèo của người tu muốn bắt chước Chúa Kitô trong thái độ tự hạ, siêu thoát. Ngài không chiếm hữu gì hết. Người trả lời "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58). Đức Kitô làm gương cho ta về sự phó thác nơi Thiên Chúa, chỉ lo tìm sự công chính của Chúa, còn những việc khác để Cha trên trời lo liệu cho. Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "anh em lo lắng về những việc khác làm gì? " (Lc 12, 26). Một hình thức đặc biệt để phục vụ Nước Chúa trong đời Kitô hữu là đi tới người nghèo để mang lại tình thương của Chúa cho họ.
  • Sự nghèo khó của người tu mang chiều kích của yêu thương bác ái, qua việc chia sẻ với cộng đoàn tất cả tài sản lợi tức của mình. Sự chia sẻ đó bắt đầu từ những anh chị em trong cộng đoàn, và dần dần mở rộng tương quan tới các người túng thiếu khác. Vì mỗi một người sinh ra đều mang một nét nào đó của Thiên Chúa, một phần mảnh nào đó của Đấng Tạo Hoá. Dưới cái nhìn của đức tin và mạc khải, người Kitô hữu nhận ra tất cả đều là anh em cùng một cha trên trời; cùng một nguồn mạch được phát sinh từ Thiên Chúa. Cho nên nỗi khổ của người anh em cũng chính là nỗi khổ của chính bản thân mình.
  • Sự khó nghèo tình nguyện của người tu mang giá trị chứng tá cho sự tự do thanh thoát đối với tài sản. Giữa một xã hội thiên về chiếm đoạt, làm giàu, trục lợi thì sự khó nghèo của những người theo Chúa là lời cảnh tỉnh rằng tiền tài thay vì tạo nên hạnh phúc thì có thể lôi con người vào tròng nô lệ. Tiền bạc của cải vật chất không phải là cùng đích của đời người, mà chúng chỉ là những cái tạm bợ, những cái chóng qua. Duy chỉ có Thiên Chúa mới là nguồn hạnh phúc chân thật và trường cửu của con người. Cho nên "tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho" (Lc 12, 31). Đây chính là khuôn vàng thước ngọc Chúa Giêsu đã để lại cho những ai dấn bước đi theo Ngài.

Khó nghèo là một trong những phương thế cần thiết cho tất cả những ai muốn dấn thân theo Chúa. Khó nghèo nghe như tiêu cực nhưng thực chất khó nghèo ở đây hoàn toàn mang tính tích cực vì nó được đặt trên nền tảng của đức mến. Đức mến chi phối hoàn toàn đời sống khó nghèo thì việc sống khó nghèo kia mới có ý nghĩa.  Sống khó nghèo không phải là để nghèo khó cách lập dị nhưng khó nghèo là để tự do rong rủi theo Chúa và truyền bá đức tin.  Mỗi thời Giáo Hội có một chỉ dẫn riêng về đức khó nghèo cũng như mỗi cộng đoàn có một cách sống khó nghèo nhưng tựu trung vẫn là những trăn trở làm sao nên giống Chúa hơn. Khó nghèo rất cần thiết cho đời sống tận hiến. Một nhà dòng không thể tồn tại nếu thiếu vắng đời sống khó nghèo. Một người không thể nói tôi có thể theo Chúa mà không cần sống theo gương của Chúa Giêsu Kitô.

TRANG THIẾU NHI

Năm đức tin mời gọi các thành phần dân Chúa tích cực củng cố đời sống đức tin. Một trong những việc được mời gọi thực hiện là tích cực hoán cải và đổi mới đời sống cho phù hợp với đức tin.

Đức tin là một hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho các kitô hữu. Hồng ân cao quý ấy như viên ngọc được chứa đựng trong những bình sành dễ vỡ là những con người yếu đuối mỏng giòn. Do đó, đức tin của người kitô hữu sẽ bị mai một theo thời gian. Những cám dỗ trong đời sống hằng ngày dễ làm cho người kitô hữu không còn giữ được chất tinh ròng của đức tin ngày họ đón nhận khi chịu phép rửa tội.

Chính Chúa Giêsu trong sau khi ăn chay 40 ngày trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng vinh hoa phú quý trần gian. Tiếc thay ma quỷ đã không làm gì được Người. Ngược lại, ma quỷ còn được Chúa Giêsu nhắc là phải thờ lạy một mình Thiên Chúa (Lc 4, 8). Chỉ khi nào thật sự kiên định như Chúa Giêsu ta mới có thể không bị ma quỷ quyến rũ.

Hoán cải đời sống là ta có được một sự kiên định như Chúa Giêsu một lòng tin không thay đổi vào Thiên Chúa tình yêu. Dù trăm ngàn lần vấp ngã theo tội lỗi nhưng ta không nản lòng không thua cuộc. Vì "Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con" (Tv 27, 10). Thiên Chúa không ngoảnh mặt làm ngơ khi ta thật lòng ăn năn sám hội tội lỗi của mình.

Tin vào Chúa để trở về và đổi mới là việc làm cần thiết của đời sống đức tin.

Người trẻ trong thế giới hôm nay rất dễ bị ru ngủ trong thế giới hữu hình với những gì cân đo đong đếm được. Từ đó, ta dễ đi tìm những gì được gọi là hạnh phúc tạm bợ chóng qua.

Hoán cải và đổi mới đời sống giúp ta tăng trưởng hơn trong đời sống đức tin vào Thiên Chúa vô hình hằng có đời đời. Việc làm này hướng ta đến hạnh phúc thật và vững bền. Việc làm này tuy khó thực hiện nhưng nếu ta cảm nghiệm được tình thương bao la của Thiên Chúa đang rộng tay chờ đón và mời gọi ta trở về chắc hẳn ta sẽ cố gắng quyết tâm thực hiện.  

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý Cuối Cùng của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin

"Tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và tôi luôn biết rằng thuyền Hội Thánh không phải là của tôi, không phải là của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và Chúa sẽ không để nó bị chìm"

Dưới đây là bản dịch bài giáo lý trong buổi triều yết cuối cùng của ĐTC Bênêđictô XVI, tại Quảng trường Thánh Phêrô hôm Thứ Tư, ngày 27 tháng 2 năm 2013.

Các Huynh Đệ đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục!

Thưa các Vị Hữu Trách!

Anh Chị Em thân mến!

Cảm ơn anh chị em đã đến dự buổi triều yết cuối cùng của triều đại Giáo Hoàng của tôi với một số người thật đông như thế này.

Hết lòng cảm ơn anh chị em! Tôi thực sự xúc động! Và tôi thấy Hội Thánh vẫn đang sống! Và tôi nghĩ rằng chúng ta cũng phải cảm tạ Đấng Tạo Hóa vì thời tiết đẹp mà Ngài ban cho chúng ta lúc này khi vẫn còn trong mùa đông.

Như Thánh Tông Đồ Phaolô trong bài Thánh Kinh mà chúng ta đã nghe, trong lòng tôi, tôi cũng cảm thấy phải đặc biệt cảm tạ Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và làm cho Hội Thánh tăng trưởng, là Đấng đang gieo Lời của Ngài và do đó nuôi dưỡng đức tin của Dân Ngài. Vào lúc này, tâm hồn tôi mở ra và ôm ấp toàn thể Hội Thánh trên toàn thế giới, và cảm tạ Thiên Chúa vì "những tin tức" mà trong những năm trong sứ vụ Giáo Hoàng, tôi đã có thể nhận được về đức tin trong Chúa Giêsu Kitô, và về tình yêu được luân chuyển một cách thực sự trong Thân Thể của Hội Thánh và làm cho nó sống trong tình yêu, cùng về niềm hy vọng mở ra cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta đến sự viên mãn của cuộc sống, hướng về quê hương trên trời.

Tôi cảm thấy rằng tôi mang tất cả anh chị em trong lời cầu nguyện, trong một hiện tại là hiện tại của Thiên Chúa, ở đó tôi gom lại mọi cuộc gặp gỡ, mọi chuyến tông du, mọi cuộc thăm viếng mục vụ. Tôi gom lại tất cả mọi sự và tất cả mọi người trong cầu nguyện để phó thác cho Chúa, ngõ hầu chúng ta có thể biết trọn Thánh Ý Ngài, trong tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết tâm linh, và để chúng ta hành xử một cách xứng đáng với Ngài và tình yêu của Ngài, bằng cách mang lại hoa quả trong mọi việc lành (x.Colossians 1:9-10).

Vào lúc này, tôi cảm thấy rất tin tưởng, bởi vì tôi biết, tất cả chúng ta đều biết, rằng lời chân lý của Tin Mừng là sức mạnh của Hội Thánh, đó là sự sống của Hội Thánh. Tin Mừng thanh tẩy và đổi mới, sinh hoa kết quả, ở bất cứ nơi nào cộng đồng tín hữu nghe và nhận được ân sủng của Thiên Chúa trong chân lý và bác ái. Đây là sự tin tưởng của tôi, đây là niềm vui của tôi.

Khi ấy vào ngày 19 tháng tư gần tám năm trước đây, tôi đã chấp nhận gánh vác sứ vụ của Thánh Phêrô, tôi đã có một niềm tin chắc chắn luôn luôn đi kèm với tôi: niềm tin chắc chắn này vào sự sống của Hội Thánh, vào Lời Chúa. Vào lúc ấy, như tôi đã nói nhiều lần, những lời đã được vọng lên trong tâm hồn tôi là: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?  Đây là một gánh nặng lớn mà Chúa đật trên đôi vai con, nhưng nếu đây là điều Chúa muốn con làm, thì vâng lời Chúa, con sẽ thả lưới, với niềm tin tưởng chắc chắn rằng Chúa sẽ hướng dẫn con, ngay cả với tất cả những yếu đuối của con. Và tám năm sau, tôi có thể nói rằng Chúa đã thực sự hướng dẫn tôi, Người đã gần gũi tôi, tôi có thể cảm thấy sự hiện diện của Người mỗi ngày. Đó là một phần của cuộc hành trình của Hội Thánh là cuộc hành trình đã có những lúc vui mừng và sáng sủa, nhưng cũng có những lúc khó khăn.  Tôi đã cảm thấy như Thánh Phêrô và các Tông Đồ trong thuyền trên Biển Hồ Galilêa, Chúa đã cho chúng ta nhiều ngày có nắng và làn gió nhẹ, những ngày đánh được rất nhiều cá, và có những lần biển động cùng gió nghịch chiều, như trong toàn thể lịch sử Hội Thánh, và Chúa dường như ngủ. Nhưng tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và tôi luôn biết rằng thuyền Hội Thánh không phải là của tôi, không phải là của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và Chúa sẽ không để nó bị chìm, Chính Người dẫn đạo nó, chắc chắn là qua những kẻ mà Người đã chọn, bởi vì Người muốn như thế.  Đây là một điều chắc chắn mà không có gì có thể làm lu mờ. Và đó là lý do tại sao hôm nay tâm hồn tôi tràn đầy lòng biết ơn Thiên Chúa vì Ngài đã không bao giờ để cho toàn thể  Hội Thánh hoặc tôi thiếu sự an ủi, ánh sáng và tình yêu của Ngài.

