Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Phát Huy Mối Hiệp Thông Với Thiên Chúa - Tháng 01 năm 2011

CHỦ ĐỀ: PHÁT HUY MỐI HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA


TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG

103 đường 3/2

Vĩnh Long

Vĩnh Long  28.12.2010                                                                                 

V/v Hiệp Thông với Thiên Chúa

"Nếu Chúa không xây nhà,Thợ nề vất vả cũng là uổng công"  (TV 126, 1)


1.  Hiệp Thông là điều thiết yếu của Hội Thánh của Chúa Kitô. Công Đồng Vaticanô II dành nhiều thì giờ để khai triển và trình bày cặn kẽ tính hiệp thông của Hội Thánh trong Hiến Chế Lumen Gentium (Aùnh Sáng muôn dân): "Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, Chúa Cha hằng hữu đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh "  (LG 2). Thật vậy ai có thể hiệp thông với Thiên Chúa nếu không được Ngài thương xót ban cho ân huệ nầy.

Vườn địa đàng hay Vườn Eden là ơn đầu tiên ban cho nguyên tổ loài người được sống hiệp thông với Thiên Chúa (St 1,26-30) và hiệp thông với nhau: Người  đầu tiên được ban cho một người bạn đồng thân đồng phận  làm bạn tri kỷ (St 2,8-24).

Khi đưa tay hái trái cấm, hai ông bà đã đánh mất Vườn Eden và Cây Sự Sống. Sau đó, nghe tiếng Chúa gọi, họ đã lẫn tránh, đó là biểu hiện của sự rạn nứt, họ đã mất nghĩa với Chúa. Trước mặt Chúa, người đàn ông đã đổ lỗi cho người đàn bà, đổ lỗi cho Chúa: " người đàn bà mà Chúa đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn"; tương quan của họ bị trục trặc, còn gì là tri kỷ,  còn đâu sự hiệp thông (x.St 3,8-19).

Thay cho Vườn Eden xưa và Cây Sự Sống, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến bày tỏ chương trình của lòng thương xót để mọi người  nhận biết và phụng sự Chúa : "Nầy là Con Chí Aùi của Ta, Con đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Người"  (Mt 3,17; Mc 1,11). Nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể,  Chúa đã qui tụ muôn dân, thiết lập Hội Thánh làm bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu chuộc cho toàn thể và cho mỗi người (x. LG 9 ) .

Hội Thánh là Vườn Eden mới trong đó có Chúa Giêsu là Cây Sự Sống: "Ta là cây nho, các con là nhành" (Gioan 15,5).  Cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống, Bánh ban sự sống đời đời: "Ta là bánh sự sống: ai đến với Ta, sẽ không hề đói; kẻ nào tin vào Ta, sẽ không khát bao giờ" (Gioan 6,35. x.48. 50. 51.59). Đó là kế hoạch  của Chúa Cha: "Ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là bất cứ ai thấy Chúa Con và tin vào Người, thì có sự sống đời đời"  (Gioan 6,40).

2.  Chiếc cầu hiệp thông đã được Chúa thiết lập .

Chẳng những phải nhận biết mối tương quan của mình với Chúa Kitô, mà còn phải quyết tâm vận dụng khả năng, phương thế để sống ơn gọi của mình  sống nhờ Chúa và hướng tới Chúa: "Thiên Chúa Cha kêu gọi chúng ta làm những người con quí mến trong Con Chí Aùi của Ngài và nhận biết chúng ta hết thảy là anh chị em của nhau trong Người"  (Bênêđitô XVI, SĐ Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2010) .

Để phát triển mối hiệp thông với Thiên Chúa, Sứ Điệp của Đai Hội Dân Chúa  còn nêu lên những phương cách cụ thể: Cầu nguyện,  lắng nghe Lời Chúa,  Tham dự Tiệc Thánh Thể.

Thật vậy, Trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2010, Đức Thánh Cha Bênêđitô viết: Sự hiệp thông của Hội Thánh nẩy sinh từ sự gặp gỡ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng dùng lời loan báo của Hội Thánh qui tụ muôn người và tạo nên mối  hiệp thông với Người và hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh  Thần (x. 1 Gioan 1,3). Chúa Kitô thiết lập một tương quan mới giữa con người với Thiên Chúa. "Người mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu "  (1Gioan 4,8).

"Thiên Chúa đã bày tỏ chính mình trong Chúa Giêsu Kitô. Trên gương mặt của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta thấy gương mặt của Thiên Chúa. Trong những lời của Người , chúng ta nghe chính Thiên Chúa nói với chúng ta"  (Bênêđitô XVI, Thư gởi các Chủng Sinh, 18.10.2010, số 1).

Cầu nguyện là tiếp xúc với Thiên Chúa. Để có thể duy trì dự tiếp xúc nội tâm với Thiên Chúa, "điều quan trọng là ngày sống của chúng ta phải  bắt đầu và kết thúc bằng kinh nguyện"  (Thư gởi các Chủng Sinh, số 1).

Đọc Kinh Thánh, và, noi gương Đức Maria, chuyên cần suy niệm Lời Chúa, nuôi dưỡng đức tin. "Nhờ lắng nghe Chúa nói trong Kinh Thánh, chúng ta luôn có Chúa trước mắt như điểm tham chiếu cho đời sống chúng ta. Như thế chúng ta sẽ dễ nhận ra những sai lầm của mình, và học biết cải thiện bản thân"  (Bênêđitô XVI, Thư gởi các Chủng Sinh, số 1)

Hội Thánh trở thành "hiệp thông" do Phép Thánh Thể: "Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh hình rượu , với hiến lễ tình yêu của Người, xây dựng Hội Thánh nên Thân Thể của Người, vừa kết hợp chúng ta với Thiên Chúa Duy nhất và có Ba Ngôi,  đồng thời kết hợp chúng ta với nhau"  (x. 1 Cor 10,16tt; Bênêđitô XVI, SĐ Ngày Thế Giới Truyền Giáo).

Mong sao mọi thành phần trong Địa Phận Vĩnh Long sẽ nhiệt tình hưởng ứng  và thực thi nguyện vọng của Dân Chúa tại Việt Nam.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân

  Giám Mục Vĩnh Long

THƯ MỤC VỤ

Để bày tỏ khuôn mặt Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đến việc tăng trưởng và đào sâu mối hiệp thông của mỗi tín hữu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đồng thời mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi phải trở thành mẫu mực cho đời sống Giáo Hội, được thể hiện qua mối tương quan hiệp nhất và yêu thương giữa các tín hữu với chủ chăn cũng như giữa các tín hữu với nhau. Ở tâm điểm của mối hiệp thông sâu xa này là bí tích Thánh Thể, vì "không có cộng đoàn Kitô hữu nào có thể được xây dựng mà không đặt nền tảng và trung tâm nơi việc cử hành Thánh Thể" (Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 33). Nhờ cử hành Thánh Thể, ta đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình, được Lời Người nuôi dưỡng, Mình và Máu Người ban sức mạnh, và biến đổi chúng ta thành Thân Mình Người là Giáo Hội (Tài Liệu Làm Việc Đại Hội Dân Chúa 2010, số 33).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Phi thuyền đổ bộ mặt trăng tên Diều hâu (Eagle) mang hai nhà phi hành vũ trụ Aldrin và Armstrong đã đáp xuống mặt trăng vào ngày 20 tháng 07 năm 1969.

Đang lúc Armstrong chuẩn bị bước bộ xuống mặt trăng thì Aldrin mở gói bánh mì và rượu ra đoạn đặt chúng lên máy vi tính có gắn hệ thống điều chỉnh sự lệch lạc. Ông ta mô tả lại điều ông làm tiếp tục sau đó:

Ngay trước khi dùng những thứ món này, Aldrin đọc đoạn trong Phúc Âm thánh Gioan: "Thầy là cây nho và các con là cành nho, bất cứ ai ở trong Thầy và được Thầy ở trong người ấy thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái...Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con" (Ga 15, 5-9).

Sau nầy,  khi nói về Kinh nghiệm hiệp thông, lúc ở một mình trên mặt trăng, Aldrin nói: "Tôi cảm thấy một cách hết sức mãnh liệt sự hiệp nhất giữa tôi và Giáo hội của chúng ta ở quê nhà, cũng như Giáo hội khắp mọi nơi trên thế giới."

Bí tích Rửa tội đưa chúng ta vào mối hiệp thông với Chúa và Hội Thánh. Cùng với Hội Thánh, chúng  ta sống chính đời sống của Chúa Ba Ngôi:"Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liến với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy" (Ga 15,4).

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về chủ đề "Phát huy mối hiệp thông với Thiên Chúa" sau đây:

1.         Cho được phát huy thì trước tiên phải đào sâu, nghĩa là học hiểu thấu đáo về hiệp thông giữa tín hữu và Chúa.

2.         Nhờ mầu nhiệm Ba ngôi một Chúa làm mẫu mực cho sống hiệp thông

3.         Dùng Bí Tích Thánh Thể để sống hiệp thông. Nhờ rước Mình Máu Chúa mà được kết hợp và nên giống Chúa.

Thiên Chúa dựng nên con người để sống hiệp thông với Chúa, nhờ đó mà được cứu độ. Thật vậy, tất cả lịch sử Thánh kinh có thể tóm lại là: một tình yêu nhẫn nại và trung tín của Thiên Chúa trong việc tìm kiếm và gặp gỡ con người, để đưa con người vào mối hiệp thông với Thiên Chúa:  "vì muốn mở ra con đường cứu độ, ngay từ khởi thuỷ, Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ biết. Ngài đã mời gọi nguyên tổ chúng ta đến sống hiệp thông thân mật với Ngài, khi ban cho họ ân sủng và đức công chính rạng ngời" (GLCG số 54).

Tạo dựng chính là bước khởi đầu của tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã dựng chúng ta từ không nên có. Chúa lại con cho sống  hiệp thông với Chúa trong đời sống ân sủng và công chính nơi vườn địa đàng và kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể sau nầy, Tình Yêu Tạo Dựng của Thiên Chúa hướng đến Tình Yêu Cứu Độ. "Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống đời đời, và sự sống ấy là ở trong Con của Người. Ai có Con thì có sự sống ; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống" (1Gioan, 5, 11,12).

Tội nguyên tổ không thể phá hỏng chương trình yêu thương của Thiên Chúa. Qua lời hứa ban ơn cứu chuộc, Thiên Chúa hướng con người tới niềm hy vọng cứu độ,  trở về mối hiệp thông với Chúa, qua các Giao ước: "Và khi con người đã mất tình nghĩa với Cha vì bất phục tùng, Cha đã không bỏ mặc con người dưới quyền lực sự chết...Nhiều lần cha đã giao ước với loài người" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).

Qua các tổ phụ, Thiên Chúa đã ký giao ước với chính con người mà Ngài đã tạo dựng, biến Israel thành dân riêng của Chúa,  làm cho họ ý thức mình là dân được tuyển chọn, thuộc về Chúa, và chỉ thờ một mình Người: "Ta sẽ là Chúa của ngươi và ngươi sẽ là dân của Ta" (Gr 31,33). Rồi qua các tiên tri, Thiên Chúa huấn luyện dân mà Ngài tuyển chọn trong niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Giao Ước mới và vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người được tháp nhập vào Hội Thánh, dân mới của Chúa.

Những lời của giao ước chứng tỏ ý định Thiên Chúa là muốn đưa hết mọi người đến sự sống hiệp thông với Người. Giao ước đó gửi đến cho toàn dân, nghĩa là mời gọi mọi người sống hiệp thông với nhau.  Đó chính là giao ước xưa biến Israel thành dân riêng của Chúa.

Đối với chúng ta ngày nay cũng thế, qua Giao uớc mà chính Chúa Kitô ký bằng máu của Người (x. 1Cr 11,25),  tất cả chúng ta được tẩy sạch và được đến với Chúa (x. Dt 9,11-22). Nhờ Ngài ta đuợc trở nên một dân thánh thiện, dân của Chúa như Thánh Phêrô đã viết: "Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.    Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là dân của Thiên Chúa. Xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em được xót thương " (1Pr 2,9-10).

Toàn thể lịch sử cứ độ đều xuất phát từ thánh ý của Thiên Chúa là muốn hiệp thông với con người.

Ý muốn hiệp thông ấy của Thiên Chúa xuất phát từ lòng yêu thương vô điều kiện và tín trung của Người: "Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaô vua Ai Cập" (Đnl 7,7-8). Đó là một sự tuyển chọn ưu tiên, biến Israel thành dân của Chúa.

Để rồi qua việc ban chính Con Một Người cho chúng ta qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa tháp nhập chúng ta vào mối hiệp thông với Chúa nơi  Đức Kitô. Bởi vì nơi Đức Kitô bản tính nhân loại được hiệp thông chặt chẽ với bản tính Thiên Chúa, nên ai là người thì từ nay cũng có thể được hiệp thông với Thiên Chúa, nếu họ hiệp thông với Chúa Kitô.

Chúa Giê-su còn thiết lập bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào thân nho.) "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô" (Ga 3, 27-28).  Như vậy, tất cả những ai tin và chịu phép Rửa Tội đều hiệp thông nên một với Chúa Ki-tô, trở thành thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.

Chúa Giê-su lại còn dùng Bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giê-su trong thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giê-su và nên một với nhau."Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? (1Cr 10,16).

Chúa Giê-su muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải bền chặt như sự hiệp thông giữa Ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21).

Được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, chúng ta sống bằng sự sống của chính Chúa: "Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta cũng vậy, nó sẽ sống nhờ Ta" (Ga 6,57);  yêu thương bằng tình yêu của chính Chúa và hiệp thông với nhau: "Chỉ có một bánh, nên ta tuy là nhiều, ta cũng chỉ là một thân mình" (1 Cr 10,17).

Bằng lời cầu nguyện, bằng việc lắng nghe Lời Chúa qua Sách Thánh và bằng việc tham dự Tiệc Thánh thể, người tín hữu được tháp nhập vào Chúa Kitô hiệp nhất với Chúa Cha, nhờ ơn Chúa Thánh thần và sống hiệp thông với nhau như anh em con cùng một Cha trên trời.

