Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Rao Giảng Tin Mừng Qua Vai Trò Của Người Phụ Nữ - Tháng 05 năm 2002

Chủ đề: RAO GIẢNG TIN MỪNG QUA VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
“Theo gương Đức Trinh Nữ Maria”

 

I. LỜI CHÚA: Ga 20, 11-18

Bà Maria Magđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc, vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ờ nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà : “Nầy bà ,sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà : “Nầy bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông đã để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”. Đức Giêsu gọi bà : “Maria !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Rábbuni !” (nghĩa là “Lạy Thầy”). Đức Giêsu bảo : “Thôi đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà Maria Magđala đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với Bà.

II. Ý CHÍNH BÀI PHÚC ÂM

Maria Magđala, người được Chúa chữa cho khỏi bảy quỉ, đã hiện diện dưới chân thánh giá của Chúa, cùng với những phụ nữ khác, trong giờ phút sau hết và bà được diễm phúc là người đầu tiên được Chúa phục sinh hiện ra với sứ mạng báo tin cho các Tông đồ được biết, vì “bà đã yêu mến nhiều” (Lc 7, 47). Như vậy bà là “Tông đồ của các Tông đồ” (ĐGH Gioan Phaolô II) . Với biến cố nầy, theo một nghĩa nào đó, Đức Giêsu đã tôn vinh vai trò của người phụ nữ, trong chương trình của Thiên Chúa.

II. CHUYỆN MINH HOẠ

HY SINH QUÊN MÌNH

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa tùng có ở Kôbê, nước Nhật. Cả một thành phố hầu như đổ xuống thành đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.

Trong tai hoạ vô cùng khủng khiếp ấy, người ta khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.

Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống. Đứa con nhỏ mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.

Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:
- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?
Chị đáp :

- Tuy bị chôn vùi dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho hai mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói, vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liềm mò mẫn trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút dòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào khóc lên. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa !
- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế chị sẽ chết hay sao ?
- Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

III. DIỄN NGHĨA.

Ngay từ đầu sứ vụ của của Ngài ở trần gian và qua các mối giao tiếp với các phụ nữ mà Ngài gặp gỡ, Đức Giêsu luôn bày tỏ thái độ tôn trọng họ, khác với quan niệm của những người đương thời xem thường giới phụ nữ. Ngài gọi người đàn bà khòm lưng là “con gái Abraham”, khi mà danh xưng “con cái Abraham”, Kinh Thánh chỉ dành để gọi những người đàn ông. Ngài mặc khải mầu nhiệm về “nước hằng sống” cho người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giácob và chị ta đã trở thành “môn đệ” Chúa Giêsu khi loan báo cho cư dân thành Samaritanô biết về Chúa Giêsu và chính họ sau đó đã đón tiếp Ngài và tin vào Ngài (x.Ga 4, 39-42).

Hai người phụ nữ chị của Lazarô là Máttha và Maria được Đức Giêsu dối xử thân tình và yêu mến. Maria được Chúa khen là đã chọn phần tốt nhất “vì biết lắng nghe lời Chúa”; Còn Mattha thì trao đổi với Đức Giêsu về sự sống và sự sống lại. Và một khi bà tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Ngài đã làm cho Lazarô sống lại. Chủ đề Phục sinh mà Đức Giêsu và Mattha trao đổi có một ý nghĩa rất quan trọng trong Tin Mừng.

Đặc biệt, có một số phụ nữ đã đi theo Chúa Giêsu từ đầu sứ vụ công khai của Ngài và đã can đảm trung thành có mặt dưới chân thánh giá, trong khi các Tông đồ thì chỉ có mình Gioan hiện diện (Ga 19, 25; Mt 27, 55).

Vào buổi bình minh của ngày Phục Sinh, chính các phụ nữ là những người đầu tiên : có mặt bên mồ Chúa Giêsu, phát hiện ngôi mộ trống rỗng, ôm chân Chúa Giêsu (x.Mt 28, 9). Họ cũng chính là những người đầu tiên được mời gọi loan báo tin mừng Phục sinh cho các Tông đồ. Đặc biệt Maria Magđala là người phụ nữ đầu tiên chứng kiến tận mắt Đức Giêsu Phục sinh và được sai đi loan báo tin vui cho các Tông đồ. Do đó, bà được gọi là “Tông đồ của các Tông đồ”. Qua biến cố nầy, theo một nghĩa nào đó, Đức Kitô đã xác định vai trò của người phụ nữ ngang hàng với người đàn ông trong chương trình của Thiên Chúa.

Tình yêu, sự can đảm, trung thành, niềm tin, lòng hy sinh quảng đại của người phụ nữ đâu thua kém chi với cánh đàn ông. Câu chuyện của các phụ nữ trong Phúc âm và hình ảnh người phụ nữ ở Kôbê trong câu chuyện trên đây hy sinh mạng sống của mình chỉ với một lý do duy nhất : “Con tôi cần được sống !” là những minh chứng cho thấy giá trị của người phụ nữ, theo ý định của Thiên Chúa, trong cộng đồng nhân loại, nơi mà họ chiếm đến hơn phân nửa số dân của địa cầu.

Tông Thư Mulieris dignitatem.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngày 15 . 08. 1988 đã gửi đến toàn thể dân Chúa Tông Thư Mulieris Dignitatem đề cập đến Phẩm giá và Ơn gọi của người Phụ Nữ nhân dịp Năm Thánh Mẫu. Chúng ta thử tìm hiểu một vài nét cơ bản của Tông thư nầy liên quan đến phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, trong đó, nổi bật vai trò của Đức Maria, xét như là Người Phụ Nữ ưu việt nhất trong con cái loài người.

Dựa trên nền tảng Thiên Chúa tạo dựng loài người có nam có nữ, Đức Thánh Cha triển khai giáo thuyết về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ trong Giáo Hội và trong đời sống xã hội : “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ” (Kn 1, 27).

Ngài cũng dựa vào Thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Thế) , triển khai chương VIII Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Lumen gentium với tựa đề : “Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo Hội”. để nói về Đức Maria xét như là một người phụ nữ.

A. Đức Maria là “người đàn bà” mà Kinh Thánh đề cập đến trong Khơi nguyên 3, 15. Người cũng chính là Người đàn bà mà Đức Giêsu xưng hô trong Tiệc cưới Cana (Ga 2, 4) và khi trối thánh Gioan làm con: “Thưa bà, đây là con bà” (Ga 19,26).

Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Galata đã đề cập đến việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người sinh bởi một người đàn bà : “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con của một người đàn bà” (Gl 4, 4).Ngài không gọi Mẹ Đức Kitô bằng tên riêng là “Maria”, nhưng lại gọi “người đàn bà”, điều đó có liên quan đến “người đàn bà” sẽ đạp nát đầu con rắn mà Sách Khởi nguyên đã báo trước. Trung tâm của biến cố cứu chuộc “khi thời viên mãn” tới sẽ được thực hiện trong bà và qua bà. Với biến cố Truyền Tin và qua lời “xin vâng” của Đức Maria, người đàn bà trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa đã giữ một vị trí đặc biệt : làm Mẹ Thiên Chúa.

Như vậy phẩm giá người phụ nữ “khi đến thời viên mãn” mang chiều kích trổi vượt. Một đàng, Đức Maria được đưa vào mối hiệp thông siêu nhiên với Thiên Chúa qua Đức Giêsu Ktiô và đó cũng là cùng đích mà mỗi người đang sống trên trần gian hướng tới để được thông hiệp với Chúa bây giờ và trong cõi đời đời. Xét theo khía cạnh nầy, thì Đức Maria, “người đàn bà”, là nguyên mẫu đại diện cho toàn thể nhân loại, đàn ông cũng như đàn bà.

Đàng khác, biến cố Truyền Tin lại làm nổi bật một mối hiệp thông chỉ thuộc về “người đàn bà” là Đức Maria : mối hiệp thông giữa Mẹ và Con. Đức trinh Nữ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu mà Đức Maria cưu mang qua lời đáp”xin vâng” vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật cách trọn vẹn, nên Công Đồng Êphêsô năm 431 đã tuyên xưng Đức Maria là : Mẹ Thiên Chúa.

