Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Quan Tâm Giáo Dục Thiếu Nhi Về Nhân Bản - Tháng 05 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN

Tòa Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2
Vĩnh Long

 

         Vĩnh Long, 13.4.2011

V/v  Giáo Dục Nhân Bản Cho Thiếu Nhi

 

"Tôi muốn nói lên niềm vui mà các trẻ em mang đến cho mỗi người chúng ta. Chúng là mùa xuân của cuộc đời,là lời báo trước về trang sử sắp đến của mỗi miền quê hương trần thế " (Gioan Phaolô II, Diễn từ trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, ngày 2.10.1979).

 

1.  Gia đình không có trẻ em, Nhà Thờ vắng bóng thiếu nhi, thì không có mùa xuân. Thời nay, nhờ chăm sóc y tế, số trẻ em chết sớm đã giảm đi rất nhiều (nếu không xét đến những trẻ em không được chào đời). Thế nhưng không còn nhiều gia đình đông con như thời trước.

 

Xem ra phần lớn  các gia đình khá giả rất quan tâm chăm sóc con cái, từ thức ăn đến y phục, nhiều phụ huynh đưa con đến trường và cũng chịu khó đón con  về sau buổi học. Thời đại của điện tử kỹ thuật số, các em sớm tiếp cận những phát minh khoa học, sử dụng vi tính, internet, trò chơi điện tử, biết bấm điện thoại di động, có khi còn nhanh và khéo hơn người lớn.  Các em được cha mẹ cung cấp mọi thứ. Do đó, bởi được chiều chuộng, cung phụng, từ từ các em quen thói đòi hỏi .

2.  Còn về cung cách làm người đối với đồng loại,  có mấy ai  nghĩ tới ?

 

Đạo làm người phải có lễ nghĩa. Con người ai lại không có gia đình, không có họ hàng. Ngoài phạm vi  nhỏ hẹp của gia đình với cha mẹ, anh chị em, còn có liên hệ với ông bà nội ngoại, cô bác, cậu dì, có tình làng nghĩa xóm . Trẻ em cần được chỉ bảo, để biết cư xử như thế nào cho phải phép đối với kẻ trên người dưới.

 

Làm cha mẹ phải biết sửa dạy con cái. Không nên đánh đập la mắng làm cho con cái nhát sợ, nhưng phải cương quyết và khéo léo bài trừ thói xấu khi thấy nó xuất hiện. Tiên vàng, gương sáng và lời lành của cha mẹ sẽ làm cho con cái tin tưởng và nghe theo.

 

Người Công Giáo chúng ta có gương của Thánh Gia, của Chúa Giêsu. Đức Maria đã theo lời sứ thần Gabriel mà đón nhận Con Chúa nhập thể (Luca 1,38). Thánh Giuse vâng theo ý Chúa rước Maria về nhà mình (Mt 1,24). Còn Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà và ngày càng thêm khôn ngoan, thêm vóc dạng và thêm ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt  người ta (Luca 2,51-52).  

 

3.  Chúa Giêsu có một nghệ thuật sống, Người là Thầy dạy tuyệt vời  (Mt 23,8; Gioan 13,8).  Chính Chúa Cha bảo chúng ta phải nghe lời Người  (Mt 17,5). Và cũng  có lời Chúa Giêsu  mời gọi: "Hãy đến với Ta...Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng"  (Mt 11,29). Cách đặc biệt, Người  quan tâm đến trẻ em: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người như  thế "  (Luca 18,16).

 

Do đó , không được ngăn cấm mà phải lo liệu cho thiếu nhi được học biết và yêu mến Chúa Giêsu, siêng năng đi Lễ và trở nên bạn của Chúa Giêsu Thánh Thể. Các em cần tham gia ban Giúp Lễ, ban Hát, Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể.

 

Đàng khác, nhờ việc xét mình hàng ngày và thường xuyên lãnh nhận Bí Tích  Giải tội, thiếu nhi Công Giáo sẽ sống khiêm nhường, ngay thật, hy sinh, vâng lời cha mẹ, tôn trọng người khác, sẽ trở thành người bạn tốt đối với các bạn .

 

Bí Tích Thêm Sức sẽ cho thiếu nhi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, là Aân ban của Chúa Phục Sinh, để sống làm con thảo của Chúa Cha, làm tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu .

 

Mong các gia đình quí trọng con cái, là ân huệ Chúa ban , và ý thức trách nhiệm gìn giữ, chăm sóc và giáo dục con cái nên người , thành mùa xuân của gia đình. Phải có sự cộng tác của gia đình với các Linh mục, các Tu Sĩ để đào tạo thiếu nhi . Làm thế nào để Hội Thánh có được Mùa Xuân tươi thắm  với  thật nhiều tín hữu nhiệt thành,  nhiều gia đình hạnh phúc, với nhiều Ơn Gọi Đời sống Thánh Hiến, nhiều Ơn Gọi Linh mục .

 

+ Tôma Nguyễn Văn Tân

    Giám mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

Tháng 05/2011
CHỦ ĐỀ: QUAN TÂM GIÁO DỤC THIẾU NHI VỀ NHÂN BẢN

Gia đình và giáo xứ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các đức tính nhân bản cho thiếu nhi, để sau này trở nên những con người hữu ích cho xã hội và Hội Thánh (Sứ Điệp Của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Có một câu chuyện mà hầu như người  nào trong chúng ta cũng biết về việc dạy con cái phải hiếu thảo thế nào. Có hai vợ chồng kia làm ăn khá giả, nhưng lại hà tiện keo kiệt. Trong gia đình có một người cha già trên 80 tuổi, sức yếu, mắt mờ, chân tay run rẩy, cho nên lúc ngồi ăn thường đánh rơi chén cơm.

Người con dâu thấy thế cứ xúi chồng là rầy người cha già. Ông cụ tuy mắt mờ, nhưng tai thính, nên nhiều lúc ngồi ăn mà nước mắt chan hoà. Chén thì cứ vỡ hoài.  Người vợ bảo chồng gọt cho cha một cái chén bằng gáo dừa cho đỡ tốn kém. Từ đó chén không còn vỡ nữa.

Thế nhưng, một ngày kia vợ chồng đi xa về, thấy đứa con đang loay hoay đục đẽo. Đến gần, hai người mới nhận ra một chén bằng gáo dừa  sắp làm xong. Được hỏi lý do, đứa con trai ngây thơ trả lời:

"Con làm cái chén này để về sau ba má có chén mà dùng, cũng như ba má đang cho ông nội ăn trong cái chén bằng gáo dừa".

Gia đình là trường dạy các đức tính nhân bản Kitô giáo. Lối giáo dục hữu hiệu nhất là qua nhân cách sống của chính cha mẹ. Có thể nói, cha mẹ sống thế nào thì con cái sống thế ấy. Vì thế các bậc cha mẹ cần quan tâm giáo dục đạo đức cho con cái mình, để khỏi phải hối tiếc, vì đã quá chú trọng lo cho chúng đến những vấn đề khác như cơm ăn, áo mặc, học hành, tiền bạc, mà quên rằng con người cần sống đúng theo "hình ảnh của Thiên Chúa", sống đạo đức. 

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về Chủ đề Giáo Dục Nhân Bản cho Thiếu Nhi:

1. Mục vụ đơn giản dạy gia đình và giáo xứ chăm lo giáo dục nhân bản cho tuổi trẻ để chúng lớn lên lợi ích cho xã hội và Hội thánh.

2. Có thể diễn tả về giáo dục nhân bản.

3. Có thể nêu vài lợi ích của việc giáo dục nhân bản về mặt xã hội và Hội thánh.

 

Là người, chúng ta đều được sinh ra trong một gia đình và ai trong chúng ta cũng đều mong muốn cho gia đình mình trở thành mái ấm đầy ắp yêu thương, hạnh phúc và thành đạt...

Thế nhưng thực tế cho thấy, gia đình  nào cũng có những khó khăn, chưa nói đến rất nhiều gia đình đỗ vỡ, con cái hư hỏng... khiến chúng ta cảm thấy dường như "lực bất tòng tâm" trong việc cố gắng kiến tạo một gia đình tốt đẹp  như mong ước, nơi mà  mỗi thành viên đều sống gắn bó với nhau, nơi mà ai "dù có đi đâu cũng muốn trở về nhà".

Có một gia đình đã thực sự trở thành mẫu mực cho tất cả mọi gia đình trong bổn phận và tình yêu đối với Thiên Chúa và mọi người, đó là Thánh gia Nazarét. Thực vậy, Thánh Luca đã viết về Chúa Giêsu: "Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta" (Lc 2,52). Chính từ Thánh Giuse và Mẹ Maria mà Đức Giêsu học biết sống tình gia đình, sống với người chung quanh, sống đời cầu nguyện, giữ truyền thống tôn giáo và lề luật của dân tộc mình. Nhờ đó, Đức Giêsu ngày một trưởng thành về nhân bản dưới sự dẫn dắt tận tình của cha mẹ trần thế, để chu?n bị cho bước đường thực thi sứ mạng cứu độ của Người. Đồng thời, Thánh gia có được như thế cũng vì có Chúa Giêsu ở trong gia đình thánh nầy.

Phát triền gia đình cách toàn diện cũng chính là mối quan tâm hàng đầu của Hội Thánh, khi trong Hội Nghị Mexicô lần thứ VI, năm 2009 Về Gia Đình đã bàn về chủ đề: "Gia đình là Trường giáo dục về các nhân đức nhân bản Kitô giáo". "Gia đình được mời gọi sống và vun trồng tình yêu thương nhau và sống chân thật, biết tôn trọng và sống công chính, biết trung thành và hợp tác, biết phục vụ và sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, nhất là người cô thế. Gia đình Kitô giáo... phải thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa, đặt các sự kiện hằng ngày vào tay Chúa và kêu cầu Ngài giúp làm trọn sứ mạng quan trọng của mình" (Sứ điệp của ĐGH Bênêđitô XVI cho Hội Nghị Về Gia Đình tại Mexicô, lần thứ 6, năm 2009).

 

Để thực hiện được mục đích tối hậu nầy cần phải đặt việc cầu nguyện vào vị trí quan trọng nhất của đời sống gia đình. Vì chính Chúa Giêsu đã nói: "ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ" (Mt 18,20). Chính cha mẹ -  những người chủ gia đình - phải biết lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, biết rút ra từ ý Chúa những chỉ dẫn quan trọng cho đời sống của mình (x. Lc 10,41-42), và đem ra thực hành những điều Chúa truyền dạy (x. Lc 11,28). Bằng cách nầy "đời sống cá nhân và gia đình dần dần được biến chuyển và cải thiện, việc đối thoại trở nên dễ dàng hơn, đức tin được truyền đạt cho con cái, niềm vui sống chung được tăng lên và gia đình càng thên vững chắc và hiệp nhất, giống như ngôi  nhà được xây dựng trên đá" (Sứ điệp của ĐGH Bênêđitô XVI cho Hội Nghị Về Gia Đình tại Mexicô, lần thứ 6, năm 2009).

 

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh rằng sức mạnh từ lời cầu nguyện sẽ biến đổi gia đình thành cộng đoàn môn đệ và là những nhà truyền giáo của Chúa Kitô: "Gia đình Kitô hữu khi sống niềm tín thác và vâng phục như con cái Thiên Chúa, khi sống trung tín với nhau và biết đón nhận con cái, khi quan tâm chăm sóc đến những người yếu thế và biết thứ tha, sẽ trở thành Tin Mừng sống động mà mọi người có thể đọc ra được" (Sứ điệp của ĐGH Bênêđitô XVI cho Hội Nghị Về Gia Đình tại Mexicô, lần thứ 6, năm 2009).

 

Đời sống cầu nguyện trong gia đình giúp đức tin ngày càng sống động hơn, tác động trên lối sống và cách giáo dục con cái của mỗi gia đình.  Qua đó gia đình biết sống với nhau:

 

- Dạy con cái biết cầu nguyện: Khi trẻ vừa ê a tập kêo cha, kêu mẹ, kêu ông, kêu bà... thì cũng chính là lúc cha mẹ dạy con cái cầu nguyện bằng những lời đơn sơ tự phát, bằng những  lời kinh phát triển theo độ tuổi, bằng kinh tối sáng, khi ăn ăn cơm, khi gặp chuyện vui buồn trong đời sống, tích cực học Giáo lý và tham dự Thánh Lễ... Sống trong một bầu khí cầu nguyện như thế, trẻ sẽ dần được định hình một lối sống đồng hành với Thiên Chúa mà chúng  được dạy biết phải tôn thờ và yêu mến.

 

- Yêu thương chung thủy: Điều quý nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái mình là một sự bảo đảm chắc chắn rằng cha mẹ trung thành yêu nhau. Gương mẫu ấy như nhắn nhũ với con cái  rằng "mặc dù ba mẹ không phải là hoàn hảo, thỉnh thoảng cũng có cãi lẫy, giận hờn với nhau, nhưng ba mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh nhau và bên cạnh các con". Đó là điểm tựa vững vàng nhất cho tâm hồn trẻ thơ dễ bị thương tổn.

- Đặt gia đình lên hàng ưu tiên. Đây phải là lựa chọn ưu tiên số một của các bậc cha mẹ. Gia đình phải là quan trọng nhất, hơn cả công danh, sự nghịêp, tiền của, ...  Những gia đình mà cha mẹ con cái gần gũi biết yêu thương nhau là do cả gia đình lựa chọn gia đình là ưu tiên số một trong đời sống của họ. Và đây là quyết định đúng đắn nhất trong cuộc đời của mỗi gia đình.

- Dành thời giờ cho con cái. Đối với con cái, không có gì có thể thay thế chổ đứng của cha mẹ trong đời sống của chúng. Do đó, cha mẹ nên dành thời giờ cho con cái mình. Trẻ con yêu mến và ấp ủ những giây phút được gần gũi một mình với cha mẹ. Những giây phút êm đềm bên cha mẹ sẽ trở thành những kỷ niệm hạnh phúc trong cuộc đời chúng khi hồi tưởng lại được cha mẹ chú ý và dành cho chúng nó những thì giờ trọn vẹn.