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc hiệp thông với Thiên Chúa trong đời sống mỗi tín hữu thế nào:

1.         Có biết mục đích tối chung của con người là kết hợp với Chúa không ?

2.         Có chạy theo đời, mà quên Chúa không ?

3.         Có sống cá biệt chỉ lo cho mình, không nhớ đến người khác, không nhớ đến anh em?

4.         Có giúp anh em nhớ và sống tìm đạt mục đích tối chung là kết hợp với Chúa?

Nota: Hiệp thông có thể hiểu: hiệp là kết hợp. Thông là trao đổi. Trao đổi hiểu người với người; còn với Chúa, chúng ta chỉ nhận, không có gì để trao.


LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Khi chịu phép Rửa tội gia nhập đạo, con người được tháp nhập vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Mối hiệp thông này cầy được phát huy ngày càng bền chặt hơn. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện cho mối hiệp thông với Thiên Chúa:

1.         Chúa phán: "Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy, Chúa Cha và Thầy sẽ ở lại trong người ấy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn yêu mến Chúa, tuân giữ lời Chúa, và hằng hiệp thông trong sự sống của Chúa.

2.         Chúa phán: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sống trong Ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu luôn sốt sắng lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, để được tăng triển mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.

3.         Thánh Phêrô nói: "Bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người biết khao khát sống trong Chúa, khao khát sự sống thần linh, sự sống thiên đàng.

4.         Chúa phán: "Xin Cha cho mọi người hợp nhất nên một, trong Chúng Ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn tha thiết thực hành các công việc của Hội Thánh, hiệp nhất với nhau, và hiệp thông với Thiên Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn thông ban vinh quang sự sống của Chúa cho nhân loại. Xin Chúa ban Thánh Thần thúc đẩy chúng con sống trong Chúa, thực thi ý Chúa và rước Mình Thánh Chúa, hầu ngày sau đặng lên thiên đàng hưởng phước đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống bò sát dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 26 - 27). Đó là những lời tác giả Sách Sáng Thế thuật lại việc Thiên Chúa sáng tạo con người và tác giả còn thêm ở đoạn sau rằng: Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một cây ở Eâđen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra (St 2, 7- 8). Như thế, con người không tự hiện hữu trong vũ trụ nầy mà là hiện hữu do chính Thiên Chúa và trong Thiên Chúa Đấng tạo thành mình.

Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong tình yêu, nên khi dựng nên con người Thiên Chúa cũng muốn họ sống tình yêu hiệp nhất theo khuôn mẫu của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu hiệp nhất ấy trước tiên phải được thực hiện với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng. Con người càng gắn bó với Thiên Chúa thì con người càng trở nên chính mình hơn vì đúng theo ý định của Thiên Chúa.

Sự sống con người là sự sống Thiên Chúa. Không thể gọi một sinh vật được nặn lên từ bùn đất là con người nếu nó không được sinh khí của Thiên Chúa thổi vào và làm cho sống. Như vậy, sự sống con người chính là sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu. Con người không tự mình mà sống mà sống do sự sống của Thiên Chúa ban cho.

Ý thức được điều này, tác giả thánh vịnh 104 đã cảm nhận:

Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa

Đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn

Ngài ban xuống chúng lượm về

Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phướcChúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi

Lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi

Sinh khí của Ngài, Ngài gởi tới

Là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.

Chính vì thế, con người chỉ có thể tìm được cho mình ý nghĩa cuộc sống đích thực là gắn bó với Chúa là nguồn sống, là động lực, là cùng đích để con người tiến bước.

Một câu hỏi được đặt ra là làm sao để hiệp thông với Thiên Chúa?

Trước hết khi nhìn vào trời đất vũ trụ vạn vật và mọi sự kỳ diệu mà Thiên Chúa dựng nên, đặc biệt nơi mỗi con người thúc đẩy ta một niềm tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ, giúp mỗi con người chúng ta tin thờ và suy phục Thiên Chúa toàn năng

Sau là nhận ra một Thiên Chúa trung tín, cho dù con người đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa nhưng Ngài vẫn không bỏ rơi mà còn sửa lại cho tốt đẹp hơn trong Con Chí Aùi của Ngài. Nhận ra điều này cho ta một lòng trông cậy vững vàng rằng cho dù ta có những yếu đuối, có những bất toàn nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên chúng ta.

Cuối cùng Thiên Chúa là tình yêu, Người dựng nên chúng ta vì tình yêu và trong tình yêu. Vì thế, ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu trọn hảo thúc đẩy mỗi người chúng ta phát triển tình yêu ấy trong Thiên Chúa, với tha nhân và chính mình.

Xin Chúa cho chúng con luôn biết ý thức xây dựng cuộc đời mình trong Thiên Chúa là nguồn sống và là cùng đích cuộc đời chúng con. 


HỌC THÁNH KINH            

BÀI 1:  KHÁI QUÁT VỀ TÂN ƯỚC

1/ Tân ước là gì? Tân ước là một sưu tập những bài viết bắt nguồn từ cộng đoàn Kitô hữu sơ khai nhằm công bố cho mọi người Đấng mà các Tiên tri đã nói nay được tỏ lộ: đó là Đức Giêsu Kitô. Người đã đến viếng thăm dân Người và cứu độ muôn dân. Tân ước còn được gọi là Giao ước Mới mà Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa và Cứu Chúa chúng ta đã ký kết.

2/ Tân ước được viết theo thể văn nào?

Tân ước được viết theo bốn thể văn sau đây:

-           Thể tường thuật, như: bốn Phúc âm ghi lại cuộc đời Đức Giêsu Kitô, các Lời Người giảng  dạy cũng như các việc Người làm.

-           Thể lịch sử, như: sách Tông đồ công vụ ghi lại những nổ lực công việc mục vụ của các Tông đồ trong việc mở mang Giáo hội.

-           Thể thư tín, như: các thư Thánh Phaolô, Phêrô, Gioan, Giacôbê và Giuđa viết cho các giáo đoàn để dẫn dắt, khuyên bảo dạy dỗ họ.

-           Thể mạc khải của sách Khải huyền tiên báo những điều sẽ xảy đến trong tương lai.

3/ Tân ước gồm những sách nào?

Tân ước gồm tất cả 27 quyển, thứ tự như sau:

-           4 Phúc âm: Matthêuô, Marcô, Luca và Gioan.

-           Tông đồ công vụ của thánh Luca.

-           13 thư của Thánh Phaolô.

-           Thư gởi tín hữu Do Thái.

-           7 thư chung: I-II Phêrô, I-II-III Gioan, Giacôbê và Giuđa.

-           Sách Khải huyền của Thánh Gioan.

4/ Đâu là những điểm khác biệt giữa Phúc âm và Thánh thư?

Phúc âm trình bày Tin mừng về những gì Đức Kitô đã giàng dạy và làm cho nhân loại. Còn Thánh thư là những lá thư do các Thánh Tông đồ viết để trình bày những áp dụng Tin mừng vào từng Hội thánh, để thích ứng với hoàn cảnh cũng như những nhu cầu của từng địa phương dân tộc.


5/ Các sách Tân Ước được hình thành như thế nào trong Hội thánh? Các sách Tân ước được viết để lưu truyền những lời giảng dạy của Chúa, các sách ấy được hình thành dần dần trong và cùng với Hội thánh.

SỐNG ĐẠO

HỌC GIÁO LÝ

Cả năm qua chúng ta đã cố gắng nhận biết sứ mạng, nhiệm vụ dạy giáo lý. Cả Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục và giáo dân đều có nhiệm vụ dạy giáo lý.

Thừa tác dạy giáo lý hay tham gia đều nói được là có nhiệm vụ. Nhưng có điều xem ra ngược lại: có phận sự "học" giáo lý không? Phải nói học giáo lý là khẩn thiết hơn là dạy. Tại sao?

Vì con người là vật thọ tạo cần phải tìm học biết Chúa, biết Chúa để tôn thờ, để tùng phục, để yêu mến, để kết hợp. Đó là căn bản khẩn thiết của con người. Nếu không có những điều căn bản này thì con người không đáng sống, không đáng có. Học đạo là nhiệm vụ căn bản trong bản tính, có thể nói là khẩn thiết hơn việc "dạy" giáo lý. Việc dạy giáo lý là việc đối ngoại, còn việc "học" giáo lý là việc tại nội.

Một điểm khẩn thiết nữa là phải học mãi mãi đến chết cũng không thôi. Vì Chúa cao siêu học không bao giờ hết. Còn đường lối sống đạo thì thiên hình vạn trạng, giao tiếp hầu chuyện, tuân phục, thương yêu... Con người chúng ta không hoàn hảo, thì việc làm phải có khuy khuyết, cần học biết lề lối phương pháp, để có thể nên hoàn thiện như Cha các con trên trời.

Phần khác Chúa phán: Ta đem đến thế gian chia rẻ, hận thù, tranh đấu...muốn chiến thắng phải học kỷ thuật.

Dĩ nhiên, muốn dạy người, lãnh trách nhiệm dạy người thì trước tiên phải "học". Thiện chí không thôi thì không đủ: trao lại những điều mình biết thì hạn hẹp không đúng với giáo lý. Người mù mà dắt người mù nguy hiểm có thể cùng rơi xuống hố.

Lãnh nhiệm vụ dạy giáo lý thì cũng phải nhận định mình có nhiệm vụ học giáo lý.

Học giáo lý cho mình, cho người.

ĐỜI TỰ DO

Vật thọ tạo hoàn toàn lệ thuộc Chúa tạo dựng chúng ta. Không gì chúng ta có mà không do Chúa ban. Vì thế, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc Chúa, tuân phục Chúa hoàn toàn. Trên pháp lý phải hoàn toàn sống theo ý Chúa.

Nhưng trong thực tế, vì Chúa ban cho chúng ta có tánh cách tự do, có thể muốn tự do theo ý Chúa hay tự do chống đối ý Chúa. Đó là cuộc sống thực tế, chúng ta có thể nhận thấy hạnh phúc nơi chính Chúa. Nhận thấy khoái lạc nơi trần thế, chúng ta tự do chọn. Hạnh phúc nơi Chúa cao siêu hơn nhưng có phần thiêng liêng, xem ra không mấy lôi cuốn, còn hạnh phúc trần thế có phần xác thể xem ra lôi cuốn nhiều hơn. Người đời xem ra ham hạnh phúc trần gian nhiều hơn mặc dầu ý Chúa không hẳn quá khó đến nổi chúng ta không thể tuân giữ được.

Mười Điều Răn và cả những ơn đặc biệt soi sáng hướng dẫn, kể là ý Chúa. Có khi Chúa đòi những nhân đức anh dũng như tử đạo, như đời sống khổ tu, chiêm niệm nhưng Chúa vẫn ban cho khả năng giữ được, thi hành được... còn hạnh phúc ở đời chúng ta nhận thấy dễ dàng và cảm xúc được.

Tửu, sắc, tài, khí. Ít nhiều chúng ta cũng có vương vấn, đam mê có điểm lại là nhu cầu của thể xác nữa. Thế là đời sống chúng ta là đời sống dùng tự do cho tốt, cho đúng mới đạt hạnh phúc chân thật Chúng ta giữ đạo thế nào?

Giữ đạo theo thói, giữ đạo vì mơ màng đạo là tốt mà giữ.

Sống bất đếm đạo, sống sao cho vui phúc con người hiện nay thôi.

Chúng ta có nghĩ đến đời sống đạt hạnh phúc vĩnh cửu? Hãy sống tự do chính đáng. Hầu đạt hạnh phúc vĩnh cửu.

MÙA VỌNG

Đời tín hữu là đời sống hy vọng. Vì cuộc đời không gặp được hạnh phúc, thoả mãn, do đó ước vọng đạt được hạnh phúc ở đời sau.


Vì thế, Hội thánh đặt ra một mùa, để chúng ta biết đường lối để đạt nguyện.

Lễ Giáng sinh Hội thánh chỉ cho thấy Chúa giáng trần là tình yêu nhập thể và nhập thế, tình yêu hiến thân, tình yêu kết hợp, chính Chúa là hạnh phúc của con người, của nhân loại.

Vậy chúng ta phải ước vọng Chúa, đạt Chúa, kết hợp với Chúa, đạt hạnh phúc thật nơi Chúa. Hiện thời chúng ta chưa đạt được hoàn hảo.

Hội thánh đề nghị một mùa, nghĩa là một thời gian để chúng ta có thể đạt một phần hạnh phúc.

Chúng ta có thể nhìn một chàng thanh niên tìm hạnh phúc trong việc hôn nhân. Bất ngờ nghe tiếng sét ái tình trong tâm trí nhận một ý trung nhân, tìm gặp liên lạc thường xuyên, trao đổi tâm ý của nhau, tìm cách làm vui lòng nhau, thương nhau, đi đến kết hôn. Đó là giai đoạn kết hợp, hiến thân cho nhau, cùng nhìn về một hướng, cùng thụ hưởng một hạnh phúc.

Dầu sống trên trần gian cũng có thể sống kết hợp, vui phúc với Chúa mặc dầu chưa hoàn hảo.

Tâm trạng nhận thấy Chúa là ý trung nhân, ra sức tìm gặp tiếp xúc, kết thân và sau cùng kết hợp với Chúa, cùng nhau cùng nhìn về một hướng, hiến thân cho nhau, đó là cách dọn mình đón nhận lễ Chúa giáng sinh tốt đẹp lòng Chúa

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- TỔ CHỨC NỘI BỘ CỦA GIÁO PHẬN tt-

I. TỔ CHỨC GIÁO PHỦ (các bài đã đăng năm 2010)

II. CÁC CƠ QUAN TƯ VẤN

1. Hội Đồng Linh Mục

Dịp tĩnh tâm thường niên linh mục Giáo phận Vĩnh long năm 2009, Đức Giám mục Giáo phận đã cho bầu cử để thành lập Hội Đồng Linh Mục của Giáo phận. Ngài cũng đã ký quyết định thành lập Hội Đồng nầy trong năm qua sau khi đã hội đủ số thành viên theo Giáo luật đòi hỏi (thành viên do bầu cử; do chức vụ; do Giám mục chỉ định).

