Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Sứ Mạng Phục Vụ và Yêu Thương - Tháng 11 năm 2011

LỜI CHỦ CHĂN

TOÀ GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2,  Vĩnh Long

27.10.2011


V/v Sứ mạng Yêu Thương và Phục Vụ

Kính gởi:  Các Linh Mục,
                Các Tu Sĩ Nam Nữ
                Và Anh Chị Em Giáo Dân  Địa Phận Vĩnh Long

"Anh em hãy sống trong tình bác ái, như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta và đã phó nộp mình vì chúng ta làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa" (Êph 5,2).

1.  Sứ điệp của Đại Hội Dân Chúa kết thúc với lời cầu hướng về Chúa Kitô đang đến: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (Kh 22,20). Xin Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng con và  biến đổi chúng con thành môn đệ đích thực của Chúa. Xin Chúa ngự đến trong mỗi gia đình Công Giáo, để gia đình trở thành cộng đoàn thờ phượng Chúa, hợp nhất yêu thương nhau và cùng nhau làm chứng cho Tin Mừng Nước Trời. Xin Chúa ngự đến và hợp nhất tất cả chúng con trong cùng một sứ mạng yêu thương và phục vụ (số 8).

2. Sứ mạng  yêu thương và phục vụ phải bắt đầu nơi mỗi tín hữu, rồi đến gia đình như một Hội Thánh thu hẹp, tại gia, sau cùng là toàn thể các tín hữu trong tư cách là thành phần của một Đoàn Dân mới của Thiên Chúa. Điều đó không phải là chuyện dễ!

Nơi bản thân của mỗi người còn có mâu thuẫn: Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm; còn sự dữ không muốn, thì tôi lại làm (Rom 7,19). Đó là tình cảnh của con người mang xác thịt, như bị bán làm tôi sự dữ (Rom 7,14), Tôi biết rằng trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi, chẳng có gì lành cư ngụ: muốn thì vừa tầm cho tôi, mà làm ra sự thiện thì không (Rom 7,18).  Và thật đáng buồn là chỉ có sự dữ vừa tầm với tôi (Rom 7,21).

Trong những tương quan với tha nhân, dầu là với những người rất thân thiện gần gũi, vẫn không thể tránh được những trục trặc, vì những cám dỗ sống theo xác thịt, thi hành những việc do tính xác thịt : dâm bôn, thù hận, bất hoà, ghen tuông,  nóng giận, tranh chấp, chia rẽ (x. Gal 5,19-21).

Còn trong xã hội hôm nay thì sao?  Người ta đang say mê với những kỹ thuật điện tử, lo phát triển kinh tế,  tưởng rằng cứ gia tăng sản xuất, thì sẽ thêm nhiều của cải,  để thụ hưởng, và để có hạnh phúc. Giàu có về mặt vật chất, nhưng lại nghèo khó về tinh thần. Thật đáng lo ngại, khi chủ nghĩa thế tục đang bùng dậy dung túng tệ nạn: phá thai, ly dị, ma tuý, mãi dâm. Làm sao có thể lường được mức tàn phá của ma tuý, của du lịch tình dục. "Ma tuý phá hoại tuổi trẻ,phá nát gia đình, đưa tới bạo lực và làm hại tương lai toàn bộ các quốc gia...Không thể tưởng tượng được mức độ tác hại kinh khủng của du lịch tình dục trên tuổi trẻ của các quốc gia. Cái nầy là do lối sống chán chường, thừa mứa và một sự hiểu sai về tự do của thế giới Tây Phương mà ra"  (ĐTC Ben. XVI, Ánh Sáng thế gian, tr. 86).

3. "Ở đâu có Chúa Kitô, thì mới  có tương lai", Đức Bênêđitô XVI đã quả quyết như  vậy trước đám đông tại quảng trường Thánh Phêrô, ngày 28.9.2011, sau chuyến viếng thăm Nước Đức. Đó cũng là chủ đề của chuyến viếng thăm chính thức của ngài.

Sứ mạng yêu thương và phục vụ là sứ mạng của Chúa Kitô: "Con Người đến không phải để được cung phụng, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10,45)). Thánh Phaolô đã hiểu đó là sự phục vụ cao quí nhất của Chúa Kitô. Ngài khuyên bảo các tín hữu : "Anh Chị Em hãy sống trong tình bác ái, như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta và vì chúng ta Người đã nộp mình làm hiến lễ, hy lễ dâng lên Thiên Chúa như hương thơm ngào ngạt" (Eph 5,2).

Sứ mạng của Hội Thánh Công Giáo, sứ mạng của mỗi tín hữu bắt nguồn từ sứ' mạng của Chúa Kitô .  "Anh Chị Em đã được kêu gọi để được tự do; đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại hãy lấy lòng mến mà làm tôi nhau" (Gal 5,13).

4. Để phục vụ đồng loại, phải thuộc về Chúa Kitô, phải để Thánh Thần hướng dẫn (x. Gal 5,16.24-25). Ai sống theo Thánh Thần thì có bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gal 5,22-23). Và như  Chúa Giêsu Kitô, không sợ gần gũi những kẻ khốn khổ: Người đi khắp các làng mạc rao giảng Nước Trời, xua trừ ma quỉ, chữa lành nhiều bệnh nhân: "Ta thương xót đám dân nầy, vì họ đã đi theo Ta ba ngày rồi" (Mt 15,32; Mc 8,2). Cuối cùng sẵn sàng hiến dâng cả  mạng sống mình .

Nguyện xin Đức Maria cầu bàu cho chúng ta biết sống yêâu thương và phục vụ, để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Cứu Thế  và đáng được dự phần  hạnh phúc  Nước Trời .

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
   Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

Tháng 11/2011
CHỦ ĐỀ: SỨ MẠNG PHỤC VỤ & YÊU THƯƠNG

Đối chiếu với sứ mạng cao cả đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu : "Anh em phải là muối cho đời, ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,13.14), chúng tôi nhìn nhận mình còn nhiều lỗi lầm thiếu sót, vì thế khiêm tốn xin Chúa và anh chị em trong cũng như ngoài Hội Thánh tha thứ cho. Hội Thánh cũng nhớ đến biết bao khổ đau, bất công, bách hại đã phải chịu trong suốt chiều dài lịch sử của mình, không phải để nuôi dưỡng oán thù nhưng để tha thứ và cầu nguyện cho những người đã bách hại Hội Thánh, theo gương Chúa Kitô là Đấng đã hoàn tất công trình cứu chuộc trong sự khó nghèo và bị bách hại. Các thánh tử đạo Việt Nam vừa là gương mẫu vừa là động lực thúc đẩy Hội Thánh thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô trên quê hương đất nước mình (Sứ Điệp Của Của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 7).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Một tối mất điện, ngọn nến được đem ra đặt giữa phòng. Người ta châm lửa cho ngọn nến và nến lung linh cháy sáng. Nến hân hoan nhận ra rằng ngọn lửa ngõ nhoi của nó đã mang lại ánh sáng cho cả căn phòng.         

Mọi người đều trầm trồ:
"Ồ nến sáng quá, thật may, nếu không chúng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì mất". Nghe thấy vậy, nến vui sướng dùng hết sức mình đẩy lui bóng tối xung quanh.       

Thế nhưng, những dòng sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài theo thân nến. Nến thấy mình càng lúc càng ngắn lại. Đến khi chỉ còn một nửa, nến giật mình:
"Chết mất, ta mà cứ cháy mãi thế này thì chẳng bao lâu sẽ tàn mất thôi. Tại sao ta phải thiệt thòi như vậy?".        

Nghĩ rồi, nên nương theo một cơn gió thoảng để tắt phụt đi. Một sợi khói mỏng manh bay lên rồi nến im lìm.     

Mọi người trong phòng nhớn nhác bảo nhau: "Nến tắt mất rồi, tối quá, làm sao bây giờ?". Ngọn nến mỉm cười tự mãn và hãnh diện vì tầm quan trọng của mình. Nhưng bỗng một người đề nghị: "Nến dễ bị gió thổi tắt lắm, để tôi đi tìm cái đèn dầu". Đèn dầu được thắp lên, còn ngọn nến đang cháy dở thì bị bỏ vào ngăn kéo tủ.  

Ngọn nến buồn thiu. Thế là từ nay nó sẽ bị nằm trong ngăn kéo, khó có dịp cháy sáng nữa. Nến chợt hiểu rằng hạnh phúc của nó là được cháy sáng vì mọi người, dù chỉ có thể cháy với ánh lửa nhỏ và dù sau đó nó sẽ tan chảy đi. Bởi vì nó là ngọn nến.

Mục đích Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc nhân loại bằng cuộc sống và cái chết đầy yêu thương và phục vu:  "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Chúa cũng muốn chúng ta sống đời mình để phục vụ và yêu thương Chúa và mọi người. Sống như thế là sống thánh. Và đóù chính là cùng đích đời người Kitô hữu vậy.

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về Chủ đề sứ mạng phục vụ và yêu thương  như sau:

  1. Hội Thánh dùng Lời Chúa: anh em là muối, là ánh sáng cho trần gian, đó là nhắc nhở chúng ta nhớ sứ mạng của mỗi người là phải phục vụ và yêu thương. Muối giúp cho đời khỏi hư xấu; ánh sáng soi đường cho người đời sống tốt, sống đúng nhân phẩm.
  2. Hội Thánh cũng nhìn nhận mình còn khiếm khuyết trong việc phục vụ và yêu thương nên xin mọi người tha thứ và cầu nguyện cho.
  3. Dầu vậy, Hội Thánh sẳn sàng theo gương Chúa Giêsu và hạnh các tiền nhân tử đạo, vui  lòng chịu khổ nhọc, bách hại, sẳn lòng chịu chết để thực hiện sứ mạng phục vụ và thương yêu.

"Các thánh tử đạo Việt Nam vừa là gương mẫu vừa là động lực thúc đẩy Hội Thánh thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô trên quê hương đất nước mình" (Sứ Điệp Của Của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 7).  Cái chết anh dũng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là minh chứng hùng hồn nhất tình yêu mà các ngài dành cho Thiên Chúa. Thật vậy, các ngài đã tin và yêu quyết liệt đến độ sẳn sàng hy sinh mạng sống của mình cho Thiên Chúa. Một tình yêu chung thủy, sẵn lòng đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho các ngài như lời Thánh Phaolô: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).

Cái chết của các ngài đồng thời minh chứng một tình vô biên đối với gia đình và nhân loại. Yêu thương ai là mong muốn điều tốt đẹp cho người mình yêu. Khước từ cuộc sống đời nầy để chọn lấy cuộc sống vĩnh cửu là hạnh phúc mà các ngài muốn cho những người thân thuộc của mình nói theo. Đứng trước các lý hình, các thánh đều vui vẻ đón nhận cái chết, không một lời trách móc, oán than.  Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).

Cái chết của các Thánh Tử đạo còn là minh chứng cho tình yêu sự sống, một cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng sự sống đúng nghĩa nhất.

Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa: phục vụ và yêu thương Chúa hết lòng.  Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Người Kitô hữu hôm nay sống phục vụ và yêu thương đến cùng theo gương các Thánh Tử đạo Việt nam thế nào? Yêu thương và phục vụ bằng đời sống chứng tá thật sự  như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: "Con người ngày nay quý trọng những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ quý trọng những thầy dạy vì những thầy dạy này cũng là những chứng nhân"  (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41).

Bằng con đường nhỏ, con đường thơ ấu thiêng liêng, Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, dù sống trong bốn bức tường của Dòng Kín  đã chỉ cho con người thời nay cách sống yêu thương và phục vụ Chúa cách hữu hiệu đến độ Giáo Hội đã tuyên phong  ngài làm Bổn mạng các xứ truyền giáo và là tiến sĩ Hội Thánh.

Sinh tại Alencon, Pháp năm 1873, Thánh Nữ Têrêsa vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc mới được 15 tuổi và 3 tháng và  qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới 24 tuổi đời. Chỉ 28 năm sau đó, năm 1925, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Đúng 100 năm sau ngày  thánh nữ qua đời vào Chúa Nhật truyền giáo 19-10-1997, trước sự hiện diện của gần 100 ngàn tín hữu, ĐTC Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Nhân trở thành vị nữ Tiến Sĩ thứ 3 của Giáo Hội và là vị trẻ nhất, chỉ  24 tuổi, trong số 33 vị Tiến Sĩ của Hội Thánh.

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC nhận xét Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng không hề cắp sách đến đại học hoặc dự các khóa thần học quy củ nào, và cũng chẳng có bằng cấp. Nhưng sở dĩ Giáo Hội tôn phong Thánh Nữ làm Tiến Sĩ Hội Thánh - bậc thầy về đàng thiêng liêng - chính là vì Thánh Nữ đã mở ra một con đường nên thánh đặc biệt cho các tín hữu, con đường thơ ấu thiêng liêng. ĐTC nói: "Khi tuyên bố một vị nào là Tiến Sĩ Giáo Hội, Huấn Quyền của Hội Thánh muốn giới thiệu với tất cả các tín hữu, đặc biệt là những người thi hành sứ vụ rao giảng trong Giáo Hội hoặc những người thi hành công tác nghiên cứu và giảng dạy thần học, rằng đạo lý được một người tuyên xưng và rao giảng có thể là một điểm tham chiếu, không những vì đạo lý ấy phù hợp với chân lý mạc khải, nhưng còn vì đạo lý ấy mang lại ánh sáng mới cho các mầu nhiệm đức tin, một sự hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm Chúa Kitô."  Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng đã khám phá và sống trọn con đường tình yêu, con đường thơ ấu  của Phúc Âm.  Têrêsa đã ý thức về sự bất toàn và nhỏ bé của mình, nên biết rằng mình không thể nên hoàn thiện với sức riêng. Têrêsa đã tìm thấy trong Phúc Âm chân lý về sự "nhỏ bé", hoàn toàn tín thác nơi tình yêu Chúa, không cần phải trở nên "cao trọng", nhưng trở nên bé nhỏ trong vòng tay của Chúa.

Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng "Thánh nữ Têrêsa đã đề ra một con đường nên thánh dành cho tất cả mọi người. Đường nên thánh không phải hệ tại thi hành những công trình vĩ đại, nhưng là con đường tín thác và hoàn toàn phó thác cho ơn thánh Chúa. Con đường đơn sơ đó không thiếu những đòi hỏi, vì Phúc âm đề ra nhiều yêu sách; nhưng lòng tin tưởng phó thác nơi lòng từ bi của Chúa khiến cho những cam go trở thành êm ái dịu dàng."

Con đường mà thánh nữ đã đi qua để đạt đến lý tưởng sống nầy, không phải là con đường của những công việc to lớn, được dành riêng cho một số ít, nhưng ngược lại là con đường vừa tầm tất cả mọi người, con đường nhỏ, con đường của sự tin tưởng và phó thác hoàn toàn chính mình cho ân sũng của Chúa. Đây không phải là con đường tầm thường, bị hạ thấp xuống, như thể đây là con đường ít đòi hỏi hơn. Trong thực tế, đây là con đường rất đòi hỏi, như Phúc Âm Chúa luôn luôn là một điều đòi hỏi. Đây là con đường phó thác đầy tin tưởng vào tình thương nhân từ của Thiên Chúa. "Con đường nhỏ, con đường dẩn đến bí quyết của mọi cuộc sống bằng việc trở về lại với điều thiết yếu: đó là Tình Yêu Thiên Chúa" (Gioan-Phaolô II, Giảng lễ phong Tiến sĩ Hội Thánh cho Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Bằng "Con Đường Thơ ấu" Têrêsa đã thấu hiểu rằng để thấu đạt  và bày tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, thì không nhất thiết phải thực hiện những việc làm anh hùng hoặc "cao siêu". Thánh nữ viết: "Tình yêu chứng tỏ chính nó bởi việc làm, vì vậy làm sao con có thể chứng tỏ tình yêu của mình được? Con không thể làm những việc cao siêu được. Cách duy nhất để con chứng tỏ tình yêu của mình là bằng cách rắc hoa; những bông hoa này là tất cả những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ nhất với tình yêu" (Hồi Ký Chuyện Một Tâm Hồn).