Chúng ta đang ở trong Năm Đức Tin, mà tôi đã muốn củng cố đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta trong một bối cảnh dường như đang càng ngày càng đẩy nó vào hậu trường.  Tôi muốn mời mỗi người tái xác nhận niềm tin tưởng vững chắc vào Chúa, tín thác như trẻ em nằm trong vòng tay Thiên Chúa, yên tâm rằng những cánh tay ấy luôn nâng đỡ chúng ta và là điều cho phép chúng ta bước đi mỗi ngày, ngay cả trong những mệt nhọc. Tôi muốn mỗi người cảm thấy mình được yêu thương bởi Thiên Chúa ấy là Đấng đã ban Con Ngài cho chúng ta và cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Ngài. Tôi muốn mọi người cảm nhận được niềm vui của việc là một Kitô hữu. Trong một kinh nguyện đẹp được đọc hàng ngày vào buổi sáng, có nói rằng: "Lạy Thiên Chúa của con, con thờ lạy Chúa, con yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Con cảm tạ Chúa vì đã dựng nên con, đã cho con làm Kitô hữu...." Phải, chúng ta rất vui mừng vì hồng ân đức tin, là điều quý giá nhất, mà không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta được! Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì mỗi ngày này, bằng cầu nguyện và bằng một đời sống Kitô hữu thích hợp. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhưng cũng mong chúng ta yêu mến Ngài!

Nhưng tôi không chỉ muốn cám ơn Thiên Chúa mà thôi vào lúc này. Một Giáo Hoàng không hướng dẫn thuyền của Thánh Phêrô một mình, ngay cả khi trách nhiệm đầu tiên là của ngài. Tôi đã không bao giờ cảm thấy cô đơn trong việc gánh vác niềm vui và gánh nặng của sứ vụ giáo hoàng. Chúa đã đặt tôi cạnh tôi nhiều người, với lòng quảng đại và tình yêu đối với Thiên Chúa và Hội Thánh, đã giúp đỡ và gần gũi tôi. Trước hết là các anh em, các hiền huynh Hồng Y thân yêu: sự khôn ngoan, các lời khuyên và tình bằng hữu của các anh em thật là quý giá đối với tôi; các cộng sự viên của tôi, bắt đầu với Hồng Y Quốc Vụ Khanh, là người đã trung thành đồng hành với tôi trong những năm qua, Quốc Vụ Khanh và toàn thể Giáo Triều Rôma, cũng như tất cả những người phục vụ Tòa Thánh trong các lĩnh vực khác nhau: có nhiều khuôn mặt không lộ ra ngoài, họ vẫn ở trong bóng tối, nhưng chính trong sự thinh lặng này, trong công việc hàng ngày của họ, trong tinh thần đức tin và khiêm tốn, họ đã là sự nâng đỡ vững chắc và đáng tin cậy của tôi. Tôi đặc biệt nghĩ đến Hội Thánh ở Giáo Phận Rôma, Giáo Phận của tôi! Tôi không thể quên các anh em trong Hàng Giám Mục và Linh Mục, những người được thánh hiến và toàn thể Dân Thiên Chúa: trong các cuộc thăm viếng mục vụ, các buổi gặp gỡ, các buổi triều yết, các chuyến tông du của tôi, tôi đã luôn luôn cảm nhận được sự chăm sóc tuyệt vời và tình cảm sâu đặm, nhưng tôi cũng yêu thương tất cả và từng người, không trừ ai, với đức ái mục vụ là điều nằm ở trong lòng của mọi mục tử, đặc biệt là Giám Mục Rôma, Người Kế Vị Thánh Tông Đồ Phêrô. Mỗi ngày, tôi đã nhớ đến từng người trong anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi, với tất cả tấm lòng của một người cha.

Vậy, tôi muốn gửi lời chào mừng và cám ơn đến tất cả mọi người: tâm hồn của một Giáo Hoàng trải rộng ra cho toàn thế giới. Và tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi dành cho Ngoại Giao Đoàn cạnh Tòa Thánh, là cơ quan làm cho một đại gia đình của các quốc gia được hiện diện. Ở đây tôi cũng nghĩ đến tất cả những người làm việc cho một truyền thông tốt đẹp và cảm ơn họ vì việc phục vụ quan trọng của họ.

Vào lúc này, tôi muốn hết lòng cảm ơn tất cả mọi người trên thế giới, trong những tuần gần đây đã gửi cho tôi những bằng chứng cảm động của sự chú ý, tình bằng hữu và cầu nguyện. Vâng, Giáo Hoàng không bao giờ cô đơn, giờ đây tôi lại cảm nghiệm nó một lần nữa một cách quá tuyệt vời đến nỗi nó chạm vào quả tim tôi. Giáo Hoàng thuộc về tất cả mọi người và rất nhiều người cảm thấy rất gần với ngài.  Thật sự là tôi nhận được những lá thư từ những nhân vật quan trọng trên thế giới - từ các quốc trưởng, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các đại diện của thế giới văn hóa và nhiều người khác. Nhưng tôi cũng nhận được rất nhiều thư từ những người bình dân, họ viết cho tôi chỉ đơn thuần từ lòng họ và làm cho tôi cảm thấy tình cảm của họ, phát sinh từ việc cùng nhau ở với Chúa Giêsu Kitô, trong Hội Thánh. Những người này không viết cho tôi theo cách một người viết, như viết cho một hoàng tử hoặc một vĩ nhân mà họ không biết. Họ viết cho tôi như anh chị em, như con cái trai gái, với ý thức về những mối liên hệ gia đình rất trìu mến. Ở đây người ta có thể trước hết cảm nhận được Hội Thánh là gì, không phải là một tổ chức, một hiệp hội với mục đích tôn giáo hay nhân đạo, nhưng một thân thể sống động, một cộng đồng anh chị em trong Thân Thể của Chúa Giêsu Kitô, Đấng hợp nhất tất cả chúng ta. Để kinh nghiệm Hội Thánh theo cách này và hẩu như có thể sờ bằng hai bàn tay của anh chị em quyền năng của chân lý và tình yêu của Hội Thánh, là một nguồn vui, trong một thời kỳ mà nhiều người nói về sự suy thoái của Hội Thánh. Chúng ta hãy xem Hội Thánh vẫn sống động hôm nay như thế nào!

Trong những tháng gần đây, tôi cảm thấy sức của tôi đã giảm, và trong cầu nguyện tôi đã tha thiết nài xin Chúa soi sáng cho tôi bằng ánh sáng của Người để tôi quyết định đúng không phải vì lợi ích của tôi, nhưng vì lợi ích của Hội Thánh. Tôi đã thực hiện bước này trong ý thức đầy đủ về mức độ nghiêm trọng cũng như sự mới mẻ của nó, nhưng với một sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Yêu Hội Thánh cũng có nghĩa là có can đảm để có những lựa chọn khó khăn, đau khổ, nhưng luôn luôn đặt trước mặt mình lợi ích của Hội Thánh chứ không của bản thân mình.

Ở đây, tôi xin mạn phép một lần nữa trở lại ngày 19 tháng 4 năm 2005. Mức độ nghiêm trọng của quyết định cũng nằm chính ở sự thể là từ giây phút đó, tôi đã bận rộn luôn và mãi mãi với Chúa.  Luôn luôn - người nào đảm nhận sứ vụ giáo hoàng không còn có bất kỳ sự riêng tư nào. Người ấy hoàn toàn thuộc về mọi người, thuộc về toàn thể Hội Thánh.  Có thể nói nói rằng đời sống của người ấy hoàn toàn bị mất đi chiều kích riêng tư. Tôi đã kinh nghiệm, và tôi đang kinh nghiệm chính lúc này rằng một người nhận được sự sống khi cho nó đi.  Tôi đã nói trước đây rằng nhiều người yêu Chúa cũng yêu Người Kế Vị Thánh Phêrô và thích ngài, rằng Giáo Hoàng thực sự có anh em và chị em, con trai và con gái trên toàn thế giới, và rằng ngài cảm thấy an toàn trong vòng tay hiệp thông của họ, bởi vì ngài không còn thuộc về mình, mà thuộc về tất cả và tất cả thuộc về ngài.

Cái "luôn luôn" cũng là một cái "mãi mãi" - không có việc trở lại với lãnh vực riêng tư. Quyết định của tôi là từ bỏ việc tích cực thực thi sứ vụ, chứ không phải rút lại sứ vụ này. Tôi sẽ không trở lại đời sống riêng tư, một đời sống du lịch, gặp gỡ, tiếp kiến, hội nghị, vv. Tôi không từ bỏ Thánh Giá, nhưng tôi ở lại một cách mới mẻ với Chúa Chịu Đóng Đinh. Tôi không còn mang quyền bính của chức năng điều hành Hội Thánh nữa, nhưng vẫn còn ở lại trong sứ vụ cầu nguyện, nghĩa là, trong giới hạn của Thánh Phêrô. Thánh Bênêđictô, mà tên ngài tôi mang như Giáo Hoàng, sẽ là một gương sáng vĩ đại cho tôi trong việc này. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường đến một đời sống, tích cực hay tiêu cực, hoàn toàn thuộc về công trình của Thiên Chúa.

