Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Nhiệm Vụ Rao Giảng Lời Chúa - Tháng 07 năm 2012

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Thư Mục Vụ
  3. Diễn Giải Thư Mục Vụ
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Trang Linh Mục
  9. Trang Tu Sĩ
  10. Trang Sống Ơn Gọi
  11. Trang Thiếu Nhi
  12. Trang Giới Trẻ
  13. Trang Gia Đình
  14. Trang Giáo Lý Viên
  15. Sống Đẹp
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Hỏi Đáp Mục Vụ
  18. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN

Toà Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2 Vĩnh Long

Vĩnh Long, ngày 26.06.2012

Kính gởi: Các Linh Mục
                Các Tu Sĩ   
                Anh Chị Em giáo dân
Địa Phận Vĩnh Long

V/v Nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa

"Hội Thánh lãnh nhận cùng một sứ vụ mà Chúa Kitô lãnh nhận từ Chúa Cha (x Gioan 20,21) là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sứ vụ nầy làm nên chính lý do hiện hữu của Hội Thánh giữa lòng thế giới" (Thư chung hậu ĐHDC, 31).

1. Hội Thánh Công Giáo đang đứng trước những thách đố của chủ nghĩa thực dụng,  hưởng thụ, khép kín với tôn giáo. Nhiều người rời bỏ  Giáo Hội. Đàng khác, những Nước theo Kitô giáo lâu đời đã từng cung cấp cho Hội Thánh nhiều Thùa Sai, thì bây giờ lại thiếu Linh Mục trầm trọng. Việc Loan Báo Tin Mừng cho lương dân  cũng bị ảnh hưởng, bị quên lãng..

Đại Hội Dân Chúa tại Việt Nam (2010) nhắc lại tính cách khẩn thiết của sứ mệnh truyền giáo được trao cho Hội Thánh , và nhận thấy cần phải dành mọi nỗ lực cho việc Loan Báo Tin Mừng. Địa Phận Vĩnh Long của chúng ta  hiện nay có 197414 người Công Giáo trên tổng số 4 triệu cư dân. Đối với những người còn lại thì sao?

2. Trong Bài Phát Biểu tại Vatican ngày 17.02.2012, trước mặt Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI và các Hồng Y, Đức Tân Hồng Y Timothy Michael Dolan đã nói  về  Sứ mạng đến với muôn dân và việc Tân Phúc Âm hoá :

Loan Báo Tin Mừng theo  mệnh lệnh của  Chúa Giêsu "Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (mt 28,19), là bổn phận thánh thiêng, luôn luôn là cũ kỹ, luôn luôn là mới mẻ, như Chúa Kittô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Cách thức, thời gian và nơi chốn có thể thay đổi, nhưng mệnh lệnh vẫn trước sau như một.

Hết mọi Kitô hữu, do Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh  Thể, là những người loan báo Tin Mừng. Có những  Thừa sai,  là những người được gởi đến những nơi chưa bao giờ nghe nói đến Chúa Giêsu, và  hơn nữa Hội Thánh là Sứ Vụ, nghĩa là mọi Kitô hữu không trừ ai có bổn phận làm chứng về Chúa Giêsu trong cuộc sống hàng ngày, làm sao chuyển đến người khác lời mời gọi trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu (entrer dans l'amitié du Seigneur Jésus).

Trọng tâm của Sứ Vụ Đến Với Muôn Dân cũng như của công cuộc Tân Phúc Aâm Hoá là  Chúa Giêsu, là Đấng mà chúng ta phải nhận biết, yêu mến và phụng sự, Người  là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu ơ giữa chúng ta  đó là Tin Mừng (x. Luca 2,10-12).

3. Niềm vui đến từ Thiên Chúa, Đấng đã gieo nó trong tâm hồn các tín hữu. Là hoa quả của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, thực sự ngự  trong tâm hồn chúng ta, nguồn vui đích thực của chúng ta.

Trong Bí Tích Thánh Thể chúng con hàng ngày ôm ấp Chúa và đón nhận Chúa vào tâm hồn chúng con (Thánh Ephrem). Niềm vui là dấu chỉ bất khả ngộ nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa ( Léon Bloy)

 Nếu Giáo Hội vui, thì các con chiên, cha sở, linh mục tốt hơn phải là những con người vui, vì nếu không, chúng ta làm cho Tin Mừng thành giả dối ( Timothy Dolan)

 Nếu thế giới thấy hạnh phúc của chúng ta, hẳn họ sẽ tràn ngập Nhà Thờ, Nhà Dòng,Nhà Tĩnh Tâm (Thánh Madeleine Sophie)

+ Tôma Nguyễn Văn Tân

        Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: NHIỆM VỤ RAO GIẢNG LỜI CHÚA

Các linh mục phải coi trọng việc rao giảng Lời Chúa trong Thánh lễ, chuẫn bị bài giảng kỹ lưỡng nhờ cầu nguyện và suy niệm, giúp người giáo dân làm quen với Lời Chúa, chú tâm đến  việc dạy giáo lý, dựa trên Lời Chúa để huấn luyện lương tâm ngay chính (Thư Chung HĐGMVN năm 2011, số 4).

 DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Đức Hồng Y Timothy M. Dolan kể lại: Trên các trụ chung quanh bàn thờ chính của Nguyện Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Chủng Viện Bắc Mỹ tại Rôma (North American College), có các hình chạm trổ diễn tả một linh mục đang cử hành các bí tích. Tuy nhiên, có một điều lạ là trong khi Giáo Hội chỉ có bảy bí tích,  thì ở đây lại có tám cảnh tượng khác nhau! Bức hình thứ tám là gì? Ở góc dưới bên trái là cảnh một linh mục đang rao giảng! Dường như  nghệ nhân muốn nói với các linh mục tương lai rằng có bí tích thứ tám, đó là rao giảng! Một lời tiên tri chăng?

Công Đồng Vat. II sau đó đã nêu bật tầm quan trọng của linh mục trong việc rao giảng Lời Chúa: "Trên hết tất cả, Dân Chúa tìm thấy sự hợp nhất qua Lời của Thiên Chúa hằng sống, thật thích hợp được tìm thấy từ môi miệng các linh mục. Vì không ai được cứu chuộc nếu trước đó không tin các linh mục, là cộng sự viên của các giám mục, có nhiệm vụ chính yếu là công bố Phúc Âm cho mọi người" (Sắc Lệnh về Phẩm Trật Linh Mục (PO), số 4) (T.M. Dolan, Linh Mục cho ngàn năm thứ ba, chương 22: rao giảng).

Ở đây, chúng ta chỉ triển khai chủ đề rao giảng Lời Chúa xoay quanh vai trò giảng lễ của linh mục và khát mong của người giáo dân đối với bải giảng trong Thánh lễ.

Thánh Phêrô dạy: "Ai giảng, hãy giảng lời Thiên Chúa" (1Pr 4,11). Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, "linh mục là người giảng dạy Chân Lý là Đức Kitô" (Huấn dụ của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi tiếp kiến chung thứ tu ngày 14- 4-2010.) Linh mục chính là hiện thân của Đức Kitô khi công bố và giảng dạy Lời Chúa. Vì thế, vị linh mục hành động trong cương vị Chúa Kitô Phục Sinh đang hiện diện với hành động hữu hiệu thực sự trong Giáo Hội, khi cử hành ba nhiệm vụ rao giảng, thánh hoá và cai quản. 

Trong tình trạng lẫn lộn và lạc hướng ngày nay, linh mục là người giảng dạy Chân Lý là Chúa Kitô, chứ không phải các tư tưởng và các triết lý của mình hay ý kiến mình ưa thích: "Thiên Chúa đã trao cho các linh mục một nhiệm vụ lớn lao là những người loan báo Lời Chúa Chân Lý cứu rỗi; là tiếng nói của Chúa trong thế giới để đem lại những gì ích lợi cho các linh hồn và con đường đức tin đích thực." (Huấn dụ của ĐTC  Bênêđictô XVI trong buổi tiếp kiến chung thứ tu ngày 14-4-2010.)

Cũng theo ĐTC, linh mục cần có đời nội tâm sống gắn bó với Chúa, sống những điều Chúa dạy trước khi truyền đạt cho người khác, theo gương cha sở Họ Ars: "Giáo huấn mà linh mục được mời gọi cống hiến là các chân lý của đức tin, phải được nội tâm hóa và sống sâu đậm trong con đường thiêng liêng cá nhân, để linh mục thực sự bước vào sự hiệp thông sâu xa thân tình với chính Chúa Kitô. Vị linh mục phải tin, tiếp nhận và tìm sống trước hết như là của mình, những gì Chúa đã dạy dỗ và Giáo Hội truyền lại trong lộ trình đồng hóa với chứclinh mục thừa tác của mình, như Cha sở thánh họ Ars đã nêu gương. "(Huấn dụ của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi tiếp kiến chung thứ tu ngày 14-4-2010.)

Vậy cha sở thánh Họ Ars đã giảng dạy như thế nào?

Theo Cha Thánh Gioan Maria Vanney, đời linh mục có nhiều việc phải làm, nhưng có hai việc nặng nhọc và khó khăn hơn các việc khác là giải tội và giảng lễ. Cha nhắn nhủ các linh mục như sau:  "Linh mục nào muốn giảng hay và làm cho người ta sẵn lòng nghe cũng như sinh ích lợi cho tâm hồn họ, trước hết phải có nhân đức thật sự, hai là phải xem nhiều sách, biết nhiều lý lẽ và chịu khó soạn bài giảng lâu năm. Đầu tiên người linh mục phải có nhân đức thật và làm gương sáng, vị linh mục phải có tiếng tốt, có danh giá thì mới giảng như người có quyền và giáo dân mới sẵn lòng nghe và giữ các điều cha giảng. Nếu linh mục mắc tính mê nết xấu nào, hay trong cách ăn ở và việc lành có điều gì đáng trách thì lời linh mục đó giảng không sinh ích lợi cho người ta bao nhiêu. Người ta thấy việc cha làm, cách ăn ở không đi đôi lời cha giảng nên không ai vâng lời mà còn trách thầm: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đi". (M. Cardo, Thánh Gioan Maria Vanney, Phần 3, Chương 6).

ĐHY T.M. Dolan viết: "Bất cứ ai yêu mến Giáo Hội, khao khát các linh hồn, cảm thấy được Chúa Kitô mời gọi đến chức thánh, và khao khát trở nên một linh mục tốt lành thì phải ước ao trở nên một người rao giảng có kết quả, bởi vì dân chúng nói rằng đó là điều họ cần nhất."

 Người rao giảng hữu hiệu cần phải có các khả năng căn bản về truyền thông, nhân bản và nhất là khả năng tự nhiên (nói năng rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe); đồng thời phải có sự tương giao mật thiết, cá biệt với Chúa Giêsu Kitô qua việc siêng năng cầu nguyện.

ĐHY T.M. Dolan đưa ra năm lời khuyên cho một bài giảng hay đó là:  ngắn gọn, đơn giản, chân thành, súc tích và có giá trị thực tiễn.

-     Một bài giảng hay thì ngắn gọn: Giảng lễ ngày thường khoảng 3 phút, ngày Chúa Nhật khoảng 10 phút.

-     Một bài giảng hay thì đơn giản: Thánh Anphongsô Liguori viết, "Tôi phải rao giảng thế nào để nông dân dốt chữ cũng có thể hiểu được."

-     Một bài giảng hay thì chân thành:  Ngạn ngữ có câu: "Thích giảng là một chuyện; yêu thương những người nghe giảng là một chuyện khác."

-     Một bài giảng hay thì súc tích:  Đức Hồng Y Newman nhận xét: "Hãy để ý đến các ý tưởng và viết xuống thành câu cho đến khi bạn bày tỏ ý tưởng ấy một cách chính xác, sinh động, và trong một vài chữ."

-     -Một bài giảng hay thì có giá trị thực tiễn: Giáo dân cần nội dung chắc chắn, học thuyết vững vàng, bài học từ Kinh thánh, và kiến thức luân lý để sống đời tín hữu.

(x. ĐHY T.M. Dolan, Linh Mục cho Ngàn Năm Thứ Ba, Lm Trần Đình Quảng chuyễn ngữ, Chương 22: Rao giảng)

Đó cũng chính là điều mà người giáo dân cần nơi các vị linh mục khi giảng lễ, để tránh khỏi những than phiền thường thấy xảy ra: cha giảng dài, giảng dai, giảng d?!!!

Người tín hưũ trông đợi mỗi Thánh lễ như  một bữa tiệc ngon. Trong đó cung cách cử hành nghiêm trang của chủ tế, các bài hát hay có tâm tình cầu nguyện, công bố Lời Chúa cách rõ ràng, nhất là các bài giảng súc tích có tâm tình, có định hướng -  tóm lại - có chật lượng cao, sao như "có lửa" trong lời cha  giảng, để thuyết phục giáo dân sống theo.

Như vậy một nhà giảng thuyết tốt không nhất thiết phải là một nhà thông thái, mà trên hết là một mục tử thánh thiện, một tông đồ nhiệt thành và một nhà truyền giáo đam mê việc gieo trồng Lời Chúa, qua việc không ngường cầâu nguyện và học hỏi. Đó cũng chính là lý tưởng cuộc đời của một linh mục.        