B. Phẩm giá của người phụ nữ.

Thiên Chúa đã dựng nên con người, người nam va người nữ giống hình ảnh Thiên Chúa (x. Kn 1, 27). Con người, nam và nữ là chóp đỉnh của công cuộc tạo dựng. Cả hai bình đẳng với nhau. Giống Thiên Chúa là phẩm tính cơ bản của con người và phẩm tính nầy được truyền lại cho mọi thế hệ con cháu : “Hãy sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất và cai trị nó” (Kn 1, 28). Đấng Tạo Hoá đã giao cho con người ( tất cả mọi người đàn ông cũng như đàn bà ) làm bá chủ trái đất. Do đó, phẩm giá và ơn gọi của con người, nam cũng như nữ, xuất phát từ lệnh truyền chung nầy.

Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Đức Giêsu đã gặp gỡ đủ mọi hạng người phụ nữ, từ những người lành thánh đến những người tội lỗi hoặc những người đau yếu và chúng ta không thấy bất kỳ một lời nói hay thái độ nào của Chúa Giêsu tỏ ra coi thường người phụ nữ, trái lại, lời nói và hành động của Ngài luôn luôn luôn tôn trọng họ, như cách Chúa đối xử với người đàn bà Samaritanô, hay với người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình hoặc với Maria Magđala, người sau nầy được diễm phúc chứng kiến Chúa Phục sinh trước tiên và hơn nữa, được giao phó sứ mạng báo tin mừng cho các Tông đồ. Chúa Giêsu đã xử sự với những người phụ nữ mà Ngài gặp gỡ khác với cách suy nghĩ và hành động của những người đương thời với ngài.

Phẩm giá của người phụ nữ nói riêng hay của loài người nói chung bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người và đã dựng nên họ có đôi, gắn bó mật thiết với nhau, ngang hàng với nhau. Do đó, người đàn ông phải có thài độ kính trọng người phụ nữ như là bạn ngang hàng với mình, chứ không như những món đồ để hưởng thụ hay lợi dụng.

C. Ơn gọi của người phụ nữ : Làm mẹ và sống đồng trinh.

Hai chiều kích ơn gọi của người phụ nữ là sống đồng trinh và làm mẹ. Hoạt cảnh Truyền tin cho thấy cả hai chiều kích nầy đều hội tụ cách nhiệm mầu và bổ túc cho nhau nơi Đức Trinh Nữ Maria, do ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Điều nầy giúp chúng ta khám phá hai cách thế mà người phụ nữ sống ơn gọi của mình : làm mẹ và sống đồng trinh.

Ơn gọi làm mẹ

Ơn gọi làm mẹ xuất phát từ việc kết hợp vợ chồng, khiến cả hai “nên một xác thể” (x. Kn 2, 24). Một sự hiến dâng tự nguyện giữa người đàn ông và người đàn bà, chứ không phải vì lý do muôn chiếm đoạt, thống trị hay sắc dục.

Sự tự nguyện hiến thân của hai người nam và nữ cho nhau trong hôn nhân làm nẩy sinh một con người mới, như quà tặng của tình yêu hiến thân. Việc mang thai và sinh con chính là nét đặc thù của ơn gọi làm mẹ, Như lời của Bà Evà “mẹ của chúng sinh” đã thốt lên “nhờ Chúa, tôi đã được một con người” (Kn 4,1). Cũng chính những lời vui mừng nầy sẽ mãi được thốt lên mỗi khi người đàn bà sinh ra đời một người con. Cha mẹ chính là cánh tay sáng tạo nối dài của Thiên Chúa.

- Con cái là quà tặng mà Tạo Hoá ban cho cha mẹ. Với người mẹ thì con cái là kết quả gắn liền cách đặc biệt với việc”tự nguyện hiến thân”. Lời của Đức Maria trong Ngày Truyền Tin : “Xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền” (Lc 1, 38) bao hàm ý nghĩa của việc tự nguyện hiến thân và cưu mang một mầm sống mới.

- Nguồn gốc của ơn gọi làm cha của người đàn ông và làm mẹ của người đàn bà phát xuất từ mầu nhiệm Một Chúa nhưng có Ba Ngôi. Việc sinh con là kết quả của việc phối hợp vợ chồng. Khi người đàn bà nói : “Em đã sinh cho anh một đứa con”. Điều đó cũng có nghĩa là : “Đây là con của anh”. Dù cả hai là cha mẹ của đứa trẻ, nhưng người mẹ lại đóng một vai trò nặng nhọc hơn, nhất là trong thời gian thai nghén, người mẹ phải hao tổn nhiều tâm lực và sức khoẻ hơn cho đứa bé. Chính vì thế người chồng phải ý trách nhiệm đối với vợ mình trong vai trò làm cha mẹ của đứa trẻ.

- Chính ơn gọi làm mẹ giúp người đàn bà cảm nhận được sự phát triển từ từ của thai nhi trong dạ mình, làm nẩy sinh tâm tình yêu mến mầm sống mà bà cưu mang, như một người con và đồng thời làm phát sinh tình mẫu tử đối với những con người khác nói chung. Người đàn ông, xét như là cha đứa bé, tuy góp phần vào việc hình thành nên đứa con, nhưng ông vẫn ở ngoài tiến trình cưu mang và sinh hạ người con, và ngay cả trong giai đoạn đầu đời của đứa bé sau khi sinh. Cũng thế, tuy việc giáo dục con cái là trách nhiệm chung của cả cha lẫn mẹ, nhưng người mẹ chính là người đóng vai trò quyết định cho việc hình thành nhân cách của đứa trẻ sau nầy.

Ơn gọi sống đồng trinh

Trong một lần giảng dạy, sau khi đề cập đến dây hôn phối liên kết bền vững vợ chồng, Đức Giêsu liền nói đến vấn đề độc thân. Đời sống độc thân Đức Giêsu muốn nói đến ở đây không phải do khiếm khuyết thể lý hoặc do người ta tự gây ra cho mình thành hoạn nhân, nhưng là độc thân vì Nước Trời : “Có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời” (Mt 19, 12).

- Việc sống độc thân vì Nước Trời là một ơn gọi sống hiệp thông với Chúa như trong cõi đời đời, ngay trong thời gian tại thế. Vì là một ơn gọi, nên có sự tự do lựa chọn về phía con người và tác động của ân sũng từ phía Thiên Chúa. Theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Mt. 19, 12 thì cả người nam và người nữ đều được Đức Giêsu mời gọi sống độc thân vì Nước Trời. Việc Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa mà vẫn đồng trinh là bởi phép Chúa Thánh thần : “Uy quyền Đấng Tối cao sẽ bao phủ trên bà” (Lc 1, 35). Việc sống đồng trinh là một ơn ban từ Thiên Chúa. Tin Mừng đã đưa ra ba lời khuyên : khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời cho những ai muốn sống đời thánh hiến, tự nguyện hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.

- Người phụ nữ tự nguyện sống đồng trinh vì Nước trời là sống hiến dâng trọn vẹn toàn thân cho Thiên Chúa, là kết hôn với Đức Kitô như là Phu Quân của tâm hồn. Linh mục hay tu sĩ cũng thế. Khi chọn đời sống độc thân vì Đức Kitô là họ chọn Chúa Kitô làm Phu Quân của tâm hồn mình. Như vậy, người đàn bà, ngay từ thuở ban đầu của công cuộc tạo dựng, được dựng nên để yêu thương và được yêu thương, khi khước từ bậc sống gia đình, đã dâng hiến toàn thân mình để yêu mến và phục vụ Đức Kitô, vị Phu Quân của mình, với đời sống trinh khiết vì Nước Trời.

- Ơn gọi sống khiết tịnh theo Tin Mừng đòi hỏi người phụ nữ khước Từ vai trò làm mẹ thể lý. Đó là một hy sinh lớn lao cho tâm hồn của người phụ nữ, nhưng đồng thời họ cũng cảm nghiệm được một thứ tình mẫu tử khác : đó là tình mẹ thiêng liêng (x. Rm 8, 4). Nơi những người nữ đồng trinh sống đời thánh hiến, họ được những đặc sũng để phục vụ vụ những người yếu đau, khuyết tật, những em bé mồ côi, những người bị bỏ rơi, người già yếu, thanh niên nam nữ, các tù nhân, những kẻ bị bỏ rơi bên lề xã hội không được ai chăm sóc. Họ gặp thấy khuôn mặt của Phu Quân mình là Chúa Giêsu nơi những con người nầy : “Mỗi khi các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong đời sống hôn nhân, tình mẫu tử dù vẫn hướng về những người khác, nhưng đặc biệt dành cho các con cái của mình. Còn trong bậc sống đồng trinh tình mẫu tử thiêng liêng hướng đến tất cả mọi người, những người mà Chúa Kitô, Phu Quân của họ yêu thương.