Tôi cảm ơn mỗi người và tất cả mọi người vì sự tôn trọng và thông cảm mà với chúng anh chị em đã chấp nhận quyết định quan trọng này. Tôi sẽ tiếp tục đi theo cuộc hành trình của Hội Thánh bằng cầu nguyện và suy niệm, với sự quyết tâm đối với Chúa và Hiền Thê của Người, mà [với Hội Thánh ấy] tôi đã cố gắng sống mỗi ngày đến bây giờ và tôi muốn sống mãi mãi [với Hội Thánh này]. Tôi xin anh chị em hãy nhớ đến tôi trước mặt Thên Chúa, và trên hết là cầu nguyện cho các Hồng Y, là những vị được gọi vào một nhiệm vụ rất quan trọng, và cho Người Kế Vị mới của Thánh Phêrô; nguyện xin Chúa cùng đi với ngài bằng ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta hãy nài xin sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Hội Thánh, để Mẹ đồng hành với mỗi người trong chúng ta và toàn thể cộng đồng Hội Thánh; chúng ta hãy phó thác chính mình cho Mẹ với lòng tin tưởng sâu xa.

Các bạn thân mến! Thiên Chúa hướng dẫn Hội Thánh của Ngài, Ngài luôn luôn nâng đỡ Hội Thánh, và đặc biệt là trong những thời kỳ khó khăn. Chúng ta không bao giờ đánh mất cái nhìn đức tin này, đó là cái nhìn đúng đắn duy nhất về con đường của Hội Thánh và của thế giới. Trong tâm hồn chúng ta, trong tâm hồn mỗi người trong anh chị em, luôn luôn có sự chắc chắn vui mừng rằng Thiên Chúa ở gần chúng ta, rằng Ngài không bỏ rơi chúng ta, Ngài gần chúng ta và bao bọc chúng ta bằng tình yêu của Ngài. Cảm ơn anh chị em!

Nguồn:giaoly.org
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 11. TÍNH DỤC VÀ  HÔN NHÂN (tt)

3. Những lỗi phạm đến đức khiết tịnh và xúc phạm đến phẩm giá Hôn nhân

Những lỗi phạm đến đức khiết tịnh và xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân gồm có:

- Dâm ô là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục trở thành sai trái, khi con người chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình, chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình yêu[7].

- Thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc tình dục. Thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng, vì tự ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích. Làm như vậy, người ta hưởng thụ khoái lạc tình dục bên ngoài "quan hệ tình dục hợp luật luân lý là quan hệ thực hiện một sự hiến thân trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn khổ của tình yêu đích thực[8]."

- Tà dâm là quan hệ xác thịt giữa một người nam và một người nữ chưa lập gia đình. Đây là lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và giới tính của con người, vốn qui về lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái[9].

- Khiêu dâm cố ý phơi bày những hành vi tình dục thầm kín. Chúng xúc phạm đến đức khiết tịnh vì làm biến chất hành vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với nhau[10].

- Mại dâm xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm vì họ biến mình thành trò vui xác thịt cho người mua dâm. Kẻ mua dâm phạm tội nặng nơi bản thân: họ vi phạm đức khiết tịnh đã cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, và làm ô uế thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,15-20). Mại dâm là một đại họa cho xã hội. Mại dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm khinh vì túng bấn, bị hăm dọa hay áp lực xã hội[11].

- Hiếp dâm là dùng bạo lực bắt kẻ khác quan hệ xác thịt với mình. Đây là tội phạm đến công bằng và bác ái. Hiếp dâm xúc phạm nặng nề đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và toàn vẹn thể lý cũng như tinh thần của nạn nhân, gây thương tổn nghiêm trọng có thể kéo dài cả cuộc đời của nạn nhân. Hiếp dâm tự nó là một hành vi xấu xa, tội này lại càng nặng nề hơn nữa, khi cha mẹ hay người giáo dục lạm dụng thân xác các em được ủy thác cho họ[12].

- Đồng tính luyến ái là những liên hệ tính dục giữa những người cùng giới tính[13].

- Ngoại tình là tội vợ chồng thất tín với nhau. Khi hai người nam nữ có quan hệ tính dục với nhau, dù là nhất thời mà trong đó có ít nhất một người đã kết hôn, thì cả hai phạm tội ngoại tình. Đức Kitô lên án tội này ngay cả khi chỉ là một ước muốn[14]. Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm tội ngoại tình[15]. Ngoại tình là điều bất công vì không thực hiện những cam kết của mình, làm tổn hại đến dây liên kết hôn nhân là dấu chỉ của giao ước, vi phạm quyền của người phối ngẫu và xâm phạm định chế hôn nhân khi lỗi phạm hôn ước. Người ấy làm phương hại đến lợi ích của việc sinh sản và của con cái vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ[16].

- Ly dị vi phạm nghiêm trọng luật tự nhiên, phế bỏ khế ước mà vợ chồng đã tự do ưng thuận để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn hại giao ước cứu độ mà bí tích Hôn phối là dấu chỉ. Người tái hôn, sau khi ly dị, phạm tội ngoại tình công khai và thường xuyên: "Nếu người chồng, sau khi đã chia ly với vợ mình, ăn ở với một người phụ nữ khác, thì phạm tội ngoại tình, vì làm cho phụ nữ đó cũng phạm tội ngoại tình; người phụ nữ ăn ở với người đàn ông đó phạm tội ngoại tình vì đã dụ dỗ chồng của người khác" (T. Baxiliô, nguyên tắc luân lý 73). Ly dị là phi luân vì làm xáo trộn gia đình và xã hội. Việc xáo trộn này kéo theo nhiều tổn hại nghiêm trọng: cho người phối ngẫu vì bị ruồng bỏ; cho con cái phải đau khổ vì cha mẹ phân ly, và lắm khi còn bị dằng co không biết theo ai; cho xã hội vì hiệu quả lây lan của nó, nó thực sự là một tai ương cho xã hội[17].

- Đa thê tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông giữa vợ chồng: trực tiếp chối bỏ kế hoạch của Thiên Chúa đã được mặc khải cho ta từ buổi đầu, nghịch với phẩm giá bình đẳng của người nữ và người nam, cả hai hiến thân cho nhau trong một tình yêu trọn vẹn, duy nhất và độc hữu[18].

- Loạn luân là quan hệ tính dục giữa những người họ hàng cùng huyết tộc, mà luật cấm kết hôn với nhau[19]. Thánh Phaolô lên án trọng tội này[20]. Tội loạn luân phá vỡ quan hệ gia đình và cho thấy một sự thoái hóa trở về thú tính[21]. Có thể gọi là loạn luân, những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành đối với trẻ con hoặc thiếu niên đã được ủy thác cho họ. Người phạm tội này phải chịu trách nhiệm gấp đôi: một mặt vì gây gương xấu xâm phạm đến sự toàn vẹn thể lý và luân lý của các người trẻ, và để lại hậu quả tai hại suốt đời, mặt khác vì họ lỗi trách nhiệm giáo dục của mình[22].

- Tự do sống chung là khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng bản chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu.[23] Tất cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ý niệm về gia đình, làm suy giảm cảm thức về lòng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; còn nếu ngoài hôn nhân, thì đó là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích[24].

- Hôn nhân thử là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tạm thời để thử, rồi sau đó, nếu hợp thì sẽ kết hôn. Tuy nhiên, dù họ có quyết tâm kết hôn, cũng không thể bảo vệ giữa họ là chân thật và thủy chung, và nhất là giữ cho quan hệ này khỏi những ý muốn ngông cuồng và nông nổi. Về phương diện luân lý, sự kết hợp xác thịt chỉ hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm; nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát[25].

4 GHI NHỚ :

1. H. Tính dục là gì?

T. Tính dục là khuynh hướng tự nhiên Thiên Chúa đặt nơi con người để tiếp xúc, gặp gỡ với người khác, dù là nam hay nữ, hoặc để người nam và người nữ yêu thương nhau hướng tới hôn nhân và gia đình.

2. H. Tính dục phục vụ cho tình yêu vợ chồng thế nào?

T. Các hành vi tính dục giúp đem lại niềm hoan lạc cho đời sống vợ chồng và làm cho họ gắn bó nên một với nhau một cách sâu xa. Ngoài ra, còn giúp tình yêu vợ chồng mở ngỏ cho sự sống và diễn tả sự phong phú của Thiên Chúa, cũng như góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu.

3. H. Vợ chồng cần nắm vững những nguyên tắc luân lý nào trong đời sống tính dục?

T. Vợ chồng cần nắm vững những nguyên tắc luân lý sau đây:

- Một là các hành vi tính dục được thực hiện trong khuôn khổ hôn nhân đều chính đáng và cao quý.

- Hai là luân lý Công giáo tôn trọng thân xác, nhưng không quá đề cao hành vi tính dục.

- Ba là đời sống hôn nhân Công giáo phải là đời sống trong sạch và tiết độ.

4. H. Sự khiết tịnh trong đời sống hôn nhân là gì?

T. Sự khiết tịnh trong đời sống hôn nhân là biết làm chủ giới tính, nhờ đó vợ chồng ăn ở với nhau một cách tiết độ.

5. H. Có những tội nào phạm đến đức khiết tịnh?

T. Có những tội này là: dâm ô, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm, mại dâm và hiếp dâm.

6. H. Có những tội nào xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân?

T. Có những tội này là: ngoại tình, ly dị, đa phu, đa thê, loạn luân, đồng tính luyến ái và tự do sống chung như vợ chồng.

4 GỢI Ý SUY NGHĨ :

1. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm, nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát. Anh chị nghĩ gì về điều đó?

2. Anh chị nghĩ thế nào về hiện tượng trong xã hội hiện nay: Tự do sống chung - nhiều bạn trẻ chung sống với nhau như vợ chồng mà không cần bất cứ một thủ tục kết hôn nào.