- Biết quên lỗi lầm và tha thứ nhau. Sự tha thứ có năng lực chữa lành, sưởi ấm lại tấm lòng đã nguội lạnh. Trong gia đình, sự tha thứ giống như một chất tẩy rửa những vết nhơ, thanh lọc và tống khứ ra khỏi gia đình những nóng giận, cay đắng, hận thù. Do vậy, rất quan trọng cho các bậc cha mẹ hướng dẫn gia đình mình biết mở rộng lòng tha thứ cho nhau.

- Sử dụng lời lẽ một cách khôn ngoan. Lời khuyên của vua Sa-lô-môn: "Lời nói bừa bãi khác nào mũi gươm đâm, miệng lưỡi khôn ngoan lại chữa trị cho lành" (Châm Ngôn 12,18). Hãy cố gắng nói những lời khích lệ và xây dựng nhau, đừng tấn công hay xỉ vả con cái mình. Cách chúng ta nói với nhau trong gia đình hoặc là kéo mọi người gần lại với nhau hoặc là đẩy mọi người ra xa nhau.

Cuối cùng, hãy đặt Chúa Giệsu vào trung tâm của gia đình để nhờ ơn Chúa giúp học theo gương Chúa, gia đình ngày một yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến. Thật vậy, với ơn Chúa,  khi ra sức vun đắp sự gắn bó yêu thương trong gia đình, là chúng ta đang biến gia đình mình trở thành mái ấm,  nơi mà mọi thành viên trong gia đình cảm nghiệm được tình yêu thương và sự nâng đỡ lẫn nhau, cũng như che chở nhau qua những giông tố của cuộc đời, như triết gia Goethe đã cảm nghiệm: "Người hạnh phúc nhất, dầu là vua hay thường dân, là người tìm thấy được sự bình an trong mái ấm gia đình của người đó".

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc giáo dục nhân bản thiếu nhi như thế nào:

  1. Có nhớ mình có nhiệm vụ đào luyện nhân bản cho thiếu nhi không?
  2. Bỏ nhiệm vụ là sống không theo ý Chúa, ít nhiều cũng có tội.
  3. Không giáo dục thì hại cho tuổi trẻ mà cũng hại cho xã hội, hại cho Hội thánh.

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

 

Kêu mời:  Anh chị em thân mến,

Trong một cộng đoàn, một gia đình, một xã hội có nhiều người, Chúa Giêsu thường quan tâm đến người nhỏ bé, nghèo khổ. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện cho mọi người biết quan tâm giáo dục thiếu nhi về nhân bản:

1. Chúa phán: "Các con hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, biết hướng dẫn các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, để các em được Chúa đặt tay ban phước lành cho.

2. Chúa phán: "Các con đừng làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này phải vấp phạm". Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu luôn để tâm giáo dục các trẻ nhỏ nên người hữu ích cho xã hội và giáo hội.

3. Chúa phán: "Nếu ai cho một trẻ nhỏ, dù một ly nước lã thôi, thì người đó không mất phần thưởng đâu". Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu, biết quan tâm truyền đạt những giá trị nhân bản cho các thế hệ trẻ nhỏ.

4. Chúa phán: "Khi các con làm những điều ấy cho các anh em bé nhỏ của Ta đây, là các con làm cho chính Ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết quan tâm giáo dục nhân bản cho thành phần nhỏ bé trong gia đình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được cứu rỗi, không trừ ai, kể cả các trẻ nhỏ. Chúng con nài xin Chúa thương ban Thánh Thần giúp chúng con quan tâm giáo dục nhân bản, nhân phẩm cho các thế hệ trẻ; hầu cho mọi người hưởng phước thiên đàng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

KHỔ LUYỆN

 

Ông bà ta có câu: "học ăn  học nói, học gói, học mở" để cho thấy tầm quan trọng của việc giáo dục con người ngay từ tấm bé. Giống như xây một căn nhà việc đặt nền móng sẽ ảnh hưởng rất quan trọng đến sự vững chắc của ngôi nhà, cũng vậy việc xây dựng "căn nhà" con người cũng cần phải được đặt vững chắc chính bằng việc giáo dục.

 

Giáo dục là giáo dục ai và giáo dục cái gì? Sinh ra làm con người ai cũng mang trong mình bản tính thiện (nhân chi sơ, tính bản thiện). Theo JM LamThy Đinh Văn Diệm thì nhân bản là cái gốc của con người khi mới hình thành (trong bụng mẹ) đến lúc chào đời. Con người, khi ấy mới chỉ là một sinh vật có bản năng, chưa có ý thức, tri thức, dục vọng; nói khác hơn, con người lúc ấy hoàn toàn tốt lành, không bị lôi cuốn hay vướng mắc một sự gì của hệ luỵ trần gian. Mặt khác, con người mang tính xã hội nên con người không mãi mãi như vậy, bởi con người là một sinh vật có lý trí, có tăng trưởng. Con người theo thời gian tăng trưởng sẽ ảnh hưởng bởi môi trường, môi sinh... nên cái gốc "thiện" ấy sẽ dần biến đổi, có thể ngày càng tốt hơn nếu được giáo dục tốt hay ngày càng tệ hại hơn nếu bị ảnh hưởng xấu của xã hội lôi cuốn.

 

Nếu đi sâu hơn nữa, con người xuất phát từ cội nguồn thần linh, từ Thiên Chúa nên đã sẵn có tính thiện hảo vì thế cần phải được nuôi dưỡng và phát triển tính thiện hảo ấy ngày một hơn nên giống Đấng Tạo Dựng mình (xem Giáo dục nhân bản của JM LamThy Đinh Văn Diệm)

 

Theo từ điển Wikipedia Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội. Như vậy giáo dục là một quá trình đòi hỏi phải có sự phấn đấu khổ luyện. Một cây bonsai đẹp là cây được cắt tỉa, vung xới và chăm sóc cẩn thận. Cũng vậy giáo dục con người đặc biệt trong khía cạnh nhân bản cũng đòi hỏi sự kiên trì và khổ luyện.

 

Nhìn vào cách giáo dục ngày nay nơi gia đình cũng như ngoài xã hội khiến những ai quan tâm đến việc giáo dục phải nao lòng. Những bậc cha mẹ vì ít con, muốn cho con được những gì tốt đẹp nhất trong một xã hội thế tục nên nuông chiều con vô tội vạ, muốn gì được nấy mà không lưu tâm đến việc hướng dẫn hành vi các em, hay không bao giờ hướng dẫn các em tình yêu gia đình, dân tộc, tổ quốc và hơn hết là thờ phượng Thiên Chúa mà chỉ mong sao cho các em biết thật nhiều, thật xuất sắc, thật giỏi bằng bất cứ giá nào, kể cả bằng những hành động gian lận.

 

Bên ngoài xã hội cũng thế, nhìn những chiếc cặp đi học của các em học sinh tiểu học ngày nay mà thương quá, phải thêm bánh xe vào để kéo bằng không các em không thể mang nổi suốt cả năm học. Người ta chất cho đầy những kiến thức đông tây mà quên xây vào lòng các em lòng nhân nghĩa, sự quảng đại yêu thương. Người ta muốn cho con trẻ sau này biết đông tây kim cổ nhưng quên cho các em "trở thành người".

 

Nhìn lại thực trạng đáng buồn đang xảy ra trong xã hội để mỗi người chúng ta ý thức hơn việc giáo dục con cái. Giáo dục là khổ luyện, là phải đau, là phải hy sinh. Nhưng hy sinh ấy là sự hy sinh cần thiết để phát triển những đức tính nhân bản mà Thiên Chúa phú bẩm nơi mỗi người.

 

Ai cũng thương con, ai cũng mong con em mình sẽ trở thành những người hữu ích cho xã hội và giáo hội. Nhưng yêu thương thế nào để các em mỗi ngày mỗi trở thành người hơn, phát huy được những căn cội nơi con người và cội nguồn thần linh được Đấng Tạo Hoá phú bẩm. Cần lắm những bậc làm cha mẹ biết giáo dục con cái và cộng tác với nhà trường, xã hội, giáo hội để giáo dục những con người cho giáo hội và xã hội ngày mai.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 5: PHÚC ÂM THEO THÁNH MÁC-CÔ  (tt)

6/ Thánh Mác-cô viết Phúc âm nhằm mục đích gì?

Mc viết Phúc âm nhằm để chứng minh Đức Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng (Rom 1, 4).

7/ Tại sao lại tặng cho Thánh Mác-cô  biểu tượng con sư tử?

Bởi vì Phúc âm của ngài viết về "Một con người dũng mạnh của Thiên Chúa".

8/ Thánh Mc đã trình bày Chúa Giêsu dưới những tước hiệu nào?

Ngài trình bày Chúa Giêsu dưới bốn tước hiệu:

                        - Con Thiên Chúa (Mc 1, 11; 13, 32; 15, 39)

                        - Con Người (Mc 10, 45; 14, 62)

                        - Đức Kitô (Mc 8, 27-30)

                        - Đầy tớ đau khổ (Mc 8, 31; 10, 45).

9/ Tước hiệu Đức Kitô có ý nghĩa gì?

"Kitô" có nghĩa là "Đấng được xức dầu",  tương đương với danh từ "Messia" "Đấng Thiên Sai" trong Cựu ước.

10/ Lễ Thánh Mc được mừng kính ngày nào trong năm phụng vụ?

Thánh Mác-cô được mừng kính vào ngày 25/4 dưới tước hiệu Tông đồ Thánh sử.

Lời Chúa: "Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu phép rửa thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội"  (Mc 16, 15-16).

Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho con nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương và  quyền năng Chúa ngay trong mọi biến cố vui buồn lớn nhỏ trong cuộc đời chúng con. Amen

SỐNG ĐẠO

CẦU NGUYỆN

Các tông đồ van xin Chúa: lạy Chúa xin dạy chúng con cầu nguyện. Các ngài chắc đã cầu nguyện, cầu nguyện nhiều lần trong ngày, cũng như chúng ta từ sớm đến tối, đọc kinh nhiều lần mà chúng ta có hiểu đọc kinh là gì, đọc kinh thế nào là tốt là đúng???

 

Cùng với các tông đồ chúng ta van xin: lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện.

 

Đúng ra đọc kinh chúng ta phải hiểu là việc liên kết với Chúa, gặp Chúa, tiếp xúc với Chúa, ca tụng cầu xin, hầu chuyện tâm sự và kết hợp với Chúa.

 

Chúa đã dạy các tông đồ kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha đâu phải chỉ là một câu thiệu mà là một bài học tiếp xúc, ca tụng, cầu xin, hầu chuyện, tâm sự, liên kết.

 

Không phải là câu thiệu... nhưng trong thực tế, chúng ta đọc kinh, như đọc thiệu (ví dục nh? đường thiệu hay thảo:  ngọc trân ngân đài, tã hữu  tiến khai thập tự. Đọc thì đọc mà không hiểu chi cả, tệ hơn con két học nói. Chúng ta đọc kinh thường không nhớ chi cả, đọc như máy.

Kinh. Thường là để ca tụng. Phật giáo dùng danh từ đúng hơn: tụng niệm. Chúng ta đọc kinh theo lệ và ý thức như khi lần chuỗi chẳng hạn, một kinh lập lại nhiều lần thì dễ quên ý nghĩa của kinh.

Cũng không có nguyện "cầu": Kinh lạy Cha là một lối nguyện cầu.

Hầu chuyện với Chúa: Tiếp xúc với Thiên Chúa cao sang quý trọng thì dĩ nhiên phải hầu chuyện với Chúa và van nài: Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Tiến sâu hơn là tâm sự với Chúa: nói tâm sự mình giống tâm sự Chúa.

Sau cùng được kết hợp với Chúa: vì nhờ Chúa, giữ được tâm hồn trong sạch, không tội lỗi, không sự dữ, đạt được Chúa trong sạch tinh tuyền.

 

Thật ra chúng ta đọc kinh mà chưa biết đọc kinh. Xin Chúa cho chúng ta biết tiếp xúc với Chúa, ca tụng cầu xin Chúa, hầu chuyện tâm sự với Chúa để được kết hợp với Chúa.

 

TÔN SÙNG MẸ MARIA

 

Tháng 5, Hội thánh dùng để nhắc nhở khuyến khích chúng ta tôn sùng Mẹ Maria. Việc tôn sùng thường là do chủ quan, thấy những khía cạnh hạp với sở thích của mình và có lẽ mình nhiều lần được nhờ ơn

 

Nhưng đối với Mẹ Maria, Mẹ có thừa đức hạnh hạp với sở thích của mình, chẳng những có thừa mà đức hạnh đơn sơ, dễ mến, dễ bắt chước.

 

Đức Mẹ là Mẹ, dĩ nhiên nuông chiều nhiều hơn chèn nhét, giấu đút, nâng đỡ giúp sức cho thi hành những đức hạnh giống Mẹ hơn.

 

Hơn nữa chính Chúa trong giờ tử nạn, sắp từ trần về với Chúa Cha đã trối lại: Nầy là Mẹ Con.

 

Vậy có lý nào mà dám quả quyết không hạp với sở thích tôi, tôi không tôn sùng!!! Dẫu không hạp nhưng đúng lý ra nhất định phải tôn sùng!

 

Sự thật thì gần như tất cả các tín hữu đều tôn kính, phần lớn biết tôn sùng.

Nhưng tôn sùng thế nào?

 

Dâng hoa, nến và những nhu cầu hồn xác, đọc những kinh Hội thánh đặt ra để tôn kính nguyện cầu với Mẹ... nhất là kinh Môi Khôi. Hội thánh cũng dùng cả tháng 10 để khuyến khích, phần nào thúc đẩy lần chuỗi Môi Khôi. Thực tế có nhiều tín hữu mỗi ngày lần một chuỗi, sốt sắng hơn thì 3 chuỗi, đủ chuỗi Môi Khôi, cũng có hạng người mê muội muốn mỗi ngày lần 33 chuỗi để nhớ 33 năm Chúa sống ở trần gian.