Bằng đời sống trinh khiết theo ba lời khuyên Phúc Âm, người phụ nữ đã thể hiện một cách tuyệt diệu phẩm giá và ơb gọi của mình. Ơn gọi sống đồng trinh vì Nước Trời là một đòi hỏi tận căn của Phúc Âm : bỏ tất cả mà theo Đức Kitô (x. Mt 19, 17). Sống đồng trinh hiểu như vậy, không có nghĩa chỉ là sống độc thân không gắn bó với một ai, nhưng phải là sống gắn bó mật thiết với Chúa Kitô như vợ với Chồng và hiến dâng toàn thân cho Ngài, không chia sẻ.

Thay lời kết : Những biển báo giao thông bên đường.

Chúa dạy chúng ta phải “yêu thương người thân cận”. Người khác hay người thân cận đây chính là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con cái, là bà con dòng họ, là bạn hữu,là hai nhà bên cạnh, vách liền vách. Chúng ta không thể nói rằng mình yêu thương “người khác” ở tận đâu đâu, trong khi những người người gần gũi, thân cận nhất với mình thì lại không thương. Không thể có tình yêu thương chân thật đối với một ai đó, khi mà chính cha mẹ mình thì người ta lại không thương được.

Rất nhiều khi chúng ta đã quên lãng những ngươi thân yêu nhất trong cuộc đời mình : cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn hữu thân tình. Sự hiện diện thường xuyên của họ trong cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta có cảm giác đó là điều tất nhiên. Họ giống như những tầm biển báo giao thông bên đường mà ta đi qua biết bao lần, không cảm thấy cần phải dừng lại, để nhìn, để lắng nghe. Cũng giống như đứa bé được mẹ chăm sóc, được cho ăn no, được mặc tươm tất, được dặn dò, trước khi đến trường..để rồi một buổi chiều khi trở về nhà, không thấy mâm cơm dọn sẵn, vì mẹ không còn, nó cảm thấy hụt hẫng.

Sẽ là muộn màng và xót xa cho chúng ta, nếu chúng ta không quan tâm yêu mến những người thân yêu ngay bên cạnh mình.

Thuờng chúng ta dễ thông cảm, vui vẻ, tha thứ cho những người mà chúng ta ít nhiều quen biết, trong khi lại khó thứ tha, chia sẻ và tạo không khí vui tưoi hoà nhã với những người thân thương của mình, bởi vì chúng ta đi tìm mình, hơn là sống cho người khác, qua việc khoác cho mình một vỏ bọc vui tươi, cởi mở bên ngoài.

Ca dao Việt Nam có câu :
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lao
Mẹ già quý như chuối già hương chín thơm ngon, như xôi nếp mật vừa dẻo vừa thơm và ngọt thanh như đường mía lao. Cha mẹ già là vốn quý mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người. Hãy tỏ lòng kính trọng yêu thương, sống cho vui lòng các ngài là chúng ta đền đáp phần nào tình thương trời biển mênh mông mà các ngài đã trao ban cho chúng ta và cũng là sống theo giới luật của Chúa và làm đẹp lòng Người .

V. CẦU NGUYỆN

Xin chúa cho mọi người biết nhìn nhận và đánh giá đúng mức vai trò cũng như phẩm giá của người phụ nữ qua việc học hỏi những phẩm tính cao đẹp nơi Đức Trinh Nữ Maria. Amen

VI. HỌC LỜI CHÚA : Ga 20, 18

“Bà Maria Magđala đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với Bà”.


VII. ÁP DỤNG THỰC HÀNH.

ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ

Cứ mỗi lần thay tã cho con, tôi lại tự hỏi tại sao tôi đã chọn đời sống hôn nhân chứ không là độc thân ! Tôi vẫn thường mơ ước sự cô tịch trong đời sống tu viện, để có thể kết hiệp với Thiên Chúa ngày càng mật thiết hơn. Nhưng khi trải qua những năm tháng của đời mình, tôi mới hiểu rằng chính nhờ kinh nghiệm của một người Mẹ mà tôi đã cảm nhận được và trưởng thành hơn trong quan hệ với Thiên Chúa...

Linh đạo của tôi cốt là trong và xuyên qua vai trò làm Mẹ. Thiên Chúa dùng các con tôi để mạc khải cho tôi về chính Người. Qua các con mình, tôi nhận thấy tất cả những ý niệm về Thiên Chúa mà tôi đã học và đã đọc trước đây, bây giờ mới trở thành hiện thực và sống động.

Trên đây là lời tâm sự rất chân tình của một bà mẹ có ba đứa con, người Hoa Kỳ, tên là Denise Anderson , đồng thời bà cũng muốn mời gọi các chị em phụ nữ sống thánh bằng cách phát huy vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội, với những lời xác quyết như sau :”Thay vì đến nhà thờ người ta mới cầu nguyện được, gia đình cũng là một cung thánh, một bàn thờ, mà tế phẩm là tất cả những giây phút của cuộc sống, những giây phút ấy đã được thánh hiến nhờ con người và những sinh hoạt trong gia đình”.

Làm thế nào để các chị em phụ nữ có thể phát huy vai trò của mình ? Trước hết, chúng ta hãy xem ĐGH Gioan-Phaolo II đã nói gì trong thư gửi phụ nữ nhân dịp năm quốc tế gia đình 1994.

THƯ ĐỨC GIÁO HOÀNG GỬI PHỤ NỮ. (Trích từ số 4 đến số 8)

Thiên chức làm mẹ.

4. Chúng ta nói gì về những cản trở ở nhiều nơi trên thế giới còn kìm giữ phụ nữ không hội nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, chính trị và kinh tế ? Chúng ta chỉ cần nghĩ ngay tới việc thiên chức làm mẹ thường bị trừng phạt hơn là tán thưởng, mặc dù nhân loại mắc nợ chính sự sống còn nơi thiên chức này. Điều chắc chắn là còn nhiều cái phải làm để ngăn ngừa sự kỳ thị chống lại những người đã chọn làm vợ và làm mẹ. Do các quyền cá nhân, có một nhu cầu cấp bách phải hoàn tất để được bình đẳng thực sự trong mọi lãnh vực : bình đẳng tiền lương đối với công việc đồng đều, bảo vệ cho các bà mẹ đi làm, thăng thưởng xứng đáng trong nghề nghiệp, bình đẳng của vợ chồng về các quyền lợi gia đình và thừa nhận tất cả những cái làm nên quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong một quốc gia dân chủ.

Đây là vấn đề công bằng nhưng cũng cần thiết nữa. Phụ nữ sẽ giữ vai trò nhiều hơn trong việc giải quyết những vấn đề của tương lai, thời giờ nhàn rỗi, chất lượng của cuộc sống, di cư, dịch vụ xã hội, chết êm dịu, ma túy, dịch vụ sức khỏe, môi sinh ..v..v. Trong tất cả những lãnh vực này, sự hiện diện của phụ nữ trong xã hội dần dần càng chứng tỏ có giá trị nhất, vì nó giúp bộc lộ các mâu thuẫn ra, khi xã hội tổ chức chỉ dựa theo tiêu chuẩn hữu hiệu và sản xuất nhiều, và nó sẽ thúc bách các hệ thống tổ chức lại theo một cách thuận lợi cho tiến trình nhân bản hóa là cái làm nổi bật nền văn minh tình thương.

Tình trạng của phụ nữ trên thế giới.

5. Cũng thế, khi chúng ta nhìn vào một trong các khía cạnh bén nhạy nhất của tình trạng phụ nữ trên thế giới, làm sao chúng ta lại không nhắc tới lịch sử dài dẵng và xuống cấp, nhiều khi là một lịch sử “ngầm dưới lòng đất”, của những bạo hành đối với phụ nữ trong lãnh vực tình dục ? Ở ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba chúng ta không thể ở mãi trong dửng dưng và khước từ trước hiện tượng này.

Đã đến lúc cần phải cực lực lên án các loại bạo hành tình dục thường nhắm vào phụ nữ như là đối tượng và cần phải thông qua những luật lệ bảo vệ hữu hiệu họ khỏi những bạo hành như thế. Chúng ta cũng không được bỏ qua, nhân danh phẩm giá con người, việc kết án nạn dâm ô lan tràn và nền văn minh thương mại thường khuyến khích sự khai thác dục tính có hệ thống và làm hư hỏng cả những thiếu nữ còn rất trẻ vào việc sử dụng thân xác để có lợi lộc.