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu được tuyên phong bổn mạng các xứ truyền giáo vì đã khát cơn khát trên thập giá của Chúa Giêsu, "khát" phần rỗi linh hồn của loài người: "Con muốn cho Đấng con yêu mến được giải khát và con cảm thấy chính mình đang bị dằn vặt vì niềm khao khát các linh hồn." (Chuyện Một Tâm Hồn). 

Được tuyên phong tiến sĩ Hội Thánh vì thánh nữ đã chỉ ra cho con người thời nay một phương thế sống cuộc đời bình thường nhưng với một lòng yêu mến Thiên Chúa cách phi thường: "Con không muốn tích trữ công đức cho mình để được lên trời, con muốn làm việc cho Chúa là Tình Yêu duy nhất... Con muốn nhận được từ Tình Yêu Chúa phần thưởng đời đời là chính Chúa"  (Sách Giáo Lý Công Giáo, n. 2011).

Linh đạo "Con Đường Nhỏ" của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chẳng phải là lối sống đạo thích hợp cho người tín hữu hôm nay, khi mà trong cuộc sống,  chúng ta dù không phải chịu bắt bớ như các Thánh Tử đạo, nhưng vẫn phải quyết liệt chọn lựa trung thành với Chúa và chọn lựa hàng ngày bằng những từ bỏ và hy sinh của mình? Đó chính là tử đạo liên tục trong đức tin.  Bằng tình yêu và chỉ có tình yêu mãnh liệt, sống cho Thiên Chúa qua sự gắn bó hiến dâng, phục vụ Chúa và tha nhân và chết cho Thiên Chúa qua những hy sinh âm thầm hằng ngày, chúng ta biến đời tín hữu của mình nên thánh.

Nguồn: Tổng hợp từ internet.

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện sứ mạng phục vụ và yêu thương của người tín hữu  như thế nào:

  1. Tôi có nhớ đời tận hiến là đời phục vụ không?
  2. Tôi đã làm gì để giúp người nghèo, người tội lỗi?
  3. Tôi có dám cả quyết tôi sẳn sàng rửa chân giúp anh em?
  4. Tôi có thương những người ghét tôi, làm hại tôi không?
  5. Tôi có thương người thù tôi không?
  6. Tôi có sẳn lòng chết thế cho người muốn đánh chết tôi không?

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đến trần gian để nêu gương yêu thương và phục vụ mọi người được hưởng ơn cứu rỗi. Là môn đệ của Chúa, chúng ta phải cộng tác vào việc phục vụ và yêu thương. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.      Chúa phán: "Ta không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, bước theo con đường của Chúa là yêu thương và phục vụ cho mọi người được ơn cứu chuộc.

2.      Chúa phán: "Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhiều người". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu luôn ý thức sứ mạng theo Chúa Kitô, là làm cho nhiều người được ơn cứu rỗi, và đón nhận Tin Mừng.

3.      Chúa phán: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu luôn thể hiện tình yêu thương nhau như Chúa dạy, để cho mọi người nhận biết họ là môn đệ Chúa Kitô.

4.      Chúa phán: "Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn tuân giữ mọi lệnh truyền Chúa dạy, để xứng đáng là con Thiên Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa là Cha tràn đầy yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết theo gương Con Chúa là Đức Giêsu Kitô, mà yêu thương phục vụ mọi người đến ơn cứu rỗi. Hầu làm cho mọi người được hưởng phước thiên đàng. Chúng con cầu xin....... Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

MỘT MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO

Truyền giáo, một từ có vẻ đã quá quen thuộc đối với người tín hữu Công giáo nhưng lại là một sứ mạng mà không phải ai cũng có thể hiểu rõ và thực hiện trong đời sống đức tin của mình.

Có người nghĩ rằng truyền giáo là việc của ai đó, của ông cha, của bà phước, của mấy ông trùm, câu, biện...của những người "có ơn gọi" truyền giáo... còn tôi, tôi có biết bao công việc phải làm: học hành, kiếm tiền, lo tìm danh vọng, lo kinh tế gia đình...làm sao mà tôi có thể truyền giáo. Sống đức tin đã là một cố gắng lớn rồi thôi việc truyền giáo xin dành lại cho ai đi, những ai ăn không ngồi rồi ấy... tôi xin miễn việc này.

Người tín hữu nào thoái thác như vậy thì quả là có cái nhìn thiển cận và chưa hiểu hết sứ mạng mà mình lãnh nhận khi được làm con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích Rửa tội người tín hữu ngoài bổn phận giữ đạo và sống đạo còn có bổn phận là làm chứng và giới thiệu Chúa cho người khác, hay nói cách khác là có bổn phận phải truyền giáo. Nhưng truyền giáo bằng cách nào khi tôi bộn bề những công việc trần thế, bằng cách nào khi tôi không phải là những nhà chuyên môn, hay khi tôi không có dịp nói Chúa cho nhiều người.... Ở đây trong phạm vi hạn hẹp của bài viết xin được đưa ra một mẫu gương truyền giáo đơn giản như là một suy nghĩ cho động lực truyền giáo nơi mỗi người chúng ta.

Trong Tin Mừng theo thánh Gioan chương 4 (Ga 4, 1-42) có thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacop. Trong trình thuật này chị phụ nữ Samaria đã được Chúa Giêsu mời gọi trở thành người truyền giáo đích thực. Tiến trình của nhà truyền giáo (Chị phụ nữ Samaria) được thực hiện theo 4 bước này:

Thứ nhất Chị được mời gọi: Không biết vô tình hay hữu ý mà hôm nay Chúa Giêsu ghé lại ở Xứ Samaria đúng vào lúc người phụ nữ này đem vò ra giếng kín nước. Nhưng sự vô tình hay hữu ý đó trở thành ý nghĩa thật sự khi Chúa Giêsu mời gọi chị chia sẻ cùng Ngài trong sứ mạng khi Ngài xin chị "Chị cho tôi xin chút nước uống"(Ga 4, 7). Thiên Chúa mời gọi ai là do quyền của Thiên Chúa, Người không phân biệt người ấy là Do Thái hay dân ngoại, là công chính hay tội lỗi...Ngài kêu gọi những ai Ngài muốn.

Thứ hai Chị sống thân tình với Chúa: với những ngạc nhiên bở ngỡ ban đầu "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?"(Ga 4, 9). Chị phụ nữ Samaria đã đi vào trong sự thân tình với Chúa, chị thắc mắc, chị tìm hiểu, chị khiêm tốn nhìn nhận sự yếu kém thuộc về chị, chị khao khát một đời sống tốt lành hơn (tuy còn mang nhiều tính vụ lợi nhưng qua đó Chúa đã nâng lên). Từ cảm nhận ban đầu "Ông là người Do Thái" rồi "Ông là một tiên tri"....và sau cùng Chúa Giêsu tự giới thiệu với chị Chúa chính là Đấng Mêsia mà chị đang tìm kiếm. Với sự liên hệ với Chúa niềm tin của chị phụ nữ này ngày càng được Chúa nâng lên mạnh mẽ.

Thứ Ba Chị nói về Chúa cho người khác: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao? " (Ga 4, 29). Có lẽ lời của Chị nói về Chúa còn đầy nhứng khiếm khuyết nhưng lại là một lời đầy xác tín cho chính cuộc sống của chị. Chị không nói nhiều nhưng chị nói về kinh nghiệm của chính bản thân chị. Trong cách sống, trong niềm vui tươi, trong cách diễn tả...người ta nhận ra có một sự đổi mới thật sự trong con người của chị mà người đem đến có lẽ chính là người mà chị đang nói đến "Đấng Kitô".

Thứ Bốn Chị ẩn mặt đi để người ta đến với Chúa: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian." (Ga 4, 42). Có thể nói những người ở tại thành Samaria này vô ơn, khi nhận ra Chúa, khi tin vào Chúa mà lại quên ơn đối với người phụ nữ Samaria đã rao giảng cho họ. Nhưng đây mới chính là nhà truyền giáo thực sự. Hay nói theo thánh Gioan Tiền Hô "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho người khác đó chính là mục đích cao cả của nhà truyền giáo. Chính Chúa mới là trung tâm của mọi sự kết hợp.

Có lẽ hành trình trở thành nhà truyền giáo của chị phụ nữ tại Samria cũng là hình trình của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta để chúng ta được trở nên môn đệ của Người qua Bí tích Rửa tội, Người không cần biết ta như thế nào mà chỉ mong muốn ta cộng tác, Cộng tác bằng việc sống thân tình với Chúa trong niềm tin, trong việc giữ đạo và sống đạo, Người mời gọi chúng ta truyền giáo bằng đời sống của chúng ta, có thể là nói, có thể là sống, có thể là chứng nhân của lòng bác ái yêu thương... qua cuộc sống của chúng ta anh chị em chung quanh nhận thấy hình ảnh của một Thiên Chúa đầy yêu thương. Đó chẳng phải là cách ta đang truyền giáo sao.

Và cuối cùng nhà truyền giáo cũng phải biết giống người phụ nữ Samaria: "phải nhỏ lại để cho anh chị em mình đến với Chúa".

Xin Chúa cho chúng con luôn nhớ mệnh lệnh truyền giáo Chúa truyền và thực tâm sống mệnh lệnh ấy trong cuộc sống chúng con.

 

HỌC KINH THÁNH

BÀI 11.  THƯ THỨ HAI GỬI TÍN HỮU CÔRINTÔ
(II Cor)

1/ Ai là tác giả thư II Côrintô? Thư viết lúc nào và viết ở đâu?

Phaolô là tác giả như ngài đã giới thiệu ở đầu thư (II Cor 1,1). Thư được viết khoảng năm 55 và năm 56. Có thể Thánh Phaolô viết thư này tại Ephêsô. Thư được viết cho Hội thánh Chúa tại Côrintô cũng như cho các tín hữu toàn hạt Achaia (II Cor 1,1).

2/ Timôthêô là ai mà Phaolô nhắc tới ở đầu thư?

Timôthêô là bạn đồng hành của Phaolô và có lẽ là thư ký phụ giúp của ngài nữa. Tông đồ công vụ (16,1) nói về Timôthêô " con bà Do Thái đã tin đạo, cha là người Hy lạp". Trong thư thứ 2 gửi cho Timôthêô (1,5) thánh Phaolô đã khen ngợi lòng tin chân thành của Timôthêô, nơi bà cụ Lois cũng như Eunice thân mẫu của Timôthêô. Timôthêô thường phụ giúp Thánh Phaolô làm sứ giả tới các Giáo Hội.

3/ Thánh Phaolô viết thư này nhằm mục đích gì?

Thư II Côrintô là lời thanh minh của Phaolô về sứ vụ Tông đồ của ngài, mặc dầu trong thư có đề cặp đến một số vấn đề đạo lý, nhưng điều đáng chú ý là lá thư bộc lộ đời sống luân lý và thiêng liêng của Phaolô: một con người phi thưòng phong phú về nhiều phương diện (trí khôn, tình cảm, ý chí) . Còn về mặt thiêng liêng, ngài được những ơn lạ cao siêu (1-6). Ngài đề cặp tới để khích lệ các tín hữu hãy vui mừng đồng tâm nhất trí ăn ở hòa thuận và vươn lên.

Một số trích dẫn các câu đáng nhớ trong thư II Côrintô:

- "Những kho tàng ấy lại chứa đựng trong bình sành, ngõ hầu quyền lực siêu phàm kia là do Thiên Chúa chứ chẳng phải từ chúng tôi" (II Cor 4,7).

- "Chúng ta đừng chú tâm đến những sự vật hữu hình vì hữu hình chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn"  (II Cor 4,18).

- "Chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chớ không phải nhờ được thấy Chúa..."  (II Cor 5,7).

- "Tôi xin nói điều nầy: Gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều."  (II Cor 9, 6).

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết sống theo Lời Chúa, để tâm hồn con tràn ngập niềm vui vì được theo Chúa và làm con cái Chúa.  Amen.

SỐNG ĐẠO

BIẾT, GIỮ VÀ SỐNG ĐẠO

Chúng ta những người có đạo, có bao giờ tự hỏi: tôi biết đạo, giữ đạo và sống đạo ra sao?

Mặc dầu Chúa ban cho chúng ta có lòng đạo, nhưng muốn biết đạo thì phải học, triêu văn đạo tịch tử khả hỉ.

Từ bé, đã là con nhà có đạo thì má vẫn dạy cho bé học kinh phần. Có bé thuộc khá nhiều kinh. Đến 6, 7 tuổi thì cha, dì bắt học chuẩn bị cho Xưng Tội, Rước Lễ. Rồi đến Thêm sức và Bao đồng thế là xong giai đoạn học. Nhưng có khi học tới già cũng không nhớ, nên vẫn còn phải học đạo. Học như thế có đủ chưa?

Chúng ta vẫn biết đạo là đường lối, là luật lệ hướng dẫn con người biết sống đúng với nhân phẩm. Đạo dạy  chúng ta thờ phượng Chúa àv đưa chúng ta đến mục đích tối chung là kết hợp với Chúa.

Dạy dầu như thế mà chỉ có vài chục trang sách giáo lý sao dám gọi là đầy đủ. Đạo Chúa nói được là rộng rãi bao la, học tới chết cũng chưa nói được là biết đạo hoàn toàn.

Trong thực tế, mặc dầu đã qua tuổi trưởng thành, thì cái hiểu biết của chúng ta nói được là còn mơ hồ, chưa xác tín, chưa nhiệt thành.

Thử nhớ lại giai đoạn thời xuân trẻ đức tin của chúng ta thế nào? Rồi đến việc giữ đạo, chúng ta vẫn giữ đạo, nhưng giữ đạo ra sao? Thấy cha mẹ giữ thì theo giữ, bề trên bảo ban thì tuân giữ mà nơi nội tâm thật ra chúng ta không vững lắm. Thường chưa có ý thức,  vẫn phải mò mẫm tìm gặp Chúa, tiếp xúc với Chúa, sống thân với Chúa.

Sau cùng không những chúng ta phải cố gắng mà đặc biệt van nài Chúa ban cho chúng ta biết kết hợp với Chúa. Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được có Chúa trong lòng, lớn lên rước Chúa, được Chúa ngự trị trong con người chúng ta để chuẩn bị chiếm đoạt hoàn toàn con người chúng ta.

Lối sống thần bí này đúng ra Chúa chỉ ban cho một số linh hồn đặc biệt như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã biết kết hợp với Chúa rất sớm. Còn đại đa số muốn đạt kết hợp thì phải chịu khó học biết, khổ tâm tập luyện và nếu biết dùng ơn Chúa, mới có thể đạt được tình trạng thần bí, ngay khi còn ở trần gian.

Chúng ta đã học đạo, giữ đạo và biết đạo như thế nào? Có hài lòng với cuộc sống của mình Chúa.

SỐNG HIỆP THÔNG

Trong cuộc sống đạo và giữ đạo thỉnh thoảng chúng ta nghe nói: Sống hiệp thông. Chúng ta có suy nghĩ tìm hiểu sống hiệp thông là gì không?

