Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Thanh Luyện, Củng Cố và Tuyên Xưng Đức Tin - tháng 02 năm 2013

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Tự Sắc Porta Fidei
  3. Tìm Hiểu Tự Sắc Porta Fidei
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Trang Linh Mục
  9. Trang Tu Sĩ
  10. Trang Sống Ơn Gọi
  11. Trang Thiếu Nhi
  12. Trang Giới Trẻ
  13. Trang Gia Đình
  14. Trang Giáo Lý Viên
  15. Sống Đẹp
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Hỏi Đáp Mục Vụ
  18. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN

Toà Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2

Vĩnh Long

Ngày 25.01.2013

V/v Thanh luyện, củng cố và  tuyên  xưng Đức tin

Kính gởi : Các Linh Mục,
                  Các Tu Sĩ 
                    Và Anh Chị Em Giáo dân

1. Cứ Xem quả thì biết cây (Mt 21,33). Đó là nguyên tắc của nhà vườn để đánh giá các loại cây ăn trái trong vườn. Nhưng cũng có thể áp dụng trong nhiều lãnh vực khác nhau .

Tại Việt Nam các Cộng Đoàn Công Giáo được ca tụng là những Cộng Đoàn  có sức sống mạnh. Tại sao ? Cứ nhìn những công trình kiến thiết  các Nhà Thờ, các Tu Viện được xây dựng hoặc được trùng tu, những lễ phong chức Linh Mục, lễ khấn của các Dòng Tu những cuộc rước kiệu linh đình, những đoàn hành hương  ngày càng đông, tại nhiều nơi khác nhau.

Hiện trạng của Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay làm cho chúng ta hãnh diện, có khi cũng tự hào.

2.  Nhưng nếu chúng ta nhìn các Cộng Đoàn Công Giáo tại Au Châu hiện nay, chắc chúng ta sẽ  không khỏi lo âu cho tương lai của mình.

Tin Mừng đã được rao giảng tại Châu Au  từ nhiều thế kỷ trước, các Họ Đạo, các Địa Phận được thiết lập với tổ chức chu đáo ;  các Đại Học Công Giáo nổi tiếng, các Tu Viện, các Chủng Viện đã đào tạo cho Hội Thánh lớp lớp người phục vụ trong nhiều lãnh vực.  Rất nhiều Vị Thừa Sai đã đi phục vụ tại các xứ Truyền Giáo bất chấp mọi gian khổ. Thế mà hiện nay số người đi lễ ở Nhà Thờ, số người vào Tu Viện , Chủng Viện thưa thớt, hiếm hoi. Một xã hội thiếu vắng người trẻ, một cộng đoàn vắng bóng thiếu nhi chắc sẽ đi đến tàn lụi.

3.  Chúng ta đang hưởng nhiều ơn lành của Thiên Chúa, những thành quả hôm nay có thể nói được là do biết bao hy sinh của các Vị Tử Đạo, các Thừa Sai và mọi thành phần Dân Chúa.

Hội Thánh đang trải qua cuộc khủng hoảng về đức tin. Con thuyền của Thánh Phêrô đang gặp sóng gió tư bề, sóng của trào lưu duy thực dụng, sóng của đam mê ích kỷ. “Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên lạt và ánh sáng bị che khuất” (Porta Fidei, 3).

4.  Các cây ăn trái trong vườn cũng như cây lúa ở đồng ruộng cần nước, cần ánh nắng để phát triển, và nhà vườn, nhà nông vẫn phải khó nhọc chăm sóc, diệt trừ sâu rầy, bón phân, tưới nước.

Trong lãnh vực đạo đức, có Ơn Chúa đủ cho chúng ta (2 Cor 12,9). Và các mục tử  chuyên cần giảng dạy, trông nom đời sống các tín hữu cho có kỷ cương. Cần nhẹ nhàng nhưng cương quyết bài trừ các tệ nạn, mọi thứ  lạm dụng. Các ngài cũng ân cần khuyên bảo, thúc giục giáo dân  cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích, tham dự Thánh Lễ .

“Anh em hãy cố gắng năng họp nhau để tạ ơn Thiên Chúa và chúc tụng Ngài. Vì nếu anh em năng họp nhau, sức mạnh của Satan sẽ bị đánh bại và công cuộc phá hoại của nó sẽ bị tiêu diệt”  (Thánh Inhatiô giám mục Antiôkia, Thư gởi giáo đoàn Ephêsô, số 12).

Giáo huấn của các chủ chăn cũng như các việc cử hành  phải trong sáng, luôn trung thành với Truyền Thống của Hội Thánh, để tuyên xưng một Đức Tin Tông Truyền.

Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria là Sao Sáng, Ngôi Sao của công việc Tân Phúc Âm Hoá, luôn hương dẫn chúng ta cách riêng trong Năm Đức Tin nầy.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
       Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: THANH LUYỆN, CỦNG CỐ  VÀ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận lợi để đưa toàn Giáo hội bước vào một giai đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá Đức Tin. Đây không phải lần đầu tiên Giáo hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Tôi tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn định Năm Đức Tin tương tự vào năm 1967, để kỷ niệm cuộc tử đạo của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhân 1900 năm cuộc làm chứng cao cả của các ngài. Đức cố giáo hoàng đã nghĩ đến việc kỷ niệm này là một thời điểm long trọng để toàn thể Giáo hội chính thức và chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”; ngoài ra, ngài mong muốn Đức Tin được củng cố “về phương diện cá nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” [5]. Ngài tin rằng bằng cách này toàn thể Giáo hội sẽ “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin” [6] (Tự sắc Porta Fidei, 4).

________________

[5] Phaolô VI, Tông huấn Petrum et Paulum Apostolosnhân kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (ngày22 tháng Hai 1967): AAS 59 (1967), 196, DC 64 (1967) col. 484-485.

[6] Như trên, 198.

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Sau biến cố 11/09/2001 xảy ra tại Toà Tháp Đôi của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế New York, một tờ báo ở Mỹ đã có những nhận định cảm kích như sau:

- Ngày thứ hai, chúng ta ngỡ rằng, cuộc sống của mình thật an toàn; ngày thứ ba, chúng ta hiểu rằng, không có gì là thực sự an toàn trong cuộc sống này.

- Ngày thứ hai, còn biết bao nhóm chống đối việc cầu nguyện trong nhà trường; ngày thứ ba, thật khó mà tìm được nhà trường nào không cầu nguyện trước khi giờ học bắt đầu.

- …

- Ngày thứ hai, vẫn có nhiều người muốn chia rẽ mọi người thành từng nhóm theo màu da, nguồn gốc, chủng tộc, ý hướng, tôn giáo; ngày thứ ba, mọi người không phân biệt thành phần, nguồn gốc đã cầm tay nhau cầu nguyện.

- Ngày thứ hai, các chính trị gia còn tranh cãi với nhau về cách điều chỉnh nền kinh tế; ngày thứ ba, tất cả mọi người ấy ôm nhau để hát bài “God bless American!”

(Lm. Hồng Nguyên, Hoa nắng đời linh mục, Nxb Tôn Giáo, 2009, p. 188.)

Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI phát biểu tại Đức quốc: “Ở đâu không có Thiên Chúa thì ở đó không có tương lai!”.  Đàng sau những lo toan cho cuộc sống đời thường như sức khỏe, kiến thức, tiền bạc, danh vọng, vui chơi giải trí…chúng ta sẽ ra sao  trước cái chết? Còn có tương lai nào cho chúng ta và các thế hệ mai sau? Hạnh phúc thật sự tìm ở đâu? Cái gì đang chờ chúng ta bên kia cái chết. Tương lai mỗi người chỉ có thể tìm được câu trả lời nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa chính là tương lai của mỗi người chúng ta (x. Bài Giáo Lý thứ hai của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, ngày 24 tháng 10, 2012).

Chính đức tin vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa  là sự đáp trả tự do của con người với tất cả lòng tín thác và yêu thương vào Đức Giêsu Kitô. Bởi vì trung tâm điểm của đức tin Ki-tô giáo là chính Đức Ki-tô.  Qua Đức Kitô chúng ta gặp được Thiên Chúa và tìm được ý nghĩa đời mình. Ngài chính là bảo chứng ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Như vậy, tin là mở lòng ra, đón nhận  Thiên Chúa và phó thác cho tình yêu của Người, sống thác cho tình yêu của Người. Tin là tình yêu đáp trả Tình Yêu. “Đức tin là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa Đấng nâng đỡ và hứa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đó cũng là tín thác vào Thiên Chúa với thái độ của một trẻ nhỏ, biết rõ rằng tất cả những khó khăn, tất cả những vấn đề của mình đều được an toàn trong “Ngài” của người mẹ.” (Bênêđictô XVI, Bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin,  24.10.2012).

Thế nhưng nhìn chung, lối sống đức tin của người tín hữu hôm nay còn nhiều thách đố cần phải phải được ”thanh luyện, củng cố và tuyên xưng” như lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong Năm đức tin nầy.

Có những Ki-tô hữu chỉ có tên trong sổ Rửa Tội rồi thôi, họ thờ ơ, thậm chí dửng dưng với tất cả những bổn phận và tâm tình mà một người con cần phải có đối Cha trên trời và với Hội Thánh thay mặt Chúa ở trần gian.

Do trào lưu tục hóa ảnh hưởng nên một số Ki-tô hữu coi việc có đạo như một  phương thế trang điểm cho cuộc đời. Họ loại bỏ mọi yếu tố thánh thiêng trong những cử hành tôn giáo của mình.

Đàng khác một số tín hữu thực hành các việc đạo đức chỉ nhằm để được ơn lành nầy hay phép lạ kia. Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng mà khi cần giải quyết những khó khăn  thì ta chạy đến rồi thôi!

Đức tin của chúng ta cần được thanh luyện. Khi nói “tôi tin nơi Thiên Chúa, có nghĩa là tôi xây dựng đời tôi trên Người, để cho Lời Người hướng dẫn mọi ngày trong các lựa chọn cụ thể, không sợ hãi đánh mất đi cái gì của chính tôi” (Bênêđictô XVI , thứ tư 23-1-2013, bài giáo lý thứ 14  về Kinh Tin Kính). Một đức tin như thế nói lên lòng tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa như Tổ phụ Abraham dù được Chúa  chúc phúc, nhưng ”không có dấu chỉ hữu hình của phước lành”(nt). Dù giữa bao thử thách gian nan, ông vẫn luôn tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa và vào tình thương của Người. Đức tin giúp chúng ta vượt qua những trở ngại, khó khăn và  ngay cả cái chết để bước theo Chúa Ki-tô như lời Thánh Phao-lô: "Đức tin là nền tảng của những điều người ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều người ta không thấy." (Dt 11,1).

Một đức tin như thế cần được củng cố hàng ngày nhờ đời sống cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, dâng lễ và nhất là rước lễ để ngày càng kết hiệp mật thiết với Chúa hơn, đức tin ngời sáng hơn.

Ai đó đã nói: “Hãy cứ tin thì phép lạ sẽ xảy ra”. Thật vậy, Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Những phép lạ trong Tin Mừng đã chứng minh những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài đều nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, kẻ có tội được ơn  tha thứ và người chết sống lại…Những điều kỳ diệu đến từ Thiên Chúa dành cho những ai đặt niềm tín thác vào Ngài. Và dù không được những phép lạ hiển nhiên, bất cứ ai tin vào Chúa đều được bình an sâu thẳm vì có Thiên Chúa trong cuộc đời nầy, nhất là bên kia cái chết. Đến với Chúa, chúng ta sẽ được Chúa nâng đỡ ủi an về thể xác cũng như tinh thần, nhờ đó,  chúng ta có khả năng vượt qua những khó khăn, biết chấp nhận thực tại cuộc sống, lạc quan và yêu đời hơn.

Sức mạnh của đức tin còn lan tỏa nơi cho những người chung quanh qua đời sống bình dị hàng ngày, trong bổn phận của mình, giúp mọi người nhận ra tình thương của Chúa qua đời sống vị tha, yêu thương của chúng ta. Vì đức tin đưa ta đến đức cậy và hướng đến đức ái: yêu Chúa, thương người.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban, và là hành vi cá nhân của con người. Thiên Chúa luôn ban hồng ân đức tin; phần con người cần phải lãnh nhận, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức tin, để tin vững mạnh. Chúng ta cùng hiệp ýí cầu nguyện:

1. Chúa phán: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, dầu chưa thấy rõ, chưa hiểu rõ, nhưng vẫn tin vững mạnh vào các điều Hội Thánh dạy, và giúp cho nhiều người cùng tuyên xưng đức tin.

2. Chúa phán: “Các con đừng sợ, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu cần thanh luyện đức tin mình khỏi những quyền lực của ma thuật, mê tín, và củng cố đức tin mình nhờ Lời Chúa.

3. “Lạy Chúa, xin Chúa nâng đỡ đức tin yếu kém của con”. Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu biết siêng năng suy gẫm và thực hành Lời Chúa, sốt sắng tham dự thánh lễ và  lãnh nhận các bí tích, hầu củng cố và tăng trưởng đức tin mình.

4. Chúa phán: “Hỡi con, đức tin con đã cứu chữa con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết tổ chức cuộc sống có đủ thời giờ để học giáo lí, tìm hiểu Lời Chúa, và lãnh nhận các bí tích để phát triển đức tin vững mạnh.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa luôn ban đức tin cho mọi người, để nhờ họ tin mà được cứu chuộc. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức tin vững mạnh, cho ngày sau đặng lên Thiên Đàng hưởng phước đời đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

THANH LUYỆN ĐỨC TIN

Trong lần tìm hiểu trước, chúng ta đã có dịp nhìn về “Đức Tin là cánh cửa mở ra muôn ơn thánh” trong đó ta nhìn về hai gương sống đức tin nổi bật của Cựu Ước và Tân Ước là Apbraham và Đức Maria. Qua đó, ta thấy được sự cần thiết của đức tin trong đời sống người tín hữu, đức tin là nền tảng để Thiên Chúa ban muôn ơn, để Thiên Chúa thực hiện ý của Ngài trong đời sống con người.

Cùng dòng tư tưởng ấy, lần này chúng ta cũng hãy tiếp tục nhìn về Apraham và Đức Maria để xem các ngài đã sống đức tin như thế nào và làm cách nào để đức tin của các ngài kiên vững trong mọi thử thách của cuộc sống?

Trước hết phải nhìn nhận cách rõ ràng rằng: Đức tin là một ơn ban, là ơn Thiên Chúa ban không cho con người. Nhưng ơn đức tin ấy như hạt giống gieo vào lòng đất và chờ ngày hạt giống ấy mọc lên. Trong dụ ngôn nói về người gieo giống, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy có những mảnh đất đã không làm trổ sinh hoa trái, cho dù hạt giống và người gieo đều mong muốn được sinh hoa kết quả. Vậy để hạt giống được sinh hoa kết quả, yếu tố không kém phần quan trọng đó chính là mảnh đất tốt, mảnh đất tốt là mảnh đất đã bị đau đớn cày xới, lượm cỏ…hay nói cách chung chung hơn là đã được làm cho trở nên “mềm mại” với hạt giống được gieo.

Cũng vậy, hạt giống đức tin muốn trổ sinh hoa trái cũng rất cần những mảnh đất tâm hồn đã được cày xới, tôi luyện. Ông bà ta thường nói: Lửa thử vàng, gian nan thử đức, và theo chiều hướng ấy ta có thể nói rằng thanh luyện làm rạng ngời đức tin, viên ngọc được mài dũa viên ngọc thêm rạng ngời.

Hình ảnh Apraham trong Cựu Ước cho ta thấy rõ được điều này. Để trở thành cha của những kẻ tin Apraham đã được Thiên Chúa tôi luyện trong suốt cuộc đời ông. Từ thành Ur Thiên Chúa kêu gọi ông bỏ tất cả theo Chúa chỉ vì một lời hứa của Chúa, từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, bao nhiêu đó thôi chưa đủ, khi được đứa con đầu lòng duy nhất Chúa lại bảo phải dâng cho Chúa… nhưng sự thử thách mà Chúa dành cho không làm cho Apraham mất đức tin mà trái lại ông càng tin tưởng hơn, cậy trông hơn vì ông xác tín rằng Thiên Chúa có quyền làm được mọi sự. Qua mọi thử thách Apraham đã trở nên kiên vững, đã trở nên chỗ tựa cho con cháu, cho dòng tộc và cho mọi kẻ tin.