Đối nghịch lại với những loại đồi trụy này, cần phải đánh giá cao những phụ nữ có một tình yêu anh hùng dành cho đứa con mình cưu mang, tiếp tục mang thai, cái kết quả của hành động cưỡng hiếp bất công. Ở đây chúng ta nghĩ tới ô trọc xảy ra không những do hoàn cảnh chiến tranh rất thông thường trên thế giới, mà ngay cả trong những xã hội phồn thịnh và an ổn nhưng lại thường bị tàn phá vì nền văn minh dâm ô yếm thế là cái khích động những khuynh hướng tấn công nơi tác phong của nam giới. Trong những trường hợp này việc lựa chọn phá thai luôn luôn là một tội. Nhưng trước khi trách cứ người phụ nữ điều gì thì tội cần phải gán cho nam giới và sự đồng lõa của môi trường xã hội.

Kêu gọi phần đóng góp của phụ nữ.

6. Như thế lời cám ơn của tôi đối với các phụ nữ trở thành một lời kêu gọi tự đáy lòng với mọi người và một cách đặc biệt các quốc gia và các tổ chức quốc tế, phải làm mọi cố gắng để bảo đảm rằng phụ nữ lấy lại được sự kính trọng xứng đáng về phẩm giá và vai trò của họ. Ở đây tôi không thể không bộc lộ sự thán phục của tôi đối với các phụ nữ thiện chí sẽ cống hiến cuộc đời mình để bênh vực phẩm giá của phụ nữ bằng cách tranh đấu cho các quyền lợi căn bản của họ về xã hội, kinh tế và chính trị, nói lên những sáng kiến can đảm vào những lúc mà điều này bị coi là không phù hợp, là một dấu hiệu của sự thiếu sót nữ tính, là một biểu dương phô bày và ngay như là một tội.

Trong sứ điệp ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, tôi đã lưu ý rằng khi người ta nhìn vào các tiến bộ lớn lao của tiến trình giải phóng phụ nữ, “cuộc hành trình còn nhiều khó khăn phức tạp, nhiều khi có những sai lầm nữa. Nhưng nó vẫn là một điều tích cực lớn lao mặc dù chưa hoàn thành vì nhiều cản trở nơi nhiều phần đất trên thế giới còn ngăn cản việc nhìn nhận, kính trọng và đánh giá cao phụ nữ nơi phẩm giá tự nó là đặc biệt”.

Cuộc hành trình này phải được tiếp tục ! Tôi xác tín rằng bí quyết đạt được tiến bộ nhanh chóng cho việc kính trọng phụ nữ và bản sắc của họ ở chổ không chỉ đơn sơ kết án sự kỳ thị và bất công dù là cần thiết. Sự kính trọng đó trước hết và trên hết phải đạt được do một chiến dịch hữu hiệu và sáng suốt để thăng tiến phụ nữ, tập trung vào tất cả lãnh vực cuộc sống của phụ nữ và khởi đầu với việc nhìn nhận bao quát phẩm giá của phụ nữ. Khả năng nhìn nhận phẩm giá này nơi chúng ta mặc dù điều kiện lịch sử, đến từ lý trí vốn có khả năng hiểu biết luật của Thiên Chúa trong trái tim mỗi người. Hơn hết mọi sự, Lời Chúa giúp chúng ta có thể nắm rõ ràng được nền tảng nhân chủng cuối cùng của phẩm giá nơi phụ nữ, một chứng cớ rõ ràng như là thành phần của chương trình của Chúa đối với nhân loại.

Nền tảng phẩm giá phụ nữ

7. Quý chị em thân mến, cùng nhau chúng ta hãy suy niệm một lần nữa đoạn Thánh Kinh huy hoàng diễn tả cuộc tạo dựng loài người và có nhiều điều để nói về phẩm giá và sứ mệnh của quý chị em trong thế giới.

Sách Khởi Nguyên nói đến tạo dựng trong kiểu cách tổng quát, theo một thứ ngôn ngữ thi ca và biểu tượng, tuy nhiên rất đúng sự thực :”Thiên Chúa tạo dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài và theo hình ảnh của mình, Ngài dựng nên họ, Ngài dựng nên có nam có nữ” (Gen 1, 27). Hành vi sáng tạo của Thiên Chúa diễn ra theo một chương trình chính xác. Trước hết, chúng ta được biết con người được dựng nên “theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa” (Gen 1, 26). Kiểu diễn tả này lập tức làm sáng tỏ điều đặc biệt về con người đối chiếu với toàn thể tạo vật.

Do đó chúng ta biết rằng ngay từ đầu, con người được dựng nên “có nam có nữ” (Gen 1, 27). Chính Thánh Kinh cung cấp lời giải thích của sự kiện này : mặc dù con người có vô số thụ tạo của vũ trụ được tạo dựng này, nó vẫn nhận ra rằng nó lẻ loi (Gen 2, 20). Thiên Chúa can thiệp để giúp nó trốn thoát khỏi tình trạng cô độc :”con người phải ở một mình là điều không tốt, Ta sẽ dựng nên cho nó một cái trợ giúp xứng hợp với nó” (Gen 2, 18). Do đó việc tạo dựng người nữ đánh dấu hệ luận của nguyên tắc sự trợ giúp, một sự trợ giúp không đơn phương nhưng hỗ tương. Người nữ bổ túc cho người nam và người nam bổ túc cho người nữ, nam nữ đều được bổ túc. Nữ tính biểu lộ tính người cũng như nam tính biểu lộ vậy, nhưng trong cách thế khác nhau và bổ túc cho nhau.

Khi sách Khởi Nguyên nói về “cái trợ giúp”, không chỉ đề cập đến hành động mà còn đến hiện hữu nữa. Nữ tính và nam tính bổ túc không những về thể lý và tâm lý mà cả về hữu thể nữa. Chính nhờ song tính của nam và nữ mà con người được thể hiện đầy đủ.

Ý nghĩa sự bình đẳng

8. Sau khi tạo dựng nên con người có nam có nữ, Thiên Chúa nói với cả hai :”Hãy làm đầy mặt đất và cai trị nó” (Gen 1, 28). Không những Chúa ban cho họ quyền sinh sản như là phương thế để lưu truyền dòng giống loài người qua mọi thời đại, Ngài còn cho họ trái đất, trao cho họ sử dụng các tài nguyên của nó. Trong tư cách là con người có lý trí và tự do, họ được mời gọi biến đổi trái đất.

Trong nghĩa vụ này, cốt yếu của việc canh tác, người nam cũng như người nữ đồng chia sẻ trách nhiệm ngay từ đầu. Trong tương quan kết quả như là vợ chồng, trong nghĩa vụ chung chế ngự trái đất, người nam và người nữ không được ghi dấu bởi sự bình đẳng cứng nhắc không khác biệt cũng không bởi sự khác biệt xung đột không thể hàn gắn. Mối quan hệ tự nhiên nhất của họ theo chương trình của Chúa là hiệp nhất của hai, là mối tương quan duy nhất trong hai, là cái làm cho mỗi người có thể cảm nghiệm sự liên hệ song phương và hỗ tương như là món quà làm phong phú và thông ban trách nhiệm.

Để “duy nhất của hai”, Thiên Chúa không những trao cho họ việc sinh sản và cuộc sống gia đình, mà cả việc tạo dựng lịch sử nữa. Trong năm 1994 là năm Quốc Tế Gia Đình đặt trọng tâm vào người nữ như là mẹ, thì Hội Nghị Bắc Kinh có đề tài là “Hành động cho bình đẳng, phát triển và hoà bình”, cung cấp một cơ hội đáng ước mong để gây ý thức về những đóng góp của phụ nữ cho cuộc sống của toàn thể xã hội và quốc gia.

Tự bản chất sự đóng góp này thuộc về văn hoá và thiêng liêng cũng như xã hội, chính trị và kinh tế. Nhiều khu vực khác nhau của xã hội, dân tộc, quốc gia, và sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, chắc chắn mắc nợ sâu xa nơi sự đóng góp của phụ nữ. (Trích Apostolat mondial de Fatima, No 16 . Hiver 1995, p.11-12 )

II. LỜI NGỎ.

Cùng các chị em phụ nữ, trong khi nhận định tình trạng chung của phụ nữ trên thế giới, Đức Giáo Hoàng đã đề cao vai trò và trọng trách của chị em. Ngài xác nhận rằng “nhân loại mắc nợ chính sự sống còn nơi thiên chức làm mẹ” của chị em, và kêu gọi chị em cũng như mọi người phải biết quí trọng và tán thưởng thiên chức ấy, Ngài kêu gọi mọi người , các quốc gia, các tổ chức quốc tế đem lại sự bảo đảm xứng đáng về phẩm giá và vai trò của chị em phụ nữ.