4 CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã tạo dựng nên chúng con có nam có nữ, để như người nam và người nữ chúng con yêu thương nhau và trở nên biểu tượng tình yêu của Chúa.

Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để diễn tả tình yêu của chúng con: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.

Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để chúng con nhận ra nhau, hiểu biết nhau và cùng chia sẻ vui buồn với nhau: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.

Bởi vì Chúa ban cho chúng con một thân xác để giúp chúng con kết hiệp trong tâm hồn trọn vẹn hơn: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.

Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để chúng con ca tụng ngợi khen Chúa: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.

__________________

[7] GLHT 2351

[8] GLHT 2352; x. CDF, déd. "Persona humana" 9

[9] GLHT 2353

[10] x. GLHT 2354; 2523

[11] GLHT 2355

[12] GLHT 2356

[13] x. GLHT 2357

[14] x. Mt 5,27-28

[15] x. Mt 5,32; 19,6; Mc 10,11; 1Cr 6,9-10

[16] GLHT 2380-2381

[17] GLHT 2384-2385

[18] GLHT 2387; x. GĐ 19; MV 47,2

[19] x. Lv 18,7-20

[20] x. 1 Cr 5,1.4-5

[21] GLHT 2388

[22] GLHT 2389

[23] x. GĐ 81

[24] GLHT 2390

[25] GLHT 2391 ; x. GĐ 80

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh
Imprimatur
: Mỹ Tho, ngày 03.09.2004

+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho
   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

GIA ĐÌNH SỐNG ĐỨC TIN

Khi tôi dạy giáo lý cộng đồng hỏi thưa ngày Chúa nhật cho họ đạo đến câu 123: Tại sao trong Hội Thánh lại có tội nhân? Một giáo dân trẻ tuổi khó chịu không muốn tôi giải thích câu này. Vì theo bạn trẻ này, Hội Thánh là thánh thiện là cộng đòan bao gồm những người được lời Chúa cảm hóa soi sáng, qui tụ, hướng dẫn theo một nếp sống mới giống Chúa Giêsu Kitô, nên con hiếu thảo của Chúa, đã được rửa tội, trở nên dồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, làm thành Dân Thiên Chúa, thân thể Chúa Kitô, đền thờ Chúa Thánh Thần, từ đây họ không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ, tha thứ và tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi của họ bằng chính máu châu báu của Ngài. Hội Thánh chỉ gồm những người thánh thiện thôi.

Bạn trẻ mến, đúng thế, khi một người lương chăm chú nghe Lời Chúa, học giáo lý và tập sống đức tin, thì tình thương của Chúa đang dẫn đưa họ vào cuộc sống mới, cuộc sống Kitô hữu. Khi lãnh nhận bí tích rửa tội họ được cùng chôn táng với Chúa Kitô trong cái chết của Ngài, để rồi cùng với Chúa Kitô sống lại trong vinh quang của Chúa Cha, họ có thể bước đi trong sự sống mới. Nhờ đức tin mạnh mẽ, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẽ tuyệt đối của sự sống lại. Con người mang sự thánh thiện của Chúa nơi mình.Tuy nhiên trong cuộc sống thực tế, mỗi giây phút con người phải chọn lựa Chúa, trung thành bước theo Chúa, sống theo ý Chúa, sống đẹp lòng Chúa, họ có thể bị ma quỉ cám dỗ, thế gian, xác thịt lôi kéo sa ngã trở thành tội nhân. Trong tình huống này Hội Thánh lại có tội nhân. Câu trả lời 123 nói rõ: bao lâu còn sống trên trần gian trong cuộc lữ hành đức tin, mọi thành phần của Hội Thánh chưa đạt tới sự thánh thiện hoàn toàn (họ có thể là người thánh thiện, họ cũng có thể là người tội lỗi tùy mức độ trung thành với Chúa hay phản bội người). Nên Hội thánh luôn mời gọi mọi tín hữu tự thanh tẩy và luôn nổ lực sám hối, canh tân. Riêng bạn, bạn thấy mình: có lúc sốt sắng có lúc bê trễ, có lúc hăng hái sống đẹp lòng Chúa, có lúc bê bối làm mất lòng Chúa. Bạn đã là thánh đâu!

Cụ thể, ngay trong gia đình hôm nay, mọi thành viên trong gia đình bạn đều sống  thánh thiện không? Người cha của  bạn ít chữ nghĩa, khống bằng cấp, không trình độ chuyên môn, phải đi làm mướn vất vả cực nhọc để nuôi sống gia đình tạm đủ. Vì công việc lao động cực nhọc, chiều về ông nghĩ: ông phải lấy sức bằng việc ngồi lai rai nhậu ít ly, rồi đi ngủ, ông nại lý do mắc làm nên không đi lễ sang hay chiều, dù thực tế ông có thể đi. Ông làm biếng việc đạo đức. Ông chủ trương: Con cái ông phải lo học, có kiến thức, có bằng cấp, có địa vị xã hội mới làm có tiền, mới thoát nghèo, cho nên ông bảo con cái bỏ mọi việc đi học thêm. Kết quả là con cái ông xa Chúa, không học giáo lý hằng tuần theo cấp tuổi, không đi lễ, không đọc kinh, không làm các việc đạo đức ngoài lễ Chúa nhật và ít phút giáo lý cộng đồng trước lễ. Mẹ cậu, người chăm chỉ sốt sắng, sắp sếp kinh lễ chung hằng ngày với cộng đồng, bà muốn góp ý với cộng đồng, bà muốn góp ý với chồng, với con nhưng không ai nghe bà cả. Bà đành im lặng cho thuận cửa, thuận nhà. Bà âm thầm đau khổ cầu nguyện.

Cha Sở nhìn họ đạo chỉ lo cơm áo, gạo tiền, lo quyền hành danh vọng, lợi lộc thế gian, hưởng thụ cuộc đời, không lo sống đạo đức mà ngao ngán. Ngài đặt câu hỏi: ho đạo cứ tranh đua theo đường này cuối cùng sẽ ra sao? Ngài cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân họ đạo. Ngài họp qưới chức đặt vấn đề để quý vị suy nghĩ, góp ý giải quyết vấn đề: Nhân ngày lễ Chúa nhật I Mùa Chay năm C. Ngài dọn bài giảng kỹ càng, vắn gọn, với giọng nói thuyết phục nài xin mọi người trong họ đạo chúng ta bắt chước Chúa Giê su chống trả ma quỷ cám dỗ:

  1. Chúa Giê su luôn đứng về phía Chúa Cha tin tưởng, cậy trông phó thác yêu mến Chúa Cha tuyệt đối, dựa vào lời Chúa để chống lại quỷ dữ:
  2. Chúa Giê su luôn từ bỏ mọi sự vâng theo thánh ý Chúa, sống đẹp lòng Chúa nên dễ phát giác những âm mưu quỉ quyệt của tên cám dỗ.

Suốt 40 ngày chay tịnh và cầu nguyện, ma quỉ không ngừng cám dỗ Chúa. Nhưng có ba cơn cám dỗ tiêu biểu:

- Chúa Giê su đói, quỉ dụ dỗ Chúa dùng quyền năng con Thiên Chúa biến viên đá thành bánh ăn. Chúa không để cho lòng ham cơm áo, gạo, tiền, tiện nghi làm lung lạc, Ngài nói: "Đã có lời chép rằng: người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Anh chị em có để lòng ham mê, cơm áo, gạo tiền làm cho anh chị em xa Chúa không?

- Quỉ đem Chúa Giê su lên nơi cao, cho thấy các nước thiên hạ với mọi vinh hoa lợi lộc và nói: " nếu ông bái lạy tôi, mọi quyền hành, lợi lộc sẽ thuộc về ông". Chúa Giê su không ham quyền hành và lợi lộc, nên người nói: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình ngươi mà thôi". Anh chị em thờ lạy Chúa hay thờ lạy ma quỉ, chạy theo quyền hành lợi lộc?

- Quỉ đem Chúa Giê su lên nóc đền thờ Giêrusalem, nói với Người "Là con Thiên Chúa, gieo mình xuống đi, Chúa truyền thiên sứ gìn giữ bạn". Chúa Giê su không ham danh vọng, Người đáp: "Đã có lời chép rằng; Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Anh chị em có thử thách Chúa không?

Vài ngày sau, một số gia trưởng đến gặp Cha Sở nhìn nhận mình đã nghe lời ma quỉ dụ dỗ nên đã chạy theo tiêu chuẩn thế gian bỏ Chúa, lãng quên Chúa. - Chúng con đã sai, chúng con hứa: trong năm đức tin này, gia đình chúng con sẽ sám hối và sửa sai, bắt đầu từ ngày mai chúng con sẽ đổi mới theo ý Chúa: "trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Matt 6,33) Cha Sở hít một hơi dài tạ ơn chúa, rồi chờ đợi..., người người sám hối, ... nhà nhà canh tân, ... họ đạo đổi mới.

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUÁT VỀ LỊCH SỬ GIÁO LÝ CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Kitô giáo thuộc về lịch sử, đã chào đời trong lịch sử từ biến cố Đức Giêsu Kitô, người Nazareth. Giáo Hội tưởng niệm Người đang sống, hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi giữa dòng lịch sử.

Theo dòng thời gian, từ thời các tông đồ là những nhân chứng về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô cho đến nay, mọi thế hệ Kitô giáo đều truyền đạt không mệt mỏi những gì họ đã nhận lãnh được cho người khác. Trải qua bao thế kỷ, khoa Huấn giáo luôn là một phương tiện thích hợp để chuyển đạt những truyền thống sống động của Giáo Hội. Dù được sử dụng dưới bất cứ hình thức nào, giáo lý không ngừng khơi dậy và củng cố đức tin. Việc nhìn lại lịch sử giáo lý của Giáo Hội ở đây sẽ giúp chúng ta phân biệt đâu là điểm chính, đâu là điểm phụ trong việc dạy giáo lý, đồng thời cho chúng ta hiểu và trân trọng hồng ân cao quý được Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Giáo Hội : đó là Đức tin.

I. NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA KHOA HUẤN GIÁO

Ngay đầu Tông huấn Dạy giáo lý, ĐTC Gioan Phaolô II gọi Đức Kitô là "Đức Kitô giảng dạy"(n. 7-8). Tên gọi này nhấn mạnh phẩm chất của Đấng giảng dạy trong Tin Mừng và bản tính giáo huấn của Người vượt xa phẩm chất của các thầy dạy ở Israel, nhờ dây liên hệ duy nhất ở giữa điều Người nói, việc Người làm và bản thân Người. Người đã không ngần ngại tuyên bố tính cách đặc biệt độc nhất chức vị làm Thầy của Người " Thầy của các ngươi chỉ có một" (Mt 23,8).

Các Sử gia Tin Mừng là những người đầu tiên đã làm nổi bật cách thức giảng dạy của Đức Kitô khi Người dùng các dụ ngôn với những ẩn ngữ thật linh động. Cách sử dụng loại văn kể chuyện trong các Tin Mừng chứng tỏ rằng : "Tất cả cuộc đời của Đức Kitô là một bài giảng liên tục : sự im lặng, phép lạ, cử chỉ, việc cầu nguyện, tình yêu đối với nhân loại, việc Người yêu quý trẻ nhỏ và người nghèo khổ... "[1]. Như vậy, ngay từ sau biến cố phục sinh, Đức Kitô được coi như khuôn mẫu của việc rao giảng Tin mừng. Hình ảnh Thầy dạy của Người in sâu vào tâm trí các môn đệ đã hướng dẫn toàn thể cuộc đời các ông trong sứ mệnh tiếp tục đi loan báo Tin mừng khắp thế gian.

II. GIÁO LÝ THỜI CÁC TÔNG ĐỒ

Sau khi Chúa Kitô về trời và sau khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng và làm chứng rằng các lời hứa của Thiên Chúa đã đựơc thực hiện hoàn toàn qua sự Phục Sinh của Chúa Kitô và ân sủng của Chúa Thánh Thần, rồi các Ngài tiếp tục việc huấn giáo ấy, mà phần cốt yếu là kể lại các lời giảng dạy và các hành vi của Chúa Kitô : bốn Phúc Âm chỉ là kết quả việc viết thành văn các bài Huấn Giáo của các Tông đồ. Vì các Ngài kể lại việc chính các Ngài đã chứng kiến, lời chính các Ngài đã nghe và đã nhớ, nên Phúc Âm là mạc khải rất sinh động về Chúa Giêsu Kitô và giải thích sứ điệp của Ngài.

 Nếu đọc các thư tông đồ, ta thấy trung tâm duy nhất của việc rao giảng của các ngài là Đức Kitô. Các ngài hoàn toàn làm chứng về Đức Kitô bằng niềm tin và bằng kinh nghiệm về Người. Các lời rao giảng này đã được truyền bằng miệng trước khi được viết ra.

Vào những ngày đầu của Giáo Hội, việc dạy giáo lý được gọi là Kérygme (rao giảng Tin Mừng), nghĩa là công bố cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô (căn bản của đức tin) và làm phép rửa nhân danh Đức Kitô. Việc rao giảng được thực hiện dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hình thức : Bài giảng (homélie) và lời huấn đức (parénèse : là lời khích lệ về luân lý, đưa ra các chỉ thị tổng quát về tương quan giữa con người trong gia đình và xã hội). Nói chung, các Tông đồ đã biết thích ứng lời loan báo Đức Giêsu Kitô với những hình thức khác nhau của các cộng đoàn. Người ta có thể nói khoa Huấn giáo của Giáo Hội tiên khởi đã mang những hình thức muôn màu muôn vẻ.

Sau thời các tông đồ, việc cử hành phép rửa chỉ được diễn ra sau thời gian huấn giáo về mặt đạo đức. Trong giai đoạn đầu, các ứng viên được khảo sát về những lý do xin theo đạo và về phẩm chất đời sống đạo đức của họ và sau thời gian thử thách 3 năm họ lại được kiểm tra về phong cách đạo đức và việc thực thi bác ái. Trước khi nhận bí tích rửa tội, còn cần phải có những nhân chứng đứng ra bảo lãnh về hạnh kiểm của họ trong cộng đoàn. Việc thực hành này kéo dài cho tới thời kỳ các Giáo Phụ.

III. GIÁO LÝ THỜI CÁC GIÁO PHỤ

Kế tiếp sứ mạng các Thánh Tông đồ, các Giáo Phụ, là những giáo lý viên có biệt tài giải thích Kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ứơc mà các Ngài không ngừng suy niệm. Điều các Ngài dạy là: không phải con người chúng ta dùng khả năng trí tuệ của mình mà khám phá ra được những mầu nhiệm nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ biết được những gì Chúa đã mạc khải, chứa trong Kinh Thánh và trong Thánh Truyền mà Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô có sứ mạng giải đáp cho ta.

Vào thời các Giáo phụ, việc giảng dạy giáo lý trở thành một bổn phận quan trọng của các Giám mục và nội dung giáo lý không những vẫn giữ lại những gì của những thế kỷ đầu mà còn nhấn mạnh đến các mầu nhiệm Kitô giáo và các bí tích, nhất là bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể. Ngoài ra, các kitô hữu sau khi đã rửa tội, vẫn tiếp tục học hỏi về các lễ nghi và việc cử hành các bí tích. Đến thời các giáo phụ, việc dạy giáo lý vẫn nhằm chuẩn bị các tân tòng lãnh nhận bí tích rửa tội, đồng thời nhấn mạnh đến việc giáo dục luân lý.

Nhưng sau thánh Augutinh (431), nhất là ở Tây phương, tình hình Kitô giáo khá ổn định nên việc dạy giáo lý tân tòng ít được quan tâm và người ta chú ý nhiều đến việc rửa tội cho trẻ em, bởi vì theo quan niệm của thời đó (Augutinh) trẻ em chết mà chưa rửa tội thì không được lên thiên đàng và lý thuyết này được tin trong một thời gian khá lâu dài.

Hơn nữa, ở Tây phương, một nền văn minh mới đang chớm nở, Giáo hội và xã hội đang dần nối kết lại với nhau trong mọi lãnh vực. Do đó các tín hữu cần có những chỉ dẫn cụ thể giúp họ thực hành những điều cần thiết để chiến thắng sự dữ và được lên Thiên đàng.

III. GIÁO LÝ THỜI TRUNG CỔ

Vào thời trung cổ, đời sống tôn giáo và xã hội không tách biệt nhau, vì thế nhiệm vụ giảng dạy giáo lý của Giáo Hội nhằm giúp ổn định đời sống xã hội. Các lễ tôn giáo được xếp cho phù hợp với các sinh hoạt xã hội. Khi nói về một làng xã cũng là nói tới một giáo xứ hay một nhà thờ. Chuông nhà thờ vừa để báo hiệu giờ cầu nguyện và giờ làm việc... Nói chung việc dạy giáo lý trong giai đoạn này không có gì nổi bật vì đạo và đời có nhiều điểm lẫn lộn với nhau. Chức năng dạy dỗ, giáo hóa có giới hạn. Chính đời sống hằng ngày, tôn giáo và thế tục, tạo cho người lớn và trẻ em cơ hội sống đức tin một cách cụ thể trong đời sống hằng ngày.

Giữa thế kỷ VIII và X, việc giảng dạy có nhiều tiến triển. Người ta nghiên cứu Cựu Ước nhiều hơn. Đức tin công giáo nhấn mạnh đến Thiên Chúa là trung tâm điểm của vũ trụ, Ngài mạnh mẽ, có khả năng điều khiển và nối kết các dân tộc.

Từ thế kỷ XI đến XIII, người ta có thể nói rằng đó là thời kỳ của Đức Kitô, một Đức Kitô đáng được tôn kính, được rao giảng, Ngài là Vua vũ trụ và nhất là Ngài sẽ đến xét xử trong ngày sau hết.

Cuối thời trung cổ (XIV - XV), người ta nhấn mạnh đến đời sống nội tâm và tính đạo đức cá nhân của các kitô hữu. Đau khổ, bệnh tật được coi như cơ hội tốt để chuẩn bị hạnh phúc đời sau. Bí tích giải tội được coi trọng và được thay đổi (xưng tội cá nhân). Cầu nguyện, khổ chế, việc năng lui tới nhà thờ và sự quan tâm luyện tập các nhân đức là những dấu hiệu của người đạo đức và có niềm tin cao độ. Ngoài ra việc hành hương Thánh Địa và những nơi thánh được thực hành như một việc đạo đức cụ thể.

Ta có thể nói trong nhiều sinh hoạt kitô giáo, thời hậu trung cổ là thời vàng son nhất của Giáo Hội.

IV. GIÁO LÝ THỜI TRUNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI

Ngay từ thế kỷ XIII, người ta đã có nhiều ước vọng cải cách nền Huấn Giáo trong toàn thể Giáo Hội. Đã có nhiều cố gắng đổi mới nhưng chưa đạt được tiếng vang. Mãi đến thế kỷ XVI, các phong trào cải cách mới nổi dậy. Nhiều sách giáo lý xuất hiện, trong số đó có sách giáo lý của Luther (1529), của Calvin (1542), của Công đồng Trente (1566) và một số sách giáo lý khác. Giáo lý của các anh em Tin Lành cải cách quan tâm đặc biệt đến việc đi sát Kinh thánh, giáo lý của Công Giáo nhấn mạnh đến những kiến thức chi tiết về các mầu nhiệm đức tin, đến căn tính của người kitô hữu, chú giải kinh Tin kính của các tông đồ và khẳng định rằng đức tin của các tông đồ và của Giáo Hội công giáo chỉ là một. Ngoài ra việc giảng dạy cũng nhằm giải thích ý nghĩa các lễ nghi của các bí tích. Tuy nhiên cả hai đều có một điểm chung là giải thích kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, Mười điều răn, đồng thời nhấn mạnh đến việc cầu nguyện trong gia đình và của mỗi cá nhân.