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Trước khi lên trời, Chúa Giêsu truyền lệnh cho Hội Thánh phải rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Điều đó vừa là nhiệm vụ phải hoàn thành, vừa là vinh dự của người tín hữu. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.      Chúa phán: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, ý thức nhiệm vụ hàng đầu của mình là phải rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo.

2.      Chúa phán: "Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải biết cho cách nhưng không". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu năng tìm hiểu giáo lý đạo Chúa cách tường tận, để truyền đạt đức tin cho người khác.

3.      Sách thánh viết: "Phải nói lại cho con cháu những lời ấy, lúc ở nhà cũng như khi đi đường". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu luôn rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi, mọi lúc và bằng mọi cách, cho mọi người.

4.      Chúa phán: "Các con hãy làm cho muôn dân trở nên môn đệ Thầy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết dùng lời nói, gương sáng và đời sống mình mà giới thiệu Tin Mừng Chúa cho những người xung quang.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được cứu rỗi, Chúa muốn chúng con rao giảng Tin Mừng. Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con chu toàn sứ mạng, hầu mọi người được hưởng phước Nước thiên đàng. Chúng con cầu xin...Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

 NHIỆM VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG

Thông thường khi nói đến nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa ta thường liên tưởng trong tâm trí của mình đây là nhiệm vụ của mấy ông cha, của mấy bà phước, của những ai có ơn gọi riêng, của ai đó chứ không phải là của mình. Lời của Chúa Giêsu trước lúc về trời: "Anh em phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo"(Mc 16, 15). Đây là lệnh truyền của Chúa, lệnh truyền cho các môn đệ, cho mọi Kitô hữu thực hiện trong đời sống của mình.

Hai đối tượng trong việc thực hiện mệnh lệnh của Chúa đó là: Ai rao giảng?  Và rao giảng cho ai? Dĩ nhiên điều được rao giảng ở đây chính là Lời Chúa.

Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này xin được chú ý trước hết đến người cần được rao giảng Lời Chúa. Trên thế giới hiện nay có hơn 7 tỷ người, nhưng con số những người nhận biết Đức Kitô mới hơn 2,3 tỷ và nếu tính con số những người công giáo thôi thì chỉ là 1,16 tỷ người (theo bản nghiên cứu thường niên về "Tình trạng Truyền giáo Toàn cầu" ngày 25/11/2011). Và cũng theo bảng báo cáo này nếu không tính đến số tín hữu của các tôn giáo khác thì có hơn 2 tỷ người chưa bao giờ được nghe giảng tin mừng.

Con số 2 tỷ người này ở đâu? Có thể chúng ta có thói quen nghĩ rằng những người này có thể bên Châu Phi, hay ở một số quốc gia xa xôi hay những nơi hẻo lánh nào đấy... Nhưng nếu nhìn kỹ lại và tự hỏi với chính mình: Người bên cạnh tôi, hàng xóm tôi có bao giờ được nghe tin mừng chưa? thì chúng ta ắt hẳn phải nghĩ rằng con số 2 tỷ ấy chính là anh chị em chung quanh chúng ta, họ không là ai khác, họ cần được nghe Lời Chúa, họ cần được biết tin mừng.

Đối tượng thứ hai trong nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa đó là: Ai rao giảng? Câu trả lời phải được xác quyết là "tôi". "Tôi" có nhiệm vụ phải rao giảng Lời Chúa. Sứ mạng này "tôi" được lãnh nhận ngày tôi chịu phép Rửa tội. Vậy "tôi" là ai?

"Tôi" có thể là Giám mục, linh mục, tu sĩ, anh chị em giáo dân, của mọi Kitô hữu... tất cả những con người này đều được mời gọi trở thành những chứng nhân rao giảng tin mừng Chúa.

Vậy nhiệm vụ chính yếu của "tôi" chính là làm sao cho Lời Chúa đến được với anh chị em lương dân. Nếu nói theo thánh Phaolô thì phải là "Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ" (2 Tm 4, 2).

Để thực hiện sứ mạng này "tôi" được mời gọi trong ơn gọi của mình trở nên nhân chứng cho Lời Chúa. Chứng nhân trong lối sống, chứng nhân trong tình yêu thương, chứng nhân trong lời giảng dạy, chứng nhận trong cách đón nhận đau khổ. Có thể "tôi" không nói về Chúa nhưng "tôi" có thể đem Chúa đến ở với anh chị em mình, có thể "tôi" không cho họ nghe về Chúa nhưng "tôi" có thể cho họ thấy Chúa qua "tôi"... Một người rao giảng tin mừng phải là một người sống tin mừng.

Áp dụng nguyên tắc của thánh Phaolô trong nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa đó là: Miễn là Lời Chúa được rao giảng (Pl 1, 18). Lời Chúa được rao giảng là chính yếu, Lời Chúa được mọi người nhận biết là điểm đến, người rao giảng ("tôi") chỉ là dụng cụ, và dụng cụ phải biết cách làm thế nào miễn Lời Chúa được rao giảng.

Xin Chúa cho chúng con luôn biết nhận ra sứ mạng cao cả mà Chúa ban cho là rao giảng Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết ý thức, biết phấn đấu, biết hy sinh, biết làm tất cả mọi việc để Lời Chúa được rao giảng, và cũng xin cho chúng con biết trở nên bé nhỏ để làm vinh danh Chúa hơn nơi anh chị em.

HỌC KINH THẤNH

BÀI 19. THƯ THỨ NHẤT GỬI TÍN HỮU THÊSSALÔNICA (tt)

7/ Nội dung thư này ra sao ?

Phaolô viết thư này cốt là để thổ lộ tâm tình và một trật để thanh minh một ít lời vu cáo của những người chống đối. Sau đó, ngài thêm ít lời khuyên nhủ về đời sống các tín hữu họ phải tuân theo những nguyên tắc đã dạy. Giữa các lời khuyên có thêm một đoạn bàn đến số phận kẻ đã chết vào thời Chúa quang lâm tức là phần quan trọng về đạo lý trong thư này (4, 13-5, 11).

8/ Bố cục bức thư ra sao?

Bố cục bức thư như sau:

-     1, 1        :  Đề thư.

-     1-3         :  Liên lạc giữa Tông đồ và tín hữu.

-     4-5         :  Những lời khuyên

-     5, 23-28 :  Lời nguyện chúc và từ tạ.

9/ Trong thư chỗ nào Phaolô đề cặp tới giáo lý về sự sống đời    sau và quang lâm. Hãy nêu vài điểm chính yếu về giáo lý đó?

Nơi 4, 13-14 Phaolô đề cặp tới số phận những người đã an nghỉ như sau: "Đức Giêsu đã chết và đã sống lại thì cũng như vậy, những kẻ đã an nghỉ trong Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đi làm một với Người". Còn về ngày quang lâm "sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối" (1Thes. 5,2), vậy thì ta đừng ngủ mê, như những kẻ khác, song ta hãy canh thức và tỉnh táo" (1Thes. 5,6).

10/ Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn những gì?

Ngài đã khuyên:

-         "Hãy hết lòng kính trọng mến yêu người trên và ăn ở thuận hòa với nhau" (1 Thes. 5,13).

-         "Hãy sửa bảo những kẻ vô trật tự, hãy khích lệ những người nhát đảm, hãy làm phấn khởi những người yếu đuối, hãy đại lượng với mọi người, hãy luôn theo đuổi sự thiện giữa anh em với nhau và với mọi người" (5, 14-15).

11/ Thánh Phaolô đã trình bày mẫu gương nào cho tín hữuThessalônica và chính ngài đã nêu gương như thế nào?

Chúa Giêsu Kitô chính là mẫu gương cuộc đời chúng ta và ngài nêu gương các tông đồ như "anh em đã học với chúng tôi phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa" (4, 1); "anh em noi gương chúng tôi và bắt chước Chúa" (1,6). "Đêm ngày chúng tôi đã làm lụng để khỏi nên gánh nặng cho ai trong anh em, trong khi chúng tôi rao giảng Tin mừng  của Thiên Chúa cho anh em" (2,9).

Vài câu đáng nhớ trong bức thư:

-         "Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (2,4)

-         "Hãy tạ ơn Chúa trong mọi việc" (5, 18)

-         "Xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em, cả con người toàn diện khiến cho thần trí, linh hồn và thân xác anh em được giữ gìn toàn vẹn vô tì tích vào thời quang lâm của Đức Giêsu Kitô" (5, 23).

Cầu nguyện: Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha, và sống theo phong cách của Cha. Ước gì người ta đọc thấy Tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.

(Rabbouni)

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

THÀNH SỰ HOÁ HÔN NHÂN
(Đ. 1156-1165)

Trong những bài tìm hiểu giáo luật từ tháng ba đến tháng sáu vừa qua, chúng ta đã xét đến những trường hợp hai người kết hôn với nhau, nhưng sau đó vì hoàn cảnh bất hoà, hai người không thể sống chung với nhau được nữa, và xin giáo quyền cứu xét dây hôn phối bất thành, hay được phép ly thân. Trong phần nầy, chúng ta xét đến hoàn cảnh ngược lại, nghĩa là khi dây hôn phối của hai người vì những lý do của giáo luật bị xem là vô hiệu, nhưng họ vẫn còn muốn tiếp tục đời sống hôn nhân. Làm thế nào để giúp cho hôn nhân của họ thành hiệu và sinh ơn ích trọn vẹn từ bí tích hôn phối mà họ đã lãnh nhận?  

Bộ giáo luật dự trù một vài thủ tục để thành sự hoá, hay hữu hiệu hoá hôn phối của họ. Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là áp dụng cho hết mọi trường hợp, mà phải theo từng trường hợp cụ thể.

Nguyên tắc căn bản của sự hữu hiệu hoá hôn nhân là một thủ tục pháp lý, nhằm làm cho một đôi hôn phối vô hiệu trở thành hữu hiệu. Điều kiện cần thiết để áp dụng thủ tục nầy là hai người đã thành hôn (tuy hôn thú vô hiệu), chứ không phải hai người chỉ sống chung với nhau "như vợ chồng" mà không có hôn lễ.

Giáo luật đề ra hai thể thức hữu hiệu hoá: thủ tục đơn thường và thủ tục "điều trị tại căn" (sanatio in radice). Sự khác biệt giữa hai thủ tục nầy có thể tóm lại trong ba điểm như sau:

  1. Thẩm quyền:

Trong trường hợp thông thường, có thể chính đôi hôn nhân tự tiến hành sự hữu hiệu hoá; còn trong trường hợp điều trị tại căn, bắt buộc phải có sự can thiệp của giáo quyền.

  1. Thủ tục:

Trong trường hợp thông thường, cần phải lập lại sự ưng thuận kết hôn; còn trong trường hợp điều trị tại căn, thì không cần.

  1. Hậu quả::

Trong trường hợp thông thường, hôn phối trở thành hữu hiệu kể từ lúc hữu hiệu hoá; còn trong trường hợp điều trị tại căn, thì hôn nhân trở thành hữu hiệu kể từ lúc ban cấp việc điều trị, nhưng nó có hiệu lực hồi tố. Sở dĩ gọi là điều trị tại căn, vì nó điều trị các hà tì tận gốc rễ, nghĩa là tới cội nguồn của giá thú. Chúng ta xét đến từng trường hợp như sau:

I.   Hữu Hiệu Hoá Đơn Thường.

Trước tiên, chúng ta nhắc lại nguyên tắc căn bản về sự hữu hiệu của bí tích hôn phối: để bí tích hôn phối được thành hiệu phải hội đủ ba yếu tố: a/. hai người kết hôn không mắc ngăn trở tiêu hôn nào; b/. phải có sự ưng thuận kết hôn và sự ưng thuận đó không bị hà tì; c/. hôn lễ được cử hành theo luật định.

Trên nguyên tắc, để hôn nhân có thể được hữu hiệu hoá cần phải:

a/. một trong ba yếu tố trên bị mắc phải khi kết hôn, nay đã chấm dứt; 

b/. tiếp đó cần phải lập lại sự ưng thuận kết hôn. Việc lập lại sự ưng thuận có thể thực hiện theo công thức (anh/em có còn yêu em/anh nữa không? Và đáp lại bằng lời nói hay gật đầu), cũng có thể bằng hành động ái ân vợ chồng.

Giờ đây, chúng ta xét đến từng yếu tố làm cho hôn nhân vô hiệu để hữu hiệu hoá.