Nơi Đức Maria cũng vậy, tiếng “Xin Vâng” trải dài trong cuộc đời của Mẹ, xin vâng đón nhận Con Chúa làm người cho dù Mẹ không hiểu, xin vâng vào tay Thiên Chúa cuộc đời của Mẹ, xin vâng để suy niệm trong lòng thánh ý Chúa trong cuộc đời mình,…và xin vâng dâng con mình để chuộc tội nhân loại trên Thập Giá. Dường như hình trình đức tin của Đức Maria mỗi ngày mỗi gian khó hơn, quyết liệt hơn. Thay vì ích kỷ gục ngã thì Đức Maria lại càng thêm mạnh mẽ hơn, kiên tâm hơn, dấn thân cách trọn vẹn hơn cho thánh ý Thiên Chúa. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Nhìn về gương của Apraham và của Đức Maria để chúng ta kiên tâm hơn trong cuộc đời mình. Cái khó bó cái khôn nhưng cái khó cũng ló cái khôn. Thử thách làm cho con người ngã gục nhưng thử thách cũng đào luyện con người mạnh mẽ hơn. Đức tin trải qua thử thách đức tin mới tinh ròng. Người tín hữu chúng ta ngày nay cũng chịu rất nhiều thử thách, thử thách vì hoàn cảnh xã hội, thử thách vì cuộc sống, thử thách vì những trào lưu thực dụng buông thả…thử thách nơi bản thân, gia đình, giáo hội… Những thử thách ấy như những con sóng dữ đang vùi dập niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Nhưng những thử thách ấy cũng là những ngọn sóng đưa niềm tin của chúng ta lên cao và thêm sáng ngời nếu chúng ta biết cộng tác, hy sinh, cậy dựa và phó thác nơi Chúa.

Hạt giống đức tin sẽ trổ sinh hoa trái vì người gieo là Thiên Chúa và mảnh đất tâm hồn của chúng ta đã được chuẩn bị sẳn sàng nhờ vượt qua những thử thách bằng vũ khí là lòng trông cậy Chúa.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 25. THƯ GỬI CHO TITÔ (Tit)

1/ Thư được viết cho ai?

Thư được viết cho Titô, người con đích thực của tôi (Phaolô) trong một đức tin chung (1, 4).

Theo truyền thống thì Candia, Crêta là nơi chôn nhau cắn rốn của Titô và cũng chính nơi đó ngài đã làm giám sự của cộng đoàn như trong thư đề cập tới “cha để con ở lại Crêta là có ý để cho con làm xong việc còn bỏ dở và lập hàng kỳ lão trong mỗi thành” (1, 5).

2/ Thánh Phaolô viết thư này nhằm mục đích gì?

Phalô viết: “để đem những người được Thiên Chúa chọn tới đức tin và nhận ra chân lý”. (1, 1).

Cũng như ngài đã viết cho Timôthêô, ở đây Phaolô viết cho Titô để chỉ vẽ những tư cách của một người lãnh đạo Giáo hội phải có, bổn phận bảo vệ chân lý, chống lại những tà thuyết.

3/ Hãy trình bày vắn tắt bố cục nội dung của bức thư?

Ngoài phần nhập đề và kết thúc, thư được chia ra làm 2 phần chính như sau:

- 1, 5-16 Phaolô trình bày những lý do khiến ngài viết thư cho Titô, Phaolô kêu gọi Titô thiết lập hàng giáo phẩm và khuyến khích Titô mạnh dạn chống lại lạc thuyết.

- 2, 1-3, 11 Phaolô khuyên nhủ Titô về trọng trách và nhiệm vụ chăn giữ đoàn chiên

Lời Chúa: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tit 3, 6).

Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý, xin Ngài ban cho con tâm hồn chân thật để con luôn biết sống thật với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Amen

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

NƠI THÁNH
(Đ. 1205-1242)

1. Khái niệm

Điều luật đầu tiên trong phần nói về nơi thánh, Giáo hội cho chúng ta một khái niệm như sau:

Nơi thánh là những nơi đã được cung hiến hay được làm phép theo quy định của sách phụng vụ, để dùng vào việc thờ phượng Thiên Chúa hay để mai táng các tín hữu (đ.1205).

Như vậy, Giáo hội chỉ rõ cho chúng ta thấy có hai nơi chốn được gọi là nơi thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa (nhà thờ, nhà nguyện, phòng nguyện, đền thánh) và nơi mai táng các tín hữu (đất thánh). Nghĩa là những nơi được dành riêng cho việc thánh, chứ không dùng vào những việc thế tục khác.

Nhưng để những nơi đó được sử dụng làm nơi thánh thì việc đầu tiên phải “được cung hiến hay được làm phép theo quy định của sách phụng vụ” (đ.1205).

Việc cung hiến (dedicatio) hay làm phép (benedictio), xét về hiệu quả thì không có gì khác nhau. Tuy nhiên, phụng vụ dành cho việc cung hiến một thể thức long trọng hơn: thẩm quyền cung hiến dành cho Đức giám mục hay những vị có thẩm quyền tương đương với giám mục. Dầu vậy, các vị ấy có thể uỷ quyền cho một linh mục trong trường hợp ngoại lệ để thi hành nghi thức ấy (x.đ.1206).

Việc làm phép, mặc dù tất cả các linh mục đều có khả năng, nhưng giáo luật dành việc làm phép nơi thánh cho các bản quyền (nghĩa là kể cả các bề trên thượng cấp của các dòng tu và tu đoàn tông đồ giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng); Dù sao, việc làm phép các nhà thờ thì dành cho các Đức giám mục giáo phận, vì các ngài là bản quyền trong việc chăn dắt các linh hồn trong địa phận của các ngài. Tuy nhiên các ngài vẫn có thể uỷ quyền cho một linh mục khác thay thế (x.đ.1207).

Dù là cung hiến hay làm phép thì cũng phải có văn kiện để lưu giữ. Văn kiện nầy phải làm hai bản: một lưu ở văn khố họ đạo, một lưu văn khố toà giám  mục (đ.1208).

Một khi nơi nào đã được cung hiến hay làm phép để trở thành nơi thánh thì chỉ được sử dụng vào các việc đạo đức hoặc việc gì có tính cách tôn giáo mà thôi. Tuy nhiên, bản quyền có thể cho phép sử dụng vào sinh hoạt khác, nhưng chỉ từng lần một, miễn là không trái với sự thánh thiện của nơi thánh (đ.1210).

2. Nơi thánh bị xúc phạm

Một khái niện khác: trong trường hợp nơi thánh bị xúc phạm (violatio) khi có những việc làm bất xứng trầm trọng, sinh gương mù gương xấu cho giáo dân tại đó, và theo sự phán đoán của bản quyền sở tại, trái nghịch với sự thánh thiện của nơi thánh đến nỗi không thể cử hành việc thờ phượng tại đó nữa.

Bộ luật hiện hành dùng cụm từ “việc làm bất xứng trầm trọng” rất phổ quát, để tuỳ vào sự thẩm định của bản quyền địa phương cho phù hợp với tâm thức của mỗi nơi và mỗi thời.  Tuy nhiên, dựa vào bộ luật 1917 chúng ta thấy các nhà lập pháp đã nêu ra một số trường hợp như: sát nhân, gây #o# máu,  “việc nam-nữ”…

Một khi nơi thánh đã bị xúc phạm, cần phải làm lễ nghi thống hối trước khi cử hành việc phụng tự lại (x.đ.1211). Nên biết rằng sự xúc phạm nầy được áp dụng cho cả nhà thờ, nhà nguyện, phòng nguyện, đền thánh và đất thánh nữa.

3. Hiệu quả của sự cung hiến và làm phép chấm dứt

Theo điều 1212 thì hiệu quả của sự cung hiến và làm phép chấm dứt khi:

a. nếu phần lớn nơi thánh đã bị phá huỷ;

b. do một nghị định của bản quyền địa phương tuyên bố tục hoá;

c. do sự kiện thực tế là nơi thánh đã thường xuyên bị sử dụng vào công việc thường tục.

Trong thời Trung cổ ở Âu Châu, các nơi thánh được đặt ra khỏi sự kiểm soát của thế quyền. Ngày nay, ít chính phủ còn tôn trọng sự bất khả xâm nhập ấy. Tuy nhiên, điều 1213 của giáo luật vẫn khẳng định rằng giáo quyền được tự do thi hành quyền bính và trách nhiệm của mình trong mọi nơi thánh, không bị quyền lực nào hạn chế.

(còn tiếp)

TRANG LINH MỤC

NGƯỜI ĐÓ GIỐNG NHƯ TÔI

Trong thế chiến thứ hai, năm 1941, có một vị linh mục bị giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do-thái.  Như bao người khác, cha cũng bị hành hạ và ngược đãi đến tàn tệ, còn hơn cả đối với súc vật. Thế nhưng ngài lại vẫn luôn vui vẻ tìm cách giúp đỡ các tù nhân đồng cảnh ngộ đang rơi vào tâm trạng khủng hoảng tuyệt vọng.

Cha xin cai tù cho được đi lao động thay những người đau yếu.  Ngài nhường khẩu phần bánh mì ít ỏi của mình cho những người thiếu ăn hơn.  Đối với kẻ rách rưới, ngài chia sẻ cho họ chiếc áo cũ nhưng còn tương đối lành lặn...  Trong hoàn cảnh đầy hiểm nguy, cha vẫn lặng lẽ dấu kín lý lịch của bản thân là một người Công giáo, hơn thế nữa, lại còn là một linh mục.  Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai...

Trong số những người được cha giúp đỡ, có một cậu thiếu niên.  Trước đây cậu ta vốn lớn lên ở đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, ngang bướng, chuyên trộm cắp để bán lấy tiền độ nhật.  Đến khi phải vào tù, cậu cũng luôn cướp giựt, quấy nhiễu mọi người.  Vị linh mục khả ái đã từng bước một tìm cách gần gũi cậu ta, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được tâm hồn tưởng đã hóa ra chai đá của cậu.  Dù vậy, ngài thấy cũng chưa đến lúc nói với cậu ta về Thiên Chúa...

Thế rồi, một hôm, cha được tin mình phải chuyển đi gấp đến trại Auschwitz, một trại tập trung mà ai nghe đến tên cũng kinh hoàng khiếp hãi vì đó là nơi hủy diệt với những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh, vội vã chia tay mọi người.  Đến trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp em hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

 Cha nhìn thẳng vào mắt cậu, nhỏ nhẹ hỏi: “Này cháu thân yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giê-su không?”  Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: “Nhưng thưa bác, ông Giê-su là ai để cháu có thể tin?"  Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Đức Giê-su, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu thiếu niên: “Người đó giống như bác!”  Cậu ta đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: “Vâng, nếu ông Giê-su ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!”

Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục già ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là: câu truyện này được một người sống sót qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, một người tân tòng Công giáo đạo hạnh...

Theo Témoignage Chrétien.
Nguồn: dongcong.net

TRANG TU SĨ

TÌM LẠI NIỀM TIN

Nhìn lại những trang sử hào hùng của các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, chúng ta thường tự hỏi, với sức mạnh nào đã giúp các ngài lướt thắng được những cuộc bách hại đạo tàn bạo như thế? Họ có bí quyết thần diệu nào để giữ vững Niềm Tin và đức tính kiên cường chịu đựng mọi hình khổ như vậy…? Đó chính vì các ngài:

- Tin vào Lời Chúa.

Cậy trông nơi Chúa Quan Phòng công minh và nhân hậu.

- Tình yêu mãnh liệt dành cho Chúa Kitô.

- Kiên cường tuyên xưng niềm tin bằng chính mạng sống   của mình.

Nhưng để có được sức mạnh thần diệu của một niềm tin kiên vững và tình yêu mãnh liệt vào Đức Giêsu Kitô, ngoài ân ban từ Thiên Chúa các ngài đã phải trãi qua quá trình thanh luyện và củng cố để có thể dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình cách hào hùng. Cũng như hạt giống muốn trở thành cây – đơm hoa – kết hạt thì nhất định phải trãi qua nhiều giai đoạn thanh luyện; phải chịu chôn vùi và mục nát đi.

Cũng vậy, để trở thành một Kitô hữu đích thực và trọn vẹn cho đến phút cuối đời. Vấn đề không chỉ có thời gian nhưng còn là sự cảm nhận và đáp trả bằng con tim.

Ngày trước, tôi vẫn không hiểu tại sao nhiều người trong xóm tôi có đạo mà không thấy đến Nhà Thờ đọc kinh tham dự Thánh Lễ như những người Công Giáo khác. Về sau mới biết lí do vì họ làm việc cho nhà nước nên không được để người ta biết mình là người Công Giáo, nếu không sẽ mất việc. Nhưng sau khi về nghỉ hưu một thời gian, đa số những người này đã xin trở lại đạo và sống đạo rất tốt ở tuổi xế chiều.  Hoàn cảnh gia đình một Nữ tu của Hội Dòng tôi rất đặc biệt vì đức tin đã được tìm lại nơi một người hầu như đã mất. Dì Lan có người anh đi theo cách mạng. Lúc đó cậu Bình khoảng ngoài hai mươi tuổi, cậu đã có vợ và được một đứa con, nhưng vì theo cách mạng nên đã để vợ ở lại gia đình, cậu đi cách mạng và trong hoàn cảnh nầy gặp cô giao liên, và cách mạng đã kết hợp hai người này.  Người vợ trước có hôn phối nhưng vì hoàn cảnh nên sau nầy cũng đã có chồng khác. 

Năm 1975 Cậu Bình trở về sống bên quê vợ và có được 6 người con.  Dì Lan ở trong Nhà Dòng luôn nghĩ đến hoàn cảnh rối rắm của anh mình, nhưng Dì không biết làm gì hơn chỉ biết cầu nguyện thật nhiều xin Chúa giúp giải gỡ vì hoàn cảnh xem chừng như vô phương giải quyết. Thế nhưng với lòng tin tưởng, sự phó thác và tin rằng Chúa sẽ không bỏ ai thành khẩn kêu cầu Người, Dì Lan vẫn kiên trì cầu nguyện.  Thật là tình thương Chúa nhiệm mầu, mọi việc Chúa làm đều tốt đẹp.  khoảng một vài năm trở lại đây người chồng của vợ trước cậu Bình mất, nên mợ Bình cũng đã trở lại được với Chúa và sống đạo rất tốt, đi Nhà Thờ thường xuyên. Và mới năm vừa qua mợ Bình đã qua đời, và cậu Bình được khỏi tình trạng rối, với lời khuyên của bà con thân tộc cậu đã trở lại đạo và người vợ sau nầy cũng theo cậu vào đạo.  Cách đây không lâu, Cậu Bình đã được Chúa gọi về trong tình trạng ân nghĩa với Chúa. 

Điều đáng ngạc nhiên là nơi cậu B ở là vùng không có đạo, Nhà Thờ cách đó khoảng năm cây số, cậu lại là một đảng viên lâu năm, khi về hưu vẫn còn làm việc giúp đỡ cho những người chung quanh nhiệt tình, thế nhưng trong những tháng ngày cuối đời cậu được Chúa ân ban đặc biệt, và chính cậu đã hoàn toàn tự nguyện đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa đã dành cho cậu, và chọn lựa nầy chắc hẳn đã đem lại cho cậu hạnh phúc trong những tháng ngày cuối đời. 

Giáo hội Chúa ngày nay tuy không còn cảnh bách hại đẫm máu như ngày xưa nhưng luôn phải đối mặt với những khó khăn và thách thức của thời đại này. Chính vì vậy Năm Đức Tin được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cử hành như một cơ hội thuận lợi để toàn thể Giáo hội chính thức và chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”; ngài mong muốn đức Tin được củng cố “về phương diện cá nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành”. Ngài tin rằng bằng cách này toàn thể Giáo hội sẽ “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin”.

 Để củng cố, duy trì và phục hồi niềm tin của một người rất cần lời cầu nguyện và sự trợ giúp của những người xung quanh, nhất là những người thân trong gia đình. Sự tương trợ lẫn nhau của những người có cùng niềm tin và điều quan trọng không thể thiếu chính là nhờ Lòng Thương Xót Chúa, Đấng đã tìm mọi cách để lôi kéo con người lại với tình yêu và hạnh phúc mà Người đã hứa ban tặng cho con người.  Để củng cố niềm tin của chính mình và của anh chị em chung quanh chúng ta nên cố gắng thường xuyên cầu xin Lòng Thương Xót Chúa, vì Chúa đã hứa và chắc chắn nhiều người sẽ tìm lại được đức tin nhờ sự cầu nguyện của chúng ta.