Sau 1660 tức là sau cuốn giáo lý của công đồng Trente, cơ chế hóa việc dạy giáo lý ở các giáo xứ trở thành phổ cập, nhiều sách giáo lý của các địa phận xuất hiện nhằm phục vụ cho các lứa tuổi khác nhau. Để đề phòng những sai lạc, các Giám mục cho phổ biến những phương pháp và những quy định, thanh tra các buổi dạy giáo lý trong các dịp viếng thăm mục vụ và cuối cùng phát hành quyển giáo lý duy nhất trong giáo phận mang danh của Giám mục.

Tuy nhiên, những sách giáo lý địa phận có thể trình bày những xác tín cá nhân của vị Giám mục, điều này dần dần đi vào tập quán : mỗi Giám mục khi lên kế vị đều muốn có một cuốn giáo lý riêng của mình cho địa phận. Giữa những khuynh hướng này, người ta nghĩ đến việc có một cuốn sách giáo lý chung cho toàn thể Hội Thánh.

Từ thế kỷ XIX, các phong trào giáo lý ra đời, các Hội Giáo lý viên tình nguyện nhanh chóng mang tầm cỡ quốc gia, người ta nỗ lực tìm những đường hướng sư phạm thích hợp cho từng lứa tuổi và nhiều phương pháp mới được đem thử nghiệm ngay từ đầu thế kỷ XX.

(Còn tiếp)

Tu viện Dòng Mân Côi Chí Hoà 2009

TRANG QUỚI CHỨC        

TIN ĐỂ ĐƯỢC SỐNG

Có bao giờ chúng ta dành ra ít phút để suy nghĩ về câu hỏi này: Nhờ đâu tôi được sống?  

Sẽ có người nói rằng: ai đâu dư hơi để mà nghĩ những chuyện vô bổ, người khác sẽ nói: tôi sống nhờ tôi khôn ngoan, kẻ khác sẽ bảo: tôi sống nhờ lương thực... Có ai nghĩ rằng chúng ta sống nhờ tin không ?        

Dù là các nhà khoa học, họ vẫn phải tin. Một nhà vật lý đi khám bệnh nếu không tin bác sĩ thì sẽ thế nào ?  Một người không tin điện có thể giật chết người muốn tự mình kiểm chứng thì sống được không ?         


Tin là điều cần thiết để được sống, dù bất cứ ai, có tôn giáo hay không có tôn giáo vẫn phải tin. Người ta không thể sống nếu không tin, vì không ai có thể sống nhờ vào kinh nghiệm bản thân của mình. Dù là các nhà khoa học, họ tin vào thực nghiệm, nghĩa là được kiểm chứng bằng mắt thấy tai nghe..., nhưng họ vẫn phải tin vào những kinh nghiệm của những người khác, nhờ đó mà khoa học mới phát triển, nếu không, mọi sự vẫn vậy, vì làm sao người ta có đủ thời giờ, công cụ, tài năng và sinh mạng để kiểm chứng tất cả những kiến thức mình tiếp thu được ?    


Sự khác biệt là mỗi người tin vào điều gì, tin vào ai. Khoa học tin vào lĩnh vực hữu hình, vật chất, những thứ mà các giác quan có thể cảm nhận được, trí khôn có thể suy luận tới. Tôn giáo tin vào những sự vô hình, mắt chưa thể thấy, tai chưa từng nghe, nó vượt quá sự hiểu biết của trí khôn con người. Tin vào khoa học là tin vào thế giới vật chất hữu hạn, tin vào lý trí mà lý trí đó hữu hạn được Thiên Chúa thông ban. Niềm tin tôn giáo hay đối với Công giáo, đức tin là tin vào Thiên Chúa, là chủ của mọi tạo vật, là nguồn gốc của trí tuệ con người, những điều chúng ta tin là do Thiên Chúa tỏ cho biết (chỉ những người nào Chúa muốn tỏ ra cho họ mà thôi), nó thuộc một thế giới khác chưa từng ai bước tới như lời Chúa Giêsu đã nói  " Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống." (Jn 3,13)             

Sự khác biệt cũng mang đến hệ quả khác nhau. Tin vào những gì giới hạn sẽ kết thúc trong giới hạn. Khoa học dù có thể giúp con người sống thoải mái, hạnh phúc hơn, sống lâu hơn, nhưng cũng phải chấp nhận cái giới hạn của mình. Khoa học luôn chỉ khám phá những qui luật được Thiên Chúa an bày. Con người dù có văn minh đến mấy rồi cũng phải chết, nhưng một người tin vào  Đức Kitô sẽ được sống đời đời.

SỐNG ĐẸP

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI hứa "vâng phục vô điều kiện" với Đấng kế vị

Vatican, 28.02.2013 - Trong ngày cuối cùng trên ngôi Giáo Hoàng và vài tiếng trước khi rời khỏi Tòa Thánh Vatican, các Hồng Y đã họp mặt chia tay với vị Cha chung tại Điện Tông Tòa Sala Clementina (nơi vẫn quàn xác các vị Giáo Hoàng qua đời). Trong bài diễn văn ngắn với những lời cuối cùng quan trọng được ĐTC Bênêđictô XVI bày tỏ rõ ràng trước Hồng Y Đoàn: "Trong anh em sẽ là vị Giáo Hoàng kế vị có thể trông cậy vào sự hỗ trợ
của người tiền nhiệm". Điều quan trọng hơn nữa dành cho người kế vị từ nơi ĐTC Bênêđictô XVI là "Tôi sẽ chứng minh sự tôn kính và vâng phục vô điều kiện với Tân Giáo Hoàng".

"Tôi sẽ tiếp tục để được gần gũi với Anh Em trong lời cầu nguyện, đặc biệt là trong những ngày tới", ĐTC Bênêđictô XVI nói thêm.

Ngài nhắc nhở các Hồng Y hãy làm việc làm việc trong sự hiệp nhất. Hồng Y Đoàn được ví "giống như một dàn nhạc giao hưởng" có thể đạt được đỉnh điểm trong sự hài hòa và phù hợp. Như thế, ngài nhắc lại tầm quan trọng của Mật Viện Hồng Y sẽ sắp gặp nhau để bầu Giáo Hoàng trong những ngày tới.

Trước đó ĐHY Niên Trưởng Angelo Sodano đại diện Hồng Y Đoàn nói lên những lời cảm tạ ngắn và chia tay với ĐTC Bênêđictô XVI: "Đấng kế vị Thánh Phêrô tôn kính và thương mến! Chúng con phải cảm ơn Cha đã ở với chúng con trong tám năm nay. Chúng con đã cố gắng đồng hành với Cha với tình thương sâu đậm. Hôm nay chúng tôi muốn bày tỏ một lần nữa tất cả lòng biết ơn của chúng con đến với Cha. Chúng con dùng từ ngữ từ quê hương (nước Đức) của Cha là "Vergelt's Gott" - "Thiên Chúa sẽ thưởng cho ngươi".

Sau đó từng Hồng Y tiến lên, từng người một chia tay riêng với ĐTC Bênêđictô XVI.

Như ĐTC Bênêđictô XVI đã thông báo không tham dự vào việc bầu Giáo Hoàng và bác bỏ tất cả những tin đồn có thể ảnh hưởng đến việc này kể cả lúc nghỉ hưu. Hôm nay qua lời hứa "vâng phục vô điều kiện" đối Đấng kế vị của ngài muốn xác nhận rõ ràng sự tôn kính và vâng phục hoàn toàn trong những ngày hưu trí của ngài.

Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
Nguồn: Vietcatholic.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Dành Thời Gian Cho Nhau

Một trong những cách thức chữa trị và hàn gắn những khủng hoảng của đời sống hôn nhân là thời gian. Thời gian vợ chồng bên nhau chính là những khoảnh khắc cần thiết để củng cố và thăng hoa tình yêu; để hóa giải, sửa chữa những bất hòa, xích mích và hiểu lầm.

Nhiều cặp vợ chồng khi được hỏi, anh hay chị dành cho nhau bao nhiêu thời gian mỗi ngày, mỗi tuần, và câu trả lời thường là không có, hoặc có rất ít. Sẽ có hằng trăm lý do tại sao họ lại không có thời gian cho nhau, hoặc chỉ có rất ít trong khi họ lại có thời gian cho mọi thứ, kể cả thời gian miệt mài trong những hộp đêm, vũ trường hoặc các sòng bài... Nhưng lý do chính vẫn là công ăn việc làm chiếm quá nhiều thời giờ trong ngày, trong tuần. Thời giờ dành lo cho con cái, cho việc nhà, cho những sinh họat xã hội, sinh hoạt tôn giáo chiếm mất hầu hết thời gian còn lại sau 8, 10 hoặc 12 giờ làm việc mỗi ngày. Nhiều người còn cho biết, họ bận rộn trăm thứ đến nỗi không có đủ giờ để ăn và để ngủ.

Rất tiếc trong đời sống vợ chồng việc không có thời giờ cho nhau lại là yếu tố quan trọng đưa đến những hiểu lầm, xích mích, tranh cãi, lạnh nhạt, và nếu không được giải quyết kịp thời nó có thể đưa đến đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng.

Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Xa mặt, cách lòng", diễn tả về việc xa vắng thể lý qua không gian và thời gian như một yếu tố đưa đến sự lạnh nhạt trong tình yêu. Câu nói ấy cũng được coi như một định luật tâm lý trong tương quan vợ chồng. Người chồng, người vợ không chỉ bắt đầu cảm thấy xa cách, không còn cần đến nhau do những ngăn cách về thể lý, mà sự xa vắng ấy còn ảnh hưởng đến cả tâm lý nữa. Hậu quả của sự xa cách này có thể được chứng minh khi nhiều cặp vợ chồng tuy ở gần nhau, ngủ chung một giường, ăn cùng một mâm, nhưng tim họ đang từ từ băng giá, để rồi tình yêu họ cũng bắt đầu lịm tắt. Hiện tượng này được diễn tả qua câu nói: "Đồng sàng, dị mộng". Ngủ chung một giường, nhưng tâm trí và trái tim thì mỗi người đã nhìn và đã hướng về một đối tượng khác, một hướng khác.

