Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Tin Vào Chúa Giê su Để Được Cứu Độ - tháng 01 năm 2013

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Tự Sắc Porta Fidei
  3. Tìm Hiểu Tự Sắc Porta Fidei
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Trang Linh Mục
  9. Trang Tu Sĩ
  10. Trang Sống Ơn Gọi
  11. Trang Thiếu Nhi
  12. Trang Giới Trẻ
  13. Trang Gia Đình
  14. Trang Giáo Lý Viên
  15. Sống Đẹp
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Hỏi Đáp Mục Vụ
  18. Một Chút Tâm Tình

LỜI CHỦ CHĂN

TOÀ GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2

Vĩnh Long

Ngày 29.12.2012

V/v Tin vào Chúa Giêsu Kitô để được cứu độ

Kính gởi :  Các Linh Mục,
                  Các Tu Sĩ,
                  Anh Chị Em giáo dân  Địa Phận Vĩnh Long

"Thiên Chúa đã yêu thương  thế gian  đến đỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Người thì khỏi phải hư đi, nhưng được co sự sống đời đời" (Gioan 3,16)

1.  Ai đã có dịp đến các bệnh viện vào buổi sáng, đều  thấy cảnh người ta xếp hàng chờ được khám bệnh, có người phải đến thật sớm vì không muốn mất nhiều thời gian chờ đợi.

Và cũng tương tự như thế, đám đông dân chúng từ các làng mạc của người Do Thái lũ lượt đi theo Chúa Giêsu, "đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đử thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ "  (Mt 4,24).

Con người thời nay cũng như con người thời xưa, mang một tâm trạng giống nhau, họ muốn thoát khỏi mọi thống khổ, bệnh tật; kẻ  thì trông vào khoa học và tài năng chữa trị của lương y, người  thì mong đợi một phép mầu do quyền năng của Thiên Chúa.

2.  Khi chữa cho người bị bại liệt ở Capharnaum, Chúa Giêsu tỏ cho dân chúng biết: Người là Thiên Chúa, là Đấng có quyền tha tội ( Mc 2,3-12; Mt 9,2-8; Lc 5,18-26).

Khi cho Lazarô đã chết và được mai táng trong mồ bốn ngày, được sống lại, Chúa Giêsu cho thấy; Người có quyền làm cho kẻ chết sống lại: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống" (Gioan 11,25).

Giảng cho dân chúng sau phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi sống 5.000 người trong hoang địa, Chúa Giêsu quả quyết: Ngày xưa  Môi sen đã cho cha ông của họ ăn manna, còn chính Người sẽ ban bánh bởi trời, là Thịt Máu Mình làm lương thực đem lại sự sống đời đời và bảo đảm sự sống lại: "Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết"  (Gioan 6,54).

3. Chúa Giêsu làm phép lạ để khơi lên niềm tin, để củng cố niềm tin:

Tại Capharnaum, người ta khiêng kẻ bại liệt đến, tìm cách dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống, Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Nầy con, tội của con đã được tha ... Người ta xầm xì .. Sau đó Người nói : để các ông biết; ở dưới đất nầy,Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà  (Mc2,5.10-11).

Cũng tại Capharnaum, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa cho tên đầy tớ bị bại liệt nằm ở nhà, với những lời lẽ khẩn thiết va khiêm tốn: Thưa Ngài, tôi chẳng đángNgài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Chúa Giêsu nói với những kẻ đi theo Người: Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế. Rồi Người nói với viên sĩ quan : Ông cứ về đi! Ông tin như thế nào thì được như vậy! Và ngay giờ đó người đầy tớ được khỏi bệnh  (Mt 8,8.10.13).

Chúa cũng khen người đàn bà bị băng huyết: Nầy con, hãy yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con. Và ngay từ giờ ấy, bà đã được cứu chữa  (Mt 9, 22).

Và còn nhiều lần khác Chúa Giêsu  làm những dấu lạ cho những người có lòng tin vào Chúa, như trường hợp con gái ông Gia-ia, trưởng hội đường, đã chết nhưng được Người cho sống lại (Lc 8,41-42. 49-55); lần khác, Chúa chữa cho người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh: Chúa nói với cha của kẻ bị quỷ ám: Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin. Và người cha đáp lại: Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi (Mc 9,23-24)  .

Chúa Giêsu hỏi người mù từ thuở mới sinh đã được Người chữa lành: Anh có tin vào Con Người không? Thưa Ngài, tôi tin (x. Gioan 9, 35-38).

Phải tin để sống. Ngày hôm nay, giữa xã hội văn minh vật chất, điều đó càng đúng hon nữa. Người tin vào Chúa Giêsu sẽ thấy mình cần đến Bí tích Giải Tội để được tha thứ và được ơn Chúa nâng đỡ;  cần đến Bí Tích Thánh Thể để được sức mạnh chống lại mọi cám dỗ,  và, nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể,  thêm thánh đức, thêm lòng bác ái với tha nhân.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
   Giám Mục của Anh Chị Em

TỰ SẮC PORTA FIDEI

CHỦ ĐỀ: TIN VÀO ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ

Chúng ta không thể chấp nhận để muối nhạt đi và ánh sáng bị che khuất (x. Mt 5, 13-16). Con người ngày nay, cũng giống như người phụ nữ Samaria, có thể cũng lại cảm thấy cần phải đến bên giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy tin vào Người và múc lấy nước hằng sống từ Người trào ra (x. Ga 4, 14). Chúng ta phải tìm lại niềm vui thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Hằng Sống, được ban cho để nâng đỡ tất cả những ai làm môn đệ Chúa (x. Ga 6, 51). Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ trong thời đại chúng ta: "Các con hãy làm việc không phải để được của ăn hay hư nát, nhưng để được lương thực thường tồn" (Ga 6, 27). Câu hỏi đã được mọi người nghe Chúa nói đặt ra, cũng là câu hỏi của chúng ta ngày nay: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" (Ga 6, 28). Chúng ta biết Chúa Giêsu trả lời ra sao: "Việc Thiên Chúa muốn là: Anh em hãy tin vào Đấng mà Người đã sai đến" (Ga 6, 29). Vậy, tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ (Porta Fidei,  3).

TÌM HIỂU TỰ SẮC PORTA FIDEI

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.

Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh". Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.

Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân.  Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".

Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".

Chính Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta, chứ không phải là một ai khác. Mội người cần chân thành sám hối với Chúa để được ơn tha thứ, giao hoà với Chúa và với nhau.

Trong Tự Sắc Porta Fidei, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khẳng định: "tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn để chúng ta đạt tới ơn cứu độ"  (Porta Fidei,  3).

Vậy đức tin là gì và tại sao phải tin vào Đức Giêsu Kitô chúng ta mới có thể được cứu độ ?

ĐTC Bênêđictô XVI: "Đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, nhưng cũng là một hành động sâu xa của con người".   Đức tin không đơn thuần là một sự đồng ý của trí tuệ con người với những chân lý cụ thể của Thiên Chúa.  Đó là một hành động mà qua đó tôi tự do phó thác chính mình cho một Thiên Chúa, Đấng là Cha tôi và yêu thương tôi; là gắn bó với "Ngài" là Đấng ban cho tôi niềm hy vọng và tin tưởng.  Và nhờ đó mà chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô, đã cho chúng ta thấy dung nhan Ngài và thực sự trở nên gần gũi mỗi người chúng ta. Đó là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa Đấng nâng đỡ và hứa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đó cũng là tín thác vào Thiên Chúa với thái độ của một trẻ nhỏ, biết rõ rằng tất cả những khó khăn, tất cả những vấn đề của mình đều được an toàn trong "Ngài" của người mẹ.

Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói rõ rằng: "Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những sự trợ giúp bề trong của Chúa Thánh Thần.  Nhưng không kém đúng rằng tin là một hành động đích thực của con người. Nó không ngược lại với sự tự do hay lý trí của con người" (số 154).  (Bênêđictô XVI, Bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin ,  24.10.2012).

Như vậy, từ ngữ đức tin có một nội dung rất rộng. Trước hết đó là ân sủng Thiên Chúa ban để dẫn đưa con người đến với Đức Giêsu. Rồi từ sự nhận biết này người ta mới có thể đi đến quyết định đặt tất cả hy vọng và trông cậy vào Đức Giêsu Kitô và can đảm bước theo Người với tất cả lòng yêu mến.

Đức tin là bước thiết yếu trước hết để hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô. Tổ phụ Abraham và Mẹ Maria đã tin tưởng và đặt mọi hy vọng nơi Thiên Chúa như thế nào, thì người muốn thông phần ơn cứu độ cũng phải tin và hy vọng như vậy. Đức tin bao hàm đức cậy và dẫn đến việc thực thi đức mến: "Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta và Cha Ta sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến ở với nó." (Ga 14,23).  Ai tin vào Đức Giêsu Kitô nghĩa là nghĩa là yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Người như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (x. Đnl 6,4-5).  Bởi vì "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16)

Nhưng Chúa Giêsu là ai?

Trong khi hầu hết các tôn giáo đều hiểu Đức Giêsu là một vị tôn sư đáng kính hay một vị tiên tri đã từng sinh sống tại xứ Palestine cách đây hơn 2000 năm thì điểm độc đáo của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con hằng hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo, "Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (Mc 1,11). Ngài chính là Thiên Chúa đã xuống thế làm người (x. 1Ga 4,2) để cứu chuộc loài người chúng ta (x. Cv 4,12). Đức Giêsu chính là Con Một của Thiên Chúa Cha: "Chưa ai đã từng thấy Thiên Chúa; duy Người Con một là Đấng ở trong lòng Cha mới là vị tỏ Cha ra" (Jn.1:18; x. Mt.11:27). Nơi Ngài công trình mạc khải của Thiên Chúa được trọn hảo, hoàn tất: "Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta trong quá khứ bằng nhiều cách thức khác nhau; nhưng trong những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta nơi Người Con, Đấng Ngài định cho thừa hưởng tất cả mọi sự, và bởi Đấng này Ngài đã dựng nên thế gian" (Dth1,1-2;). Ngài là con đường đưa ta đến với Chúa Cha: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" ( Ga 14,6).

Tại sao chúng ta cần được Chúa cứu chuộc?

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết mọi người đều có tội, mà tội thì làm trái với bản chất thánh thiện và hoàn hảo của Thiên Chúa. Hậu quả của tội đưa đến cái chết: "Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa" (Rm 3,23). Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối, vô cùng, do đó, tội chống lại Thiên Chúa phải gánh lấy hình phạt vô hạn là sự chết đời đời (x.Ga 3,18.36). Do đó, chúng ta cần được Thiên Chúa cứu chuộc.

Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nào?

Con người là tạo vật, hữu hạn lại phạm tội chống lại Thiên Chúa là Tạo Hoá, vô cùng. Do đó, để đền tội con người cho cân xứng, Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Người - ngang hàng với Thiên Chúa - là Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, và sống lại, đền thay tội cho chúng ta (x. 2 Cr 5,21) "Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa." (1Ga 2,2).

Tại sao  phải tin vào Đức Giêsu Kitô mới có thể được cứu độ?

Vì chỉ có Đức Giêsu là Đấng duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho loài người. Như vậy chân lý cơ bản liên quan đến sự cứu độ của mỗi cá nhân chính là sự hiệp nhất với Đức Giêsu để được cứu độ. Đức Giêsu đã hoàn tất việc cứu độ loài người, nhưng ơn cứu độ của mỗi người lại tuỳ thuộc vào việc đón nhận Đức Giêsu của từng người. Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội sơ khai đã tuyên xưng niềm tin này: "Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ." (Cv 4,12)

Mỗi người cần chân thành thống hối ăn năn,  đón nhận Phép Giải tội để được ơn tha thứ, đón nhận ơn cứu độ và nuôi dưỡng tâm hồn bằng Mình Máu Thánh Chúa.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa đã ban Con Ngài giáng trần, để ai tin vào Người Con ấy, sẽ được sống muôn đời. Chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế, nhưng hãy xin ơn nâng đỡ đức tin. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: "Các con hãy đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ai tin thì làm phép Rửa cho họ". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, vừa tin thật vững vàng vào Đức Giêsu Kitô, vừa thông truyền đức tin ấy cho mọi người.

2. Chúa phán: "Các con hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, và tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, dầu phải chịu nhiều gian nan khốn khó vì đức tin.