Tổ chức nào cũng phải có luật lệ hay quy chế riêng để hoạt động trôi chảy và có hiệu quả. Hội Đồng Linh Mục cũng nằm trong đối tượng đó; Giáo luật điều 496 quy định: "Hội Đồng Linh Mục phải có quy chế riêng được Giám mục Giáo phận phê chuẩn, nhưng phải lưu ý đến những quy tắc do Hội Đồng Giám mục thiết lập". Giáo luật chỉ nói tới điều kiện để quy chế có giá trị pháp lý (nghĩa là cần sự phê chuẩn của Giám mục Giáo phận), chứ không nói đến phương pháp soạn thảo. Bởi vậy, trong khi chờ đợi những quy tắc của Hội Đồng Giám mục thiết lập, quy chế Hội Đồng Linh Mục Giáo phận Vĩnh long được soạn thảo do chính Hội đồng soạn ra và biểu quyết dựa trên những chỉ dẫn của Công đồng Vat. II và Giáo luật, sau đó đệ trình Đức Giám mục Giáo phận phê chuẩn.

Để hoàn thiện bản dự thảo "Quy Chế Hội Đồng Linh Mục" trong cuộc hợp lần tới, chúng tôi tổng hợp những văn kiện của Công Đồng Vat. II liên quan tới Hội Đồng Linh Mục, cũng như những chú giải Giáo luật của những nhà chú giải có tiếng tâm (Jonh P. Beal, James A. Coriden, E. Caparros, Theriault và Phan T. Thành...) để giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn.

a. Nguồn gốc

Xét về nguồn gốc lịch sử pháp chế, thì Hội Đồng Linh Mục mới ra đời từ Công đồng Vat. II, với Sắc lệnh về đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis ) số 7. Nhưng xét về thần học, thì Hội Đồng nầy có từ những thế kỷ đầu của Giáo hội, nhưng trải qua dòng thời gian đã bị quên lãng dần. Thực vậy, trong những thế kỷ đầu các linh mục họp thành một tập đoàn, sống chung với nhau bên cạnh Đức Giám mục, và chia sẻ với Ngài trọng trách điều khiển Giáo hội. Dần dần vì nhu cầu mục vụ, các linh mục phải coi sóc các giáo xứ ở nơi xa; mối dây liên kết với Giám mục và với các linh mục khác trở nên lỏng lẻo. Công đồng Vat. II đã xét lại không những tương quan giữa hàng giáo phẩm với toàn thể Dân Chúa, tương quan giữa các Giám mục với nhau và với Đức Giáo hoàng, nhưng cả tương quan giữa các linh mục với nhau và với Giám mục nữa. Về mối tương quan nầy, chúng ta có thể tóm lại những chỉ bảo của Công đồng như sau:

  1. Các linh mục trong Giáo phận họp thành một tập đoàn: "presbyterium" , ví như một gia đình mà Giám mục làm đầu;
  2. Linh mục đoàn là những cộng sự viên cần thiết của Giám mục; nền tảng của sự cộng tác nầy không phải chỉ là nhu cầu thực tiễn, nhưng là bí tích tư tế, đặt các linh mục chia sẻ sứ mạng phục vụ Dân Chúa qua các thừa tác vụ rao giảng, thánh hoá, cai quản (x. Hiến chế Hội Thánh số 28; Sắc lệnh về Giám mục số 11.28; Sắc lệnh về linh mục số 7). Hiểu như vậy, Giám mục luôn quan tâm đến đời sống của các linh mục, lo lắng đến những nhu cầu thiêng liêng và vật chất của họ, lắng nghe và bàn hỏi họ trong những chuyện liên hệ tới mục vụ và công ích của Giáo phận. Nhằm thực hiện những điều đó, Công đồng quyết định thiết lập một uỷ ban (coetus), ví như là nghị viện linh mục (senatus sacerdotum), thay cho linh mục đoàn để cố vấn cho Giám mục trong vấn đề cai quản Giáo phận (x. Sắc lệnh về linh mục số 7).

Ý muốn của Công đồng đã được Đức Giáo hoàng Phaolô VI áp dụng qua sắc lệnh "Ecclesiae Santae" (6/8/1966), theo đó mỗi Giáo phận phải thành lập một Hội Đồng Linh Mục, với vai trò được định nghĩa như là: "một đoàn thể hay nghị viện của các linh mục đại diện cho linh mục đoàn, để có thể, nhờ ý kiến của mình, hỗ trợ đắc lực cho Giám mục trong việc cai quản Giáo phận". Sau một thời gian thử nghiệm, Bộ Giáo sĩ, với văn thư ngày 11/4/1970 gửi cho các Chủ tịch các hội đồng Giám mục, đã đề ra những chi tiết cụ thể hơn trong việc tổ chức các Hội Đồng Linh Mục. Bộ Giáo luật đã thu góp lại những kinh nghiệm ấy trong những điều 495-501, đồng thời gắn liền nó với Hội Đồng Tư Vấn ở điều 502.

b. Thành lập

Điều 495 của Bộ Giáo luật mở đầu với những lời trích từ Sắc lệnh về Đời Sống Linh Mục (số 7) của Công đồng Vat. II như sau: "Trong mỗi Giáo phận, cần phải thành lập một Hội Đồng Linh Mục, tức là một đoàn thể các linh mục đại diện cho linh mục đoàn, với nhiệm vụ tựa như nghị viện của Giám mục". Như vậy sự thành lập Hội Đồng Linh Mục là điều bắt buộc, chứ không phải nhiệm ý. Ngay cả những nơi truyền giáo (hạt Đại diện và Phủ doãn tông toà), cũng phải lập một hội đồng gồm ít là ba linh mục thừa sai, để vị Chủ chăn có thể bàn hỏi trong những vấn đề hệ trọng (x.495§2).

Cần lưu ý về danh xưng "nghị viện của Giám mục" (Senatus Episcopi) được đặt cho Hội Đồng. Trong tiếng Việt, chữ "senatus" thường được dịch là "Thượng nghị viện" (đối lại với "Hạ nghị viện". Theo nghĩa nguyên thuỷ, "senatus" có nghĩa là đoàn thể của các người lão (senex); và đó chính là nguyên gốc Hy lạp của từ "linh mục" (presbyteros: người già). Do đó, áp dụng tiếng "senatus" vào Hội Đồng Linh Mục, không những nhà lập pháp ví nó như cơ quan gồm những người già dặn chín chắn, nhưng còn muốn cho nó trở về ý nghĩa cổ truyền của linh mục đoàn (presbyterium), dùng trong Tân ước.

Bộ Giáo luật chỉ buộc phải thành lập Hội Đồng Linh Mục, chứ không nói tới mục tiêu cụ thể của nó. Những mục tiêu nầy được nêu lên trong văn thư của Bộ Giáo sĩ năm 1970 như sau:

a. Biểu lộ sự liên kết phẩm trật giữa Giám mục với các linh mục;

b. Cổ võ sự đoàn kết và đối thoại giữa các linh mục;

c. Thu thập tin tức rộng rãi hơn về tình hình của Giáo phận;

d. Thiết lập các chương trình mục vụ có kế hoạch và hữu hiệu hơn.

 TRANG LINH MỤC

Khi nói đến sự hiệp thông, chúng ta nhấn mạnh trước hết không phải là sự hiệp thông giữa con người với nhau mà là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa. Bởi vì có hiệp thông với Chúa mình mới có thể hiệp thông với nhau cách thực sự.   Đức Hồng y Cláudio Hummes nhắn nhủ các linh mục: " Nếu trung thành với Đức Kitô và với cộng đồng, Linh Mục phải là con người của cầu nguyện, một người sống thân mật với Thiên Chúa."

Khi nhìn vào những người được Thiên Chúa tuyển chọn để phục vụ dân Ngài, tôi thấy họ là những con người sống hiệp thông với Thiên Chúa một cách đặc biệt. Abraham, người cha của Đức Tin, đã dựng bàn thờ để kính Chúa qua mỗi trạm dừng chân, kín đáo nhắc Chúa chưa thực hiện những lời hứa chưa được thực hiện, đàm đạo với các vị khách huyền bí vào lều trại của mình. Môisen đã tranh tụng với Thiên Chúa trước khi chấp nhận sứ vụ (Xh 3, 1-10), rồi đàm đạo với Chúa như hai người bạn với nhau (Xh 33,11): trước khi hướng dẫn dân Chúa, ông lên núi đàm đạo lâu giờ với Thiên Chúa để lắng nghe những phán quyết của Ngài, và ngay cả khi dân Chúa phản nghịch, ông cũng khẩn cầu xin Chúa thứ tha.

Như Abraham, Môisen, linh mục cũng là người được Thiên Chúa tuyển chọn để phục vụ Nước của Ngài, nên linh mục cần sống hiệp thông với Thiên Chúa qua cầu nguyện để biểt được ý Thiên Chúa muốn mình làm gì. Thánh Gioan Maria Vianney là con người cầu nguyện: Lâu giờ bên nhà tạm, thâm tình thực sự với Chúa, phó thác hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa. Yêu mến Thiên Chúa đến vô cùng.  Chính Đức Kytô, Thầy Cả Thượng Phẩm, cũng đã thường xuyên sống hiệp thông với Cha Ngài. Trước những quyết định lớn, Ngài thường lên núi cầu nguyện. Đặc biệt, khi gặp thử thách gian nan, trong vườn Cây Dầu, Ngài vẫn gắn bó một mực với Cha, để « nếu được, xin Cha cất chén đắng này khỏi con, nhưng một xin theo ý Cha, xin đừng theo ý con » (Mt 26,39).

Đặc biệt qua Bí tích Thánh Thể người linh mục được hiệp thông với Chúa Giêsu.  Nếu hiệp thông là thông phần, thì không có sự hiệp thông nào sâu xa cho bằng sự hiệp thông với Chúa Giêsu:" Chén chúc tụng ta cầm lên mà tạ ơn, lại không phải là thông phần Máu Đức Kitô sao ? Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân Mình Đức Kitô sao ?" (1Cor 10,16). Và cũng không có sự hiệp thông nào mật thiết cho bằng thông phần vào Mình Máu thánh Đức Kytô: "Ai ăn Thịt và uống Máu tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy."    (Ga6,56). 

Nhờ Thánh thể, Đức Kitô đã đồng hóa với chúng ta bằng cách thông ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, để rồi chúng ta có thể nói lên được rằng: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi." (Gl 2,20). Chính vì vậy mỗi khi Linh mục đọc lời truyền của Chúa Giêsu:" Này là Mình Thầy.. Này là Máu Thầy." Linh mục được mời gọi đưa cả con người, đưa cả cuộc sống của mình vào trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu, đến nỗi như thể thầm thì trong lời truyền phép: Đây là con người tôi, cuộc sống của tôi, xin được kết hợp với Hy tế của Chúa Kytô mà đem sự sống cho anh chị em của tôi.

Tóm lại người linh mục cần sống hiệp thông với Thiên Chúa hằng ngày qua việc cầu nguyện và bí tích Thánh Thể để thực thi trọn vẹn ý Cha, nên đồng hình đồng dạng với Đức KyTô Mục Tử dưới tác động của Chúa Thánh Thần.  Đặc biệt, khi gặp những thử thách gian lao, khi bị hiểu lầm, khi thất bại trên đường mục vụ, người linh mục của Chúa luôn quỳ gối để xin ánh sáng chỉ đường. Có Chúa đồng hành, linh mục sẽ không thất vọng. Có Chúa là người bạn đường, linh mục dù sống độc thân vẫn không cảm thấy cô đơn lạnh lùng. Hiệp thông với Thiên Chúa sẽ làm khai mở sự hiệp thông với anh em

TRANG TU SĨ

 TU SĨ SỐNG HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA

Chuyện kể rằng: Có mấy em bé nọ rất muốn làm thiên thần.  Thượng Đế cho các em mỗi đứa một cái chân đèn, và bảo chúng giữ cái chân đèn cho thật bóng sáng.  Nhưng trong một vài ngày mà Thượng Đế không đến, hầu hết các em bé không làm theo lời Thượng Đế, không chùi bóng chân đèn nữa.  Một hôm, Thượng Đế đột nhiên đến thăm, chân đèn của mỗi đứa đều đóng một lớp bụi dày.  Duy chỉ có một em bé mà thường ngày mọi người gọi là "thằng ngốc", cho dù Thượng Đế không đến, hằng ngày nó vẫn cứ lau chùi chân đèn sáng bóng.  Kết quả là em bé ngốc này được trở thành thiên thần.

Câu chuyện trên đây là một đề tài suy tư rất quý báu về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, nhất là những người sống đời thánh hiến, những người được Chúa chọn gọi cách đặc biệt để sống hiệp thông với Người.

"Làm thiên thần", đó là khát vọng của mọi kitô hữu muốn vươn lên trong cuộc sống hoàn thiện.  Cái triết lý Á Đông "Nhân chi sơ tính bổn thiện" là hoàn toàn đúng.  Ai trong chúng ta mà lại chẳng được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa hay không muốn mình trở thành một người tốt bao giờ! 

Thiên Chúa đã trao ban cho những người muốn được nên hoàn thiện (không phân biệt giai cấp, khả năng hay phẩm chất) một "cái chân đèn" và bảo "phải giữ cho thật bóng sáng." "Cái chân đèn" đó chính là ơn gọi sống đời thánh hiến, ơn gọi trở thành chứng nhân cho Chúa Giêsu bằng cuộc sống khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục - hình ảnh sự "bóng sáng" của "chân đèn" ơn gọi. 

