Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 131_140


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ Một Trăm Ba Mươi Mốt đến Thứ Một Trăm Bốn Mươi

TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI MỐT
VUA NƯỚC AXIRIA KHIẾN PHÁ NƯỚC GIUĐÊA

(Trước giáng sinh 657 năm)

Trong sách các thánh Tiên tri nói rằng: ĐCT để dành nước Axiria nên như roi đánh các nước thế gian, Vua Navôcô thứ nhứt trị nước Axiria, đã quyết phá thành Giêrusalem, cùng cả và nước Giuđêa. Vua ấy bèn phong quyền đại tướng cho Hôrôphê, mà dạy đi dẹp các nước; hể nước nào chẳng chịu phục vua, thì phải phá tan nước ấy. Vậy tướng ấy tuyển bá vạn hùng binh, mà ruổi đến các nước, làm cho các nước phải kinh khủng, hể đến đâu mà có ai ra chống cự, thì tướng nầy hủy diệt hết. Tướng ấy đến gần nước nào, thì nước ấy càng sợ hãi. Thuở ấy các nước đều sai sứ thần rước tướng nầy, mà xin dung thứ cho đặng sống; ai nấy đều khiếp vía kinh hoàng, song tướng ấy ra kiêu căn độc dữ hể đi qua đâu đều phá hại đó.

Thuở ấy quân Giudêu mắng tiếng những sự dữ tợn làm vậy, thì sợ hãi lắm, e đền thánh phải phá vì thấy các nước xung quanh dầu đã chịu đầu hàng, song không khỏi phải phá hại. quân giudêu khi ấy chẳng biết tính lẽ nào, dầu có cự địch, cũng ra vô ích. Vậy nó mới chay khóc lóc kêu van, xin Chúa thương giúp, đến khi tướng Hôrôphê nghe tin rằng: quân Giudêu quyết lòng cực địch cùng mình thì giận lắm, mới hỏi rằng: Dân Giudêu là ai, mạnh mẽ là thể nào? nó có sức gì má dám chống cãi cùng vua cả trị các nước? Bấy giờ, có tứơng ở đất Ammon, tên là Akiô, đã về đầu tướng Hôrôphê. Khi ấy đứng đầu ở đó, liền thưa rằng: Thân lạy đức ông, quân ấy ở trên núi non, dòng giỏi nó bởi nước Mêxôpôtamia mà ra; nó chẳng có thờ bụt thần, như các nước thế gian, nó thờ phượng ĐCT, thì ĐCT đã phù hộ nó ghe phen, cách lạ lùng. Người cứu nó khỏi làm tôi nước Êgíptô đời trước; và khi nó ra khỏi nước ấy, đến áp bờ biển thì ĐCT rẽ nước biển ra làm hai, nên đàng quan lộ giữa lòng biển, mà nước dựng lên hai bên như thành lũy, cho nó qua khỏi. Lại chư tướng và quân quấc xe ngựa nước Êgíptô theo đàng ấy, thì chết chìm thảy thảy trong biển đỏ. đến sau nó đánh dẹp đặng các vua nước Canaan mà giết hết nhiều binh dân các nước, như giết kiến vậy; và nó đặng mọi sự lành luôn, cho đến khi nó phạm tội mất lòng ĐCT, thì người mới phạt nó; vì chưng Chúa quân nầy ghét tội lỗi lắm. Cách chẳng khỏi mấy năm nay, bỡi nó phạm tội, thì phần nhiều trong chúng nó phải làm tôi tá khốn nạn; mà đến khi nó trở lại cùng ĐCT, thì Người lại thương và cứu mà cho nó đặng bình an như khi trước. Tôi xin đức ông phải tra hỏi cho biết, ví bằng nó có mắt tội cùng ĐCT, thì đức ông mới đánh đặng nó; ví bằng nó chẳng mất lòng ĐCT, thì chúng tôi chẳng có làm chi đặng nó, chúng tôi một phải thua cùng để tiếng xấu lại đời sau mà chớ.

Ai nấy nghe tiếng ấy nói bấy nhiêu lời, cùng nhiều lời khác, thì các chư tướng đứng hầu đó nổi giận mà rằng: đứa nào giám nói quân Giudêu có phép chống cãi vua Navôcô và binh tướng người làm vậy? quân Giudêu nó là kẻ hèn hạ yếu đuối, chẳng có khí giới, mà lại vụng về: dốt nát nào biết việc giặc giã làm sao mà sợ nó? Vậy chư tướng muốn giết ông Akiô, nhưng xét lại mà chẳng giết, một trói ông ấy mà bỏ vào thành bêtulia, cho ở cùng quân Giudêu trong thành ấy, có ý ngày sau khi nó bắt đặng thành, thì sẽ giết ông ấy làm một cùng dân Giudêu. Ông Akiô phải bỏ ở gần thành Bêtulia, thì ông ấy bèn đem tin cho quân Giudêu đặng hay mọi sự. Song quân Giudêu an ủi ông ấy rằng: Ông đã khen phép ĐCT trước mặt tướng Hôrôphê, thì ĐCT sẽ trả công cho ông; mà ông sẽ biết tỏ tường, ĐCT là Chúa cả hay cứu giúp kẻ làm đầy tớ Người. Người lại làm cho kẻ cậy mình kiêu ngạo phải hạ xúông cùng xấu hổ trước mặt thiên hạ mà chớ.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HAI
BÀ GIUDÍCH SANG DINH QUÂN GIẶC