3. Chúa phán: "Việc Thiên Chúa muốn là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu biết diễn tả đức tin mình bằng việc vâng theo Lời Chúa dạy, và cử hành việc thờ phượng Chúa.

4. Chúa phán: "Tôma, vì đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết củng cố và gia tăng đức tin nhờ việc thờ phượng Chúa và lãnh các bí tích.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con tin vào Đức Giêsu Kitô mà được cứu rỗi. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con tin thật vững vàng những gì Con Chúa dạy bảo, và diễn tả đức tin ấy bằng đời sống trong Chúa Giêsu Kitô, Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

ĐỨC TIN: CÁNH CỬA MỞ RA MUÔN ƠN THÁNH

Đọc lại các sách Tin mừng, ta thường bắt gặp câu này khi Chúa Giêsu làm phép lạ: "Lòng tin của con đã cứu chữa con". Sao Chúa Giêsu lại nói câu này, chẳng phải Chúa dùng quyền năng của Chúa làm cho người ta lành bệnh sao? Chẳng phải vì tình thương mà Chúa đã giải thoát con người khỏi những đau khổ phần hồn cũng như phần xác sao? Và lòng tin là gì mà có sức mạnh cứu chữa người ta như vậy? Để hiểu được Tin là gì và vì sao lòng tin có sức mạnh cao cả như vậy, ta cần nhìn lại bối cảnh của một số phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện.

Trong Mc 5, 21 - 43 thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và con gái của Ông Giaia. Trong 2 phép lạ này Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của người đàn bà cũng nhưng lòng tin của ông Giaia, và Chúa kêu mời "đừng sợ gì cả, chỉ cần tin thôi". Vậy tin là gì? Có nhiều cách định nghĩa nhưng ở đây trên khía cạnh này ta thấy tin là nhận biết Chúa, là xác tín Chúa làm được mọi sự, là thực hiện theo ý Chúa, là để Chúa toàn quyền hành động trong cuộc đời mình. Người đàn bà tin Chúa sẽ cứu chữa bà khỏi đau khổ mà bà đang chịu nên bà đã hành động theo niềm tin dù chỉ là đụng vào gấu áo của Chúa và Chúa đã không để bà phải thất vọng. Còn ông Giaia tin Chúa có quyền năng làm cho con ông sống lại và ông đã thể hiện đức tin của mình dù bị thử thách bởi những yếu tố khách quan bên ngoài.

Cũng vậy trong Ga 9, 1 - 41 thuật lại việc Chúa Giêsu chữa anh mù tù lúc mới sinh ta lại thấy cách thể hiện niềm tin của anh mù theo một cách khác. Với anh tin là làm theo lời Chúa dạy, Chúa Giêsu bảo anh làm gì thì anh đã thực hiện đúng theo như lời Chúa dạy, và đang khi anh làm những việc ấy thì phép lạ đã xảy ra làm cho anh được sáng mắt. Chính lòng tin vào Chúa Giêsu là thực hiện lời Chúa đã cứu chữa anh.

Chúng ta đang sống trong năm đức tin, thời gian Giáo hội mời gọi các tín hữu khám phá lại niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Thiết tưởng cũng không thừa khi ta nhìn lại đức tin của Tổ phụ Apraham và của Đức Mẹ Maria. Những con người này thật ra cũng là những con người bình thường nếu không muốn nói là tầm thường nếu họ không tin tưởng vào Chúa.

Với Apraham, tin vào Thiên Chúa đối với ông là biết Chúa và thực hiện ý muốn của Người. Từ một người đang an ổn nơi Thành Ur, tin vào Chúa là bỏ mọi sự đi đến chỗ Thiên Chúa muốn, tin vào Thiên Chúa là làm theo ý Chúa đến độ sát tế con trai duy nhất của mình theo ý Chúa. Nhờ có một lòng tin mạnh mẽ Apraham trở thành "cha của mọi kẻ tin", cha của mọi dân tộc, là mẫu gương của những kẻ tin, cho con cháu muôn ngàn đời sau học hỏi.

Với Mẹ Maria, tin vào Thiên Chúa là cộng tác với Người, là âm thầm tìm hiểu ý Chúa rồi thực hiện lời Người. Một cô thôn nữ bình thường được mời gọi mang thai và sinh con một cách lạ thường, từ một hoàn cảnh an ổn bình dị được mời gọi đi vào sự phiêu lưu của niềm tin... nhưng trong tất cả mọi sự Mẹ đã tin. Tin nên Mẹ thấy mọi sự là có thể cho dù với người đời là không thể, tin nên Mẹ thấy mọi sự là sáng tỏ cho dù dưới con mắt người đời là đêm tối... và vì tin nên Mẹ được nên cao trọng nhờ cộng tác trong công trình cứu độ.

Như vậy, ta có thể khẳng định mà không sợ võ đoán rằng, đức tin là cánh cửa mở muôn ơn thánh của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân từ đã ban muôn ơn thánh. Nhưng để đón nhận được ơn thánh Chúa thì con người chúng ta cần phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa là biết Chúa là Cha tình yêu, là biết Chúa đang hiện diện trong cuộc đời, là biết Chúa có thể thực hiện những điều mà chúng ta không thể. Tin còn là thực hiện ý Chúa, là để Chúa dùng mình như khí cụ ban ơn thánh, là trở nên cánh tay của Chúa nơi trần gian.

Lạy Chúa Giêsu, ơn cao cả nhất mà Chúa ban cho trần gian là ơn cứu độ, là cho chúng con được làm con cái Chúa, là cho chúng con được sống mãi trong ân sủng của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết tin tưởng vào Chúa và năng thực hiện Lời Chúa để ơn thánh và tình thương Chúa hằng tuôn đổ trên tất cả chúng con.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 24. THƯ THỨ HAI CỦA THÁNH PHAOLÔ GỬI CHO TIMÔTHÊÔ (2 Tim)

1/ Lá thư được gửi cho ai?

Thư gửi cho Timôthêô, "người con chí ái" (1, 2).

2/ Thánh Phaolô viết thư này nhằm mục đích nào?