1.   Hôn nhân vô hiệu vì ngăn trở tiêu hôn (đ.1156-1158).

a/. Điều kiện cần thiết là ngăn trở phải chấm dứt, vì tự nó hoặc được chuẩn chước (tuổi: ngăn trở nầy tự nó chấm dứt khi người bị ngăn trở đã đến tuổi kết hôn theo luật định; dây hôn phối: ngăn trở nầy chấm dứt khi người phối ngẫu qua đời; chức thánh hoặc lời khấn trọn trong dòng tu: ngăn trở nầy phải được thẩm quyền của Giáo hội chuẩn chước). Tuy nhiên, những ngăn trở thuộc luật tự nhiên thì đành bó tay, chẳng hạn như: bất lực, thân thuộc trực hệ.

b/. Giải quyết xong ngăn trở, đôi bạn phải lập lại sự ưng thuận kết hôn. Nếu chỉ một người ý thức sự vô hiệu vì ngăn trở, thì chỉ cần người ấy lập lại sự ưng thuận; nhà lập pháp giả thiết rằng bên kia chưa rút lại sự ưng thuận. Nhưng nếu cả hai đều biết đến sự hiện hữu của ngăn trở, thì cả hai phải lập lại sự ưng thuận. Ngoài ra, nếu ngăn trở ấy là công khai, nghĩa là có thể chứng minh ở toà ngoài (đ.1074), thì việc lập lại sự ưng thuận phải được thực hiện theo thể thức luật định. Dĩ nhiên, không cần phải tổ chức đám cưới, mà chỉ cần sự hiện diện của người có thẩm quyền chứng hôn cùng với hai nhân chứng, và có thể thực hiện điều nầy bất cứ nơi nào cũng được. Sự hữu hiệu hoá với thể thức luật định cần được ghi chú vào sổ hôn phối, nhằm tránh những dị nghị về sau.

2.   Hôn nhân vô hiệu vì hà tì ưng thuận (đ.1159)

Trường hợp nầy xảy ra khi một người thiếu khả năng trao đổi sự ưng thuận (x. đ.1095), hoặc vì đã không ưng thuận (giả đò ưng thuận), hoặc vì sự ưng thuận đã bị hà tì vì đặt điều kiện, lường gạt, bị đe doạ.

Để hôn nhân được hữu hiệu hoá, thì người đã không ưng thuận hay ưng thuận bị hà thì cần phải ưng thuận lại; với giả thiết là phía bên kia chưa rút lại sự ưng thuận. Nếu hà tì của sự ưng thuận có thể chứng mình ở toà ngoài, thì việc lập lại sự ưng thuận phải tiến hành theo thể thức pháp định; còn nếu không thể chứng minh thì có thể làm cách kín đáo.

3.   Hôn nhân vô hiệu vì hà tì thể thức luật định (đ.1160)

Trường hợp nầy xảy ra khi hai người kết hôn với nhau trước mặt người chứng hôn không có thẩm quyền, hoặc là sự uỷ quyền vô hiệu. Nếu trường hợp nầy xảy ra thì phải lập lại sự ưng thuận kết hôn theo thể thức luật định. Không cần tổ chức đám cưới, chỉ cần người chứng hôn có thẩm quyền và hai người chứng hiện diện lúc trao đổi sự ưng thuận kết hôn là đủ. 

Nguồn: J. A. Coriden, T. J. Green, New Commentary on the Code of Canon Law; Phan T. Thành, Giải thích Giáo luật.

TRANG LINH MỤC

CANH TÂN VIỆC GIẢNG LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Khi cử hành thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật, linh mục có nhiệm vụ sửa soạn cho giáo dân hai bàn tiệc: bàn tiệc thánh thể và bàn tiệc lời Chúa. Cả hai bàn tiệc đều quan trọng, và có quan hệ mật thiết. Bàn tiệc Lời Chúa vừa nuôi sống, vừa chuẩn bị cho người kitô hữu hiệp thông mật thiết với Đức Kitô trong bí tích.

Chúng ta dừng lại bàn tiệc Lời Chúa, và cách đặc biệt ở bài giảng lễ, vì đây là một nhiệm vụ vừa quan trọng, vừa vô cùng khó khăn. Giảng lễ còn là một nghệ thuật cần phải không ngừng trau dồi, vừa có hiệu năng nhờ ân sủng siêu nhiên. Hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên trong việc giảng lễ có tương quan hữu cơ với nhau. Yếu tố này tuỳ thuộc và phát huy sức mạnh nhờ yếu tố kia.

1.    Yếu tố siêu nhiên :

Trước hết linh mục cần xác tín rằng giảng không phải là diễn thuyết: dùng tài hùng biện để thuyết phục quần chúng, làm cho quần chúng say mê, ngưỡng mộ và cuối cùng đi theo mình, theo quan điểm lập trường của mình. Trong giảng thuyết, có hùng biện, nhưng hùng biện không phải là điểm chính.

Điều quan trọng là làm thế nào để lời lẽ của linh mục trở thành dụng cụ cho sự thuyết phục của Chúa Thánh Thần. Lời lẽ của linh mục trở thành lương thực nuôi dưỡng đức tin của giáo dân. Linh mục vừa cung cấp một nội dung đức tin, vừa chia sẻ sự sống đức tin.

Nội dung đức tin được cung cấp dựa vào Lời Chúa, vì Lời Chúa mới là Lời sự sống, là ánh sáng chỉ đường, là Lời mặc khải chờ đợi sự đáp trả. Linh mục chỉ quảng diễn Lời, vắn tắt, dễ hiểu, làm nổi bật bật Lời, chứ không che lấp Lời. Không buộc linh mục quảng diễn mọi nội dung của các bài đọc, vì bài giảng không là một lớp học kinh thánh. Nhưng ít nhất phải có một vài nội dung chính yếu nào đó, một vài ý làm thành một nội dung thống nhất, chứ không phải một mớ những ý tưởng rời rạc .

Đức tin không chỉ là nội dung tư tưởng, mà còn là sự sống, là ân sủng do Thiên Chúa ban qua trung gian của linh mục. Lòng tin được khơi dậy bởi Chúa Thánh Thần nhờ tác động của lời nói của linh mục. Linh mục truyền đạt một đức tin sống động, chứ không phải một mớ ý tưởng. Chính vì thế lòng tin của linh mục hết sức quan trọng. Linh mục phải tin, xác tín vào những điều mình nói. Linh mục phải sống ít nhất là một phần nào điều mình nói, phải có kinh nghiệm về những điều mình nói, không nói những lời trống rỗng, mà những lời chân lý, những lời có chất lượng.

Giảng là truyền đạt đời sống đức tin, nên nội dung được truyền đạt phải được tiêu hoá, trở thành lương thực. Để được như vậy linh mục phải cầu nguyện trước khi dọn bài giảng, trước khi giảng, cầu nguyện xin ơn đức tin cho mình và cho những người nghe. Linh mục phải suy niệm trong lòng, và quyết tâm thi  hành.

Giảng là loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Mà trọng tâm của Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô. Nên bài giảng, nhất là giảng lễ Chúa Nhật, phải đề cập đến Đức Giêsu. Giảng còn là giúp cho giáo dân đưa Tin Mừng vào cuộc sống thực tế, nên phải nói về Chúa Giêsu như thế nào để cho giáo dân thấy rõ tương quan giữa Ngài và đời sống đạo của họ hôm nay. Điều này đòi hỏi linh mục động não, suy tư, vận dụng sáng tạo nội dung của Mặc Khải.

Theo sự hướng dẫn của Bộ giáo sĩ, thừa tác vụ Lời Chúa  phải có nội dung trong sáng về thần học, tu đức, phụng vụ và luân lý, và con người phục vụ Lời phải luôn nghĩ đến những nhu cầu, các đau khổ, các vấn đề của những người mình phục vụ. Nhưng nguồn chính của bài giảng lễ vẫn phải luôn là Kinh Thánh.

2.    Yếu tố tư nhiên :

Vì giảng lễ là loan báo, là truyền đạt, nên giảng cũng là một nghệ thuật. Linh mục , dù đã giảng lễ nhiều năm, vẫn nên tiếp tục trau dồi nghệ thuật giảng thuyết, để việc giảng thuyết không trở thành một gánh nặng cho mình và cho người nghe. Bài giảng cần có một số đặc tính của nghệ thuật truyền đạt cho đại chúng:

Trước hết, bài giảng phải thật rõ ràng, dễ hiểu. Ai cũng hiểu được, dù  là một nhà bác học hay một người không biết chữ. Bố cục rõ,  từ ngữ dùng  dễ hiểu, giọng nói  rõ, không quá mau. Không cần phải lớn tiếng quát tháo để tạo ấn tượng, cũng không cần thì thào như người đang tâm sự. Chỉ cần nói cách tự nhiên, bình thường.

Đặc tính thứ hai là vắn gọn, không dài dòng, không lặp đi lặp lại. Sự vắn gọn làm cho người nghe không chán ngán. Theo thánh Tôma tiến sĩ, người ta chỉ có thể cầm trí liên tục khoảng 10 phút. Khi giảng lễ quá 10 phút, người nghe khó nắm bắt được hết nội dung điều ta muốn nói. Cho dù có nắm bắt được, tâm hồn của thính giả , không còn sự nhạy cảm . Dỉ nhiên ở đây cần phân biệt giảng lễ với giảng cấm phòng.

Thời đại bây giờ, khán thính giả không đòi buộc phải giảng buông, không cầm giấy. Vấn đề chính là nắm vững điều mình nói, tạo được nhịp cầu với những người nghe đang hiện diện . Truyền cảm là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật giảng thuyết. Thiếu truyền cảm, sẽ không có tác dụng trên người nghe. Có lẽ đây là yếu tố khó nhất trong nghệ thuật thuyết giảng. Một linh mục thuyết giảng hằng ngày, khó có thể ngày nào cũng truyền cảm.

Những cử chỉ linh mục làm trong khi giảng, có thể góp phần làm cho bài giảng thêm sống động, nhưng không nên khoa tay múa chân nhiều quá, làm cho khán thính giả rối mắt và mệt mõi. Cũng không nên lặp đi lặp lại quá nhiều lần cùng một cử chỉ, dễ làm khán thính giả nhàm chán. Phải biết phối họp cử chỉ,nét mặt , giọng nói với nội dung .

3.    Chuẩn bị :

Công đồng Vatican II dạy rằng linh mục, nhất là linh mục triều thánh hoá bản thân bằng thừa tác vụ, là chính công việc mục vụ của mình. Trong các công việc của linh mục, làm lễ và giảng là những công việc chính yếu. Làm lễ, tuy là công việc hết sức quan trọng, trọng tâm mọi sinh hoạt của Giáo Hội, trong thực tế không đòi hỏi sự lao nhọc của linh mục. Chỉ có việc giảng lễ đòi hỏi nhiều nơi linh mục. Và chính sự lao nhọc của linh mục trong việc chuẩn bị bài giảng, góp phần rất lớn vào việc thánh hoá linh mục.

Theo thư luân lưu của Bộ giáo sĩ gởi các linh mục, hiệu quả của thừa tác vụ Lời Chúa, tuy chủ yếu tuỳ thuộc vào ơn Chúa, vẫn đòi hỏi trình độ cao nhất có thể có được nơi người giảng. Công việc giảng dạy đòi hỏi linh mục chuẩn bị từ xa. Linh mục hãy cố gắng tìm thì giờ đọc sách, nhất là những sách về Kinh Thánh, Mục Vụ... Hãy soạn bài giảng lễ Chúa Nhật hẳn hoi. Ngoại trừ những hoàn cảnh đặc biệt bất khả kháng, sự khiêm tốn và cẩn mẫn của linh mục đòi hỏi phải có ít nhất  một dàn bài cẩn thận  những gì mình định nói với giáo dân.

Chính sự chuẩn bị xa góp phần rất lớn nuôi dưỡng đời sống tinh thần và đạo đức của linh mục. Khi linh mục được bồi dưỡng hẳn hoi thì chính giáo dân cũng được hưởng nhờ. Sự chuẩn bị gần như viết ra bài giảng, đọc lại bài giảng, học thuộc lòng bài giảng, cầu nguyện trước khi giảng, sẽ làm cho linh mục trở thành người thuyết giảng xác tín, có chất lượng, đầy Thần Khí, có sức truyền cảm và thuyết phục.

Khi giảng, nếu linh mục quyết tâm giảng cho chính mình, để cho mình được hoán cải và trở nên tốt hơn, thì lời nói của linh mục sẽ có sức tác động mạnh mẽ, vì nó phát xuất từ nơi thâm sâu nhất của con người linh mục. Linh mục đã lắng nghe được tiếng nói của Thánh Thần nơi mình, và Thánh Thần chắc chắn sẽ nói qua lời lẽ của linh mục. Muốn là mục tử tốt, hãy là con chiên ngoan.

4.    Những điều tối kỵ trong bài giảng lễ :

Không được dùng Lời Chúa trong các bài đọc kinh thánh để la mắng giáo dân, phê bình chỉ trích những người vắng mặt. Lời Chúa là Lời Sự Sống và là sứ điệp tình yêu. Không được tự ý mình Lời Chúa thành lời phán xét. Và nhất là bóp méo Lời Chúa theo ý mình để lên án người này người nọ. Dùng Lời Chúa la mắng giáo dân, sẽ làm cho người ta sợ Lời Chúa, và sẽ không dám đón nhận Lời Chúa. Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán là Lời  linh mục phải luôn tâm niệm khi đứng trên Toà Giảng.