Từ những suy tư, những thao thức khác nhau đó dẫn đến tiến trình nghi ngờ, lạnh nhạt, thờ ơ cứ mỗi ngày một thêm sâu lắng hơn, đẩy xa hai người tới những chân bờ vực thẳm của cãi vã, giận hờn, và sau cùng là tan vỡ hạnh phúc. Điểm cuối của những ngày tháng lạnh giá, vô cảm ấy sẽ là ly dị.

Sau khi đã ly dị, người chồng hay người vợ sẽ viện dẫn rất nhiều lý do để tự bào chữa hành động ly dị của mình, bằng cách đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái lỗi đầu tiên và trước hết của cả hai là đã không dành thời giờ cho nhau. Chỉ sau khi cảm nhận được sự thất bại, đau đớn sau khi chia tay, đổ vỡ này, người chồng hay người vợ mới chợt hiểu ra mình đã có quá ít thời giờ dành cho nhau. Nhưng mọi sự đã muộn màng!!!

Như vậy, việc đề phòng trước nhất, dễ dàng nhất, và cũng hữu hiệu nhất là phải tập dành thời giờ cho nhau. Việc làm này cũng là một cách nhắc nhở cho chính mình rằng, ta cũng phải có thời giờ cho chính mình nữa. Vì những lo lắng, tất bật, tham lam, chộp giật kia rồi cũng phải dừng bước khi ta đối diện với sức khỏe của mình: Sức khỏe thể lý, sức khỏe tâm lý và sức khỏe tâm linh. Sau thời gian lao lực quá mức, nhiều người đã không còn sức khỏe để hưởng những gì mình đã làm ra nữa. Cũng vậy, nhiều người đã phải vào nhà thương tâm thần về những lao tâm, khổ trí. Tóm lại, ta cần những thời gian thư giãn, nghỉ ngơi, và buông xả. Cũng từ những phút giây một mình dành cho chính mình, ta sẽ khám phá ra rằng thời gian mà mình cần dành để nuôi dưỡng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình cũng quan trọng và cần thiết như vậy.

Để vợ chồng hiểu nhau hơn, tránh bất hòa và cãi vã, thì phương thức đầu tiên vẫn là đối thọai. Nhưng để đối thọai và lắng nghe nhau, thì yếu tố thời gian là điều thiết yếu. Thời gian cũng là yếu tố cần thiết cho những giây phút ân ái vợ chồng, những giây phút của hai người ngồi bên nhau để hun nóng và tăng trưởng tình yêu. Đức Cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận gọi việc đích thân tham dự những biến cố hữu ích có tính cách xã hội, tông đồ là "Mục vụ hiện diện". Do đó, sự hiện diện bên nhau của người chồng hay người vợ không chỉ là những đáp trả có tính cách thể lý, sinh lý, tâm lý mà còn mang ý nghĩa cao cả của tâm linh nữa. Nó đem lại cho đôi vợ chồng niềm vui, an ủi, và sự nâng đỡ; cũng như nhận lãnh từ nhau niềm vui, an ủi, và sự nâng đỡ cần thiết cho đời sống hôn nhân gia đình.

Thực tế đã minh chứng rằng sau khi đã cưới nhau, chúng ta phải đối diện với những trách nhiệm mới đem lại những khó khăn mới, và những thách đố mới. Sẽ không còn những giây phút độc thân muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi. Ngược lại, trách nhiệm người chồng, người vợ và sau đó là người cha, người mẹ cộng thêm trách nhiệm với công ăn việc làm, giao tế xã hội, hoặc những sinh họat nghề nghiệp, tôn giáo... sẽ choán ngợp chương trình một ngày sống của chúng ta. Chính do sự thu hút này, sức ép của thời gian đã làm cho vợ chồng không còn có giờ cho nhau.

Thêm vào đó, yếu tố tâm lý có sẵn nhau bên mình đã làm cho chúng ta mất đi hứng thú chinh phục, tìm kiếm, và khám phá. Vì coi nhau như chính mình, nên tự cho rằng hễ tôi nghĩ đến mình là coi như đã nghĩ đến chồng, hoặc vợ mình. Một tâm lý khác nữa, là những va chạm thường ngày đã tạo nên khoảng trống tâm lý khiến cho cả hai cảm thấy không muốn nhìn mặt nhau, hoặc không cần thiết phải có mặt ở bên nhau.

Chính vì để mất đi hứng thú theo đuổi, chinh phục, mất đi khoảng cách cần thiết cho những tương quan vợ chồng, và mất đi cảm giác hứng thú bên nhau do những hiểu lầm mà vợ chồng cần phải có thời giờ với nhau, và cho nhau. Đây là những thời khắc cần thiết để chia sẻ với nhau những gì mình đang suy nghĩ, những khó khăn mình đang gặp phải, hoặc những dự tính tương lai về bản thân, về gia đình. Do hiểu nhau từ việc thông cảm, thời giờ bên nhau sẽ giúp vợ chồng yêu nhau hơn, và hạnh phúc với nhau hơn.

Tóm lại, dù bận bịu, dù vất vả nhưng để duy trì và tăng triển đời sống vợ chồng, thì yếu tố thời giờ vẫn là quan trọng. Chúng ta phải có thời giờ cho nhau. Ít nhất cũng phải dành cho nhau 15 hoặc 30 phút mỗi ngày để cùng ăn với nhau bữa cơm chiều, ngồi và thưởng thức với nhau một bản nhạc hay, hoặc một chương trình văn nghệ lành mạnh. Cùng nhau cầu nguyện, trò chuyện, trao đổi, chia sẻ, và hàn gắn những hiểu lầm. Các bạn nghĩ sao về những thời gian các bạn mới quen nhau. Các bạn ngồi bên nhau hàng giờ để làm gì? Lúc này cũng là lúc các bạn cần nghĩ lại, làm như vậy cho nhau và vì nhau. Đây là những giây phút hạnh phúc không thể thiếu trong sinh hoạt vợ chồng, trong tương quan đời sống hôn nhân gia đình. Đừng viện dẫn bất cứ lý do gì để thiếu những giây phút vợ chồng bên nhau, vì đó là những giây hạnh phúc trói buộc các bạn lại với nhau, và làm cho tình yêu các bạn ngày càng khăng khít hơn.

Trần Mỹ Duyệt
Nguồn: lamhong.org

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Coi Ngày, Giờ Cưới, Có Hợp Phép Đạo Không?

Hỏi: Kính thưa Cha, con xin hỏi Cha một chuyện về hôn nhân giữa một người nữ đạo Công giáo và một người nam ngoài Công giáo nhưng nay đã trở lại đạo. Khi cả hai gia đình bàn về vấn đề hôn nhân và lễ cưới, mẹ của người nam nói rằng bà ta đã đi coi thầy và được thầy cho biết năm tới có những ngày tốt để làm đám cưới cho hai người, và gia đình nên tổ chức lễ cưới vào những ngày này. Mẹ của người nam chỉ muốn làm đám cưới vào những ngày này. Gia đình người nữ là người Công giáo gốc thì không vui với lý do này. Con xin hỏi Cha nếu như ngày lễ hôn nhân được tổ chức vào những ngày được xem là "tốt" này, thì bí tích hôn nhân có được hợp pháp không? Cuộc hôn nhân này có được hợp lệ theo niềm tin của người Công giáo không? Con hy vọng Cha hiểu câu hỏi của con. Con xin chân thành cám ơn Cha.

MT

Đáp:

Việc kiêng tin các ngày xấu tốt theo người thuộc các tôn giáo khác không phải là niềm tin của người Công giáo. Đối với các tín hữu Công giáo, ngày nào cũng là ơn của Chúa ban cho, ta phải sử dụng với tâm tình biết ơn Chúa. Tuy nhiên, trong cuộc chung sống với xã hội, với những người khác tín ngưỡng, ta cũng cần phải bác ái, "chấp nhận" sự khác biệt (dù không chấp thuận). Khi đồng ý tổ chức lễ cưới vào một ngày cố định nào đó mà người ngoài Công giáo cho là ngày tốt thì không đương nhiên hiểu là các người Công giáo liên hệ cùng tin kiêng như vậy. Họ cho là "tốt" ta cũng cho là "tốt" nhưng theo ý nghĩa của ta. Việc chọn ngày không thay đổi giá trị bí tích của phép Hôn phối được cử hành thành sự. Giáo Hội không cấm chúng ta cử hành bí tích hôn phối vào ngày nhất định nào đó nên cũng không có vấn đề "hợp pháp" hay không "hợp pháp" đối với người liên hệ. Điều quan trọng là các tín hữu Công giáo trong cuộc có thay đổi niềm tin của mình hay không. Chúng ta không phủ nhận những nguy hiểm và khó khăn trong việc bảo vệ đức tin Công giáo trong trường hợp tương tự. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm cho niềm tin Công giáo, Giáo Hội đã ngăn cấm người Công giáo không được kết hôn với người chưa rửa tội nếu không có phép chuẩn, và cấm không cho phép lấy người ngoài Công giáo (dù đã rửa tội) nếu không có phép của giáo quyền.

Lm. Phi Quang
Nguồn: tinmung.net

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

DI CHÚC THIÊNG LIÊNG

Buổi tiếp kiến chung lần cuối cùng của Đức Bênêđictô XVI trên cương vị giáo hoàng: Như một di chúc thiêng liêng.

WHĐ (28.02.2013) - Sáng thứ Tư 27-02-2013, Đức Bênêđictô XVI đã có buổi tiếp kiến chung cuối cùng trên cương vị giáo hoàng. Buổi tiếp kiến diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô, dưới bầu trời trong xanh, nắng rực rỡ. Ít nhất có 150.000 người có mặt tại buổi tiếp kiến chung, đứng chen chúc đến tận đường Hòa giải. Khoảng 70 hồng y tham dự buổi tiếp kiến.

Trong bài Giáo lý như thường lệ hằng tuần vào các ngày thứ Tư, ĐTC chia sẻ với mọi người những suy nghĩ và tâm tình của ngài về Giáo hội và về sứ vụ Phêrô, đặc biệt về quyết định từ nhiệm.