     GIỮ VỮNG NIỀM TIN

 Sau 30. 04. 1975, cũng là thời điểm An vừa mãn năm Tập nhặt khi tuổi đời tròn đôi mươi.  Nhận được bài sai của Bề trên, An về phục vụ tại quê hương và dạy trường của họ đạo.  Qua những buổi đi học chính trị, An được sự chiếu cố từ Ban giảng huấn của Phòng Giáo Dục.  Một hôm, giờ học kết thúc ông Trưởng Phòng mời An ở lại bàn chuyện.  Sau đôi lời hỏi thăm sức khỏe của An, ông vào thẳng vấn đề:

- Cô An!  Tôi nhận thấy cô còn trẻ tuổi lại có trình độ nữa.  Tôi khuyên cô xuất tu để lo cho tương lai của mình.

An có vẻ khó chịu về lời nói của ông ta nhưng đủ bình tĩnh để trả lời:

- Thưa ông, tôi có niềm tin của tôi. Tôi sống lý tưởng của riêng tôi.

- Nếu cô đồng ý, tôi sẽ cho cô làm Hiệu trưởng trường cô đang dạy và giúp cô có điều kiện tiến thân.

- Cám ơn ông có lòng tốt với tôi.

- Cô hãy sống thực tế, đừng tin vào những điều huyền hoặc, nhảm nhí.  Mong cô suy nghĩ.  Tôi hy vọng nơi cô và chờ đợi cô.  Chào cô nhé!

Khi thấy niềm tin của mình bi xúc phạm và có nguy cơ mất ơn gọi.  An trình bày với Bề trên và được chuyển về Hội Dòng.  Được trở về Nhà Mẹ, An rất vui mừng.  An thầm nghĩ chắc là yên thân. Thời cuộc đổi thay nên cuộc sống cũng quá nhiều thay đổi.  Thời gian nầy An đối diện với cuộc sống vật chất đầy khó khăn do những năm mất mùa đói khổ.  Trước đây, cũng như Chị em trong Hội Dòng, An đứng trên bục giảng, không quen lao động chân tay, bây giờ thì những “ Kỹ sư tâm hồn” đành xếp bút nghiên, phải đi cắt cỏ nuôi dê; đi quét lá cây về nấu cơm… 

Ngày ngày phải cực lực cánh sinh.  Vất vả thân xác đã đành, tinh thần thì đầy những khó khăn do thời cuộc.  Lắm khi niềm tin bị đụng chạm, An đau đầu nhức óc.  Một số chị em không đủ sức chịu đựng nên đành chuyển hướng.  Cuộc sống quá nhiều thay đổi, cái nhìn về đời tu cũng bị đổi thay.  An chỉ biết bám chặt vào Chúa, tín thác đời mình nơi Chúa mà thôi.  Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín.  Mỗi biến cố xảy đến giúp An xác tín mạnh mẽ hơn vào tình yêu của Chúa.  An ý thức đây là thời cơ đức tin được thanh luyện.  Hằng ngày, An tìm thời gian lặng thầm trước Thánh Thể, tìm giờ đọc Lời Chúa, gắn bó với cộng đoàn. Nhờ vậy, An cảm thấy niềm tin của mình được củng cố sâu sắc và trưởng thành hơn.  An đã vượt qua những khó khăn và cố gắng tiến bước trong hành trình ơn gọi.  Giữa bối cảnh đạo giáo bị đàn áp, An tuyên xưng niềm tin bằng việc khấn dòng và kiên vững niềm tin đến hôm nay.

Đức tin là ân huệ Chúa ban cho mỗi người chúng ta khi nhận Bí Tích Thánh Tẩy.  Đây là lộ trình dẫn đưa chúng ta tới gặp Chúa.  Đức tin là con đường dài mà chúng ta sẽ đi suốt cuộc đời.  Con đường niềm tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, giúp chúng ta hăng hái tiến bước.  Đó là những khi niềm tin dâng cao, chúng ta hân hoan vì được Chúa an ủi, mọi ước nguyện được diễn ra an vui tốt đẹp.  Con đường đức tin không thiếu những đoạn khúc khuỷu gặp ghềnh khiến chúng ta phải chùn bước.  Khi không tìm được lối thoát nên ta cảm thấy cuộc đời như đảo điên, nghiêng ngửa, lắm khi ta muốn rẻ lối bỏ đường.  Nếu biết chấp nhận thì những thử thách khổ đau sẽ giúp đức tin được thanh luyện. Nhìn lại trang sử của Giáo Hội Việt Nam, với những bách hại, tù đày, khốn khó…  Chính những khổ đau nầy đã thanh luyện, củng cố đức tin của cha ông chúng ta.  Nhờ vậy, hôm nay Hội Thánh Việt Nam có các bậc tử đạo hùng anh, hiển hách.

Giáo Hội đã khai mở năm Đức Tin.  Đây là một hồng ân lớn Chúa ban cho chúng ta trong thời điểm nầy.  Dù sống bậc gia đình hay đời thánh hiến, chúng ta vẫn không sao tránh khỏi những khổ đau của phận người.  Ước gì trong mỗi bậc sống, chúng ta biết dùng những thử thách, gian nan để thanh luyện, củng cố đức tin của mình.  Nhờ đó, họ đạo hay cộng đoàn chúng ta sẽ có thêm chứng nhân Tin Mừng, mạnh dạn tuyên xưng đức tin giữa một thế giới có nhiều người niềm tin đang bị chao đảo.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

VAI TRÒ VÀ ƠN GỌI GIÁO DÂN

Giáo dân là thành phần đông đảo nhất và giữ một vai trò quan trọng trong tất cả các sinh hoạt của Giáo Hội. Thế nhưng, rất lâu trước công đồng Vatican II, vai trò của người giáo dân hầu như bị bỏ quên, hoặc chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và thích đáng; chính điều đó đã làm cho các sinh hoạt của Giáo Hội kém phần phong phú, và hình ảnh Dân Thiên Chúa hay thân thể Đức Kitô nơi Giáo Hội cũng bị lu mờ đi phần nào. Với sự khai mở của công đồng Vatican II, bản chất, vai trò, địa vị của người giáo dân trong Giáo Hội đã được khẳng định trong những ý nghĩa hết sức phong phú và mới mẻ. Quả vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, công đồng đã dành hẳn một chương để bàn về nền tảng thần học và cơ cấu Giáo Hội dưới khía cạnh ơn gọi của giáo dân (chương IV của hiến chế Lumen Gentium). Những ý nghĩa nền tảng về vai trò và địa vị của người giáo dân được đề cập trong chương này còn được khai triển một cách phong phú trong các văn kiện khác của công đồng (Apostolicam Actuositatem, Gaudium et Spes) và những văn kiện sau công đồng như tông huấn Christifideies Laici của Đức Gioan Phaolô II…

Mặc dù vai trò và địa vị của người giáo dân đã được công đồng khẳng định đã hơn năm mươi năm, nhưng phải nhận rằng việc thực hiện những văn kiện này trong Giáo Hội vẫn còn rất chậm trễ. Vì vậy, cho đến tận hôm nay, vai trò của người giáo dân vẫn chưa được thể hiện trong Giáo Hội một cách rõ nét như công đồng mong muốn. Người giáo dân vẫn là một thành phần phụ thuộc trong Giáo Hội, và vì không được quan tâm, huấn luyện đúng với ơn gọi cao cả của mình, họ bị cho là những người chưa trưởng thành và chỉ được xem là những người giúp việc cho hàng giáo sĩ. Y kiến dưới dây của một giáo dân phần nào phản ảnh được điều đó: “Chúng con mong các linh mục cư xử với chúng con như những người trưởng thành, chín chắn như những người đồng trách nhiệm và có đủ năng lực để phục vụ Giáo Hội y như vai trò mà chúng con hiện đang có nơi xã hội”.

Nhiều lần tôi tự hỏi tại sao có những anh chị em rất trưởng thành nơi xã hội, gánh vác nhiều trách nhiệm lớn thế mà trong Giáo Hội họ vẫn bị cư xử như những trẻ em chưa trưởng thành ? Có những những người tha thiết: “chúng con mong các linh mục tránh mọi kiểu “cha chú” khi đối xử với giáo dân”. Phải nhìn nhận một sự thật là trong Giáo Hội có những giáo dân trưởng thành đầy đủ, xong vì quan niệm xưa gọi Linh mục là “người tinh thông nhất”, nên những giáo dân ấy không bao giờ được trao cho những trách nhiệm quan trọng và thường được yêu cầu làm những việc như “cầu nguyện, đóng góp, vâng lời”. Vì vậy mà nhiều giáo dân không hồ hởi khi nhận trách nhiệm lắm khi được đề nghị. Có những người chưa được huấn luyện lại không quen với công việc nên thích quay lại với thái độ dễ dãi này: “Thưa cha, xin cha cho chúng con biết chúng con phải làm gì ạ !” Một số thì bực bội với thái độ “cha chú” lỗi thời, họ phê phán các linh mục và các tổ chức đã kết tội họ là phải vào chốn “lâm bô” của các trẻ em, những tín hữu vô tội và chưa có trách nhiệm trong Giáo Hội. Một số khác thì muốn thử dù có thể phạm sai lầm và các linh mục rất miễn cưỡng giao việc cho họ. Ta thường nghe phàn nàn: “Các linh mục không tin chúng tôi”. Phải chăng vì khan hiếm ơn gọi mà chúng ta phải tiến nhanh hơn tới chỗ phi giáo sĩ hóa bằng cách giao cho nhiều giáo dân những công việc thuộc lĩnh vực có liên quan đến họ trong Giáo Hội. Hãy để cho các linh mục và tu sĩ tập trung suy nghĩ về những điểm riêng thuộc ơn gọi của họ. Chúng con mong các linh mục công nhận và kính trọng ơn gọi của chúng con như những ơn gọi hợp pháp và cần thiết trong thế giới hôm nay.

Thật vậy, Lời Thánh Công ĐồngVat. II đã vang lên hơn nữa thể kỷ trong hiến chế tín lý Lumen Gentium (LG. no. 31). Sự phân chia ra ba thành phần trong giáo hội không nhằm nói lên phẩm giá của ai cao hơn ai, hay vai trò nào quan trọng hơn vai trò nào mà chỉ muốn nói lên đặc tính hay chức năng của mỗi ơn gọi (vocation) mà thôi. Chính thánh Phaolô đã cắt nghĩa sự khác biệt trong ơn gọi và vai trò của các thành phần Dân Chúa như sau: “cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng...” (Rm 12,4). Chúng ta hay nghe nói nhiều về sự khan hiếm ơn gọi linh mục và tu sĩ. Song tôi nghĩ rằng: sự khan hiếm ơn gọi giáo dân như cách công đồng Vaticano II hiểu thậm chí còn lớn hơn và còn bi thảm hơn nữa.

Chính vì chưa được đào tạo một cách bài bản về ơn gọi và sứ mạng của mình, nên hoạt động của người giáo dân trong Giáo Hội đặc biệt là sứ mạng truyền giáo còn rất mờ nhạt. Giáo phận Vĩnh Long vừa kỷ niệm 75 năm thành lập, với số giáo dân lên đến gần 200 ngàn. Sống rải rác trên 3 tỉnh và một thị xã thuộc vùng sông nước... rất cần đến vai trò của người giáo dân trong việc truyền giáó. Theo tôi, nếu những người Kitô hữu giáo dân được huấn luyện, đào tạo một cách chu đáo theo tinh thần của công đồng Vaticano II về ơn gọi và sứ mạng truyền giáo của người giáo dân, họ sẽ trở thành những “tay thợ gặt lành nghề” và hoạt động hữu hiệu trong công cuộc mở rộng nước Chúa. Điều đó cũng phù hợp với khẳng định của Công đồng Vaticano II trong sắc lệnh Ad Gentes nói về việc cần thiết đào tạo một lớp giáo dân trưởng thành như một điều kiện cần thiết cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội:

Giáo Hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người, nếu chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với hàng giáo phẩm. Thật vậy, Phúc âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập Giáo Hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Kitô giáo trưởng thành.

TRANG THIẾU NHI

NIỀM TIN KHÔNG VỮNG THIÊN CHÚA BỊ CHÔN VÙI

Đức tin có nhiều cách hiểu và diễn tả khác nhau. Nếu đức tin là một hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho con người thì mỗi người cần ý thức và gìn giữ nó. Đức tin không hệ tại nỗ lực tìm kiếm của con người nhưng chính Thiên Chúa đã tự ý mặc khải cho con người biết về Thiên Chúa. Do vậy mỗi người phải biết cảm tạ Thiên Chúa luôn luôn. Đức tin là một nhân đức giúp chúng ta quy hướng về Thiên Chúa nhờ đó ta càng vững tin vào những gì Thiên Chúa mặc khải. Vì thế chúng ta phải ra sức tập luyện không ngừng.

Đức tin còn là một di sản quý giá mà chúng ta được thừa hưởng nới Giáo Hội. Có nhiều chứng nhân đã sẵn sàng dấn thân hy sinh phục vụ đến quên mình, ngay cả sẵn sàng chết để cho Tin Mừng được loan báo. Vì vậy, mỗi người phải biết trân trọng giữ gìn và truyền lại cho con cháu mai sau.

Tự bản tính Thiên Chúa là hằng hữu thế nhưng cách sống của người kitô hữu dễ làm cho người ta nghĩ rằng Thiên Chúa dường như bị chôn vùi hay đã chết. Khi đức tin không vững, ta có thể rơi vào những lối mòn nguy hiểm trong cuộc sống hằng ngày.

 Không nhận thấy ân ban

Cuộc sống luôn ngập đầy những ân ban của Thiên Chúa nhưng khổ nỗi người ta lại quá hững hờ. Hình ảnh mười người cùi được chữa lành, chỉ có một người trở lại tạ ơn Thiên Chúa vẫn là biểu hiện tâm thái rất đúng cho người thời nay. Ngày này có trên sáu tỉ người hưởng ơn Thiên Chúa từng ngày, liệu có mầy người biết cảm tạ ơn trên. Phải chăng con người chỉ nghĩ thành công là do mình tài giỏi. Sự giàu sang hạnh phúc là do mình biết tổ chức cách khôn ngoan. Vì nghĩ rằng khả năng con người là vô hạn nên cần gì đến thế lực của thần thánh siêu nhiên. Sự vô ơn của con người đã dần dần gạt bỏ Thiên Chúa qua bên lề cuộc sống nhân loại.

Có người gặp thử thách quá lớn trong đời nên đâm nghi ngờ Thiên Chúa tình yêu. Có Thiên Chúa công bằng không sao bất công vẫn ngày đang thắng thế? Có Thiên Chúa nhân từ hay không mà sao sự dữ vẫn lan tràn? Thay vì con người tìm hiểu để đọc ra tình yêu của Thiên Chúa trong từng biến cố thì người ta cứ dừng lại nơi chính mình mà than thân trách phận. Nếu có đức tin chắc hẳn người ta sẽ nhận ra nhiều bài học quý giá trong đời. Sẽ nhận ra tất cả là hồng ân trong mọi hoàn cảnh sướng khổ, vui buồn.

Không dám nói gì về Chúa

Chắc hẳn người kitô hữu thường lúng túng khi có người hỏi Thiên Chúa của bạn là ai? Bạn hãy nói về Thiên Chúa cho tôi biết được không? Thiết nghĩ có hai lý do khiến ta lúng túng. Lý do thứ nhất  là vì mình không hiểu giáo lý, không biết Lời Chúa, không cảm được Thiên Chúa cách tỏ tường nên đâu biết phải bắt đầu từ đâu.  Lý do thứ hai là mình cũng biết về Thiên Chúa nhưng nói ra sợ người khác chê cười. Ta sợ người cười mình, và rồi họ cũng cười đạo mình luôn. Đây là chứng bệnh của những người yếu lòng tin. Họ không dám tuyên xưng Chúa trước mặt người khác nên hình ảnh Thiên Chúa vẫn bị chôn vùi trong sự ngại ngùng lúng túng của kẻ kém tin. Nếu ta mạnh dạn giới thiệu Thiên Chúa cho người khác ắt hẳn ta sẽ được Thiên Chúa tuyên dương. “Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên nhận người ấy trước mặt các Thiên Thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8-9)

Ngại dấn thân loan báo Tin Mừng

“Anh em hãy ra đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”. Lời Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng trong mỗi tâm hồn. Rao giảng Tin mừng là sứ mệnh quan trọng nhất trong đời kitô hữu. Thực tế, rất nhiều người viện đủ lý do để tránh né hay chối bỏ sứ mệnh quan trọng này: Tôi không có khả năng, tôi phải còn làm nhiều việc khác, rao giảng Tin Mừng là chuyện muôn đời cần chi phải gấp rút? Hàng loạt lý do xem có vẻ chính đáng được nêu ra cốt để che đậy một điều không dám nói: tôi không dám hy sinh, tôi rất ngại dấn thân.