Hiệp là liên kết với nhau, thông là chia xẻ với nhau những chi mình có.

Sống đời, giá như nghèo thì biết sống nghèo với nhau, còn nếu giàu mà không biết chia xẻ cho nhau thì đúng là không biết sống hiệp thông. Sống đạo cũng thế, mình không có quyền sống tách rời như một hòn đảo, chơ vơ một mình một cõi. Đời chúng ta dẫu sống một mình, thì cũng phải nhớ tứ hải giai huynh đệ, cùng nhau đều là con cái của Chúa, hơn nữa, chúng ta cùng sống một sự sống của Chúa Kitô, sống chính sự sống nhiệm thể của Chúa Kitô.

Do đó, chúng ta không có quyền sống riêng biệt, tách mình ra khỏi tập thể mà đời chúng ta là phải sống Hiệp thông.

Sống hiệp nghĩa là sống liên kết nhau mà còn phải thông. Thông là chia xẻ cho nhau phần sống của riêng mình cho anh em.

Chúng ta có thể sống hiệp thông qua việc thông cảm nhau, giúp đỡ nhau. Ngoài ra, việc cố gắng sống tốt, sống thiện, sống thánh ..   ít ra cũng ảnh hưởng đến anh em, giúp anh em phần nào sống tốt và chia xẻ cho nhau nổi khoái lạc vui phúc vì được có Chúa, gần Chúa kết hợp với Chúa.

Chúng ta có biết sống hiệp thông chưa? Có nghĩ đến hiệp thông để không những đời mình tốt mà cố gắng nhiều hơn để đời mình ít nhiều có phần chia sớt với anh em.

Tìm hiểu chút ít về Nho Giáo

Thế giới nhận định Nho giáo - mà Khổng Tử xưng tụng là tôn giáo - chưa phải là tôn giáo. Vì thật ra mặc dầu Nho giáo vẫn nhận có Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, không trực tiếp tôn thờ Thiên Chúa. Nho giáo kể Thiên Chúa quá cao siêu, thường dân không xứng đáng tôn thờ, phải là bậc quân vương mới được tôn thờ. Ngoài ra trong đạo đối xử giữa con người với nhau thì có Tam Cang, nghĩa là phận sự Quân - Thần, Phu - Phụ, Phụ - Tử.

Đời thường gọi là Nho giáo hay Khổng giáo. Nói Khổng giáo thì không có ý nói ông Khổng đã sáng lập, nhưng tôn trọng ông là người đã sống đạo Nho một cách tốt đẹp nhất. Cũng có thể nói ông Khổng đã sống đạo thiên nhiên cách tốt nhất. Không nói ông sống hoàn hảo, vì như chính ông đã nói: thánh ngã bất cảm - tôi không dám làm thánh. Chữ thánh ở đây có thể hiểu là hoàn hảo về mọi phương diện. Chỉ có Chúa mới là tuyệt thánh: ba lần thánh!

Chính Đức Khổng Tử đã tự nhận định: tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cũ. Ba mươi tuổi trưởng thành học biết vững vàng, nhờ đó, lúc lên 40 tuổi không còn sợ lầm lạc nữa,  tuy nhiên cái biết còn hạn hẹp. Đến 50 tuổi thì nhận biết được ý trời, nhận định sống như thế mới đúng với ý trời. 60 tuổi không còn tranh hùng, nhận ra các biến cố đều do trời xếp đặt, không làm gì qua ý trời được. Đến 70 tuổi thì ý chí, tâm trạng không còn chi là ngoài ý trời (bất du cũ).

Trước thời đại Chúa Giáng sinh, Mạc khải chưa hoàn hảo, chưa phổ biến, mà Đức Khổng Tử đã sống tốt như thế, thì sao chúng ta không quả quyết được ngài Khổng Tử đã sống đạo thiên nhiên mà Chúa ban cho lý trí tự nhiên con người nhận biết, tìm hiểu và gìn giữ.

Chúng ta không có quyền miệt thị Nho giáo, nhưng phải phần  nào tôn trọng. Vì trong các đạo, không đạo nào gần Thiên Chúa giáo hơn Khổng giáo.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

MỤC VỤ HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO VÀ HỖN HỢP
(đ. 1125-1129)

Giáo hội Công giáo Rôma nhìn nhận hai loại hôn nhân khác đạo và hỗn hợp, nhưng để bảo vệ đức tin cho con cái của mình, Giáo hội đưa ra một số chỉ dẫn và điều kiện cần thiết để được tha ngăn trở hay được ban phép kết hôn của những loại hôn nhân nầy. Xin quý Cha trong Giáo phận Vĩnh long nắm giữ những nguyên tắc của Giáo hội để hướng dẫn cho con cái mình và khi xin phép Bản quyền chuẩn chước.

1.       Khái niệm:

Hôn nhân giữa một người chính thức thuộc về Giáo hội Công giáo và một người không phải là Công giáo. Giáo luật phân biệt hai trường hợp hôn nhân nầy như sau:

1.         Hôn nhân khác đạo (disparity of marriage): hôn nhân giữa người Công giáo với người ngoài Kitô giáo- không được rửa tôi, nói chung là "người lương" (x.đ.1086).

2.         Hôn nhân hỗn hợp (mixed marriage): hôn nhân giữa người Công giáo với người Kitô hữu - đã được rửa tội nhưng ở ngoài Giáo hội Công giáo: Chính thống, Anh giáo, Tin lành (x.đ.1124).

Nghĩa là hôn nhân giữa:

1.      Người Công giáo + Người lương (hôn nhân khác đạo)

2.      Người Công giáo + Người Kitô khác (hôn nhân hỗn hợp)

Trong một xã hội đa nguyên, người Công giáo sống chung với những người không Công giáo và việc dựng vợ gã chồng với nhau là điều không thể tránh khỏi. Như vậy, các mục tử cần phải làm gì để giúp cho các đôi hôn nhân như thế?   

2.   Mục vụ trước khi cử hành hôn lễ (đ.1125-1126)

1.      Điều tra: cha sở dựa vào những điều luật sau để điều tra xem hôn nhân của họ thuộc loại nào, có đủ điều kiện để được ban phép kết hôn hay được tha ngăn trở hay không.

Điều 1086:

Hôn nhân giữa một người đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo hội ấy với một người không được rửa tội, thì bất thành (đ. 1086§1).

Không được niễm chuẩn ngăn trở nầy, trừ khi đã hội đủ các điều kiện nói ở điều 1125 và 1126" (đ.1086§2).

Điều 1124:

Nếu không có phép minh nhiên của thẩm quyền, cấm kết hôn giữa hai người đã được rửa tội, mà một người đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo hoặc được nhận vào Giáo hội Công giáo sau khi được rửa tội, còn người kia đã gia nhập vào một Giáo hội hoặc một cộng đoàn Giáo hội không thông hiệp trọn vẹn với Giáo hội Công giáo.

Như vậy, cuộc hôn nhân nói ở điều 1086§1 là hôn nhân khác đạo. Hôn nhân nầy thuộc loại ngăn trở tiêu hôn, nếu không có phép chuẩn của Bản quyền thì hôn nhân sẽ không thành sự; còn hôn nhân nói ở điều 1124 là hôn nhân hỗn hợp (giữa hai người Kitô hữu), chỉ có ngăn trở cấm kết hôn (không phải ngăn trở tiêu hôn), nên nếu hôn phối được cử hành mà không có phép thì vẫn thành sự nhưng không hợp pháp. 

2. Dạy giáo lý: điều 1125§3 dạy rằng: "cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ". Việc dạy giáo lý cho những đôi hôn nhân như thế này là điều bắt buộc, và nó như một điều kiện để được Đấng bản quyền tha ngăn trở (x.đ.1125). Bởi vì khác tôn giáo, những anh chị em ngoài Công giáo không biết hôn nhân trong Công giáo là đơn hôn và vĩnh hôn (x. đ.1056), cũng như mục đích của hôn nhân là vì thiện ích của đôi bạn, cùng việc sinh sản và giáo dục con cái (x. đ.1055§1). Riêng bên Công giáo, các mục tử phải nhắc nhở con cái mình trong trách nhiệm thánh hoá người bạn đời và giáo dục con cái trong đức tin, như lời của Thánh Phaolô dạy rằng: "chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo..." (1Cr.7,14).

3. Xin chuẩn ngăn trở hoặc phép kết hôn:

Sau khi đã điều tra để biết hôn nhân thuộc loại nào, và dạy giáo lý cho đôi bạn để biết về hôn nhân của người Công giáo cũng như những ràng buộc của nó. Cha sở tiến hành các thủ tục để xin phép Đấng bản quyền chuẩn ngăn trở hoặc xin phép cho kết hôn. Về phương diện mục vụ cho cả hai trường hợp hôn nhân nầy điều có những cam kết giống nhau, nên Giáo luật và Hội đồng Giám mục đưa ra những điều kiện chung để được tha ngăn trở và phép kết hôn. Điều 1125 dạy như sau:

Đấng Bản quyền địa phương có thể ban phép trên đây (phép chuẩn điều 1086 và phép kết hôn 1125), nếu có một lý do chính đáng và hợp lý, nhưng không được ban phép ấy, nếu không hội đủ điều kiện sau đây:

  • Bên Công giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Công giáo (đ.1125§1);
  • Phải kịp thời thông báo thế nào cho bên không Công giáo biết những điều bên Công giáo phải cam kết, để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ bên Công giáo (đ.1125§2) ;
  • Cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ (đ.1125§3). 
  • Bên không Công giáo phải cam kết cho người bạn đời Công giáo được tự do sống đạo, và cho con cái  sinh ra từ hôn nhân của họ được Rửa tội và giáo dục trong đức tin Công giáo (HĐGMVN; x.đ.1126).

Bốn điều kiện trên là cam kết của đôi bạn muốn kết hôn với nhau trước Giáo hội. Tuy nhiên, làm sao chúng ta biết được thực tâm của họ là gì? Chúng ta vẫn thường nghe người ta nói với nhau rằng: "Con quỳ lạy Chúa Ba Ngôi, cho con lấy được vợ con thôi nhà thờ". "Thôi nhà thờ" ở đây không có nghĩa là họ không sống đạo. Họ đâu có đạo đâu mà sống hay giữ, nhưng là họ chỉ hứa cho qua để khi lấy người Công giáo rồi thì họ không giữ những cam kết lúc ban đầu.

Cho nên Giáo hội khuyên các mục tử phải khôn ngoan khi điều tra và dạy giáo lý kỷ lưỡng cho các đôi hôn nhân thuộc những loại nầy.  Các ngài phải biết chắc chắn lý do mà họ không thể chia sẻ cùng tôn giáo với người bạn Công giáo là lý do "chính đáng và hợp lý" (đ.1125). Giáo hội Công giáo không buộc ai phải vào đạo cả, nhưng nếu vợ chồng cùng chia sẻ với nhau trong cùng một đức tin và đường hướng giáo dục con cái thì vẫn tốt hơn. Ông bà chúng ta vẫn thường nói " thuận vợ thuận chồng thì tác biển đông cũng cạn" mà. Hay trong tình yêu vợ chồng, người ta vẫn nói "yêu nhau không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng". Nếu đôi hôn nhân có cùng một hướng trong đời sống đức tin thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn và giáo dục con cái cũng hiệu quả hơn.  Còn tiếp...

TRANG LINH MỤC

HỌC GIẢNG LÀ GÌ?

Có người gọi giảng là khoa hùng biện? Nói thế là nhắc lên cao, làm cớ cho con người không còn chú trọng - và trong thực tế - ít người  học biết phải giảng như thế nào? Giảng những gì?

Mỗi Chúa Nhật thường đều phải có bài giảng. Mà bởøi không học, không biết phải giảng thế nào cho đúng, nên tác giả Người Lữ Khách Emmaus đã m?a mai: Giảng Tin Mừng? Không đúng, phải nói, tin dữ! Với trẻ con đi học Giáo lý thì doạ nạt, mắng nhiếc, khiến chúng phải khóc (may ra chúng chưa ướt quần!) Còn bài giảng Chúa Nhật là tòa án trách phạt, ngăm đe, còn đâu là Tin mừng, mà là tin tức mình! Linh mục có tức mình không?

Xin đề nghị một vài ý nghĩ để chúng ta giảng dạy khả quan hơn, bớt làm cho người ta tức mình nhiều hơn.

Giảng là dạy cách trọng thể hơn, nhưng dầu sao, giảng đúng là dạy. Chúa nhật chọn một bài Phúc Âm để nhiều giáo hữu học biết, nhớ và giữ những điều Chúa dạy. Chúng ta biết Phúc Âm là những quyển sách ghi chép lại Lời Chúa và lối sống của Chúa. Lời Chúa dạy bảo vừa là mẫu gương, vừa là bài học.

Tuy giảng là dạy, nhưng giảng không phải là những bài dạy Kinh Thánh, mặc dầu khi dạy Kinh Thánh vẫn có giải thích Lời Chúa.

Giảng có mục đích dạy: chỉ dẫn cho biết những điều phải làm, phải giữ, để nên con Chúa.

Trong mỗi bài Phúc Âm thường chứa đựng nhiều chân lý, nhiều bài học. Gảing thì nên chọn một điểm nào đặc biệt thích hợp cho nhóm thính giả....Biết dùng lý luận để trình bày và kết luận thực tế thích đáng (Nota: Lý luận đừng dài dòng quá). Nhớ giảng là dạy là dẫn giải cho tín hữu biết sống đạo.

Thiết tưởng không nên thích dùng hùng biện, lối văn hoa mỹ, tân thời, có vẽ như đúng lối văn chương...Điệu bộ đơn sơ, không lộ vẽ oai hùng!

Chúa thời xưa vẫn đơn sơ. Đi đứng cũng lộ vẽ khiêm tốn.

Mặc dù có trường hợp phải dạy những điều cao siêu, những công việc đòi nhiều khổ nhọc, thì cũng phải khiêm tốn, đơn sơ và luôn luôn tôn trọng thực tế. 

Giảng như thế mới có thể nói được là giảng tốt. Còn hiệu quả thì tin tưởng, mong ước ơn Chúa.

LINH MỤC DẤN THÂN PHỤC VỤ

Khi suy nghĩ về cuộc đời linh mục và công việc phục vụ con nghĩ trước hết mình cần phải biết linh mục là ai? Linh mục phục  vụ ai? Phục vụ như thế nào?        

Linh Mục Là Ai?       
Chúng ta thấy có rất nhiều người nói về linh mục, cũng như có rất nhiều bài viết, nhiều sách viết về linh mục. Tích cực có, tiêu cực có. Nhưng ở đây chúng ta tìm ý nghĩa của linh mục theo ý muốn của Chúa Giêsu, Đấng thiết lập chức linh mục. Đấng mà thánh Phaolô nói với chúng ta " anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô" (1Cr 11,1)
Trong buổi nói chuyện với các linh mục về phép thánh thể, mẹ Têrêsa Calcutta nói: " tôi nghĩ rằng tất cả mọi linh mục đều được mời gọi hiến thân cho Chúa. Người ta cần tìm thấy một con người đích thực có thể dẫn dắt họ đến với Chúa và mang Chúa Giêsu đến với họ. Phải thế giới đang cần linh mục, linh mục thánh thiện, linh mục độc thân, bởi vì thế giới đang cân Đức Kitô".  

Linh Mục Phục Vụ Ai?          