Để đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, thiết tưởng chính các chị em là những người trước tiên nên nhìn lại vai trò và trọng trách của mình trong gia đình, rồi tìm ra những điều kiện cần có để chu toàn thiên chức ấy.

VAI TRÒ VÀ TRỌNG TRÁCH
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH.

Theo “ Cẩm nang xây dựng hạnh phúc gia đình”, thì từ bản chất yếu mềm, người phụ nữ thích được “núp bóng tùng quân”, khiến cho nhiều người, nhất là người đàn ông, thường nghĩ rằng người phụ nữ chỉ có thể giữ một vai trò phụ thuộc, kém hơn chồng. Thực ra là một vai trò khác hơn, cần thiết bổ sung cho chồng những gì mà các ông không cáng đáng nổi, chứ không phải là tầm thường, phụ thuộc, kém giá trị hơn : đó là thiên chức làm vợ, làm mẹ.

1 / Vai trò của người phụ nữ trong gia đình.

Nếu người đàn ông có thể tự hào về sức mạnh, tài trí để làm những việc nặng nề, to lớn hơn vợ, có tài “kinh bang tế thế” ngoài trường đời hơn vợ, thì chắc chắn các ông sẽ phải đầu hàng, thối lui trước công việc mang nặng đẻ đau, kiên nhẫn và tinh tế trong việc tề gia nội trợ, phục vụ chồng con của những người vợ. Có nghĩa là Thiên Chúa đã vô cùng khôn ngoan sáng suốt khi tạo nên người nam và người nữ với hai bản chất khác nhau, để đảm nhận hai vai trò khác nhau. Cả hai bổ sung cho nhau chớ không giẫm chân lên nhau. Dường như trong gia đình đã vốn sẵn có một sự phân nhiệm tự nhiên cho hai người :

- Nếu người chồng là rường cột chống đỡ cho gia đình, thì người vợ là sợi dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương, hạnh phúc.
- Nếu người chồng là người đứng mũi chịu sào, đặt kế hoạch, tạo điều kiện kinh tế chính
Cho gia đình, thì người vợ lại là một người quản lý tốt, quán xuyến, sắp xếp mọi công việc trong nhà và bảo vệ tổ ấm gia đình hơn mọi người khác.
- Nếu người chồng là lý trí, là khối óc sáng suốt để chỉ huy, hướng dẫn cho gia đình như một ông thuyền trưởng chỉ huy con tàu, thì người vợ chính là một tài công khéo léo điều động con tàu đến Mục tiêu đã định.
- Nếu người chồng là biểu tượng của quyền uy, nghiêm nghị và cứng cỏi, là khuôn mẫu và kỷ luật, thì người vợ là sự dịu dàng, mềm mỏng, cởi mở để con cái được thoải mái, dễ chịu trong khuôn khổ gia đình.
- Sau cùng, nếu cần đối phó với một xã hội, một cuộc sống đa đoan, phức tạp, muôn mặt, khi sự cứng rắn và sức mạnh của người chồng không đủ đáp ứng, hoặc không phù hợp, thì đã có sự khôn ngoan, tế nhị, mềm mỏng của người vợ bổ sung vào để đạt kết quả.

Đó là vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình, bên cạnh người chồng, người cha.

2 / Trọng trách của người vợ, người mẹ.

Thật là một thiên chức vô cùng cao cả của người phụ nữ mà Thiên Chúa đã phó trao : với một chất thể yếu đuối, người phụ nữ sau khi được ơn gọi nên một với chồng, đã nhận lãnh trách nhiệm cưu mang nặng nề và sinh con trong muôn nghìn nguy hiểm có thể xảy ra, để cộng tác với Thiên Chúa trong công việc truyền sinh cao cả ! Từ đó, với ơn đức và tình yêu thương bao la của Thiên Chúa, cộng với phúc ấm tổ tiên, và đức độ của vợ chồng, những đấng thánh nhân, những bậc vĩ nhân, những ân nhân của nhân loại có thể được tạo nên từ lòng người mẹ ! Và người vợ, người mẹ đó sẽ hy sinh, sẽ cống hiến cả cuộc đời mình để làm trọn vai trò, trọng trách mà Thiên Chúa đã trao phó, chỉ bằng sự yếu đuối của thân xác, với một trái tim đầy yêu thương ! Nhiều khi sự đóng góp cao cả nhưng trong âm thầm ấy, người phụ nữ đã bị bạc đãi, bị lãng quên.

Những sự bạc đãi đau đớn nhất cho người vợ, người mẹ là sự lãng quên, ơ thờ của người chồng, và sự ngỗ nghịch, vong ân của những đứa con mà người vợ, người mẹ ấy đã hết tâm yêu thương và phục vụ,

Ngược lại, dù cuộc đời có phũ phàng, dù bao sóng gió có dập dồn xô tới, người vợ với bản chất mỏng dòn, vẫn đủ sức đủ kiên nhẫn đối phó, chịu đựng vượt qua nếu như có sự cảm thông, nâng đỡ và yêu thương của chồng con.

Lời trần tình này được nói lên một cách chân thành, để kêu gọi những người làm chồng hiểu biết trách nhiệm của mình là luôn chở che, nâng đỡ và dìu dắt “cộng sự viên” của mình, món quà quí báu mà Thiên Chúa đã thương trao tặng cho người nam theo đúng nhu cầu và ước vọng của họ.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ
ĐỂ NGƯỜI PHỤ NỮ CHU TOÀN THIÊN CHỨC.

1 / Trong xã hội đông phương cũ :
Những điều kiện mà gia đình và xã hội yêu cầu người phụ nữ phải có thì rất rõ. Đó là :
* Tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh, là bốn đức tính phải có của người phụ nữ.
* Tam tòng : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, là “đường đi” bó buộc người phụ nữ phải theo.
* Ngũ luân : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, là những luân lý ràng buộc mà đã làm người ai ai cũng phải có, chẳng phân biệt nam hay nữ.
* Ngũ thường : năm đạo thường hằng mà con người phải giữ với nhau : quân thần , phụ tử , phu phụ , huynh đệ , bằng hữu , được đối ứng bằng đạo trung , hiếu , tiết , nghĩa , thì người đàn bà cũng phải giữ đủ không riêng gì đàn ông ! Riêng trong đạo “phu thê” còn đòi buộc người đàn bà tuân giữ khắt khe, nặng nề hơn.

Trong chế độ đa thê, người chồng có quyền cưới nhiều vợ, ngược lại, sự “chính chuyên” bó buộc người phụ nữ phải giữ đúng điều kiện : chung thuỷ và tuyệt đối phục tùng chồng. Chung thuỷ cả đến khi chồng đã chết, người đàn bà vẫn phải ở vậy thờ chồng nuôi con.

Bước thêm bước nữa thì người phụ nữ đó sẽ lãnh muôn vàn tiếng chê bai, chỉ trích của gia đình và xã hội, bị coi là lỗi đạo, là không chính chuyên, là hạng đàn bà trắc nết.

2 / Trong xã hội hiện tại :

Sự quan hệ mở rộng giữa nhân loại trên thế giới hiện nay đã không còn duy trì những chênh lệch, khác biệt quá xa giữa quan niệm của Đông và Tây về đời sống xã hội cũng như gia đình. Do đó, cách chung những yêu cầu cho người phụ nữ Đông, Tây ở mức trung dung hợp lý, có phần tương đồng nơi các điểm chính sau đây, để người phụ nữ có thể chu toàn bổn phận trong gia đình :

Về tinh thần :
- Nhiệm vụ đòi hỏi các kiến thức cần có về mọi lãnh vực : Tình cảm, tâm lý, sinh lý, y tế, giáo dục, đạo đức . . . Để người phụ nữ biết cách hành xử cho đúng vai trò, trách nhiệm của mình với chồng con, cũng như sắp xếp việc nhà, nuôi dạy con cái.