 

Thật ra, việc lần chuỗi là việc tôn sùng bình dân, lần nơi nào cũng được, giờ nào cũng được, nhưng cần phải ý thức, nghĩa là không đọc như máy mà phải vừa đọc vừa nhận biết ý nghĩa của lời kinh và hướng tâm hồn lên Chúa và Đức Mẹ. Cũng không đọc như em bé, kêu mẹ tối ngày. Có một lối đọc (lần chuỗi) cao siêu hơn như chúng ta thường nói: Nhờ Mẹ Maria đến (gặp) Chúa Giêsu (Per Maria et Jesum).

 

Vừa đọc kinh vừa nhớ Chúa, nhờ đó biết Chúa nhiều hơn và có thể kết hợp với Chúa.

 

Như thế việc tôn sùng Mẹ Maria không những thật đáng mà phải nói là khẩn thiết, sinh nhiều lợi ích.

LỄ VẬT HIẾN TẾ

Đã thờ thì phải có cúng, cúng nghĩa là dâng lễ vật để tỏ lòng tôn thờ. Vật để làm lễ dâng tế thường là vật cao quí, có giá trị.

Trong việc cúng tế hay dâng lễ trong đạo chúng ta: chúng ta mượn nhờ vật của Chúa: bánh và rượu, rồi ghép vào đó chút ít công lao của con người. Thật ra, ngoài công lao thì con người có gì gọi được là sở hữu riêng biệt của mình, tất cả là của Chúa! Bánh rượu và công lao có nghĩa gì để đáng làm lễ vật. Chính con người của mình phải đặt mình làm lễ vật thượng tiến, rất đúng lý, vì con người là vật Chúa tạo dựng nên, hoàn toàn là của Chúa - mà Chúa dâng lại cho Chúa rất đúng lý - mặc dầu không sát tế, nhưng vật thọ tạo tự nhiên mình hoàn toàn lệ thuộc Chúa là việc tốt, việc phải làm.

Cho nên việc cúng tế là việc chính con người phải làm đối với Thiên Chúa.

Tuy nhiên, lễ vật bánh và rượu gồm khó nhọc và chính con người là vật thọ tạo hữu hạn, làm sao tương xứng với Đấng tạo dựng vô cùng?

Chính Chúa đã giải quyết: Chúa đã nhập thể, nhập thế làm người, dùng nhân tính để làm lễ vật - Nhân tính chứa đựng thiên tính nên các công trình đạt được giá trị vô cùng. Việc dâng thánh lễ tôn thờ đúng là việc của Chúa mà cũng là việc của loài người, mà vì kết hợp với thiên tính thành ra có kết quả vô cùng, xứng đáng với việc tôn thờ, có cả khả năng đền tội.

Chúng ta nhớ lời dâng lễ: "Nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời". Do chúng ta dâng cùng với các lời chúc tụng mà các vinh quang hiệu lực...có hiệu quả thích đáng, và đem lại nhiều lợi ích.

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

 

CHA SỞ (tt)
(Điều 519-544)

 

4. Việc Nhậm Chức Cha Sở

 

Việc nhậm chức của cha sở được Giáo luật điều 527 quy định như sau:

Ai đã được tiến cử để thi hành trách nhiệm mục vụ cho một họ đạo, thì nhận lãnh trách nhiệm đó và buộc phải thi hành kể từ khi nhậm chức (§1).

Đấng Bản Quyền địa phương hoặc một tư tế được ngài uỷ quyền dẫn cha sở đến nhậm chức, theo thể thức được luật địa phương dự liệu hoặc được tục lệ hợp pháp chấp nhận; tuy nhiên, khi có một lý do chính đáng, Đấng Bản Quyền có thể miễn chuẩn thể thức ấy; trong trường hợp nầy, việc thông báo sự miễn chuẩn cho họ đạo thay thế việc nhậm chức (§2).

Đấng Bản Quyền địa phương phải ấn định thời hạn để cha sở nhậm chức, nếu thời gian hữu dụng qua đi mà không có ngăn trở chính đáng, ngài có thể tuyên bố họ đạo khuyết vị (§3)

Cũng như mọi giáo vụ khác theo Giáo luật, linh mục nào được bổ nhiệm làm cha sở của họ đạo thì phải lo sắp xếp để nhận lãnh họ đạo được trao phó sớm hết sức có thể, và chỉ thi hành những bổn phận cũng như có những quyền lợi kể từ lúc nhậm chức (x.đ.527§1).

Việc bổ nhiệm cha sở do chính Đức Giám mục Giáo phận, còn việc chủ toạ nghi lễ nhậm chức thì "Đấng Bản Quyền địa phương (Đức Giám mục Gp, vị Tổng Đại Diện, Đại Diện Giám mục) hoặc một tư tế được ngài uỷ quyền (theo quy chế của các cha Quản hạt, nếu Đấng Bản Quyền không đến được thì cha Quản hạt sẽ chủ toạ).

Nghi lễ nhậm chức cha sở luật phổ quát không đưa ra những chỉ dẫn cụ thể nào (ngoại trừ việc tuyên xưng đức tin trước mặt Đấng Bản Quyền địa phương hoặc vị đại diện của Ngài (x.đ. 833§6), mà để cho luật địa phương quy định cho hợp với từng hoàn cảnh của địa phương đó (x.đ.527§2). Dầu dậy, sách "Nghi lễ Giám mục-Caeremoniale episcoporum- ban hành năm 1973, số 1185-1198 có gợi ý mẫu nghi thức như sau: 

Ở đâu hoàn cảnh cho phép, có thể đón Đức Giám mục và cha sở mới từ ranh giới của họ đạo và rước vào nhà thờ. Tại cửa nhà thờ, Đức Giám mục nói vắn tắt giới thiệu cha sở mới và trao chìa khoá nhà thờ cho ngài.

Nên cử hành lễ nhậm chức trong thánh lễ (nếu có Đấng bản quyền thì Ngài chủ sự, nếu là Cha hạt trưởng thì sau nghi lễ nhậm chức, Cha hạt trưởng nên để cha sở mới chủ sự thánh lễ). Sau lời chào đầu lễ, nếu chưa giới thiệu cha sở mới trước của nhà thờ (số 1), thì vị chủ sự giới thiệu cha sở mới với cộng đoàn và công bố sắc lệnh bổ nhiệm, đồng thời tuyên xưng đức tin theo luật dạy.  

Cha sở mới nên đọc bài Phúc âm, vì thế ngài sẽ đến nhận sách bởi chính Đức giám mục và xin phép lành của Ngài.

Trong bài giảng, Đức Giám mục sẽ dẫn giải cho giáo dân về chức vụ của cha sở và ý nghĩa của những ghi lễ nhậm chức.

Sau bài giảng, khuyên cha sở mới lặp lại các lời hứa đã làm trong ngày chịu chức linh mục, theo các câu hỏi sau của Giám mục (nếu không phải Giám mục chủ sự thì bỏ phần nầy):

 

Con rất thân mến,

Trước mặt giáo dân được trao phó cho con chăm sóc, con hãy lặp lại sự quyết định mà con đã tuyên bố ngày con chịu chức.

H: Con có muốn luôn luôn chu toàn nhiệm vụ của con như cộng tác viên trung chính của hàng Giám mục trong việc chăn dắt đàn Chiên của Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?

Đ: Thưa con muốn.

H: Con có muốn sốt sắng và trung thành cử hành các mầu nhiệm Đức Kitô để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hoá giáo dân theo truyền thống Hội Thánh không?

Đ: Thưa con muốn.

H: Con có muốn tỏ ra xứng đáng và khôn ngoan chu toàn nhiệm vụ Lời Chúa trong việc rao giảng Phúc Âm và trình bày Đức tin Công Giáo không?

Đ: Thưa con muốn.

H: Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng đã tự hiến mình cho Đức Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và có muốn cùng Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không?

Đ: Thưa nhờ ơn Chúa giúp con muốn.

H: Con có hứa tôn kính và vâng phục Cha cùng các Đấng kế vị Cha không?

Đ: Con xin hứa.

      Xin Thiên Chúa hoàn tất việc tốt lành Người đã khởi sự nơi con.

Kế đến, vị chủ toạ dẫn cha sở mới đến những nơi sẽ thi hành phận sự, như ghế chủ toạ, nhà tạm để Mình Thánh Chúa, toà giảng, giếng rửa tội, toà giải tội. Ngoài ra, nếu tiện thì cũng có thể mời cha sở mới kéo một hồi chuông.

Lời nguyện chung (giao dân) có lời nguyện đặc biệt cho ĐGM và cha sở mới.

Phụng vụ Thánh thể như thường lệ.

Sau lời nguyện hiệp lễ, ĐGM mời cha sở mới nói mấy lời vắn tắt với cộng đoàn được trao phó cho mình.

Nếu không quá dài dòng, thật khuyến khích ĐGM và cha sở mới cùng giáo dân đi viếng đất thánh, để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Khi có lý do chính đáng, Bản quyền sở tại có thể miễn chuẩn việc nhậm chức. Trong trường hợp nầy, việc thông báo sự miễn chuẩn có giá trị như chính sự nhậm chức (x.đ.527§2). Cũng lưu ý rằng, có thể miễn chuẩn việc nhậm chức chớ không được miễn chuẩn lễ nghi tuyên xưng đức tin được nói đến ở điều 833§6.

Trong văn thư bổ nhiệm, ĐGM Giáo phận nên xác định một thời gian phải nhận chức; nếu quá thời gian hữu ích (x.đ.201§2), mà đương sự không nhậm chức dù không có ngăn trở chính đáng, thì Bản quyền có thể tuyên bố khuyết vị, và tiến hành thủ tục bổ nhiệm khác (x.đ.527§3). Lý do của của việc làm nầy là vì không để giáo dân thiệt hại về phần thiêng liêng do thiếu vắng chủ chăn (x.đ.151).

Nguồn: Sách các phép và lễ nghi các Giám mục; Cha Nguyễn Ngọc Thử, Chú giải mục vụ và pháp lý; Phan T. Thành, Giải thích Giáo luật; John P. Beal et al., New Commentary on the Code of Canon Law).

 

TRANG LINH MỤC

Ai có con mà không phải dạy dỗ, nhưng dạy dỗ cách nào để có hiệu quả lại là một nghệ thuật lớn, cần phải nắm rõ những nguyên tắc đã được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu giá trị và nhất là, đã được rút ra từ thực tế cuộc sống của thời đại hôm nay.

CÓ 8 NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

 

1. Cha mẹ phải nghiêm túc trong việc dạy bảo con cái

- Ý thức được trách nhiệm làm cha mẹ là quan trọng và không thể thay thế. Điều này giúp các bậc làm cha mẹ không trao phó hay ỷ lại quá nhiều vào những người khác như nhà trường, người thân, người giúp việc....

- Ý thức được tầm quan trọng này, các bậc làm cha mẹ có trách nhiệm hơn và đủ ý chí chống trả lại những cám dỗ bằng mọi giá, để dành thời gian sống cùng và nuôi dạy con cái...

- Để đạt hiệu quả, đòi hỏi việc định hướng phải dựa vào khả năng thực tế của đứa trẻ. Điều này giúp trẻ cảm thấy an toàn và được yêu thương

2. Xác định mục tiêu giáo dục con

- Trên thực tế, có nhiều bậc làm cha mẹ không hề đặt mục tiêu trong việc giáo dục con cái. Họ có thái độ buông xuôi, bỏ mặc cho đứa trẻ "tự do phát triển". Sự thiếu hiểu biết và thiếu trách nhiệm này, làm cho trẻ bị thiệt thòi. Đối lập với thái cực này, là có không ít bậc làm cha mẹ xác định mục tiêu theo ý riêng của mình. Họ mong đợi quá nhiều ở con cái. Sự kỳ vọng đó làm cho đứa trẻ cảm thấy căng thẳng, thiếu tự nhiên, thiếu tự tin, mệt mỏi, trầm cảm.....Tham vọng và đòi hỏi này dẫn đến sự mất mát nơi trẻ tính hồn nhiên, sự bình an trong đời sống nội tâm và đồng thời cũng ảnh hưởng lớn đến tinh sáng tạo và tự tin.

 

3. Thống nhất tác động giáo dục:

- Trong một gia đình có nhiều thế hệ, việc giáo dục con cái đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo và thống nhất tác động giáo dục dựa trên cơ sở vì lợi ích của con cái.

- Gia đình cần thống nhất:

+ Quan điểm, mục tiêu trong việc giáo dục con cái

+ Phân công vai trò

+ Phương pháp sử dụng

 

4. Làm gương

- Giáo dục trẻ bắt đầu từ cái nôi gia đình và cha mẹ là những người thầy đầu tiên của chúng. Nhãn quan của trẻ con về thế giới xung quanh được hình thành, dựa trên những tiếp xúc và giao tiếp của chúng với những người chúng gần gũi. Con cái lệ thuộc, hay để ý và bắt chước cha mẹ. Do đó cha mẹ là người trực tiếp gieo vào tâm hồn trẻ những hạt giống yêu thương, trung thực, tốt bụng....hay giả dối, gây hấn, bạo lực....

- Dạy con từ thưở còn thơ vì trẻ con có thể phân biệt được đúng-sai, phải-trái, tốt-xấu. Để nhân cách trẻ được hình thành và phát triển tốt, trẻ con cần thấy được gương sáng nơi người lớn: chúng cần thấy được phản ứng của cha mẹ trước những hành động xấu xa. Chính bằng phản ứng và nhất là gương sáng của mình, cha mẹ đóng dấu lên tâm hồn trẻ niềm xác tín về cách hành xử và giải quyết vấn đề.

- Nhân bất thập toàn. Không bắt buộc bậc làm cha mẹ phải là người hoàn hảo để làm gương sáng cho con. Tuy nhiên, họ cần có ý muốn hoàn thiện bản thân cách tốt nhất và thẳng thắn, có bản lĩnh để biết nhận lỗi và sửa sai một cách cụ thể. Qua đó, trẻ học được lòng can đảm, tính trung thực, sự cảm thông với những sai lầm của người khác và lòng bao dung. Điều này cũng có nghĩa là dạy chúng thấy những giới hạn trong thân phận con người. Chính vì thế mà chúng phải cảm thông trước những giới hạn và khuyết điểm của người khác

 

5. Tổ chức lối sống trong gia đình

- Tạo bầu không khí gia đình ấm áp và đầy tình thương

- Xây dựng nếp sống sinh hoạt lành mạnh để trẻ có thời gian luyện tập nhân cách của mình.