Chúa Giêsu đã quan tâm đến con người, từ tâm hồn đến thể xác. Đoạn Phúc Âm trên đã cho chúng ta thấy rõ về điều đó "Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều... Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. Ai nấy đều ăn và được no nê".
Chúa Giêsu cảm thương mọi hoàn cảnh: chia sẻ sự mất mát, đau thương của những người có thân nhân quá cố (x. Lc 7,11-17, Ga11,33), Ngài xót thương người tôi lỗi (x.Lc 7,36-50;  Ga 8,1-11),...

Các linh mục là những người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa lòng dân Chúa, nhưng không tách rời khỏi cộng đoàn dân Chúa. Mỗi linh mục được giao nhiệm vụ làm chứng cho Chúa ở ngay giữa cộng đoàn dân Chúa. Họ có bổn phận đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng và sống tình bác ái sâu đậm với các tín hữu. Đồng thời họ cũng phải thực hành lệnh truyền của Chúa Giêsu là " loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15). Có nghĩa là làm cho Tin Mừng được thấm nhiễm vào khu vực mình được giao phó, cũng như lan toả ra ngoài nữa.
Công đồng Vaticanô II trình bày chức linh mục như suối nguồn của tình bác ái mục vụ, cho phép các linh mục trở thành chứng nhân của một cuộc sống cao cả hơn cuộc sống của trần gian này. Đồng thời giúp cho linh mục sống trong xã hội và hiểu biết rõ các con chiên bổn đạo của mình. Đặc biệt là cuộc sống của những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật...
"Chính thánh lễ mà linh mục cử hành trải dài và trải rộng ra trong cuộc sống. Chính sự kết hợp của ngài với Đức Kitô, linh mục và bánh Thánh biến vị linh mục lúa miến của Thiên Chúa trở thành bánh tinh sạch của Đức Kitô để mưu câu lợi ích cho tha nhân" (Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 3/7/1993).   

Từ bàn tiệc Thánh Thể, ơn thánh và tình bác ái phải chảy tràn lan sang tòa giảng, tòa giải tội, trong bàn giấy, nhà xứ sang trường học... và mọi nẻo đường của họ đạo, chảy tràn vào các nhà thương, vào trong các phương tiện giao thông công cộng, vào các phương tiện truyền thông... Ở khắp nơi, linh mục cũng có thể chu toàn bổn phận của mình.  

Phục Vụ Như Thế Nào?        
"Vấn  đề không phải là chúng  ta làm được bao nhiêu việc, mà là chúng ta đặt bao nhiêu tình yêu vào việc mình làm. Chúng ta làm cho chính Thiên Chúa tối cao. Ta làm được bao nhiêu thì không quan trọng, bởi vì Người là vô cùng, nhưng quan trọng là đặt bao nhiêu tình yêu vào việc mình làm. Chúng ta làm cho Người được bao nhiêu trong những người mà ta đang phục vụ".
(Diễn văn nhận giải Nobel Hòa Bình của mẹ Têrêsa Calcutta, năm 1979, Oslo, Nauy).

Trong thực tế, để loan báo Tin Mừng trước sự tục hóa ngày một tràn lan và trược sự dửng dưng tôn giáo, để có thể chia sẻ kinh nghiệm đức tin với những người khác nhằm làm sáng tỏ đức tin của mình đó là một phần thách thức của linh mục ngày hôm nay.         

Linh mục phải nói sao với các cha mẹ trẻ đã mất con hoặc có nguy cơ mất con vì họ không còn khả năng tiếp xúc với con cái mình? Linh mục phải làm thế nào để giúp một người cha, hoặc người mẹ quẫn trí  khi chấp nhận và yêu mến đứa con đồng tính luyến ái hoặc vừa hé cho họ biết HIV của nó dương tính?
Linh mục làm thế nào với các phụ nữ đau khổ và bị tâm thần vì cảm thấy bị Hội Thánh kỳ thị và làm thế nào giúp họ tìm được một vai trò có ý nghĩa trong Hội Thánh ấy?
Linh mục phải giúp cách nào để thành phần già yếu của cộng đoàn mình được bình an với sức khỏe ngày một suy kiệt?

Những thắc mắc ấy khơi lên dễ hơn trả lời, nhưng đó là những thực tế nhiều linh mục đang phải đương đầu mỗi ngày. Một linh mục chỉ có thể giúp đỡ người khác khi ông làm cho mọi người có thể đến được với mình. Ông không thể núp đăng sau địa vị hoặc vai trò của mình được. Thời linh mục là người có học nhất của giáo xứ đã qua từ lâu. Hình ảnh của một linh mục như một 'người xa lạ' và một nền văn hóa giáo sĩ, tạo nên những ngăn cách giữa linh mục và giáo dân chẳng có lợi gì nữa. Một  linh mục chỉ có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo trong cộng đoàn nào đó, khi ông thực sự là thành phần của cộng đoàn ấy, có liên hệ với những thành viên khác...        

Vị linh mục được mời gọi sống các nhân đức nhân bản rất quan trọng  trong xã hội ngày nay như: biết sẵn sàng tiếp đón và lắng nghe mọi người, ước mong hiểu biết cởi mở và thẳng thắn, chân thành, dấn thân trong các công tác cứu trợ người nghèo khổ hoạn nạn...

Đồng thời cũng cần phải vun trồng các nhân đức khác như: lòng tốt, tính thật thà, công bằng, lịch sự dễ thương, kiên nhẫn, săn sàng trong công việc, quảng đại tha thứ cho người khác.... Ngài cũng được mời gọi sống tâm tình xã hội như: viếng thăm, gặp gỡ, nối kết tình thân hữu, cũng như khả năng phục vụ xả kỷ mà không bao giờ cho người khác lầm tưởng mình là ân nhân.       

Như vậy, linh mục được mời gọi dấn thân phục vụ theo gương chúa Giêsu Kitô: yêu thương và phục vụ.

TRANG TU SĨ

HƠI ẤM CHO ĐỜI

"Anh em hãy trở nên ánh sáng cho trần gian "  (Mt 5,14)

Lời mời gọi của Thầy Chí Thánh ngày nào như tha thiết và vẫn còn vang vọng trong lòng người môn đệ nhiệt huyết qua mọi thời đại, nhất là thời đại hôm nay con người ngày càng trở nên vô cảm trước nổi thống khổ của anh chị em bên cạnh.

Trong một chuyến đi công tác xã hội, nếu không tận mắt chứng kiến tôi cũng không tin nỗi trên đời này lại có những hoàn cảnh thương tâm như vậy. Được sự giới thiệu của một người quen, chúng tôi tìm đến nơi ở của bốn em nhỏ không mẹ không cha. Nói là "một nơi ở" nhưng thực chất đó là một cái hóc trong nghĩa địa được che chắn xung quanh bởi những ngôi mộ, tấm áo che thân là bộ đồ rách nát đã nhiều ngày không được giặt giũ. Hỏi ra hoàn cảnh tôi mới biết bốn anh em ( ba trai và một gái) sống đùm bọc nhau kể từ ngày cha chết, còn mẹ thì bỏ đi lấy chồng biệt xứ. Đứa lớn nhất đã mười ba tuổi nhưng trông em gầy gò đen đủi như đứa trẻ khoảng sáu bảy tuổi. Còn ba đứa em nhỏ cũng cùng số phận, đứa bé gái út vẫn chưa nói rành... Ôi thật thể tin được! nước mắt tôi cứ rơi không nó được lời nào, những người đi cùng cũng sụt sùi thương cảm. Mãi một lát sau tôi mới hỏi chuyện được với các em. Trông vẻ mặt của "anh tư" lanh lẹ có nụ cười tươi thật hồn nhiên, tôi cúi xuống hỏi nhỏ:

- Con tên gì?

- Tên Hải - thằng bé nhanh miệng đáp rồi toét miệng cười có má lúng đồng tiền rất đáng yêu.

- Từ sáng tới bây giờ anh em con có ăn gì chưa? - tôi ôn tòn hỏi bé Hải.

- Anh Linh và anh Sơn có mua xôi cho con và Cẩm Tiên ăn - Hải vừa nói vừa chỉ tay về hướng các anh mình.

- Tiền ở đâu mà con mua xôi cho các em?- Tôi quay sang hỏi bé Linh.

- Con và thằng Sơn đi bắt cá, bắt óc rồi mang tới nhà các cô chú ngoài xóm để đổi lấy tiền hoặc gạo về ăn. Hôm nào được nhiều một chút thì con mua xôi cho thằng Hải và Cẩm Tiên - linh vừa nói vừa dịu dụi cặp mắt đỏ hoe như muốn khóc.

- Vậy là hôm nay con bắt được nhiều cá lắm phải không? - Tôi tinh nghịch hỏi lại em.

- Dạ, cũng có chút chút - bé Linh lí nhí trả lời.

Sau lần gặp ngắn ngủi đó, chúng tôi quyết định đưa các em về "Mái Ấm Thanh Bình" để chăm lo cho các em. Chúng tôi bắt đầu vào việc sắp xếp ổn định để các em thích ứng được với môi trường mới. Tất cả đều phải bắt đầu từ đầu để tập cho các em biết lễ phép vâng lời người lớn, thương yêu giúp đỡ các bé nhỏ hơn mình, ăn mặc sạch sẽ....Đồng thời, chúng tôi cũng nhanh chóng lo làm giấy khai sinh để hợp pháp giấy tờ cho các em có thể đến trường như các trẻ khác.

Là nữ tu, tôi đã được dạy dỗ và huấn luyện để trở nên tông đồ cho Chúa, làm chứng cho Chúa trong thời đại này và điều kiện tối ưu cho một người môn đệ là "trái tim nhân ái và nhiệt huyết".  Nhìn lại thời gian theo Chúa, mười lăm năm không quá ngắn cũng không quá dài nhưng đủ để tôi nhận thức rõ rệt hơn, chung quanh tôi còn có biết bao con người đau khổ. Họ cần một lời cầu nguyện, mặc dầu cuộc sống của họ không thiếu thốn thứ gì. Họ cần đến một lời động viên hay giúp đỡ nào đó trước những khó khăn của cuộc sống, hay một sự cảm thông chia sẻ trước những mất mát thương tâm của kiếp người. Còn rất nhiều rất nhiều điều mà con người đang khao khát kiến tìm giữa thế giới vô cảm hôm nay mà tôi nghĩ mình có bổn phận và trách nhiệm phải trao ban, mặc dù những đóng góp ấy thật nhỏ nhoi như giọt nước trong đại dương mênh mông.

Tình Chúa quá cao vời

Tình con thật nhỏ bé

Để đáp trả tiếng Ngài

Con cần phải hy sinh

Dấn thân trong quên mình

Phục vụ trong yêu thương

Để tình Chúa chiếu tỏa

Cho tất cả muôn người

Hồng ân ơn cứu độ.

MTG Cái Nhum

SỨ MẠNG PHỤC VỤ VÀ YÊU THƯƠNG

Trong dịp tôi đưa một em là thành viên của Tập Viện vào bệnh viện vì cơn sốt cấp tính. Em được chuyển đến khoa Nội B và là bệnh nhân cuối cùng của phòng 18. Trước Em là một bệnh nhân trung niên (giường số 6) đã nhập viện từ tối hôm trước, đang nằm thiêm thiếp do bị mất máu vì chứng xuất huyết bao tử. Bác sĩ bảo cần phải truyền máu thì mới có thể phục hồi được sức khỏe. Gia đình nghèo, đông con, vợ còn phải nuôi con thơ mới tròn hai tháng tuổi. Đi theo chăm sóc cho anh là người chị dâu và đứa con gái lớn của anh, mặc dù đã 20 tuổi nhưng rất khờ khạo. Không tiền ăn cháo, lấy đâu ra tiền mua máu. Đó là nỗi khổ mà cả phòng ai cũng lo lắng cho anh. Anh lại thuộc vào loại máu hiếm, muốn có máu phải chờ đợi có người hiến tặng... và anh đã chờ trên 12 tiếng đồng hồ.

Một thanh niên bước vào, thoáng nhìn trông khắc khổ và quê mùa. Hôm nay nghỉ việc, anh vào thăm Ông Nội đang nằm viện. Qua những câu thăm hỏi bệnh tình, sức khỏe người thân của mình, anh liếc nhìn "người láng giềng gần" và được gia đình cho biết tình trạng của bệnh nhân giường số 6. Mắt anh nhìn người bệnh nhưng vẫn bình thản nói chuyện với gia đình. Sau đó, anh lặng lẽ bước ra khỏi phòng. Khá lâu sau, anh quay lại, tay xách một túi xốp có những hộp sữa và nước yến ... trao cho bệnh nhân giường số 6 cùng với 50.000 đồng vừa móc từ túi áo ra và nói: "Ông rán đợi thêm chút nữa đi, rồi họ sẽ truyền máu cho ông, có máu rồi đó". Chưa kịp hiểu ra điều gì thì anh đã từ giã người thân để ra về. Cả phòng lặng đi, mọi ánh mắt nhìn theo người thanh niên đầy thiện cảm, trân quý. Gia đình bệnh nhân giường số 6 nghẹn lời, không kịp thốt một câu cảm ơn.

Tôi nghe một  niềm xúc cảm dâng trào và như có  tiếng nói trong lòng: "Ai cho anh em mình một  ít giọt máu vì Danh Thầy, người đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời".

Ngày nay, cụm từ "Phục Vụ" cũng rất phổ biến trong mọi sinh hoạt đời thường: trên đường phố, nơi trạm xăng, các quán ăn hay công ty, xí nghiệp để sử dụng ... tùy mục đích mà việc phục vụ có giá trị khác nhau. Trong giao tiếp hằng ngày, người ta có thể phục vụ nhau vì lợi nhuận, vì 1 mục đích nào đó, nhưng là con cái Chúa, chúng ta phục vụ nhau trong yêu thương và tôn trọng. Việc anh thanh niên vì cảm thương sự đau khổ, nghèo túng của người bệnh, sẵn sàng giúp họ vượt qua cơn túng ngặt nầy nên đã không ngần ngại tự nguyện san sẻ cho người  bệnh những giọt máu quý hiếm của mình thật đáng cho chúng ta nể phục: như hình ảnh Chúa Giêsu đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống.

Ngoài ra, còn biết bao mẫu gương khác cho chúng ta nhìn vào và noi theo để sống tốt sứ mạng của mình như mẫu gương phục vụ của Mẹ Maria sau khi được sứ thần truyền tin, gương tận tụy yêu thương người nghèo của Mẹ Têrêsa Calcutta.

Để kết thúc bài viết, xin mượn câu chuyện vui trích từ sưu tầm của Cha Tiến Lộc:

Có một chàng thanh niên đẹp trai, sống trên đời chỉ thích hưởng thụ mà không chịu làm việc. Rồi cũng đến một ngày anh từ giã cõi đời. Sau khi chết, anh được đưa đến một nơi mà lúc còn sống anh thích và hằng mơ ước. Ở đó, anh hưởng được mọi thú vui mà không phải làm gì cả.

Thế nhưng vui chơi riết rồi cũng chán, anh bèn yêu cầu cho làm một việc gì đó thì được nghe giải thích:

-  Xin lỗi, ở đây không phải làm gì hết, chỉ hoàn toàn hưởng thụ thôi, mà cũng chẳng có gì để anh làm, để anh phục vụ đâu.

-  Anh thanh niên tỏ ra bực tức: Nếu vậy thì thà cho tôi xuống hỏa ngục còn hơn.

- Tên gác cửa khoái trá cười ha hả: Ôi, chàng trai ngốc nghếch. Thế bạn nghĩ bạn ở đâu nhỉ? Bạn tưởng bạn đang ở Thiên đàng đấy à?"