Phaolô viết thư này để khích lệ Timôthêô hãy đứng vững trong việc rao giảng Tin mừng dù có gặp những chống đối, khước từ (4, 1-5); vì chính Tin mừng dù có gặp những chán chường (1, 6-8) khi thấy thầy mình là Phaolô đang bị tù đày và giờ chết có lẽ cũng gần kề (4, 6-8), nên lá thư tựa bức tâm thư giã biệt, nhưng với niềm tự hào về hồng phúc được rao giảng Tin mừng dẫu có bị xiềng xích về thể xác "nhưng lời Thiên Chúa không hề bị xiềng xích" (2, 9).

3/ Đâu là những đặc điểm của người tôi tớ Thiên Chúa?

 Những đặc điểm của người tôi tớ Thiên Chúa là:

   - "Người tôi tớ Chúa không nên gây hấn bao giờ, nhưng hoà nhã với mọi người, biết dạy dỗ, biết cam chịu thử thách dãi dầu, nhã nhặn ngay cả với người chống đối". (2, 24-25).

   - "Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy ứng phó lúc thuận lợi cũng như nghịch cảnh, hãy hết lòng nhẫn nại, chủ tâm giáo huấn mà sửa trách, khuyên bảo" (4, 2).

   - "Riêng phần con hãy cam chịu gian nan thử thách, hãy chuyên lo rao giảng Tin mừng, hãy hoàn thành sứ vụ của con"  (4, 5).

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trao cho chúng con sứ mạng truyền giáo. Xin cho chúng con đồng cảm với Chúa và dám dấn thân trọn vẹn cho sứ mạng này. Amen

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

LINH MỤC QUẢN XỨ THEO:CỒNG ĐỒNG VAT.II VÀ BỘ GIÁO LUẬT MỚI (tt)

7. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với giáo dân

Đối với đoàn chiên trong giáo xứ, Bộ Giáo Luật đưa ra một chương trình mục vụ rất nặng nề cho linh mục quản xứ (điều 529): "Để nhiệt thành chu toàn trách nhiệm chủ chăn, cha sở phải cố gắng tìm hiểu các tín hữu đã được trao cho ngài coi sóc; ngài cũng  phải đi thăm các gia đình, chia sẻ những nỗi lo âu, nhất là những ưu tư và tang tóc của các tín hữu, bằng cách nâng đỡ họ trong Chúa và sửa dạy họ cách khôn khéo, nếu họ sai sót cách nào đó; ngài phải giúp đỡ những người đau yếu, nhất là những người đang hấp hối với một lòng bác ái vô biên, bằng ân cần ban các bí tích tăng sức cho họ và phó dâng linh hồn họ cho Thiên Chúa; ngài phải đặc biệt quan tâm đến những người nghèo, những người bệnh tật, những người cô đơn, những người tha hương, cũng như đang gặp những khó khăn đặc biệt; ngài cũng phải ra sức nâng đỡ các bậc vợ chồng và các bậc cha mẹ trong việc chu toàn bỏn phận riêng của họ và phải cổ vũ sự thăng tiến đời sống Kitô giáo trong gia đình" (đ.529§1).

Ngoài ra, ngài hãy nhìn nhận và giúp đỡ vai trò của các giáo dân trong sứ mạng của họ đối với Giáo Hội bằng cách nâng đỡ các hội đoàn liêng liêng của họ; ngài hãy làm sao cho giáo dân biết rằng họ cũng là phần tử của Giáo Phận và của Giáo Hội toàn cầu, vì thế, hãy tìm cách dạy họ thông hiệp với Giáo Phận và Giáo Hội toàn cầu (x.đ.529§2).

Những điều vừa nói trên đây của Bộ Giáo-Luật (điều 529) đã được Công Đồng Vatican II đề cập đến một cách đặc biệt trong các chương nói về giáo dân (Ánh Sáng Muôn Dân, IV), nói về sự kêu gọi mọi người nên thánh trong Giáo-Hội, nói về hôn nhân và gia đình (Vui Mừng và Hy Vọng, II). Những điều nầy nói về giáo xứ phải thông hiệp với Giáo phận và Giáo-Hội: trong giáo xứ, "linh mục, tu sĩ và giáo dân hãy chung nhau làm phát triển đời sống Dân Chúa dưới sự hướng dẫn của Đức Giám Mục riêng của mình" và phải làm sao để "cảm thông và sống với toàn thể Giáo Hội".

Linh mục quản xứ hãy yêu thương giáo dân, nhất là những giáo dân chống đối mình. Monêta, một kẻ nghịch đạo, dùng một tên giả để viết một cuốn sách chống lại Đức Giám Mục Sarto ở Mantova. Ông ta bị lột mặt nạ. Giáo dân đòi kiện, nhưng Đức Cha Sarto dịu dàng nói: "Ông ta cần lời cầu nguyện hơn là hình phạt ". Và khi biết được Monêta bị phá sản, Đức Cha Sarto nhờ một bà đạo đức đem đến giúp ông ta một số tiền.

Linh mục quản xứ hãy biết ơn giáo dân vì có rất nhiều người trong họ, ngày đêm, cầu nguyện và hy sinh cho ngài. Thường anh em linh mục chúng ta nhấn mạnh nhiều đến việc chủ chăn hy sinh cho đoàn chiên, mà không, hoặc ít đề cập đến việc đoàn chiên hy sinh cho chủ chăn. Tại Ấn-Độ, cha Planchard đau dịch tả. Ông Sossai lo cho cha lành. Cha tiếp mắc bệnh thương hàn. Ông Sossai lo cho cha lành. Cha tiếp mắc bệnh đậu mùa. Ông Sossai lo cho cha lành. Và Sossai lây bệnh nguy hiểm của cha. Trước khi hấp hối, ông Sossai sung sướng nói: "Cha sống được là tuyệt vì cha cần cho các linh hồn".

8. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với ơn gọi linh mục

Công Đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật mới kêu gọi tất cả cộng đoàn kitô-hữu phải ấp ủ và nuôi dưỡng các ơn gọi để có thể đáp ứng những nhu cầu cần thiết của thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo-Hội. Theo Công Đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật, đây là bổn phận đặc biệt của các gia đình công giáo, của các nhà giáo dục, và cách riêng, là bổn phận của các linh mục, nhất là các linh mục quản xứ (điều 233,1).

Chính gương tốt của linh mục trong cuộc đời tận hiến hy sinh của mình, gieo mầm ơn gọi.