Cả và dân Giudêu ở thành Bêtulia, thấy tướng Hôrôphê đem một muôn sáu mươi binh bộ, hai muôn hai ngàn binh mã, đến vây thành Bêtulia, thì cả và dân run sợ khinh khiếp sắp mình xúông đất, mà xưng trước mặt ĐCT rằng: Có một phép Chúa cứu lấy dân Người cho khỏi mà chớ, chẳng ai dám ra đánh giặc nầy. Tướng Hôrôphê xem địa thế thành Bêlutia, thấy thành lũy ấy ở trên núi cao, chẳng có giếng nước, mà có nhiều hồ lớn trữ nước mưa mà uống, lại có một mạch nước bên núi khác chảy qua ngoài thành, đã làm cái máng đá, mà lấy nước thông lưu đến trong thành mà úông; thì tướng Hôrôphê dạy phá máng đá ấy đi đoạn nói rằng: Còn phải đánh quân nầy làm chi cho mệt; ta hãy ngồi chơi một hai tháng, thì nó sẽ chết khát, tự nhiên nó phải nộp thành nầy cho ta. Vậy khỏi hai mươi ngày, nước trong các hồ đã cạn, còn một ít phải phân phát một người một chút, cho đỡ vậy. Khi ấy cả và dân, nam nữ lão ấu, tụ hiệp đến cùng thầy cả thượng phẩm và các thầy đạc đức ở đó, mà than thờ rằng: Ông là kẻ lớn trong dân chúng tôi, sao ông chẳng khấng ngõ lời cùng quân giặc, mà chuộc lấy dân mọn nầy cho khỏi chết, việc ấy chúng tôi chẳng dám, mặc thánh ý ĐCT phán xét cho ông; chúng tôi thà phải làm tôi mà sống hơn chết oan làm vậy. Hôm nay, chúng tôi xin ĐCT là Chúa cả dựng nên trời đất, mở lòng cho ông suy lại, mà nộp thành nầy cho quân giặc, thà nó giết chết chúng tôi, thì chúng tôi lấy làm dễ chịu, hơn là phải chết khát như vầy. Dân thưa bấy giờ, liền khóc lóc kêu van cùng ĐCT rằng: Chúng tôi là kẻ có tội, đã mất nghĩa cùng Chúa, chúng tôi xin Chúa lòng thành nhơn từ vô cùng thương đến chúng tôi, mà phạt chúng tôi bây giờ, kẻo chúng tôi phải tay quân dữ, là những kẻ chẳng biết Chúa, và có lòng dễ người Chúa. Thầy cả thượng phẩm cũng khóc lóc mà khuyên dân rằng: Ta hãy đợi trong năm ngày nữa, hoặc là ĐCT sẽ cứu lấy ta chăng. Vi bằng đủ năm ngày, mà ĐCT chẳng cứu, thì ta sẽ hàng đầu quân giặc.

Song le bà Giudích khi ấy ra mặt mà an ủi dân, kẻo ngã lòng. Bà nầy là người nữ góa bụa rất nhơn đức, ở nghiêm kín trong nhà ăn chay hãm mình, từ thuở chồng qua đời đến khi ấy; bởi vì bà ấy đã lập công nghiệp nhiều, thì ĐCT mở lòng cho người biết phải toan liệu lẽ nào, hầu cứu dân cho khỏi khốn nạn. Vậy bà ấy mời hai thầy cả đến nhà mình, khi đầu nói khó cùng nhau, sau bà ấy nói rằng: Tôi nghe tiếng kỳ năm ngày mà cậy ĐCT cứu, hết năm nàgy ấy mà chẳng thấy gì, thì chịu đầu quân giặc, thì tôi gẫm sự ấy là đều vô phép lắm. Ta là ai mà kỳ ngày cho ĐCT? Việc ấy chẳng phải là lẽ làm cho người thương ta đâu, một thêm mất lòng Người mà chờ! Song le bỡi ĐCT lòng lành vô cùng, thì ta phải ăn năn tội, và ở khiêm nhượng trước mặt Người mà rằng: Chúa muốn sửa phạt chúng tôi thể nào, thì chúng tôi xin chịu thể ấy. Quân giặc nầy nó lấy lòng kiêu ngạo, làm cho chúng tôi sợ sệt, chúng tôi xin Chúa làm phước cho chúng tôi đặng mầng rỡ bội phần, vì ch1ung tôi rày đã dốc quyết chịu sự khốn nạn vì tội lỗi chúng tôi. Các thánh tổ tông thuở xưa đã chịu nhiều sự khốn khó, bỡi vì Chúa muốn thử lòng phô ông ấy, có kính mến Chúa là thể nào. Ông thánh Abaraham; ông thánh Êgiác, và ông Thánh Môisen, đã qua khỏi nhiều sự thương khó; mà bỡi vì các thánh ấy vững vàng kiên cố tin cậy Chúa luôn, rày đã đặng trận trọn công, Bằng kẻ nào gặp sự khốn khó, mà trách móc năn nỉ phép Chúa, thì kẻ ấy phải rắn độc cắn mà chết trong rừng. Bây giờ chúng tôi phải roi vọt Chúa sửa chúng tôi là đầy tớ dại dột, mà răn tính nết xấu chúng tôi, chớ chẳng phải Chúa bỏ chúng tôi đâu. Bà nầy than thuở bấy nhiêu dều đoạn thì nói cùng hai thầy rằng: Tôi đã toan một việc cùng cậy sức Chúa sẽ cứu lấy dân, nhưng mà tôi chẳng muốn cho ai hay việc ấy; khi tôi ra khỏi thành, thì xin các thầy cầu nguyện cho tôi. Nói đoạn hai thầy liền trở về, thì bà Giudích mới vào nhà trong, mà khóc lóc than thuở trước mặt ĐCT lâu dài; đoạn mới lấy những áo tốt đẹp thanh quí, và đồ nữ trang để trong hộp đã lâu năm, mà mặt vào coi rất xinh đẹp. Bỡi vì bà ấy múôn dùng sự đẹp đẽ phần xác mà cứu dân Chúa, thì ĐCT lại thêm sự xinh tốt cho bà ấy hơn nữa. Khi đã ăn mặt trau giồi đoạn, bà ấy liền đem một con đòi đi cùng mà ra khỏi thành Bêtulia. Cả và dân thấy người ăn mặc xinh đẹp dường ấy, thì lấy làm lạ lắm; nhưng mà chẳng ai dám hỏi người đi đâu, một nguyện cầu xin Chúa giúp người làm cho nên việc, đặng cứu dân cho khỏi khốn.