Không được dùng kinh nghiệm trong Toà giải tội, đem ra làm ví dụ trong bài giảng, vì chắc chắn sẽ làm cho nhiều người đau khổ, và coi chừng lỗi ấn toà giải tội. Nếu dùng những kinh nghiệm gần nhất của Toà giải tội trong bài giảng lễ , dù là để răn đe giáo dân  hay để dạy giáo dân cho cụ thể sống động, vẫn lỗi  ấn toà giải tội một cách gián tiếp ( đ.983, đ.1388 ):

Cha giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Toà Thánh. Còn ai chỉ vi phạm gián tiếp, sẽ bị phạt tuỳ theo mức nặng nhẹ của tội phạm.

Cũng không được dùng toà giảng để đá đấu với các linh mục khác, hay đấu với giáo dân, vì điều đó chắc chắn  phát sinh những gương xấu trầm trọng. Nếu là trường hợp nặng có thể dẫn tới tội phạm thánh công khai, vì xúc phạm nặng đến thánh lễ là mầu nhiệm cực thánh ( sacrosanctum mysterium ).

Kinh nghiệm cho thấy rằng, khi không chuẩn bị bài giảng hẳn hỏi, linh mục dễ bị cám dỗ rầy la mắng giáo dân lắp vào chỗ trống và nói nhiều chuyện linh tinh vặt vãnh, làm cho thánh lễ không còn bầu không khí linh thiêng thánh thiện. Chúng ta không nên quên rằng cấu trúc thánh lễ gồm hai phần là phụng vụ Lời Chúa và phụng Thánh Thể. Cả hai phần đều quan trọng và gắn liền mật thiết với nhau. Và bài giảng lễ thuộc về phụng vụ Lời Chúa.

Nếu sự trau dồi của linh mục trong suốt cả cuộc đời chỉ nhằm một mục tiêu là giảng lễ cho tốt , nuôi dưỡng đời sống tâm linh của giáo dân, giúp giáo dân tiếp xúc với Lời Chúa, sống Lời Chúa, dạy giáo dân sống đạo, tạo điều kiện cho giáo dân gặp gỡ Chúa, thì sự trau dồi ấy có một ý nghĩa sâu xa và một giá trị rất cao. Sự trau dồi ấy vừa thăng tiến, vừa mang lại hạnh phúc cho bản thân linh mục, vừa mang lại niềm vui và sự sống cho nhiều người. Linh mục hoàn thành sứ vụ rao giảng Tin Mừng là một chức năng quan trọng và cơ bản nhất trong đời sống linh mục.

 ĐGM. Phaolô  Bùi Văn Đọc (http://www.tgmmt.org)

TRANG TU SĨ

CHỨNG NHÂN TIN MỪNG

Nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa không chỉ là việc của riêng Giám Mục và Linh Mục, nhưng là trách nhiệm của tất cả mọi Kitô hữu. Theo giáo luật điều 759: "Do bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, mọi giáo dân làm chứng nhân loan báo Tin Mừng bằng lời nói và đời sống Kitô hữu gương mẫu. Họ cũng có thể được mời gọi cộng tác với Giám Mục và Linh Mục trong việc thi hành tác vụ Lời Chúa.". Do đó, mọi người đều có nhiệm vụ nói về Thiên Chúa cho người khác. Giáo hội được thiết lập, sai đi rao giảng và làm chứng Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa dành cho loài người, cho mỗi người và mọi người được thể hiện trong và qua Đức Giêsu Kitô, Người đã chết, đã sống lại để chúng ta được hạnh phúc và nhờ Người chúng ta được đón nhận ơn cứu độ.

Là Kitô hữu, hơn thế nữa chúng tôi là những người được thánh hiến cho Thiên Chúa qua lời khấn Dòng bằng việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm: Khó Nghèo - Khiết Tịnh và Vâng Phục. Chúng tôi ý thức trách nhiệm rao giảng Lời Chúa của người Nữ tu là rất quan trọng.  Sự hiện diện của các nữ tu nơi những họ đạo miền quê đang thiếu vắng các linh mục đã mang đến cho giáo dân sự ấm áp và khích lệ rất lớn. Tôi có thể cảm nhận được điều này vì họ đạo quê tôi cũng là nơi "khỉ ho cò gáy", chỉ có Thánh Lễ hai ngày trong tuần, nhưng bù lại chúng tôi được hai Dì giúp. Vì họ đạo nghèo nên điều kiện sống của các Dì cũng thiếu thốn lắm nhưng không ai nghe thấy các Dì than phiền điều gì. Những ngày nghỉ học chúng tôi thường hay đến nhà thờ phụ các Dì quét dọn nhà thờ, cắm hoa, làm thuốc chữa bệnh cho người ta, ...Cho đến một ngày tôi quyết định đi tu để được sống như các Dì. Và rồi tôi đã vào Dòng, đã là "dì phước" như điều tôi hằng mong ước. Nơi phục vụ đầu tiên của tôi là một họ đạo nghèo không có linh mục, trong tuần chỉ có Thánh Lễ vào ngày Chúa Nhật. Đời sống vật chất tuy không đầy đủ như những nơi khác nhưng tình người nơi đây thật chan hòa ấm áp. Đẹp hơn nữa là đời sống cộng đoàn của chúng tôi có tình huynh đệ chân thành. Có được sự cảm thông khích lệ và hướng dẫn của Dì trưởng nên tôi thêm tư tin để làm việc. Nói như vậy không có nghĩa là không có khó khăn hiểu lầm, điều này không ai muốn nhưng cũng không thể tránh khỏi, nhưng những lúc phải đối mặt với khó khăn yếu đuối thì chính Thánh Thể Chúa làm sức mạnh cho tôi vượt qua. Và tôi nhớ tới lời dạy của một Cha giáo khi tôi còn là tập sinh, ngài nói:

-          " Sự hiện diện của con, một nữ tu thánh thiện của Chúa trong Họ Đạo là lời chứng tuyệt vời nhất. Con không cần phải làm chuyện gì lớn lao ngoài một điều quan trọng là con sống tốt và biết quan tâm đến mọi người, sống đúng vai trò một Nữ tu của Chúa. Đời sống thánh thiện của con sẽ là một lời rao giảng hùng hồn nhất và có sức cuốn hút mọi người".

Ngài còn đưa ra hình ảnh một nữ tu trong bộ áo dòng quỳ cầu nguyện trước nhà tạm Chúa. Một hình ảnh thật đơn sơ bình dị nhưng cũng thật sống động và cuốn hút. Như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín có đời sống âm thầm nhỏ bé, ngài chưa từng đi truyền giáo nơi nào, nhưng Thánh nữ đã vạch ra con đường thơ ấu thiêng liêng, con đường tình yêu rút ra từ Tin Mừng của Chúa, là con đường phó thác đơn sơ như người con thơ hoàn toàn cậy dựa vào cha mẹ. Sau khi qua đời ở tuổi 24, ngài đã được tôn phong hiển thánh, làm bổn mạng các xứ truyền giáo và là tiến sĩ Hội Thánh.

Cậy trông vào Tình Yêu Chúa, chúng ta tin mỗi người có cách thức riêng để rao giảng về Chúa cho moi người. Nhưng để hoàn thành nhiệm vụ cao cả nhưng cũng đầy khó khăn thử thách đó, vị "ngôn sứ" của Thiên Chúa cần tập trung rao giảng điều Chúa muốn, sống điều mình rao giảng và dám chấp nhận mọi đau khổ thử thách vì lòng yêu mến Chúa và vì phần rỗi của những người anh em đồng loại, nhất là trong thời đại hôm nay người ta cần "chứng nhân hơn thầy dạy".  Hãy can đảm ra đi làm chứng cho Chúa và hãy là những hình ảnh thật đẹp và sống động giữa mọi người, như có lời chép: "Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin mừng" (Rm 10,15).

MTG Cái Nhum

 Rao giảng Lời Chúa trong cuộc sống đời thường

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các Tông Đồ: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo" (x. Mt 28,19-20). Đó là lệnh truyền của Thầy Chí Thánh Giêsu truyền cho các Tông Đồ ngày xưa, nhưng cũng là lệnh của Người truyền cho mỗi Kitô hữu ngày nay.

Sắc Lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes) của Công Đồng Vatican II cũng đã tái khẳng định điều ấy: "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha" (AG 2).

Chúng ta là những người thuộc "Giáo Hội lữ hành" thì chúng ta phải "Loan Báo Tin Mừng". Và trách nhiệm Rao Giảng Lời Chúa là trách nhiệm của mọi người. Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể (Ga 1,14), sống thân phận con người ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15), vẫn luôn thi hành sứ mạng Loan Báo Tin Mừng, rao giảng Nước Thiên Chúa cho muôn dân và chữa lành nhiều người (Mc 1,38-39). Mang danh Kitô hữu, bước chân theo Thầy Chí Thánh của mình là Đức Kitô, chúng ta cũng phải rao giảng Tin Mừng.

Tục ngữ Việt Nam vẫn nói: Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo. Vậy, nếu việc rao giảng Tin Mừng của linh mục là giảng dạy trong nhà thờ thì mỗi người tín hữu phải rao giảng Lời Chúa qua chính đời sống của mình: trong cộng đoàn, tại gia đình, trong họ đạo, ngoài xã hội. Rao giảng bằng chính cuộc sống được tỏ hiện qua đức bác ái. Tháng 10 năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chọn chủ đề cho ngày Khánh Nhật Truyền Giáo lần thứ 80 là: "Bác ái là linh hồn của Loan Báo Tin Mừng." Nếu mỗi Kitô hữu làm việc gì cũng với tinh thần bác ái, đó là Loan Báo Tin Mừng. Sống chính danh, không bon chen, không tị hiềm, không tranh giành quyền cao chức trọng, đó là Loan Báo Tin Mừng. Sống hy sinh cho tha nhân, đó là Loan Báo Tin Mừng, vì chính Chúa Giêsu đến trong trần gian để phục vụ và hy sinh mạng sống làm giá cứu chuộc mọi người (Mc 10,45).

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã có lần nói rằng con người ngày hôm nay cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy. Điều đó vẫn được ghi nhận là cho đến hôm nay, người ta vẫn còn hằng tôn sùng và nêu cao những tấm gương sống động của cha thánh M. Kolbe, của Mẹ Thánh Têrêsa thành Calcuta... là những người đã sống, đã làm chứng bằng chính cuộc đời và ngay cả mạng sống để tô đậm và minh họa cho lời rao giảng của mình.

Xin mượn câu chuyện của Cha Piô Ngô Phúc Hậu để minh họa về hiệu quả việc rao giảng Lời Chúa bằng đời sống hằng ngày để kết thúc bài viết nầy:

 Hôm nay có một gia đình xin theo đạo. Đó là niềm vui lớn của đời truyền giáo, nhưng vẫn phải tìm hiểu.

-         Tại sao gia đình bà vô đạo ?

-         Tôi thích đạo này từ lâu lắm rồi, từ hồi còn nhỏ tôi đi nuôi mẹ tôi ở nhà thương Cần Thơ. Các bà phước ở đó chăm sóc cho mẹ tôi kỹ lắm. Mấy bả tốt thiệt tốt.

 Thế là mình đã thu hoạch một vụ mùa mà ai đó đã gieo giống. Mình nhớ lại Lời Chúa trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: "Ta đã sai các con gặt hái nơi các con chưa từng lao động vất vả" (Ga 4,38). Người vất vả gieo giống là các nữ tu dòng Chúa Quan Phòng phục vụ tại bệnh viện Cần Thơ. Họ âm thầm khiêm tốn chăm sóc, thăm viếng các bệnh nhân từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay có thể họ đã an nghỉ vĩnh viễn tại nghĩa trang nhà hưu Cù Lao Giêng. Hoặc có thể họ đang là những bà ngoại lưng còng, chống gậy đi lang thang trên những con đường tráng xi măng của nhà hưu dưỡng. Họ đâu có biết rằng hôm nay ở Định Môn mình đang gặt những bông lúa mà họ đã gieo từ ba thập niên về trước.

Ở chỗ khác, Cha ghi lại lời của Cha Đinh Trọng Tự: "...Có rất nhiều người theo đạo vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về đạo của Chúa. Có người hôm nay theo đạo vì trước kia đã học trường đạo; lại có những người khác nữa theo đạo vì cảm phục tấm gương của một chứng tá Tin Mừng nào đó. Linh mục Tự kết luận: "Hôm nay tôi sung sướng được thu hoạch một mùa bội thu do công lao mồ hôi nước mắt của những người vô danh mà tôi không thể biết được".

(Trích "Nhật ký truyền giáo" của Cha Piô Ngô Phúc Hậu)

Đối với riêng tôi, trong hoàn cảnh sống của mình, tôi rao giảng Lời Chúa bằng cách nào đây? Ước gì đây là điều tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để có phương thế áp dụng cụ thể và thiết thực. Phải làm sao để đời sống mình không là phản chứng của những lời mình rao giảng!

MTG Cái Mơn.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG ĐỜI TU

Đã là con người thì ai cũng có tính xã hội, "không ai là một hòn đảo" nghĩa là mỗi người phải biết sống cùng và sống với người khác. Chính nhờ đời sống chúng giữa con người với con người đã giúp người ta trở nên "người" hơn. Thật vậy, "Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi! không phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi! Thế giới này không ai là một hòn đảo! vườn hoa này không có loài hoa lạc loài!.Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với Đức Kitô! không phải ai xa lạ mà là Người đang sống trong tôi..." (Trích bài hát: Không ai là một hòn đảo).