Cuối Thế chiến thứ nhứt, trong một trường tiểu học ở Bỉ, giáo viên ra một đề bài: "Khi lớn lên, em sẽ làm gì? ". Trong bài trả lời của mình, một em nhỏ viết: "Khi lớn lên, em muốn trở thành linh mục."

Muốn biết vì sao một em tiểu học còn nhỏ, lại có một ý tưởng lạ lùng như thế, giáo viên hỏi lý do. Em nhỏ đơn sơ cho biết: "Khi cha em đi lính, mẹ em ở nhà không có gì ăn. Một ngày kia, mẹ em, em và em em quá đói. Cha sở già đến thăm nhà em, mang tặng mấy ổ bánh mì. Nhờ đó, mẹ em, em và em em khỏi chết đói. Vậy khi lớn lên, em cũng muốn làm linh mục để mang bánh lại cho những ai đói."

Linh mục luôn thao thức về ơn gọi linh mục, nhưng linh mục không bao giờ ngã lòng về ơn gọi linh mục, vì đây là ơn Chúa gọi, chứ không phải là ơn người đời gọi, vì đây là ơn thiên triệu, chứ không phải là ơn nhân triệu. Chúa quan phòng ơn thiên triệu một cách rất diệu kỳ!

Năm 1852, cha Duffo ở New Orleans, Hoa Kỳ, đi vào tiệm bán đồ, gặp một thanh niên 17 tuổi đang đứng bán. Mua đồ xong, cha hỏi anh nầy một câu bất ngờ: "Anh muốn làm linh mục không?" - "Thưa cha, con biết làm sao được ? Con lo giúp việc đây suốt ngày. Con không rãnh được chút nào hết." - "Nhưng ban đêm, con đến, cha dạy cho.".

Thanh niên đó, sau nầy trở thành Linh mục, trở thành Giám Mục, trở thành Hồng Y Tổng Giám Mục Baltimore, với danh hiệu James Gibbons, được toàn thế giới biết tiếng.

Ơn Chúa gọi thật lạ lùng! Và hạnh phúc cho ai, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm cho Giáo Hội có thêm một vài kẻ đi chinh phục linh hồn người ta!

9. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với sổ sách và tài liệu trong giáo xứ

Linh mục quản xứ nào cũng phải gìn giữ sổ sách và các tài liệu trong giáo xứ của mình cho thật tử tế (x. đ. 535).

10. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với vấn đề cư trú

Linh mục quản xứ bắt buộc phải ở trong nhà cha sở, bên cạnh nhà thờ, trừ trường hợp đặc biệt.

Mỗi năm, linh mục quản xứ được phép vắng mặt một tháng để đi nghỉ, hoặc vắng một tháng liên tục, hoặc vắng đứt khoảng.

Trường hợp vắng mặt quá một tuần, linh mục quản xứ cần phải tin cho Đấng Bản Quyền biết (điều 533,2).

Bồi bổ năng lượng, phục hồi năng lượng, là điều rất cần thiết cho anh em linh mục quản xứ chúng ta. Chúng ta hãy đi nghỉ hằng năm để sức khỏe được gia tăng theo ý Giáo Hội.

11. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với pháp luật

Linh mục quản xứ là vị đại diện chính thức của giáo xứ trước pháp luật (điều 532).

Giáo Hội là Mẹ, Mẹ đặc biệt của linh mục.

Những gì cha mẹ đưa ra, người con hiếu thảo nào cũng vui lòng tuân giữ với tâm tình yêu mến.

Hơn ai hết, linh mục quản xứ tuân giữ Giáo Luật với lòng yêu mến Giáo Hội vì lý tưởng của linh mục là làm sao, khi sống, thì sống cho Giáo Hội, và khi chết, thì được chết trong lòng Giáo Hội.

http://tonggiaophanhue.net

TRANG LINH MỤC

Tản Mạn Ngày Đầu Năm

Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra trong những tháng ngày sắp tới trong năm 2013! Nhưng có một điều chúng ta biết và tin chắc rằng: Chúa Giêsu luôn yêu thương chúng ta. Ngài dùng Lời và Mình Máu Ngài để nuôi sống hướng dẫn chúng ta theo thánh ý Ngài.

Sống trong một thế giới vật chất, người ta lo hưởng thụ, tiêu thụ và sống ích kỷ, nhưng là người của Chúa chúng ta ý thức mình không thuộc về thế gian này, Chúa Giêsu đã nói như  thế: "Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con đây không thuộc về thế gian"  (Ga 17,16). Vậy nếu chúng ta không thuộc về thế gian này thì mọi nỗ lực khả năng thời giờ trong năm mới chúng ta sẽ đầu tư vào đâu? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta: "Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh." (Ga 6,27a)

Trong năm mới này có nhiều việc mà tôi sẽ phải làm: Làm lễ, đọc kinh,cầu nguyện, dạy giáo lý, xây dựng những công trình, tổ chức những buổi sinh hoạt. v.v... Nhưng điều quan trọng là những việc tôi làm, cộng với những lao nhọc mồ hôi  của tôi đổ ra sẽ còn lại gì và cho giá trị nào? Khi tôi xác định đâu là giá trị đích thực tôi sẽ sống cho những giá trị đó. Khi tôi đặt giá trị sai, tôi sẽ phải hối tiếc về những gì mình làm bởi vì sẽ chẳng còn lại gì cho tôi, như người ta nói: Dã tràng xe cát biển đông. Nhọc nhằn mà chẳng nên công nỗi gì.

Mỗi ngày khi bắt tay vào việc, tôi nên tự hỏi mình: Tôi đang chạy theo điều gì? Và không chỉ một ngày, một năm mà cuối cuộc đời tôi sẽ quyết định chạy theo giá trị nào, hay hư nát, hay tồn tại mãi? Cách đây không lâu, khi tham dự lễ an táng, tôi nghe cha chủ tế nói về một người như sau: Về vật chất ông chẳng có gì để lại, nhưng ông có đức tin vững mạnh, có tình thương đối với gia đình, sự tận tụy lo cho Giáo hội . Ông thực sự là một anh hùng. Còn tôi, khi nằm xuống người ta sẽ nói gì về tôi và những việc làm của tôi.