Khi bà đã ra ngoài thành, quân giặc thấy đờn bà nhan sắc như vậy, và ngôn từ dịu dàng lịch sự, liền đem bà ấy vào chường mặt quan tướng. Tướng Hôrôphê thấy bèn phải lòng, mà khen ngợi chẳng khi đừng; lại nghe lời bà ấy thưa thốt, thì lại khen có trí khôn ngoan và khiêm từ, dịu dàng, xứng người nữ đức hạnh. Tướng ấy nghe bà nầy thưa đều gì, thì tin hết, chẳng có ghi nan chút nào, lại truyền cho ai nấy chẳng nên làm hại bà nầy. Tướng ấy lại dạy phát của ngon vật lạ cho người, nhưng mà người thưa rằng: Tôi có đủ của ăn, tôi quen ăn giống nào thuở trước, rày tôi xin ăn giống ấy mà thôi. Tướng ấy cũng nghe lời cùng để cho người ra vào thong thả.

Các Thánh gẫm rằng: ĐCT dùng sự hèn mà phỉnh kẻ cậy mình khôn ngoan; Chúa dùng giống yếu đuối bất tài, mà phá kẻ mạnh mẽ mưu trí, để cho ta biết mọi sự ở nơi tay Chúa, thì nên khí giới mạnh mẽ; song le phép thể gian ở trước mặt Chúa, khi Người chẳng giúp, thì trở nên như không mà chờ.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BA
BÀ GIUDICH LẤY ĐẦU TƯỚNG HÔRÔPHÊ

Tướng Hôrôphê một lâu một ra mọn dạ, mà tương yêu bà Giudích theo bề xác thịt, thì đòi người đến ăn bữa ban hôm cùng mình. Vậy bà nầy lấy lòng tin cậy Chúa, đến ăn bữa cùng tướng ấy; mà tướng ta uống quá chén, nằm ngủ mê man.

Lúc ấy kẻ hầu hạ đã lui ra hết, còn một mình bà ấy, thì người mới toan làm việc

ĐCT đã định mở lòng cho người, người bèn lấy gươm tướng ấy treo trên đầu nằm, cùng cầu xin ĐCT, cho mình đặng sức mạnh mà làm cho thành việc. Vậy bà ấy mới bước lại, liền chặt hai lát, mới đứt đầu tướng, đoạn lấy mảng tạ gói đầu tướng, mà bỏ vào đãy, phú cho con đòi xách lấy; còn tử thi, thì lấy mền đắp lại đó, đoạn hai thầy tớ mới trở ra đến cữa, thấy quân canh ngủ hết; liền trở về thành Bêlutia, gọi mở cữa. Khi ấy cả và dân đốt đèn đuốc rước người vào. Trước hết bà ấy dạy chớ dức lác, mà khuyên rằng: Cả và thành ta phải cám ơn ĐCT đã làm phước rất lớn cho dân Isarae, vì Người phú kẻ gian hùng phải tay đờn bà trừ nó trong đêm nay. Đoạn mới lấy đầu tướng ấy ra cho ai nấy xem thấy mà rằng: Nầy là đầu tứơng Hôrôphê, cái mảng tạ nầy làm chứng lời tôi nói thật, nó say rượu nằm ngủ, mà ĐCT giết nó. Chúa là đấng thông biết mọi sự, tôi chẳng có nói dối. Tôi đội ơn tháng Thiên Thần đã gìn giữ mình tôi, dầu mà khi ra ngoài, dầu mà khi ở nơi tay giặc, dầu mà khi trở về đây, thì Chúa đã giữ tôi khỏi các tội lỗi xấu xa. Bây giờ, tôi vui mầng, vì thấy tôi cùng dân khỏi khốn nạn. Ai nấy hãy ngợi khen

ĐCT lòng lành vô cùng, và hay thương xót chẳng khi đừng. Nói đoạn bà ấy kêu ông akio đến, mà khiến xem thử có phải đầu tướng Hôrôphê hay chăng, lại nói cùng ông ấy rằng: Chúa dân Isarae đã làm phép lạ, như lời ông khen Người ngày trước, để cho ông hay, kẻ nào dể duôi ĐCT, thì người lại cho kẻ hèn hạ dể ngươi nó lại. Ấy quân nầy hòng chém ông Akio, rày còn có lẽ gì mà ông sợ nó nữa chăng? Ông Akio thấy sự lạ dường ấy, bèn sợ hãi lắm, khen bà Giudich đặng công danh, làm cho dân Isarae nên trọng hơn khi trước, cùng làm sáng danh ĐCT trước mặt cả và thiên hạ. Vậy ông ấy hết lòng tin ĐCT, liền bỏ bụt thần ma quỉ, mà xin chịu phép cắt bì, trở lại đạo Giudêu.

Đến sáng ngày quân Giudêu đem nhau ra khỏi thành, cầm khí giới dạn dĩ mà đánh cùng quân giặc. Bấy giờ quân giặc quen thối dể ngươi, ngờ là như mọi ngày mọi rằng: Hôm nay con chuột thức sớm, bò ra khỏi cữa hang, mà dám trêu chọc chúng ta. Khi ấy nó ngờ quan tướng còn ngủ với bà Giudích, nên nó chẳng dám vào thưa; lâu lâu thấy quân Giudêu nhiếc lắm, thì mới gởi thưa. Các quan hộ vệ tốc vào, thấy cả và giường đầy những máu dầm dề, thì các quan ấy kinh khủng la lối mà rằng: Ai ngờ là con dờn bà đã xô rường cột cả đức vua Nôvôcô ngã xúông đường ấy! Tướng ta đã phải tay nó, nó đã lấy đầu đem đi mất rồi. Bấy giờ ai nấy sợ hãi kinh khủng, chạy hoảng, một người một phương. Quân Giudêu thừa kế đuổi theo, truyền cho các xứ mai phục mà đánh; vây một nàgy ấy đặng trận cả thể, lại đặng nhiều của cải kể chẳng xiếc. Khi mãng giặc, cả nước Isarae ăn mầng ba tháng, lại hằng năm làm lễ mà nhắt tích phép lạ nầy trọn đời. Bà Giudích dâng cho ĐCT, mọi của tứơng Hôrôphê mà dã chia cho người. Đoạn người trở về nhà, đóng cữa, ăn chay hãm mình, chẳng còn ra mặt cùng ai; đến nàgy lễ mới ra đi đến thánh, còn trót năm thì ở nghiêm kín.