- Sự khôn ngoan, tinh tế để đối ứng với mọi hoàn cảnh khó khăn trong gia đình và ngoài xã hội, để bảo vệ duy trì và phát triển gia đình, tạo hạnh phúc : chẳng hạn cư xử với gia đình bên chồng, làm trung gian tốt để duy trì hoà khí giữa bố mẹ, anh em mình với chồng, thực hiện sự trung gian giữa chồng và con để bảo đảm hạnh phúc . . . Khi mà người chồng nóng nảy, hay không hiểu, không cảm thông được với con.
- Sức mạnh tinh thần là lòng can đảm, kiên nhẫn chịu đựng và vượt qua những gian lao thử thách với mọi phía của cuộc sống.
- Sự phục thiện, biết chấp nhận lẽ phải và muốn sửa đổi theo chiều hướng vươn lên.
- Đức hy sinh và vị tha để đem hạnh phúc cho người khác.
- Lòng đạo đức, nhân ái cũng như sự đoan chính, tín trung và sự siêng năng làm việc.

B. Về thể chất:
Để thể hiện được những yêu cầu của gia đình, của chồng con và những người chung quanh, người phụ nữ cũng cần có một thể chất khoẻ mạnh, nét duyên dáng đáng yêu, được phối hợp với một nghệ thuật làm đẹp cho cả thể xác lẫn tâm hồn.

Ở lãnh vực “nghệ thuật làm đẹp”, một chuyên gia có khuyên những người phụ nữ một câu đầy kinh nghiệm và ý vị :”Các bạn gái hãy tận dụng mọi phương cách là đẹp, nhưng giữ lại sự thuỳ mị, khiêm tốn”. Câu nói này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ cùng với những câu danh ngôn khác nói về cái đẹp như :”Bàn tay đẹp là bàn tay làm được nhiều việc tốt, xoa dịu những vết thương, giúp đỡ người già yếu, làm tươi mát gia đình và tạo hạnh phúc cho mọi người… hay “cái nết đánh chết cái đẹp…”v.v.

c. Tài quán xuyến.

Người “nội tướng” rất cần đến tài quán xuyến đảm đang thu vén việc gia đình, tề gia nội trợ, biết may thêu, bánh trái, cơm ngon canh ngọt cho chồng con, đó cũng là yếu tố quan trọng để xây dựng hạnh phúc gia đình mà bất cứ người phụ nữ nào, thời nào, giai cấp nào cũng cần có.

KẾT

Vai trò của người phụ nữ trong gia đình rất quan trọng. Họ được dựng nên bình đẳng với người nam, nhất là được quyền cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh và giáo dục con cái. Người phụ nữ cũng được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cao quí, khi Chúa Giêsu mặc lấy xác phàm từ Đức Trinh Nữ Maria, mà Hội Thánh gọi là Mẹ Thiên Chúa, là Evà mới, là kiểu mẫu người nữ được cứu độ. Chúa Giêsu cũng tỏ tình thương tế nhị đối với các phụ nữ : sau khi sống lại, Ngài hiện ra cho Maria Magdala trước khi hiện ra cho các tông đồ, và sai đem Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ.

Vì vậy, dù tôn trọng sự khác biệt giữa người nam và người nữ, Hội Thánh phải đề cao cách đặc biệt sự bình đẳng, quyền lợi và phẩm giá của phụ nữ trong Hội Thánh, trong gia đình và xã hội, đi ngược với trào lưu lạm dụng, mua bán , khinh thường phụ nữ.

Để phát huy vai trò của phụ nữ, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nhắc nhỡ phụ nữ nên cổ vũ “một thuyết nữ quyền mới” : nhận thức mới này mà người phụ nữ đạt được về bản thân mình, giúp các người đàn ông xem xét lại những hệ thống tư duy của họ, cách họ tự hiểu mình, tự đặt mình vào trong lịch sử và giải thích nó, cùng tổ chức đời sống xã hội, chính trị kinh tế, tôn giáo và Giáo Hội.

Và trong viễn ảnh đó, họ sẽ vui mừng nhận thấy Giáo Hội, trong khi vượt lên trên mọi kỳ thị, đón nhận như một lời chúc lành đích thực, những hồng ân của Thiên Chúa đã tuôn tràn trên cả đàn ông lẫn phụ nữ, họ đều được quí trọng trong tư cách bình đẳng của họ.

VIII. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN


GỢI Ý SÁM HỐI.

Xin Chúa tha thứ cho những lời nói và việc làm không phù hợp với đức tin Kitô-giáo.
Xin Chúa tha thứ cho những lời nói và việc làm của con đã coi khinh phẩm giá và nhân cách người phụ nữ.
Xin Chúa tha thứ cho những thờ ơ ,không tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời, hoặc những việc tôn sùng quá đáng ,mê tín dị đoan.

Kêu mời: Anh chị em và các bạn trẻ thân mến,
Sáng sớm ngày Chúa nhật phục sinh, Chúa Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chị em đừng sợ, hãy về báo tin cho anh em của Thầy để họ đến Galilêa, ở đó họ sẽ gặp Thầy”. Rồi trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Thế nên, dù là nam hay nữ, những người trẻ chúng ta hôm nay, có bổn phận làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho sứ mạng cao quí của mình được hoàn thành trong môi trường giới trẻ của chúng ta:

Khi nhận Bí tích Rửa Tội, người Kitô-hữu đã hứa từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu luôn sống điều mình đã hứa và cho dù trong cảnh ngộ nào, cũng phải trở nên những chứng nhân Tin Mừng, đáng tin cậy cho mọi người.

Đã qua 2000 năm Kitô-giáo, nhưng người Kitô-hữu chưa được một phần ba dân số thế giới, (có lẽ Chúa Giêsu còn cần sự cộng tác tích cực của người trẻ hôm nay). Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em chưa tin Chúa Kitô, được ơn Chúa thúc đẩy, nhận thấy Chúa Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất trần gian, qua các chứng nhân sống động của các Kitô-hữu, để cùng nhau tiến tới Nước Trời.

Chúa Giêsu đã ân cần giao phó một số việc hệ trọng cho các chị em phụ nữ; hơn nữa, Mẹ Maria rất hoàn hảo trong việc thực thi sứ mệnh đồng công cứu chuộc. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần xã hội, biết tôn trọng và phát huy vai trò của người phụ nữ trong đời sống gia đình, xã hội và Giáo Hội ở mọi nơi.

Nữ giới thì nhiều hơn nam giới; hơn nữa, xét về tâm lý giới nữ có những đức tính đáng trân trọng. Chúng ta cầu xin cho giới nữ biết quí trọng các đức tích cá biệt của mình, mà góp phần xây dựng xã hội ngày càng tươi đẹp hơn; đồng thời xin cho mọi người chấm dứt mọi tội ác lạm dụng nữ tính.

Đức Maria là Mẹ phù hộ các giáo hữu và là Nữ vương các Thánh Tông đồ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể cộng đoàn họ đạo, và cho những người trẻ chúng ta đây, biết sốt sắng sùng kính mến yêu Mẹ, theo gương nhơn đức của Mẹ mà làm chứng nhân đáng tin cậy nhất, về những điều mà Tin Mừng loan báo.

Kết thúc: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dùng sự chết và sống lại mà gầy dựng cho nhân loại một kho tàng cứu độ đời đời; Chúa lại truyền chúng con tiếp tục sứ mệnh phân phát ơn cứu độ cho muôn dân. Chúng con nài xin Chúa khấn ban Thánh Thần cho mọi Kitô-hữu, biết vận dụng mọi khả năng Chúa ban, mà sống đức tin và làm chứng về ơn Chúa cứu độ. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

IX. CHIA SẺ

1. ĐỨC MARIA, NGƯỜI PHỤ NỮ.

Mẹ Maria chính là chứng nhân được chọn giữa muôn tạo vật, để biểu lộ Chúa Cha là Đấng từ bi nhân hậu: Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha đầy lòng thương xót, thì Mẹ là dấu chỉ của lòng thương xót đó.

Người Con, được sinh ra bởi người nữ, là hoa trái của lòng khoan dung của Thiên Chúa và người nữ đó là mẹ của lòng khoan dung. Được sinh ra bởi phép Chúa Thánh Thần.

”Mẹ được trao tặng chức vụ và phẩm giá là Thân mẫu Con Thiên Chúa, và vì thế trở thành ái nữ của Chúa Cha và đền thờ của Chúa Thánh Thần” (HT 53).

Mối tình mẹ của Người có thể so sánh phần nào với tình Cha của Thiên Chúa.