- Tổ chức lối sống trong gia đình giúp trẻ học hỏi tính kỷ luật, sự tôn trọng người khác...

- Dạy con bằng hành vi và cách sống của cha mẹ có hiệu quả hơn bằng lời nói

 

6. Tôn trọng nhân cách:

- Tôn trọng là bảo vệ sự phát triển hồn nhiên theo từng lứa tuổi và tạo điều kiện để nhân cách trẻ phát triển cách toàn diện.

- Cha mẹ cần lắng nghe, không áp đặt và chấp nhận những suy nghĩ, cảm xúc của chúng.

- Sự trao đổi, đối thoại là điều cần thiết trong công tác giáo dục.

- Sự thiếu tôn trọng con cái dẫn đến những tác hại nghiệm trọng về thể lý và tâm lý. Đứa trẻ không được tôn trọng, nâng đỡ thường tỏ ra bi quan và thường co cụm trong bản thân. Như thế, chúng cũng khó lòng nghĩ đến người khác

 

7. Yêu thương & nghiêm khắc

- Yêu thương là giúp trẻ cảm nhận và biết biểu lộ tình cảm, cảm xúc với người khác. Khi được yêu thương, trẻ cảm thấy mình có giá trị. Từ đó, hình thành tính tự tin và lòng tự trọng

- Cha mẹ cần có một tình yêu bao la, vô điều kiện đối với con cái. Tuy nhiên, nuông chiều con quá đáng sẽ làm con cái dễ hư hỏng, hình thành thành tính ích kỷ và đòi hỏi... Lớn lên, chúng thiếu ý thức cộng đồng, thiếu kỹ năng sống, không đủ bản lĩnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống

- Nghiêm khắc với con cái là điều cần thiết để trẻ học biết những giới hạn và có những điều chỉnh cần thiết. Qua đó, trẻ học sống độc lập và tự tin. Tuy nhiên, những trẻ bị đối xử quá nghiêm khắc, không nhìn thấy được lòng yêu thương và biểu lộ tình cảm, lớn lên chúng trở thành người vô cảm, có một trái tim chai lì trước nỗi khổ đau và khó khăn của người khác. Thánh Phaolo khuyên các bậc làm cha mẹ: đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng trở nên nhát đản, sợ sệt

- Cha mẹ cần nói "không" khi cần thiết. Điều này giúp chúng hiểu rằng không phải bất cứ điều gì chúng muốn, cũng được thỏa mãn. Qua đó, ý chí và sự tự chế được tôi luyện

 

8. Hiểu con để có phương pháp giáo dục đúng

- Cha mẹ phải tin tưởng rằng bất cứ đứa con nào cũng có một tiềm năng để trở thành người tốt, nhưng con cái cũng có thế giới riêng tư của chúng. Cha mẹ cần có đủ thời gian, tình yêu, sự kiên nhẫn,... để có thể thấu hiểu và cảm thông với những diễn biến tâm lý phức tạp và những thay đổi về thể lý trong từng giai đoạn phát triển của chúng

- Không hiểu con và áp đặt chúng theo những tiêu chuẩn mình mong muốn, cha mẹ gây ra những phát triển không lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần của con cái

 

Tóm lại, giáo dục trong gia đình là bước đầu tiên và quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Để giáo dục trong gia đình đạt hiệu quả, đòi hỏi các bậc làm cha mẹ một sự hy sinh lớn lao, không vụ lợi, không cần được con cái đáp đền. Tám nguyên tắc cơ bàn giáo dục trên cần sử dụng đan xen nhau. Nó là chiếc chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc của con cái, nền tảng hạnh phúc của xã hội.                                           

TS. Nguyễn Thị Bích Hằng

TRANG TU SĨ

 

NHÂN BẢN LÀ THƯỚC ĐO ĐỜI SỐNG
CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NHAU

 

Hơn bao giờ hết, việc sống nhân bản, đối nhân xử thế được xã hội hết sức coi trọng và là thước đo đời sống đạo đức, bác ái và sự thành công của con người.

Vâng, ở cuộc sống xã hội bình thường là vậy, coi việc sống nhân bản là như thế, còn đời sống người Kitô hữu thì sao? Chúa Kitô mời gọi Kitô hữu nên " hoàn thiện như Cha trên trời". Vậy  ngày hôm nay ta cần phải sống nhân bản người Kitô hữu như thế nào? Sách vở nói về nhân bản không thiếu, nhưng vấn đề là giúp cho các em thiếu nhi làm sao biết sống có nhân bản, chứ không chỉ là đơn thuần biết nhân bản là gì?

 

Hai từ nhân bản có lẽ chúng ta nghe rất nhiều, nhiều đến nỗi mỗi khi có ai đó hành động một cách "trái khoáy", ngang tàng, thiếu lịch sự...thì ta đánh giá ngay-"một hành động thiếu nhân bản".  Tiêu chuẩn mà chúng ta đưa ra để đánh giá hành động này thiếu nhân bản, hành động kia có nhân bản dựa vào những quy tắc đạo đức mà chúng ta được lãnh hội từ nền giáo dục nơi gia đình, nơi nhà trường, nơi xã hội... .

 

Ơn gọi của mỗi người là "làm người", sống cho ra người, sống sao cho nhân cách phát triển. Để  thành người, trước hết dạy ta phải làm thế nào tập cho quen, điều hòa thích hợp cá tính mình về: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, đức công bình, đức bác ái, cái nhân, cái dũng của thánh nhân... nó là hành trang giúp ta sống, cư xử, chấp nhận những cái khác biệt của người khác trong đời sống. Nhân bản được nhìn qua cách thể hiện với bản thân: cần, kiệm, liêm, chính, dũng.  Với tha nhân: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,...

 

Nhận định về giới trẻ hôm nay, không ít giấy bút trong cái nhìn của xã hội đã than phiền tình trạng "xuống cấp" về đạo đức của họ.  Hành động quay cóp vừa thiếu nhân bản trầm trọng, vừa là việc bất công trong học đường, người thì ra sức học nhưng kết quả lại thấp hơn so với những "cựu thủ camera". Từ đó, dẫn đến những cám dỗ cho những ai mềm lòng "ta cũng như họ", hoặc là đành phải chấp nhận với lòng uất ức.  Đây là sự thật hết sức đau lòng, nó không những đụng chạm đến những đức tính cao quý mà ta đã học như thật thà trung tín mà còn hạ giá bản thân mình.

 

Có một lần tôi nghe một Giáo lý viên bảo với cả lớp Thêm sức của một Giáo xứ nơi tôi đang phục vụ: "không hiểu tại sao bài của các bạn ở dưới cuối lớp này sao lại sai giống nhau quá vậy?". Hay như chính trường hợp của tôi: Trong lớp Thêm sức của mình dạy, cho làm bài kiểm tra, lần một trả bài miệng các em không đạt, cho thời gian hai tuần để học các câu hỏi lần nữa rồi làm bài viết lấy điểm. Có cậu học trò làm bài sẵn ở nhà, cuối giờ đem lên nộp cho tôi. Tôi lấy làm lạ, giấy chỉ có một tờ, nhưng hồi nãy mình thấy cậu ta bôi xóa, gạch bỏ trong ấy nhiều lắm, vậy sao bây giờ sạch sẽ, lại trúng hết, chữ đẹp mới chết chứ! Tôi đợi hết giờ kêu cậu ta lại, nói:

- Dì cần gặp con một chút. Với tấm chân tình, tôi gợi mở cho cậu ta nói: Dì rất buồn vì con làm như vậy.

- Con làm gì mà dì buồn con?

- Con tự xét lại xem.

Cậu ta im lặng,

- Con còn giấu dì nữa à? Trong giờ kiểm tra, con đã làm gì? Con xử sự với dì như vậy sao? Con đặt mình vào điều không nên - làm ô danh của mình, của Thiếu Nhi Thánh Thể đó, con biết không?".

Cậu ta đã trả lời:

- Con đã sai, không làm đúng, dì cứ phạt con.

- Con biết sai từ khi nào? Con biết nhưng sao vẫn cứ làm? Bây giờ, dì cho con cơ hội để rửa sạch vết nhơ đó, con chịu không? Và hứa với dì không bao giờ, bất cứ nơi đâu, trong môi trường nào, không được làm như thế nữa, Chúa buồn, con biết không? con làm mất phẩm giá, mất cả lòng tin, lòng kính trọng của người khác dành cho mình. Phải là chứng nhân anh dũng cho Chúa của mình nghe con.

 

Sau những ngày đó, cậu ta có những biến chuyển tốt, chăm học hơn, lại thường lân la hỏi chuyện hơn với tôi, trách nhiệm với lớp hơn, cười nhiều hơn... .

 

Qua các câu chuyện trên, thiết nghĩ đó là tôi đang giáo dục các em. Và trong suốt thời gian về sau, mỗi buổi dạy giáo lý, tôi đến sớm hơn để trò chuyện, gợi mở cùng các em vể những thắc mắc, những gì thấy được nơi các em tôi khen, tôi chỉ dạy riêng cho em nào chưa được.  Nhưng thiết nghĩ trước tiên tôi phải sống rõ ràng nhân bản hơn mới là bài học sống động cho các em, tôi buộc mình phải hòa nhã, lịch sự, giữ chữ tín ... cùng các em, tôi cũng hay kể cho các em kinh nghiệm mình có được khi tôi cùng tuổi với các em để chia sẻ và học tập lẫn nhau, lâu dần tôi và các em đã rút ngắn khoảng cách "dì - con" nhưng vẫn tôn trọng lẫn nhau.

Giáo dục nhân bản, hơn bao giờ hết vẫn cần ở mọi nơi mọi thời, được khẳng định là điều không thể thiếu trong mối quan hệ của con người.  Đó cũng là điều tất yếu để rèn luyện các nhân đức Kitô giáo, để trở thành người Kitô hữu đích thực.

 

MTG CÁI NHUM

 

THÁCH  ĐỐ  CỦA GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

Từ những năm qua, tình trạng xuống cấp về mặt đạo đức của học sinh là đề tài được bàn luận rất nhiều trong xã hội Việt Nam.  Nhiều biện pháp cải cách, cộng với những hình thức kỷ luật được đặt ra từ phía ngành giáo dục, nhưng rồi đâu cũng vào đấy: khủng hoảng giá trị ngày một gia tăng. 

Các chuẩn mực đạo đức đã không còn được coi trọng ngay trong nhà trường: học sinh vô lễ với thầy cô, không biết nói lời cám ơn hay xin lỗi, không biết chào hỏi người lớn, chửi thề, nói tục, đánh nhau, nói dối, xé bài trước mặt thầy cô khi bị điểm thấp, sửa điểm, gian lận trong thi cử; sinh viên mua điểm, sao chép luận văn... Đáng lo ngại nhất là tình trạng bạo hành nơi học sinh, tình trạng học sinh đánh giáo viên ngay trong trường học. Rồi đến căn bệnh "thành tích" ngày càng phổ biến nơi chính các nhà giáo dục, được lồng vào bằng hình thức thi đua, đào tạo nên một "thế hệ ảo" với những con số, điểm thì nhiều nhưng chất lượng không được bao nhiêu... Đó là những cảnh báo về sự suy thoái của nền giáo dục nước nhà, là một thách thức và là mối quan ngại của Giáo Hội trong quá trình giáo dục đức tin. Sau đây là một điển hình nơi tôi đang phục vụ, phản ánh thực trạng hiện nay:

Một hôm, trong giờ tập hát cho ca đoàn thiếu nhi, tôi quan sát thấy Bé Hiền rất buồn.  Hôm đó, tôi cho các em nghỉ sớm hơn một chút, nhờ Hiền và hai em nữa ở lại, với lý do là giúp tôi một tay để sắp xếp lại sách vở cho lớp giáo lý hôm sau. Tôi đã hỏi thăm và được biết: đã nhiều lần Hiền tận mắt chứng kiến các bạn trong lớp mở bài trong giờ thi hay giờ kiểm tra, nhưng cô giáo chẳng bao giờ lên tiếng rầy la hay nhắc nhở, thậm chí còn làm ngơ khi học trò của mình làm điều đó. Em rất bức xúc nhưng không dám hỏi cô vì sao. Em có cô bạn, gia đình giàu có nhưng lại lười học và hay bỏ lớp để đi chơi. Kỳ thi vừa rồi, em nhắc nhở nhỏ bạn này lo cố gắng học bài, nhưng nhỏ bảo: "Tui chẳng cần học bài đâu, chỉ cần mẹ tui đi thăm và tặng cô phong bì là tui được lên lớp thôi." Và mới hôm qua đây, trong giờ kiểm tra môn hoá, nhiều bạn không làm được vì bài khó. Nhận thấy học trò không làm bài được, cô giáo ghi sẵn đáp án vào giấy và bảo các em chuyền tay nhau để chép. Lúc đầu Hiền từ chối vì lương tâm không cho phép, nhưng cô bảo: "Nếu em không chép, bài sẽ bị điểm thấp, cả các em và cô đều không đạt được danh hiệu tiên tiến, và ảnh hưởng đến nhà trường nữa."  Hiền bắt buộc phải chép bài.  Chiều nay, nhận số điểm cao, nhưng em lại buồn vì thấy mình không can đảm để sống trung thực như những gì em đã được học nơi lớp giáo lý...

Đó là tiếng nói, tiếng khóc của một lương tâm ngay thẳng. Nhưng một khi bạn sống ngay thẳng theo tiếng nói lương tâm, thì cơ hội vươn lên trong xã hội này xem ra thật mong manh!  Một em thiếu nhi còn biết cắn rứt lương tâm khi phải làm điều mà mình không muốn vì đó là điều không tốt, trái với nhân bản. Là người Công Giáo, không ai trong chúng ta lại không hiểu rằng, chúng ta phải sống theo lương tâm và theo Lời Chúa dạy. Nhưng rất nhiều khi chúng ta lại thờ ơ với chân lý cao đẹp đó, và sẵn sàng đánh đổi giá trị của tiếng nói lương tâm, để đi tìm chút hư danh trong cái xã hội đầy tranh đua và gian dối này. 