Anh chàng giật mình tỉnh dậy, người ướt đẫm mồ hôi ...

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

GIA ĐÌNH NƠI ƯƠM MẦM ƠN GỌI

Ơn gọi là tiếng Chúa gọi một người bước vào một bậc sống nào đó và nhờ đó đạt tới sự thánh thiện. Công đồng Vatican II minh định rõ ràng: "Mọi người trong Hội Thánh đều được gọi (trở nên thánh" (GH 39) (Từ điển Công Giáo Phổ Thông, p.171).

Tất cả chúng ta đều được mời gọi và mang trong mình ơn gọi  nên thánh. Tuy nhiên, Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn một ít người cách đặc biệt theo ơn gọi tu trì như Giám Mục, Linh mục, tu sĩ, hoặc Tông đồ giáo dân, vv... Hiện nay ở một số nơi trên thế giới như Châu Mỹ và Châu Âu ơn gọi ngày một khan hiếm. Thì ngược lại ở Việt Nam ơn gọi linh mục rất dồi dào. Đặc biệt vùng sông nước Miền Tây với lối sống giản di hài hoà cùng thiên nhiên đã tạo nên những người trẻ có lòng quảng đại, cách sống đơn sơ với tâm hồn trong sáng đã dễ dàng và nhiệt tình dâng hiên trên con đường ơn gọi. Ngoài ra còn một yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là gia đình. Chính Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi nói về ảnh hưởng ơn gọi của mình Ngài đã viết "Gia đình là Chủng Viện tại gia". Vậy, dù trong bất cứ thừa tác vụ đặc biệt nào, gia đình vẫn là mảnh đất vun trồng các Ơn gọi đặc biệt ấy vì:

1. Cha Mẹ là người bạn đồng hành tốt nhất của con cái.

Để trở nên một người bạn đồng hành tốt và tâm giao của con cái không phải là điều dễ dàng cho nhiều bậc cha mẹ. Một thực tế cho thấy. Con cái hoà nhập vào xã hội hiện đại nhanh hơn cha mẹ và dĩ nhiên cung cách ứng xử với người khác cũng nằm trong một phạm trù dị biệt. Vì thế, đối với con trẻ sinh ra và lớn lên trong xã hội hiện đại, tư tưởng, nếp suy nghĩ và cách hành xử của cha mẹ thường bị chúng coi là lỗi thời và cổ hủ. Cho nên, khi nói đến vấn đề dâng hiến trên con đường tu trì chúng xem như xa lạ và "cũ kỹ". Với niềm tin, chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần đã và đang hoạt động trong tâm hồn con cái mình ngay sau khi chúng lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Còn cha mẹ mẫu gương tốt cho chúng noi theo, uốn nắn chúng theo đường lối ngay thẳng, là những người đầu tiên gieo vãi Tin mừng của Chúa Kitô vào cõi lòng non dại và thơ ngây của chúng. Ngoài ra cha mẹ phải là mẫu gương cầu nguyện cách quảng đại không chỉ cho riêng mình nhưng cho Giáo Hội, cho Ơn gọi, cho mọi người với tâm tình tạ ơn.

2. Cha mẹ phải là chứng nhân cho con cái.

Đức Thánh Cha Phaolô VI nhấn mạnh rằng: "Ngày này người ta cần những chứng nhân hơn thầy giảng, nếu người ta cần thầy giảng thì thầy giảng đó đã là chứng nhân". Vì vậy, điều quan trọng là tạo cơ hội để con cái chúng ta nhận ra chính cha mẹ là những người mộ đạo, những chứng nhân của Đức Kitô. Con cái phải thấy cha mẹ là người năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, xưng tội, đọc Kinh Thánh, lần chuỗi, vv... Chúng phải thấy chúng ta dám hi sinh những thú vui khác để làm những công việc đẹp lòng Thiên Chúa như một ưu tiên trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta đem con cái cùng đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, và tạo cơ hội để cả gia đình cùng tham gia các công tác giáo xứ. Khuyến khích các em tham gia các phong trào Thiếu nhi Thánh Thể, Fatima, ban giúp lễ, ca đoàn, hoặc giới trẻ, vv...

3. Dạy con có lòng thương cảm.

Chúng ta dạy dỗ con cái biết chia sẻ ngay từ lúc còn bé thơ, cho chúng nhận ra còn rất nhiều người xung quanh mình đang sống thiếu thốn, có rất nhiều người cần sự giúp đỡ và chia sẻ, phải biết cảm thông không chỉ trong lời ăn tiếng nói, cảm thông trong những hành động rất nhỏ: cho các bạn một cái bánh, một món đồ chơi, viên kẹo và dám chấp nhận sự thiệt thòi để cảm thông với người bị thiệt thòi và bị bỏ rơi. Tạo điều kiện và cùng với con cái đến thăm viếng kẻ đau yếu, tật nguyền như nhà thương, viện dưỡng lão, vv...cho con cái thấy ngày nay và hơn lúc nào hết Giáo Hội rất cần có người để phục vụ, rất cần có những người chắm sóc, và đặc biệt rất cần những người có tấm lòng thương cảm. Nhất là cha mẹ sống và làm gương cho con cái trong cung cách cư xử với người khác như một món quà Chúa gửi đến chứ đừng như một phương tiện để lợi dụng.

4. Quan tâm đặc biệt về cách hình thành lối sống của con cái.

Ngày nay có rất nhiều trò tiêu khiển vui chơi giải trí bên ngoài thu hút giới trẻ, nhưng hầu hết đều không lành mạnh và đầu độc con trẻ. Do đó, những sinh hoạt cộng đồng là rất cần thiết cho con cái, trong các sinh hoạt đoàn thể nơi giáo xứ sẽ giúp con cái chúng ta sống tinh thần đồng đội và trách nhiệm. Ngoài ra, những chương trình sinh hoạt lành mạnh và hướng thiện, cũng như học hỏi về giáo huấn của Giáo Hội, Kinh thánh và tinh thần đạo đức do các phong trào đề ra, sẽ giúp con cái chúng ta có một cơ sở về nếp sống đạo hạnh trong tương lai. Chúng ta cũng giới thiệu cho con cái hạnh các thánh và đời sống gương mẫu của các ngài, khuyến khích các em noi theo đời sống đạo đức ấy. Và cho các em nhận ra rằng Ơn gọi nên thánh không nhất thiết phải là đời sống linh mục, tu sĩ hay tận hiến trong các dòng tu nhưng tha thiết với Giáo Hội trong các công tác tông đồ giáo dân cũng là một ơn gọi đáng quí và nên khích lệ.

Đây chỉ là những gợi ý cơ bản giúp cha mẹ những người có bổn phận cộng tác với những người có trách nhiệm ươm mầm cho Ơn gọi Giáo Phận và cho cả Giáo Hội. Bổn phận  chúng ta là cứ gieo vãi mầm Ơn gọi. Gieo càng nhiều càng tốt và gieo đi gieo lại cho đến khi hạt giống Ơn gọi nảy mầm và mọc lên. Cây Ơn gọi có phát sinh hoa trái hay không là do nỗ lực của gia đình và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta. Hãy để Chúa Thánh Thần ban thêm sức sống và Giáo hội thu gặt. Nếu chúng ta ước ao dâng hiến con cái mình cho Thiên Chúa qua lời cầu nguyện hằng ngày và cẩn thận chuẩn bị chúng, Thiên Chúa sẽ nhận lời. Chúng ta cũng không quên dâng con cái mình cho Mẹ Maria. Với lời chuyển cầu của Mẹ, con chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo trong thiên niên kỷ mới này.

 

TRANG THIẾU NHI

BÔNG HOA PHỤC VỤ ÂM THẦM

Làm sao để nhận biết sự khác biệt giữa hoa giả và hoa thật? Câu hỏi đặt ra thiết nghĩ có nhiều cách trả lời khác nhau. Hoa thật mau héo tàn, hoa giả thì bền lâu. Hoa thật lan tỏa hương thơm, hoa giả không chút hương vị. Hoa thật luôn mang trong mình sức sống, nơi hoa giả thì không. Nhưng giá trị cao cả nhất mà hoa thật mang lại chính là nó biết số phận nó rồi sẽ héo khô nhưng vẫn cố dùng hết nhựa sống mình để khoe sắc cho đời, tỏa hương cho người.

Hiện diện không kén chọn

Chắc hẳn nhiều người cũng hiểu giá trị của hoa là làm tươi vui cuộc sống. Lễ hội hay ngày mừng nào cũng có hoa. Vì thế hoa không phải chọn lựa nơi nào đẹp hoa ở, nhưng hoa ở nơi nào hoa làm đẹp nơi đó. Đây là sứ mạng đặc biệt và là bài học cao quý cho những người sẵn sàng dấn thân phục vụ.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Ngài nên thánh bằng con đường thơ ấu thật dễ thương. Sự hiện diện khiêm nhường trong dòng kín như bông hoa thầm lặng đặt dưới bàn thờ. "Con muốn làm một bông hoa nhỏ dưới chân bàn thờ ngày lễ thường". Làm cánh hoa rực sắc nức hương thì dễ nhưng âm thầm nơi góc xó thật khó biết bao.

Đời phục vụ nếu có chút phô trương công trạng thì mất đi ý nghĩa của dấn thân. "Men biệt phái" luôn tìm cách len lõi nơi cõi lòng từng người môn đệ. Phục vụ trong khiêm nhường vẫn ngát hương thơm bay tới thiên đường.

Phục vụ hết mình dù phải hy sinh

Hoa luôn góp mặt trong những ngày vui: tiệc cưới, tân gia hay sinh nhật. Để tạo niềm vui hoa phải chấp nhận bị cắt đi. Ngày sống của hoa như đã định đoạt trong vài ngày. Ấy vậy hoa vẫn tươi, hương vẫn nồng cho người người chiêm ngắm. Những dịp đau buồn như tang chế hay tiễn đưa tiễn người thân, hoa vẫn có mặt để an ủi nỗi niềm, san sẻ khổ đau. Hoa hiện diện như để lắp đầy khoảng trống khi lòng người chưa tìm đâu sự bù đắp.

Hoa chấp nhận người đời nâng niu khi tình mến dâng trào, hay phải bị dập vùi khi tình người đã phai nhạt. Sự phục vụ của hoa là hoàn toàn lệ thuộc vào thái độ và cách sự dụng của người chủ. Người môn đệ phục vụ với một ý thức mình là công cụ của Thiên Chúa, cứ để mặc cho Ngài sử dụng. Không ít lần ta dễ phàn nàn, trách cứ vì môi trường mình phục vụ sao quá khắc nghiệt, điều kiện thiếu thốn, tình người nhạt nhẽo. Thế là ta cứ so bì thiệt hơn. Phục vụ mà vắng bóng hy sinh thì còn đâu là phục vụ?

Chấp nhận bị lãng quên

Ngẫm mới thấy thương và cảm phục! Hoa bị cắt đi ngay thời mình đẹp nhất. Số phận cũng chưa chắc được cưng chìu, thế rồi trong thời gian ngắn ngủi hoa lại bị vứt đi không lời tiếc xót. Những cống hiến của hoa trước đây không được nhắc đến, người ta chỉ tìm cách tống đi cho rồi.

Phục vụ đúng nghĩa không hề kể công hay tính toán, chỉ biết một điều làm hết sức mình như hoa dùng hết nhựa sống để cho đời thêm đẹp. Người phục vụ đòi hỏi phải tốn sức, tốn công, đôi khi danh dự bị xem thường nhưng vẫn miệt mài thì càng thêm ý nghĩa. Giá trị thực của hạt giống khi dám chập nhận bị chôn vùi. Vinh quang thực sự không phải nơi những người còn sống sót trở về sau trận chiến cho bằng những người đã bỏ mạng nơi sa trường. Phục vụ dấn thân đến mức quên mình là mẫu hình lý tưởng để người khác nhận ra ta thuộc về Đức Kitô.

TRANG GIỚI TRẺ

PHỤC VỤ VÌ YÊU THƯƠNG

Có một bài hát sinh hoạt thiếu nhi và giới trẻ như thế này:

"Nếu ai hỏi tôi yêu thương yêu thương là gì?

Tôi sẽ trả lời yêu thương chính là phục vụ.

Nếu ai hỏi thêm phục vụ phục vụ là chi?

Tôi sẽ trả lời phục vụ chính là yêu thương".

Đúng vậy, phục vụ chính là nghĩa cử thể hiện tình thương đối với người khác. Một tinh thần phục vụ vô vị lợi thấm nhuần tình tương thân tương ái là điều hết sức cao đẹp trong cuộc sống. Bởi lẽ, con người ta được dựng nên để sống vì và cho người khác. Con người càng sống phục vụ nhiều bao nhiêu thì họ càng trở thành người đúng nghĩa bấy nhiêu.

Chúa Giêsu đã nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 45). Suốt cả thời gian sống ở trần gian này Chúa Giêsu đã sống trọn sứ mạng phục vụ và hiến mạng sống vì nhân loại. Không ai cần đến Người mà bị Người bỏ rơi. Thậm chí, rất nhiều lần người ta chưa dám kêu xin mà Người đã đi bước trước để đáp ứng nhu cầu cần thiết của họ.

Phục vụ vì yêu thương và hiến mình vì người khác không chỉ là sứ mạng của Chúa Giêsu mà còn là sứ mạng của tất cả những ai là môn đệ của Người. Là người trẻ Công giáo thiết nghĩ đây chính là lời mời gọi khẩn thiết cho tôi cũng như cho các bạn.

Giữa một xã hội đề cao lối sống cá nhân chủ nghĩa dễ làm cho ta có khuynh hướng sống ích kỷ, không biết mở lòng mình ra cho người khác. Từ đó, những công việc mang tính ích lợi chung cũng sẽ từ từ làm cho ta chỉ cảm thấy mất giờ, mất công vô ích. Nhiều nhà thờ ngày nay tìm không ra các bạn trẻ phục vụ trong ca đoàn, giúp lễ, huynh trưởng hay bất cứ công việc nào khác. Các bạn viện đủ mọi lý do để từ chối.

Thầy Chí Thánh Giêsu đã là một gương mẫu tuyệt hảo cho tất cả chúng ta. Ước gì các bạn trẻ chúng ta biết noi gương Người trong sứ mạng hết sức cao trọng này. 

TUỔI TRẺ - ĐỨC TIN - CUỘC SỐNG

HƯỚNG ĐI CỦA ĐỜI TÔI

1. Khám phá vĩ đại nhất

Bạn đang ở vào lứa tuổi 15 -19 và đang theo đuổi việc học hành. Như thế rất tốt. Bạn đang được dẫn dắt để khám phá thế giới của con người và thế giới của vạn vật. Bạn cũng khám phá ra con người đặc thù của mình. Bạn đang tìm cho đời mình một ý nghĩa, một hướng đi. Trong số các khám phá mới mẻ này, bạn không thể để thiếu một khám phá căn bản quan trọng đối với mọi hữu thể nhân linh: đó là sự khám phá của riêng mỗi người về Đức Giêsu Kitô. Khám phá Đức Giêsu Kitô mỗi lúc một mới mẻ và hoàn bị hơn, đó chính là cuộc mạo hiểm kỳ thú nhất của một đời người.