Điều kỳ diệu ở đây là "thằng ngốc" đã trở nên người duy nhất biết "làm theo" lời Thượng đế.  Em không những chỉ gìn giữ mà còn "hàng ngày lau chùi" cho chân đèn được "sáng bóng". Chính nhờ lòng tin tưởng triệt để vào Đấng mà em tin rằng có thể làm cho em trở nên thiên thần, cùng với niềm hy vọng, nên em đã trung thành làm theo lời Người, không mảy may ngờ vực.  Lòng tin, hy vọng và sự vâng phục đó đã khiến em trở thành kẻ ngu ngốc trước mắt người đời, nhưng đối với Đấng có quyền ban thưởng, thì em là người khôn ngoan nhất.  Và kết quả là một món quà xứng đáng dành cho em: được "trở nên thiên thần", được ở gần bên Thiên Chúa để phụng thờ Người và sống thân mật với Người.. 

Như em bé trong câu chuyện trên, người tu sĩ cũng là những người "ngốc" đối với thế gian, vì đã tin và vâng theo lời mời gọi của Thiên Chúa. Trên bước đường theo Chúa, họ dám can đảm "lội ngược dòng", và bị cho là ngu dại đối với thế gian: từ bỏ những ước vọng riêng tư, sự tự do cá nhân và tình yêu lứa đôi để chỉ sống cho Chúa bằng ba lời khấn. Chính trong niềm tin, sự trông cậy và lòng mến Chúa mà họ không quản ngại thực hiện những điều Chúa muốn và nhờ đó, họ được kết hợp mật thiết với Người.

Em bé đã dùng chất liệu để đánh bóng chân đèn.  Người tu sĩ trong khi thi hành sứ mạng chứng tá của mình, cũng dùng những chất liệu cần thiết để làm sáng bóng "chân đèn" ơn gọi bằng Lời Chúa, các việc phụng tự, các Bí tích, và đặc biệt nhất là Thánh Thể, nguồn sống đích thực và kho tàng của sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Trong mọi sinh hoạt của đời sống thường ngày, người tu sĩ lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam để củng cố đời sống tin, cậy, mến; và lấy Thánh Thể Chúa làm thần lương để duy trì sự sống và mối hiệp thông với Chúa.

Người tu sĩ chỉ có thể được hạnh phúc khi biết luôn trung thành với việc "đánh bóng" ơn gọi của mình mỗi ngày. Nhờ đó, với ơn Chúa trong sự hiệp thông với Người, mối hiệp thông với anh chị em đồng loại ngày càng được phát triển. Bởi vì "Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4, 21).

Mến Thánh Giá Cái Mơn

 ĐỐI VỚI TÔI, CHÚA GIÊSU LÀ AI?

Mùa Giáng Sinh lại về, khắp nơi mọi giáo xứ đều tổ chức đêm canh thức để sống lại Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm tình yêu cao cả mà Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu đầu tiên đã bị Adam phá vỡ, vì lạm dụng tự do Thiên Chúa ban mà không vâng phục Chúa. Hậu quả là cắt đứt mối hiệp thông với Thiên Chúa, gây xáo trộn nơi bản thân và làm tan vỡ mối hiệp thông nơi chính mình và với tất cả mọi người mọi vật.

Họ đạo nhỏ bé nơi tôi đang giúp lúc bấy giờ cũng náo nức chuẩn bị lễ Giáng Sinh, kỷ niệm 2010 năm Chúa xuống thế làm người. Đang loay hoay dọn nhà thờ để chuẩn bị cho Thánh Lễ đêm Vọng Giáng Sinh, tôi bất chợt bắt gặp  ánh mắt của một bé trai khoảng tám - chín tuổi, ăn mặc sốc sết, đang đứng trước hang đá và nhìn chầm chầm vào bên trong như đang suy nghĩ một điều gì đó, tôi dừng lại bên cạnh em nhẹ nhàng đặt bàn tay lên vai em và hỏi:

- Sao con không ra ngoài sân chơi với các bạn mà đứng một mình ở đây?

Cậu bé như không nghe thấy câu hỏi của tôi mà ngược lại em tròn xoe đôi mắt nhìn tôi và hỏi:

- Dì ơi, sao Em Bé Giêsu mới sinh mà không được nằm trong chiếc nôi ấm áp như các em bé vừa sinh ra, mà phải nằm trong một cái máng cỏ lạnh như vậy?

Tôi thấy cay cay ở sóng mũi trước câu hỏi của cậu bé, thì ra đã bao nhiêu lần mỗi dịp giáng sinh về, tôi thường làm hang đá và trang trí cho máng cỏ Chúa nằm thật đẹp, bối cảnh xung quanh làm sao cho cân xứng và với đèn nhiều màu chớp tắt, rồi cấm hoa thật xinh... nhưng tôi đã quên mất Chúa của tôi đã từng được sinh ra trong một hang đá nhỏ hôi tanh và lạnh lẻo, thiếu thốn mọi thứ chứ không được như tôi và bao người khi sinh ra. Con người ta dù có nghèo khổ mấy đi nữa thì khi sinh ra vẫn có được mái nhà để che mưa che nắng, có được chiếc giường để nằm... Đang miên mang với dòng suy tưởng thì bị cắt ngang vì tiếng giục dậy của cậu bé:

- Dì ơi, sao dì không trả lời con?

- Ờ, con biết không, Em Bé Giêsu của chúng ta là Chúa cả trời đất, Người giàu sang và quyền năng vô cùng, nhưng vì thương con người tội lỗi chúng ta mà Chúa chọn cảnh sống nghèo khổ nhất để ở với chúng ta, và làm cho chúng ta trở nên xứng đáng hơn được ở gần Người.

- Vậy là Chúa Giêsu nghèo hơn con, phải không dì? Chúa Giêsu có thích chơi với con không dì?

- Chúa Giêsu rất thương con, chắc chắn Người sẽ thích chơi với con! Con hãy xem Chúa như một Người Bạn Thân và hãy thường xuyên đến nhà thờ thăm Bạn Giêsu của con và kể cho Người nghe những vui buồn trong đời sống của con, và ngay cả những khuyết điểm sai phạm của con cũng hãy nói với Chúa, chắn chắn Người sẽ rất thích và yêu con nhiều hơn.

- Yah, vậy là con có Bạn Thân rồi. Từ nay, con sẽ thường xuyên đến đây thăm Bạn và dì!

Tôi thấy một niềm vui sướng - hạnh phúc đang dâng lên trong lòng mình như vừa gặp được một một kho báu. Đây mới chính là hạnh phúc đích thực mà tôi đang tìm kiếm. Đó là mối hiệp thông với Thiên Chúa trong đời sống. Cũng như đối với cậu bé kia Thiên Chúa là Bạn Thân để được chia sẻ nhưng vui buồn. Thì đối với tôi, Thiên Chúa là một Người Cha luôn yêu thương và tha thứ, Người luôn nhẫn nại chờ đợi khi tôi bất trung- tội lỗi...Còn đối với bạn, Thiên Chúa là ai? Người chiếm vị thế nào trong lòng bạn? Bạn đã kết hiệp với Người như thế nào?!

Thật vậy, chính Đức Giêsu luôn sống hiệp thông với Chúa Cha "  Tôi và Cha Tôi là một" đó là mẫu gương cho chúng ta. Phát huy mối hiệp thông với Thiên Chúa, chúng ta nhìn về Chúa và noi gương Người mà làm theo thánh ý Chúa. Và như Thánh Phaolô đã nói" Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là  Đức Kitô sống trong tôi". Chúng ta phải biết mở rộng cõi lòng để cho Đức Giêsu bước vào, Người sẽ làm cho chúng ta nên một trong Thiên Chúa.

Mến Thánh Giá Cái Nhum

TRANG SỐNG ƠN GỌI

Thinh Lặng Trong Đời Sống Thiêng Liêng

Giữ thinh lặng là một nét đặc sắc của các tu sĩ chiêm niệm trong các đan viện. Nó cũng là điều được khuyến khích và thường được tôn trọng trong những cuộc tĩnh tâm dành cho bất kì ai, không phân biệt linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Mục đích của việc giữ thinh lặng là để suy gẫm, để gặp gỡ Thiên Chúa.

Như vậy, giữ thinh lặng bên trong là để cầu nguyện. Vì thế, trong viễn tượng đạo đức, sự thinh lặng bên ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó tán trợ hay bảo vệ sự thinh lặng bên trong. Cần nói như vậy vì trong không ít trường hợp, sự thinh lặng bên ngoài lại chỉ là cái bình phong che đậy cả một thế giới nội tâm ồn ào, náo động. Sự thinh lặng bên ngoài còn được hiểu theo nghĩa rộng là phải tránh nghe, đọc hay xem những gì có thể phá rối sự trầm mặc của tâm hồn.

Nhưng cũng vì ý nghĩa hay mục đích của sự thinh lặng bên ngoài là như thế, nên sự thinh lặng này có tính cách mềm dẻo, nghĩa là, trừ trường hợp nó phải được tuân giữ tuyệt đối, nó vẫn cho phép có những cuộc trao đổi hay nói chuyện về Thiên Chúa và về những vấn đề thiêng liêng, những giờ cầu nguyện chung bằng lời kinh, tiếng hát, những lời khấn nguyện trong lúc riêng tư.

Nói giữ thinh lặng bên trong để cầu nguyện, tức là nhận có sự phân biệt giữa thinh lặng nội tâm và cầu nguyện. Nên nhắc đến sự phân biệt này, bởi lẽ chúng ta thấy rằng môn Yoga hay thiền Ấn Độ, kể cả thiền Phật Giáo, cũng tìm sự thinh lặng nội tâm, nhưng không phải để cầu nguyện. Tuy sự thinh lặng nội tâm khác với sự cầu nguyện, nhưng cả hai gắn liền với nhau chặt chẽ; cái thừ nhất là điều kiện cần thiết cho cái thứ hai; cái thứ nhất là phương thế, còn cái thứ hai là mục đích.

Vì sự thinh lặng nội tâm cốt ở sự vắng bóng những cái gây ồn ào náo động trong tâm hồn, nên chúng ta có thể hình dung đây là tâm hồn rỗng không. Nhưng vì là rỗng không để cầu nguyện, nên điều này cũng có nghiã là tâm hồn rỗng không để được đầy tràn, và cái làm đầy tràn chính là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nói cách khác, giữ thinh lặng nội tâm đồng nghĩa với việc gạt bỏ những cái gây ồn ào náo động để tâm hồn được yên tĩnh, vì đó là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng còn được gọi là Thiên Chúa thinh lặng.

Sự thinh lặng nội tâm có nhiều mức độ. Con người càng sống siêu thoát, nghĩa là càng từ bỏ mình và thế gian, thì sự thinh lặng càng sâu xa, bởi vì cái tôi được nuông chiều và thế gian được ham thích chính là những cái gây ồn ào náo động. Vì thế, ngày xưa các vị tu rừng vào rừng sâu hay sa mạc là nơi thanh vắng để bỏ lại mọi sự thế gian như tiền của, danh gía, địa vị. Họ từ bỏ mình bằng cách bắt thân xác chịu cực khổ, như mỗi ngày hay vài ngày mới ăn một bữa rất đạm bạc, mỗi đêm chỉ ngủ vài ba giờ. Có vị còn đeo xiềng xích nặng nề, tự giam mình trong chòi không đủ cao để đứng và không đủ dài để nằm, v.v. 

Bằng lối sống siêu thoát như vậy, họ có ý giữ cho tâm hồn được yên tĩnh để ngày đêm gặp gỡ Thiên Chúa, hay nói cách khác, để cầu nguyện liên tục trừ lúc ngủ. Điều vừa nói chứng tỏ rằng sự thinh lặng nội tâm là thành qủa của sự từ bỏ và của cả một công trình tu luyện. Cũng vì thế mà có thể nói rằng chỉ các vị thánh - thánh ở đây hiểu theo nghĩa thánh Công Giáo - mới là những người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa. Nhưng không được phép nói ngược lại rằng người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa là người thánh. Thực vậy, sự thinh lặng nội tâm tự nó không phải là cầu nguyện hay hiệp nhất với Thiên Chúa, vì như đã nói trên, có những người ngoài Công giáo cũng từ bỏ mình và từ bỏ thế gian để đi tìm sự thinh lặng nội tâm. Vậy khi nói thinh lặng nội tâm, chúng ta chú ý đến một khía cạnh của linh hồn trong quan hệ với Thiên Chúa, đó là gạt ra ngoài các thứ "tiếng động" và "ồn ào" do xác thịt, thế gian và ma qủi gây ra trong tâm hồn, để nhờ đó chúng ta mới có thể chăm chú gặp gỡ Thiên Chúa với thái độ lắng nghe.

Đây là lúc chúng ta ở trong tình trạng hồi tâm, thu tâm (recueillement). Giữa lúc này, những tiếng động và ồn ào có thể tái xuất hiện và đe dọa phá vỡ tình trạng thu tâm kia. Nhưng dù chúng ta chưa là thánh nhân, chúng ta vẫn có thể, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, cố gắng ngăn cản được chúng. Chính sự cố gắng này cũng góp phần vào việc chúng ta chống lại sự cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma quỷ.

Sau cùng, sự thinh lặng nội tâm cũng cần được bảo vệ và nâng đỡ bằng cảnh vật yên tĩnh bên ngoài do sự vắng bóng những người qua lại. Khi đọc Phúc Âm chúng ta biết Chúa Giêsu, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đã vào sa mạc cô tịch và sống ở đó bốn mươi đêm ngày. Trong quãng đời hoạt động công khai, Ngài từng tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện: trên núi (Mt 14,23; Mc 6,46; Lc 9,28), trên núi vào lúc đêm khuya (Lc 6,12); nơi hoang vắng (Lc 5,16); nơi hoang vắng và sáng sớm, lúc trời còn tối mịt (Mc 1.35); trong vườn Giêtsêmani vào lúc đêm khuya (Mt 26, 36-46).