Mỗi người hãy tự vấn lương tâm: Thiên Chúa sẵn sàng đến với con người tại sao con người không dám đến với Chúa; Thiên Chúa sẵn sàng chịu khổ với con người sao con người lại không dám khổ với Thiên Chúa; Chúa hy sinh đến cả mạng sống để cứu độ con người thế sao con người không dám hy sinh chính mình để được sống lại với Chúa?

Có lẽ hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn bi chôn vùi trong những bữa ăn nơi người công giáo, vì người ta không còn biết đọc kinh tạ ơn Chúa. Thiên Chúa sẽ còn bị lãng quên trong những giờ kinh tối sáng nơi mỗi gia đình. Thiên Chúa bị gạt qua bên lề, không còn là ưu tiên, để thay vào đó là học tập, công việc, tình duyên…

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, đó chính là hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình thương, luôn đỗ ơn dạt dào. Hãy mạnh dạn sống đức tin mang Đức Kitô đến cho mọi người vì đó là quan trọng nhất của người kitô hữu.

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CẦN CÓ ĐIỂM DỪNG

Thực hiện một cuộc hành trình là ta đi theo một hướng đi nào đó mà ta đã chọn. Trong cuộc hành trình đó có thể có lúc ta hăng hái và nhiệt tình. Nếu hăng hái nhiệt tình thì ta sẽ bước đi một cách dễ dàng không có gì phải nói.

Ngược lại nếu ta mệt mỏi, chễnh mảng, lầm đường lạc lối hay thậm chí bỏ cuộc thì sao. Những lúc ấy ta cần có sự nhắc nhở, động viên xem như “liều thuốc tăng lực” để giúp ta thêm nghị lực mà tiếp tục thực hiện cuộc hành trình của mình. Ta có thể gọi đó là điểm dừng của cuộc hành trình.


Hành trình ơn gọi của người sống đời tận hiến có những ngày tĩnh tâm hay linh thao hằng tháng hoặc hàng năm. Đó là những lúc họ có dịp nhìn lại con đường mình đang đi. Họ đã chọn đời sống tận hiến thì có những đòi hỏi của bậc sống ấy. Từ bỏ những điều không thích hợp với đời sống tu trì là một việc làm cần thiết cho đời sống của họ. Sẽ có những người được gọi là linh hướng sẽ giúp họ làm việc này.

Hành trình của người sống đời hôn nhân gia đình sẽ có những lúc cảm thấy “cơm không lành canh không ngọt”. Lúc ấy, họ rất dễ bị cám dỗ phản bội nhau. Mặc dù khi đến với nhau họ hoàn toàn yêu nhau thật lòng và không bao giờ nghĩ đến việc làm mất lòng nhau. Những người tư vấn khôn ngoan xuất hiện kịp thời trong những lúc đó cũng sẽ rất cần thiết. Những người này sẽ tìm cách giúp họ nhìn lại và tiếp tục sống với nhau cho thật tốt.

Cũng vậy, cuộc sống của người kitô hữu ở trần gian là một cuộc hành trình về nhà Cha. Với cuộc hành trình này, mỗi người được mời gọi nỗ lực hết sức mình cùng với ơn Chúa để đi theo Chúa. Cuộc hành trình này còn được gọi là hành trình đức tin. Do đó, có những lúc cần phải có điểm dừng để “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin”.

Vẫn biết rằng chính Chúa Giêsu là điểm tựa chắc chắn nhất vì Chúa đã nói: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” nhưng nhiều lúc có thể ta không ý thức là mình đi sai con đường. Hành trình đức tin của ta bị chuyển sang hướng khác. Hướng đi do ta tạo nên và hướng đi đó rất có thể sẽ đưa ta đến sự huỷ diệt muôn đời.

Năm đức tin là cơ hội rất tốt để ta có được điểm dừng lý tưởng cho hành trình đức tin của mình. Ước mong rằng bạn và tôi sẽ rà soát lại cho thật kỷ. Những gì làm cản bước ta tiến về nhà Cha ta hãy can đảm từ bỏ. Những điều nào đã được làm tốt thì ta cố gắng tiếp tục cho tốt hơn.

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý IV của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin:
Lòng Ao Ước Thiên Chúa

“Tâm hồn chúng ta không thể an nghỉ
cho đến khi được nghỉ an nơi Thiên Chúa”

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ tư của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư ngày 7 tháng 11, 2012.

Anh chị em thân mến

Cuộc hành trình suy niệm mà chúng ta đang cùng nhau thực hiện trong Năm Đức Tin này dẫn chúng ta đến suy niệm hôm nay về một  khía cạnh hấp dẫn của kinh nghiệm con người và Kitô giáo: con người mang trong mình một ao ước mầu nhiệm về Thiên Chúa.  Bằng một cách rất ý nghĩa, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo mở đầu với lời nhận xét sau: “Sự ao ước Thiên Chúa được viết trong trái tim con người, vì con người được tạo ra bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bao giờ ngừng lôi kéo con người lại với chính mình.  Chỉ trong Thiên Chúa, con người sẽ tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà họ đã không ngừng tìm kiếm” (số 27).

Ngay cả ngày nay, hầu như hiển nhiên, một lời xác nhận như thế trong nhiều bối cảnh văn hóa có vẻ vẫn còn chấp nhận được, thay vì xem ra là một hành động khiêu khích như trong nền văn hóa Tây Phương bị tục hóa này.  Thưc ra, nhiều người đương thời của chúng ta có thể cho rằng không tài nào họ cảm thấy một ao ước về Thiên Chúa như thế. Đối với phần lớn trong xã hội, Ngài không còn là Đấng mà người ta mong đợi, Đấng mà người ta ao ước, nhưng trái lại là một thực thể khiến cho người ta không quan tâm, trước thực thể ấy một người thậm chí không cần phải cố gắng bàn luận.

Trên thực tế, điều chúng ta đã định nghĩa là “ao ước Thiên Chúa” đã không hoàn toàn biến mất, và vẫn hiện hữu ngay cả hôm nay, bằng nhiều cách, ở trong tâm hồn con người.  Ước ao của con người luôn hướng về những sự tốt lành cụ thể, thường là bất cứ điều gì ngoài những điều tinh thần, và thấy mình đứng trước thắc mắc về điều gì thực sự là “điều” tốt lành, do đó cảm thấy phải đương đầu với một điều gì đó khác với chính mình, mà con người không thể tạo ra, nhưng được mời gọi để nhận ra. Điều gì thật sự có thể thỏa mãn ao ước của con người?

Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, Deus Caritas Est, tôi đã cố gắng phân tích động năng này xảy ra thế nào trong kinh nghiệm về tình yêu con người, một kinh nghiệm mà trong thời đại chúng ta được người ta cảm nhận dễ dàng hơn như một giây phút xuất thần, đi ra ngoài chính mình, một nơi mà con người nhận ra rằng mình được tràn ngập bởi một ao ước vượt trên mình. Qua tình yêu, người nam và nữ nhờ nhau mà kinh nghiệm một cách mới mẻ sự cao cả và vẻ đẹp của cuộc đời và thực tại. Nếu điều tôi kinh nghiệm không chỉ đơn thuần là một ảo tưởng, nếu việc tôi thực sự mong muốn điều tốt cho người khác cũng là một cách đạt được điều tốt cho tôi, thì tôi phải sẵn sàng quên mình, để phục vụ tha nhân, cho đi đến độ từ bỏ chính mình.  Như thế, câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của kinh nghiệm về tình yêu phải trải qua thanh tẩy và chữa lành ý muốn, được đòi hỏi bởi chính tình yêu mà tôi dành cho tha nhân.  Chúng ta phải thực hành điều này, chúng ta phải huấn luyện, và thậm chí sửa mình, để chúng ta có thể thực sự mong muốn điều tốt lành này.

Do đó sự xuất thần ban đầu trở thành một cuộc hành hương “một cuộc xuất hành liên tục ra khỏi cái tôibị khép kín trong chính mình hướng về việc giải thoát nó qua việc tự hiến, và do đó hướng về việc thực sự tìm được chính mình và quả thực là tìm được Thiên Chúa” (Deus Caritas Est, 6).  Qua con đường này, con người sẽ dần dần đào sâu hơn sự hiểu biết về tình yêu mà mình đã trải qua lúc ban đầu. Và mầu nhiệm mà nó đặc trưng sẽ càng ngày càng nổi bật: thực ra, ngay cả người được yêu cũng không có thể thỏa mãn được ao ước trong quả tim con người; trái lại, tình yêu dành cho người khác càng đích thực bao nhiêu thì nó càng tạo ra thắc mắc về nguồn gốc và số phận của nó, về việc có thể kéo dài tình yêu này mãi mãi hay không bấy nhiêu.  Như vậy, kinh nghiệm về tình yêu của con người có trong chính nó một động năng dẫn họ vượt qua chính mình, đó là một kinh nghiệm về một điều tốt lành dẫn người ta đi ra ngoài chính mình và tìm thấy mình trước mầu nhiệm bao bọc toàn thể cuộc đời.

Chúng ta có thể có những suy nghĩ tương tự về những kinh nghiệm khác của con người, như tình bạn, kinh nghiệm về thẩm mỹ, lòng yêu thích sự hiểu biết: mọi điều tốt được con người cảm nghiệm đều hướng về mầu nhiệm bao bọc chính con người; mỗi ao ước phát sinh từ tâm hồn con người vang vọng một ước muốn không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn.  Chắc chắn rằng từ ao ước sâu xa đó, là điều cũng che giấu một cái gì bí ẩn, mà một người không thể trực tiếp đạt đến đức tin được.  Chung cuộc, con người biết rõ điều gì không làm cho mình thỏa mãn, nhưng không thể đoán hoặc xác định được điều làm cho họ cảm nghiệm hạnh phúc mà họ nhung nhớ trong tâm hồn.  Người ta không thể biết Thiên Chúa đơn thuần dựa trên ao ước của con người.  Từ quan điểm này, mầu nhiệm vẫn còn: con người là kẻ tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, một người đi tìm tiến bước qua những bước nhỏ và không chắc chắn.  Tuy nhiên, kinh nghiệm về ao ước, của “con tim không thể an nghỉ được” như Thánh Augustine gọi nó, là điều rất ý nghĩa.  Nó cho chúng ta biết rằng con người, tận đáy lòng, là một hữu thể tôn giáo (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 28), một “kẻ ăn xin trước mặt Thiên Chúa.”  Chúng ta có thể nói bằng những lời nói của Pascal: “Con người vượt qua con người một cách vô tận” (Pensées, ed Chevalier 438, ed Brunschvicg 434).  Mắt chúng ta nhận ra các sự vật khi chúng được ánh sáng chiếu soi.  Do đó ước muốn biết chính ánh sáng, là điều làm cho những gì thuộc về thế giới tỏa sáng và cùng với chúng, thắp lên ý nghĩa về vẻ đẹp.

Vì thế chúng ta phải tin rằng trong thời đại chúng ta, là thời đại dù có vẻ chống lại chiều kích siêu việt, vẫn có thể mở một lối đi hướng về ý nghĩa tôn giáo đích thực của cuộc đời, trong đó cho thấy làm sao hồng ân đức tin không phải là điều ngu xuẩn, không phải là điều vô lý.  Thật là điều rất ích lợi, cho mục đích đó, để quảng bá một loại phương pháp sư phạm về ao ước, cho cả con đường của những người chưa tin, và cho những người đã nhận được hồng ân đức tin.  Một phương pháp sư phạm bao gồm ít nhất hai khía cạnh.  Thứ nhất, học hoặc tái học thưởng thức những niềm vui đích thực của cuộc đời.  Không phải tất cả mọi thỏa mãn đều tạo ra cùng một hiệu quả trong chúng ta: một số để lại dấu vết tích cực, chúng có thể làm êm dịu tâm hồn, làm cho chúng ta hoạt động nhiều hơn và đại lượng hơn.  Còn những thỏa mãn khác, sau ánh sáng ban đầu, có vẻ làm tiêu tan những kỳ vọng mà chúng đã tạo ra và đôi khi để lại đằng sau chúng sự đắng cay, không hài lòng, hay một cảm giác trống rỗng.  Việc giáo dục con người từ thơ ấu để biết thưởng thức những niềm vui thật, trong tất cả các lĩnh vực của cuộc đời – gia đình, tình bạn, tình đoàn kết với những người đau khổ, từ bỏ mình để phục vụ tha nhân, yêu thích sự hiểu biết, nghệ thuật, những vẻ đẹp thiên nhiên – , tất cả những điều này có nghĩa là thực tập cách thưởng thức nội tâm và sản xuất ra những kháng thể có hiệu quả chống lại sự tầm thường hóa và bình thường phổ biến ngày nay.  Người lớn cũng cần phải tái khám phá ra những niềm vui, ao ước những thực tại chân chính, thanh lọc mình khỏi sự tầm thường, mà họ thấy chính mình bị vướng mắc trong đó.  Sau đó sẽ dễ dàng hơn để bỏ đi hoặc chối từ tất cả những gì, dù có vẻ hấp dẫn chứ không tỏ ra vô vị, là nguồn mạch của sự nghiện ngập chứ không phải của tự do.  Và điều này sẽ làm xuất hiện lòng ao ước về Thiên Chúa mà chúng ta đang nói đến.

Một khía cạnh thứ hai, đi song song với khía cạnh trước là đừng bao giờ hài lòng với những gì mình đã đạt được.  Chính những niềm vui chân thật nhất có khả năng giải phóng chúng ta khỏi tình trạng bất ổn lành mạnh ấy dẫn chúng ta đến việc trở nên đòi hỏi hơn – ao ước một sự tốt lành cao hơn và sâu xa hơn – và đồng thời, nhận thức càng ngày càng rõ ràng hơn rằng không có gì hữu hạn có thể đổ đầy trái tim của chúng ta.  Như vậy, chúng ta sẽ học để vươn ra, bàng tay không, hướng về phía sự tốt lành ấy mà chúng ta không thể xây dựng hoặc mua cho mình bằng những nỗ lực riêng của mình; chúng ta sẽ học không để cho mình bị chán nản vì những khó khăn liên hệ hoặc những trở ngại đến từ tội lỗi của mình.

Về vấn đề này, chúng ta không được quên rằng động lực của ao ước luôn mở ra cho ơn cứu độ.  Ngay cả khi nó tiến theo những con đường sai lầm, khi nó theo đuổi những thiên đàng nhân tạo và dường như mất khả năng khao khát những sự tốt lành chân thật.  Ngay cả trong vực thẳm của tội lỗi, tia lửa ấy không bị dập tắt trong con người, cho phép người ta nhận ra điều tốt lành thật sự, để thưởng thức nó, và do đó bắt đầu một con đường đi lên, là con đường mà Thiên Chúa, qua món quà ân sủng của Ngài, không bao giờ ngừng ban phát sự giúp đỡ của Ngài.  Hơn nữa, tất cả chúng ta cần phải bước đi trên một con đường thanh tẩy và chữa lành của ước muốn.  Chúng ta là những khách lữ hành hướng về quê trời, hướng về sự tốt lành sung mãn và vĩnh cửu ấy, là điều mà không bao giờ có gì sẽ có thể giật khỏi tay chúng ta.  Cho nên, không phải là vấn đề bóp nghẹt ao ước trong tâm hồn con người, nhưng giải thoát nó, để nó có thể đạt được tầm vóc thực sự của nó.  Khi trong ao ước một cửa sổ được mở ra hướng về Thiên Chúa, đây đã là một dấu chỉ của sự hiện diện của đức tin trong linh hồn, đức tin là một hồng ân cùa Thiên Chúa.  Thánh Augustinô nói: “Bằng cách để cho chúng ta chờ đợi, Thiên Chúa làm tăng ao ước của chúng ta, là điều mở rộng khả năng của linh hồn chúng ta” (Chú giải Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, 4,6: 35 PL, 2009).

Trong cuộc hành hương này, chúng ta hãy cảm thấy mình là anh em của mọi người, những người cùng đồng hành, kể cả những người không tin, những người đang tìm kiếm, những người với lòng chân thành để cho động năng của ao ước chân lý và sự tốt lành của họ chất vấn họ.  Trong Năm Đức Tin này chúng ta hãy cầu nguyện xin Thiên Chúa tỏ Dung Nhan Ngài cho tất cả những ai tìm kiếm Ngài với một lòng chân thành. Cảm ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 10. TÍNH DỤC VÀ  HÔN NHÂN

“Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ” (1 Cr 7,4-5)

Hôn nhân là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và trách nhiệm, để sống trọn đời yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái. Như vậy, đời sống hôn nhân và gia đình liên hệ tới giới tính (người nam, người nữ), tính dục và tình dục (yêu thương nhau và sinh sản con cái). Khi nói tới những vấn đề này, nhiều người có thái độ khinh bỉ vì cho là xấu xa tội lỗi, hay lại quá đề cao để rồi lạm dụng bừa bãi.