Khi xác định được giá trị của đời sống, điều còn lại là tôi phải làm gì để đạt được giá trị đó? Chúa Giêsu chỉ cho tôi: "Hãy tin vào Đấng mà Chúa Cha sai đến" (Ga 6,29). Tin vào Chúa là đi theo Chúa. Đi theo Chúa là nói lên sự quyết tâm cam kết sống chết với Chúa , là thể hiện Chúa trong mọi khía cạnh đời sống chúng ta. Đi theo Chúa không chỉ bằng cố gắng nỗ lực của mình mà chủ yếu nhờ vào sự sống của Chúa trao ban đặc biệt qua Bí tích Thánh Thể, để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống không còn phải là tôi sống , nhưng là Chúa Kytô sống trong tôi. Có Chúa sống trong tôi, tôi sẽ mặc lấy những tâm tình của Chúa, để làm và chỉ làm những gì Chúa muốn mà thôi.

Đêm giao thừa, tôi nhận được một tin nhắn với nội dung: Tạm biệt năm cũ, chia tay điều xấu. Đón chào năm mới, hoan nghênh điều hay. Đối với tôi cái cũ và xấu là những gì hay hư nát; Cái mới và hay là những gì còn tồn tại mãi, mà cùng với ơn Chúa tôi quyết tâm thực hiện. Xin cảm tạ Chúa về chuỗi ngày đã qua và dâng cho Ngài tương lai ngày mai.

TRANG TU SĨ

CHỌN CHÚA GIÊSU LÀM ĐIỂM TỰA

Sống trong cuộc sống con người phải bôn ba, bươn chải và vật lộn với những đòi hỏi của nhu cầu bản năng. Có lẽ vì thế mà nhiều lúc con người nói chung và cách riêng với người trẻ cảm thấy choáng ngợp và mệt mỏi chán chướng. Những lúc đó họ rất cần được có một cái gì đó hay một ai đó làm chỗ dựa cho đời sống tinh thần của họ.

Với người không đức tin, có thể họ sẽ tìm đến âm nhạc hay một người lý tưởng nào đó. Đặc biệt với người trẻ Công giáo ta được mời gọi tìm và tin vào Chúa Giêsu. Vì chỉ có Người mới là điểm tựa chắc chắn nhất. Cảm nhận được điều ấy nên nhạc sỹ  N/A đã sáng tác nên bài hát sinh hoạt giới trẻ với tựa đề "Điểm tựa Giêsu". Trong bài hát này có lời: "...Tìm nơi Giêsu điểm tựa cho mỗi chúng ta. Tìm nơi Giêsu vài lời nâng bỗng chúng ta lên cao..."

Tin vào Chúa Giêsu để ta được bình an hạnh phúc. Tin vào Chúa Giêsu để ta được giải thoát khỏi những lo âu phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày. Và nhất là tin vào Chúa Giêsu để ta được sống và sống dồi dào.

Tìm trong Tin mừng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nhiều lần mạc khải về mình để mời gọi ta đến với Người và tin vào Người: "Thầy là đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" ( Ga 14, 6   ) ; "Ta là Ánh Sáng thế gian, ai tin vào Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 8, 12) Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống ai ăn Bánh này sẽ được sống đời đời ( Ga 6, 51 - 52). Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10).

Quả thật, Chúa Giêsu chính là điểm tựa cần thiết nhất cho đời sống của ta. Người là đối tượng duy nhất của niềm tin kitô giáo của ta. Vậy còn gì phải ngại ngùng và chần chờ gì nữa. Bạn và tôi hãy quyết tâm chọn Chúa Giêsu làm điểm tựa cho đời sống của mình. Chọn Chúa để rồi mỗi ngày ta bước theo sát gót chân Người. Chọn Chúa để rồi mỗi ngày ta đi theo con đường Người đã đi. Chọn Chúa để rồi mỗi ngày ta làm theo những sự hướng dẫn của Người. Trên hết và trước hết hãy tin trọn vẹn vào Chúa để ta được cứu độ.

ĐỨC TIN - MÓN QUÀ MÙA GIÁNG SINH

Mỗi mùa Giáng Sinh qua đi đều để lại trong tôi một chút gì đó để nhớ, để suy tư, để sống...  Mùa Giáng Sinh 2012 năm nay rất đặc biệt đối với tôi, không phải vì cảnh quang bên ngoài: hoa đèn, cờ xí, những tấm thiệp, những món quà Giáng Sinh với lời chúc ý nghĩa... mà là một món quà tinh thần thật lớn - sự trở lại của một người đã từng chối bỏ niềm tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.  Chuyện xảy ra vào những ngày áp lễ Chúa Giáng Sinh.

Đang tất bật với việc chuẩn bị cho ngày lễ, tôi nhận được cú điện thoại từ chị giữ nhà khách báo cho biết tôi có khách từ xa đến thăm.  Thế là dù rất nóng lòng cho công việc đang gấp rút, tôi đành phải gác lại và xin phép đi thăm khách, lòng không một chút hào hứng vì trong đầu toàn là những suy tính cho bổn phận của mình.  Chân thì bước mà đầu không buồn ngẩng lên nên không nhận ra vị khách của tôi đang ở trước mặt.  Tôi giật mình khi nghe một giọng nam cất lên:

-  "Chào Dì Tư! Dì Tư khỏe không? Dì còn nhớ con không?"

-  "Ủa Nhân đây mà!  Dì vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho con.  Lúc này con sao rồi?"

Nhân là một cậu học trò nghèo, tình tình bướng bỉnh, con của một gia đình không Công Giáo nơi họ đạo tôi công tác khi mới khấn trọn cách nay 12 năm.  Năm em được 14 tuổi thì mẹ mất.  Ba năm sau, lúc em đang sắp kết thúc năm cuối bậc trung học thì cha mất vì tai nạn xe, để em lại với người cô.  Nhà nghèo nên cô bắt em làm việc vất vả, phải bỏ học giữa chừng.  Tôi được biết em vào một dịp em cùng các bạn Công Giáo đến tham dự đêm canh thức Giáng Sinh.  Em đã nói một câu làm cho tôi phải suy nghĩ: "Chỉ toàn là chuyện nhảm nhí! Bình an đâu, hạnh phúc đâu con không thấy, chỉ thấy toàn bất hạnh, bất an, và tai họa cho gia đình mình! Con không bao giờ tin vào một ông Chúa như vậy!"  Lúc đó, tôi cố gắng giải thích cho em hiểu về tình yêu Thiên Chúa, về niềm tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Giáng Sinh làm người cứu chuộc nhân loại... nhưng tất cả đều vô ích.  Tôi đã hứa sẽ cầu nguyện cho em và một ngày nào đó em sẽ phải nhìn nhận sự thật không thể chối cãi này.  Em sống bi quan trong hoàn cảnh như thế suốt 2 năm.  Sau đó, em bỏ nhà đi bụi đời.