 

Nghĩ tới tương lai sau này của thế hệ trẻ thì không khỏi đau lòng! Các em đang bị chính những nhà giáo dục của mình phá đổ tương lai tươi sáng.  Là những bậc phụ huynh, những nhà giáo dục đức tin trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta nghĩ gì hoặc có thao thức gì về tương lai của một thế hệ đang bị mất dần ý thức về nhân bản và những giá trị tâm linh?  Đó là câu hỏi cho bạn và tôi hôm nay.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

 

SỰ TRƯỞNG THÀNH TRONG ƠN GỌI TU TRÌ

 

Cổ nhân xưa đã nói: "Nhân vô thập toàn," châm ngôn này phù hợp với cuộc sống con người trong mọi thời đại, khi mà con người phải đối diện với những đan xen "tốt" - "xấu", "thiện" - "ác" trong từng giây phút sống! Điều này đòi hỏi con người luôn có chọn lựa chính chắn, để từ đó con người có thể hoàn thành sứ mệnh "làm người" đúng ý nghĩa của mình hoà hợp giữa "thể lý và tinh thần" trong xã hội hay trong cộng đoàn dòng tu - đó là chiều kích trưởng thành của con người. Tuy nhiên, khi thế giới đi vào kỷ nguyên của khoa học - kỹ thuật đỉnh điểm, thì con người dường như bị cuốn hút vào vòng quay của cỗ máy thời gian cũng như tiện nghi hưởng thụ, chủ nghĩa thực dụng cũng như thế giới tục hoá, giá trị tinh thần hay hình ảnh "thánh thiêng" trong thế giới này không còn được đề cao.

 

Đứng trước thực trạng chung của thế giới ngày nay, Giáo hội mời gọi những ai theo đuổi ơn gọi tu trì cần phải nhận ra vai trò - vị thế - sứ mạng của mình để có thể bước vào đời - dấn thân làm chứng cho tình yêu dâng hiến và phục vụ Tin Mừng hiệu quả. Muốn trở thành một sứ giả của Tin Mừng thực sự, đòi hỏi người ấy phải trưởng thành trong ơn gọi của mình, nghĩa là phải được huấn luyện về mọi góc cạnh của cuộc sống không chỉ đào tạo kiến thức về triết học - thần học và khoa học, mà còn phải được huấn luyện để trưởng thành về tâm sinh lý, tu đức, tâm linh, vì những phẩm chất này thật cần thiết để người tu sĩ trở thành những con người quân bình, vững vàng, tự do, và có thể đảm nhận những trách nhiệm mục vụ cần thiết cho Giáo hội và xã hội. "Họ cần được giáo dục để biết yêu mến sự thật, để biết trung thành, biết kính trọng mọi người, để có ý thức công bằng, để trung thực trong lời nói, để chân thành cảm thông, để trở thành những con người nhất quán, và đặc biệt là để có sự quân bình trong phán đoán và trong thái độ ứng xử." (PDV, số 43)

 

Thật vậy, sự trưởng thành luôn mang tính năng động thúc giục những ai theo đuổi ơn gọi tu trì hướng tới chân trời hoàn thiện. Nó không nhất thiết phát triển theo tuổi tác, mà nó biểu lộ qua sự quân bình của từng cá nhân được huấn luyện theo từng cấp độ, để có những khả năng hiểu biết và cảm ứng được sự phát triển trọn vẹn trên bình diện cảm quan, cũng như trên bình diện tri thức. Để trở thành một người tu sĩ đích thực, chúng ta nên đề cập đến:

1. Trưởng thành nhân bản:

Là khả năng phán đoán khách quan về đời sống cá nhân, chấp nhận mình trong hoàn cảnh thực tế, không ảo tưởng những gì vượt quá những nhu cầu theo bản năng, ý thức và trù liệu hướng về tương lai với niềm hy vọng.

 

Hiểu rõ chính mình là nền tảng để đánh giá trung thực về những chi phối về phẩm chất "nội - ngoại" trong cuộc sống cá nhân: thể xác, tình cảm, tri thức, thiêng liêng cũng như những kinh nghiệm sống trong đời. Bên cạnh đó, "biết mình" còn là khả năng nhận biết những giới hạn, những khuyết điểm, cũng như những khả năng, những ưu điểm - để từ đó nhận thức về mình là "ai", "thế nào", "làm gì", "ở đâu"... để trù liệu và xây dựng cho mình một cuộc sống quân bình giữa những yếu tố tích cực và tiêu cực trong cuộc sống. Trưởng thành nhân bản hay "biết mình" là một giả định thiết yếu cho sự hoà hợp tâm lý và sự phát triển nội tâm. Vậy ai chưa "biết mình" thì chưa thật sự trưởng thành nhân bản.

2. Trưởng thành tình cảm:

Là biết tự chủ, biết giữ sự quân bình giữa cảm xúc, lý trí và nội tâm, tức là không để tình cảm bị chi phối điều khiển bởi cảm giác, nhưng bởi lý trí và ý chí hoà hợp với cảm xúc và nội tâm thể hiện trong từng cá nhân.

 

Sự quân bình tình cảm là khả năng đặt những biến cố, sự việc (chẳng hạn: tuyên khấn, mất mát hay một tai hoạ trong cuộc đời...) trong sự cân đối hài hoà giữa cảm xúc và lý trí. Nếu để cảm xúc chi phối khi rơi vào thất vọng (chẳng hạn như: thi trượt, không được tuyên khấn, không được tiến chức...) người tu sĩ thường phản ứng bằng thái độ không hài lòng như nóng nảy, giận dữ, xung đột, hay than thân trách phận. Ngược lại, một người trưởng thành biết thừa nhận những thất bại, chấp nhận trách nhiệm, thiếu sót, yếu kém của mình để phân định và tìm phương hướng vượt qua hay sửa chữa lại những sai lạc, theo châm ngôn: "thất bại là mẹ thành công."

3. Trưởng thành xã hội:

Là khả năng giữ sự quân bình trong tình cảm trong tương quan đời sống cộng đoàn, trong tình liên đới với anh em và mọi người chung quanh bằng đời sống chia sẻ, giao tiếp hài hoà giữa thái độ "lắng nghe và đón nhận." Trưởng thành về chiều kích xã hội của mỗi tu sĩ là khuynh hướng sống chung và hiệp thông với người khác bằng  thái độ chia sẻ, cảm thông với mọi người trong cuộc sống thách đố của từng cá nhân với cuộc sống chung.

 

Sự trưởng thành xã hội cần phải có cái nhìn tổng hợp - khúc chiết về cuộc sống, hài hoà giữa cá nhân và tập thể để có thể dẫn vào đời tu qua một quá trình chuẩn bị thiêng liêng cũng như nhân bản giúp thể hiện được một sự hiện diện trưởng thành của những người tu sĩ, hầu tạo được những quan hệ đổi mới ngay bên trong cũng như bên ngoài cộng đoàn mình. (TT. số 33,c)

4. Trưởng thành tâm linh:

Là nét nổi bật của đời sống tu trì, là hành vi cuốn hút con người lao mình về Thiên Chúa, cố gắng hướng tầm mắt và cõi lòng về Thiên Chúa, đó chính là hành vi cao cả và sung mãn nhất của tinh thần - hành vi này chỉ đạo toàn bộ mọi sinh hoạt rộng lớn của người tu sĩ (x. CN. số 1). Một khi người tu sĩ trưởng thành trong chiều sâu tâm linh, thì trong mỗi thái độ hay cử chỉ của họ khi đối diện với những biến cố quan trọng cũng như trong những hoàn cảnh bình thường trong cuộc sống, họ biết sống hết mình với bổn phận của người tu sĩ, còn sự thành công - thất bại tuỳ thuộc vào Thiên Chúa trong niềm vui - hạnh phúc. (x. TH. số 65)

Sự trưởng thành này được biến đổi nhờ ơn sủng của Chúa Thánh Thần, dưới ánh sáng của Tin Mừng, làm cho người tu sĩ có khả năng sống đời sống cầu nguyện và nhiệm hiệp với Thiên Chúa và giúp họ phát triển khả năng sống và hoạt động trong Giáo hội - Gia đình dòng tu một cách năng động trong sự hiệp thông và tình liên đới.

 

Đời sống tu trì trưởng thành không chỉ là nhờ việc huấn luyện - giáo dục dựa trên những chiều kích: thể lý, luân lý, tri thức và tâm linh theo đường hướng của những nhà huấn luyện, mà sự trưởng thành này còn đòi hỏi nơi từng tu sĩ trách nhiệm về chính mình trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của lương tâm bước theo Chúa, để biện minh cho sự lựa chọn thực tiễn và đặt giá trị đời tu trong sâu thẳm lòng mình, từ đó người tu sĩ có kinh nghiệm dồi dào về Thiên Chúa và giúp họ kiện toàn một cách tiệm tiến những kinh nghiệm ấy trong đời sống cá nhân. (CN. 17) Vì thế, để trở nên một người tu sĩ trưởng thành không phải chỉ vun đắp cho mình những tri thức lý thuyết về triết - thần, tâm lý, tâm linh... mà là một lối sống - thực hành trên những khía cạnh ấy, bằng việc phân định khả năng chấp nhận một đời sống có thể giúp trưởng thành nhờ di sản thiêng liêng và nhờ những quy tắc của hội dòng trong quá trình tiến triển của cá nhân trong cộng đoàn. (YT .44)

 

Cần hiểu rõ tiến trình của sự trưởng thành không phải là một hình thức áp đặt từ bên ngoài và đồng đều cho tất cả mọi tu sĩ, mà xuất phát "từ bên trong" của từng cá nhân. Tiến trình này tập hợp tất cả mọi chiều kích (thể lý, tâm lý, tâm linh...) và sức mạnh sinh động chung quanh sự chọn lựa tự do bước theo Chúa Kitô trong đời tu theo đặc sủng riêng biệt của từng hội dòng. Người tu sĩ trưởng thành tiệm tiến nhờ sự huấn luyện và nhờ kinh nghiệm sống đời tu của họ để có thể phân định giữa lý tưởng mà mình khấn hứa với con người thực tế của mình.

 

Để người tu sĩ trưởng thành trong ơn gọi của mình, mỗi gia đình dòng tu có trách nhiệm huấn luyện theo từng cấp độ (tiền tập, tập viện, khấn tạm, khấn trọn), tạo mọi điều kiện để người tu sĩ có đủ kiến thức và kinh nghiệm thực hiện đời sống theo Chúa Kitô, và hướng tới tương lai, nghĩa là trở nên những người tu sĩ trưởng thành để có thể làm chứng tá về cuộc sống trong Chúa Kitô, để phụng sự Giáo hội và phục vụ thế giới, để trở nên những chứng nhân sống theo lựa chọn của những lời khuyên Phúc Âm (Khiết Tịnh, Nghèo Khó và Vâng Phục) và sự đam mê đối với Thiên Chúa và đối với tình huynh đệ vẹn toàn bằng chính cuộc sống của người tu sĩ như một "sứ điệp sống" giữa anh chị em và tha nhân.

Lm. Antôn Nguyễn Tiến Hiền, MF. 

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

  1. TH: Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến
  2. YT: Những yếu tố cốt yếu của Đời Tu
  3. CN: Chiều Kích Chiêm Niệm của Đời Tu
  4. TT: Tu Sĩ và Sự Thăng Tiến Con Người
  5. PDV: Pastores Dabo Vobis

 

TRANG THIẾU NHI

"Tụi Nhỏ" Bây Giờ Không Như Ngày Xưa !

 

Đâu đó vẫn còn nghe lời nhận định của những bậc lớn tuổi "tụi nhỏ bây giờ không như ngày xưa". Nhận định ấy như nhằm về một cách sống hơi tiêu cực của tuổi trẻ. Tuổi trẻ có những cách ứng xử khiến người khác không hài lòng.

 

"Không như ngày xưa" hiểu theo nghĩa tích cực quả là điều đáng mừng. Tuổi trẻ bây giờ có điều kiện sinh sống hơn, không phải sớm lam lũ vất vả chuyện đồng nương. Tuổi trẻ bây giờ nhạy bén và tiếp thu nhanh những điều mới mẻ. Có nhiều lý do tích cực để nói về tuổi trẻ ngày nay. Nhưng dẫu sao đi nữa điều quan trọng là khi tiếp xúc cái mới mẻ tuổi trẻ không đánh mất giá trị truyền thống và phẩm cách làm người nơi bản thân. Do đó, đời sống nhân bản xưa nay vẫn xem là tiêu chí đánh giá đầu tiên nơi một con người.

 

Nếu có vấn nạn đặt ra: làm sao để tuổi trẻ ngày nay có một lối sống lành mạnh? tương quan tốt lành? biết tôn sư trọng đạo? biết kính trên nhường dưới? biết ứng xử hợp lý hợp tình? Thiết nghĩ đó là những yêu cầu không đơn giản chút nào trong một cuộc sống tốc độ và lắm bon chen. Nhưng không vì thế mà mỗi người tự buông xuôi, không chút phấn đấu, mặc cho thế sự lôi cuốn theo dòng.

 

Ý thức về giá trị của lối sống đẹp

Lối sống thực dụng đưa người ta dễ dàng sai lệch trong cách chọn lựa lúc nào không hay. Khi tập trung về những giá trị vất chất người ta quên đi cái hay cái đẹp của tinh thần. Lời thăm hỏi ân cần, tiếng chào nhau vui vẻ, lòng nhiệt thành, hy sinh, phục vụ ...dẫu biết đó là hay nhưng không mấy ai muốn vun đắp, trao dồi. Điều đó có lợi gì đâu? Thôi thì tạm để qua một bên, rãnh rỗi hãy tính! Những điều đó không có cũng không sao! Hãy lo cái ăn, cái mặc, cái tiện nghi trước đi chứ! Tất cả sự hờ hững hay chần chừ cũng đủ cho ta hiểu về một suy nghĩ  sai lầm: cuộc sống dẫu có đẹp đến đâu,  có ca tụng đến mấy cũng không bằng những giá trị mà ta sờ thấy được.