Vì thế, để có thái độ đúng đắn về những vấn đề này, chúng ta sẽ bàn tới 4 điểm sau đây: vấn đề tính dục, vai trò quan trọng của tính dục trong đời sống hôn nhân, tính dục phục vụ cho tình yêu vợ chồng, các nguyên tắc luân lý tính dục.

1. Vấn đề tính dục

Để hiểu đúng về vấn đề tính dục, thiết tưởng chúng ta cần phải giải thích các từ ngữ liên hệ: giới tính (hay phái tính), tính dục và tình dục.

1.1. Giới tính

Giới tính là tất cả những đặc điểm phân biệt người nam với người nữ.

1.2. Tính dục

Tính là bản chất con người, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài. Tính dục là một khuynh hướng tự nhiên nơi người nam và người nữ vận dụng giới tính để tìm kiếm, hiểu biết và thương yêu nhau dù nam hay nữ.

1.3. Tình dục

Tình là cảm xúc yêu thương trong tâm hồn, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài. Tình dục là toàn bộ những cách thế mà người nam và người nữ vận dụng bản năng giới tính để yêu thương, ước muốn kết hợp với nhau như vợ chồng.

So sánh các giải thích trên ta thấy:

- Tính dục khác với giới tính ở chỗ tính dục là sử dụng giới tính để gặp gỡ, yêu thương, còn giới tính chỉ là đặc điểm của giới.

- Tính dục vừa khác với tình dục vì tính dục bao hàm chung các quan hệ bạn bè, người yêu,vợ chồng, còn tình dục nói riêng đến quan hệ vợ chồng.

Theo Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, giới tính (người nam, người nữ), tính dục và tình dục (những hoạt động mà mỗi giới vận dụng bản năng giới tính để gặp gỡ, yêu thương, trao hiến và nên một với nhau) đều do Thiên Chúa phú ban để “bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến đời sống hôn nhân và gia đình[1]“.

Trong bài này ta hiểu tính dục theo nghĩa bao hàm cả ý nghĩa của tình dục.

2. Vai trò của tính dục trong tình yêu vợ chồng.

Giới tính và tính dục là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người. Con người là một thực thể gồm xác và hồn. Xác và hồn không phải là hai phần cô lập nhau, nhưng chúng liên hệ mật thiết với nhau, tác động lên nhau cách sâu xa. Do đó, khi vợ chồng sử dụng giới tính để nên một với nhau và sinh sản con cái, thì đây không phải chỉ là chuyện sinh lý thuần túy, mà còn liên quan đến điểm thâm sâu nhất trong ngôi vị con người là tình yêu.

Như thế, tính dục chỉ có giá trị nhân linh đích thực, nếu nó là thành phần không thể thiếu được của tình yêu, một khi vợ chồng đã cam kết hiến thân trọn vẹn cho nhau trong suốt cả cuộc đời[2].

Tình yêu vợ chồng là một tình yêu vị tha, trao hiến và đón nhận nhau suốt đời, nên là một thứ tình yêu vị tha cao cấp nhất giữa người với người. Chính vì thế, tính dục có một vai trò quan trọng trong tình yêu vợ chồng. Nó là ngôn ngữ của tình yêu, giúp con người thông đạt với nhau một cách sâu xa nhất.

3. Tính dục phục vụ cho tình yêu vợ chồng

3.1. Các hành vi tính dục giúp đem lại niềm hoan lạc chính đáng

Việc vợ chồng vận dụng các năng lực về giới tính để trao hiến trọn vẹn cho nhau, hầu đem lại một cảm xúc hoan lạc sâu xa, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khỏe, sự quân bình trí não, làm cho vợ chồng ngày càng trưởng thành hơn trong tình yêu, nghĩa là vừa biết trao hiến vừa biết đón nhận trong sự tôn trọng và yêu thương nhau; điều này rất cần thiết cho sự chung thủy của vợ chồng và sự êm ấm của gia đình.

“Chính Đấng Tạo Hóa đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thỏa mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy, vợ chồng chẳng làm điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì Đấng Tạo Hóa đã ban cho. Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ[3].”

3.2. Các hành vi tính dục giúp tình yêu vợ chồng mở ngỏ cho sự sống

Tình yêu vợ chồng vừa bao gồm, lại vừa vượt qua tình bạn thông thường để trao hiến trọn vẹn theo nam tính và nữ tính của mình, nhờ đó họ lập thành một cộng đồng các ngôi vị. Từ cộng đồng này, Thiên Chúa muốn có một con người khác được hình thành, sinh ra và lớn lên.

Thiên Chúa không muốn sự trao hiến của vợ chồng dừng lại trong cuộc sống lứa đôi, mà còn mở ngỏ cho việc trao hiến lớn lao hơn, đó là cộng tác với Ngài để trao ban sự sống cho một con người khác. Việc mở ngỏ cho sự sống này là dấu chỉ chứng minh tình yêu vợ chồng có giá trị đích thực. Chính từ sự hiệp thông vì tình yêu và sự sống này, vợ chồng đạt được sự phong phú về nhân bản cũng như tâm linh, và tạo được bầu khí tích cực rất cần cho việc giáo dục con cái về tình yêu và đức khiết tịnh.

3.3. Các hành vi tính dục còn diễn tả sự phong phú của Thiên Chúa và góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu

Thiên Chúa Tình Yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và Ngài đã tạo dựng họ có nam có nữ. Thiên Chúa không có giới tính, nhưng con người thì được dựng nên có giới tính, nên có thể nói chỉ khi nào nam tính và nữ tính kết hợp nên một trong hôn nhân, thì đó mới là hình ảnh trọn vẹn của Thiên Chúa.

Giới tính vừa là ân sủng lớn lao của Đấng Tạo Hóa, vừa có tính chất thể lý và trần tục. Chính Thiên Chúa đã muốn con người có nam có nữ, và chính Ngài cũng muốn cả hai thành một xương một thịt (x. Mt 19, 4-5), nhờ đó con người có thể diễn tả được sự phong phú của Thiên Chúa.

Khi vợ chồng thành một xương một thịt trong hôn nhân, và khi sự trao hiến này diễn tả việc vợ chồng bổ sung cho nhau, thì tình yêu vợ chồng trở thành sức mạnh làm cho hai người được thêm phong phú và tăng trưởng, đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu. Trái lại, khi những hành vi tính dục không mang ý nghĩa bổ sung và trao hiến cho nhau, thì nó chỉ làm phát sinh một nền văn minh đồ vật, trong đó con người bị sử dụng chẳng khác nào như một thứ đồ vật. Trong bối cảnh của nền văn minh hưởng thụ, người nữ có thể trở thành một thứ đồ vật cho người nam, và con cái trở thành một chướng ngại vật cho cha mẹ.

Ước gì đôi bạn luôn đến với Lời Chúa để nhận được ánh sáng và sức mạnh trong lãnh vực này: “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa, và anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em.” (1Cr 6,19-20).

4. Các nguyên tắc luân lý tính dục

Tính dục là ngôn ngữ của tình yêu vợ chồng, giúp vợ chồng thông hiệp với nhau, đem lại cho nhau niềm hoan lạc chính đáng và trao ban một sự sống khác. Vì vậy, để có thái độ đúng đắn về vấn đề tính dục trong đời sống vợ chồng, đôi bạn phải nắm vững một số nguyên tắc luân lý sau đây:

4.1. Nguyên tắc 1:

Trong khuôn khổ hôn nhân tự nhiên và hôn nhân Công giáo, các hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng[4].

Tự hiến cho nhau trong sinh hoạt vợ chồng là hành vi cần thiết để biểu lộ tình yêu, làm phát sinh sự sống và nâng đỡ cho lòng trung tín.

- Dấu hiệu biểu lộ tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài sống mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu nơi chính bản thân. Khi tạo dựng con người theo hình ảnh mình và tạo dựng họ có nam có nữ, Thiên Chúa trao ban cho họ một thiên chức; do đó họ có khả năng và trách nhiệm sống yêu thương và hiệp thông.

- Dấu hiệu làm phát sinh sự sống. Người nam và người nữ, bình đẳng về phẩm giá, dù với cách thức khác nhau, cả hai đều là hình ảnh của Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sự kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người sự quảng đại và sung mãn của Đấng Tạo Hóa: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Sự kết hợp này giúp bảo tồn giống nòi.

- Dấu hiệu biểu lộ lòng trung tín. Tình yêu chân thật đòi phải trung tín. Nhờ các hành vi tự nguyện trao hiến, đôi bạn được hỗ trợ để mãi mãi gắn bó, trong tư tưởng cũng như trong thân xác, lúc bĩ cực cũng như hồi thái lai, nhờ đó tránh được mọi thứ ngoại tình và bất tín.

4.2. Nguyên tắc 2:

Luân lý Công giáo tôn trọng thân xác, nhưng không quá đề cao hành vi giới tính.

Thiên Chúa tạo dựng con người có hồn và xác. Chính việc Ngôi Hai xuống thế làm người và việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết, là bằng chứng xác nhận giá trị của thân xác. Niềm tin “xác loài người ngày sau sống lại” cũng khẳng định giá trị của thân xác. Thật vậy, thân xác có một giá trị nhất định trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thân xác không phải là tất cả con người. Các hành vi sinh lý chỉ có giá trị giới hạn. Chúng chỉ đáng quý trọng khi được thực hiện phù hợp với luật lệ của Thiên Chúa. Do đó, không thể quá đề cao hành vi trao hiến đến độ làm phương hại các giá trị cao quý khác của con người.

4.3. Nguyên tắc 3:

Đời sống hôn nhân Công giáo phải là đời sống trong sạch và tiết độ.

Không phải chỉ bậc tu trì, mà mọi người, kể cả những người sống bậc vợ chồng, đều được mời gọi giữ đức khiết tịnh: “Mỗi người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình: người này trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức dễ dàng tận hiến trọn vẹn tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định [5].”

Sống khiết tịnh là làm chủ giới tính, giúp ta làm chủ bản thân, nhờ đó, ta có thể thống nhất đời sống và hiến thân trọn vẹn[6].

Người có gia đình cần sống khiết tịnh, nghĩa là sống trong sạch và tiết độ, bởi vì:

- Trong sạch và tiết độ qua hành vi ân ái là thước đo tinh thần xả kỷ, hiến thân vì hạnh phúc và nhu cầu của người mình yêu.

- Trong sạch và tiết độ còn là sự biểu lộ mức trưởng thành và tự chủ của đôi bạn biết yêu thương và kính trọng nhau.

- Phải trong sạch trong thân xác: lạc thú tính dục được Thiên Chúa sắp đặt để nâng đỡ đời sống hôn nhân và gia đình. Do đó, chỉ những ai là vợ chồng của nhau mới có quyền trên xác của nhau (còn tiếp)…

[1] GLHT 2333

[2] x. GD 11

[3] ĐGH Piô XII, Bài giảng ngày 29.10.1951

[4] MV 49,2; GLHT 2362

[5] x. GLHT 2349

[6] x. GLHT 2337 và 2395

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh

Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004
+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho
Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

GIA ĐÌNH TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

Sau Thánh Lễ sáng, một người giáo dân gặp tôi nêu thắc mắc: “Hôm Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu phép rửa Cha nói: gia đình anh chị em là nơi đức tin được thanh luyện, củng cố, được tuyên xưng, xin Cha giải thích cho con. “Đức tin được thanh luyện là tuyệt đối tin tưởng phó thác nơi Chúa tránh mọi hành động mê tín dị đoan, hay mọi thứ lung lạc làm mất đức tin. Củng cố đức tin bằng học giáo lý, Kinh thánh để hiểu biết Chúa hơn, tin tưởng phó thác nơi Chúa vững chắc hơn, chỉ nương tựa vào Chúa, bám lấy Chúa. Tuyên xưng đức tin là trình bày đời sống đức tin hằng ngày, đặc biệt qua những việc phụng vụ (Thánh lễ, Bí tích, kinh nguyện) nhất là các việc bác ái tông đồ”. Cắt nghĩa đại khái với anh như thế và tôi vào truyện thực tế: 


Thầy giáo Giuse H bị bệnh gan nặng ở giai đoạn 3, các bác sĩ nhà thương Chợ Rẫy đã bó tay, muốn thầy về nhà để chuẩn bị lên đường theo Chúa. Người chị ruột biết hiện trạng của em trai muốn em được về với Chúa. Bà muốn chuyến em về với Thiên Chúa có Cha sở rộng tay giúp đỡ để em trai bà hoàn toàn thanh thoát được Chúa Giêsu ở cùng, đồng hành và đón nhận vào nhà Cha trên trời khi em bà trút hơi thở giã từ trần thế. Bà xin Cha sở ra nhà khi em bà từ thành phố về, xức dầu, ban ơn toàn xá, trao của ăn đàng và an ủi hướng dẫn em bà luôn hướng về Chúa. Bà cũng xin Ban thường vụ, đặc biệt anh chị em trong xóm Philipphê Phan Văn Minh cầu nguyện cho em bà khi ông Giuse còn sống, và nhiệt tình đến cầu lễ khi em bà qua đời để gia đình được ấm cúng, và người chết được hỗ trợ, được bênh vực, được tiếp giúp, được tiễn đưa trong những lời ca, lời kinh đầy tình người sốt sắng dâng người chết lên cùng Thiên Chúa, nài xin Chúa giàu lòng thương xót thứ tha tội lỗi, cứu vớt Giuse và đón nhận Giuse vào nước trời sống với Chúa.

Bên cạnh bà cô, người con gái út độc nhất đã được rửa tội, đã lấy chồng ngoại nên rối, vợ chồng này có một bé gái, vì cả hai vợ chồng đều làm cơ quan nhà nước, nên vấn đề đạo chưa được giải quyết đúng đắn. Trước tình trạng bệnh nặng và sự hấp hối của cha, người con gái này luôn liên lạc với Cha sở và Ban thường vụ để xin giúp đỡ và chỉ dẫn kịp thời. Em luôn tin vào Chúa, luôn phó thác cha mình trong tay Chúa. Nếu có thể giúp cha mình điều gì để cha được kết hiệp làm một với Chúa, em không từ chối, giúp cha tâm hướng về Chúa, đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh và những lời nguyện tắt.

Hai người con trai còn ngoại đạo, có gia đình làm việc ở Sài Gòn cũng rất thương cha, muốn cha trọn tình vẹn nghĩa gắn bó với Chúa, được kết hiệp với Chúa mãi mãi.

Đặc biệt người vợ còn ngoại của ông Giuse rất thương chồng, lo cho chồng, mỗi Chúa Nhật đều dẫn chồng đi lễ nhà thờ, vì cuối đời ông Giuse mắt mờ không thấy đường, nên bà dẫn chồng đi, dẫn chồng về, bà ở ngoài nhà thờ chờ chồng. Khi Cha sở ra trao Mình Chúa hằng ngày cho chồng như của ăn đàng, bà đứng bên cầu nguyện. Khi Cha sở dạy chồng nói với Chúa những lời nguyện tắt: Lạy Chúa Giêsu xin tha tội cho con, xin thương con, xin cứu con, cho con được bình an… bà xin Cha sở ghi cho bà để bà cùng với chồng cầu nguyện. Nhiều lần trong ngày, bà đọc trước ông đọc sau. 

6 giờ chiều ngày 01/01/2013 ông qua đời sau khi rước Mình Thánh Chúa như của ăn đàng 1 giờ. Gia đình muốn Cha sở làm mọi nghi thức Công giáo cho ông, đang khi chờ con cháu về đủ để tẩm liệm. Cha sở và anh chị em giáo dân, trong đó chủ lực là Quới chức làm nghi thức tẩm liệm lúc 8g30 tối. Khi ông mới tắt thở, bà con chòm xóm hầu hết là người lương đưa ông từ nhà dưới lên nhà trên, tắm rửa và mặc đồ cho ông, sau đó họ làm các thủ tục theo thói quen người lương dân: nào là cúng cơm, nào là bộ tam sên, nào là đặt nải chuối xiêm xanh lên bụng v.v… Anh chị em Quới chức yêu cầu gia đình dẹp những thứ lỉnh kỉnh trên đi và ước mong gia đình đặt tất cả niềm cậy tin phó thác nơi Chúa, Đấng duy nhất giờ đây có thể cứu ông Giuse. Gia đình chân thành làm theo lời chỉ dẫn, đức tin được thanh luyện khỏi những tập quán mê tín dị đoan. Gia đình ước ao cộng đoàn cầu lễ vừa làm cho gia đình tang gia ấm cúng, vừa biểu dương niềm tin qua lời kinh, tiếng hát, Lời Chúa. Những buổi cầu lễ theo nhịp độ 6g sáng, 12g trưa, 3g chiều, 7g tối như là việc củng cố đức tin cho gia đình, cho cộng đồng. Vì nó vừa nói lên tình yêu thương gắn bó, vừa biểu dương sự đồng tâm nhất trí đoàn kết, vừa trình bày sư hiệp thông thân tình giữa người sống và người chết, ký thác người chết cho lòng thương xót và tha thứ của Chúa.