Hẳn không ai phủ nhận rằng những nơi thanh vắng, cô tịch là khung cảnh thuận lợi để nâng đỡ và bảo vệ sự thinh lặng nội tâm. Vì thế, các đan viện của các Dòng tu chiêm niệm, nếu không ở những nơi hiu quạnh thì ít ra cũng nằm trong những khu đất được vây kín. Các nhà tĩnh tâm cũng thường là những nơi tĩnh mịch, vắng vẻ. Ngay các tu viện hoạt động tông đồ, khi có thể, cũng có một khoảng đất nhỏ yên tĩnh, một mảnh vuờn kín đáo chẳng hạn, để dùng làm nơi cho tâm hồn hưởng những giây phút thư giãn và thanh thản, hoặc sống trầm mặc trong bầu khí êm dịu của cầu nguyện.

Trích Tập San Hiện Diện

TRANG THIẾU NHI

Sao ta lại thờ ơ với Chúa?

Có lẽ  chúng ta đã  thở phào nhẹ nhõm vì thời bắt đạo đã qua, việc cấm cách gắt gao cũng không còn. Người tín hữu có thể thoải mái sinh hoạt tôn giáo và phụng thờ Thiên Chúa. Dù vậy không có nghĩa lòng đạo mỗi người được thăng tiến cách dễ dàng theo thời gian. Dường như mỗi người đang đối diện với những nguy cơ mà đôi khi bản thân không nhận ra. Đó chính là lòng nhiệt thành với Chúa ngày một giảm, tình mến Chúa bớt mặn nồng, giới răn Chúa dạy cũng không mấy quan tâm. Ngẫm lại cuộc sống có quá nhiều lý do người ta vịnh vào để biện minh cho sự thờ ơ với Thiên Chúa.

Lo kế sinh nhai hằng ngày

Đáng khen ngợi cho những con người đang phải làm việc miệt mài cho cuộc sống. Bởi ai làm việc sẽ thoát khỏi cảnh "nhàn cư vi bất thiện". Nhưng rồi sự miệt mài công việc khiến người ta chỉ còn biết những chuyện đời này. Họ quên mất lời mời gọi hãy lo "tích trữ kho tàng ở trên trời". Đó đây ta vẫn còn nghe nhiều người có chung kiểu nói: còn vất vả quá nên chưa giữ đạo được; chừng nào kinh tế khá lên mới nghĩ đến việc đến nhà thờ. Niềm tin của họ đúng như điều Chúa Giêsu sánh ví như hạt giống rơi vào bụi gai, vì quá lo lắng sự đời nên không sinh hoa trái trong đời sống. Niềm tin của họ đã bị pha loãng bởi những sự đời, dần dần đến mức mất hẳn. Liệu sau này đời sống có khá lên, có giàu hơn đi nữa họ có còn nghĩ đến đạo hạnh nữa không! Thật là khó! Khi lòng đạo không còn thì việc nhớ đến Chúa quả là điều mong manh. Hình ảnh của cụ Simêon và bà Anna giờ như vắng bóng.

Việc  học chiếm hết thời gian

Một nhận  định và ai cũng hiểu được lý do tại sao ngày nay thiếu nhi, giới trẻ ít lui tới nhà thờ. Bởi lịch học đã chiếm hết thời gian. Quá mệt mỏi với bài vỡ ở trường làm sao dám mơ đến phải làm thêm gì cho nhà Chúa. Việc chu toàn bổn phận giữ lễ Chúa nhật đã là may nói gì đến việc tham gia hội đoàn hay những sinh hoạt bổ ích. Ngay như dịp lễ Giáng Sinh, niềm vui lớn cho cả nhân loại mà nhiều bạn trẻ chưa bao giờ hưởng trọn: niềm vui bị xen lẫn lo lắng học hành, Đêm An Bình mà lòng vẫn còn nhiều thứ ngỗn ngang. Quả thật, sự hồn nhiên, lòng nhiệt thành là vốn liến quý giá của tuổi trẻ dần dần bị pha loãng bởi những "bổn phận quá tải". Thật là khó trong cách chọn lựa giữa một điều tốt và một điều tốt hơn. Lối sống thực dụng khiến bạn trẻ săn sàng tương đối hóa các bậc thang giá trị để rồi dễ dàng bỏ qua những gì là tốt đẹp và cần thiết cho đời sống tâm linh.

Phần thưởng đời sau quá xa vời

Phải chăng cuộc sống với cơm, áo, gạo, tiền khiến người ta dễ  dàng chấp nhận. Khi nói về ơn cứu độ, về sự sống đời sau xem ra sao quá xa vời không mấy hấp dẫn. Do đó, có người đã nói tích trữ của cải đời này chưa xong lo chi tích trữ của cải trên trời. Những người rao giảng Tin Mừng đã phải đau đầu và mất lửa khi phải đối diện với những người"sống nay không cần biết mai". Thế giới hữu hình đã che mắt họ nhìn về thế giới vô hình. Những giá trị đời này đã ghì chặt họ không thể vươn đến những giá trị đời sau. Họ ra sức bám víu những gì của Chúa mà lại quên đi chính Chúa. Những cách sống đó khiến họ không bao giờ nhận biết Thiên Chúa là ai nói chi đến việc phải kết hợp mất thiết với Người.

Có lẽ  ngày nay điều nguy hiểm của người tín hữu không đến từ  những kẻ chống đối ra mặt, hay do những hoàn cảnh khó khăn trước mắt. Những việc tốt thường ngày cũng là kẻ thù âm thầm vì nó có sức pha loãng lòng nhiệt thành tôn giáo lúc nào không hay. Người ta mãi lo việc tốt của con người mà bỏ việc bổn phận đối với Thiên Chúa. Khi lòng nhiệt huyết không còn, tình yêu mến Chúa không đủ con người sẽ viện nhiều lý do, đặt ra nhiều điều kiện để rồi xa dần Thiên Chúa.

Điều mà mỗi người cần biết là Thiên Chúa không muốn chờ đợi cuộc gặp gỡ ta trên quê Trời nhưng Ngài muốn kết thân với ta từng ngày. Ngài tìm kiếm những ai hiểu được ước muốn của Ngài. Ngài muốn kếu gọi ta đến để Ngài hướng dẫn và đi theo Ngài. Hãy đến với Ngài trong "tinh thần con thảo" ta sẽ nhận ra và vượt thắng những nguy cơ pha loãng tình mến giữa ta với Ngài. Chính sự sáng suốt của chúng ta về tư cách làm con cái Thiên Chúa sẽ biến chúng ta thành những tâm hồn khao khát được gặp Ngài và sống bên cạnh Ngài.           

TRANG GIỚI TRẺ

Một nhánh cây muốn đâm chồi nảy lộc hay đơm hoa kết trái phải được hút nhựa sống từ thân cây. Chính sức sống từ thân cây sẽ cung cấp cho toàn bộ các cành gắn chặt với nó.

Cũng vậy, dưới cái nhìn đức tin của con người nói chung cách riêng của từng người tín hữu. Bao lâu người tín hữu còn muốn sống dồi dào, còn muốn sống sung túc và viên mãn thì bấy lâu họ còn được mời gọi tháp nhập cuộc đời mình vào Thiên Chúa. Sự tháp nhập ấy gọi là hiệp thông với Thiên Chúa.

Sở dĩ gọi sự hiệp thông với Thiên Chúa của người tín hữu là sự tháp nhập vì những ngày đầu tiên tổ tông loài người đã bẻ gãy sự hiệp thông cao quý này. Do đó, hôm nay nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu chúng ta được nối lại sự hiệp thông mà tổ tông đã đánh mất.

Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Như vậy, cuộc sống của người tín hữ hôm nay và mai sau sẽ được hạnh phúc trọn vẹn biết bao nếu họ biết gắn bó với Chúa Giêsu. Sự gắn bó ấy được biểu hiện qua việc người tín hữu siêng  naêng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Chỉ có Chúa Giêsu Thánh Thể mới thật sự là nguồn sống cho đời sống của chúng ta.

Người trẻ chúng ta thường hay có khuynh hướng muốn tự khẳng định mình. Từ đó, chúng ta dễ có thái độ muốn tự túc không cần sự trợ giúp của ai. Thật là nguy hiểm nếu người trẻ chúng ta áp dụng cho chính Thiên Chúa trong đời sống đức tin của mình. Cho dù với sức riêng mình chúng ta có thành công nhưng sự thành công ấy sẽ không thể bảo đảm lâu dài.

Hãy nhớ nguồn sống của ta ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ tìm được hạnh phúc đích thực nếu biết hiệp thông với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Thánh Thể. Thiên Chúa là nguồn hiệp thông.

 TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

Sự Phục sinh của Đức Giêsu thay đổi điều gì trong đời ta?

Một nhóm bạn trẻ đang nghỉ hè ở Địa trung hải. Trời rất tuyệt, nước xanh lơ và êm đềm. Họ mướn một chiếc thuyền để viễn du trên sóng. Thình lình, họ muốn nhảy tùm xuống biển. Nước biển thật tuyệt vời. Trong lúc vội vàng, họ chỉ quên khấy một điều: đó là chiếc thang cần thiết để leo lên lại trên tàu.

Họ tìm cách bám vào tàu nhưng chẳng có điểm tựa. Họ phát điên lên, khóc lóc thảm thiết: đó là cuộc tranh đấu chống lại cơn hấp hối và màn đêm đã đột ngột buông xuống. Hai ngày sau, người ta tìm thấy con thuyền bị trôi giạt. Trên vỏ tàu nào là máu, những đầu móng tay, những mẩu da. Họ vốn 8 người trẻ rắn chắc lực lưỡng! 

Không có sự Phục sinh của Đức Kitô. Kitô giáo sẽ là một con tàu tuyệt vời đi trên biển lặng và có khả năng mang lại tự do cho ta. Nhưng đến phút cuối, thật là nực cười khi phải chịu đau khổ và phải chết. Ai phủ nhận sự sống lại của Đức Kitô chẳng khác nào cất đi khỏi chúng ta chiếc thang để leo lên tàu trở lại. Đối với chúng ta, chính Đức Kitô kéo chúng ta cùng vào trong chiếc thuyền sự sống với Người để dẫn đưa chúng tới bến.

Nếu nhìn bên ngoài thì chẳng có gì thay đổi cả. Thế giới vẫn xoay vần như trước. Kỳ thực, mọi sự đều đổi thay.

Tin vào Đức Giêsu Phục sinh chính là quả quyết rằng Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết. Người đã vượt qua cái chết của nhân loại vì chúng ta. Kể từ nay, sự sống lại của Người bảo đảm cho chúng ta rằng cái chết là một đường hầm dẫn đến ánh sáng và sự sống. Sự Phục sinh Đức Kitô là kiểu mẫu, là lời loan báo và là lời hứa cho thân xác của ta được sống lại. Thiên Chúa sẽ ban cho mỗi người một thân xác, nghĩa là một tập hợp những phương thế diễn tả, làm cho thân xác trở thành ngôi vị, thành trung tâm và thích nghi cho vừa lượng vinh quang của mỗi người. Tương lai của ta chính là sự trẻ trung và là sức sống của Tlhiên Chúa.

Tin vào Đức Giêsu Phục sinh không phải là đào thoát khỏi thế giới này nhưng là tranh đấu để thế giới được trở nên huynh đệ hơn.

Tin vào Đức Giêsu Phục sinh chính là cam kết tôn trọng sự sống trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của nó.

Tin vào Đức Giêsu Phục sinh chính là chiến đấu chống lại sự dữ ở khắp nơi vì chính tội lỗi gây ra cái chết đích thật, tức là cái chết về mặt thiêng liêng. Đó chính là tranh đấu để mọi người có được một cuộc sống đầy phẩm chất trong danh dự và công bình.

Vâng, Đức Giêsu Phục sinh đã thay đổi và chiếu sáng mọi chuyện. Kể từ khi nấm mồ của Đức Giêsu mở ra, thì mọi cuộc chiến đấu trên mặt đất, mọi sự bất công, mọi thất bại, mọi khốn khổ của thế giới cũng như mọi niềm vui của con người, mọi mơ ước của nhân loại, tất cả chẳng trừ điều gì, đều đã thay đổi. Không còn gì như trước. Đức Kitô đang sống làm vọt lên sức sống và hy  vọng từ mọi nơi. Ngài đang bước đi với từng người, là biểu tượng chiến thắng sự dữ, đau khổ, thất vọng, sợ hãi, hận thù, bạo lực và sự chết của họ.

 QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt

Imprimatur:

Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

GIA ĐÌNH HIỆP NHẤT VỚI THIÊN CHÚA BA NGÔI

Đọc Tin Mừng tôi thấy đề tài hợp nhất và hiệp thông huynh đệ, dù rằng tôi chỉ hiểu lõm bõm, địa khái: Thượng tế Caipha tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu: "Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11, 49 - 50). "Và không chỉ chết thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối" (Ga 11,52).

 

Sự hiệp thông giữa người mà Chúa Giêsu sai đi với chính Chúa Giêsu, giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài: "Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Ga 13,26). Chúa Giêsu nói với Philipphê: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha... Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thấy nói với anh em Thầy không tự mình nói ra, nhưng Chúa Cha Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Ga 14, 9 - 10). "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thánh Thần sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em, Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em" (Ga 14,15 - 18). "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). "Tất cả mọi kẻ tin vào Con đều nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta" (Ga 17,21).

Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Ba Ngôi đến ở với chúng con, ở trong chúng con để hiệp thông chúng con trong Chúa. Thánh Gioan Tông đồ cũng xác quyết: "Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cả cho anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người" (Ga 1, 3). Có sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau và cùng hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự hiệp thông theo chiều dọc nối kết con người với Thiên Chúa.

Sau bữa ăn tối của gia đình tôi, đứa con trai 8 tuổi đang chuẩn bị xưng tội rước lễ vỡ lòng hỏi tôi: "Ba ơi! Cha Sở nói mỗi người phải hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông là gì hở ba?", "May quá! Hôm rồi tôi đã hỏi Cha Sở về đề tài hiệp thông nên tôi có đủ cơ sở để trả lời cho con tôi và cả gia đình".