Nói đến đời sống cộng đoàn, thiết nghĩ đó là một khái niệm hết sức quen thuộc đối với mọi người, nhất là những người đang theo đuổi ơn gọi tu trì tại các dòng tu, tu hội. Đặc biệt là những người sắp - đã và đang bước chân trên con đường truyền giáo "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một" (Mt 10, 7).

Trong các dòng tu hoặc đại chủng viện vẫn gọi nhau là : «anh  em», «chị em»...Phải chăng đó chỉ là một sự lạm dụng trongg cách nói ? một thói quen ? một kiểu cách sống?  Thật ra kiểu gọi thông thường đó đã nói lên một tầm quan trọng trong đời sống chung.

 1. Cuộc sống của người kitô hữu là cuộc sống cộng đoàn !

Cộng đoàn là tập hợp một số người cùng sống chung với nhau những quan hệ bền vững mà mục đích chính không phải là một công việc, nhưng là sự gặp gỡ và đón tiếp lẫn nhau; tuy họ sống chung cho một lý tưởng, một mục đích, nhưng điều căn bản hơn là họ thường hướng về nhau, và không phải chỉ sống bên nhau mà còn sống với nhau. Cộng đoàn tiên khởi của chúng ta là gia đình, trong đó moi người đều chăm lo làm ăn xây đắp gia đình được ấm no, hạnh phúc.... Lý do cộng đoàn này tồn tại là cuộc chung sống, là đón nhận và yêu thương lẫn nhau, chia sẻ với nhau đời sống vật chất và tinh thần. Tiếp đến là cộng đoàn gia tộc, gắn liền với nòng cốt gia đình. Đi xa hơn một chút nữa, ta có cộng đoàn giáo họ, giáo xứ, giáo hạt, giáo phận..., cộng đoàn Giáo hội hoàn cầu.

Cũng thế đối với cộng đoàn tu trì.  "Một đặc điểm nền tảng của đời sống tu trì, đó là nó không phải là công việc của những con người riêng lẻ, nhưng là của những nhóm người, của những cộng đoàn....Giữa lòng Giáo Hội, đời sống tu trì là một sự qui tụ : đời sống này là hoa trái của lời mời gọi của Thiên Chúa Đấng tạo nên sự triệu tập  » (C.Hourticq-les religieuses)

Bước vào đời sống tu trì là gia nhập vào trong một nhóm đặc biệt, nhóm này có phương cách sống Tin Mừng riêng biệt. Mỗi cá nhân đều được gởi đến sống trong một cộng đoàn các anh em, chị em để sống việc bước theo Chúa Kitô của mình. Đời sống huynh đệ là trường học về sự tiếp cận và sự khác biệt ; bởi thế, mỗi cộng đoàn, do bởi bản chất của sứ vụ,  được gửi đến một địa điểm cụ thể để sống tinh thần Phúc Âm theo phương cách đặc biệt của họ, mỗi người sống sứ vụ chung theo âm điệu của chính mình. Các Chủng Viện cũng như dòng tu được qui tụ lại nhân danh Chúa Kitô và chung quanh Chúa Kitô là Đấng mà các thành viên quyết đi theo. Như trong huấn thị Những Yếu Tố Cốt Yếu viết ở Phần II, số 18 có ghi: "Sự thánh hiến tu trì thiết lập một sự hiệp thông đặc biệt giữa tu sĩ với Thiên Chúa, với các thành viên của tu đoàn. Mà vì tu sĩ được thánh hiến cho Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ tham dự vào sự thánh hiến của Đức Kitô, cho nên có thể nói cách khác, rằng sự hiệp thông tu trì là một sự hiệp thông trong Đức Kitô".

 2. Sống Cộng Đoàn Là Biết Đón Nhận Sự Khác Biệt Của Nhau

Cộng đoàn là một nơi để học biết cách đón nhận sự khác biệt về: thế hệ, văn hóa, tính tình và còn phải thông cảm và chấp nhận những yếu đuối của nhau... Để hoà hợp và làm phong phú điều quan trọng trong đời sống chúng là phải yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta "các con hãy tha thứ không những bảy lần nhưng mà là bảy mươi lần bảy "  và "hãy yêu thương tha nhân như chính mình". Vì là con người ai cũng có lúc yếu đuối, sa ngã, xúc phạm tới tha nhân. Vì thế chúng ta cũng vậy, chúng ta hãy thừa nhận rằng mình cũng yếu đuối như bao người khác mà thậm chí còn hơn. Nhưng chúng ta đã được tha thứ từ chính Chúa Giêsu. Cho nên chúng ta cũng hãy tha thứ cho những anh em mình và yêu thương anh em mình như chính mình vậy. Hãy coi nhau như là anh em trong cùng một gia đình, như Cha thánh Phanxicô có nói mỗi người hãy coi anh (chị) em là một ân huệ Chúa ban cho, và mình thật lòng vui mừng vì có họ ở với mình. Hãy đùm bọc, che chở cho nhau, đừng đem những chuyện không tốt về cộng đoàn mình mà đi nói với người khác.          

3. Đời Sống Cộng Đoàn Nơi Đào Sâu Đời Sống Thiêng Liêng

Những gì xây dựng cộng đoàn, đó chính là mối tương quan cá nhân của mỗi người đối với Chúa Kitô; cầu nguyện riêng và chung với cộng đoàn là luôn luôn có, mang những hình thức và nhịp điệu khác nhau theo đoàn sủng của các tu hội nhưng nó luôn là thiết yếu; sự kiện mỗi người đã xây dựng cuộc sống của mình trên Chúa Kitô, giả thiết rằng đã luôn có sự gặp gỡ với Ngài trong sự thân mật qua việc cầu nguyện, qua việc đọc Lời Chúa không ngừng và qua việc gặp gỡ với Ngài nơi những người mà Ngài không ngừng gửi đến cho cộng đoàn

Đặc biệt là đời sống cộng đoàn được nối kết và nuôi dững bằng Bí tích Thánh Thể: "đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy" mà cộng đoàn tu trì được nuôi dưỡng, được biểu lộ trong bí tích của người anh em, của người chị em, và đặc biệt là nơi những người mà Chúa Kitô đồng hóa: "khi Ta đói, khi Ta khát...mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi làm cho chinh Ta ». (Mt 25,40)

Nhờ đó, cuộc sống cộng đoàn trong đời sống tu trì  được bén rễ sâu hơn trong Chúa Kitô, và là đòn bẩy thúc đẩy chúng ta, trong Giáo Hội, giữa lòng thế giới, để sống phúc âm, nhờ ân sủng của Ngài và với sự trợ giúp của anh chị em chúng ta, theo phương cách của một tu hội, mà tiếp nối những dấu ấn của Đấng sáng lập.

 4. Những Tâm Tình Trong Đời Sống Cộng Đoàn

-         Có lòng thương cảm: Là chúng ta phải biết rung nhịp cùng những khổ đau, yếu đuối cũng như những những niềm vui nỗi buồn của anh em mình.

-         Nhân hậu: Là lòng tốt, thiện ý thiện tâm đối với kẻ khác, là luôn luôn nghĩ tốt cho người khác, luôn mong ước tìm lợi ích và niềm vui cho anh em mình, có sự tin tưởng, và không lên án anh em khi anh em mắc lỗi.

-         Khiêm nhu: Là điều kiện của mọi tình yêu chân thành. Có tinh thần khiêm nhu, chúng ta sẽ tránh được óc phê phán người anh em mình và luôn coi mình là kẻ hèn mọn.

-         Hiền hòa: Tính hiền hòa đi theo sự đơn sơ, vui vẻ, rộng rãi, dễ dãi với người khác.

-         Nhẫn nại: Là sức giai bền trong sự chịu đựng những gì mà người khác xúc phạm tới mình.

-         Chịu đựng lẫn nhau: Như Thánh Phaolo tông đồ gửi tín hữu Galata (6, 2): "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là chu toàn luật Đức Kitô". Như vậy khi chúng ta hiểu biết được ai cũng có gánh nặng, thì chúng ta mới biết nâng đỡ nhau và đừng chất gánh nặng lên người khác. Và hãy luôn nhớ rằng những người anh em cũng đang phải chịu đựng ta và nhất là Chúa vẫn luôn chịu đựng ta.

Đời sống cộng đoàn là một ân ban mà Thiên Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không. Bởi thế, chúng ta đừng tự vạch ra cho mình một lý tưởng về tình huynh đệ, đời sống chung theo ý kiến của mình để chúng ta khỏi rơi vào tình thế bi quan tiêu cực vì lý tưởng quá xa vời và mơ hồ. Song chúng ta phải biết cầu xin Thiên Chúa ban cho mình và anh (chị) em biết đón nhận và làm phát triển những ân ban đó. Và chính đời sống cộng đoàn sẽ giúp cho chúng ta không cảm thấy cô đơn, chán nản khi đồng hành với anh (chị) em, cùng nhau cất lên những lời kinh tiếng hát và cùng nhau chia sẻ một tấm bánh là chính Mình Máu Đức Ki-tô. Hy vọng và cầu chúc mỗi người chúng ta luôn được đầy tràn ân thiêng của Chúa, và xin sức mạnh và tình yêu Chúa trợ lực mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn biết hy sinh, chịu đau, chịu thương để người khác cắt tỉa những cái hư, những tật xấu, nhằm loại bỏ cái tôi ích kỷ, tội lỗi của chính mình, để trở thành những phần tử ưu tú trong cộng đoàn, Giáo Hội và xã hội như lòng Chúa mong ước.

TRANG THIẾU NHI

BÀI 7. DẠY CON TÂM SỰ VỚI CHÚA VỀ NHỮNG CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

"Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? ... Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý hơn  muôn vàn chim sẻ" (Mt 10, 29-31).

Từ khi con bắt đầu hiểu tiếng mẹ, con luôn nghe nói về mình .còn nhỏ.. Thật dễ thương nếu con biết rằng chẳng có gì quá nhỏ nhặt để Chúa không để ý đến, kể cả những em bé còn nhỏ. 

Thiên Chúa thấy mỗi chú chim vỗ cánh trên trời. Ngài biết từng sợi tóc trên đầu con. Như Giêsu dạy, nếu Chúa biết thế, chắc Chúa biết những khi con: 

-         té xe đạp 

-         gặp con chó lạ trong xóm 

-         lái xe đạp xuống con dốc đứng 

-         nghe phải lời không đẹp từ bạn bè 

-         không được nhập bọn chơi đùa cùng bạn 

Hãy cho con biết con có thể tâm sự với Thiên Chúa về cả những lần xui xẩy, lỗi lầm, té ngã, trúc trắc, xấu hổ. Con nên biết Thiên Chúa còn ghi nhớ những khi con 

-         nhã nhặn với bạn bè 

-         hành xử dễ thương 

-         thành công 

-         cầu nguyện 

Thiên Chúa lúc nào cũng lắng nghe. Hơn thế, Ngài mong nghe thiếu nhi tâm sự với Ngài mọi chuyện. Nếu có dẫn con đi dạo, cha mẹ chú ý đến những gì nhỏ nhặt mà con quan tâm, ngay cả khi chính cha mẹ cũng không để ý đến. Dạy con: 

-         Tạ ơn Ngài vì những chú bướm đầy sắc mầu và nhớ đến Chúa vô cùng tốt đẹp. 

-         Tri ân Ngài vì những hòn sỏi nhỏ xinh dưới suối đã giữ làn nước sạch trong. 

-         Nhận biết mỗi chiếc lá bé xíu trên cành chính là nguồn sống của cây. 

-         Quan sát loài côn trùng sinh động và cám ơn Chúa đã tạo dựng và trao cho mỗi loài mỗi vai trò riêng trong vũ trụ. 

Khuyến khích con mở lòng với Chúa trước những thời điểm và quyết định quan trọng. Xin gợi trong trí con nhận thức Thiên Chúa có mặt trong mỗi giây phút, và biết tâm sự với Chúa về chuyện lớn, chuyện nhỏ trong đời sống. 

 Thành Tín, dunglac.org

 TRANG GIỚI TRẺ

BÀI GIÁO LÝ THỨ BA
CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI  VỀ CẦU NGUYỆN

Lời Cầu Nguyện của Ông Abraham

 Dưới đây Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI về Cầu Nguyện, ngày Thứ Tư 18 tháng 5, năm 2011. Chuyển ngữ từ bản Tiếng Pháp của Tòa Thánh.

Anh chị em thân mến,

Trong hai bài giáo lý trước đây chúng ta đã suy niệm về cầu nguyện như một hiện tượng phổ quát, mặc dù có nhiều hình thức khác nhau, nhưng hiện diện trong các nền văn hóa của mọi thời đại.  Hôm nay, tôi muốn bắt đầu ôn lại Thánh Kinh về chủ đề này, là điều sẽ dẫn chúng ta đến việc đi sâu vào cuộc đối thoại giao ước giữa Thiên Chúa và con người, và làm sống động lịch sử cứu độ, cho đến tột đỉnh trong Lời dứt khoát của Đức Chúa Giêsu Kitô.  Cuộc hành trình này sẽ dẫn chúng ta đến việc dừng lại ở một vài đoạn văn quan trọng và nhân vật mô phạm của Cựu Ước và Tân Ước.