Sau mấy phút tay bắt mặt mừng, Nhân xúc động kể lại cuộc đời đầy sóng gió của mình: rời nhà bà cô, trước mắt em là một khoảng trời vô định.  Gặp một nhóm bạn rủ rê, em lao vào những vụ trộm cướp, hút chích, vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần... Vào đêm Vọng Giáng Sinh năm trước, nhóm của Nhân lên kế hoạch sẽ kết hợp lẩn vào đám đông dân chúng tại một giáo xứ để cướp tiền bạc, nữ trang.  Lúc đi ngang máng cỏ trước nhà thờ, một hình ảnh cảm động đã làm thay đổi suy nghĩ của Nhân: một ông lão nhà nghèo đang quỳ trước tượng Chúa Hài Đồng, miệng lẩm bẩm gì đó không rõ.  Tò mò, Nhân dừng lại hỏi: "Ông vừa nói gì với cái tượng vô tri này vậy?"  Ông trả lời: "Tôi đã nói với Ngài: Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã sinh ra làm người nghèo như con để thông cảm kiếp nghèo của con và để cứu chuộc tội lỗi con."  Tự nhiên, có một cái gì đó làm cổ họng Nhân nghẹn lại, một sức mạnh vô hình đã bắt Nhân quỳ xuống trước máng cỏ.  Từ hôm đó, Nhân quyết chí bỏ con đường cũ, xin vào làm công cho một người làm nghề sửa xe để kiếm sống. Sau một năm dành dụm, giờ đã cất được một ngôi nhà nhỏ, mở tiệm sửa xe trước nhà và đang có dự định lập gia đình.

-  Tới bây giờ con vẫn chưa hiểu sao con có thể được như hôm nay.  Nhưng con biết Dì vẫn giữ lời hứa cầu nguyện cho con; con đã suy nghĩ kỹ rồi, giờ thì con tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ, tin Ngài sẽ tha thứ cho con, còn con thì sẵn sàng đi theo Ngài.  Con hỏi thăm và biết Dì đã về đây, nên đến để cám ơn Dì và xin Dì giúp con được học đạo.

Một niềm hạnh phúc trào dâng trong tôi, mệt nhọc biến mất và lo toan cũng nhường chỗ cho niềm vui.  Tôi vô cùng tạ ơn Chúa vì hồng ân đức tin của Nhân, vì Chúa đã nghe tiếng tôi cầu nguyện, vì một người con đã nhìn nhận Cha mình.  Đây là một món quà rất ý nghĩa cho tôi trong Mùa Giáng Sinh của Năm Đức Tin này, giúp tôi nhìn lại đức tin của mình để tạ ơn Chúa và sống đức tin tốt hơn. 

Đức tin chỉ thực sự là đức tin khi nó được kết thành từ ba chiều kích: hiểu, cảm nhận và sống.  Hành trình đi đến niềm tin của Nhân đã hội những điều kiện này.  Hành trình này đang từng bước dẫn đưa tâm hồn khao khát Đấng là nguyên lý và cùng đích của niềm tin: Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa, đến ơn cứu rỗi.  Cám ơn Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng con.

TRANG SỐNG ƠN GỌI

SỰ THẬT

Theo tác giả Tương Lai, căn bệnh nguy hiểm của xã hội hôm nay là "chuộng cái giả mà sợ cái thật", một căn bệnh không có thuốc chữa, ngoại trừ việc "dũng cảm nhìn vào sự thật" mà trong những ngày Mùa vọng thánh Gioan Tẩy Giả không ngừng kêu gọi phải "sám hối để được ơn tha tội" nghĩa là " mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng".

Chắc chắn cho dù sống ở "thế gian" hay đang sống trong đời tu cũng đều thừa nhận khối u này luôn tồn tại trong xã hội, trong cộng đoàn, trong mọi tổ chức lớn nhỏ, trong chính bản thân, nhưng không mấy ai, mấy người có trách nhiệm muốn nói đến và dám phẫu thuật cắt bỏ nó vì bản tính con người mà chúng ta chưa dám mạnh dạn để lấp đi những chỗ "lồi lõm", những "hố sâu" nơi cộng đoàn nơi bản thân, mặc dù ai cũng biết rằng, sống đàng hoàng tử tế, sống chân thật, làm theo sự thật là điều cao quí, được tôn trọng, là có thể giải quyết được nhiều vấn đề. "Sự thật sẽ giải thoát anh em" (Ga 8,32).

Thực tế, nhận ra sự thật đã là khó, làm theo sự thật lại càng khó hơn. Vì sự thật luôn đòi hỏi chúng ta phải dũng cảm: dũng cảm nhận rõ và gọi đúng tên tội lỗi, đúng khuyết điểm và đúng tim đen của nó; dũng cảm dám chấp nhận sống theo lương tâm, lương năng, theo sự lương thiện, không tránh né, không lấp liếm trong tư tưởng và trong hành động, không a dua bao che điều xấu; dũng cảm chấp nhận giá trị của chân lý, giá trị của trách nhiệm và giá trị của những việc làm của mình - của người; đặc biệt là những giá trị của Tin Mừng. Hàng ngày, chúng ta được mời gọi nhìn lại bản chất của các giá trị này, đặc biệt là giá trị của sự thật. Trong một trang web nọ, một tác giả đã viết những dòng thơ thật hay, thật thấm thía như sau:

"Ngày nay lương thực tăng giá rồi.
Chỉ có nhân phẩm hạ giá thôi.

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực.

Chân thật, chân giò bằng giá nhau".