Cha Sở đã bảo sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là căn bản và là nền tảng cho sự hiệp thông của Giáo Hội và của nhân loại. Tôi nhớ lời Ngài nên nói với mọi người như sau: Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần có tương quan yêu thương và có những hành vi yêu thương. Ba Ngôi có tình yêu hiệp thông sâu xa đến nỗi không còn là ba mà là một. Cả Ba Ngôi Vị luôn hướng về nhau, đến với nhau, gặp gỡ gắn bó với nhau, tự hiến cho nhau, ở với nhau, nên một với nhau và tìm đem lại hạnh phúc cho nhau. Giáo Hội Công Giáo được sinh ra bởi "Tình yêu Ba Ngôi" sống nhờ tình yêu ấy, cho tình yêu ấy và trong tình yêu ấy, nên Giáo Hội khơi nguồn và hướng về mầu nhiệm "Hiệp thông Ba Ngôi".

"Con ơi! Hiệp thông là sống đoàn kết, hiệp nhất, đồng tâm nhất trí, nên một với nhau trong yêu thương và trong hành động vì yêu thương". "Ba ơi! Gia đình chúng ta hiệp thông với ThiênChúa Ba Ngôi bằng cách nào?", "Trước tiên, chúng ta bước vào sự hiệp thông này qua bí tích rửa tội. Nhờ Mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô nơi Thập Giá, máu Chúa Kitô đã đổ ra để tẩy xóa tội Tổ Tông, các tội ta phạm và các hình phạt đời đời do tội trọng ta phạm gây ra (nếu ta đã lớn khôn), ban cho ta ơn làm con Chúa, nên giống Chúa Kitô, Đấng Công Chính, nhờ Cháu Thánh Thần, chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô như cành nho ghép vào cây nho, cùng chết với Cháu Kitô và cùng sống lại với Người. Nói tóm, nhờ ý muốn cứu độ của Chúa Cha, nhờ lãnh nhận ơn cứu độ là ơn tha tội và sự sống mới của Cháu Kitô phục sinh, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần chúng ta được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi. Con người chúng ta là đền thờ Chúa Ba Ngôi hiện ngự, từ nay mỗi người chúng ta luôn hướng về Chúa Ba Ngôi, tự hiến cho Chúa Ba Ngôi, nên một và ở trong Chúa Ba Ngôi, tư tưởng ,lời nói, hành động luôn theo ý Chúa Ba Ngôi, làm vinh danh Chúa Ba Ngôi.

Thứ đến, chúng ta tiến sâu vào sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi nhờ bí tích Thánh Thể. Mỗi khi tham dự thánh lễ và rước lễ, chúng ta lãnh nhận mình và máu Thánh Chúa Giêsu, Bánh ban sự sống, lươngt hực thần linh, nuôi dưỡng đời sống tâm linh của chúng ta, chúng ta cùng chết với Chúa Kitô để cùng sống lại với Người, trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta cùng đồng hành với Chúa Kitô tiến về Chúa Cha. "Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở" (Ga 14, 2)".

"Ba ơi! Gia đình chúng ta phải làm gì để phát huy sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi?". Dựa vào tài liệu làm việc của đại hội dân Chúa Việt Nam, ba nói với cả nhà rằng: "Chúa Kitô đã mời gọi các tín hữu ở lại trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta hằng ngày gắn bó trọn cả con người và cuộc sống của chúng ta với Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ba nhân đức đối thần: Tin - Cậy - Mến, chúng ta nên siêng năng đọc, học hiểu và sống lời Chúa qua Kinh Thánh và giáo lý. Mỗi người trong chúng ta cần kuôn khao khát gặp gỡ Chúa trong đời sống cầu nguyện và không ngừng vun đấp tâm tình thờ phượng, tin yêu qua kinh nguyện của cá nhân, đặc biệt của gia đình buổi mai và ban tối. Với tâm hồn sạch tội, chúng ta hiệp thông thường hằng với Chúa trong ân sủng, bằng cách siêng năng lãnh nhận các bí tích".

Xin Chúa cho mọi người chúng con:

- Qua đời sống cá nhân luôn gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, suy niệm và chiêm ngắm Chúa Ba Ngôi.

- Qua bầu khí đạo đức, yêu thương và phục vụ gia đình với kinh nguyện tại gia.

- Qua việc cử hành phụng vụ, làm việc đạo đức bình dân, học hỏi Kinh Thánh và giáo lý của họ đạo, phát huy mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi mỗi ngày một phong phú và vững chắc hơn.

"Con thay lời mẹ và các anh chị thương yêu của con, cám ơn ba đã giúp gia đình ta đi vào sự hiệp thông với Chúa Ba Ngơi". 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

ĐẾN GIÁO LÝ VIÊN GIÁO DÂN

I.     Hội Thánh quan tâm đặc biệt với lý do:

1.   Vì hoàn cảnh xã hội hôm nay

- Một xã hội nghèo khổ đó là hàng triệu người đang sống trong khốn khổ đói nghèo, do hoàn cảnh ở Á Châu và ở Việt Nam chúng ta.

- Một xã hội đạo đức suy đổ: bởi khát vọng thịnh vượng giàu sang của các dân tộc ngày nay đang suy sụp đến nỗi nền tảng đạo đức như: Cần-Kiệm-Liêm-Chính lại lung lay tận gốc rễ, bằng chứng là nạn tham nhũng, hối lộ, lừa gạt xảy ra khắp nơi.

- Vì xã hội hôm nay dửng dưng với Giáo hội: cảnh nghèo đói vẫn mênh mông, làm cho nhiều người dân không thiết tha mấy đến các Giáo hội, tức là các tôn giáo ở chung với họ (như Công giáo, Phật giáo, Hồi giáo...). Vì họ nhận thấy rằng các Giáo hội đang có mặt ở đó mà phẩm giá và quyền lợi con người vẫn bị coi rẻ và bị chà đạp, cho nên họ ít tin vào tôn giáo.

- Vì xã hội hôm nay cũng vẫn tìm đến những gì là thiêng liêng: Tuy dửng dưng với các tổ chức Giáo hội, nhưng con người lại vẫn đi tìm một sự siêu thoát để được sức mạnh linh thiêng cứu giúp (như lễ hội, hành hương, vía bản, cầu may).

2.   Vì hoàn cảnh Hội Thánh hôm nay

Một Giáo hội đang lây nhiễm chủ nghĩa hưởng thụ, nghĩa là nhiều thành phần của Hội Thánh bị lây nhiễm xã hội say mê vật chất và chỉ lo tìm mọi cách để hưởng thụ tối đa. Họ giữ đạo hời hợt bên ngoài, chạy đua làm giàu khiến lôi kéo nhiều người xa rời Kitô giáo. Nhiều người được rửa tội nhưng không thiết gì sống đạo nữa.

Ví dụ: người con hư: mê man hưởng thụ và cắm đầu làm giàu.

-Vì thiếu hiểu biết giáo lý: người Kitô hữu hình như muốn có lòng sốt sáng, nhưng vì thiếu hiểu biết giáo lý. Chỉ giữ thói quen Kitô giáo cách máy móc, chỉ có vốn liếng giáo lý học từ nhỏ, thiếu sách giáo lý, thiếu giáo lý viên.

-Nhiều cải cách cộng đồng chưa được thực hiện như về vấn đề Truyền giáo, Hội Nhập Văn hoá.

3.   Vì vai trò quan trọng của giáo lý viên.

Tại Việt Nam, lúc mới bắt đầu loan báo Tin mừng các vị thừa sai tổ chức đào tạo giáo lý viên giáo dân để họ trở thành những người trợ tác đắc lực trong việc truyền giáo như thầy giảng Anrê Phú Yên.

II.   Để thực hiện mối quan tâm đặc biệt đó:

1.       Bộ Phúc Âm hoá xin các nơi góp ý

Kết quả rút ra từ 400 năm truyền giáo đã soạn một tập tài liệu "Hướng dẫn dành cho Giáo lý viên giáo dân thuộc xứ truyền giáo" nói về căn tính giáo lý viên, việc tuyển chọn, việc huấn luyện, linh đạo giáo lý viên.

2.     Đưa ra hình ảnh rất mới về giáo lý viên

Giáo lý viên là người truyền bá Phúc âm không thể thay thế, vì họ cống hiến một trợ lực đặc biệt và tuyệt đối cần thiết cho việc truyền bá đức tin và mở mang Hội Thánh.

Giáo lý viên thuộc đội quân tông đồ giáo dân rất đáng tuyên dương, một lực lượng đi hàng đầu để Phúc âm hoá.

Giáo lý viên là niềm tự hào của Hội Thánh truyền giáo. Công việc của họ là phục vụ cần thiết cho Tin mừng.

Khi nêu lên hình ảnh mới về giáo lý viên giáo dân là để thúc đẩy các Giám mục, Linh mục và cộng đoàn dân Chúa cùng quan tâm cho thích đáng.

III.  Cùng quan tâm với Hội Thánh

1.    Sẵn sàng đổi mới những thành kiến

Toà thánh có nhận xét rằng còn nhiều linh mục và giáo dân cũng như giáo lý viên chưa thay đổi quan niệm của mình về việc dạy giáo lý như Hội Thánh đã đổi mới. Từ công đồng Vatican II (1961-1965) cách đây 35 năm họ vẫn coi trọng giáo lý là để dạy cho trẻ em, là chỉ dạy cho chúng học thuộc lòng, dạy cho chúng biết phải tin-xin-chịu, làm những gì? Dạy cho chúng dọn mình rước lễ, Thêm sức... đáng lẽ ra họ phải hiểu rằng hình thức dạy giáo lý cho người lớn là yếu tố quyết định trong việc Phúc âm hoá mới hôm nay. Họ cũng phải hiểu rằng chủ đích của việc dạy giáo lý là để giáo dục con người Kitô hữu có một niềm tin vừa có tính cách cá vị và hướng dẫn việc truyền giáo.

2.    Mau mắn cảm nghĩ và hành động với Hội Thánh

Hội Thánh quan tâm đặc biệt giáo lý viên vì đã nghe thấy tiếng gọi khẩn cấp từ cánh đồng thế giới và vì nhận thấy giáo lý viên là những người có thể đáp lại tiếng gọi ấy. Giáo lý viên giáo dân có ơn gọi "sống giữa trần thế cách riêng biệt". Do đó, họ chứng tỏ ơn gọi là nhiệm cụ không thể thay thế của họ trong sứ mệnh Phúc âm hoá thế giới của Hội Thánh. Giáo lý viên giáo dân luôn luôn là một tông đồ hợp thời và cần thiết cho thế giới cũng như Hội Thánh hôm nay.

Kết luận: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn Dạy Giáo Lý  đã nói với Giáo Lý Viên như sau: "Hoạt động của các con là một hình thức tuyệt vời của tông đồ giáo dân. Các giáo lý viên ở xứ truyền giáo rất xứng đáng được danh hiệu là giáo lý viên hơn mọi người khác. Cha cầu chúc cho con số giáo lý viên đông hơn nữa để lo cho công việc truyền giáo".

TRANG QUỚI CHỨC

ÔNG TRÙM

Trong thành phần Ban Quới Chức có: ông Trùm, ông Câu, ông Biện. Vậy, Ông Trùm là ai ?   

Theo Từ Điển Tiếng Việt (nhà xuất bản Đà Nẵng 1998) Trùm là một danh từ có nhiều nghĩa:

1. Người đứng đầu một phe giáp hoặc một phường hội, thời phong kiến: Các ông trùm trong làng, trùm phường mộc. trùm hát chèo..

2. Người đứng đầu giáo dân trong một họ đạo.

3. Kẻ cầm đầu một nhóm, một tổ chức có mục đích xấu: trùm buôn lậu, trùm kẻ cướp..

Như vậy, Trùm không phải là từ "nhà đạo" mà là một danh từ chung của tiếng Việt được Giáo Hội Việt Nam, mà cụ thể hơn là Giáo Phận Đàng Trong dùng để làm chức danh cho một nhân vật đứng đầu một Ban trong cơ cấu tổ chức của Họ Đạo, Ban Quới Chức. "Ông Trùm là người đứng đầu Ban Quới Chức, người có uy tín và có khả năng qui tụ người khác." (Điều 2, Điều lệ Quới Chức, Giáo Phận Vĩnh Long).

Vậy, để có thể " làm trùm" cần phải có những yếu tố cần thiết để có thể đứng đầu. Muốn thế, ông Trùm cần phải có uy tín và có khả năng qui tụ:

- Người đứng đầu là người dẫn dắt, lãnh trách nhiệm, điều phối.

- Người có uy tín là người được người khác tín nhiệm, mến phục.

Có được hai yếu tố này, ông Trùm mới có thể làm tròn bổn phận của người đứng đầu. Thiếu dù chỉ một trong hai yếu tố trên Ông không thể chu toàn bổn phận.

Làm lớn, chính là để phục vụ theo đúng ý nghĩa mà Chúa Giêsu đã dạy, chứ không nhặm mục đích vụ lợi. Như vậy phục vụ ở đây cũng có nghĩa là cho đi một cách vô điều kiện, mà muốn cho đi thì trước tiên mình phải "có". Có những thứ cho đi thì không mất, nhưng có những thứ cho đi sẽ bị hao mòn, vì thế Ông Trùm cần phải luôn đào luyện mình để " có" và không để bị hao hụt khi cho đi.

Đó là một hy sinh không nhỏ về vật chất và tinh thần. Nó đòi hỏi phải nỗ lực từng ngày. Thế nhưng nếu như chúng ta biết cho người anh em của chúng ta dầu một giọt nước lã vì danh Chúa, Người cũng sẽ không quên và sẽ ban thưởng cho chúng ta một cách bội hậu

SỐNG ĐẸP

PHỤC VỤ

Một vị vua mời quan đại thần vào và bảo :

- Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi. Khanh hãy giúp trẫm tìm người kế vị, vì trẫm không có con trai như khanh đã biết .

Quan đại thần đề nghị:

- Xin vua hãy chọn một trong hai quan hầu cận vua làm người nối nghiệp.

Vua bằng lòng cho gọi hai quan cận thần đến, nhưng vua không biết chọn người nào. Ông muốn thử xem ai trong hai quan đó xứng đáng kế vị mình, nên  hỏi người bên phải :

- Này quan, nếu được làm vua thì quan sẽ cai trị dân thế nào ?