Một việc tuyên xưng đức tin đó là 5g sáng ngày 03/01/2013 đạo tỳ của khóm… phường… đã di quan từ nhà đến nhà thờ, mọi người thân thương, chòm xóm (người lương), và họ đạo cùng thinh lặng tham dự Thánh lễ an táng, nói lên lòng thương nhớ và cầu nguyện tiễn đưa ông Giuse về với Chúa. Bà vợ và các con, dâu, rễ, cháu tuy còn là người lương cũng sốt sắng thành tín hiệp thông dâng ông Giuse cho Chúa, nài xin Chúa thương cứu giúp. Dù chôn ông tại đất nhà ở tận Cái Nhum, Mang Thít, bà và gia đình ước ao Cha sở và Quới chức đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Cha sở mắc trở công tác chung nên không tháp tùng đám xác, ngài đã ủy thác cho Quới chức tham dự.

Tất cả diễn ra tốt đẹp vừa tuyên dương danh Chúa, vừa nâng đỡ ông Giuse, vừa an ủi gia đình, vừa giúp anh em lương dân cảm phục. Sau lễ an táng, gia đình xin cầu lễ tại gia đình 10 tối liên tiếp. Ban thường vụ đã sắp xếp thực hiện theo mong ước của gia đình. Anh em lương dân ca ngợi: “người Công giáo yêu thương, đoàn kết, nâng đỡ nhau thật ấm cúng, thật êm đẹp. Còn Cha sở hứa sau khi xây mồ mả xong, ngài sẽ đến tận nơi thánh hóa phần mộ và cầu nguyện cho ông. Gia đình cam kết cùng đồng hành với Cha sở…   

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG GIÁO LÝ

Khi dạy giáo lý ta không nên đơn giản nghĩ rằng cứ dạy những gì được trình bày trong các sách giáo lý, còn việc phải theo sát mục đích và nội dung giáo lý là bổn phận của những người soạn sách giáo lý. Quan niệm như thế cũng một phần đúng, vì người soạn sách giáo lý chắc chắn phải thấu hiểu những quy tắc và những yêu cầu của Giáo Hội. Nhưng thực ra, nếu dựa vào những chỉ dẫn của Giáo Hội trong phần II cuốn Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý thì nội dung giáo lý phong phú hơn nhiều so với các bản văn giáo lý hiện hành.

Sách giáo lý mặc dù cần thiết nhưng các giáo lý viên cũng phải hiểu rõ mục đích và nội dung của giáo lý, để trong khi trình bày, chúng ta biết phân biệt đâu là điểm chính cần nhấn mạnh, đâu là điểm phụ chỉ cần lướt qua.

1. CHỦ ĐÍCH CỦA GIÁO LÝ

Mục đích của giáo lý là giáo dục đức tin. Tông huấn Dạy giáo lý của Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau : “ Mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý, trong toàn thể công cuộc loan báo Tin Mừng là, với sự trợ giúp của ơn Chúa, làm phát triển đức tin còn thơ ấu, thăng tiến tới mức độ trưởng thành viên mãn và nuôi dưỡng hằng ngày đời sống kitô của các tín hữu. Nghĩa là giúp người tín hữu tin và tiếp nhận con người Đức Kitô làm Chúa duy nhất và sau khi đã gắn bó hoàn toàn với Người bằng sự chân thành hoán cải tâm hồn, người tín hữu cố gắng tìm hiểu Chúa Kitô cùng với các mầu nhiệm của Người, Vương quốc của Người, các đòi hỏi chứa đựng trong Tin Mừng và các nẻo đường mà Người đã vạch ra cho ai muốn theo Người” (DGL 20).

Qua định nghĩa trên, ta có thể tóm tắt mục đích của giáo lý như sau :

Truyền thông kiến thức về Thiên Chúa, làm phát triển sự hiểu biết các mầu nhiệm của Đức Kitô và Giáo Hội của Người.

Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách đổi mới bản thân, trở thành một thụ tạo mới. Bước vào đời sống mới trong Đức Kitô, tức là đi theo vết chân Người và nên một với Người. Muốn đạt được mục đích trên, đức tin của người kitô hữu phải mang những chiều kích sau đây :

- Đức tin có nội dung vững chắc dựa trên mạc khải của Thiên Chúa, đặc biệt là con người và giáo huấn của chính Đức Kitô.

- Một đức tin mang tính cộng đồng nghĩa là đón nhận đức tin từ Giáo Hội, sống đức tin trong lòng Giáo Hội và cùng liên đới, cùng có trách nhiệm về đức tin của anh em.

- Một đức tin dấn thân là biết chấp nhận từ bỏ những gì không hợp với Tin Mừng Chúa Kitô và luôn sống phó thác để chân lý biến đổi bản thân mình mỗi ngày nên tốt hơn.

- Một đức tin phục vụ là biết làm chứng cho niềm tin bằng cuộc sống yêu thương phục vụ trong mọi hoàn cảnh sống.

Vì vậy, nếu giáo lý luôn hướng theo mục đích nói trên thì chắc chắn đời sống đạo của các kitô hữu được hoàn thiện rất nhanh.

2. NỘI DUNG CỦA GIÁO LÝ

Về nội dung giáo lý, chúng ta cũng đọc thấy trong Tông huấn Dạy giáo lý : “Nội dung giáo lý cũng là nội dung của tất cả việc loan báo Tin Mừng. Cũng một sứ điệp Tin Mừng cứu độ, được nghe cả trăm lần và được tiếp nhận với cả tâm hồn, thì trong việc dạy giáo lý, luôn luôn được đào sâu nhờ sự suy tư có hệ thống, nhờ sự ý thức luôn được khích lệ hơn, về các ảnh hưởng của sứ điệp ấy vào đời sống cá nhân mỗi người ; nhờ việc sứ điệp thấm nhuần vào cái khối linh hoạt và hài hòa là đời sống kitô hữu trong xã hội và trong thế giới” (DGL 26).  Và trong số 27, Tông huấn viết tiếp : “Việc dạy giáo lý bao giờ cũng lấy nội dung ở nguồn mạch sống động là Lời Chúa, thông truyền trong Kinh Thánh và Thánh Truyền vì cả hai hợp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng Lời Chúa” (DGL 27).

Như vậy học giáo lý chính là học Lời Chúa. Ngoài Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, còn có Thánh truyền là Lời Chúa được ủy thác cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài. Nói cách khác nội dung giáo lý là toàn bộ Mầu nhiệm Kitô giáo mà trung tâm điểm là Mầu nhiệm Cứu Độ. Chính Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ này. Nội dung giáo lý được triển khai trong sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo. Chúng ta nhắc lại dàn bài của cuốn giáo lý:

I. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN : gồm hai chương

- Đức tin là gì ?

- Tin những điều gì ?

Phần này là lời tuyên xưng đức tin của người kitô hữu. Trước những mạc khải của Thiên Chúa, con người đáp trả lại bằng chính niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi.

II. CỬ HÀNH ĐỨC TIN : gồm hai chương:

- Kế hoạch bí tích

- Bảy bí tích của Giáo Hội.

Phần này trình bày ơn cứu độ đã được Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô, nhưng nay vẫn được tiếp tục thực hiện trong việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bảy bí tích.

III. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN : gồm hai chương :                       

- Ơn gọi của con người: đời sống trong Thần Khí

- Mười điều răn

Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người là để họ được hạnh phúc. Phần này trình bày những nẻo đường đưa đến hạnh phúc như sống ngay thẳng, tự do theo lề luật và ân sủng của Chúa cũng như thực thi mệnh lệnh mến Chúa và yêu người được triển khai qua Mười điều răn.                                               

IV. CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN: gồm hai chương

- Cầu nguyện là gì ?

- Cầu nguyện như thế nào ?

Phần này nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống các kitô hữu. Nền tảng của mọi kinh nguyện chính là Kinh Lạy Cha.

Tóm lại, sách Giáo lý Công giáo trình bày cách hệ thống về toàn bộ đức tin cũng như mọi sinh hoạt tôn giáo của người kitô hữu. Tuy nhiên khi dạy giáo lý không phải ta cứ lần lượt kê khai mọi chân lý là đủ và cũng không phải hết mọi chân lý đều có tầm quan trọng ngang nhau, nhưng phải trình bày các Mầu nhiệm Kitô giáo một cách mạch lạc và liên kết với nhau thành một toàn thể ăn khớp và liên tục. Do đó, ta có thể trình bày theo cấu trúc sau đây :

 Chúa Ba Ngôi : Mầu nhiệm Ba Ngôi phát sinh mọi mầu nhiệm khác. Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần cùng chia sẻ một nguồn sống và một tình yêu (hiệp thông nội tại). Và qua Đức Kitô, mỗi người chúng ta được mời gọi gia nhập cộng đoàn Ba Ngôi để trở thành con cái Thiên Chúa (hiệp thông ngoại tại). Ý định cứu rỗi của Thiên Chúa phát sinh từ hiệp thông này.

Đức Kitô là trung tâm : Trọng tâm của giáo lý là một Ngôi Vị : Đức Giêsu Kitô (DGL 5-6). Dạy giáo lý là giúp người khác đi vào sự thông hiệp thân mật với Đức Kitô, là tìm hiểu con người của Ngài, giáo huấn của Ngài và công việc cứu thế của Ngài. Khi nói đến Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ, Pascal đã phát biểu như sau : “Cựu ước ngước nhìn Đức Kitô như sự hoàn tất của mình. Tân ước ngoảnh nhìn Đức Kitô như khởi điểm của mình. Cả hai Giao ước nhìn Đức Kitô như trung tâm điểm của mình”.

Lịch sử cứu độ : Ý định cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện từng bước trong thời gian, được diễn tiến qua nhiều giai đoạn liên tục :

- Chuẩn bị ơn cứu độ : Cựu ước

-  Thực hiện ơn cứu độ : Tân ước

-  Phân phối ơn cứu độ : thời Giáo Hội

-  Công cuộc cứu độ sẽ được hoàn tất trong Nước Trời: sau ngày tái lâm của Đức Kitô.

Các mầu nhiệm : mà trung tâm điểm là mầu nhiệm Phục sinh.

Các nhiệm tích : Nhiệm tích thông ban đời sống mới trong Đức Kitô. Mỗi nhiệm tích là một nguồn suối chuyển thông sự sống của Đức Kitô cho con người và làm cho con người được gặp gỡ Đức Kitô cách thân tình.

Sống theo gương Đức Kitô : Giáo lý giúp con người theo gương Đức Kitô bằng việc thực thi giới luật được đúc kết trong tám mối phúc và bằng các nhân đức, nhất là các nhân đức đối thần.

Tu viện Dòng Mân Côi Chí Hoà 2009

SỐNG ĐẸP

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA

10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu

Những chia sẻ “10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu” do ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt “Niềm Vui Sống Đạo” của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

7 – Chúa Giêsu không giữ luật Do thái

Không những lui tới bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật lệ của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên “ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn” (Lc. 11, 38). Đặc biệt trong những ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc. 14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)… Thánh sử Luca ghi rõ: “Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không giữ luật:

“Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-siêu nói: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát” (Lc. 6, 1-2).

Nhưng trước những lời chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: “Con người làm chủ ngày sa-bát” (Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề luật rắc rối bên ngoài: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt. 23, 13-36).

(còn tiếp)

Đức Hồng Y Px.  Nguyễn Văn Thuận

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

NÉN BẠC CUỐI NĂM

Nếu bạn là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc hay trưởng phòng của một đơn vị thì những ngày cuối cùng của một năm có ý nghĩa đặc biệt. Các bản báo cáo tài chính sẽ cho bạn biết, 365 ngày qua đơn vị đã đạt những mục tiêu gì, lời lỗ như thế nào.

Các công ty lớn nước ngoài thì chặt chẻ hơn, các nhân viên có kinh nghiệm tham gia các dự án tại đây cho biết, các bản báo cáo, thống kê không chỉ để dành cuối năm mà được báo cáo cuối mỗi ngày. Không chỉ dành cho các trưởng phòng, giám đốc mà còn bắt buộc cho mỗi thành viên.

Các bản báo cáo này không chỉ giúp ta thống kê các việc đã làm mà còn chỉ ra các nguyên nhân thành công, thất bại. Nó là bệ phóng cho các dự tính ở tương lai.

Kết thúc năm cũng là dịp để một kitô hữu có trách nhiệm với bản thân, với giáo hội, cần tính toán để trả lời với Thiên Chúa, nén bạc mà Ngài đã trao cho, mỗi chúng ta đã sinh lời bao nhiêu sau 12 tháng làm việc.

Nếu chúng ta nhận thức một cách sâu sắc về cuộc sống đời sau và tính vĩnh cửu của nó, thì chiến lược dùng các nén bạc để sinh lời ở đời này dành cho đời sau sẽ trở nên rõ ràng và quyết liệt hơn. Hiện tại, chúng ta có thể rất lúng túng khi bất ngờ phải trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu "Con đã làm gì trên các nén bạc mà Ta đã trao cho?".

Chúng ta dễ lập kế họach 10, 20 năm cho gia đình, bản thân để đạt các mục tiêu thuộc thế giới trần tục. Một thế giới với những thuộc tính phù vân và hữu hạn về thời gian. Nhưng chúng ta không biết hay không lập kế họach như thế cho đời sau dù tin rằng cuộc sống đời sau là rất quan trọng và vô hạn. Như thế, giữa niềm tin và việc làm có những khoảng cách.

Chúng ta có thể nói một cách dễ dàng rằng: sức khỏe này, trí tuệ này là hồng ân mà Thiên Chúa trao ban một cách nhưng không. Vậy mà sức lực ấy, trí tuệ ấy chúng ta chỉ biết dùng nó để tập trung cho cuộc sống đời này, đôi khi các sản phẩm của nó còn mâu thuẫn, xa lạ với cuộc sống siêu nhiên. Chúng ta đã tạo ra những nén bạc trần thế từ nén bạc tâm linh. Vậy là chúng ta tự mâu thuẫn với chính mình.

Cuối cùng, có thể chúng ta đã dùng nén bạc Chúa ban để sinh lời những nén bạc tâm linh, nhưng vì bản ngã mà nghĩ rằng "đây chính là công sức và tài năng của chính mình tạo ra", rồi tự vui cười và kiêu hãnh.

Lúc 10 tuổi, mấy ai hiểu câu tục ngữ "thương con cho roi cho vọt". Đức tin của chúng ta cũng thế, nỗi đau, thử thách trong cả dòng đời cũng có thể là nén bạc mà Thiên Chúa trao ban để đức tin mỗi chúng ta được lớn lên và vững mạnh theo năm tháng. Chính Thiên Chúa cũng đã để Người Con của mình trải qua cuộc thương khó trước khi đạt đến niềm hạnh phúc viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy thường xuyên nhắc nhủ và tạo cơ hội để chúng con biết sinh lời một cách nhưng không những nén bạc Ngài trao.

G. Tuấn Anh
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

NĂM ĐỨC TIN:
Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Các bí tích mà Chúa Kitô đã  thiết lập và ban cho Giáo Hội cử hành, đều rất quan trọng và cần thiết cho mục đích cứu độ con người  nhờ công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu. Do đó, mọi tín hữu trong Giáo Hội đều được kêu gọi năng lãnh nhận các bí tích tối quan trọng là Thánh Thể và Hòa giải sau khi đã được tái sinh qua Phép Rửa và củng cố đức tin qua Bí tích Thêm sức.Nhưng muốn sống sung mãn và lớn lên trong đức tin thì  phải siêng năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất để giúp trở  nên thánh thiện nhờ được tham dự vào đời sống thần linh của Chúa Ba Ngôi mỗi khi được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể cử hành trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn.

 Thật vậy, có thể nói : Bí tích Thánh Thể là bí tích ban ơn cứu độ quan trọng nhất mà Chúa Kitô đã trao cho Giáo Hội cử hành để tiếp tục công trình cứu độ nhân loại của Người cho đến ngày mãn thời gian.