Trong truyện lạ nầy ta thấy ĐCT làm sự rất mầu nhệim quá trí, người ta suy chẳng thấu. Sự nầy làm chứng, khi ta có lòng tin cậy Chúa, thì chẳng lẽ gì mà ta thua thế gian. Kìa một người đờn bà lấy đặng đầu tướng gian hùng, là kẻ làm cho cả và thiên hạ kinh khủng sợ hãi. Một mình bà ấy cứu thành lũy, phải muôn vàn binh vây phủ; một đờn bà phỉnh đặng kẻ rất khôn ngoan mạnh mẽ, và giết nó, ấy là sự lạ. Song le sự lạ ấy chẳng bằng sự lạ sau nầy, là khi bà Giudích đặng trận cả thể như vậy rồi, mà chẳng sinh lòng kiêu ngạo, chẳng quên mình là đờn bà hèn sức yếu đuối. Bà ấy khi trước khiêm nhượng đến sau lại càng khiêm nhượng hơn nữa. Phải bà ấy trở lòng kiêu ngạo, thì mọi công nghiệp liền mất đi hết; mà bỡi đã giữ lòng khiêm nhượng cho đến cùng, thì đời nầy và đời sau đặng muôn phước vô cùng.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BỐN
BÀ HOÀNG HẬU ÊRHÊRÊ CỨU DÂN GIUDÊU KHỎI CHẾT KHỐN NẠN (Trước giáng sinh 500 năm)

Khi dân Giudêu làm tôi nước Axiria đặng 70 năm thì vua Xirô chiếm cứ đặng thành Babilon, và cho dân Giudêu trở về xứ mình. Nhưng cũng còn nhiều kẻ ở lại nương náu trong thành Babilon cùng các xứ lân cận đó, ĐCT phân định làm vậy, có ý dùng dân Giudêu mà làm cho kẻ ngoại đặng biết Người.

Vậy chừng 500 năm trước Chúa ra đời, thì vua Axuêrô, nối quờn vua Xirô, và đóng đô tại thành Xuxan, và trị xả một trăm hai mươi bảy xứ, kể từ nước Thiên Trước cho tớ nước Môrô.

Thuở ấy có một người Giudêu, tên là Mađôkêu, có lòng kính sợ ĐCT, và nắm giữ luật Chúa chín chắn. Ông nầy có nuôi một người cháu gái, tên là Êthêri, nhan sắc nết na nhơn đức lắm, cho nên vua Axuêrô đã cưới làm hoàng hậu.

Vã khi ấy có một quan cả trong triều, tên là Aman, đặng vua yên dùng, nên quan ấy sinh lòng kiêu ngạo quá lẽ, buộc mọi người phải quý gối mà kính lạy mình. Song ông Mađôkêu chẳng khấng làm sự ấy, vì người thờ lạy một mình ĐCT mà thôi. Bỡi đó Aman giận lắm, toan mưu sát hại ông ấy cùng cả và dân Giudêu, còn sót lại trong nước.Vậy quan ấy dâng bản tâu vua, cáo dân Giudêu giữ đạo ngoại quốc, bất tuân quốc pháp, nên vua bèn giáng chỉ, hẹn ngày giết hất dân Giudêu còn sót lại trong nước cho tuyệt.

Mà quan Aman chẳng đè bà hoàng hậu là người giudêu và là cháu ông Mađôkêu. Vậy khi bà Êthêrê mắng tin độc dữ ấy, bèn toan liều mình chết, mà đến cùng vua dầu không có lịnh vời. Vì có luật cấm, hễ ai vua chẳng vời mà nhập điện, thì phải xử tử; song bà Êthêrê đánh liều vô rtước sân chầu đặt gối quỳ tâu, mà bởi người kinh khiếp, liền ngã xúông đất. Vua thấy vậy và bỡi có lòng yêu bà ấy lắm, bèn xuống ngai mà đỡ người dậy cùng vỗ về, và hứa dầu người xin nửa phần nước, thì vua cũng ban. Bà hoàng hậu Êthêrê nghe làm vậy, thì tâu rằng: Ví bằng đức muôn năm có lòng thương tôi, thì xin ngày mai đến dinh tôi mà ăn bữa, cùng xin cho quan Aman theo chầu với. Thì vua liền nhậm lời.

Kế nội đêm ấy vua nghỉ không an giấc, mới dạy quan nội thị đọc sử ký cho vua nghe. Đến nơi kể tích có hai quan đã âm mưu giết vua, mà ông Mađôkêu đã trần tố, nên đã xử trảm quyết hai quan ấy; thì vua mới hay chưa có thưởng ông Mađôkêu về sự ấy, nên đến sáng ngày vua bèn hỏi quan Aman rằng: Kẻ nào muốn thưởng, thì phải thưởng thể nào cho đáng? Aman tưởng vua muốn thưởng mình, liền tâu rằng: Người đức vua muốn thưởng, thì cho mặc áo cẩm bào, đội mảo triều thiên, cởi ngựa vua ngự, đoạn quan nhứt phẩm trong trào phải đắc ngựa đi khắp thành phố, mà rao cả tiếng rằng: Nầy là kẻ hoàng đế muốn thưởng, thì trọng thưởng như vậy. Vua liền phán rằng: Lời Người gởi tâu thì vừa ý trẩm lắm; ngươi hãy cứ mà làm như vậy cho mađôkêu đang ngồi nơi cữa đền; đừng sai sót đều nào, lại chính mình ngươi phải đắc ngựa dẫn đàng.