Bạn đã khám phá ra Đức Kitô là Đường đi chưa? Một con đường dẫn ta đến với một vị Cha đầy tình thương. Bạn thường đứng ở ngã tư đường, không biết chọn con đường nào: ngày nay có biết bao con đường dễ đi, biết bao con đường sinh lầy. Với Tin mừng, Đức Kitô chính là con đường an toàn nhất, vì con đường ấy mở ra một hạnh phúc lâu dài toàn vẹn.

Bạn đã khám phá ra Đức Kitô là Chân lý chưa? Đòi hỏi sâu xa nhất của tâm trí con người là hiểu biết sự thật. Đa số các bạn trẻ hôm nay đang đói khát sự thật về Thiên Chúa và về con người, về cuộc đời và về thế giới. Đức Kitô là lời chân lý. Khi Người nói với bạn là chính Chúa đang nói với bạn. Người giải đáp các thắc mắc nảy sinh tư lòng người. Người mạc khải cho ta mầu nhiệm của thế giới và của con người.

Bạn đã khám phá ra Đức Kitô là Sự sống chưa? Tôi biết bạn luôn khát khao được sống một cách dồi dào. Các kỳ  vọng lớn lao và các dự phóng đẹp đẽ cho tương lai đang làm cho đời bạn được linh hoạt. Xin bạn chớ quên sự sống sung mãn chỉ có nơi Đức Kitô, Đấng đã chết vì yêu và đã sống lại cho ta. Chỉ một mình Đức Kitô mới có khả năng lấp đầy tận đáy lòng bạn. Chỉ một mình Người ban lại cho bạn sức mạnh và niềm vui sống dù đứng trước thử thách.

Đúng thế, khám phá ra Đức Kitô là cuộc mạo hiểm đẹp nhất của đời bạn. Nhờ khám phá ra Người mà có biết bao cuộc đời đã thay đổi.

Thế nhưng, ta không chỉ khám phá ra Người một lần là đủ. Đức Kitô mà ta phải khám phá mọi ngày qua kinh nguyện, qua các bí tích, và qua việc đọc Lời Chúa. Nhất là ta phải yêu mến Người và mang Người đến cho kẻ khác. Đức thánh cha đã nói rằng thanh niên là những người mang Tin mừng đến cho giới trẻ trong thiên niên kỷ thứ ba.

Chính các thanh niên có nhiệm vụ xây dựng một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương, của công lý và hoà bình. Đức Kitô đang cần đến bạn.

2. Tình yêu lớn nhất

Bạn sẽ hiến dâng đời mình cho ai? Cho điều gì? Bạn đang mơ một cuộc tình đẹp đẽ với một chàng trai hay một cô gái sẵn sàng thông cảm và chấp nhận chung sống với bạn. Thế nhưng còn có một tình yêu lớn lao hơn nhiều. Và mỗi thanh niên đều phải có lúc tự hỏi xem, nếu tôi dâng hiến trọn đời để phục vụ một mình Chúa mà thôi thì liệu đời tôi có thành đạt hơn chăng?

Đức Giêsu đang đi ngang qua đời bạn như khi xưa Người đã đi ngang qua bờ hồ Tibêriát, đưa mắt nhìn các ngư phủ Phêrô, Gioan và Anrê đang vá lưới và ngỏ lời mời gọi họ: "Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các bạn nên kẻ đánh bắt người" (Mt 4,19).

Đức Giêsu không hề thay đổi. Người vẫn tiếp tục rảo qua các nẻo đường ta đi, đưa mắt nhìn ta và nói lên lời mời gọi ngày xưa: "Hãy đến theo Tôi". Chính Người khai mở cuộc hành trình: Người gọi kẻ Người muốn và gọi khi Người muốn. Ta không chọn mà được chọn. Người luôn mời mọc một cách kín đáo, như một cơn gió nhẹ. Người thầm thì vào tai bạn: "Con có muốn yêu mến Ta chăng?"

Nếu bạn chịu khó lắng nghe Lời Người, Người sẽ nói tiếp: "Con biết đó, Ta đặt tin tưởng nơi con để hoàn tất những công trình lớn lao. Thiếu con, có nhiều việc Ta không thể thực hiện được. Ta cần tay con để băng bó các vết thương.Ta muốn dùng vai con để mang lấy gánh nặng của người khác. Ta mượn tai con để nghe tiếng kêu cứu của các anh em Ta. Chân con sẽ mang Tin mừng của Ta đến tận cùng cõi đất. Tay con sẽ ẵm bồng các trẻ nhỏ để dâng chúng cho Ta. Mắt con sẽ giúp Ta ngac nhiên thán phục trước các vẻ đẹp của tạo vật. Miệng con sẽ nói lời an ủi với những kẻ sầu muộn."

"Con có muốn phục vụ bằng cách hiến dâng đời mình cho tha nhân không? Vậy thì hãy đến theo Ta".

3. Chúa ra hiệu cho ta

Chúa Giêsu có thể cất tiếng gọi ta dưới mọi hình thức. Đôi khi Người gọi ta lúc ta còn bé. Bạn xác tín một cách tuyệt đối: tôi sẽ là linh mục hoặc nhà truyền giáo, tôi sẽ là nữ tu. Ngay từ thời thơ ấu, bạn đã không hề nghi ngờ về ơn gọi của mình. Tại sao vậy? Vì sự việc như thế đấy.

Đối với nhiều người khác, con đường ấy lại lòng vòng hơn. Họ phải mò mẫm tìm kiếm nhiều năm. Rồi một ngày kia, ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã ra hiệu.

Để làm việc này, không có gì là vô ích. Một lời Kinh thánh chiếu soi hồn ta một cách đặc biệt, chẳng hạn như: "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy đến theo Tôi" (Mt 19,21). Một câu trong một cuốn sách nào đó khiến bạn tự nhủ: đây đúng là lời được viết cho tôi. Các lời giảng giải Phúc âm, gương của một linh mục sống đời tư tế một cách hạnh phúc. Một tai nạn đột ngột cướp mất đi người thiếu nữ mà bạn vẫn hằng mơ tưởng. Cuộc đời của một vị thánh đương thời khiến bạn đặc biệt bị đánh động. Tại sao tôi không làm như họ? Chúa đang ra hiệu cho bạn đấy. Nếu bạn tin rằng dấu hiệu này được gởi đến cho bạn cách riêng, xin bạn hãy tâm sự với một linh mục hay một nữ tu, các vị này sẽ giúp bạn thấy rõ hơn. 

4. Ta có thể dấn thân trọn đời không?

Thế nhưng bạn sẽ nói: liệu tôi có đủ sức đáp trả, đủ can đảm để bền đỗ suốt đời không?

Tôi xin nói với bạn điều này: Chúa không bao giờ áp đặt điều mà ta không thể làm được, và Người luôn ban sức để ta có thể trao hiến đời mình. Người sẽ liệu cho "nồi nào úp vung nấy".

Mai ngày khi bão tố nổi lên, Người sẽ ở trên thuyền với bạn, như xưa Người đã ở với các Tông đồ, và Người sẽ dẹp yên sóng biển như Người đã từng làm. Khi bạn sẩy chân Người sẽ không bao giờ buông tay bạn trước. Khi bạn mò mẫm trong đêm tối, Người sẽ cắm mốc chỉ đường cho bạn.

Dù gì chăng nữa, bạn vẫn có thể tin cậy nơi Người, vì bạn rất quan trọng đối với Người. Bạn có thể tín nhiệm vào Người, đồng thời biết rằng Người cũng đang tín nhiệm vào bạn. Khi bạn bất trung với Người, Người vẫn luôn một mực trung tín. Đối với Người, một lời nói ra là có giá trị suốt đời.

Có rất nhiều người trẻ, dù bất hạnh hơn bạn nữa, vẫn tin vào Đức Giêsu Kitô. Sau đây là lời chứng của một cô gái tật nguyền:

"Tôi muốn la to với các bạn trẻ rằng, cả trong những lúc cam go, những đêm tối và những tan nát, Đức Giêsu vẫn luôn có mặt và vì thế, thật là đáng cho ta bỏ công, dù có phải tan nát tâm hồn vì Ngài. Đó cũng chính là điều ngọt ngào nhất, tuy nhiên ta chỉ cảm nếm được điều ấy sau này. Tôi có thể nói rằng tôi không có niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn là có thể nói với Đức Giêsu rằng: 'Ngài là sức mạnh duy nhất, là tình yêu duy nhất của con'. Ngài biết rõ những điều ta đã lựa chọn vì Ngài. Ngài sẽ trả lại cho ta vượt xa những gì ta có thể tưởng tượng ra. Ngay cả khi gặp điều cay đắng nhất ta vẫn thấy ngọt ngào, vì Đức Giêsu đã trở thành niềm vui của ta" (D. Ange, "Các Thánh của năm 2000...").

5. Chỉ cần yêu thôi

"Con có yêu mến không? Con có yêu mến Ta không?" Đó là những lời mà Đức Gioan Phaolô II đã nói với dân chúng Pháp khi ngài viếng thăm Paris vào năm 1980. Đó cũng là những lời mà Đức Kitô đang nói với bạn, giới trẻ của hôm nay.

Theo Đức Giêsu luôn luôn có nghĩa là được mời gọi yêu thương nhiều hơn và, nhờ đó mà được hạnh phúc hơn, vì càng tới gần Thiên Chúa là nguồn vui bao nhiêu, ta càng cảm nghiệm được niềm hạnh phúc đích thật bấy nhiêu. Người ta đã nói rằng: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn. Bạn hãy thử đến thăm một tu viện Cát minh là nơi xem ra có vẻ khắc khổ. Bạn sẽ thấy ở đó những gương mặt rạng rỡ. Nhờ tương giao với Chúa mà con tim họ tươi nở hẳn ra. Chẳng hạn như linh mục luôn muốn là người vui tươi.

Nếu bạn đáp trả bằng lời ưng thuận vì bạn cảm thấy trong thâm tâm mình vang lên tiếng Chúa gọi hãy bỏ chài lưới và theo Người, lúc bấy giờ bạn sẽ không còn dửng dưng với những người khác nữa.

Khi yêu thương thì máu chảy ruột mềm. Ta trở nên gắn bó với hết mọi người. Dù tâm hồn vẫn cảm thấy bình an, ta vẫn lấy làm đau khổ khi có người không đáp lại tình yêu. Ta không còn có thể thấy một đứa trẻ khóc mà chẳng khóc theo. Ta không còn có thể biết một dân tộc bị nạn độc tài áp bức mà chẳng thấy như mình cũng đang bị đè bẹp vậy. Ta không còn có thể gặp một thanh niên "bị ăn đòn" bên lề đường mà chẳng xắn tay áo lên như người Samari tốt lành để cứu giúp anh ta một cách hữu hiệu. Ta không còn có thể thấy một người tàn tật mà chẳng cảm động đến rơi lệ. Ta không còn có thể thấy những người trẻ lún sâu vào nạn ma tuý và tội phạm mà chẳng có sức để thay đổi xã hội.

Người đi theo Chúa phải có một con tim trải rộng như thế giới, một con tim mà đi vào đó ai cũng cảm thấy như vào trong nhà mình. Không còn ai là kẻ dửng dưng xa lạ nữa. Ai cũng đều là anh em của nhau.

Một cuộc đời đẹp đẽ là một cuộc đời được dâng hiến cho Đức Kitô và cho Hội thánh là Thân Thể của Người. Ta không thể phân rẽ Đức Kitô khỏi Hội thánh cũng như không thể chia cắt đầu ra khỏi các chi thể.

6. Ý nghĩa của đời độc thân

Chắc bạn sẽ hỏi tôi cớ sao lại sống độc thân? Xin trả lời rằng người dâng hiến đời mình cho Chúa phải đem toàn bộ cuộc sống mình để chứng tỏ rằng chỉ một mình Người mới có khả năng làm cho con tim nhân loại được thoả mãn. Chỉ  một mình Chúa mới đáng cho ta bỏ hết mọi sự, mới đáng cho ta khước từ các tình cảm chính đáng nhất để phụng sự một mình Người.

Đời độc thân cho phép ta thuộc về Chúa để thuộc trọn vẹn về tha nhân. Vị linh mục hay người nữ tu khước từ việc lập gia đình để có thể trở nên phần tử của mọi gia đình. Đời độc thân cho phép ta sẵn sàng hơn, cả ngày lẫn đêm để phục vụ người lân cận vì tình yêu của Chúa. Bạn có nghĩ rằng mẹ Têrêxa Calcutta sẽ có thể dâng hiến trọn cuộc sống mình cho những người nghèo khổ nhất nếu mẹ phải dâng hiến một phần thời gian để dạy dỗ một gia đình đông con hay không?

Đời độc thân tự nguyện được ta lựa chọn vì yêu Chúa và tha nhân cũng là một chứng từ cho thời đại hôm nay. Đó là một cách để nói lên rằng với ơn Chúa ta có thể làm chủ các bản năng tính dục của mình, ta có thể vẫn trong trắng giữa một thế giới đề cao khoái lạc thể xác và dâm dật. Do đó sự trung thành của vị linh mục và người nữ tu là một nguồn trợ lực quý báu cho các đôi vợ chồng, vì họ cũng có bổn phận phải trung tín với nhau cho đến chết, đồng thời đó cũng là một nguồn trợ giúp cho giới trẻ đang chiến đấu để làm chủ thân xác của mình.

Để cho đầy đủ, tôi cũng xin nói thêm rằng đời độc thân trong bậc tu trì còn loan báo về thế giới mai sau, về triều đại của Thiên Chúa, sau khi ta chết, khi đó tính dục không còn lý do tồn tại nữa, vì lúc ấy sẽ chẳng còn chồng còn vợ, ở trên trời bạn hữu của Chúa đều là con cái của Người.

Bạn quyết định thế nào? "Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe" (1 Sm 3,9).

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur:  Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990

Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

XÂY DỰNG MÙA XUÂN CHO CON CÁI

(7 Cái Thiếu Trong Giáo Dục Gia Đình Hiện Nay)

Sự thành công của học sinh, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài đã làm cho nhiều người thán phục và thắc mắc. Một trong những nguyên nhân đã được xác nhận, tại Hoa Kỳ và ở Đức, đó là sự hỗ trợ và liên đới của gia đình : bầu khí gia đình, sự quan tâm của gia đình hay ý thức trách nhiệm đối với gia đình.
Sự kiện này làm cho nhiều người nước ngoài thèm thuồng, bởi vì tình trạng gia đình ở nước họ có nhiều vấn đề. Tại Việt Nam chúng ta, truyền thống và văn hóa gia đình dù sao vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Song nhiều người đã lên tiếng báo động trước những hiện tượng tiêu cực của giới trẻ : con số trẻ em đường phố gia tăng, tội phạm hình sự trong giới thanh thiếu niên, các vụ phá thai của những cô gái còn ngồi ghế nhà trường ...

Ngay trong các gia đình anh chị em chúng ta, việc giáo dục gia đình có được quan tâm đúng mức không? Hiện nay chúng ta đang chịu một áp lực xã hội rất lớn, ở mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khiến không dễ một mình lội ngược dòng. Dù sao trách nhiệm vẫn còn đó, và nền giáo dục mà chúng ta đã được hưởng không cho phép mình khoanh tay nhắm mắt đối với hạnh phúc tương lai của con cái.
Xin mạn phép chia sẻ với anh chị 7 cái thiếu cần quan tâm trong giáo dục gia đình, nhằm động viên nhau xây dựng cho con em một mùa xuân mới ngay tại gia đình mình.


1. CHA MẸ THIẾU THỜI GIỜ CHO CON CÁI

Mỗi ngày, anh chị dành cho con cái và từng đứa con được mấy phút? Và được mấy phút vui vẻ, êm ấm cha con, mẹ con vui đùa với nhau thoải mái, yêu thương?