Nói được như vậy, là vì qua việc cử hành Bí Tích quan trọng này trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn (Eucharist), Chúa Kitô lại  thực sự hiện diên nơi các thừa tác viên con người là linh mục và giám mục để dâng lại Hy Tế cực trọng mà Người đã một lần dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi.

Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium của Đại Công Đồng Vaticanô II đã nói rõ về mục đích và ơn ích của  Thánh lễ Tạ Ơn như sau: “Mỗi lần Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “ Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế” (  1 Cor  5, 7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG. số 3)

Nghĩa là mỗi khi Thánh lễ tạ Ơn được cử hành ở bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, thì  Hy tế  cứu chuộc của Chúa Kitô lại được  diễn ra để xin ơn tha thứ  cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích mà Chúa Kitô  đã một lần dâng Hy tế của Người trên thập giá xưa kia.Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá , chính Chúa Kitô – vừa là bàn thờ, vừa là linh mục và là của lễ- đã  đích thân dâng Hy Tế của Người qua khổ nạn thập giá và máu Người đã đổ ra từ canh sườn  và trong toàn thân từ đầu, mình và chân tay,  vì bị đánh đập tàn nhẫn, bị đóng đanh và đầu đội mão gai..Chúa đã dâng tất cả sự đau khổ lớn lao đó và cả mạng sống của mình làm giá chuộc cho muôn người. Trên thập giá Người đã thực sự đổ máu và bị sát tế như Chiên Vượt qua để cho chúng ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc vô giá của Người.

Ngày nay, trên bàn thờ,  Chúa dùng tay mà miệng của các thừa tác viên tư  tế là linh mục và Giám mục để dâng lại cách bí nhiệm Hy Tế thập giá của Người  cũng như diễn lại Bữa Tiệc ly  để ban mình và máu Người làm của ăn và của  uống cho chúng ta được nuôi dưỡng về mặt thiêng liêng và nhất là có hy vọng được sống đời đời với Chúa như Người đã phán hứa xưa kia:

“Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6 :54)

Chỉ có qua bí tích Thánh Thể cử hành trong Thánh Lễ Tạ Ơn mà chúng ta được dự bàn tiệc thánh để ăn uống  Mìnhvà Máu thánh Chúa hiện diện thực sự ( real presence) dưới  hai hình Thánh Thể là bánh và rượu nho.

Như thế, tham dự và cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là  “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” ( x. LG ,số 11) như Giáo Hội dạy.

Là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, vì chỉ qua Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ ngày nay mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, lại tuôn đổ muôn ơn thánh của Người cho chúng ta nhờ công nghiệp của Chúa Kitô với Hy tế  một lần của Người trên thập giá  và nay đang được tiếp tục dâng lại trên bàn thời qua tác vụ của Giáo Hội.Chính nhờ Hy tế  cực trọng này  mà con người được giao hòa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui và hạnh phúc bất tận.Và cũng chỉ nhờ có Hy tế thập giá mà mọi ơn ích của các bí tích khác được kiện toàn và thêm phong phú.

Cụ thể, sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội, trẻ em hay người lớn không thể lớn lên trong đức tin và thân tình với Chúa nếu không được bồi dưỡng bởi ơn đặc biệt của phép Thánh Thể  nhờ  lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô hiện diện  cách trọn vẹn nhưng bí nhiệm trong bánh và rượu nho.

Nói khác đi, không có việc đạo đức  hay cử hành phụng vụ nào quan trọng và có giá trị  về mặt thiêng liêng  hơn Thánh lễ Tạ ơn, vì qua Bí tích cao trọng này, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành  Bữa ăn sau hết và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô với Nhóm Mười Hai Tông Đồ trong đêm Người bị nộp, vì Giuđa phản bội. Trong bữa ăn cuối cùng này, “Chúa Cứu Thế đã lập hy lễ Thánh Thể của Mình và Máu Người để lưu truyền vạn đại lễ hy sinh thập giá của Người đến muôn đời, cho tới khi Người đến, và cũng là để trao lại cho Giáo Hội là Hiền thê yêu quí của Người bí tích  của  tình yêu, dấu chỉ của hiệp nhất, sợi dây liên kết của đức ái. Với Bữa tiệc Vượt qua, trong đó Chúa Kitô được ban làm lương thực ,  linh hồn ta được đổ tràn đầy ân sủng là bảo chứng cho vinh quang mai sau đã được ban cho chúng ta.( x. SGLGHCG số 1323)

Trong Thánh Lễ Tạ Ơn , Giáo Hội hiệp cùng Chúa Kitô dâng lời chúc tụng  tạ ơn Thiên Chúa Cha về hồng ơn cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đã thực sự đổ máu trên thập giá để  lập Giao Ước mới ”, có giá trị cứu chuộc vượt trên hết mọi giao ước cũ.

Có giá trị cứu rỗi hơn , vì với Giao Ước mới, Chúa Kitô được ví như Chiên vượt qua bị sát tế để cho muôn người được cứu độ như  tác giả Sách Khải Huyền đã viết: Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách Và mở ấn niêm phong  vì Ngài đã bị giết  và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa, muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ thuộc mọi nước mọi dân.” ( x. Kh  5: 9)

Như thế, chính nhờ Hy Tế thập giá qua đó Chúa Kitô bị sát tế như chiên bị giết làm tế vật trong phụng vụ thời  Cựu  Ước, mà nhân loại được thứ tha mọi tội lỗi cho đến ngày nay và còn mãi về sau cho đến khi mãn thời gian.Nói rõ hơn, cử hành  bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ Tạ Ơn là diễn lại Hy tế đền tội của Chúa Kitô để những ai tin và sống theo đường lối  của Chúa  sẽ được ơn cứu độ nhờ Người đã một lần đổ máu ra trên thập giá cho muôn người được cứu độ.

Do đó,  khi tham dự  hay cử hành Thánh lễ Tạ Ơn  là tham dự trước hết vào Bữa Ăn mà Chúa Kitô tiếp tục khoản đãi với thực phâm hảo hạng là chính mình và máu Người  hiện diện  thực sự  nhưng  bí tích dưới hai hình bánh và rượu nho.Đây chính là thần lương nuôi dưỡng và bổ sức cho ta trong cuộc lữ hành tiến về quê Trời.

Mặt khác khi tham dự và dâng Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời Chúa, là lời ban sự sống và cũng là của ăn thiêng liêng cần thiết cho ta lớn lên trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Quan trọng hơn nữa là chúng ta được  hiệp nhất với Chúa Kitô  trong mục đích dâng lại Hy tế cực trọng của Người lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho chúng ta và cho mọi người còn sống hay đã qua đời.. Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá Chúa Kitô đã thực sự đổ máu mình ra, nhưng nay trên bàn thờ Chúa đổ máu cách bí nhiệm nhưng cùng mục đích là  để ban ơn cứu chuộc cho chúng ta mỗi khi chúng ta sốt sắng tham dự và  sạch tội trọng để xứng đáng lãnh nhận Mình Máu thánh Chúa trong phần hiệp lễ ( communion). Về điểm này, Giáo lý và giáo luật của Giáo Hội dạy rằng:

“Ai  muốn rước  lấy Chúa Kitô trong phần hiệp lễ Thánh Thể, thì phải ở trong tình trạng có ân sủng.Nếu ai biết mình đã phạm tội trọng, thì không làm lễ và rước lễ , nếu không nhận được ơn tha thứ trước đó qua bí tích hòa giải ( sám hối)”  ( x SGLGHCG số 1415,giáo luật số  916)

Được kết hợp với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể là được tham dự ngay từ đời này vào đời sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì ở đâu có Chúa Con thì ở đó có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như thế, thật hạnh  phúc biết bao cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa mỗi  khi ta  tham dự  Thánh Lễ Tạ Ơn với tư cách là tín hữu hay cử hành với tư cách là tư tế ( linh mục  và Giám mục). Thánh Lễ Tạ Ơn quả thật là đỉnh cao của đời sống Kitô giáo vì không  còn phương thế nào có giá trị cứu rỗi cao hơn nữa, cũng như cho ta được lãnh nhận ơn Chúa dồi dào hơn nữa.

Trong Bữa ăn sau cùng , Chúa Cứu Thế Giêsu không những đã lập Phép Thánh Thể và Chức Linh mục thừa tác ( Ministerial priesthood) để  “anh  em làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc  22: 19)  mà còn lập Giao Ước mới  ký kết bằng chính máu của Người  đổ ra ngày hôm sau trên thập giá. Chúa đã loan báo Giao Ước  mới này khi Người trao chén máu thánh cho các Tông Đồ  hiện diện và nói: “anh  em hãy lãnh nhận mà uống vì  này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho anh  em và nhiều người được tha tội…” ( 1 Cr 11: 25; Lc 22: 20).

Như thế Bữa ăn cuối cùng của Chúa cũng liên kết mật thiết với Hy Tế thập giá vì đã loan báo trước  việc Chúa đổ máu trên thập  giá ngày hôm sau để hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Ngày nay, trên bàn thờ, mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành, Chúa Kitô cũng đổ máu cách bí nhiệm, như Chiên Vượt qua bị sát tế để  “nhờ đó công cuộc cứu chuộc chúng ta đượcthực hiện”. ( x LG số 11)..Nghĩa là khi tham dự Thánh Lể Tạ Ơn hay cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự Bữa Ăn của Chúa và cùng với Chúa dâng mọi đau khổ, sướng vui của mỗi người chúng ta hiệp  thông với khổ nạn của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha đễ xin Người tha thứ mọi tội lỗi cho ta được ơn cứu chuộc là mục đích của Hy tế thập giá xưa và nay.

Đây cũng là phương cách thi hành chức vụ tư tế  thông thường  của người giáo dân ( common Priesrhood of the Laity) hiệp thông  với hàng tư tế thừa tác hay phẩm trật ( hierarchical or ministerial Sacerdos) trong việc cử hành và tham dự Thánh lễ Tạ Ơn.

Sau nữa, nhờ việc cử hành Thánh Lễ,  “chúng ta được kết hợp với Phụng vụ trên trời và được thấy trước sự sống vĩnh cữu sẽ diễn ra khi Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong mọi người.” như Thánh Phaolô đã dạy.( 1 Cor 15: 28) ( x SGLGHCG số 1326)

Tóm lại, Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất cho ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô vì được kết hợp mật thiết với Người ngay từ trong cuộc sống ở đời này trước khi được chiêm ngưỡng Chúa trên Nước Trời mai sau. Do đó, mọi tín hữu được mời gọi siêng năng chạy đến với Chúa trong bí tích cao trọng này đặc biệt trong năm Đức Tin đang được mở ra trong toàn Giáo Hội, vì đây cũng là cách sống đức tin cụ thể  và sống động nhất của mọi tín hữu Chúa Kitô trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, phi luân ngày nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN ĐẠO HIẾU
Đạo Hiếu Dưới Cái Nhìn Một Kitô Hữu

Một số bạn hữu của tôi thường phản ảnh suy tư của họ về quan niệm và cách thực hành đạo hiếu của người Công Giáo. Đại khái những ý kiến ấy cho rằng Kitô Giáo không cho thờ cúng tổ tiên, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc không giữ đạo hiếu, không hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Những gì được trình bày sau đây không mang tính cách đại diện cho nền tu đức và thần học về đức hiếu thảo Kitô Giáo, nhưng chỉ là một góc nhìn mang tính cách cá nhân với hy vọng trả lời phần nào những gì mà các bạn hữu này, cũng như ai đó đang muốn biết người Công Giáo suy nghĩ và hành động thế nào để giữ đạo hiếu của mình.

Trong 10 Giới Răn Thiên Chúa đã truyền cho Mai Sen có một giới răn trực tiếp nói về bổn phận và trách nhiệm con cái đối với cha mẹ. Đó là Giới Răn Thứ Bốn, còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.” Những ai mang danh Kitô hữu đều phải biết, hiểu, và thực hành giới răn này.

TỪ NIỀM TIN TÔN GIÁO

Để hiểu phần nào ý nghĩa của Giới Răn Thứ Bốn, cũng cần phải hiểu rằng đối với các Kitô hữu lời của Thiên Chúa là “lời hằng sống”, “lời ban sự sống đời đời” như Phêrô đã tuyên xưng khi Ông được Chúa Giêsu hỏi liệu Ông có bỏ Ngài khi một số môn đệ lúc bấy giờ đã có hành động bỏ Ngài vì bất đồng với lời giảng dậy của Ngài: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng tôi theo ai? Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Gioan 6:68).

Do đó, mệnh lệnh hay giới răn “thảo kính cha mẹ” không chỉ nói về một lối sống thực hành theo cái nhìn luân lý, đạo đức xã hội, hoặc như một truyền thống văn hóa xã hội. Lời Chúa, dưới ánh sáng mặc khải không những soi sáng tư tưởng, hướng dẫn hành động con người theo chiều hướng tự nhiên, mà còn mang giá trị quyết định cho số phận đời đời nữa. Hiểu như vậy, ta mới thấy rằng nếu một người con không thảo kính cha mẹ, thì người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Lý do, vì người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa.

Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về giới luật này dựa vào những lời mặc khải trong Thánh Kinh. Khởi đi từ Cựu Ước, Thiên Chúa đã mặc khải cho các tác giả để ghi lại thành lời những chân lý này và truyền lại cho các thế hệ để hiểu rằng chính Ngài đã ghi khắc giới luật ấy trong lòng con người và truyền lệnh cho tất cả những ai được sinh ra đều phải tôn kính và yêu mến cha mẹ mình. Đạo hiếu – Giới Răn Thứ Bốn.

Thật vậy, những ai có lòng kính mến Thiên Chúa, vâng giữ lề luật của Ngài, thì người ấy cũng cảm thấy việc thực hành Giới Răn Thứ Bốn là điều tự nhiên.  Hành động thảo hiếu với lòng yêu kính và tuân giữ giới luật Thiên Chúa sẽ dẫn đến tác động đạo đức và trở thành một nhân đức: Đức hiếu thảo. Đây là nhân đức qui chiếu về sự kính sợ và yêu mến Thiên Chúa: “Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.” Thờ phượng và tôn kính Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Hóa muôn loài, và yêu thương kính trọng cha mẹ là người được Ngài cho phép hợp tác vào công trình tạo dựng, trong đó có việc đem chúng ta từ hư vô đến hiện hữu.

Sở dĩ Thiên Chúa ban luật và bắt buộc con cái phải thảo kính cha mẹ, vì đã là luật thì hễ không tuân thủ là có tội, như luật lệ do con người thiết lập trong sinh hoạt xã hội. Ngài làm thế vì con người rất dễ sai sót và yếu đuối, chính vì vậy việc tỏ lòng yêu mến và phục vụ cha mẹ đã được ghi khắc thành luật nhằm nhắc nhở và hướng dẫn hành động của con người. Vì luật lệ được lập ra không phải là để áp đặt, trừng phạt, nhưng là để giúp con người sống đúng và đạo đức hơn.

Như vậy khi người Kitô hữu kính cha, yêu mẹ là chu toàn không những việc thờ phượng, kính mến Thiên Chúa mà còn phản ảnh hành động ấy, niềm tin ấy trước đối tượng thực tế là cha mẹ. Thánh Gioan khi nói về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người đã viết: “Kẻ mà không yêu được anh em mình là người mà nó nhìn thấy, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng nó không nhìn thấy được” (1 Gioan 4:20). Cũng một hình thức tương tự, nếu chúng ta không yêu mến, hiếu thảo cha mẹ là người đã sinh ra mình, ban cho mình sự sống thể lý đây thì làm sao ta có thể thảo hiếu, kính mến Thiên Chúa là Đấng vô hình đã tạo dựng, cứu độ, và thánh hóa chúng ta được. Ở đây ta có thể nhìn giới luật này với một lối nhìn mới bằng cách tự hỏi rằng: Liệu thân phận và số phận con người hôm nay và mai sau có liên quan gì đến Đạo Hiếu không? Liệu ta có thể bị bỏ vào hỏa ngục vì đã bất hiếu với cha mẹ không? Rất có thể, bởi vì trong 10 Giới Răn không thấy nói giới răn nào trọng hơn giới răn nào, điều này cho ta hiểu rằng cả 10 Giới Răn đều quan trọng và cần thiết như nhau để làm thành một vòng xích gắn bó chặt chẽ. Do đó, nếu một mắt xích nào lỏng lẻo, hoặc bị đứt lập tức sẽ làm cho cả vòng dây xích trở thành lỏng lẻo và thiếu hoàn hảo.