Quan Aman nầy cực chẳng đã phải vưng lịnh vua mà xấu hổ thẹn thuồng quá lễ, vì trong lòng thì tức giận phừng gan, toan lo trả thù, cùng quyết định nội ngày mai sẽ treo Mađôkêu trên cây trụ cao 50 thước.

Đoạn vua dạy Aman theo chầu vua ngự yến nơi dinh hoàng hậu Êthêrê; khi ăn bữa vừa rồi, vua bèn hỏi bà hoàng hậu, ý người muốn xin đi gì. Bà hoàng hậu liền lên tiếng khiêm nhượng, mà xin vua nhiêu dung mạng sống mình cùng cả và dân mình nữa. Đoạn người mới tỏ ra cho vua mà tư thù trả oán. Vua nghe vậy, bèn thắm mặt phừng gan, liền bỏ ra đi dạo ngoài vườn.

Aman thấy vậy thì biết vua toan làm sự dữ cho mình, liền sấp mình dưới chơn hoàng hậu, mà nài xin người nhiêu dung cho mình. Kế vua bước vào, thấy nó làm vậy, càng giận hơn nữa, bèn hạ lịnh treo Aman lập tức trên cây trụ đã sắm cho ông Mađôkêu. Đoạn vua hạ lịnh hãi các sắc chỉ trước, cùng cấm chẳng cho ai làm hại dân Giudêu, lại tặng khen dân nầy nữa; đoạn phong ông Mađôkêu lên chức thế vì Aman.

Ấy vậy vua nầy phải chước gian thần cùng vội tin lời nó, chẳng tra xét trước cho minh bạch, cùng ra lịnh giết kẻ vô tội, nghịch thửa lẽ bằng cùng độc ác dừơng ấy. Ông thánh Amvoloxiô gam rằng truyện nầy dạy đấng làm vua chúa quan quyền chẳng khá phú mọi sự ở tay kẻ khác; song mình phải dò xét tra hỏi, kẻo hoặc mình lầm lấy chước kẻ gian thần, mà làm đều gì trái lẽ chăng.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI LĂM
ÔNG GIÓP PHẢI TẬT NGUYỀN
(Đời ông Môisen)

Ông Gióp đã đặng tiếng trong cả và Hội Thánh ngợi khen. vậy ông nầy trọn đời làm hai sự rất họa hiếm, tóm lại làm một. Trước rất phú quý và rất nhơn đức, sau rất khốn nạn khó khăn, mà rất nhịn nhục khiêm nhượng. Cho nên trong Sấm truyền khen ông nầy, là kẻ có lòng ngay thật, kính sợ ĐCT, mà chẳng hề nguôi đàng phước đức; trọn đời người chẳng những là theo đàng phước đức một mình song lại lo dạy dỗ con cái, cho đặng biết thờ phượng ĐCT, người năng tế lễ ĐCT mà phạt tạ vì sợ con cái mình đã phạm tội gì mất lòng Chúa chăng. Ma quỉ thấy lòng người trung thần với Chúa như vậy, thì nó chịu chẳng đặng, một quyết lòng ra sức mà làm hại người: nó chẳng hổ ngươi bọ vạ cho ông nầy trước tòa ĐCT; mà bỡi nó chẳng thấy sự gì lỗi, thì nó cáo gian ông ấy làm những việc phước đức, mà chẳng có lòng thảo cùng Chúa. Vậy nó thư cùng ĐCT rằng: Thân lạy Chúa cao minh rộng xét, ông Gióp nầy thờ phượng Chúa, chẳng phải là hư không đâu, vì Chúa đã cho ông ấy đặng mọi sự lành; Chúa gìn giữ xung quanh nhà ông ấy, kẻo giống nào độc dữ xem vào mà khuấy khỏa: Ông ấy có nhiều của cải một ngày một giàu có, đi đàng phước đức như vậy ai mà chẳng muốn? còn có lẽ gì mà ông ấy bỏ nghĩa Chúa sao? Nếu như vậy chẳng lựa là ông Gióp, còn có ai mà chẳng có lòng thờ phượng Chúa? Song le tôi dám xin Chúa cho tôi hại của ông ấy một chút, thì Chúa sẽ thấy ông ấy trở lòng cùng Chúa thể nào. ĐCT muốn cho thằng quỉ bỏ vạ nầy phải xấu hổ, vì biết ông Gióp là người nhơn đức thật, thì ĐCT cho phép nó làm hại của cải ông ấy. Vậy nó lấy lòng dữ tợn hết sức, mà dùng phép ĐCT đã ban cho nó; mà phá tan tác của cải gia nghiệp của ông ấy thảy thảy. Vậy nó liền giục lòng quân gian đảng đến cướp bắt năm trăm đôi bò, năm trăm con lừa, và của tiền nhiều lắm, lại hóa lửa bỡi trời xuống đốt một lần bảy ngàn chiên chết hết thảy; lại có quân giặc đến đuổi lấy ba ngàn con camêlô; và con cái người là bảy trai ba gái, đang hiệp cùng nhau mà ăn bữa, phải nhà ngã xúông đè chết đi hết. Khi những tôi nhơn coi việc mọi nơi, chạy về đem tin cho ông Gióp đặng hay, thì người một lòng vững vàng kiên cố, sắp mình xúông đất, ngợi khen ĐCT mà rằng: Ngày trước ĐCT cho tôi đặng của, rày ĐCT cất đi; đội ơn Chúa, Chúa định làm sao, thì nên làm vậy. Cho nên sự khốn khó nầy lại làm cho phước đức ông thánh ấy nên như vàng luyện vào lửa, thì càng ròng càng sạch, càng sáng.