Bài huấn từ Giáo lý của ĐTC như một di chúc thiêng liêng gửi lại Giáo hội, một Giáo hội ngài hằng yêu mến, phục vụ, và sẽ tiếp tục phục vụ trong một hình thức khác. Hình thức chiêm niệm và cầu nguyện cho Hội Thánh của Chúa.

Mở đầu, ĐTC ngỏ lời cảm ơn mọi người đã nồng nhiệt chào đón ngài, đồng thời cho biết ngài "rất xúc động" vì "đang được nhìn thấy một Giáo hội sống động! Đồng thời tôi nghĩ chúng ta phải cảm ơn Đấng Tạo hóa đã ban cho lúc này, dù vẫn còn mùa đông, thời tiết tuyệt đẹp".

ĐTC nhìn lại tám năm thi hành sứ vụ Phêrô của mình:

"Tám năm sau, tôi có thể nói được rằng Chúa thực sự dẫn dắt tôi, ở bên tôi, hằng ngày tôi đều thấy được sự hiện diện của Chúa. Đó là cả một chặng đường dài của Giáo hội, có những lúc hân hoan và tươi sáng, nhưng cũng có những khi chẳng dễ dàng gì. Tôi thấy mình như Thánh Phêrô và các Tông đồ trong con thuyền trên hồ Galilê: Chúa đã cho chúng ta biết bao ngày nắng đẹp, gió nhẹ, những ngày đánh được nhiều cá; nhưng cũng có những lúc biển động, gió ngược, như nhiều lúc trong lịch sử Giáo hội, khi đó Chúa dường như cứ ngủ. Nhưng tôi đã luôn biết trong con thuyền này vẫn có Chúa, và cũng luôn biết rằng, con thuyền Hội Thánh không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa và Người không để nó chìm mất [cử tọa vỗ tay hồi lâu]. Chính Người dẫn dắt con thuyền Hội Thánh. Chắc chắn Người cũng dẫn dắt qua những người Chúa chọn, vì Người đã muốn vậy. Đó là điều chắc chắn không ai có thể làm lung lạc. Chính vì thế, hôm nay lòng tôi tràn đầy tâm tình biết ơn Chúa, bởi Người không để cho Giáo hội -và cả tôi nữa- không được Người an ủi, soi sáng và yêu thương".

ĐTC nhắn nhủ mọi người về Năm Đức Tin:

"Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin, là năm tôi muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, trong một bối cảnh dường như chỉ muốn đưa đức Tin xuống hàng thứ yếu. Tôi muốn mời gọi tất cả anh chị em hãy tin tưởng vào Chúa vững vàng hơn nữa, hãy phó thác mình như con cái trong tay Chúa, tin chắc rằng đôi tay Chúa luôn nâng đỡ chúng ta, hằng ngày vẫn giúp chúng ta bước đi trong mọi nhọc nhằn.

Tôi mong mỗi người hãy cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã ban Con của Người cho chúng ta và cho chúng ta nhận biết tình yêu vô biên của Người. Tôi mong mỗi người cảm nhận niềm vui được làm người Kitô hữu. Trong kinh sáng hằng ngày, chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa, con yêu mến Chúa hết lòng. Con đội ơn Chúa đã dựng nên con, cho con được làm người Kitô hữu...".

Vâng, chúng ta vui mừng vì đã được hồng ân đức Tin, đó là của cải quý báu nhất không ai có thể lấy đi mất! Chúng ta hãy tạ ơn Chúa mỗi ngày, qua việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh nguyện và cuộc sống Kitô hữu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta kính mến Người!"

Di chúc thiêng liêng của Đức Bênêđictô XVI: "Giáo hội là một thân thể sống động, là anh em, chị em hiệp nhất trong Thân Mình Chúa Kitô"

ĐTC ngỏ lời cảm ơn mọi người, từ các vị phẩm trật trong Hội Thánh đến mọi tín hữu khắp thế giới, từ các chính phủ, ngoại giao đoàn đến đông đảo dân thường khắp năm châu, đã dành cho ngài sự cộng tác, chia sẻ, tình bạn, lòng yêu mến trong suốt thời gian ngài đảm trách sứ vụ Phêrô.

Đặc biệt ĐTC xúc động nói đến các Kitô hữu bình thường, từ khắp nơi trên thế giới, đã từng viết thư cho ngài:

"Tôi đã nhận được rất nhiều thư của những người bình thường viết cho tôi một cách đơn sơ với tất cả tấm lòng, mang lại cho tôi những tình cảm thân thương. Tấm lòng đó cho thấy anh chị em thuộc về Chúa Giêsu Kitô, thuộc về Giáo hội. Những anh chị em này không viết cho tôi như cho một 'ông hoàng' hoặc một vị 'đại nhân' không quen biết, nhưng như những anh em, chị em, như những người con, với tâm tình ruột thịt trong gia đình. Ở đây có thể cảm nhận cụ thể Giáo hội là gì. Giáo hội không phải một tổ chức, hiệp hội nhằm mục đích tôn giáo, từ thiện, mà là một thân thể sống động, một sự hiệp thông của những anh em, chị em trong Thân Mình Chúa Giêsu Kitô, Đấng kết hiệp chúng ta nên một. Cảm nghiệm về Giáo hội theo cách như thế, chạm được một cách hữu hình sức mạnh sự thật và tình yêu của Giáo hội, chính là lý do mang lại niềm vui giữa lúc có biết bao người nói đến ngày tàn của Hội Thánh. Thế nhưng, hôm nay chúng ta thấy, Giáo hội sống động biết bao!"

Đề cập việc từ nhiệm, ĐTC cho biết:

"Những tháng vừa qua, thấy sức khỏe mình giảm sút, tôi đã không ngừng cầu xin Chúa soi sáng giúp tôi đưa ra quyết định đúng nhất, không phải vì lợi ích bản thân tôi mà vì ích lợi của Hội Thánh. Thực hiện điều này, tôi biết rất nặng nề và cũng rất mới mẻ nhưng tâm hồn tôi hết sức thanh thản.

Yêu mến Giáo hội cũng có nghĩa là có những chọn lựa khó khăn, đau đớn, nhưng phải luôn đặt mình trước lợi ích của Giáo hội chứ không cho bản thân mình.

Cho phép tôi trở lại một chút ngày 19 tháng Tư 2005. Giây phút tôi phải đưa ra quyết định nặng nề, vì Chúa tôi đã luôn và mãi mãi dấn thân. Người đảm nhận sứ vụ Phêrô thì "luôn luôn" không còn cuộc sống riêng. Ngài luôn luôn và hoàn toàn thuộc về mọi người, thuộc về Giáo hội. Cuộc sống của ngài đã bị tước hết, kể cả khía cạnh riêng tư. Tôi đã có kinh nghiệm và bây giờ tôi cảm nghiệm rằng ta nhận được sự sống khi biết ban tặng sự sống. Tôi đã từng nói nhiều người yêu mến Chúa cũng yêu mến Đấng kế vị Thánh Phêrô và gắn kết với ngài, đồng thời ngài thấy quanh mình là vòng tay hiệp thông của họ, ngài không còn thuộc về mình nữa mà thuộc về mọi người và mọi người thuộc về ngài.

'Luôn luôn' cũng là 'mãi mãi': không còn quay về với cuộc sống riêng nữa. Quyết định không đảm nhiệm sứ vụ nữa không có nghĩa là bãi bỏ điều đó. Tôi không quay về cuộc sống riêng tư của mình, quay về cuộc sống với những chuyến du hành, hội kiến, tiếp kiến, hội nghị... Tôi không từ bỏ vác Thánh giá, nhưng sẽ đứng bên Đấng bị treo trên Thập giá với một cung cách mới. Tôi không còn giữ quyền điều hành Giáo hội, nhưng có thể nói, tôi phục vụ Giáo hội trong cầu nguyện, tôi đặt mình sống trong rào lũy của Thánh Phêrô".

Buổi tiếp kiến chung lần cuối cùng của Đức Bênêđictô XVI trên cương vị giáo hoàng diễn ra trong niềm xúc động không chỉ của hàng trăm ngàn người có mặt tại quảng trường Thánh Phêrô, mà còn hàng tỉ người khắp thế giới ngưỡng mộ Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, một nhân cách vĩ đại trong thế giới đương đại.

Nhân cách của một con người, vị giáo hoàng chỉ còn một ngày tại vị, đã được hình thành từ một cuộc đời thuộc trọn về Chúa.

Thành Thi

 TIN GIỜ CUỐI

Đức Giáo hoàng Bê-nê-đictô XVI đã rời Vatican trong ngày cuối ở vị trí Giáo hoàng. Ngài di chuyển bằng trực thăng tới khu nghỉ dưỡng của Vatican chỉ vài giờ trước khi trở thành giáo hoàng đầu tiên từ nhiệm trong 600 năm qua.

Tháp tùng bởi những phụ tá thân tín, ngài gửi lời chào tạm biệt tới những quan chức Vatican tụ tập tại sân San Damasco ở Cung điện Apostolic, cùng một toán lính gác đứng canh gác. Ngài đi bằng xe đến bãi đáp trực thăng trên đỉnh ngọn đồi khu vường Vatican, sau đó bước lên trực thăng cùng thư ký riêng, Đức ông George Gaenswein, để bắt đầu chuyến đi 15 phút đến Castel Gandolfo. Tiếng chuông vang lên ngay lúc chiếc trực thăng xuất phát. Trước khi đi, ngài cam kết sẽ "tôn kính và phục tùng không điều kiện" người kế nhiệm.

 Chưa giáo hoàng nào từ chức từ khi Đức Giáo hoàng Gregory XII thoái vị năm 1415. Thông báo bất ngờ của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đictô XVI khiến quy tắc bầu người kế nhiệm phải thay đổi để giáo hoàng mới có thể được chọn trước Tuần Thánh, diễn ra trước Phục Sinh.

Vatican cho biết Ngài vẫn sẽ được gọi là "Giáo hoàng danh dự" và giữ tước hiệu "Đức Thánh cha" sau khi thoái vị. Ngài sẽ giữ chiếc áo màu trắng, nhưng từ bỏ chiếc nhẫn, ấn triện và đôi giày đỏ.

2427    04-03-2013 20:44:27