Ông Abraham, vị Tổ Phụ vĩ đai, người cha của tất cả các tín hữu (x. Rom 4:11-12:16-17), cung cấp cho chúng ta một mẫu gương đầu tiên về cầu nguyện trong đoạn Thánh Kinh nói về việc ông cầu bầu cho hai thành Sôđôma và Gômôra.  Tôi cũng muốn mời gọi anh chị em nhân cuộc hành trình mà chúng ta sẽ đi trong những bài giáo lý tới để học biết thêm về Thánh Kinh, là quyển sách mà tôi hy vọng anh chị em đang có trong nhà mình, và trong tuần, ngừng lại để đọc và suy niệm trong cầu nguyện, để biết lịch sử tuyệt vời về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa Thiên Chúa là Đấng truyền thông với chúng ta và con người là kẻ đáp lời bằng cầu nguyện.

Đoạn văn đầu tiên mà chúng ta muốn suy niệm được tìm thấy trong Chương 18 của Sách Sáng Thế Ký, chuyện kể lại rằng tội ác của dân thành Sôđôma và Gômôra đã lến đến tột cùng, đến nỗi cần sự can thiệp của Thiên Chúa để thi hành công lý và ngăn chặn tội ác bằng cách hủy diệt hai thành ấy.  Chính ở đây mà ông Abraham đã nhập cuộc với lời cầu xin của ông.  Thiên Chúa quyết định tỏ ra cho ông những gì sẽ xảy ra, và cho ông biết mức độ trầm trọng của tội ác và hậu quả khủng khiếp của nó, bởi vì Ông Abraham là người được Chúa chọn, được chọn để trở thành một dân vĩ đại, để làm cho các phúc lành của Ngài lan ra toàn thể thế giới. Ông có một sứ mệnh cứu độ, phải đáp ứng lại tội lỗi đang xâm chiếm thực trạng của con người; qua ông Chúa muốn đưa nhân loại trở về với đức tin, đức vâng phục và đức công chính.  Giờ đây, người bằng hữu này của Thiên Chúa mở lòng ra với thực tại và nhu cầu của thế giới, cầu bầu cho những người đang bị trừng phạt và xin cho họ được cứu độ.

Ông Abraham lập tức trình bày vấn đề với tất cả mức độ nghiêm trọng của nó, và thưa cùng Chúa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?" (cc. 23-25).  Với những lời này, cùng lòng can đảm tuyệt vời, ông Abraham đặt trước Thiên Chúa nhu cầu cần phải tránh một công lý tổng lược: nếu thành có tội, thì việc lên án tội của nó và trừng phạt nó là đúng, nhưng vị Tổ Phụ vĩ đại xác quyết rằng, việc trừng phạt tất cả các dân cư mà không phân biệt ai cả như vậy là bất công. Nếu có những người vô tội trong thành thì họ không thể bị đối xử như những kẻ có tội. Ông Abraham thưa với Thiên Chúa một cách đúng đắn rằng Thiên Chúa, là một vị thẩm phán công bằng nên không thể làm như thế.

Tuy nhiên, nếu đọc đoạn văn kỹ hơn, chúng ta nhận thấy rằng lời cầu xin của Ông Abraham thậm chí còn nghiêm trọng và sâu sắc hơn, vì ông không chỉ đơn thuần cầu xin Chúa cứu những người vô tội.  Ông Abraham còn cầu xin ơn tha thứ cho toàn thể dân thành, và ông làm như thế bằng cách nại đến đức công chính của Thiên Chúa.  Thực ra, ông thưa cùng Chúa: "Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao?" (c. 24b). Làm như thế, ông đưa ra một ý tưởng mới về công lý: không phải chỉ giới hạn ở việc trừng phạt những kẻ phạm tội như loài người vẫn làm, nhưng một công lý khác, công lý của Thiên Chúa, là công lý tìm điều tốt và tạo ra nó qua việc tha thứ, là điều biến đổi kẻ có tội, hoán cải và cứu độ người ấy. Như thế, bằng lời cầu nguyện của mình, Ông Abraham đã không những chỉ xin một công lý thuần báo ứng, nhưng còn một can thiệp về cứu độ, vừa kể đến những người vô tội, vừa giải thoát cả những kẻ xấu khỏi tội lỗi của họ bằng cách tha thứ cho họ. Tư tưởng của Ông Abraham, là một tư tưởng hầu như nghịch lý, có thể được tóm tắt cách này: tất nhiên là người ta không thể đối xử với những người vô tội như những kẻ có tội, điều này bất công; nhưng cần phải đối xử với kẻ có tội như người vô tội. Việc đề ra một công lý "cao thượng", cung cấp cho họ một phương tiện cứu độ, bởi vì nếu các tội nhân chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa và thú nhận tội lỗi hầu được cứu độ, thì họ sẽ không còn tiếp tục làm điều ác, và họ cũng sẽ trở nên công chính, và không còn cần đến hình phạt nữa.

Đây là sự tìm kiếm công lý mà Ông Abraham thể hiện trong việc cầu xin của mình, một yêu cầu là dựa trên niềm tin chắc chắn rằng Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Ông Abraham không xin Thiên Chúa điều gì trái với bản tính của Ngài. Ông đã gõ cửa lòng của Thiên Chúa khi biết rõ thánh ý thật sự của Ngài. Sôđôma chắc chắn là một thành lớn; năm mươi người công chính có vẻ là ít, nhưng chẳng lẽ công lý của Thiên Chúa và sự tha thứ của Ngài lại không biểu hiện sức mạnh của sự tốt lành, dù sự tốt lành ấy có vẻ nhỏ hơn và yếu hơn tội ác sao? Việc tiêu hủy Sôđôma là để ngăn chặn điều ác ở thành này, nhưng Ông Abraham biết rằng Thiên Chúa có cách khác, phương tiện khác, để ngăn chặn việc lan tràn của sự dữ. Đó là ơn tha thứ, là điều làm gián đoạn chu kỳ tội lỗi, và Ông Abraham, trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, nại vào chính điều này. Khi Chúa đồng ý tha thứ cho thành nếu ông tìm thấy năm mươi người công chính, lời cầu bầu của ông bắt đầu chìm sâu thêm trong vực thẳm của lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông Abraham - như chúng ta nhớ lại - dần dần giảm số lượng người vô tội cần thiết cho việc cứu độ xuống: nếu chỉ có năm mươi người, có thể bốn mươi lăm người cũng đủ, và sau đó càng ngày càng xuống nhiều hơn nữa đến mười người, rồi ông tiếp tục lời khẩn cầu của ông, gần như táo bạo và kiên trì: "Nếu tìm thấy bốn mươi người... ba mươi người ... hai mươi người ... mười người" (x. cc. 29, 30, 31, 32). Và số lượng càng nhỏ xuống thì càng tỏ lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng kiên nhẫn lắng nghe lời cầu nguyện, chấp nhận và lập đi lập lại: "Ta sẽ tha thứ,... Ta sẽ không phá hủy... Ta sẽ không làm điều ấy" (x. cc. 26, 28, 29, 30, 31, 32).

Như vậy, qua lời cầu bầu của Ông Abraham, Sôđôma có thể được cứu nếu người ta chỉ cần tìm thấy được mười người vô tội trong đó. Đó là sức mạnh của lời cầu nguyện. Bởi vì được bày tỏ và diễn tả qua việc cầu bầu, cầu nguyện với Thiên Chúa để cứu độ tha nhân là ý muốn cứu độ mà Thiên Chúa luôn luôn dành người tội lỗi.  Thực ra, Thiên Chúa không chấp nhận Sự Dữ, nó phải bị vạch trần và tiêu hủy bằng hình phạt: việc hủy diệt thành Sôđôma chính là thuộc chức năng này.  Tuy nhiên Chúa không muốn kẻ ác phải chết, nhưng hoán cải và được sống (x. Ezekiel 18:23; 33:11). Ngài luôn muốn tha thứ, cứu độ, ban sự sống và biến đổi điều xấu thành tốt. Vâng, chính ý muốn này của Thiên Chúa, trong cầu nguyện, trở thành của ý muốn con người, và được diễn tả bằng những lời cầu bầu. Với lời cầu xin của mình, ông Abraham đã không những cho ý Chúa mượn chính tiếng nói của mình, mà còn cả trái tim của mình nữa: ý muốn của Thiên Chúa là thương xót, yêu thương, và muốn ban ơn cứu độ. Ý muốn của Thiên Chúa này tìm thấy nơi ông Abraham và nơi lời cầu nguyện của ông khả năng để biểu lộ nó cách cụ thể trong lịch sử nhân loại, ở bất cứ nơi nào cần đến ân sủng. Với lời cầu nguyện của mình, ông Abraham nói lên ý muốn của Thiên Chúa là không phải tiêu diệt nhưng cứu Sôđôma, để ban sự sống cho các tội nhân biết ăn năn hối cải.

Đó là điều Chúa muốn, và cuộc đối thoại của Ngài với ông Abraham là một biểu hiện kéo dài và rõ ràng của lòng từ ái của Ngài.  Việc cần phải tìm được những người công chính trong thành càng ngày càng trở nên ít đòi hỏi, và cuối cùng chỉ cần mười người là đủ để cứu toàn thể dân thành.  Vì lý do gì mà ông Abraham dừng lại ở mười người thì không được nói đến trong bản văn. Có lẽ nó là một số ám chỉ số người nòng cốt tối thiểu của một cộng đồng (ngày nay cũng thế, mười người là số đại biểu cần thiết để cầu nguyện công khai của người Do Thái).  Tuy nhiên, đó là một con số nhỏ, một chút điều tốt để nhờ đó cứu thành khỏi một điều đại ác. Dù thế, người ta cũng không tìm thấy chỉ mười người công chính trong thành Sôđôma và Gômôra, cho nên hai thành đã bị tiêu hủy. Như vậy, việc tiêu hủy được chứng tỏ là cần thiết một cách nghịch lý qua chính lời cầu bầu của ông Abraham. Bởi vì lời cầu bầu ấy đã cho thấy ý muốn cứu độ của Thiên Chúa: Chúa đã sẵn sàng tha thứ, Ngài muốn làm như thế, nhưng hai thành đã hoàn toàn bị đóng kín trong sự dữ và tê liệt đến nỗi không có ngay cả một ít người vô tội để nhờ đó biến đổi xấu thành tốt. Bởi vì đó chính là cách cứu độ mà ông Abraham đã cầu xin: để được cứu độ không chỉ đơn thuần là để tránh bị trừng phạt, nhưng để được giải thoát khỏi sự dữ đang ở trong chúng ta. Không phải là cần loại bỏ hình phạt, nhưng cần phải loại bỏ tội lỗi, là việc chối từ Thiên Chúa và tình yêu, là điều tự nó mang đến hình phạt.

Ngôn sứ Giêrêmia đã phải nói cho dân phản trắc rằng: "Sự gian ác của ngươi phải sửa trị ngươi, hành vi phản bội của ngươi sẽ trừng phạt ngươi. Ngươi phải biết, ngươi phải thấy rằng: lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, không còn kính sợ Ngài, thì thật là xấu xa và cay đắng" (Gr 2:19). Chính từ nỗi buồn và cay đắng này mà Chúa muốn cứu độ con người bằng cách giải thoát họ khỏi tội lỗi. Nhưng như thế phải là một sự biến đổi từ bên trong, từ một điểm tốt nào đó như một khởi đầu để từ đó biến đổi sự dữ thành địều tốt, sự ghen ghét thành tình yêu, hận thù thành tha thứ. Bởi vì sự công chính này phải được tìm thấy trong thành, và ông Abraham tiếp tục lặp đi lặp lại: "Giả sử tìm thấy trong thành ...." "Trong thành": là trong cái thực tại bệnh hoạn phải có mầm mống tốt có thể chữa lành và phục hồi sự sống. Đó cũng là một lời nói với chúng ta: rằng trong thành của chúng ta phải tìm được những mầm mống tốt; rằng chúng ta phải làm hết sức để sẽ không chỉ có mười người công chính, để thực sự làm cho các thành của mình được sống và tồn tại cùng để cứu chúng ta khỏi sự cay đắng nội tâm này là sự vắng mặt của Thiên Chúa. Và trong cái thực tại bệnh hoạn của Sôđôma và Gômôra, người ta đã không tìm được mầm mống tốt ấy.

Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa trong lịch sử dân Ngài được mở rộng hơn nữa. Để cứu Sôđôma chỉ mười người công chính là đủ, ngôn sứ Giêrêmia đã nói rằng, nhân danh Đấng Toàn Năng, chỉ cần một người công chính cũng đủ để cứu để cứu thành Giêrusalem, "Hãy rảo quanh đường phố Giêrusalem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cho cả thành." (5:1). Một lần nữa số người lại giảm xuống, sự tốt lành của Thiên Chúa được chứng tỏ là cao cả hơn nhiều. Tuy như thế vẫn chưa đủ, lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đã không tìm thấy sự đáp trả tốt lành mà Ngài tìm kiếm, và Giêrusalem rơi vào vòng kiềm tỏa của quân thù.