Ấy vậy mà quỉ càng giận dữ hơn nữa, vì nó thấy chẳng làm xiêu đặng lòng ông thánh nầy, thì nó xin cùng ĐCT rằng: Ông Gióp vốn thì còn vững lòng như trước, nhưng thường người ta thà mất của cải, chẳng thà tật nguyền. Vậy tôi cả lòng xin phép Chúa cho tôi đá đến xương thịt ông ấy một chút, thì ĐCT sẽ thấy. ĐCT để cho mặc ý nó, vì Người có ý làm cho nó phải xấu hổ; Người cũng muốn tỏ ra tôi tớ Người ở hết lòng cùng người thể nào. Vậy ma quỉ phen nầy làm cho ông Gióp mắc phải tật nguyền quái dị, thúi tha hôi hám, lở lói cả và mình, mủ máu dơ dáy chảy ra khắp cả mình, cùng đầy giòi tửa rúc nhức, nên ông ấy phải ra ở ngoài sân, ngồi trên đống rơm, lấy miểng sành mà gạt giòi ra. Khi ấy mọi của cải ông ấy phải tan nát hết, chẳng còn giống gì mà cho độ. Còn một bà vợ thì ma quỉ để mà trêu chọc trách móc chồng mình. Một ngày kia người đàn bà cả dám cám dỗ chồng rằng: Vậy mà còn thờ phượng ĐCT làm chi nữa, hãy rửa và khích đáng,

ĐCT, mà chết đi cho rồi. Song le ông thánh Gióp xét lại lưỡi bà ấy bỡi phải con rắn độc dữ nên mới nói những lời quấy quá như vậy, thì người chẳng nghe; lại mắng trả bà rằng: Bà nầy đã nên dại dột, nói kiêu ngạo hoảng hốt, sao chẳng suy xét? Bấy lâu mọi sự lành tràn vào trong nàh ta, đã hưởng phú quới thanh nhàn cho đến rày; mà bây giờ ĐCT cho ta mắc phải sự khốn khó một chút, ta chẳng khấng chịu lấy làm sao cho phải.

Ông thánh Augutinô Giám mục thánh Sư gẫm: Ông Gióp ngồi trên đống rơm thì có công hơn ông Adong hưởng thanh nhàn trong vườn Địa đàng, trước kia phạm tội. Vì chưng ông thánh Gióp phải khốn nạn, mà chẳng nghe lời vợ xui giục; còn ông Adong đặng vui vẻ, thì lầm lấy chước đờn bà cám dỗ. Ấy vậy sự khốn khó đáng cho ta chuộng hơn sự thanh nhà vui vẻ ở đời nầy.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI SÁU
KẺ THIẾT NGHĨA LẠI THÊM LÀM KHỐN
CHO ÔNG THÁNH GIÓP

Ông Gióp phải khốn nạn phần xác, song chưa đủ, ĐCT còn muốn cho người phải chịu đau đớn trong lòng nữa. ĐCT thử ông Gióp đủ các cách, cho rạng tỏ nhơn đức người ra. Để gương lại cho chúng ta, kẻ làm tôi Chúa, thì phải sẵn lòng chịu hết mọi sự khốn khó bề trong bề ngoài, theo ý Chúa định. Vậy có ba người thiết cùng ông Gióp, là kẻ sang trọng, khi mắng tiếng người phải khốn nạn thể ấy, thì đem nhau đến thăm người có ý nói một hai lẽ, cho giảm bớt sự khốn cực người phải chịu. Song le phô ông ấy lại lấy những lẽ trái, mà ngờ là phải lắm; có ý an ủi người cho giảm bớt, té ra lại thêm sự buồn bực cho người hơn.

Ba bạn hữu thấy ông Gióp phải khốn khỗ như vậy thì rất đau lòng, ngó nhìn bà nói lời gì chẳng đặng. Sau rối ba người ấy mới mở lời, tưởng là an ủi, song lại làm cho ông Gióp phiền muộn hơn nữa.

Ba người ấy mới nói rằng: Chắc ông đã phạm tội quái gở kín đáo, nên ĐCT mới phạt ông nặng nề như vậy.

Ông Gióp nghe các lời ấy, thì giữ một lòng nhịn nhục và trông cậy ĐCT chẳng hờn giận kẻ đã đoán xấu về mình.

Đó là ví dụ chỉ sau đây ĐCG cũng bị quân Giudêu bỏ dạ cáo gian nhiều đều, song người những nhịn nhục làm thinh, chẳng trả lời mà binh vực mình.

Song sự gian nan khốn khó đều có cùng, vậy đến ngày Chúa định, thì Người cho ông ấy đặng lành đã tật nguyền, lại đặng hơn của cải hơn khi trước nữa. Vậy ông ấy đặng lại một muôn bốn ngàn con chiên, sáu ngàn con camêlô, một ngàn cặp bò cày, một ngàn con lừa, cùng sanh đặng bảy trai và ba gái.

Ông Gióp nầy giống như ĐCT chịu thương khó, sau giống ĐCT mà sống tại. Ông thánh nầy sau đặng phú quí bằng hai hơn khi trước, là ví dụ ĐCG sau khi sống lại, thì đặng danh tiếng vang lừng cả thế gian, hơn khi chưa chịu đóng đinh trên cây thánh giá vì tội ta.

Các thánh gẫm rằng: Khi ta thấy kẻ nhơn đức phải tai họa, thì chớ tưởng rằng: Bởi kẻ ấy đã phạm tội nên ĐCT để cho phải mắt như vậy. vì chưng, sự gian nan khốn khó đời nầy, chẳng phải là hình phạt luôn, ĐCT dùng mà phạt kẻ có tội. Chúa cũng dùng các sự ấy mà thử lòng người nhơn đức, cho kẻ ấy đặng lập thêm nhiều công nghiệp. Các thánh dạy, thường khi Chúa thương linh hồn nào, thì người để cho nó gặp sự khốn khó. Bỡi đó cho nên khi ta gặp những sự khốn khó đời nầy, thì ta vui mầng mà chịu, vì là dấu Chúa thương chúng ta mà thôi. Bởi ông Gióp đã vui lòng chịu khó cho đến cùng, thì nay Chúa đã htưởng, lại đặng danh tiếng muôn đời.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BẢY
ÔNG THÁNH TIÊN TRI IXAIA ĐẶNG NGHE TIẾNG THIÊN ĐÀNG (Trước Giáng Sinh 758 năm)

Ông tiên tri IXaia là người sang trọng, dòng vua Đavít; người rất nhơn đức, trót đời làm tôi ĐCT hết lòng Chúa cho người đặng thông minh biết trước nhiều sự hậu lai, Chúa cũng cho người biết nhiều sự mầu nhiệm, trí loài người hiểu biết chẳng đặng.