Chơi với con : là một mối giây liên kết mình với con cái bền chặt hơn nhiều thứ khác.


2. CON CÁI THIẾU TƯƠNG QUAN VỚI NGƯỜI KHÁC

Gia đình ngày nay chủ trương ít con, một hay hai con mà thôi. Những đứa con một thiếu tương quan với người khác ngay trong gia đình của mình. Song nhiều con em bây giờ cũng ít gặp gỡ sống với người khác do bận học hành quá nhiều, học ở trường, học thêm, học năng khiếu. Không còn nhiều giờ để sống với bạn bè, anh em, người thân quen. Nhà trường nhấn mạnh quá về kiến thức. Ít chú trọng đến lễ nghĩa, tương giao. Và ngay khi sống tương giao, cái phẩm chất vẫn còn là một vấn đề. Chẳng hạn thái độ mô phạm của thầy giáo hay những nhận định của cha mẹ về thầy cô con cái có thể nghe được.


3. THIẾU TÍCH CỰC TRONG SUY NGHĨ PHÊ PHÁN

Trẻ em Việt Nam ngày nay dành mấy giờ mỗi ngày để xem tivi, video, chơi trò điện tử ... Thời gian ngồi trước màn ảnh nhỏ tạo cho người xem thái độ thụ động, chỉ hấp thu mà ít phản ứng.

Làm sao tạo cho con cái chúng ta một thái độ tích cực tiếp thu những gì mình xem, mình đọc, mình nghe. Nói chuyện với con cái có thể giúp chúng ta nghe biết những gì con cái thu nhận và tạo điều kiện để gây suy nghĩ, đặt vấn đề và soi sáng. Cần phải biết đánh giá, chọn lựa trước mọi thứ xã hội bên ngoài áp đặt cho mình.

4. THIẾU SỰ TRUNG THỰC

Sự trung thưc ngày nay, có lẽ phải đốt đuốc mới tìm thấy. Giả dối lại có thể tìm thấy khắp nơi: đồ giả, hàng giả, bằng giả. Học sinh đi thi, photocopy bài để cóp là chuyện bình thường. Nếu tương lai của con em chúng ta không được xây dựng trên chính thực lực của chúng mà chỉ dựa vào tiền bạc, thế lực và mánh khóe thì làm sao đứng vững được ?


5. THIẾU TINH THẦN TRÁCH NHIỆM

Xã hội giải bày một tinh thần trách nhiệm cao độ : các công trình thi công trên đường phố, chuyện giao thông hàng ngày, những tội phạm báo chí phơi bầy về tham nhũng, hối lộ, lạm dụng của cải xã hội chủ nghĩa... Gia đình cần góp phần giáo dục cho con em tinh thần trách nhiệm về bản thân, về gia đình, về người khác... Con người không sống theo chính lương tâm ngay thẳng của mình sẽ là người như thế nào khi có một chút quyền lực nào có trong tay ?


6. THIẾU THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI MÌNH

Các xã hội Đông Âu và Liên Xô cũ cho thấy việc loại trừ tôn giáo đã kéo theo những hậu quả nào : một xã hội phi đạo đức. Sự trống vắng Thiên Chúa trong xã hội Tây Phương cũng cho thấy những hậu quả tương tự. Còn thiếu vắng Thiên Chúa trong gia đình thì sao? Ly dị, phá thai, lạm dụng tình dục và bao nhiêu thứ chuyện khác. Trong gia đình của chúng ta, có thể vẫn có những hình tượng của Ngài, nhưng một Thiên Chúa sống động là Cha, quan phòng;  một Thiên Chúa hy sinh trên thập giá,  mời gọi các môn đệ chấp nhận hy sinh;  một Chuá Thánh Thần,  sống động trong tâm hồn mỗi người: Thiên Chúa ấy, con cái chúng ta có nhận thấy Ngài hiện diện trong gia đình không?

 

7. THIẾU NHỮNG TẤM GƯƠNG SÁNG

Cuối cùng và có thể nói là tóm chung lại, giáo dục gia đình cần trước hết là những tấm gương mẫu mực, mô hình cho con cái.
                        Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng .

                        Lời nói bay mau, gương sáng còn mãi.
Trong những ngày này, chúng ta có thể tự hỏi với nhau : Anh chị em chúng mình để lại cho con cái những tấm gương nào? Con cái theo bước cha anh: cái gì nơi chúng ta có thể soi đường dẫn lối cho con cái mình sau này? Chúng ta đã làm gương cho con cái như thế nào trong lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc đi đứng, cách sử dụng tiền bạc, phương tiện giải trí, cách làm việc, nghỉ ngơi, cách đối xử với nhau giữa vợ chồng, bạn bè, cách lái xe, cách phục vụ quê hương, cách yêu mến Chúa và người khác...


Mùa xuân mới, không chỉ là quà tặng của thiên nhiên, cứ theo chu kỳ mà trở lại. Mùa xuân mới của con em chúng ta còn chính là cuộc sống nơi gia đình, mà cha mẹ ông bà và những người thân quen không ngừng tạo dựng cho con cháu. Chúng ta hãy cùng nhau xây dựng cho con cái mình một mùa xuân mãi mãi hạnh phúc và bình an.

(Bài nói chuyện của Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa với một số gia đình.)

Nguồn: ubmvgiadinh.org

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

Bài 11. KỂ CHUYỆN TRONG BUỔI GIÁO LÝ

 (Chuyện giáo lý)

Chú thích: Bài giảng giáo lý được trình bày theo lối quy nạp, cho nên thường lấy một sự kiện hay một câu chuyện để làm khởi điểm.

I.       Các loại truyện: Ta có thể chia thành 3 loại truyện:

1.      Truyện Kinh Thánh:

Trong Kinh Thánh Cựu và Tân Ước có rất nhiều truyện tập thể hoặc cá nhân liên quan tới Thiên Chúa và con người. Nếu được trình bày trong giáo lý thì rất tốt, rất thích hợp nhờ nội dung và tính chất tôn giáo của chúng và chuyển sang áp dụng vào đề tài giáo lý thì tự nhiên và rõ ràng, dễ dàng. Do đó, nên ưu tiên loại truyện này trong giờ giáo lý.

Ví dụ:

- Truyện: Cain và Abel -> dạy: Thiên Chúa thấu biết mọi sự.

- Truyện: Ông Nôê và Đại hồng thuỷ -> dạy: Thiên Chúa không chấp nhất tội ta (tức: Thiên Chúa không huỷ hoại loài người...).

- Truyện: Tổ phụ Abraham -> dạy: Tin và vâng phục Thiên Chúa vô điều kiện và để Thiên Chúa dẫn dắt.

- Truyện: Dân Chúa vượt qua Biển Đỏ -> dạy: Thiên Chúa giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào nước Thiên Đàng.

2.      Loại truyện lịch sử Giáo hội và cuộc đời các thánh:

Đây là cả một kho tàng nhiều sự kiện. Tuy nhiên, cần trung thực, tránh thêm ly kỳ, theo dệt, huyền thoại... làm hại đức tin hơn là lợi ích nơi tâm hồn của các cháu.

Ví dụ:

- Truyện cuộc đời thánh Phaolô, để dạy về ơn gọi làm Tông Đồ.

- Truyện các thánh Tử Đạo Việt Nam, dạy về lòng trung tín của chứng nhân đức tin.

 

3. Những truyện trong đời thường hoặc trong thời sự: Góp phần suy nghĩ về đề tài giáo lý. Việc lựa chọn loại truyện này là một đòi hỏi khôn ngoan với hai điều kiện:

-  Thích hợp với chủ đề tôn giáo.

- Có thể dễ dàng chuyển từ câu chuyện sang đề tài giáo lý.

II.    Cách thuật truyện

1.      Chủ đích thuật truyện trong giáo lý: Không nhằm để "mua vui", giải trí, nhưng được dùng làm phương thế dẫn đến Tin mừng và truyền đạt Tin mừng.

2.      Cách thức thuật truyện: Phải trình bày ngắn gọn, cụ thể, chi tiết được nổi bật để minh hoạ cho bài giáo lý. Ví dụ Truyện: "Chúa làm cho sóng gió im lặng". Làm nổi bật Chúa quyền phép qua cảnh sóng gió dữ dội.  Các môn đệ hoảng sợ, bất lực.

3.      Những truyện trong Phúc âm:

Về cuộc đời của Chúa Giêsu; các dụ ngôn của Chúa Giêsu kể; các dấu lạ Chúa Giêsu làm.

TRANG QUỚI CHỨC

NHỮNG ĐIỀU PHẢI CÓ Ở QUỚI CHỨC

Về việc tuyển chọn người vào Ban Quới chức, điều 19 trong điều lệ đã quy định rõ 5 tiêu chuẩn để được chọn. Những tiêu chuẩn này xem ra không khó để có thể trở thành  Quới chức, nhưng để có thể làm Quới chức thì không phải dễ.

Cái khó lớn nhất để có thể làm Quới chức đó là đạo hạnh. Nếu một Quới chức không có được đạo hạnh tốt thì khó có thể chu toàn dược bổn phận.

Năm tiêu chuẩn tuyển chọn Quới chức không đề cập đến bằng cấp, trình độ, kiến thức khoa học. Đơn giản vì đây không phải là công việc nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hay làm chính trị, nhưng là làm công việc tôn giáo, việc đạo. Vì thế, yếu tố quan trọng nhất của một Quới chức không phải là trình độ văn hóa; chuyên môn về kỷ thuật mà chính là trình độ đạo đức và lòng nhiệt thành tông đồ.

Đức độ: Quới chức phải là người có đời sống đạo đức trổi vượt hơn những người khác. Đó là điều mà công việc bắt buột phải có để Quới chức có thể thi hành bổn phận.

Trong việc tông đồ giáo dân không có quyền đòi hỏi Quới chức phải giàu hay chê cười một Quới chức vì ít học nhưng giáo dân có quyền đòi hỏi Quới chức phải là một người đạo đức thật, nghĩa là người thực hành việc đạo đức, thực thi giáo lý phúc âm chứ không phải chỉ là những kẻ chỉ giữ đạo bằng nước bọt.

Chúng ta thử nghĩ: một Quới chức sẽ khuyên người khác sống đạo như thế nào khi chính bản thân mình không đọc kinh, không kiêng việc xác, không chu toàn việc thánh hóa ngày chúa nhật... Làm sao kêu mời giáo dân cộng tác trong việc chung của họ đạo khi bản thân ông và gia đình không hề làm gì cả ?

Người ta cần gương sáng hơn lời khuyên, người ta chỉ phục những ai hơn mình. Không làm thì nói ai nghe? Không tốt thỉ bảo ai phục ?

Nhiệt tâm tông đồ: Không nhiệt tâm tông đồ, Quới chức sẽ trở thành những kẻ vô tích sự.

Quới chức là đại diện của một họ đạo. Muốn biết đời sống đức tin của một họ đạo như thể nào, hãy nhìn vào ban Quới chức của họ đạo đó. Quới chức có nhiệt tâm tông đồ sẽ làm cho họ đạo trở nên năng động, có sức sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi khi chọn Quới chức, họ đạo đề cử những người được coi là tốt, mẫu mực. Người ta sẽ coi theo mẫu mà làm. Các Quới chức chỉ coi trọng lợi ích cá nhân, gia đình trên hết, coi việc làm ăn, kinh tế trên cả việc đạo hạnh thì chắc chắn đời sống đạo ở họ đạo đó sẽ xuống cấp; Quới chức không cộng tác với cha sở, họ đạo sẽ chỉ như các xác không hồn. Bởi lẽ sức sống của họ đạo nằm ở đâu ? Nơi cha sở ? Không hẳn như thế. Cha sở chỉ là người phát động và điều hướng, người chỉ đạo. Một cha sở giỏi giang cũng chỉ có thể đề ra phương pháp thích hợp để phát triển họ đạo nhưng nếu mọi người không đồng lòng thực hiện thì cũng vô ích mà thôi. Vậy ai sẽ là người thực hiện? Chính là giáo dân. Thế nhưng tâm lý của đám đông là luôn chờ đợi, họ chờ đợi có người làm trước rồi họ mới làm theo. Người đi tiên phong đó phải là ban Quới chức, nói riêng là từng cá nhân những người đã được họ đạo đề cử.

Trong một thực tế phủ phàng nào đó, làm Quới chức là làm thay, làm hết (làm thay luôn cha sở, cũng như giáo dân!) Thế nhưng nếu chúng ta chỉ nghỉ đến mặt tiêu cực của nó rồi không làm gì cả thì cả họ đạo sẽ như con tàu không có động cơ, cha sở giống như một hoa tiêu, dù tài giỏi đến mấy cũng chỉ biết kêu gào trong tuyệt vọng mà thôi. Nếu như từng thành viên trong ban Quới chức hết lòng thực hiện những chương trình của họ đạo thì dần dần họ đạo sẽ chuyển mình bởi : "lời nói lung lay gương bày lôi kéo".

Người đời nói: Nhiệt tình + Dốt nát = Phá hoại. Chúng ta không sợ dốt nát về văn hoá hay kiến thức khoa học, chúng ta chỉ ngại dốt nát về đạo, nhưng cũng không đáng lo bởùi vì giờ đây chúng ta có những Khoá Giáo Lý cho Ban Quới chức và nếu một Quới chức có nhiệt tâm tông đồ, ông sẽ để tâm học hỏi, sống đạo, dần dần sẽ lấp đầy khiếm khuyết đó, hơn nữa mỗi họ đạo còn có cha sở luôn ở bên sẽ là người trợ lực rất hữu hiệu cho việc tông đồ của Quới chức. Mong các Quới chức lưu  tâm đến đời sống đạo đức nhiều hơn nữa và nhiệt tâm tông đồ không mệt mõi, để có thể trở nên động cơ lôi kéo con tàu họ đạo của mình tiến lên phía trước.

SỐNG ĐẸP

Người thợ xây

Người thợ xây nọ đã làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu trong nhiều năm cho một hãng thầu xây dựng. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình.

Hãng thầu rất tiếc khi thiếu đi một người thợ giỏi đã tận tụy nhiều năm. Hãng đề nghị ông cố gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà trước khi thôi việc. Ông ta nhận lời.          


Vì biết mình sẽ giải nghệ, cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc trách qua quít, xây dựng căn nhà với những vật liệu tầm thường, kém chọn lọc, miễn có một bề ngoài đẹp đẽ mà thôi.         


Mấy tháng sau, căn nhà đã hoàn thành. Người chủ hãng mời ông đến, trao cho ông chiếc chìa khóa của ngôi nhà và nói: "Ông đã gắn bó và làm việc rất tận tụy với hãng trong nhiều năm, để tưởng thưởng về sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của hãng, chúng tôi xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!" 


Thật là bàng hoàng. Nếu người thợ biết mình sẽ xây cất căn nhà cho chính mình thì hẳn ông ta đã làm việc cẩn thận hơn và chọn lựa những vật liệu có phẩm chất hơn. Sự làm việc tắc trách chỉ có mình ông biết và nay thì ông phải sống với căn nhà mà ông biết rõ là kém phẩm chất như thế nào.      


Câu chuyện người thợ xây cũng tương tự như chuyện đời của chúng ta. Cũng như người thợ già kia, chúng ta thường tạo dựng một đời sống hào nhoáng, tạm bợ, đua đòi không chú trọng tới phẩm chất của nó. Nhiều khi ngồi kiểm điểm những sự bê bối của mình trong quá khứ, chúng ta thấy mình đang phải cam chịu những hậu quả của nó.           