Tóm lại, đạo hiếu đối với người Kitô hữu không chỉ là một số hành động mang tính cách truyền thống, văn hóa hay đạo đức xã hội. Người Kitô hữu nhìn đạo hiếu bằng một lăng kính tâm linh mang ý nghĩa lề luật. Nó đem con người đến gần lại với Thiên Chúa qua việc thảo kính cha mẹ mình.

TRÊN CĂN BẢN THÁNH KINH

Như vừa đề cập ở trên, Thánh Kinh ghi lại những luật truyền của Thiên Chúa về đạo hiếu. Những điều được ghi chép trong Cựu Ước và Tân Ước, bao gồm những lời dậy dỗ về đức hiếu thảo, những phần thưởng và hình phạt dành cho những con cái thảo hiếu cũng như bất hiếu đối với cha mẹ.

- Bổn phận làm con đối với cha mẹ:

“Hỡi các con hãy nghe cha đây,

Hãy xử sự sao để được độ sinh.

Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,

quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.

Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm.

Và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.

Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái,

khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.

Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ,

Người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.

Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,

Nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.

Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm,

ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con,

Vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc,

Còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.

Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,

Vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!

Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang

lúc cha mình được tôn kính,

và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.

Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già,

Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi.

Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông,

chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.

Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng,

nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.

Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó,

và các tội con sẽ biến tan,

như sương muối biến ta lúc đẹp trời.

Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn,

Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó.

(Huấn Ca 3:1-16)

Cũng trong Huấn Ca, Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ:

“Hết lòng tôn trọng cha con;

Và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ.

Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra;

Làm sao con báo đền được điều họ cho con?”

(Huấn Ca 7:27-28)

Trong Sách Tôbia, Ngài đã dùng lời của Tôbia khuyên con Ông để nói với con người:

“Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người.” (Tôbia 4:3-4).

Và trong Tân Ước, Thánh Phaolô cũng đã nhắc lại và khẳng định rõ ràng, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Côlôsê 3:20).

Nổi bật nhất là gương của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa. Với thân phận con người và trong vai trò làm con, đã thực hành đạo hiếu qua hành động vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Luca 2:51). 

- Phần thưởng hiếu thảo:

Vì hiếu thảo mẹ cha là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên bất cứ những ai tuân theo điều Ngài truyền dạy, lập tức họ được hưởng những hoa trái do hành động của mình làm. Thiên Chúa đã nhân danh cha mẹ hứa thưởng cho những người con hiếu thảo ấy:

“Hãy kính trọng cha mẹ ngươi, ngõ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên phần đất Giavê Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi” (Xuất Hành 20:12).   

“Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa: vì đó là điều phải. Hãy thảo kính cha mẹ ngươi. Lệnh truyền ấy là lệnh truyền thứ nhất có kèm thêm lời hứa: Ngõ hầu ngươi được phúc và hưởng thọ trên đất” (Êphêsô 6:1-3).

“Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài. Phần mình, Giêsu lớn lên khẻo mạnh, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và con người” (Luca 2:51-52).

Nối kết ý nghĩa của hai câu Thánh Kinh trên, ta có thể hiểu rằng Chúa Giêsu lớn lên, khỏe mạnh, khôn ngoan và đầy ơn sủng Thiên Chúa, chính là vì Ngài là một người con có hiếu và vâng phục cha mẹ.

- Hình phạt bất hiếu:

Vì đạo hiếu chính là lề luật của Thiên Chúa, nên nếu có phần thưởng cho những ai tuân giữ, thì cũng có hình phạt cho những ai bất tuân. Sách Thánh đã ghi lại một số các hình phạt sau: 

“Con mắt khinh dể cha và miệt thị tuổi già của mẹ, bầy quạ nơi thác nước sẽ mổ thủng, và phượng hoàng sẽ cấu xé nó.” (Cách Ngôn 30:17)

“Kẻ bạc đãi cha và xua đuổi mẹ là đứa con bất xứng và ô trọc.” (Cách Ngôn 19:26).

“Và kẻ nào đánh đập cha mẹ mình sẽ phải chết. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ mình sẽ phải chết” (Xuất Hành 21:15, 17).

“Bởi chưng bất cứ ai mà nguyền rủa cha mẹ mình tất phải chết. Nó đã nguyền rủa cha mẹ nó: máu nó đổ xuống trên mình nó” (Lêvi 20:9).

“Kẻ rủa mẹ mình sẽ thấy đèn mình tắt lụi giữa tối tăm” (Cách Ngôn 20:20).

Không thực hành đạo hiếu đã là một lỗi lầm lớn đối với Thiên Chúa, nhưng nếu hành động một cách bôi bác, chiếu lệ cũng không trọn lề luật. Chúa Giêsu đã trả lời tư tưởng này của bọn luật sĩ và biệt phái:

“Còn các ông, các ông lại bảo: Kẻ nào nói với cha mẹ mình rằng: “Mọi điều tôi có thể giúp ông bà, tôi dâng làm của thánh”, thì không phải thảo kính cha mẹ nữa. Các ông nại cớ tập tục của các ông mà phế bỏ luật điều của Thiên Chúa. Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Việc chúng tôn kính Ta trở nên vô ích, những giáo lý và luật điều chúng dạy bảo đều là của loài người.” (Mátthêu 15:5-9).

NIỀM TIN ĐI VÀO HÀNH ĐỘNG

Vậy dưới cái nhìn tâm linh và căn cứ vào giới luật của Thiên Chúa, người Kitô hữu thực hành luật hiếu thảo như thế nào? Như đã trình bày trên, đạo hiếu đối với người Công Giáo không phải là một lời khuyên hay một gợi ý mà ai muốn giữ hay không tùy ý. Nó đã trở thành luật – một giới luật – gắn liền với niềm tin tôn giáo.

- Cha mẹ đã qua đời:

Để tuân phục và truyền dạy luật hiếu thảo, Giáo Hội Công Giáo đã đề ra những hướng dẫn rất thực tế nhằm giúp cho các tín hữu thực thi một cách đầy đủ Giới Răn Thứ Bốn; cách đặc biệt, đối với những cha mẹ đã qua đời. Những điểm thực hành này bao gồm: Tháng Các Linh Hồn. Lễ Các Thánh. Lễ Các Linh Hồn. Lễ Cầu Hồn. Lễ Giỗ. Thánh Lễ hằng ngày. Và Thánh Lễ Đầu Năm.

Để hiểu thêm về lý do của những thực hành trên, và sự cần thiết của nó liên quan đến Giới Răn Thứ Bốn, chúng ta cần biết thêm rằng, theo Giáo Lý Công Giáo tất cả những ai đã qua đời đều phải đi về hai nơi rất rõ rệt: Thiên Đàng hoặc hỏa ngục. Thiên Đàng nơi hạnh phúc và bình an đời đời do Thiên Chúa dành để cho những ai suốt đời sống và thực hành các giới luật của Ngài (trong đó có Giới Răn Thứ Bốn). Hỏa ngục dành cho Satan, các quỉ thần và những ai suốt đời sống trọng tội lỗi, bất tuân giới luật Ngài, làm điều ác cho tha nhân. Những người mà cho đến chết vẫn chối bỏ và phủ nhận tình thương của Thiên Chúa, nhận ơn tha thứ.

Trên con đường về Thiên Đàng, vẫn theo niềm tin Kitô Giáo thì ngọai trừ Đức Trinh Nữ Maria, Đấng được ơn đầu thai vô nhiễm tội, tràn đầy ơn Thiên Chúa, là người đã sinh ra Chúa Cứu Thế đã được về trời cả hồn lẫn xác sau khi lìa trần. Còn lại tất cả đều phải dừng lại ở một nơi để được thanh luyện hầu cho trong sạch, tinh tuyền trước khi vào vinh quang thiên quốc và chiêm ngắn dung nhan Chúa Trời. Nơi đó, gọi là Luyện Hình hay Luyện Tội.

Cũng theo niềm tin Kitô Giáo, thì sau khi đã chết, không ai có thể tự mình làm gì cho mình được, dù là một việc làm tốt rất nhỏ. Và do đó, không ai có thể tự cắt ngắn thời gian tinh luyện, nếu như không có người còn sống hy sinh, cầu nguyện, và làm việc ấy thay cho mình.

Từ xác tín trên, Giáo Hội đã dành để một tháng cho các tín hữu, nhất là con cái, cháu chắt, và các người thân trong gia đình cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã qua đời. Tháng đó là tháng 11 và được gọi là Tháng Các Linh Hồn. Trong suốt tháng này, con cái, cháu chắt, người thân sẽ xin lễ, cầu nguyện, và làm việc thiện để cầu cho các linh hồn người thân đã quá cố. Nổi bật nhất là Lễ Các Thánh (ngày 1 tháng 11), và Lễ Các Linh Hồn (ngày 2 tháng 11). 

Lễ Kính Các Thánh Nam Nữ hay Lễ Chư Thánh, là lễ để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa, chúc mừng cha mẹ, ông bà, tổ tiên những vị đã qua đời mà nay đang hưởng phúc trên nơi vĩnh hằng. Trong ngày này những người còn sống hướng lên những vị thánh của gia đình mừng vui với các ngài, đồng thời xin các ngài cầu bầu cho mình để cũng được sống đạo tốt lành theo gương các ngài.

Lễ Các Linh Hồn hay Lễ Các Đẳng. Con cái, cháu chắt, và người thân tham dự Thánh Lễ để cầu cho các ân nhân, cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã qua đời. Ra nghĩa trang viếng mộ, và sửa sang lại phần mộ với mục đích cám ơn và xin lỗi về những điều mình đã làm phiền muộn các ngài khi còn sống, ôn lại những hy sinh và những điều tổ tiên đã làm để noi theo, và tưởng nhớ đến các ngài.

Tiếp tới là Thánh Lễ An Táng ngày cha mẹ qua đời, và Lễ Giỗ kỷ niệm ngày các ngài qua đời.

Nhưng không phải chỉ có tháng 11, hoặc ngày cha mẹ qua đời hay các ngày giỗ, mọi ngày trong cuộc đời Kitô hữu, tất cả con cái, cháu chắt đều có cơ hội cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, và tổ tiên còn sống cũng như đã qua đời mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Trong Thánh Lễ, người con, người cháu nhớ đến và cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình bằng những lời mà Giáo Hội đã đặt vào miệng lưỡi linh mục, khi dâng lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho những tín hữu đã qua đời:

“Chúng con cũng xin Chúa thương cho ông bà, cha mẹ, anh chị em chúng con đã qua đời và tất cả những ai đã ly trần trong ơn nghĩa Chúa, được vào nước Chúa, nơi chúng con hy vọng sẽ tới, để cùng nhau tận hưởng vinh quang Chúa muôn đời, khi Chúa lau sạch nước mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Chúa là Thiên Chúa chúng con, thì muôn đời chúng con sẽ trở nên giống Chúa, và sẽ ca ngợi Chúa không cùng.” (Kinh Nguyện Thánh Thể III, Sách Lễ Giáo Dân, 1410).

Đó là lý do người Kitô hữu nhớ đến những người thân yêu, và cũng là lý do tại sao Kitô Giáo có truyền thống xin lễ cầu cho các linh hồn, nhất là linh hồn cha mẹ, ông bà, tổ tiên sau khi các vị này đã qua đời.  Người Kitô hữu tiếp tục làm như vậy vì không biết sự đền trả của người thân mình sẽ là bao lâu, và hoặc giả các vị đã siêu thoát thì những lời cầu ấy sẽ trợ giúp những tín hữu mà con cháu, hoặc người thân bỏ quên không nhớ tới.  Đức Tin Công Giáo gọi đây là mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Sự thông công này trở nên một thực hành nhằm củng cố đức tin, nâng đỡ các tín hữu thiếu may mắn, và đáp lại đạo hiếu mà mọi người cần phải thực hiện.

Vào dịp đầu năm mới, hình ảnh cha mẹ, ông bà, tổ tiên từ cái nhìn đạo hiếu dân tộc còn được tìm thấy qua Thánh Lễ Đầu Năm. Thánh Lễ dâng lên để cám ơn Thiên Chúa, Cha nhân lành, và cùng con người hòa nhập vào với thiên nhiên để tỏ lòng tôn kính và yêu thương cha mẹ. Ứng dụng niềm tin vào truyền thống văn hóa Việt Nam, ngày Đầu Năm Mới còn được gọi là ngày cảm tạ hồng ân Thiên Chúa, nhắc nhớ vai trò làm con của mọi người đối với Đấng Tạo Hóa, và đạo hiếu của người con đối với công đức sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Trước khi chúc tuổi thọ, dâng biếu quà cáp cho ông bà, cha mẹ trần gian, người Kitô hữu nâng lòng mình và lời chúc tụng mình lên Thiên Chúa, Cha toàn năng, và trong thánh lễ, dĩ nhiên cũng cầu xin cho cha mẹ, ông bà còn sống, đồng thời tưởng nhớ đến mọi người thân yêu đã quá vãng. Tất cả những đáp trả tâm linh ấy phải được thực hành trước, rồi mới đến hành động hiếu thảo bằng những tặng vật, quà cáp vật chất.

- Cha mẹ khi còn sống:…….

* Trọng kính vâng lời: Ðiều này áp dụng cả khi chúng ta đã khôn lớn. Hành động trọng kính và vâng lời là hành động của những người con, dù những người con ấy lúc này là bất cứ ai và ở vào tuổi tác nào. Người con có thể nghĩ và coi mình đã lớn, đã có danh phận và địa vị, nhưng trước mắt cha mẹ, người con vẫn là những cu Tý, cái Tẹo như hồi còn thơ trẻ, và vì thế cha mẹ vẫn luôn mong muốn và thấy mình hạnh phúc nếu con cái vâng lời, và trọng kính.  

* Giúp đỡ an ủi: Sự giúp đỡ không chỉ với vấn đề vật chất, mà còn cả về mặt tâm lý và tinh thần. Một lời nói, một cử chỉ, một cú điện thoại, một lần thăm viếng. Tâm lý cô đơn và trống vắng của tuổi già khiến các ngài rất dễ sầu tủi, do đó, sự hiện diện, thăm viếng, hỏi han của con cháu là một nhu cầu rất tâm lý của tuổi già cha mẹ. 

* Giữ gìn danh tiếng cho cha mẹ: Đây cũng là một trong 5 điều thuộc đạo hiếu của Nho Giáo. Người con được cho là bất hiếu nếu ăn ở bất lương, làm điều xấu xa để vì vậy mà cha mẹ bị khinh thường và nhục lây là những đứa con bất hiếu.

* Cầu nguyện cho cha mẹ: Không phải chỉ là ngày cha mẹ qua đời, mỗi năm một lần nhân ngày giỗ, hoặc trong Tháng Các Linh Hồn, mà mà là mọi ngày trong Thánh Lễ cũng như lời kinh nguyện của chúng ta.

* Nhắc nhớ về cội nguồn: Treo hình ảnh cha mẹ, ông bà, tổ tiên nơi trang nghiêm để con cháu biết mà hãnh diện về nguồn gốc của chúng. Những thế hệ đầu di dân vì mau chóng hội nhập vào dòng chính, nên phần lớn quên mất hoặc cố tình quên đi cội nguồn của mình. Nhưng con cháu thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba lại có khuynh hướng và nhu cầu tìm về cội nguồn và muốn biết tổ tiên mình là ai, từ đâu đến và vì lý do gì?

* Bảo tồn ngôn ngữ: Đối với những người Việt tha hương, bảo tồn ngôn ngữ cũng là một cách báo hiếu cha mẹ. Một số phụ huynh trẻ cho rằng cần phải để con em quên tiếng Việt và muốn con em mình nói tiếng Mỹ, tiếng Pháp, tiếng Đức… vì sợ rằng nói hai tiếng sẽ làm cho các em lẫn lộn và ảnh hưởng đến việc học. Tâm lý phát triển minh chứng ngược lại rằng các em nói được nhiều ngôn ngữ là những em thông minh và thành công hơn trong học vấn. Con cháu sẽ dễ dàng, thông cảm hơn cha mẹ, ông bà nếu mức độ cảm thông qua việc diễn tả bằng ngôn ngữ đạt tới mức cả hai đồng cảm được với nhau. Do đó, việc con cái duy trì được truyền thống và tinh thần văn hóa dân tộc trong đó có đạo hiếu cũng ảnh hưởng nhiều nếu chúng biết đọc, biết viết, và biết nói tiếng Việt.

KẾT LUẬN

Đạo Hiếu theo Kitô Giáo không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội. Nó còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dậy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Điều này cho thấy người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà căn bản nhất, đó là hành động này đặt trên niềm tin tôn giáo. Và một trong những tác dụng của niềm tin này là họ biết rằng: Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Trần Mỹ Duyệt
Nguồn: lamhong.org

1518    01-03-2013 20:08:34