- Tâu bệ hạ, nếu hạ thần được làm vua, hạ thần sẽ cai trị dân bằng mệnh lệnh rõ ràng, thưởng phạt công minh, buộc dân phải nghe theo hạ thần.

Quay qua quan  bên trái, vua hỏi :

- Phần quan, nếu được làm vua, quan sẽ làm thế nào ?

- Tâu bệ hạ, hạ thần vẫn tiếp tục làm như hạ thần đã làm, là làm người hầu hạ giúp đỡ mọi người.

Vua hỏi tiếp :

- Như thế nghĩa là gì ?

- Tâu bệ hạ, chỉ có một sự khác biệt giữa vua và dân là chiếc ngai vàng. Vua đích thực phải là kẻ phục vụ.

Thế là quan bên trái được chọn làm vua kế nghiệp vua.

Khi đi đường, các môn đệ cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm  Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9, 35).

Vậy mà cũng có những người  thích sống ích kỷ, chỉ muốn hưởng thụ, nhưng họ đã tự hủy mình. Chuyện  cây nến mô tả loại người đó: có một cây nến đáng cháy, chiếu sang cho nhiều người trong  căn phòng tối om. Mọi người trong nhà ai cũng chăm chút cây nến đó. Bỗng nhiên, cây nến tự nhủ: tại sao ta ngu dại, cứ phải cháy sáng cho người ta hưởng để mình cứ tan chảy đi, tiêu hao đi, cuối cùng chỉ còn  đọng lại miếng sáp chảy lan. Cây nến tự tắt đi! Bây giờ, có người trong nhà đi tìm lại cây đèn cũ, lau chùi sạch sẽ,sử dụng lại nó. Từ đó người ta quên luôn cây  nến, rồi quăng ra đống rác, chẳng còn ai nhắc tới. Sau thời gian bị quên lãng, cô đơn, buồn tủi , cây nến  hối tiếc, nhưng  giờ đã muộn rồi !

Có người như  chú chim cú nọ,  một hôm  chú  cú mù đậu trên cửa sổ nhà thờ, có chú cú khác đút mồi cho chú cú kia. Anh thanh niên  thấy thế liền tự nhủ, Thiên Chúa chăm sóc từng chú cú như vậy, Chúa  lại không chăm sóc con người biết mấy lần sao ! Thôi ta khỏi cần làm chi, Chúa cũng nuôi ta. Nghe thế,  người bạn đi chung sửa sai bạn: Đúng ra, bạn nên  bắt chước chú cú khỏe mạnh giúp đỡ bạn tật nguyền chớ, sao lại hạ thấp mình như vậy? 

Người  từ chối phục vụ luôn  biện minh trăm ngàn  cách lý giải thái độ  vô tư của mình. Trong một truyện vui kể rằng:  có một gia đình nghèo van xin Chúa cứu giúp. Chúa thương cho ba trái táo và dặn, trái thứ nhất để ăn cho đỡ đói. Trái thứ hai bán đi lấy tiền làm ăn. Còn trái thứ ba tế lễ tạ ơn Chúa. Anh nhà nghèo thực hiện đúng hai trái đầu. Đến trái thứ ba, anh tự nghĩ, Chúa tạo nên muôn vàn trái táo như thế này, sá gì một trái táo này đối với Chúa. Anh thấy trái táo thật ngon, thật hấp dẫn và rất  thèm, nên anh đã ăn gọn trái đó. Chúa đành bó tay!

Tuy nhiên, trên đời này không thiếu những tấm lòng vàng, hy sinh, dũng cảm, xả thân phục vụ tha nhân, nhất là  những người cùng khổ, bất hạnh. Bước theo Chúa Kitô, hàng hàng, lớp lớp các vị  thánh trọn đời phục vụ người nghèo, đã được hưởng vinh quang nước trời. Ngày nay, theo thống kê Niên giám Tòa Thánh năm 2006, đã có hai mươi sáu vị sứ giả được sai đến những điểm nóng của một số nước Trung đông, hay Nam mỹ bị khủng bố, sát hại vì phục vụ người nghèo.

Phục vụ không những đem lại lợi ích thiết thực cho người khác mà  cho chính hạnh phúc của mình.. Bài giảng trên núi  Chúa Giêsu dạy "Ai chịu khốn khổ vì đạo, thì hạnh phúc cho người đó, vì sẽ được nước Thiên Chúa là của mình." Tại văn phòng một cố vấn tâm lý, một  thiếu phụ vừa trẻ, vừa giàu, giãi bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì tôi  muốn thì chồng tôi đều cho hết. Tôi có đủ mọi "thứ", nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên." Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký kể chuyện đời cô. Cô này kể: Chồng tôi chết cách  nay ba tháng, con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mât tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo  con cứ  đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi thấy tội ghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con  có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố  làm vài việc gì đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc hơn.Tôi nghiệm ra được điều này là sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ  người khác đem lại hạnh phúc cho mình.; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi  ta làm cho người khác hạnh phúc. Nghe đến đó người thiếu phụ bật khóc. Và cô đã  quyết định noi gương cô thư ký.

Còn  gương nào hơn Đức Giêsu đã để lại: "Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa  chân cho anh em, thì anh  em cũng phải rửa chân cho nhau. " (Ga 13, 14)

Lm. Sơn Đoài

 CHUYỆN THƯỜNG NGÀY                                

Nhân dịp Tết Tân Mão sắp đến, chúng ta thử tìm hiểu về phong tục dân gian cầu phúc của người Việt xưa trong ba ngày Tết.

NGŨ PHÚC LÂM MÔN

Các cụ ta xưa vào dịp đón năm mới, thường treo trước cửa nhà một tấm giấy hồng điều, viết bốn chữ: "ngũ phúc lâm môn", với lòng ước mong năm mới được đón 5 điều phúc vào nhà. Năm điều phúc đó là: Phúc - Lộc - Thọ - Khang - Ninh.

Phúc: nghĩa là những điều may mắn, tốt lành. Phúc thường đi liền với đức: "phúc đức". Nhân dân ta cho rằng những người có đức thì sẽ có phúc, trong khi "phúc hậu" là biểu hiện về khuôn mặt và tính cách: nụ cười phúc hậu, khuôn mặt phúc hậu, ăn ở phúc hậu... Những người phúc hậu thường làm điều tốt lành cho người khác. Trong ca dao, tục ngữ, người Việt cũng thường nói đến chữ phúc: "Ở hiền gặp lành/ Những người nhân đức trời dành phúc cho".

Lộc: nghĩa là lương của các quan lại thời phong kiến, như người ta thường nói "quyền lộc cao trọng'. Lại cũng có nghĩa là của cải do Trời, Phật hay các đấng thiêng liêng ban cho, gọi là lộc trời, lộc thánh! Vì thế, nhiều kẻ mê tín, đồng bóng đã lên đền, xuống phủ để cầu xin lộc. Nhưng hễ có đức thì mới có phúc. Không chịu làm ăn, không chịu lao động, không sống nhân đức thì Trời nào dành phúc lộc cho mình!

Thọ: nghĩa là sống lâu. Đây là mong ươc ngàn đời của con người. Ngày xưa, tuổi thọ con người rất thấp. Theo các nhà dân số học, tuổi thọ trung bình của một số triều vua ở nước ta như sau: nhà Lý: 43,55 năm, nhà Trần: 44,75 năm, nhà Lê: 33,5 năm... Còn các vua nhà Nguyễn khi 40 tuổi đều đã làm lễ thương thọ rồi! Chính vì thế mà thọ càng trở thành nỗi ao ước của con người. Người ta đi tìm thuốc trường sinh bất lão để mong kéo dài tuổi thọ. Và dù có được sống đến già, người ta vẫn yêu quý chữ thọ, vẫn muốn sống lâu, trong bài thơ Đại lão, cụ Nguyễn Khuyến viết: "Năm nay tớ đã bảy mươi tư/ Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ". Thế nhưng cuối bài thơ, cụ vẫn ao ước: "Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa/ thử xem Trời mãi thế này ư?".

Chuyện cũ kể rằng: xưa có ông Bành Tổ sống đến 800 năm, mà ngày nào cũng thắp hương cầu cho sống lâu hơn! Ta cứ xem trong các đình, chùa, đền miếu, đến cái tủ chè, sập gụ, bát đĩa cổ..., chỗ nào cũng thấy khắc hoặc in chữ thọ!

Khang: nghĩa là mạnh khỏe. Người ta nói rằng người khỏe mạnh thì có trăm điều mong mong ước, còn người ốm yếu thì chỉ có một ước mong: đó là sức khỏe! Lại có câu đố: "Trên đời có thứ gì mà từ Hoàng đế đến thường dân, từ cụ già đến trẻ con ai cũng mong có?". Vàng bạc ư? Vua chúa thiếu gì vàng bạc. Chức tước ư? Trẻ con thì cần gì chức tước. Cái mà mọi người, già, trẻ, giàu, nghèo đều mong muốn có chính là sức khỏe!

Ninh: nghĩa là bình yên. Một cuộc sống bình yên, thanh thản là cần thiết cho bất cứ ai trên cõi đời này. Một gia đình mà vợ chồng bất hòa, con cái hư đốn thì lộc, thọ, khang có bao nhiêu đi chăng nữa cũng là vô nghĩa. Muốn có ninh trong gia đình thì mọi thành viên phải cùng nhau phấn đấu, giữ gìn. Trên bình diện xã hội, chữ ninh cũng do các thành viên trong xã hội đồng tâm hiệp lực kiến tạo nên.

Xin chúc cho Ngũ phúc đến với mọi người ở muôn nơi.

Nguyễn Thị Hiệp (Kiến Thức Ngày Nay)

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

DẤU CHỈ QUANH TA

Trên đời này, mọi sự vật không thể diễn tả hết bằng lời, hay chữ viết, mà chủ yếu bằng dấu chỉ, hoặc dấu hiệu. Thánh sử Gioan kết thúc PhúcÂm thứ tư của Ngài : "Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm.Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra".(Ga 21,25).

Nhất trong lĩnh vực tình cảm, tình yêu, tâm lý chiều sâu, Châm ngôn nói: "Trái tim có lý lẽ riêng của trái tim".Các bậc thánh hiền, triết gia,giáo chủ, các nhà chiêm niệm, các văn nhân, nghệ sĩ, nghệ thuật, đều là người  sống bằng dấu chỉ; những hiện tượng được biểu lộ hay ẩn hiện. Những người yêu nhau "liếc mắt đưa tình". Người ta bảo"con trai yêu bằng mắt", "con gái yêu bằng tai"... Trong đó niềm tin Kitô giáo là dấu chỉ thâm sâu, huyền nhiệm hơn cả ! Chỉ con người có khả năng ấy!

Tuy nhiên, không phải ai cũng đọc được dấu chỉ, tựa như bác sĩ, không phải bác sĩ nào cũng đọc được phim chụp X quang, ngoài ra còn bác sĩ giỏi hay dở. Như Tin Mừng Matthêu viết: "vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông  Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy, ập tới cuốn đi hết thảy "(Mt24,38-39).

Hai người tranh luận: một nhà khoa học Pháp đi ngang qua sa mạc và ông đem theo một vài người Ả-rập làm hướng dẫn viên .Hòang hôn buông xuống, những người Ả-rập trải thảm ngồi cầu nguyện. Nhà khoa học hỏi:

- Các anh làm gì thế ?

- Chúng tôi cầu nguyện.

- Với ai ?

- Với Đức Allah.

Nhà khoa học tỏ vẻ khó chịu, gay gắt hỏi như muôn khai phá văn minh:

- Đã bao giờ các anh thấy, chạm đến hay sờ được Ngài chưa?

Những người Ả-rập chân thực  thưa:                                                         

- Chưa.

Nhà khoa học thừa thế, nặng lời hơn:

- Các anh thật ngớ ngẩn.

Sáng hôm sau, khi nhà khoa học lẻn ra khỏi lều, ông nhìn quanh và  nói:

- Tối hôm qua có một con lạc đà đến đây .

Những người Ả- Rập liếc nhìn ông và dùng "gậy ông đập lưng ông:

- Ông có thấy, chạm đến hoặc sờ được nó không?

Nhà khoa học không kịp đối phó, buộc trả lời:

- Chưa.

Những người Ả-Rập  đập lại nhà khoa học:

- Ông thật là nhà khoa học ngớ ngẩn

Nhà khoa học chống đỡ:

- Nhưng các anh có thấy dấu chân nó chung quanh lều không?

- Mặt trời lên với tất cả vẻ huy hoàng của nó kìa!

Những người Ả Rập thẳng tay chỉ và trách::

- Ông thấy dấu chân của Chúa ở đó chưa?

Xã  hội ngày nay dường như người ta đánh mất, hoặc không nhìn ra, haycố tình phủ nhận những dấu chỉ hướng con người tới sự thiện đích thực. Có  số người bất chấp  luật lệ dấu đường chỉ dẫn giao thông, đã gây ra biết bao tai nạn thảm khốc cho bản than, gia đình và xã hội, diễn ra hằng ngầy trên cả nước.

Thế giới đang lao xuống bờ vực thẳm, khi  người ta không nhận ra dấu chỉ vĩ đại, cao siêu nhất Ngôi Mộ Trống của Chúa Giê-su. Điển hình  qua  tục lệ   trò chơi quà tặng  quả trứng cho nhau trong dịp lễ Phục Sinh  của nhóm học sinh:

Cô giáo trao cho mỗi em học sinh  một quả trứng lớn bằng nhựa và giải thích: Cô muốn các em mang quả trứng này về nhà. Các em hãy cho vào bên trong quả trứng ấy một vật gì đó chứng tỏ rằng có sự  sống mới đang được khai sinh. Ngày mai các em nộp cho cô quả trứng ấy.

Trái với những lần khác, lần này trong khi cô giải thích, cậu bé khuyết tật mười hai tuổi lắng nghe rất chăm chỉ. Em không còn gây tiếng động ồn ào như mọi khi nữa., liệu em có hiểu được những gì cô vừa giảng giải về cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu không? Em có hiểu được em sẽ phải làm  gì không?