 

Chính vì thế, bài học đầu tiên mọi người phải biết phải học là bài học làm người.  Làm sao cho tuổi trẻ ngay từ đâu hiểu được cuộc sống tốt đẹp là cần thiết thế nào? Cuộc sống đơn độc là cuộc sống nghèo nàn. Cuộc sống trở nên phong phú khi ta biết sống với người khác và cho người khác.

 

Tạo môi trường ham thích học hỏi

Phải nhìn nhận một thực tế phũ phàng, thời gian để trở thành người tốt rất dài trong khi người ta lại dành rất ít thời giờ cho việc đào luyện bản thân. Làm sao để tuổi trẻ thích làm điều tốt, ham được trở thành người tốt là một thách đố cho xã hội hôm nay. Tuổi trẻ ngày nay thiếu mất không gian của tuổi thơ. Tuổi thơ của các em nếu gắn liền với hính ảnh của cánh diều, cảnh vườn ao, ruộng lúa chắc chắn sẽ hình thành nơi em một tình cảm gắn bó với đất nước, quên làng. Tuổi thơ các em nếu buổi đầu được nuôi sống bằng lời ru của mẹ, bằng lời răn bảo của cha chắc chắn em sẽ lớn lên trong sự gắn bó với gia đình. Nhưng nếu tuổi thơ bắt đâu bởi những trò games bạo lực thì cách hành xử của các em là nỗi nguy to cho xã hội và gia đình.

 

Nhiều người lớn tuổi hay bảo tuổi trẻ bây giờ không biết chia sẻ tình cảm như lúc trước. Trước đây còn viết thư, bây giờ mọi thứ chỉ gói gọn trong những tin nhắn rất tiết kiệm từ. Có bậc cha mẹ bảo lớp trẻ bây giờ ít biết cảm ơn hay chia sẻ tình yêu thương với người khác nhất là với gia đình. Nhiều bạn trẻ rất tiết kiệm những lời chia sẻ yêu thương, vì sợ nói ra người ta bảo là "sến".

 

Quyết tâm đổi mới bản thân

Lợi ích vật chất không bù lắp những khiếm khuyết tinh thần. Hiểu biết những điều hay chưa làm nên con người tốt. Mỗi cá nhân cần phải nỗ lực phấn đấu thật nhiều và bền bỉ. Cách ứng xử tốt đẹp, hay nhân đức mà ta đắc thủ thường không tỉ lệ thuận với thời gian ta sống trên đời, nhưng nó phụ thuộc vào mức độ và quyết tâm đổi mới bản thân của từng cá nhân. Một người không tập nói lời yêu thương, an ủi thì có đến già cũng không thể nói lời tốt đẹp cho nhau. Một người không bao giờ biết hy sinh phục vụ thì dù cho đến tuổi gần đất xa trời cũng không hiểu được giá trị hy sinh phục vụ là thế nào.

 

Tuổi trẻ sống cho tương lai, tuổi già sống vì quá khứ. Mỗi người phải nỗi lực sống tốt giây phút hiện tại để về sau mình có được một quá khứ đáng nhớ và đáng sống. Nếu quá khứ của mình toàn là những điều không hay thì không gì đau khổ hơn khi mỗi lần nhớ về nó. Vô tình nó trở thành nỗi ám ảnh thay vì là nguồn an ủi trong lúc tuổi già. Sẽ không bao giờ là quá trễ cho những người hôm nay quyết lòng từng ngày thay đổi bản thân!

TRANG GIỚI TRẺ

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

TẠI SAO CHÚA CHO PHÉP ĐAU KHỔ XẢY RA? (tiếp theo)

 

3. Các đau khổ và giới hạn của con người

 

Cũng có những đau khổ do giới hạn của con người gây nên. Vì không phải là thần thánh, nên chúng ta không thể làm mọi việc; và đâu cũng chính là một nguồn sinh ra đau khổ.

Vì có trí khôn nên chúng ta muốn biết hết mọi điều mà loài người biết, và hơn nữa, đi sâu vào bí mật của mọi sự; nhưng tâm trí con người phải tự giới hạn ở một vài lãnh vực nào đó. Chúng ta không thể chuyên môn về mọi thứ, và thế là đau khổ...

Chúng ta vốn thích giúp đỡ hết thảy nhân loại, nuôi dưỡng hết những ai đói khát, dạy dỗ những người thất học, thế mà chúng ta bị bắt buộc chỉ hoạt động tại một điểm rất nhỏ hẹp trên địa cầu này vì thể lực và nghề nghiệp ta có giới hạn: đó là nỗi khổ của biết bao thầy thuốc, kỹ sư, thợ thuyền, linh mục, người trẻ có con tim rộng mở đối với tha nhân!

4. Các đau khổ và tự do của con người

Có một mối liên hệ rất sít sao giữa sự dữ và tự do của con người. Không phải tất cả, nhưng đại đa số các đau khổ của loài người là do họ sử dụng tự do một cách bừa bãi, một điều mà đức tin Kitô giáo gọi là tội lỗi. Mọi tội chống lại Thiên Chúa đều là tội chống lại con người.

Con người chịu trách nhiệm phần lớn về sự dữ mà mình gây ra cho người khác và cho chính mình. Một bé gái 6 tuổi bị chết khi từ trên xe đưa đón bước xuống: đó là thảm cảnh do thiếu thận trọng mà ra. Một ông chồng, tức giận đánh gục tình nhân của vợ mình: đó là thảm cảnh do ghen tương mà ra. Một người mẹ gia đình bị gã bợm nhậu phang cho một ghế thành tàn tật suốt đời: đó là thảm cảnh của chứng nghiện rượu. Một ông lão tự tử và bị gia đình bỏ rơi: đó là thảm cảnh của cô đơn.

Có một quy luật quan trọng chi phối thế giới: đó là luật liên đới. Giữa các tế bào của cùng một cơ quan, giữa các chi thể của cùng một thân thể, có một định luật khiến chúng liên đới với nhau. Mắt không thể không cần tay, mà tay cũng chẳng thể thiếu chân.

Trong nhân loại cũng thế. Các thế hệ, nhất là bởi luật di truyền, tạo thành một cơ quan rộng lớn, một thân thể duy nhất trong đó mọi sự đều đặt làm của chung. Như thế các thế hệ trong quá khứ cũng có trách nhiệm đối với các thế hệ hiện nay và các thế hệ này lại chịu trách nhiệm đối với hậu duệ của họ. Một người đàn bà hút 30 điếu thuốc là mỗi ngày sẽ sinh ra một đứa trẻ yếu ớt hơn những trẻ con khác. Các bệnh viện tâm thần đầy dẫy những đứa trẻ bị suy nhược thần kinh, là nạn nhân của các cha mẹ nghiện rượu.

Định luật này cũng chi phối trong xã hội. Đã có một thời người ta coi nạn đói là một thiên tai mà chẳng ai phải chịu trách nhiệm cả. Ngày nay sự suy dinh dưỡng của một phần lớn hành tinh chẳng phải là một tai hoạ không thể tránh được, mà chính là do phần còn lại kia của hành tinh phung phá các tài nguyên của họ. Trong sự dữ cũng như trong điều thiện, luôn có một sức mạnh lây lan. Có chiến tranh là do quyền lợi. Vô tuyến truyền hình, một phương tiện văn hoá tuyệt vời, có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến sự hư hỏng của các trẻ vị thành niên.  Trong thời đại chúng ta có biết bao thai nhi bị giết ngay trong lòng mẹ, những nạn nhân của nạn phá thai; có biết bao nấm mồ trẻ con, những nạn nhân của các cuộc chiến tranh giữa người lớn với nhau; có biết bao trẻ em bụng trương phù lên vì đói, những nạn nhân do thế giới ích kỷ; có biết bao người trẻ bị rối loạn tâm lý, những nạn nhân của các gia đình bị phân ly.

Như vậy tội lỗi, tức là sự từ khước yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chính là nguồn sinh ra đau khổ. Người ta gây ra sự dữ cho nhau vì kiêu ngạo, ích kỷ, lười biếng, ham mê nhục dục... Kể từ khi những con người đầu tiên nổi loạn chống lại Đấng là Tác giả của sự sống, tội lỗi đã lan tràn như một con sóng đen phủ khắp thế giới, trùm lên từng đứa trẻ sơ sinh, và mỗi người lại làm cho con sóng ấy mạnh thêm với các tội lỗi của chính mình. Có một sự liên đới giữa con người với nhau trong sự dữ.

May mắn thay, còn có một sự liên đới trong sự thiện mang lại cho ta rất nhiều lợi ích thuộc đủ mọi lãnh vực. Chỉ cần nghĩ đến những gì mình mắc nợ với cha mẹ trong sự sống, lương thực và giáo dục thôi thì cũng đủ hiểu. Các bạn cũng hãy nghĩ tới tất cả các vị ân nhân của loài người qua các khám phá trong lãnh vực y học cũng như trong những lãnh vực khác đang phục vụ cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay. Ta cần tới hết thảy mọi người khác để sinh sống, ăn mặc, giải trí, học hành.

Sẽ thật là vô lý nếu ta đòi hỏi Chúa rằng luật liên đới chỉ có tác dụng theo chiều hướng thuận lợi cho ta mà thôi. Bạn có muốn một Đấng Tạo hoá liên tục can thiệp lúc thì để trừng phạt kẻ giết người, lúc thì để chặn đứng một chiếc xe đang lao vào gốc cây, khi khác lại để bắt nạt một cậu thanh niên hút thuốc quá nhiều và đang bị ngộ độc vì thuốc lá? Lúc đó nhân loại sẽ là một bàn cờ với các quân cờ không có sức sống do một bàn tay vô hình điều khiển. Nếu con người bị ép buộc trở thành một người máy chuyên làm việc thiện, thì còn đâu là tự do, là công nghiệp, là sự cao cả của con người?

Thiên Chúa của Kinh thánh thì khác hẳn. Khi nhìn xem thế giới mà mình đã tạo thành, Người thấy mọi sự đều tốt đẹp. Người đã dựng nên con người có khả năng thực hiện tự do, sự tự do này là một kiệt tác mà con người phải thực hiện trong đời mình. Khi làm thế, Thiên Chúa rất liều lĩnh, chấp nhận nguy cơ xảy đến cho mình vì con người có thể chống lại Đấng tạo nên mình; đồng thời cũng chấp nhận rủi ro xảy đến cho con người vì họ có thể làm hại đồng loại của mình.

Do ý muốn của mình, Thiên Chúa đã không dựng nên một thế giới toàn hảo, xong xuôi, một loại "mì ăn liền". Bởi vì tự do của con người gắn liền với cái còn dở dang, chưa hoàn tất. Khi sáng tạo một thế giới bỏ dở, Thiên Chúa muốn con người tự xây dựng chính mình bằng cách nỗ lực kiến tạo, dưới sự thúc đẩy kín đáo của Thánh Linh, một trái đất có thể cư ngụ được và đầy tình huynh đệ.

Thiên Chúa không phải là một người cha độc đoán. Người không muốn ban hạnh phúc cho ta mà không có ta, Người cũng chẳng áp đặt lên ta một thế giới hoàn hảo xa lạ với ta. Người luôn tôn trọng tự do của con người cùng với các khả năng trí tuệ, ý chí và tưởng tượng để cùng một trật làm cho thế giới và bản thân được nên vẹn toàn.

Như ta đã thấy, vấn đề sự dữ phần nào gắn liền với vấn đề tự do của chúng ta. Chính tội lỗi phát xuất từ tự do của ta phải chịu trách nhiệm về sự dữ.

Đây là một lời giải thích đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn chưa đầy đủ. Bởi vì thật khó mà quy kết mọi hình thức của sự dữ cho tự do, như các tai hoạ lớn trong thiên nhiên, sự bất hạnh của người vô tội chẳng hạn. Cũng còn một câu hỏi mà ta sẽ chẳng bao giờ trả lời được. Tại sao là tôi? Tại sao tôi lại mắc bệnh ung thư? Tại sao con tôi lại bị tai nạn giao thông? Tại sao và tại sao lại là tôi? Chẳng thể có câu trả lời hiển nhiên. Có một mầu nhiệm về sự dữ. Ai sẽ soi sáng cho ta? Thiên Chúa có thể áp lực để ngăn chặn sự dữ không? Chúng ta đã rõ là không. Người hoàn toàn không muốn sự dữ, nhưng Người để cho sự dữ xảy ra và chỉ một mình Người có thể rút từ đó ra một ích lợi lớn hơn. Dẫu sao, đối  với chúng ta, Người vẫn thích hoạt động theo lối thuyết phục. Chính vì thế, Người đã gởi Con của mình là Đức Giêsu, đến thế gian. Chính Đức Giêsu cũng đã là nạn nhân của tội lỗi con người.

(còn tiếp)

 

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur:
Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

 

TRANG GIA ĐÌNH

Sau một cuộc chơi chung quanh nhà thờ họ đạo một chiều Chúa nhật, thầy giúp họ nói với Cha Sở: "Có các em chơi như người rừng theo luật rừng bất đếm đến các bạn :bất công, bất nhân, bất lịch sự... chỉ biết thắng bất chấp mọi thủ đoạn, lừa đảo, gạt gẫm, xô đẩy, gây gỗ, tranh cãi, mạt sát bạn thậm tệ, muốn loại bỏ các bạn trong đội chậm chạp, yếu đuối...ngờ nghệch; Cũng có các em chơi một cách hăng say, nhiệt tình, nhưng lễ độ, lịch sự, tôn trọng, yêu quí các bạn, nâng đỡ các bạn yếu, khuyến khích các bạn buồn nản, mệt mỏi, cùng nhau tuân thủ kỷ luật chơi, động viên nhau quyết thắng, nhưng thắng không kiêu, thua không nản, luôn luôn vui vẻ đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau nên người."