Mẹ liên đới với tất cả mọi người, vì thuộc dòng dõi Adam. Nhưng mẹ nhận được hồng ân cao cả do tình thương của Thiên Chúa, tình thương mà Thiên Chúa cũng dành cho tất cả mọi người .Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ những điều cao cả nhằm tới toàn thể nhân loại khi Chúa nhớ lại lòng thương xót (Lc 1,54) .

Tiếng “Xin vâng” của Mẹ làm thay đổi cục diện thế giới. Vũ trụ chờ đợi giây phút này; Thiên Chúa cũng mong chờ giây phút này. Thiên Chúa chờ, Thiên Chúa chuẩn bị Dân riêng, duy trì Lời hứa qua miệng các tiên tri: Từng giây từng phút trôi qua của lịch sử, tình thương của Chúa thêm đầy, lòng thương xót của Chúa thêm sâu, Chúa chờ mong tiếng”xin vâng” ấy, như người mẹ cưu mang mong chờ cho mầm thương xót thành hình thành dạng. Giờ thì Thiên Chúa vỡ lở vui mừng: Một người trong nhân loại tự do đáp trả Thánh ý. Quả thật Bà đầy ơn phúc , Chúa ở cùng Bà!

Mẹ “xin vâng” vì Mẹ nhận ra lòng thương xót của Chúa. Mẹ đã đón Chúa vào tim và vào thân thể của mình. Như vậy mẹ đã đón lấy lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại bằng cách cưu mang Con Đấng Thương Xót. Từ đây , trong khi ĐGK là hiện thân của Cha thương xót, thì Mẹ là phản ánh rực rỡ lòng Cha thương xót. Cả Hai, Chúa Giêsu và Maria truyền tải lòng Thiên chúa rất mực khoan dung đến với mọi người, qua muôn thế hệ.

Mẹ xin vâng với sự tự do và ý thức, đầy lòng khiêm tốn, vì thế Mẹ đã trào dâng lòng biết ơn sâu thẳm, muôn đời ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa, được diễn tả qua lời kinh Magnificat. Lời kinh khởi sắc khác thường bởi dung mạo Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót thật đậm nét: Thiên Chúa chọn lựa dứt khoát đứng về phía người nghèo. Thiên Chúa hằng trung tín với Giao Ước, “đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”(Lc 1,50).

Tất cả là hồng ân! Mọi điều xảy ra cho Mẹ!. Động cơ của hành động Thiên Chúa phát xuất từ lòng từ ái nhưng không của Người. Hơn ai hết mẹ hiểu điều đó và cả cuộc đời Mẹ đã hiến trọn cho Thiên Chúa để biết ơn lòng thương xót và trở thành Đấng truyền tải lòng thương xót cho Hội thánh và nhân loại, trong vai trò được ký thác, để muôn đời nhận ra Mẹ là Mẹ HCG, phản ánh rạng ngời lòng thương xót của Thiên Chúa.

Khuôn mẫu đã được thiết định nơi Mẹ Maria đã cho thấy rõ đâu là đặc trưng của nhân cách người phụ nữ. Căn tính của phụ nữ không thuộc nơi việc sao chép căn tính người nam. Trong ý định của TC, nam nữ bình đẳng về phẩm chức và giá trị, nhưng nữ có khác biệt bởi đức tính và yêu sách đặc hữu của mình. Những yêu sách và đặc trưng của nhân cách phụ nữ đã đạt tới mức toàn vẹn nơi Đức Maria, nhờ ân sủng của Thiên Chúa.

Vai trò của Đức Maria trong công trình cứu chuộc, hoàn toàn tùy thuộc vào ĐK. Đây là một chức vụ duy nhất, nằm trong kế hoạch hoàn tất mầu nhiệm nhập thể: Chức làm Mẹ của Đức Maria cần thiết để trao ban cho thế giới Đấng Cứu Chuộc, Con của Thiên Chúa thật, nhưng cũng là hoàn toàn là con người. Sự hợp tác cần thiết của một người nữ để cho ĐK đến với trần gian đã được sáng tỏ trong sáng kiến của Thiên Chúa khi mà, qua trung gian của thiên sứ, Ngài đã thông báo cho Trinh Nư Nazaret ý định cứu rỗi của Ngài, ngõ hầu Đức Trinh Nữ có thể hợp tác một cách ý thức và tự do, bằng cách biểu lộ sự ưng thuận của mình một cách quảng đại.

Ở đây chúng ta thấy thể hiện khuôn mẫu cao cả nhất của sự hợp tác một cách có trách nhiệm của người phụ nữ vào việc cứu độ con người. Khuôn mẫu này tạo thành một điểm quy chiếu cho hết mọi khẳng định về vai trò và chức phận của người phụ nữ trong lịch sử.

Khi thực hiện hình thức hợp tác cao cả đó, Đức Maria cũng tỏ cho chúng ta thấy một phong thái, nhờ đó mà người phụ nữ cần phải diễn tả sứ mạng của mình ra cụ thể.

Đứng trước lời loan báo của Thiên sứ, Đức Trinh Nữ đã không tỏ lộ một thái độ đấu tranh kiêu hùng, cũng không đòi đáp ứng những tham vọng cá nhân. Thánh Luca đã trình bày cho thấy là Mẹ chỉ ước mong cống hiến sự phục vụ khiêm tốn của mình, trong tâm tình hoàn toàn tín thác vào chương trình của Thiên Chúa. “ Này tôi”(Lc 1,38).

Đây không phải là một sự đón nhận thụ động, nhưng Mẹ rất tự do và ý thức lời đáp trả của mình. Mẹ tỏ thái độ sẵn sàng phục vụ của mình trong khiêm tốn. Chính bằng sự phục vụ khiêm tốn như vậy mà biết bao nhiêu phụ nữ ,noi gương Mẹ, đã và đang cống hiến cho Giáo hội và cho xã hội.

Đặc trưng của phụ nữ là làm mẹ. Nơi Mẹ Maria chức vụ này đã đạt đến điểm cao, càng nâng cao giá trị của chức năng thiên phú : làm mẹ nơi mọi người nữ. Trong ý định của Thiên Chúa, nơi Đức Maria, việc làm mẹ không những mang lại sự phát triển trọn vẹn cho nhân cách phụ nữ, ( người nữ hướng tới việc trao ban sự sống), nhưng còn tạo nên một đáp ứng trong đức tin cho thiên chức của người nữ.

Đối với những người tận hiến, hãy nhìn vào Mẹ Maria, họ sẽ khám phá ra gương mẫu của sự trinh khiết vì Nước Trời. Sự phong nhiêu tinh thần mà đời sống này mang lại trong chương trình Của Chúa cho nhân loại là một tình mẹ ở cấp trật cao hơn : tình mẹ trong Chúa Thánh Thần.

Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria mở rộng tới hết mọi nỗi đau khổ của nhân loại nhắc nhở người nữ rằng sự phát triển nhân cách phụ nữ đòi hỏi sự xả thân cho tình bác ái.

Rất bén nhạy với những giá trị của con tim, người phụ nữ tỏ ra một khả năng cao cả biết bao trao hiến bản thân. Sự trao hiến bản thân và quên mình vì tha nhân mới thực hiện cách chân chính kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa dành cho cuộc đời của mỗi người.

Vì thế, sự hiện diện của Đức Maria khuyến khích người phụ nữ nuôi dưỡng những tâm tình trắc ẩn và liên đới với những hoàn cảnh đau thương của nhân loại và gợi lên những ý định muốn xoa dịu những khổ nhọc đau thương của những ai đang đau khổ: những người nghèo, những người bệnh và những người gặp hoạn nạn đang cần được cứu giúp. Người phụ nữ mọi thời phải là những tấm lòng mẹ và những bàn tay êm dịu nhân ái gieo vào đời người một nền văn minh tình thương.

2.VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ

Có thể nói, hơn bao giờ hết, thời đại chúng ta đang sống là thời đại của người phụ nữ. Về mặt báo chí có nhiều tờ báo đặc biệt viết về người phụ nữ, đề cao vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Về phim ảnh cũng vậy, không biết bao nhiêu bộ phim về người phụ nữ, ca ngợi sự hy sinh, những đóng góp của họ cho gia đình xã hội. Về mặt tôn giáo, cũng có rất nhiều người phụ nữ, hy sinh cả cuộc sống để phục vụ cho xã hội. Nói cách chính xác là càng ngày càng thấy nổi bật chỗ đứng của người phụ nữ trong xã hội về mọi mặt.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả tốt đẹp và to tát mà người phụ nữ đóng góp cho gia đình và xã hội, không thiếu những tệ nạn, mà phần lớn là do hoàn cảnh đưa đẩy làm cho họ quên đi giá trị thiêng liêng của con người, và càng ngày càng lún sâu trong đàng tội lỗi.