Ngày hôm sau, mười tám em học sinh lớp hai của cô trở lại trường. Cười nói  rôm rả, mỗi em hãnh diện mang quả trứng đến đặt vào trong các giỏ để trên bàn của cô giáo. Cô mở từng quả trứng của các em. Trong quả trứng đầu tiên, cô thấy có một cành hoa. Hoa là biểu hiệu của sự sống mới. Quả trứng thứ hai, cô thấy có một con bướm nhựa giống như thật. Con sâu biến đổi và trở thành một con bướm sặc sỡ. Con bướm tượng trưng cho sự sống mới. Trong quả trứng thứ ba có một viên đá phủ đầy rong rêu. Rong rêu cũng là biểu hiệu cho sự sống mới. Đến quả trứng thứ tư, cô bỗng nhíu mày dừng lại, quả trứng trống rỗng. Cô tức khắc nghĩ đến cậu bé khuyết tật mười hai tuổi. Cô bỏ quả trứng qua một bên và tiếp tục mở những quả trứng khác. Thình lình, ở cuối lớp, câu bé khuyết tật bỗng lên tiếng:

- Thưa cô, sao cô không nói về quả trứng của em.

Với vẻ  tức giận, cô gắt gỏng:

- Nhưng quả trứng của em trống rỗng.

Cậu bé nhìn thẳng vào mắt của cô giao, rồi lễ phép thưa:

- Phải thưa cô. Nhưng ngôi mộ của Chúa Giêsu cũng trống rỗng.

Thời gian như ngừng trôi, làm chủ được cảm xúc, cô giáo liền hỏi em:

- Em có biết tại sao ngôi mộ trống không?

Em lanh lẹ đáp xác tín:

- Thưa cô, em biết a! Chúa Giêsu đã chết và được mai táng trong mồ rồi Chúa Cha cho Ngài sống lại.

Chuông báo hiệu giờ ra chơi. Trong khi các em tủa ra sân chơi,   cô giáo ngồi lại trong lớp và khóc, một nỗi cảm thông sâu sắc dâng trào trong tâm hồn cô.

Ba tháng sau, cậu bé khuyết tật qua đời. Tất cả những ai đến viếng xác đều ngạc nhiên khi thấy có  mười chin quả trứng được đặt trên quan tài của em. Tất cả mười chin quả trứng đều trống rỗng.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con  nhận  ra biết bao dấu chỉ Chúa khắc ghi trong đời chúng con!

                                                                                           Lm Sơn Đoài   

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Không cần xưng tội vì Chúa đã tha hết?

Hỏi:  Một linh mục kia từ nước ngoài về thăm Việt Nam. Khi đến dâng Thánh lễ ở tư gia đã mời mọi người tham dự Lễ rước Minh Thánh Chúa. Thấy có những người không muốn rước Chúa, linh mục hỏi tại sao, có người trả lời "con chưa sẵn sàng" vì chưa xưng tội. Linh mục nói: Chúa Giêsu đã chuộc tội và tha tội cho chúng ta rồi nên không cần phải xưng tội gì cả, Tôi đã nghiên cứu kỹ việc này rồi, cứ an tâm rước Chúa !!! Xin cha cho biết ý kiến về vấn đề trên đây.

Trả lời: Tôi thực ngạc nhiên về câu hỏi được đặt ra. Nêu đúng như vậy, thì không biết linh mục đó học thần học và bí tích ở đâu mà dạy sai trái như vậy.Chúa Giêsu chết để đền tội thay cho loài người: đúng. Nhưng nếu nói Chúa đã tha hết tội cho ta, nên ta không còn tội lỗi nào nữa để phải đi xưng tội thì sai hoàn toàn.

I. Công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô có giúp con người khỏi phạm tội nữa hay không ?     

Phải trả lời ngay là không có giáo lý, tín lý nào của Giáo Hội từ xưa đến nay dạy rằng Chúa Kitô đã chết để đền tội thay cho cả nhân loại rồi, nên con người không còn có tội nữa, và do đó, không cần phải xưng tội. Cũng không có giáo lý nào dạy ai tham dự Thánh Lễ thì cứ an tâm rước Mình Thánh Chúa bất kể tình trạng tâm hồn mình ra sao..

Ngược lại, tội là một thực trạng, một thực tế không ai có thể phủ nhân được nơi mỗi người chúng ta cũng như trong trần thế này dựa trên chính lời Chúa trong thư Gioan sau đây:
"Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội. Chúng ta tự lừa dối mình. Và sự thật không ở trong chúng ta". ( 1 Ga 1: 8),

Qua phép Rửa, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi, tội Nguyên Tổ cũng như cá nhân. Nhưng rửa tội rồi, con người vẫn còn đầy yếu đuối vì bản chất đã bị băng hoại do hậu quả của tội Nguyên Tổ (Original sin) nên dễ sa ngã do gương xấu đầy rẫy trong trần gian cộng thêm sự cám dỗ mãnh liệt của ma quỉ, ví như " sư tử gầm thết rảo quanh tìm mồi cắn xé." ( 1 Pr 5:8)
Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô đã thú nhận sự yếu đuối của mình trước nguy cơ của tội lỗi như sau: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi." (Rm 719-20)

Như thế, cho thấy rõ là dù Chúa Kitô đã chết để đền tội thay cho con người, và dù phép Rửa đã một lần tẩy sạch mọi tội nơi bản thân mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không được biến đổi đến mức không bao giờ còn phạm tội nữa.Trái lại, là con người, chúng ta vẫn yếu đuối và dễ sa phạm tội ( Sách Giáo lý số 1264) không phải vì ơn tha thứ của Chúa không có hiệu quả lâu dài, mà vì con người còn có ý muốn tự do (Free will) để hoặc quyết tâm chọn Chúa, sống theo đường lối của Người, hay từ khước Chúa để sống theo ý riêng của mình. Sống theo ước muốn riêng có nghĩa không cần tuân giữ lề luật nào của Chúa nữa để tự do làm những sự dữ như phá thai, giết người, gian dâm, trộm cướp, gian manh, bất công, lừa đảo, thay vợ đổi chồng, tự do ly dị. v.v...

Nếu đã chọn sống theo ý muốn của mình, không cần Chúa nữa, thì sẽ không phân biệt được lằn ranh giữa sự thiện và sự dữ nên sẽ lún xâu vào con đường hư mất đời đời, nghĩa là không được ơn cứu độ để vào Nước Trời như Chúa Giêsu đã nói rõ sau đây: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, mà chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi." (Mt 7:21) Thưa với Thầy: Lậy Chúa, Lậy Chúa, có nghĩa miệng nói tôi là người Công Giáo, tôi tin có Chúa nhưng đời sống của tôi lại trái ngược với niềm tin cũng như danh xưng là người Kitô hữu.      

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là phải xa lánh mọi tội lỗi để yêu mến Chúa trên hết mọi sự, vì tội là cản trở duy nhất ngăn cách con người với Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành. Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Nhưng ơn tha thứ đó không loại trừ mọi nguy cơ tội lỗi cho chúng ta bao lâu ta còn còn sống trên trần thế và trong bản chất yếu đuối này. Nghĩa là, dù Chúa Kitô đã chết để đền tội thay cho nhân loại, nhưng Chúa không tiêu diệt hết mọi giống tội và sự dữ (evils) trên trần gian này để cho con người được luôn sống trong ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngược lại, chính vì tội vẫn còn là một thực tế trong trần gian cũng như là nguy cơ trong bản thân mỗi người chúng ta, nên ta mới phải hết sức cố gắng với ơn Chúa nâng đỡ để xa tránh hay từ bỏ mọi tội lỗi để cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa Kitô hầu được vui hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban. Nói khác đi, thật là điều sai lầm lớn lao nếu nghĩ rằng Chúa Kitô đã cứu chuộc ta qua khổ hình thập giá, nên ta không còn tội lỗi gì nữa và đương nhiên được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa.

Sự thật trái lại, như đã nói ở trên, là nguy cơ của tội lỗi vẫn còn là một thực tế luôn đe dọa chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng. Và nếu ta không cố gắng chiến đấu để xa lánh tội lỗi, thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô sẽ trở nên vô ích vì Chúa cần sự cộng tác hay thiện chí của con người vào ơn cứu độ.

Chính vì biết con người sẽ sa đi ngã lại trong nguy cơ của tội lỗi sau khi được rửa sạch mọi tội một lần qua phép Rửa, nên Chúa Giêsu đã ban bí tích hòa giải để giúp con người lấy lại tình thân với Thiên Chúa sau khi đã sa ngã vì yếu đuối của bản tính. Chúa đã ban quyền tha tội cho các Tông Đồ khi Người nói:"Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ." ( Ga 20:23)

Đây là nền tảng của bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) mà Giáo Hội đã cử hành từ xưa đến nay để giúp chúng ta lấy lại ơn Chúa và tình thân với Người mỗi khi lỡ sa phạm tội vì đuối con người. Nếu con người không còn tội lỗi gì nữa vì  "Chúa đã chuộc tội và tha thứ hết" như linh mục nào đó đã nói với giáo dân thì Chúa Giêsu lập bí tích hòa giải để làm gì và cho ai ??? Và tại sao Giáo Hội vẫn cử hành bí tích hòa giải và dạy tín hữu phải năng đi xưng tội để tẩy xóa mọi tội lỗi đã phạm hầu luôn sống trong thân tình với Chúa?           

Thử hỏi bản thân ông linh mục kia có dám nói là mình không có tội gì phải xưng nữa không? Và như vậy, mỗi khi dâng Thánh lễ, ông có còn mời gọi người tham dự cùng làm nghi thức sám hối (penitential rite) xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi trước khi cử hành Thánh Lễ?        

Nếu không có tội thì cần gì phải sám hối nữa phải không ?

Nhưng làm gì có chuyện quái đản, sai giáo lý cách trầm trọng này. Tôi hoàn toàn không hiểu ông linh mục kia "học và nghiên cứu" ở đâu, Thần học và giáo lý của Giáo Hội Công Giáo hay "thần học giải phóng" nào mà dám "phăng" ra giáo lý riêng của mình để dạy sai lầm cho giáo dân về ơn tha thứ của Chúa và thực trạng tội lỗi của con người, cũng như điều kiện phải có để rước Minh Thánh Chúa trong Thánh lễ.

Xin nhắc lại là ơn tha thứ của Thiên Chúa qua công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua phép rửa không thể được ví như một mũi thuốc khỏe trích vào cơ thể con người và làm tan biến ngay mọi mệt mỏi khó chịu trong cơ thể. Thuốc có công hiệu nhưng chỉ công hiệu một thời gian chứ không vĩnh viễn chữa lành cho cơ thể. Cũng vậy, Chúa tha thứ một lần, chúng ta được sạch tội. Nhưng vì yếu đuối, vì gương xấu và vì ma quỉ cám dỗ, nên chúng ta có thể phạm tội trở lại và làm mất ơn tha thứ của Chúa nhiều lần trong đời.

Đây là kinh nghiệm bản thân của mỗi người chúng ta trong đời sống thiêng liêng. Muốn tránh phạm tội, chúng ta phải cố gắng hết sức về phần mình và nhất là nương nhờ ơn Chúa giúp sức thì mới có thể đứng vững trong ơn phúc và thăng tiến trong tình yêu của Chúa, cũng như hy vọng được cứu rỗi. Nếu không cố gắng về phần mình để cộng tác với ơn Chúa, thì Chúa không thể cứu ai được, vì con người còn có tự do để lựa chọn sống theo Chúa hay theo "văn hóa sự chết" để chối bỏ Thiên Chúa và sự sống đời đời.
II. Điều kiện để rước Mình Thánh Chúa theo giáo lý, giáo luật của Giáo Hội.

Để xứng đáng rước Mình Máu Thánh Chúa trong Thánh Lể, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói rõ như sau: "Ai muốn rước lấy Chúa Kitô trong hiệp lễ Thánh Thể ( holy communion), phải ở trong tình trạng có ân sủng.Nếu ai biết mình đã phạm tội trọng, thì không được bước lên bàn tiệc Thánh Thể, nếu không nhận được ơn tha tội trước đó nơi bí tích Sám hối (xưng tội)" (x SGLGHCG số 1415)        

Giáo luật số 916 cũng qui định: "Ai ý thức mình phạm tội nặng và chưa xưng tội trước, thì không được làm lễ và không được rước lễ".  Như vậy mời mọi người lên rước Minh Thánh Chúa không cần quan tâm đên tình trạng ân sủng của mình, tức tình trạng hiện thời của tâm hồn, là hoàn toàn đi ngược lại với giáo lý và giáo luật của Giáo Hội về điều kiện phải có cho được xứng đáng rước Chúa vào lòng mỗi khi tham dự Thánh Lễ.

Không linh mục nào được phép "sáng chế" ra giáo lý và phụng vụ bí tích của riêng mình khi thi hành sứ vụ được nhận lãnh qua bí tích Truyền Chức Thánh và năng quyền ( faculty) cho phép làm mục vụ từ Giám mục của mình.

Giáo dân cũng có bổn phận phải trình cho Giám Mục khi biết linh mục nào thuộc quyền coi sóc của ngài đã dạy dỗ sai lầm về thần học, giáo lý và bí tích của Giáo Hội.
Ước mong giải đáp trên đây thỏa mãn câu hỏi được nêu ra.

                                                             LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

GÓC THƠ

HUỆ TRẮNG

Giuse gương sáng bậc làm cha,

Huệ trắng thơm hương khắp mọi nhà.

Nghèo khó thanh bần, nơi cõi thế,

Trinh trong khiết tịnh, chốn phong ba.

Dưỡng nuôi Con Thảo, tròn Thiên ý,

Chăm sóc Bạn Hiền, đẹp Thánh gia.

Luôn giữ tinh tuyền, con nguyện hứa

Dâng về Cha Thánh, khúc hoan ca.

Dzuy Sơn Tuyền

1185    24-04-2012 20:41:55