 

Cha Sở nhận định: " Vấn đề giáo dục nhân bản cho các em là điều quan trọng. Tôi có đọc Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, trong đó có viết: "Gia dình và Giáo xứ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các đức tính nhân bản cho thiếu nhi đề sau này trở nên những con người hũu ích cho Xã hội và Hội Thánh." Đại hội nhấn mạnh vai trò của gai đình và giáo xứ. Mỗi bên phải làm tốt phận vụ của mình. Ở đây, tôi, cha phó và thầy cùng nhau bàn bạc nội dung học tập và cách thực hành cụ thể, trắc nghiệm khả năng hiểu biết và sống làm người của các em. Chúng sống không ra người làm sao có thể thành con Chúa được. Phận vụ của gia đình, tôi sẽ nhắc nhở cụ thể các gia trưởng và hiễn mẫu."

 

Rồi một ngày đẹp trời 1.5.2011, Cha Sở gặp gia trưởng và hiền mẫu trước lễ chiều, Ngài nói: "Các gia trưởng và hiền mẫu mến, tôi cứ tấm tắc khen vợ chồng bác thợ mộc Giuse tại làng Nazaréth, xứ Galilea mãi. Đúng, hai vị đã dạy bé Giêsu làm người: học ăn, học nói, học gói, học mở, vừa lịch sự vừa tinh tế, khéo léo lễ phép sống với người, sống với đời. Bé Giêsu dễ thương, trọng kính, vâng lời, ngoan ngoãn làm việc giúp đỡ cha mẹ:quét nhà cửa, củi đuốc sẵn sàng, nước nôi đầy đủ...dọn cơm, lấy tăm, bưng nước, dọn bàn, rửa chén. Khách đến nhà cũng biết chào hỏi lễ phép, ăn nói lễ độ, rót nước mời khách ngồi nghỉ dùng nước rồi đi kêu cha mẹ lên tiếp. Trước khi khách ra về, khách tấm tắc khen ngợi ông bà khéo dạy con các đức tính làm người. Một mai ra đời, cậu Giêsu nay sẽ dễ thành công, được mọi người thương mến, và cũng tận tình thương mến mọi người, vì Chúa quên thân, vì dân quên mình sẽ sẳn sàng ra tay cúư giúp mọi kẻ yếu đuối, đau khổ, đói khát...Ai sẻ chống lại cậu? Đó là những người tham lam, ích kỷ, ghen tỵ, hưởng thụ, vụ lợi, ỷ quyền, cậy thế, làm giàu bất chính, chà đạp, bóc lột kẻ khốn cùng, hiếp đáp kẻ cô thế cô thân. Cụ thể giới lãnh đạo Do Thái thấy thầy Giêsu ăn nói lưu loát, dạy giáo lý như rót vào lòng làm đổi thay tính tình, cung cách sống của con người, kẻ tà tâm trở thành thiện tâm, kẻ thu thuế hối lỗi, ông Giakêu ở Giêricô sẵn sàng dâng ½ tài sản giúp người nghèo, hứa lấy của ai một sẽ đền gấp bốn. Bao nhiêu kẻ đau yếu bệnh tật tìm đến với thầy Giêsu đều được chữa khỏi, bữa tiệc Cana hết rượu, thầy cung cấp sáu chum rượu hảo hạng, hàng ngàn dân đói bụng được ăn no mà còn dư thừa."

 

Rút từ kinh nghiệm thực tế, ấy từ mái ấm Nazaréth ấy, Cha Sở xin các gia trưởng hiền mẫu lấy gương sáng đời sống của mình làm mẫu mực cho con cái noi theo, lấy lời khuyên bảo chỉ đường dẫn lối, lấy những hạnh tích trong Thánh kinh và đời sống nhân bản tốt đẹp của các Thánh thời xưa và nay để xây dựng đởi sống làm người cho con cái xứng danh là người không phải là trâu bò, khỉ, chó, vượn người.

 

Một hiền mẫu có trình độ văn hoá đã góp ý với các gia trưởng và hiền mẫu như sau: "Thưa Cha và quí vị, con người và con vật khác nhau ở chỗ con người có lí trí (nhờ đó con người là con vật biết suy tư, biết phán đoán và phân biệt thiện ác), có tự do( không sống theo bản năng như con vật mà sống theo lí tình tương tham), có trách nhiệm (lo làm lành, lánh dữ) có trái tim biết yêu thương (nhờ đó con người biết kính trọng, cư sử tốt với tha nhân, biết nhún nhường với tha nhân, biết nhún nhường dối với nhau, cụ thể là biết kính trên nhường dưới). Khi tạo dựng con người trong mái ấm gia đình, một xã hội thu nhỏ, Thiên Chúa muốn con người biết sống thảo hiếu với Chúa, biết yêu thương và sống tốt với tha nhân, biết tôn trọng, bảo tồn và phát triển tốt môi sinh, môi trường có thể là điều kiện cho con người sống bình an thoải mái, đồng thời có thể là thảm hoạ tiêu diệt con người. Thiên Chúa đặt sẵn nơi cha mẹ khả năng và trọng trách giáo dục con cái, một bổn phận mà cha mẹ phải chăm chỉ thực hiện từng ngày, từng bước không được chuyển nhượng hay uỷ thác cho người khác. Giáo dục cho con cái sống cho ra người đó là nhiệm vụ trước mắt của chúng ta :

 

Người con của cha mẹ, đứa trẻ biết trọng kính nghe, hiểu và thực hiện điều tốt cha mẹ dạy, luôn làm vui lòng và hài lòng cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ và làm hãnh diện cho cha mẹ qua thái độ lịch sự, tử tế và lễ phép, giúp đỡ mọi người. Trước khi tiếp xúc với mọi người, bé tiếp xúc với anh chị trong mọi sinh hoạt gia đình : biết chào hỏi, thưa gửi, biết cám ơn, biết khiêm tốn xin sự giúp đỡ và biết tình nguyện vui vẻ hy sinh giúp đỡ, biết hân hoan quảng đại san sớt, chia sẻ cái gì mình có, không ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ, tham lam...Xã hội là một gia đình mở rộng, một thiếu nhi được luyện tập, có kỹ năng sống làm người trong đi, đứng, ăn mặc, nói năng, hành động, làm việc, học hành, nhất là ứng xử tốt với mọi người sẽ làm cho xã hội có văn hoá văn minh, sẽ làm cho giáo hội hân hoan, sẽ làm cho gia đình sung sướng, hãnh diện : ước mong các gia đình trong gia đình chúng ta làm tốt việc giáo dục con cái này. " Tất cả mọi người có mặt đều vỗ tay tán đồng và hứa sẽ nhất trí thực hiện. Riêng cha sở vui mừng vì có giáo dân tiếp tay nói thay cho mình, lại gây được sự hưng phấn cho giới gia trưởng hiền mẫu thấy được trách nhiệm, cùng nhau tham gia công tác giáo dục con cái, cùng nhau chia sẽ những kinh nghiệm quí báu, để rồi cùng đúc kết những thành bại sau một thời gian thực hiện. Dĩ nhiên sẽ giúp nhau chuyển bại thành thắng và đạt thắng lợi hoàn toàn. Phần cha, cha tự nhủ : "Cha cùng với các cộng sự viên phải làm tốt việc từ hôm nay: Giáo dục thiếu nhi nên người". 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

 

BÀI 5. LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN

I. LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN LÀ GÌ?

1. Ý nghĩa chung:

Linh đạo giáo lý viên là một vấn đề mới được bàn tới gần đây. Giáo lý viên muốn hiểu thì cần nắm vững về ơn gọi, căn tính cũng như vai trò, nhiệm vụ của giáo lý viên đã được trình bày trong bài 2, 3 trên. Linh đạo là đường lối thể hiện và biểu hiện căn tính và vai trò của giáo lý viên trong đời sống của mình.

 

"Linh" có ý chỉ về thiêng liêng; "Đạo" là đường lối trong Kitô giáo những người có một ơn gọi để sống trong một bậc sống thích hợp ơn gọi ấy. Ơn gọi của mỗi người cũng có liên hệ chặt chẽ với năng khiếu và căn tính của họ. Vì thế, ai có căn tính nào thì phải theo đường lối sống đúng với căn tính ấy. Đường lối sống đúng với căn tính thì được gọi là linh đạo. Vậy theo nghĩa chung thì linh đạo là đường lối thiêng liêng để sống đúng với căn tính của mình.

 

2. Nghĩa chuyên môn:

Đường lối thiêng liêng này không phải do mỗi người tự nghĩ ra cho mình để sống theo, nhưng là đường lối do Chúa Thánh Thần chỉ dẫn. Vì Chúa Thánh Thần là Đấng kêu mời mỗi người sống phù hợp với ơn gọi ấy. Vì Chúa Thánh Thần là Đấng kêu gọi mỗi người sống theo ơn gọi, nên Người cũng là Đấng dẫn đường chỉ lối để mỗi người sống phù hợp với ơn gọi ấy. Như thế: Linh đạo là đường lối sống, là nếp sống hoàn toàn vâng theo Chúa Thánh Thần, Đấng giúp mỗi người thường xuyên đổi mới chính mình cho đúng với căn tính của mỗi người.

 

II.  SỰ CẦN THIẾT CỦA LINH ĐẠO

1. Để sống đúng căn tính:

Tìm hiểu về linh đạo cho ta thấy mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa căn tính mỗi người với linh đạo. Mỗi người có ơn gọi căn tính, với vai trò và nhiệm vụ riêng muốn sống đúng với ơn gọi và căn tính ấy thì phải theo một đường lối, một nếp sống thích hợp, không theo một linh đạo thích hợp thì không thể thực hiện đúng ơn gọi của mình.

Thực ra sống theo một linh đạo chẳng qua là một cách hội nhập, một cách thích nghi hay nhập thể ơn gọi vào đời sống đời thường của mình: giáo dân sống đời hôn nhân ở giữa trần thế không thể theo linh đạo của tu sĩ được. Do đó, muốn sống đúng căn tính của mình ta cần phải theo một linh đạo thích hợp.

 

2. Để dễ dàng thành công hơn.

Ơn gọi của mỗi người đều do Chúa Thánh Thần kêu mời, vừa do chính người soi sáng dẫn đường để sống theo linh đạo thích hợp. Việc của ta là vâng theo và để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn.

 

Trong lịch sử Hội Thánh cũng có nhiều người vâng theo Chúa Thánh Thần uốn nắn và họ đã thành công trong việc sống đúng căn tính của mình và trở thành những vĩ nhân trong Hội Thánh gọi là các thánh.

 

3. Các thứ linh đạo:

Hội Thánh dựa vào kinh nghiệm đã sống theo linh đạo của các thánh để trình về linh đạo: linh đạo linh mục; linh đạo tu sĩ; linh đạo giáo dân; linh đạo giáo lý viên.

III. BẢN CHẤT CỦA TẤT CẢ CÁC LINH ĐẠO

Chúng ta đã biết ơn gọi của tất cả những Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ, chính là nên Thánh, là sống thánh thiện, nghĩa là yêu mến Thiên Chúa và làm cho mọi người yêu mến Thiên Chúa, mà linh đạo là đường lối sống thể hiện ơn gọi đó; vì thế: bản chất của tất cả các linh đạo là sống đời sống thánh thiện đi đôi với làm, làm cho người khác yêu mến Thiên Chúa, nghĩa là Phúc âm hoá.

 

1. Sống thánh thiện:

Bất cứ linh đạo nào cũng đều phải là một đường lối giúp người Kitô hữu nên Thánh hay sống thánh thiện.

a. Lý do: Chính Chúa Giêsu đã dạy: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5, 48). Thánh Phaolô cũng khuyên các giáo hữu: sống xứng đáng như các vị thánh (Ep 5, 3). Thật vậy, khi chịu phép Thánh tẩy, Kitô hữu đã nên con cái Thiên Chúađ thông phần vào bản tính Ngài và trở nên Thánh. Vì thế, mọi Kitô hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên Thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình (Hiến chế về Hội Thánh).

b. Ý nghĩa:

Nên Thánh hay nên trọn lành có ý nghĩa là: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức và yêu mến Thiên Chúa thật thì phải khao khát làm cho Thiên Chúa được mọi người mến yêu.

 

2. Đi đôi với việc Phúc âm hoá hay truyền giáo.

Phúc âm hoá là làm cho người khác hiểu và yêu mến Thiên Chúa.

a. Bổn phận:

Kitô hữu đã được Phúc âm hoá rồi thì có bổn phận Phúc âm hoá cho người khác. Đức Gioan Phaolô II đã nói trong tông huấn "Người Kitô hữu giáo dân" "Trong vườn nho Chúa, không một người Kitô hữu được phép ăn không ngồi rồi". Dù là giáo sĩ,  tu sĩ hay giáo dân ai cũng phải truyền giáo, vì tự bản tính Hội Thánh là truyền giáo.

b. Khẩn cấp:

Việc truyền giáo còn là việc khẩn cấp, vì đây là việc phục vụ hàng đầu mà Hội Thánh có thể dành cho mỗi người và cho toàn thể nhân loại trong thế giới hôm nay.

IV. BẢN CHẤT CỦA LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN

Cần phải có một linh đạo riêng cho giáo lý viên, phải phát xuất từ ơn gọi và sứ mệnh của họ, ý nghĩa là giáo lý viên phải vâng theo Chúa Thánh Thần để sống thánh thiện và truyền giáo theo cách của một giáo lý viên giáo dân.

 

1. Sống thánh thiện theo cách của giáo lý viên trần thế:

Linh đạo giáo dân liên hệ chặt chẽ với ơn gọi của Kitô hữu giáo dân. Kitô hữu giáo dân được tham dự vào chức vụ ngôn sứ (Tiên tri); Tư tế; và vương giả của Đức Kitô, theo tính cách riêng của mình. Tính cách riêng đây chính là "Tính cách trần thế".

 

a. Ý nghĩa:

Giáo lý viên giáo dân ở giữa trần thế là có bổn phận làm cho các "thực tại trần thế" (như đời hôn nhân, gia đình, nghề nghiệp,...) thấm nhuần tinh thần Phúc âm và trở nên hoàn hảo và như thế họ làm chứng cho Đức Kitô cách đặc biệt trong việc điều hành những thực tại trên và trong việc thi hành những nghĩa vụ trần thế.

 

b. Thực hành:

Giáo lý viên dùng mọi người hoạt động giáo lý của mình, soạn bài và giảng dạy giáo lý thật chu đáo, để tỏ lòng yêu mến và giúp học viên yêu mến Chúa.