Cần chính Thiên Chúa phải trở thành người công chính. Đó là mầu nhiệm Nhập Thể: để đảm bảo rằng có một người công chính thì chính Người đã tự Mình trở thành người ta. Như thế sẽ luôn có một người công chính vì Người là người ấy:  tuy nhiên, chính Thiên Chúa cần phải trở nên người công chính ấy. Tình yêu vô hạn và tuyệt vời của Thiên Chúa sẽ được hoàn toàn tỏ lộ khi Con Thiên Chúa trở nên người phàm, Đấng hoàn toàn Công Chính, Đấng hoàn toàn Vô Tội, sẽ mang ơn cứu độ đến cho toàn thể thế gian bằng cách chết trên thập giá, tha thứ và cầu bầu cho những người "chẳng biết việc họ làm "(Lc 23:34). Sau đó lời cầu nguyện của mỗi người sẽ tìm được câu trả lời, rồi mỗi lời chuyển cầu của chúng ta sẽ hoàn toàn được đoái nghe.

Anh chị em thân mến, lời cầu khẩn của ông Abraham, cha của chúng ta trong đức tin, dạy chúng ta mở rộng lòng mình ra hơn nữa cho lòng thương xót khôn lường của Thiên Chúa, để trong lời cầu nguyện hàng ngày của mình, chúng ta có thể mong ước phần rỗi của nhân loại và cầu xin điều ấy với lòng kiên trì và tín thác vào Chúa là Tình Yêu cao vời. Xin cám ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ, giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 3. GIÁO LUẬT VỀ BÍ TÍCH HÔN PHỐI

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc 10,9).

Hôn nhân không chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan đến một phạm vi rộng lớn hơn, từ họ hàng hai bên cho đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới ổn định và bền vững.

Vì mang tính xã hội, nên hôn nhân cần được pháp luật chứng nhận và bảo vệ. Tại Việt Nam, về mặt dân sự ta có luật "Hôn nhân và Gia đình" được Quốc Hội thông qua ngày 09.6.2000, gồm 110 điều. Còn về mặt tôn giáo, trong bộ luật của Hội Thánh, được gọi là giáo luật, ban hành ngày 25.01.1983, có 111 khoản về hôn nhân.

Luật của Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công giáo [x. GL 11; 1059; 1075 §2]. Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm giúp con cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn nhân và gia đình như ý Thiên Chúa muốn.

1. Điều kiện cử hành bí tích Hôn phối

Để Bí tích Hôn phối thành sự, cần những điều kiện sau:

-         Phải là một người nam và một người nữ, đã rửa tội[GLHT 1625; x. GL 1055].

-         Hai người có tự do để kết hôn. Tự do ở đây có nghĩa là:

-         Không bị ép buộc

-         Không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh [GLHT 1625].

-         Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình.

-         Cử hành theo thể thức của Hội Thánh [GL 1108].

2. Các ngăn trở Hôn phối

Ngăn trở hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.

Để có thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình trạng tự do, không bị ngăn trở nào theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh. Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa trên hôn nhân như một định chế tự nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên mối liên hệ của hôn nhân với cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà thôi.

Các ngăn trở hôn phối gồm có:

2.1. Ngăn trở do chưa đủ tuổi để kết hôn

Để kết hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14 tuổi [GL 1083 §1]. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc gia có quyền quy định tuổi cao hơn để kết hôn hợp pháp [GL 1083 §2; xem thêm GL 1071 §1, 20 và 60; 1072]. Tại Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và Gia đình điều 9.

2.2. Ngăn trở do bất lực

Một trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được [GL 1084 §1]. Bất lực khác với vô sinh. Bất lực là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không thể có con. Việc vô sinh không phải là một ngăn trở hôn phối [x. GL 1084 §3].

2.3. Ngăn trở do đã kết hôn

Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước [GL 1085 §1]. Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi:

-         Người phối ngẫu chết [GL 1141].

-         Hôn nhân thành sự nhưng chưa hoàn hợp, được Đức Giáo Hoàng đoạn tiêu vì lý do chính đáng [GL 1142].

-         Hôn nhân giữa hai người chưa rửa tội được đoạn tiêu do đặc ân Phaolô nhằm bảo vệ đức tin của bên lãnh nhận phép Rửa tội, do chính sự kiện là bên được rửa tội lập hôn nhân mới, và bên không được rửa tội muốn phân ly [GL 1143].

2.4. Ngăn trở do khác biệt tôn giáo

Một bên Công giáo, còn một bên không Công giáo [GL 1086; 1124-1125].

2.5. Ngăn trở do chức thánh

Những người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự [GL 1087]. Những người có chức thánh gồm: Giám mục, linh mục và phó tế.

2.6. Ngăn trở do khấn dòng

Những người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn sống khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn thành sự [GL 1088].

2.7. Ngăn trở do bắt cóc

Hôn nhân bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta [GL 1089].

2.8. Ngăn trở do tội mưu sát phối ngẫu

-         Giết vợ hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy người khác.

-         Giết vợ hay giết chồng của người phối ngẫu (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy ho ï[GL 1090].

2.9. Ngăn trở do họ máu (huyết tộc)

-         Theo hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc [GL 1091,1; x. Luật HN và GĐ điều 10 §3].

-         Theo hàng ngang: hôn nhân bất thành cho tới hết 4 bậc [GL 1091 § 2].

2.10. Ngăn trở do họ kết bạn

Hôn thuộc theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối [GL 1092]. Ví dụ, giữa cha chồng với con dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng ngang thì không bị ngăn trở. Ví dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể lấy em vợ.

2.11. Ngăn trở do công hạnh

Hay còn gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do cuộc hôn phối bất thành sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay công khai. Ngăn trở này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu của người nữ bậc một hàng dọc, và ngược lại [GL 1093]. Chẳng hạn: nếu anh X đã từng chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con riêng của cô Y; và cô Y cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh

2.12. Ngăn trở do pháp tộc

Những người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng, ở hàng dọc hoặc hai bậc hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự [GL 1094]. Ngăn trở này làm hôn nhân bất thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi với cha mẹ hoặc con cháu ruột của cha mẹ nuôi; hai con nuôi của cùng một cha mẹ nuôi.

3. Chuẩn ngăn trở

Nếu mắc phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có lấy nhau, hôn phối vẫn không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà thôi. Để kết hôn thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, không phải ngăn trở nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được.

Đối với những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó là những ngăn trở:

-         Do bất lực [GL 1084].

-         Do đã kết hôn [GL 1085; 1141].

-         Do có họ máu hàng dọc [GL 1078 §3].

-         Do có họ máu hai bậc hàng ngang [GL 1078 §3].

Đối với những ngăn trở chỉ do luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự.

Các ngăn trở Hội Thánh có thể miễn chuẩn khi có lý do chính đáng:

-         Về tuổi tối thiểu.

-         Về họ máu ba bậc trở đi theo hàng ngang: bà con và anh em họ.

-         Về họ kết bạn.

-         Về tội ác (tội mưu sát phối ngẫu)

-         Về chức thánh.

-         Về lời khấn.

-         Về công hạnh.

-         Về khác tôn giáo.

Riêng đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng chỉ vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc, đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của bên này sẽ thánh hoá bên kia [x. 1 Cr 7,14; GL 1124-1129].

(còn tiếp)

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004

Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh

Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004

+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho

   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 5. CÁC ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN DỰA TRÊN CƠ SỞ VĂN HÓA DÂN TỘC

Việc đào tạo con người tự nhiên được triển khai theo bộ khung luân lý dân tộc :

1. Nhân: Là nhân đức dạy ta biết yêu thương, tha thứ, kính trọng, quan tâm giúp đỡ, quảng đại và khoan dung.

-         Đức nhân dựa trên nền tảng Chúa là Tình yêu, ai yêu thương nhau thì ở trong Thiên Chúa.

-         Xét về tự nhiên thì « Tứ hải giai huynh đệ » : người trong bốn biển đều là anh em. Người có lòng nhân luôn cổ võ tình thương nhân loại.

-         Người có lòng nhân luôn biết chạnh thương, dám chịu thiệt thòi vì dám tin rằng cuối cùng thì « Tình yêu sẽ' thắng ».

2. Nghĩa: Là biết ơn, khiêm nhường trong lòng, hiếu khách, phục vụ vô vị lợi, có tinh thần trách nhiệm, vâng lời, quý trọng các giá trị gia đình, yêu quê hương dân tộc, làm việc chung, hy sinh vì ích chung.

-         Biết ơn còn là sự hiểu biết và bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần cũng như vật chất.

-         Biết ơn để xứng đáng là người hơn, để xứng đáng với ơn đã lãnh nhận và để xứng đáng nhận thêm các ơn khác.

3. Lễ: Là lịch sự vui vẻ và khiêm tốn trong xử thế, kính trọng người trên, ôn tồn nhã nhặn, biết tôn trọng người và tôn trọng chính mình trong cách cư xử giao tiếp. Nền tảng của phép lịch sự là công bằng, bác ái và cái hồn của lịch sự là sự chân thành.

4. Trí: Hiếu học, cầu tiến, cân nhắc, khôn ngoan, suy nghĩ chín chắn, phán đoán chính xác và biết tiên liệu vấn đề. Người có đức Trí luôn có sáng kiến, có những tư tưởng mới lạ và độc đáo, biết khám phá ra những điều mới lạ đem lại lợi ích cho xã hội và bản thân. Ngoài ra họ còn là người biết tổ chức làm sao cho công việc đỡ tốn thời giờ, tiền bạc, nhân lực mà vẫn có được kết quả tối đa.

5. Tín: Thành thật, đúng giờ, giữ lời hứa cho dù gặp biến cố hay trắc trở, trung tín từ trong việc nhỏ. Người trung tín luôn trung tín với Thiên Chúa, với Giáo Hội, với tha nhân, với bản thân và với bổn phận

6. Cần: Chuyên cần chăm lo bổn phận hiện tại, siêng năng học hành, làm việc chu đáo từ trong việc nhỏ, làm cho đến khi hoàn tất. Làm một cách vui tươi, mau mắn và kỹ lưỡng. Chuyên cần chính là chiếc chìa khóa đầu tiên mở ra cánh cửa tương lai, là một trong những bí quyết thành công trong cuộc sống.

7. Kiệm: Là tiết kiệm, tiết độ, chừng mực, hạn chế đúng mức. Không hoang phí trong việc sử dụng tiền của - sức khỏe - thì giờ.

8. Liêm: Là thanh liêm,trong sạch cả thể xác lẫn tâm hồn, yêu nghèo khó, không tham lam từ trong tư tưởng, lời nói cũng như hành động. Người thanh liêm là người trong sạch trong khi thi hành nghĩa vụ, không tham nhũng, hối lộ.

9. Chính: Ngay thẳng, công bằng, đơn sơ, cởi mở. Đối với nhà giáo dục thì Chính là sống theo công lý không thiên tư tây vị, không tự dối lòng mình cũng như dối gạt người khác. Trong cư xử, ngôn ngữ và hành động luôn tỏ ra thành thực, tín nghĩa. Đức Chính Trực là đức tính cần thiết của người lãnh đạo, để quản trị và hướng dẫn nghiêm minh.

10. Dũng: Kỷ luật, kiên trì, trật tự, nhẫn nại, tự tin, khắc phục mọi nỗi lo âu sợ hãi, bình tĩnh trước mọi vấn đề, không để sở thích điều khiển mình, cố gắng và tự lập. Người có Dũng là người có nghị lực kiên cường biết làm chủ lấy mình trong mọi tình huống, luôn hành động theo lý trí, quyết tâm theo đuổi mục tiêu đến cùng.

Tu viện Dòng Mân Côi Chí Hòa 2009 

SỐNG ĐẸP

SỰ BÌNH YÊN

Một vị vua treo giải thưởng cho họa sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên.

Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.

 Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ an nhiên đậu trên tổ của mình...Bình yên thật sự.

"Ta chấm bức tranh này! - Nhà vua công bố - Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi ta đang trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên".

Nhị Tường dịch

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Cong, nhưng đừng gãy

 Một trong những hồi ức thân thương nhất của tôi khi còn thơ đó là đi dọc và ngồi xuống bên bờ sông. Nơi đó tôi được tận hưởng sự yên bình và tĩnh lặng, ngắm nhìn dòng nước lặng lờ trôi và tiếng những con chim hót và những chiếc lá cây rì rào. Nơi đó tôi cũng được ngắm những thân tre oằn xuống dưới sức gió rồi vút ngược lên trời cao khi những cơn gió lặng đi. Khi tôi nghĩ về tính đàn hồi của thân tre lúc chúng cong và thẳng ngược lại về vị trí cũ, khái niệm về sự thích ứng hiện lên trong óc tôi. Liên hệ điều này với con người, sự thích ứng có nghĩa là khả năng phục hồi sau một cú sốc, nỗi u sầu, hoặc bất kỳ trạng thái nào đã làm căng thẳng hết mức những cảm xúc của con người.