Người nói tiên tri về sự Chúa Cứu thế ra đời, chịu hết mà chuộc tội loài nầy. Người nói rỏ ràng, như chính mắt người đã thấy vậy, dầu các việc ấy xảy ra sau bảy trăm năm.

Có một lần người đặng xem thấy ĐCT ngự tòa cực cao cực trọng, có muôn vàn thánh Xêraphim, cùng muôn vàn thánh Thiên Thần khác, đang chầu chực ngợi khen Chúa. Ông thánh nầy liền nghe tiếng hai thánh xêraphim đối nhau mà ca hát ngợi khen ĐCT rằng: Thánh tai, thánh tai, thánh tai, Chúa có phép tắc vô cùng, cả và trời đất dẩy đầy oai quờn sang trọng Chúa, mọi sự dưới tòa Đức Chúa Trời ngự, đều phải kinh khủng và rúng động luôn. Thánh tiên tri nghe thấy sự lạ lùng làm vậy, liền nói trong lòng rằng: Tôi là kẻ rất hèn mọn trước mặt Chúa, miệng tôi chẳng có sạch sẽ cho đáng truyền lại lịnh Chúa tôi cho thiên hạ. vậy có một thánh Xêraphim lấy than lửa trên bàn thờ, và đá đến miệng ông tiên tri mà rằng: lửa thiêng liêng nầy đốt tan mọi sự dơ dáy, chẳng còn dấu tích gì tội lỗi nữa. Đoạn tiên tri mới dám xin Chúa cho mình đi giảng cho kẻ có tội.

Ông thánh nầy sống ở đời lâu năm, gần đặng một trăm tuổi, mà bởi vì người đặng đầy lửa sốt sắng bỡi ĐCTT ban xúông, thì trọn đời người những quở trách kẻ có tội, an ủi kẻ âu lo, dạy dỗ kẻ mê muội, giục lòng kẻ tin, càng thêm tin cậy hơn nữa. Người nói nhiều ví dụ về đạo ĐCG, và mọi phép ĐCG sẽ lập trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế. Song khi ông nầy đã già cả, thì vua Manaxê trị nước Giuđêa chịu chẳng nổi lời thánh tiên tri quở trách tội lỗi mình, nên dạy bắt người mà cưa làm hai, người chết như thánh thử vì đạo đầy công nghiệp phước đức.

Ông thánh phaolồ khen các thánh tiên tri đời trước mà rằng: các thánh ấy bởi chẳng muốn a dua theo thế gian, nên phải chịu xấu hổ nhuốc nha chịu roi vọt, chịu lòi tói, chịu tù rạc; kẻ thì phải ném đá, người thì phải cưa làm hai; người thì phải gươm chém, người thì phải trốn tránh trên rừng trên núi, cùng phải trăm sự gian nan khốn nạn khác. Ấy là lời ông thánh Phaolô khen các tiên tri đời trước thì làm vậy.

Trong sách Sấm truyền lại khen ông thánh Ixaia nầy rằng: Người là tiên tri cả, phán đoán rất chơn thật, và ở hết lòng cùng ĐCT trọn đời. Đời ông thánh nầy mặt trời vưng phục người, người thêm đặng tuổi cho vua kia đang liệt nặng. Ông thánh nầy, bỡi ĐCTT soi sáng nên thấy trước các đời cho đến tận thế, mà an ủi những kẻ lo buồn trong dân Isarae, và người thông suốt các sự sâu nhiệm hậu lai. Khi ta xem truệyn ông thánh nầy, hay là nghe lới người phán dạy, thì chớ ngờ là như lới người thế gian làm chi; song phải hểiu rằng thánh nầy là như cái bút

ĐCT dùng mà giảng truyền cho ta mà chớ.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI TÁM
ÔNG THÁNH GIÊRÊMIA CHỊU KHỐN KHÓ
(Trước giáng sinh 629 năm)

Ông tiên tri Giêrêmia, đã nên thánh khi còn ở trong lòng mẹ. Khi dặng mưới lăm tuổi, người ra giảng dạy thiên hạ, bốn mươi năm trọn. Trong bấy nhiêu năm ấy,

ĐCT cho ông thánh nầy biết trước mọi sự quân Giudêu ngày sau phải chịu vì tội lỗi nó, mà bỡi vì người có lòng thương xót dân Giudêu lắm, thì người rất thảm thiết đau đớn, chẳng khi đừng. Lời tiên tri nầy đe phạt quân Giudêu là như tiếng sấm sét, ai nghe thì phải kinh khủng, sợ hãi, ý người múôn khuyên bảo dân ngũ nghịch ấy trở lại cùng ĐCT, nhưng đã ra cứng lòng, chẳng nghe lời người, và cũng chẳng tin lời người nói là lời thật, ngờ là người bày đặt dọa nó mà thôi.