Đàng khác, để moi tiền của những người đàn ông, nhất là những người giàu, người ta đã dùng người phụ nữ như là miếng mồi để câu khách. Mới đây, ngày 16 tháng 3 năm 2002 Đức Cha Piero Monni, quan sát viên của Toà Thánh bên cạnh tổ chức du lịch thế giới, cho xuất bản cuốn sách nhan đề: “Quần đảo ô nhục”, “Du lịch tình dục và lạm dụng tình dục vị thành niên”. Cuốn sách dầy 400 trang, trình bày nguồn gốc lịch sử của nạn lạm dụng tình dục vị thành niên, nạn khiêu dâm trên mạng và những biện pháp giải quyết .

Đức Cha Piero Monni nói: “Tôi đã nghiên cứu về chủ đề du lịch tình dục và nạn quấy rối tình dục vị thành niên và tôi muốn báo động là hiện tượng nầy đã xâm nhập vào tất cả các quốc gia, tất cả các tầng lớp xã hội. Tôi mang dư luận quần chúng lưu tâm để xoá sổ tệ nạn nầy”.

Các bạn trẻ thân mến, lời cảnh báo của Đức Cha Piero Monni thật sự là lời cảnh báo cho cả thế giới, trong đó có các bạn và tôi, chúng ta phải làm gì đây? Các bạn trẻ ở các tỉnh thành chắc không lạ tai lắm khi nghe nói: “Quán bia ôm, karaoke đèn mờ…” hay nặng hơn nữa là những cô gái đứng đường. Riêng ở nhà quê hiện nay thì những “cụm từ” đó cũng đã trở nên quen tai rồi.Và cũng đã có những bạn trẻ ngay địa phương mình, hoặc lên các tỉnh thành để “phục vụ” cho những dịch vụ đó vì hoàn cảnh sống quá khó khăn. Thật sự ai trong chúng ta cũng hết sức thương tâm khi thấy cuộc sống quá nghèo khổ của một số người. Nhưng để thoát khỏi cảnh nghèo khổ mà phải sa vào những tệ lại như vậy thì thật đáng tiếc.

Chúng ta phải làm gì ?

Tháng năm hàng năm là tháng Giáo Hội dành để kính Mẹ Maria, Giáo Hội muốn chúng ta tôn kính Mẹ Maria và cầu nguyện cho thế giới đặc biệt cho người phụ nữ. Nếu chúng ta chỉ cầu nguyện không mà thôi, tôi nghĩ là không đạt kết quả. Nhưng sẽ đạt kết quả tốt khi lời cầu nguyện đi kèm với việc làm cụ thể. Một đóng góp nho nhỏ của chúng ta sẽ rất có giá trị để Chúa làm tất cả. Chỉ cần một em bé góp phần ăn nhỏ bé của mình là năm chiếc bánh và hai con cá, để Chúa làm một phép lạ cả thể cho năm ngàn người ăn . (phép lạ hóa bánh ra nhiều).

Chỉ cần các tông đồ hy sinh một chút thả lưới và lưới của các ông hầu nhưng không kéo lên nổi, và hơn ai hết, Mẹ Maria với lòng khiêm cung tự nguyện thưa “Xin vâng”, Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ một việc cao trọng vĩ đại chưa từng thấy. Có lẽ Mẹ Maria cũng không ngờ là Chúa sẽ thực hiện một việc vĩ đại như vậy với sự đóng góp “Xin vâng” nho nhỏ của mình. Và chúng ta chắc cũng không bao giờ nghĩ rằng với sự đóng góp nho nhỏ của chúng ta, Chúa cũng sẽ thực hiện những việc lớn lao tương tự như vậy.

Lịch sử Giáo hội đã chứng minh điều nầy. Chúa đã thực hiện không biết bao nhiêu điều lớn lao cao cả qua những con người nhỏ bé bình thường, qua những hy sinh nho nhỏ của một em bé, một người già… và trong hiện tại cũng như trong tương lai, chúng ta tin chắc Chúa cũng sẽ tiếp tục làm những việc trọng đại cao cả nơi những con người khiêm nhường, đơn sơ, nhỏ bé, với những đóng góp nho nhỏ của họ. Dù sao Chúa vẫn đòi một điều kiện là chúng ta phải đóng góp phần của mình. Bạn hãy sống thánh thiện - tránh những cám dỗ về xác thịt - đừng đua đòi chạy theo “mốt” . Hãy sống đơn sơ giản dị, tập sống yêu thương và phục vụ , và nhờ Đức Maria là Trinh nữ và là Mẹ rất thánh nâng đỡ, chúng ta cùng hiệp nguyện xin Chúa cho vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội được bảo vệ và phát huy trong mọi quốc gia và mọi nền văn hoá trên hoàn cầu.

X. TẢN MẠN


PHƯỢNG HOÀNG VÀ QUẠ ĐEN


Có một con sáo quá chán nản vì mình là sáo. Một hôm, nó hỏi phượng hoàng : “Thưa ông, làm sao mà ông sang thế ? Mọi loài chim đều kính nể ông, còn tôi xinh đẹp thế này mà chả ai để ý !” Phượng hoàng đáp : “Vì ta là người sành điệu, thế thôi !” . Sáo hỏi : “Sành điệu là thế nào ?” : Phượng hoàng nói : “Hãy bay theo ta !” Hai con chim bay trên đồng cỏ. Phượng hoàng sà xuống, tóm được một con thỏ non. Nó ăn con thỏ ngon lành. Sáo học theo để thành người sành điệu. Nó cũng bay trên đồng cỏ, sà xuống bất kỳ con chim non, con thỏ hay cả những con chó con. Nhưng nó không tóm được con nào, ngược lại còn bị con mồi quật lại, đánh cho rũ lông, sã cánh. Phượng hoàng thấy thế bảo : “Nếu nhà ngươi chịu sống như một con sáo thì đâu đến nổi phải nhịn đói, phải tang thương thế này !”. Quạ nghe lời, trở lại với những con cào cào, châu chấu trên đồng cỏ và nó cảm thấy hạnh phúc.

Lời bình :
Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, một cách sống của mình. Nếu nhìn lên cao để bắt chước kiểu sống của người khác, chúng ta sẽ đánh mất chính mình.

Ngày nay, có rất nhiều người trẻ muốn chứng tỏ mình là người sành điệu trong kiểu ăn mặc, trong cách ăn chơi. Các bạn ấy đã chọn kiểu thời trang của người nước ngoài, của ca sĩ, người mẫu để khoác vào con người của mình. Một kiểu vay mượn không đúng với kích thước và tầm cỡ. Vừa tốn kém, vừa kinh dị ! “Làm ăn” thì ít mà “ăn chơi” thì nhiều.

Là thân con sáo, hãy chấp nhận sống kiểu con sáo, đó là hạnh phúc. Bắt chước sống kiểu phượng hoàng sẽ chuốc lấy thất bại và bị thiên hạ cười chê.
Sẽ chuốc lấy thất bại và bị thiên hạ cười chê.

XI. NGHỆ THUẬT SỐNG


TIỀN BẠC

Tiền có thể mua được MỘTCÁI NHÀ
Nhưng không thể mua được MỘT MÁI ẤM.
Tiền có thể mua được MỘT CÁI GIƯỜNG
Nhưng không thể mua được GIẤC NGỦ.
Tiền có thể mua được ĐỒNG HỒ
Nhưng không thể mua được THỜI GIỜ.
Tiền có thể mua được MỘT QUYỂN SÁCH
Nhưng không thể mua được KIẾN THỨC.
Tiền có thể mua được ĐỊA VỊ
Nhưng không thể mua được SỰ KÍNH TRỌNG.
Tiền có thể mua được THUỐC MEN
Nhưng không thể mua được SỨC KHOẺ.
Tiền có thể mua được MÁU
Nhưng không thể mua được SỰ SỐNG
Tiền có thể mua được TÌNH DỤC
Nhưng không thể mua được TÌNH YÊU
Như vậy, tiền không phải là tất cả.

Vả lại, nó thường gây bao tổn thương và đau khổ.

1241    17-04-2012 14:45:15