Cuộc đời là một công trình kiến trúc do chính mình tạo nên. Đời sống hiện tại là kết quả của sự tạo dựng trong quá khứ, đời sống ngày mai sẽ là kết quả của sự tạo dựng hôm nay. Hãy xây dựng đời mình một cách đúng đắn!

Nguồn: songdep.xitrum.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

Hãy thay đổi để được hạnh phúc!

Tôi trẻ trung, xinh đẹp lại là trưởng phòng thiết kế một công ty may mặc nên mọi người đều nghĩ gia đình tôi hẳn rất hạnh phúc, nhưng thật ra... tôi đang mang trọng trách của người đàn ông trong nhà!

Nhiều lúc tôi tự hỏi: "Chồng tôi có phải là đàn ông nữa không?". Anh ấy vốn là kỹ sư điện, suốt ngày ở công ty cặm cụi với máy móc, về nhà lại nghiên cứu đến gần nửa đêm. Ban đầu, tôi rất thông cảm, chẳng trách móc gì; nhưng mãi sau rồi đâm chán vì anh chỉ biết công việc, chẳng quan tâm gia đình, vợ con. Ngay cả chuyện đưa rước con đi học, anh cũng thoái thác...

Có lần, sếp là bạn học của vợ chồng tôi, đến phàn nàn công ty cho đi Nhật học một năm để nâng cao tay nghề, tăng lương mà anh không chịu. Sợ anh tự ái, tôi chưa dám nói chuyện này thì anh đã phân bua: "Vợ chồng mình không giàu nhưng cũng không đến nỗi thiếu thốn, đi học làm gì cho tốn kém. Anh làm kiếm tiền như thế đủ rồi, em  muốn xài nhiều thì kiếm thêm"!!!    
Anh nói vậy chứ hàng tháng, tiền lương anh kiếm được đưa cho tôi nếu tính ra chỉ đủ nuôi thân anh, còn lại mọi thứ trong gia đình tôi phải lo hết, "có chồng mà cũng như không". Anh cũng chẳng màng đi thăm viếng họ hàng, bạn bè và mọi trách nhiệm trong nhà cứ đùn đẩy hết cho tôi lo lắng, quyết định.

Một lần em gái anh sang mượn xe gắn máy của anh để đi rước con, anh bảo: "Em hỏi chị đi!". Khi bạn bè hỏi han thứ gì, anh ấy cũng bảo "hỏi cô ấy". Con cái trong nhà muốn đi đâu, làm thứ gì, anh cũng bảo "chờ mẹ"... Như vậy thì làm sao lanh có thể làm chỗ dựa tinh thần cho tôi.

Rồi tôi bắt đầu so sánh anh ấy với những người đàn ông khác, từ bạn của chồng, đến mấy anh cùng cơ quan, rồi cả những người mà tôi biết. Đã có lần lòng tôi xao xuyến trước một khách hàng thân thiết của công ty; đã bao lần tôi tính đến chuyện ly dị nhưng không thể!

Trước nhất là vì sĩ diện với bạn bè, trong mắt bạn bè chúng tôi là cặp đôi trai tài, gái sắc; với mọi người xung quanh chúng tôi là một gia đình hạnh phúc. Hơn nữa, tôi không muốn ba mẹ tôi lo lắng, phiền lòng.

Để cứu vãn tình thế, chúng tôi tìm đến nhiều chuyên gia tư vấn. Nghe lời tư vấn của chuyên viên và bạn bè, cả hai thay đổi hình thức, trang phục, cư xử mềm mỏng hơn... và dành nhiều thời gian hơn cho gia đình; cùng tạo cơ hội cho cả nhà cùng vui chơi, giải trí...

Trong thời gian "khôi phục" hạnh phúc, sếp tổng định giao cho tôi làm phó giám đốc kinh doanh, nhưng tôi đã sớm từ chối vì với trách nhiệm đó, thời gian dành cho gia đình sẽ không còn là bao.

Khi mỗi cá nhân thu nhỏ bớt một chút cái tôi, thì hạnh phúc "ào đến" với gia đình chúng tôi; chồng tôi lại sống tự tin, cởi mở hơn và luôn quan tâm đến vợ con.

Thùy Liên (nld.com.vn)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

CÁC THÁNH CẦU BẦU HAY BAN ƠN ?

Hỏi: Xin cha giải thích lời cầu nguyện thường nghe sau đây có đúng tín lý hay không: "Xin Chúa , Đức Mẹ, Thánh Giuse (hay Thánh Phêrô, Phaolô..) ban nhiều ơn lành cho ông bà, anh chị em v.v.."

Trả lời:  Nghe qua thì lời cầu xin trên đây không có gì đáng thắc mắc. Nhưng đọc kỹ lại thì quả thật không ổn về mặt tín lý và giáo lý của Giáo Hội.

Lý do là chỉ có Thiên Chúa là Đấng ban phát  hay là Nguồn mạch duy nhất tuôn đổ mọi  ơn sủng  (gratia=grace) cho các tạo vật mà thôi.

Khi hiện ra với ông Môsê trên núi Sinai , Thiên Chúa đã nói cho ông biết Ngài là "Thiên Chúa nhân hậu và ân sủng,chậm bất bình, giầu lòng  thương xót  và thành tín"  (Xh 34:6). Vì thế, chúng ta phải cầu xin Chúa và chỉ một mình Người ban phát mọi ơn phúc cần thiết cho ta mà thôi.

Tuy nhiên, để cho lời cầu xin của chúng ta được đắc lực nhâm lời thì Giáo Hội dạy chúng ta phải cậy nhờ các Thánh nam nữ, nhất là Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, là người "đầy ơn phúc", nguyện giúp cầu thay cho. Như vậy, dù với địa vị là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) vì là Mẹ thật của Chúa Kitô cũng là Thiên Chúa, Đức Mẹ cũng không cao hơn Thiên Chúa trong uy quyền và ân sủng. Bằng cớ là  khi còn tại thế, nhân đến dự tiệc cưới tại Cana với Chúa Giêsu, Đức Mẹ là người trước tiên đã nói với Chúa Giêsu rằng "họ hết rượu rồi" (Ga 2:3). Mẹ nói thế và để tùy Chúa quyết định chứ  Mẹ không tự ý làm điều gìï. Nhưng cũng vì lời Mẹ chuyển cầu thay cho gia chủ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon mặc dù "giờ của Chúa chưa đến". Sự kiện này cho thấy rõ uy tín và hiệu lực qua lời cầu bầu của Đức Mẹ.

Với tất cả các Thánh nam nữ khác,  Giáo Hội  cũng dạy rằng: "Những  nhân chứng  đức tin đã đi trước chúng ta vào Nước Trời, đặc biệt là những người  đã được Giáo Hội công nhận là "thánh" và đang dự phần vào truyền thống sống động của cầu nguyện  và gương sống của họ cũng như đã để lại cho chúng ta sách vở và lời cầu nguyện. Các ngài đang chiêm ngưỡng và ca tụng Thiên Chúa, và không ngừng lo cho những người mà các ngài đã để lại trên trần thế. Khi các ngài được vào hưởng niềm vui với Chúa của mình, các ngài được trao phó cho nhiều công việc, trong đó việc chuyển cầu  thay cho kẻ khác là việc phục vụ trỗi vượt hơn hết cho kế hoặch của Thiên Chúa. Chúng ta có thể và phải xin các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta và cho toàn thế giới." (GLGHCG, số 2683; LG. số 50). 

Mặt khác. Công Đồng Tri?entinô (1563) cũng dạy rằng: "Thật tốt lành và hữu ích khi khiêm tốn cầu khẩn cùng các Thánh để xin ơn sủng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."  Như thế, trên hết chúng ta phải cậy nhờ Chúa Kitô  khi  xin mọi ơn phúc của Chúa Cha. Các Thánh là những người đã thánh thiện đủ và đang được ở gần Chúa Giêsu hơn các tín hữu còn lữ hành trên trần thế hay đang được tinh luyện trong Luyên tội, nên có thể nguyện giúp cầu thay đắc lực  cho ta và cho các linh hồn trong nơi thanh luyện đó.  Đây là tín điều các thánh thông công mà Giáo Hội dạy và thực hành.

Chính vì thế mà Giáo Hội đã đặc biệt kêu cầu sự trợ giúp thiêng liêng của Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ qua Kinh cầu các Thánh được đọc trong những dịp đặc biệt như Lễ Truyền Chức thánh, Khấn Dòng, và đêm vọng Phục Sinh ..

Tóm lại, khi cầu nguyện để xin bất cứ điều gì, ta cần nhớ rõ là chỉ một mình Thiên Chúa tức Chúa Cha là Nguồn ban phát mọi ơn lành mà thôi.

Nhưng cho được xin bất cứ ân sủng nào của Chúa Cha cách xứng hợp và hữu hiệu, chúng ta trước hết phải cậy nhờ Chúa Giêsu như Chúa đã dạy các tông đồ xưa:

"Tất cả những gì anh  em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người sẽ ban cho anh  em." (Ga 15:16).

Đó là lý do tại sao Giáo Hội luôn kết thúc mọi lời cầu nguyện bằng câu: Nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con, cũng như luôn nhắc đến Đức Mẹ và các thánh khi cử hành phụng vụ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cầu xin cùng Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần vì các Ngài cũng là Thiên Chúa đồng bản tính và uy quyyền như Chúa Cha.

Như vậy, kiểu nói: cầu xin Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse hay bất cứ Thánh nào khác phải được hiểu là nhờ Mẹ và các Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng ta mà thôi. Nghĩa là Đức Mẹ và các Thánh không thể tự ban phát ơn nào cho ai được mà không qua Chúa Giêsu để lãnh nhận từ Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót và ân sủng.

Vậy cho được chính xác, chúng ta phải cầu xin như thế này: Nguyện xin Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô và qua lời cầu bầu của Đức Mẹ, và Thánh..... ban nhiều ơn lành cho chúng ta (hay cho ai đó). Và khi xin gì cùng Đức Mẹ và các Thánh, thì nhớ là phải xin trong tinh thần nhờ cậy Mẹ và các thánh chuyển cầu thay cho mình trước Tòa Chúa. Đó là cách cầu nguyện xứng hợp đẹp lòng Chúa và vui lòng Đức Mẹ và các thánh nhất.

Sau hết, cũng vì mục đích tôn thờ Thiên Chúa cách đúng đắn, phù hợp với đức tin, thì  mỗi khi bước vào một nhà thờ hay nhà nguyện nào nơi có đặt Mình Thánh Chúa trong Nhà tạm chúng ta phải bái quỳ hay cúi đầu bái lạy Thánh Thể,  trước khi bái kính ảnh tượng Đức Mẹ hay bất cứ  thánh nam nữ nào có ảnh tượng trong nhà thờ. Nghĩa là không nên chayy thẳng vào nơi có ảnh tượng Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse hay Thánh nào khác mà quên Chúa Giêsu ở trong Nhà Tạm, vì ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó cũng có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Lm.  Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Vào bếp nhớ cha

Ngày còn nhỏ, tôi rất sợ nhìn vào đôi mắt nghiêm nghị của cha. Mỗi khi lỡ làm sai điều gì, tôi luôn lo sợ sẽ bị cha quở phạt.

Nhà có 3 anh trai, tôi là gái út nhưng không mấy khi được cha cưng chiều. Thuở tôi lên 10 tuổi, trong khi lũ bạn còn mải mê chạy nhảy, tôi đã biết vào bếp phụ mẹ nấu nướng, quét dọn nhà cửa. Có lần mải chơi nhảy dây, tôi quên tắt bếp lửa làm nồi cơm khét lẹt. Chiều đó, tôi không dám về nhà, ngồi thu lu trong bụi chuối đến tối mịt. Nghe văng vẳng tiếng cha mẹ và các anh gọi í ới, tôi cũng chẳng dám lên tiếng. Khi tìm được tôi, cha bẻ một nhánh cây bên đường. Tưởng tôi sẽ phải no đòn nhưng cha chỉ dứ dứ quanh chân tôi.

Cha chưa đánh mà tôi đã khóc ngất lên. Trên đường về, cha vừa đi vừa bảo ban. Cha giải thích vì sao hay bắt tôi vào bếp phụ mẹ nấu cơm. Cha nói: "Ông bà ta có câu: Trai khôn kén vợ chợ đông, nhưng cha sẽ dạy cho các anh con cách kén vợ đơn giản hơn. Chỉ cần xuống bếp nhà của cô gái sẽ biết sau này cô ấy có thể vun vén gia đình không". Cha tôi luôn thực hiện nguyên tắc nói đi đôi với làm nên mỗi ngày, tôi đều phải vào bếp dọn rửa chén bát cho sạch sẽ, lau chùi, sắp xếp đồ đạc cho tươm tất... 

Sau này khi đã có gia đình, nhìn những nụ cười, ánh mắt háo hức của chồng con trước mỗi bữa cơm, tôi mới thấm thía những điều cha đã dạy. Tôi mới hiểu ý nghĩa những bữa cơm mà ngày nhỏ cha luôn bắt tôi phải nấu. Tôi thầm cảm ơn cha đã dành nhiều thời gian, kiên nhẫn dạy để tôi thấm một cách tự nhiên những điều mà ngày nay gọi là nghệ thuật gìn giữ tổ ấm.

Hương Giang (nld.com.vn)

MẠN ĐÀM

Cái máy bơm

Một chàng trai bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất kỳ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát. Đi mãi đi mãi, đến khi đôi môi anh đã sưng lên nhức nhối, thì thấy một căn lều: cũ, rách nát, không cửa sổ. 

Anh nhìn quanh căn lều và thấy ở một góc tối có một cái máy bơm nước cũ và gỉ sét. Tất cả mọi thứ trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm, anh vội vã bước tới, vịn chặt tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có một giọt nước nào chảy ra cả.   

Thất vọng, anh nhìn quanh căn lều. Lúc này, anh chàng mới để ý thấy một cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, anh đọc được dòng chữ nguệch ngoạch viết bằng cách lấy viên đá cào lên: "Hãy đổ hết nước trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy nhớ đổ nước đầy vào chiếc bình này".        


Anh bật nắp bình ra, và đúng thật: trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, anh bị rơi vào một tình thế bấp bênh. Nếu anh uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn anh có thể sống sót. Nhưng nếu anh đổ hết nước vào cái máy bơm cũ gỉ để có thể  "mồi" nước lên khi bơm, có thể nó sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất - rất nhiều nước.            


Anh cân nhắc khả năng của cả hai sự lựa chọn; nên mạo hiểm rót nước vào máy bơm để có nguồn nước trong lành, hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có còn chính xác nữa không?   


Nhưng rồi cuối cùng, anh cũng quyết định rót hết nước vào cái máy bơm, rồi tiếp tục nhấn mạnh cái cần máy bơm, một lần, hai lần... chẳng có gì xảy ra cả! Tuy hoảng hốt, nhưng nếu dừng lại, anh sẽ không còn một nguồn hi vọng nào nữa, nên anh tiếp tục kiên trì bơm,.. lần nữa, lần nữa... nước mát trong lành bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Anh vội vã hứng nước vào bình và uống.           


Cuối cùng anh hứng nước đầy bình, để dành cho người nào đó không may mắn bị lạc đường như anh sẽ đến đây. Anh đậy nắp bình, rồi viết thêm một câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình:   "Hãy làm theo chỉ dẫn trên. Bạn cần phải cho trước khi bạn có thể nhận".

Nguồn: songdep.xitrum.net

1170    24-04-2012 15:15:29