Bạn có bao giờ cảm thấy mình gần như gục ngã? Bạn gần như bị bẽ gãy? Hãy cảm tạ trời đất vì sau thử thách ấy bạn vẫn còn tồn tại để có thể nói về sự trải nghiệm đó. Trong thử thách đó bạn đã cảm thấy một trạng thái tình cảm lẫn lộn đang đe dọa chính sức khỏe của mình. Bạn cảm thấy những xúc cảm bị rút kiệt, tinh thần kiệt quệ và bạn gần như phải hứng chịu một trạng thái về sức khỏe không lấy gì làm dễ chịu.

Cuộc sống là sự tổng hòa của những thời khắc tươi đẹp và đen tối, những phút giây hạnh phúc cũng như bất hạnh.

Những bất hạnh tiếp đến sẽ gần như bẽ gãy bạn, nhưng hãy cố gắng cong người gắng chịu, đừng để bị bẽ gãy. Hãy nỗ lực đừng để hoàn cảnh hạ gục bạn.

Một chút hy vọng sẽ đưa bạn vượt qua những thử thách cam go. Với niềm hy vọng về một ngày mai tươi sáng hoặc một viễn cảnh tươi đẹp, thì mọi điều xem ra sẽ không đến nỗi tồi tệ. Thử thách cam go ấy rồi ra sẽ dễ dàng đương đầu hơn và kết quả cuối cùng thật xứng đáng.  Nếu đường đời trở nên cam go và bạn đang ở vào thời điểm sắp gãy, hãy chứng tỏ sự thích ứng của mình. Giống như những cây tre, cong, nhưng không gãy.

Từ internet, Nhị Tường dịch

 HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Hỏi:  Xin cha  giải thích rõ những hình thức hiện diện khác nhau của Chúa Giêsu-Kitô trong trần thế và  cách hiện diện nào là quan trọng nhất?

Trả lời:  Chúa Giê su-Kitô vừa là Thiên Chúa thật đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Chúa cũng là Con Người thật, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Là Con Người, nên Chúa vừà có nhân tính ( Humanity) vừa có Thiên Tính (Divinity). Nhưng hai bản tính này kết hợp chặt chẽ với nhau  đến mức không thể tách rời ra được. Nghĩa là không khi nào Chúa Giêsu ngưng là Con Người để chỉ là Thiên Chúa , và ngược lại, cũng không khi nào Ngài chỉ là Thiên Chúa và ngưng là Con Người.

Là Con Người, Chúa đã mang xác phàm để chia sẻ thân phận con người với nhân loại trong mọi phạm trù, trừ tội lỗi..Người đã chịu khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha và sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng . Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ như sau:

"....Và đây Thầy ở cùng anh  em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28:20).

Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium (SC) cũng dạy và quảng diễn rõ ràng thêm về sự hiện diện của Chúa Kitô trong trần thế  như sau: " Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy Tế không những trong con người thừa tác viên, vì "như xưa Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của linh mục",  mà nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể. Người hiện diện trong các bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế ai rửa tội chính là Chúa Kitô rửa. Người hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội. Sau hết, Người hiện diện khi Giáo Hội cầu khẩn và hát Thánh Vinh." (SC, số 7).

Nói rõ hơn, Chúa Kitô hiện diện cụ thể trong những hoàn cảnh sau đây:

1.  Khi Giáo Hội cử hành các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể: Chúa hiện diện trong các thừa tác viên có chức thánh và được phép cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) là  Giám muc, và Linh mục . Ngoài ra, khi thừa tác viên con người như Phó tế, Linh Mục và Giám mục cử hành bí tích nào thì chính Chúa Kitô hiện diện và  cử hành bí tích ấy qua tay các thừa tác viên. Nghĩa là chính Chúa Kitô rửa tội, thêm sức, tha tội và nhất là cử hành Thánh lễ Tạ Ơn (Eucharist), cũng như chính Người xức dầu bệnh nhân, chứng và chúc hôn phối qua các thừa tác viên loài người. Các thừa tác viên này chỉ cử hành các bí tích nhân danh Chúa Kitô là Đầu mà thôi (in persona Capitis)

2.  Khi Giáo Hội cử hành phụng vụ Lời Chúa và cầu nguyện thì Chúa Kitô hiện diện trong lời được công bố, trong người công bố và trong cộng đoàn đang tụ họp để lắng nghe và cầu nguyện, vì "ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ."(Mt 8:20)

3.  Đặc biệt và quan trong nhất là sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể: Phải nhấn mạnh riêng ở đây, vì chỉ trong bí tích Thánh Thể được cử hành trong khuôn khổ Thánh lể Tạ Ơn (The Eucharist) mà Chúa Kitô hiện diện thực sự (vere = real) và trọn vẹn là Thiên Chúa và là Con Người thật trong hình bánh và hình rượu, sau khi Giám mục hay Linh mục đọc lời truyền phép (consecration words) tức là nhắc lại lời Chúa Kitô đã nói  khi Người bẻ bánh và trao chén cho các Tông Đồ trong Bữa Tiệc ly sau hết,  trước khi Người thọ nạn thập giá.(x. 1 Cor 11:23-25).  Sự  hiện diện này đặc biệt hơn mọi hiện diện khác của Chúa Kitô trong trần gian như Giáo Hội xác tín. (CĐ Triđentinô ngày 11-10-1551). Vì thế, ta chỉ phải cung kính thờ lậy Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể mà thôi,  trong khi không phải bầy tỏ cử chỉ thờ kính này   trong các hoàn cảnh hiện diện khác của Chúa Kitô. Nói rõ hơn, khi giám mục, linh mục hay phó tế  cử hành bí tích rửa tội, Chúa Kitô hiện diện và rửa tội qua tay các thừa tác viên này. Nhưng không ai phải bái lậy, tôn thờ sự hiện diện của Chúa nơi các vị này, như thờ  lậy Chúa  thực sự  hiện diện   trong hình bánh và rượu nho mỗi khi ta tham dự thánh lễ Misa. Xin nhớ kỹ điều này.

4.  Cũng vậy, các ảnh tượng của Chúa Kitô trong nhiều hoàn cảnh  như một hai nhi nằm trong máng cỏ, như Chúa bị đóng  đinh trên thập giá v.v chỉ là các á bí tích để giúp nâng tâm hồn chúng ta lên với Chúa đang ngự trên Trời, bên hữu Chúa Cha chứ không thực sự hiện diện nơi các ảnh tượng đó như Người hiện diện thực sự nơi bí tích Thánh Thể.

5.  Lại nữa, qua dụ ngôn về Ngày Phán Xét chung trong Tin Mừng Thánh Matthêu, chúng ta thấy Chúa Kitô đã tự đồng hóa mình với những người nghèo đói , vô gia cư, thất nghiệp, đau ốm và bị tù đầy nơi các ngục thất để thách đố chúng ta nhận  ra Người nơi các anh chị  em không may mắn đó để  thực thi bác ái với họ bằng hành động cụ thể là giúp  đỡ, chia sẻ với họ những gì mình may mắn có .(Mt 25:31-45). Nói khác đi, chính Chúa Kitô đang hiện diện cách bí nhiệm ngày nay nơi những anh chị em đáng thương này.Nhưng sự hiện diện của Chúa ở đây không giống sự hiện diện thực sự của Người nơi bí tích Thánh Thể. Cho nên, chúng ta không thờ lậy Chúa nơi những người nghèo đói, bệnh tật mà chỉ nhìn nhận có Chúa Kitô nơi họ để không làm ngơ hay vô cảm trước sự đau khổ , bệnh tật và  nghèo đói của những anh chị  em kém may mắn đó mà thôi;  vì nếu làm ngơ hay vô cảm đối với họ là  dửng dưng với chính Chúa Kitô theo tinh thần dụ ngôn ngày phán xét chung nói trên.

6. Sau hết, ngoài các hình thức khác nhau nói trên về sự hiện diện của Chúa Kitô trong trần thế, còn một cách hiện diện rất thân tình nữa là sự hiện diện của Chúa Kitô trong tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta, khi chúng ta sống trong ơn nghĩa Chúa là yêu mến Chúa như Người đã nói với các môn đệ xưa :

"Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." (Ga 14: 23)

Như thế có nghĩa là nếu ta thực tâm yêu mến Chúa Kitô và cương quyết xa tránh mọi tội lỗi ,  nhất là tội trọng,  thì Chúa sẽ đến  ngự trị trong linh hồn ta. Và ở đâu có Chúa Con thì ở đó có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa duy nhất, đồng bản thể ( consubstantial) và uy quyền như nhau. Như vậy, thật hạnh phúc biết bao cho ta khi có Chúa cư ngụ trong tâm hồn và đồng hành với ta trong cuộc sống mỗi ngày.Chúng ta phải rất chân quý sự hiện diện này của Chúa Kitô trong tâm hồn mỗi người chúng ta để có thể tâm sự thân mật với Chúa khi vui khi buồn, khi thành công, lúc thất bại  gặp gian nan, khó khăn trong cuộc sống trên trân gian này.

Tóm lại, trên đây là tất cả những hình thức hiện diện khác nhau của Chúa Giêsu-Kitô trong mỗi người tín hữu và trong trần gian  này, sau khi Người về trời cách nay trên 2000 .Chúng ta tôn kính và thờ lậy Chúa Kitô cách riêng trong bí tích Thánh Thể, cũng như tin có Chúa ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta  khi ta sạch tội , nhất là tội trọng  vì tội này tức khắc cắt đứt mọi thân tình giữa ta với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Cho nên Người sẽ không thể "chung sống" hay cho ta được hiệp thông trọn vẹn  với Người trong tình yêu  khi ta cả lòng phạm những tội gớm ghê như giết người, giết thai nhi, căm thù muốn hại ai, hay  đam mê thú dâm dục ngoài mục đích của hôn nhân chân chính, cho phép con người được hưởng thú vui phái tính (sexuality) với mục đích biểu lộ tình yêu và cộng tác với Chúa trong mục đích truyền sinh.

Chúng ta tôn thờ Chúa trong Phép Thánh Thể vì đây là sự hiện diện quan trọng nhất của Chúa Kitô trong trần thế, và  nâng tâm hồn lên với Chúa qua những phương tiện hữu hình là  các ảnh tượng  của  Chúa được trưng bày ở các nơi thờ phượng, cũng như nơi những anh chị em đang đau khổ, bệnh tật và nghèo đói mà Chúa Kitô đang dồng hóa với họ để thách đố chúng ta nhìn thấy Chúa nơi những anh chị em kém may mắn này để tỏ lòng  bác ái, cảm thương và  giúp đỡ họ cách thiết thực,  như Chúa mong đợi nơi mỗi người tín hữu chúng ta.

Vậy chúng ta có thực sự  tin  Chúa Kitô đang hiện diện nơi những anh chị em đau khổ đó  , và nhất là có muốn cho Chúa luôn  cư ngụ trong tâm hồn mỗi người chúng ta như Người mong muốn  hay không ?

Ước mong mỗi người tự trả lời cho câu hỏi này.

Lm  Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Sức  tàn phá của sự lo lắng !

Một buổi sáng, một người đàn ông gặp thần Chết trong thành phố. Ông ta hỏi thần Chết: "Ngài đang làm gì trong thành phố của tôi vậy?" - "Ta sẽ lấy đi mạng sống của 100 người trong thành phố này" - Thần Chết trả lời.         

"Thật là tồi tệ" - người đàn ông nói.  


"Đúng thế" - Thần Chết đồng ý - "Nhưng đó là công việc của ta và ta phải làm thôi".        


Người đàn ông nhanh chóng loan báo cho mọi người trong thành phố về kế hoạch của thần Chết.            


Nhưng khi tối đến, người đàn ông kia gặp lại thần Chết với một câu hỏi lớn:         


"Thần nói với tôi là lấy đi cuộc sống của 100 người, vậy sao lại có tới 1000 người qua đời trong ngày hôm nay?".            


"Ta vẫn giữ lời của mình đó chứ" - Thần Chết trả lời - "Ta chỉ lấy đi 100 người, và lo lắng đã lấy đi số người còn lại".            


Việc lo lắng thái quá có thể là nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh như chứng đau nửa đầu, chứng viêm khớp, các vấn đề về tim mạch, viêm ruột, chứng đau lưng, các vấn đề về tiêu hóa và tất nhiên là cả cái chết nữa.     


Hãy để những hối tiếc của ngày hôm qua, những lo lắng của ngày mai sang một bên và thay vào đó, hãy nhận bình yên trong cuộc sống của ngày hôm nay.

Nguyễn Thị Minh Nguyệt chuyễn ngữ (Dân Trí)

 

Mọi ý kiến, thắc mắc của các bạn trẻ về đức tin và luân lý có thể thể gửi về cha đặc trách giới trẻ theo địa chỉ  dưới đây để tham vấn:

Cha Tôma Nguyễn Ngọc Tân
Nhà Thờ Chánh Toà Vĩnh Long
141, Lê Thái Tổ, P. 2 - Tp. Vĩnh Long

Email: gioitrevinhlong@gmail.com

1364    01-07-2012 16:16:47