Cho nên chư tướng nước Giudêu cùng vua Chúa trở lòng dữ tợn, toan làm hại người. Ông thánh ấy nhịn nhục dầu phải trăm sự xấu hổ nhuốc nha, mà người chẳng rủn chí sờn lòng. Quân dữ ngâm đánh người, hay là khảo lược người, hoặc cầm tù người, thì người càng chắc gan, càng thêm lời giảng dạy càng thêm sốt sắng hơn rtước nữa. Vậy chư tuớng trong nước tính cùng nhau, mà tâu vua Sêđêxia, xin bỏ ông thánh nầy xúông giếng loạn, có ý cho người phải đói khát, và phải giá rét, mà chết trong giếng ấy. Vua dầu có lòng thương thánh tiên tri, song bỡi nhát sợ, chẳng dám cãi lời quân độc dữ, bèn phú người cho đảng ngũ nghịch ấy, bỏ xuống giếng, ngờ là người sẽ chết, chẳng còn quở trách nó nữa. Song le khi ấy có một người tôi tá nhà vua, có lòng thương thánh tiên tri, đến tâu vua, xin cứu ông thánh nầy cho khỏi tay quân dữ, vua liền nghe và dạy đem ông tiên tri ra khỏi giếng. Từ ấy về sau vua binh vực ông thánh nầy. Nhưng mà vua cũng chẳng nghe lời người dạy bảo, một cứ theo đàng trái, cho đến khi vua Babilon phá thành Giêrusalem, thì vua nầy cùng chư tướng phải giết hết thảy.

Còn thánh tiên tri Giêrêmia, vua Babilon mắng tiếng người là kẻ nhơn đức, thì thương kính, mà cho người chọn, một là theo vua về nước Babilon, thì sẽ đặng quờn chức sang trọng hai là muốn ở lại trong đất nước mình, thì mặt ý. Song le ông thánh nầy chẳng muốn sự vang biển thế gian nên người xin ở lại cùng dân mình, mà an ủi dạy dỗ nó.

Ông thánh Hiêrônimô thánh Sư gẫm rằng: ông thánh nầy một mình chẳng có ai yêu vì giúp đỡ, nhưng mà có phép chống cãi vua quan cùng cả và dân ngũ nghịch. Vậy phép trọng nầy chẳng phải là sự bỡi tính người mà ra. Vì chưng bổn tính người ta thì yếu đuối nhút nhát. Song le ta phải suy ông thánh nầy đặng mạnh mẽ, là bỡi phép ĐCT mà chớ; vì khi ĐCT sai ông thánh nầy đi giảng đạo, thì Chúa phán cùng người rằng: Mấy chớ có thưa lại rằng: ta hãy còn bé, chưa có biết nói lời gì, vì chưng Đấng sai mầy là Tao; hễ lời nào Tao phán cho mầy, thì mầy sẽ truyền lại cho đủ: chớ sợ mất lòng quân dữ làm chi; Tao ở cùng mầy luôn. Tao sẽ cứu mầy; lời Tao phán chẳng hề sai; Tao đã đặt lời nói trong miệng lưỡi mầy; Tao đã đặt mầy lên vị trí trên các nước, cho mầy nhổ rễ sâu độc, cho mầy phá tan các sự trái chẳng đẹp ý Tao; Tao cho mầy vun trồng các giống cây cối tốt lành, Tao sẽ làm cho mầy chắc như cột đồng, bền như thành gang, vững như lũy sắt. Dầu cả và thiên hạ lớn bé thâu hiệp cùng nhau mà làm hại mầy, thì nó chẳng làm chi đặng, vì Tao ở cùng mầy trọn đời.

Cho nên ông thánh Xiphirianô tử vì đạo rằng: hễ người nhơn đức có ĐCT ngự trong lòng, có lẽ chính trong miệng, có lòng kính sợ ĐCT, chết thì đặng, mà chịu thua lẽ trái thì chẳng mầy trọn đời.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI CHÍN
ÔNG TIÊN TRI BARUC PHÀN NÀN VÌ GẶP SỰ KHỐN KHÓ

Ông tiên tri Barúc là người dòng dõi sang trọng, mà bỡi người chẳng yêu sự thế gian, thì lại càng sang trọng trước mặt ĐCT hơn nữa. Ông nầy chẳng hổ người làm đầy tớ tiên tri Giêramia, chép sách cho người và sẵng lòng chịu khó với người. Khi tiên tri Giêrêmia ở tù, người viết một tờ ấy trao cho vua. Vậy ông nầy liền đi, chẳng sợ chết, cũng chẳng xin ông Giêrêmia dịu bớt lời nói, cho đầy tớ mình khỏi khốn. Khi tiên tri Giêrêmia phải ẩn trốn quân dữ, thì ông Barúc chẳng hề lìa bỏ thầy mình, hằng theo luôn cùng tận tình giúp đỡ. Có một lần, khi hai thầy trò phải chịu khốn khó cùng nhau, thì ông Barúc phàn nàn than thở rằng: Thương ôi! khốn nạn tôi là thể nào! ĐCT cho gặp sự khốn khó liên tiếp, chẳng khi đừng; trọn đời tôi những than thở, chẳng khi nào đặng an ổn một chút, ông Giêrêmia liền an ủi đầy tớ mình mà rằng: Ta chẳng có lẽ gì mà phàn nàn làm vậy, đang khi cả và dân ĐCT mắc phải trăm ngàn khốn khó, lẽ nào ta khỏi đau đớn phiền não; một phải tin cậy ĐCT, đến nơi nào thì Người sẽ giúp ta nơi ấy.

Khi thánh tiên tri Giêrêmia tạ thế, thì ông Barúc an ủi dân Giudêu, lúc đó đang phải làm tôi trong nước Babilon, mà rằng: Chúng bây chẳng nên lạy bụt thần ma qủy nước ấy quen thờ, vì các giống ấy là vật hèn, chẳng có phép gì, chẳng có sức gì, cũng chẳng có giúp đặng ai nữa; nó chẳng bằng con dơi, con chim mèo chim én: vì chựng các loài nầy khuấy khỏa trong chùa nó, mà nó chẳng đuổi đi đặng. Thánh tiên tri nầy chẳng những an ủi dân, kẻo theo lẽ trái, mà người lại hết lòng cầu nguệyn cùng ĐCT mà rằng: T&oci 3866    17-03-2011 09:35:43