 

Khi giáo lý viên kết hôn thì đời sống hôn nhân cũng dự phần linh đạo giáo lý viên, nghĩa là khi giáo lý viên chu toàn những đòi hỏi hôn nhân của Kitô giáo để vợ chồng yêu thương chung thuỷ với nhau và cùng giáo dục con cái theo luật Chúa. Và như thế thì giáo lý viên làm chứng cho giá trị hôn nhân Kitô giáo và cũng làm cho vợ chồng con cái góp phần vào hoạt động giáo lý của mình, để gia đình thực sự là một "Tụ điểm" trong hoạt động tông đồ.

 

2. Phúc âm hoá theo cách của giáo lý viên giáo dân.

Ở trên đây đã cho biết giáo lý viên giáo dân có vai trò và nhiệm vụ phong phú đa dạng. Đó là những phương thế khác nhau để Phúc âm hoá hay truyền giáo. Giáo lý viên không được lầm tưởng rằng mình cứ lo giảng dạy giáo lý cho học viên đúng tiêu chuẩn là đủ rồi. Nhưng vì là giáo lý viên giáo dân, nên:

Trước hết, chính bản thân:

 

- Giáo lý viên phải quan tâm việc Phúc âm hoá cho mọi người khác hơn giáo dân vì mình có điều kiện hơn, quan tâm bằng lời cầu nguyện và sẵn sàng trao đổi, đối thoại với những ai muốn hiểu biết về Kitô giáo.

- Khi giảng dạy giáo lý cho học viên: Giáo lý viên phải tập cho học viên quen cầu nguyện cho việc truyền giáo, và cũng tập cho học viên, nhất là học sinh biết truyền giáo cho bạn bè mình bằng đời sống chăm ngoan, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè vượt khó.

 

Tóm lại, bản chất linh đạo của giáo lý viên là: sống thánh thiện đi đôi với việc Phúc âm hoá người khác hay truyền giáo, ngay trong lúc chu toàn vai trò và nhiệm vụ của giáo lý viên giáo dân hàng ngày. Giáo lý viên sống thánh thiện để hoạt động giáo lý của mình được sinh hoa kết quả và giáo lý viên dùng mọi hoạt động giáo lý của mình để nên Thánh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: "Người truyền giáo đích thực đó là một vị thánh"

 

V.  LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN ĐƯỢC BIỂU HIỆN NHƯ THẾ NÀO?

Để giúp giáo lý viên dễ sống linh đạo giáo lý viên đúng hơn. Giáo hội đã tóm tắt trong 4 phong cách tức là cung cách, hay cách thức sinh hoạt, làm việc và xử sự, tạo nên dáng vẻ riêng của một người. Linh đạo giáo lý viên có thể được biểu hiện trong bốn phong cách sau đây:

  • Cởi mở với Lời Chúa, bao gồm ý nghĩa cởi mở với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Hội Thánh và với thế giới.
  • Đời sống thống nhất và chân thực.
  • Nhiệt tâm truyền giáo.
  • Tinh thần của Đức Maria.

 

Kết luận: Trong thời đại khoa học kỹ thuật này, muốn thành công trong lĩnh vực vật chất cũng như tinh thần, đều cần phải có đường lối, vừa dựa theo kinh nghiệm. Vừa thích hợp với hoàn cảnh. Giáo lý viên muốn trở thành một giáo lý viên đúng nghĩa một tông đồ của thời đại hôm nay cần tập sống theo 4 phong cách sẽ trình bày tiếp theo.

 

SỐNG ĐẸP

 

Câu Chuyện Cảm Động Về Tình Cha Con

Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy. Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: "Con tặng bố!". Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.           


Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, thưa: "Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!".      

Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ và nói với con thông cảm tha thứ cho ông.   


Đứa con gái nhỏ, sau đấy không bao lâu, qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.        
Trong cuộc sống, chúng ta đã và sẽ nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy tình yêu và những nụ hôn vô tư từ con cái của chúng ta, từ bạn bè, gia đình. Trên đời này, chúng ta không thể có được tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu vô tư như thế.

 

Sưu Tầm

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

 

NGƯỜI MẸ và ĐỨA CON

 

Có một người mẹ và một đứa con. Người mẹ thì xấu xí, gò má gầy còm, và có một con mắt bị trột. Người mẹ hàng ngày bán vé số để nuôi con ăn học, và hằng ngày vẫn đón con đi học về sau khi bán vé số xong.

 


Người con thì mặc cảm với bạn bè trong lớp nên đã nói với mẹ rằng: "con không muốn mẹ đón con ở cổng trường nữa, mẹ hãy đón con cách xa cổng trường một chút để bạn bè không nhìn thấy mẹ của con nghèo nàn, xấu xí và bị trột". Người mẹ đồng ý và đón con cách xa xa cổng trường.


Năm sau đứa con đòi lên tỉnh học, người mẹ đồng ý, và ngày ngày người mẹ phải bán nhiều vé số hơn, phải làm thêm nhiều giờ hơn, để con có tiền ăn học. Trong những năm học đó đứa con lâu lâu về thăm mẹ một lần và cũng chỉ lấy tiền xong rồi đi. Và đứa con đó cũng vào đại học, nhưng cũng hiếm khi về thăm mẹ.


Tốt nghiệp đại, trở thành bác sĩ, nhưng anh vẫn không về thăm mẹ. Và anh đã kết hôn với một người phụ nữ rất xinh xắn và nhân hậu, nhưng anh không mời mẹ lên chứng giám, mà mời một người khác giàu có hơn, cốt là để cho bạn bè biết là mình sinh ra trong một gia đình khá giả, có học thức.


Đám cưới xong anh vẫn không dẫn vợ về ra mắt mẹ. Rồi vợ anh sinh cho anh hai đứa con trai khôn ngoan và bụ bẫm, nhưng anh vẫn không dẫn con về cho bà nhìn cháu một lần.


Và người mẹ đã quyết định lên Sàigòn để kiếm con, nhưng vô tình đứa con trai của bà không có ở nhà, mà chỉ có người vợ và 2 đứa cháu đang nô đùa ở ngoài sân. Bà không dám vào nhà mà chỉ lén nhìn một hồi lâu, mắt rưng rưng và trở về nhà.


Vì sợ bạn bè biết được gia đình của anh nghèo hèn và có một người mẹ trột, nên anh quyết định đưa ba mẹ con sang Singapo sinh sống.


Một thời gian sau, anh có một chuyến công tác từ thiện ở Việt nam, tiện đó anh trở về thăm mẹ thì Bà đã không còn sống, và có một người hàng xóm trao cho anh lá thư.

 

Trong thư viết như sau:

Con yêu của mẹ, khi con đọc được dòng thư này thì mẹ đang ở thế giới bên kia rồi. Mẹ rất hãnh diện vì con đã trưởng thành. Mẹ rất tự hào vì con đã có sự nghiệp.  Mẹ rất vui khi con có được một người vợ hiền lành, đảm đang. Mẹ rất vui vì có hai đứa cháu kháu khỉnh và thông minh. Mẹ còn rất hãnh diện hơn khi đồng hành cùng con suốt nhiều năm tháng qua.  Vì trong những năm con còn nhỏ, con nô đùa chẳng may bị hư mất một con mắt, nên đã lấy con mắt của mẹ thế cho con.


[Sưu tầm]


Câu truyện có thật, ngỡ ngàng, cảm động, cay đắng, đáng trách và nguyền rủa.

- Điều răn thứ Tư của Chúa là thảo kính cha mẹ, vẫn không thay đổi.

- Luật dân sự về báo hiếu cũng vẫn còn. Nhưng nếu luật này thực hiện nghiêm minh, cùng với giáo dục thật tốt về lòng biết ơn ông bà tiên tổ của nhà trường, thì chắc chắn sẽ có ít những mảnh đời, những trường hợp vô cùng thương tâm như vậy.

Con cái dễ có khuynh hướng nhìn về thành quả của mình đạt được, hơn là những tác nhân làm ra thành quả đó. Vì thế, biết bao đóng góp, công sức, hy sinh giúp cho thành công, sẽ trở thành quá khứ, trở thành kỷ niệm.

 

Còn hiện tại phải là của họ, do họ, bởi họ mà ra. Vì vậy, gia đình, cha mẹ, anh em bạn bè, lối xóm, thầy cô, rất có thể trở thành rào cản, ảnh hưởng đến thế giá, danh dự, uy tín, thể diện, kết quả họ đã làm. Họ muốn nhận trọn gói về công phúc, do công sức, tài trí của mình. Thế nên, phủ nhận người thân cho bớt ảnh hưởng đến mình là điều không gì khó hiểu.


Qua câu truyện trên, ta mới thấy được sự nguy hiểm vô cùng về trí khôn, tài năng, mà thiếu lòng từ tâm, thiếu đạo đức. Có kiến thức mà thiếu giáo dục về đạo đức và biết ơn thì thật nguy hiểm. Lòng đạo đức giống chiếc bánh lái, sẽ đưa ta đi đúng đường đúng hướng, biết phân định tốt xấu, phải trái và quyết định làm điều lành, tránh điều dữ.


Qua câu truyện trên, ta lại thấy được tình thương vô cùng lớn lao của mẹ cha. Mẹ cha chẳng tính toán với con cái, không kể công với cháu chắt. Mẹ cha không hề quản ngại, chẳng nề hà việc gì, miễn là có lợi cho con cái là được. Mẹ cha vì muốn con cái hiểu được tình thương của mình, nên đã sẵn sàng chịu thiệt rất nhiều về bản thân. Mẹ cha vì muốn con mình không mặc cảm tự ti với bè bạn và cuộc sống nên đã phải ngậm đắng nuốt cay, phải nhường nhìn, vì thể diện và cả sĩ diện của con cái nữa. Mẹ cha vì con cái nên đã không nghĩ đến bản thân, chẳng màng đến thể diện của mình, sẵn sàng làm mọi sự, chịu thiệt thòi mọi bề, thiếu thốn mọi thứ.


Vì thế, nếu con cái hiểu được mà thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ, cầu nguyện, trân trọng, quý mến cha mẹ, thì đây chính là niềm hạnh phúc lớn lao của các bậc sinh thành. Còn ngược lại thì nỗi đau cắn xé cõi lòng lại tăng cao từ con cái, nỗi tủi nhục lại được kéo dài.


Thanh Thanh 

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Những Việc Mà Đời Người Nên Làm

 

Trong một đời người,những việc mà chúng ta cần làm rất nhiều, nhưng không thể biến tất cả chúng thành hiện thực. Nhưng tôi cho rằng làm việc không nên tham nhiều, chỉ cần làm tốt 5 việc là đủ:   

Việc thứ nhất: Đọc kỹ một cuốn sách. Sách hay có thể làm rung động trái tim của bạn mỗi lần chỉ một cuốn là đủ.

 

Việc thứ 2: Nắm vững một nghề. Giỏi một nghề sẽ làm cho cuộc đời của bạn thiết thực hơn và cũng đủ để nuôi sống gia đình bạn. Đừng xem nhẹ những việc nhỏ mọn. Nhỏ nhưng độc đáo cũng trở thành có giá trị.

 

Việc thứ 3: Có một gia đình hòa thuận. Người xưa nói: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. "Với số đông trị quốc bình thiên hạ hơi xa xôi, nhưng xây dựng một gia đình hòa thuận là có thể làm được và hiện thực hơn rất nhiều. Gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, nếu gia đình bạn là một thành viên tốt thì ngoài xã hội bạn không phải là người quá xấu được.

 

Việc thứ 4: Luôn mang những tình cảm tốt đẹp trong lòng. Chỉ cần lòng ta trong sáng thì thế giới nầy mãi mãi tràn ánh nắng mặt trời. Mà biện pháp duy nhất làm cho lòng được trong sáng là có một trái tim biết yêu, trong trái tim đó chỉ chứa đựng tình cảm tốt đẹp mà thôi .

 

Việc thứ 5: Làm một người tốt. Đừng coi việc thiện nhỏ mà không làm, đừng coi việc ác nhỏ mà làm. Làm nhiều việc tốt nho nhỏ dấn dần sẽ trở thành người tốt. Thế giới nầy có thể không cần nhiều anh hùng, nhiều thiên tài nhưng rất cần nhiều những người tốt.

 

Làm tốt 5 việc bình thường trên đây, cuộc đời bạn sẽ phát ra những ánh sáng kỳ diệu. Có thể cuộc đời bạn không oanh liệt nhưng lòng bạn chân thành, tất cả những việc cần làm bạn đã làm đủ, bạn đã sống đúng với mình, với cả thế gian nầy.Một cuộc đời như vậy chẳng vẹn tròn mãn nguyện lắm sao!

Sưu tầm

 

Dù có sống lâu đến mấy, không ai trong đời có thể thực hiện hết mọi ước mơ của mình. Kiếp sống mau qua! Do đó cần phải định hướng những bậc thang giá trị để sống một cuộc đời sao cho có ích và hiệu quả nhất. Với người Kitô hữu, nền tảng của mọi chọn lựa đó chính là thờ phượng và yêu mến Chúa hết lòng, để rồi biết sống chan hoà, san xẻ với anh em. Từ đó dẫn đến  những những chọn lựa cơ bản khác giúp ta sống tốt đời mình.

 

 GÓC THƠ

PHỤC SINH

Bình minh ló rạng sương mờ tối
Vội bước chân theo lối đến mồ
Dầu thơm bạch ngọc hồ lô
Ướp tình đằm thắm điểm tô đời mình.

Nỗi sầu giọt lệ lòng suy tính
Cửa đá ai lăng, lính hung tàn...
Chợt nhìn đá tảng bên hang
Cửa mồ đã mở hai hàng khăn băng.

Thiên thần đến báo tin chiến thắng
Thân xác Người vinh thắng phục sinh
Tin vui cho vạn sinh linh
Từ trong cõi chết trường sinh muôn đời.

Giê-su Ki-tô nguồn sáng mới
Từ cổ kim ngóng đợi mong chờ
Hoan ca vạn nhạc nghìn thơ
Người người vạn vật quì thờ danh cao.

Tường Vũ

2913    24-04-2012 20:14:54