Đúng vậy, ngày nay vì lợi nhuận trước mắt, những ham hố quyền lực, những quan liêu chỗ đứng chỗ ngồi ... nên người ta đã sẵn sàng chà đạp tất cả những gì có giá trị thật để thoả mãn những tính toán ích kỷ, hẹp hòi của mình. Giá trị Tin Mừng vẫn còn đó, sự sẵn sàng của Chúa Thánh Thần vẫn còn đó, nhưng con người đã đánh mất "cảm thức về tội lỗi"; họ đã đánh mất "sự nhạy bén của lương tâm, sự khao khát những giá trị thật", để rồi sức biến đổi của Thánh Thần đã bị đóng băng và không thể chữa lành, cũng như làm mới lại con người được.

Ngày ngày, những người bước theo Chúa trong ơn gọi tu trì được mời gọi nhìn lại thực trạng tâm hồn của chính mình, qua các giờ viếng Chúa trong chủng viện, luôn có những giây phút xét mình, kiểm tâm trưa tối, đặc biệt trước khi cử hành và tham dự thánh lễ. Những khi đấm ngực thống hối, lỗi tại tôi và mời gọi mọi người sám hối, chúng ta có thực lòng đối diện với sự thật bên trong của chính mình không? Chúng ta có thành tâm nhận lỗi và sẵn sàng sửa lỗi hay là miệng thì đọc lỗi tại tôi, nhưng trong thâm ý thì "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi khi nào?" Vâng, đây là một sự chai lì của tâm hồn mà Thánh Thần cũng phải "bó tay", phải đứng ngoài "hối tiếc" và đời tu chúng ta không thể vươn lên cao được.

Thần Khí sự thật của Đấng Phục Sinh luôn ở trong mọi người, luôn soi sáng, thôi thúc và chờ đợi mỗi người đối diện với sự thật, tìm đến sự thật, khiêm tốn chấp nhận con người thật của mình. Đấng Phục Sinh đã ban Thánh Thần của Người cho mọi người, cách riêng là những người sống ơn gọi tu trì, để mỗi người có thể nhận diện sự gian dối, sự chai lì cố thủ, sự "toàn vẹn" tự tạo và nhờ đó dám nhận, dám làm chứng cho sự thật. Vâng, Thánh Thần vẫn luôn "đào bới" tâm hồn chúng ta ngày một tốt hơn, giống Chúa hơn, dám nhìn nhận sự thật, nhưng không phải để mắc cở, để cảm thấy bị tổn thương, bị sỉ nhục, trái lại, để chữa lành và nâng cao giá trị của chúng ta những con con người tu trì cần sống trong Chúa Thánh Thần, là Thần Chân Lý, là Sự Thất. Vì chỉ có những ai dám sửa mình, dám sống thật và làm chứng cho sự thật: sự thật về Chúa, sự thật trong trách nhiệm và bổn phận, sự thật về chính mình, thì mới có thể đạt tới tầm mức giá trị của Ngôi Con và sống trong Ngôi Con. Thiên Chúa mời gọi chúng ta không phải để làm gì siêu vời mà là ngày ngày cố gắng sống bớt bất xứng hơn, ngoan nguỳ hơn, dễ thương hơn trước mặt Chúa và trước mặt mọi người. Đó mới là giá trị thật của của những người bước theo chân Chúa là những người luôn rao giảng về sự thật, thay mặt Chúa làm chứng cho sự thật.

Đức Hồng Y Newman đã viết: "Chúng ta hãy cố gắng muốn nói những gì chúng ta nói, và nói những gì chúng ta muốn nói; chúng ta hãy cố gắng biết khi chúng ta hiểu một sự thật, cả khi chúng ta không hiểu". Trong xã hội ngày nay, xung quanh chúng ta vẫn tràn đầy sự giả dối, lọc lừa, tranh giành, bất công, bạo lực ... nhưng vẫn không thiếu những con người dũng cảm dám làm chứng cho sự thật. Đức Giêsu là chứng nhân đích thực cho sự thật. Thần Khí của Ngôi Con là Thần Khí của sự thật. Chúng ta được mời gọi sống chứng nhân cho Tin Mừng Sự Thật, chúng ta đã và đang sống thế nào đây? Một điều chắc chắn là chúng ta sẽ không thể sống thật khi trong người chúng ta không có sự thật, không có Thần Khí của Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ có đủ lý do để phơi bày sự dối trá của chúng ta. "Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em. Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi" (Ga 16,5).

Lạy Chúa Thánh Thần, Thần Khí Sự Thật, xin giúp chúng con can đảm nhận lỗi lầm: lỗi lầm trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Đặc biệt là lỗi lầm không sống và không dám làm chứng cho sự thật. Xin cho con mạnh dạn nhìn vào con người của mình biết canh tân đời sống, không phải chỉ trong Mùa Vọng này, mà cả cuộc đời theo Chúa, để con biết sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật.

TRANG THIẾU NHI

Những Cột Trụ trong Đời sống

Trong thời chiến hồi đó, 5 nữ tu, hai linh mục và một thầy trợ sĩ đã đi bộ từ miền Sepik tới Benabena vùng cao nguyên mạn đông bắc Phi Luật Tân, để trốn thoát khỏi tay quân lính Nhật lùng bắt. Họ khởi hành từ bờ sông Sepik và sau 123 ngày, họ đã tới làng Benabena. Họ vượt rừng, lội suối, leo núi, mò mẫm bước đi,  vì không có một đường lộ nào, ngay cả đến một con đường mòn cũng không. Tuy nhiên, có một điều đã  giúp họ rất nhiều trong suốt cuộc hành trình trốn thoát. Đó là, sau khi khởi hành, họ đã gặp được hai anh chỉ huy trưởng đoàn hướng đạo. Họ chỉ lối cho vì là những người rất thông thạo đường.

Các bạn thân mến, còn gì sung sướng và an ủi cho những người đang lúc phân vân vì lầm đường lạc hướng được người thông thạo dẫn đường  chỉ  lối cho !

Đời sống con người là cuộc hành trình duy nhất, ra đi mà không bao giờ trở lại, bởi vì chúng ta  chỉ sống một lần trên đời này mà thôi. Vì thế chúng ta  cần đến kinh nghiệm của những người đã đi trước như địa bàn chỉ lối cho. Nói một cách cụ thể hơn, chúng ta  cần đến những cột trụ của lề luật như những bảng chỉ đường để sống trong an bình và trật tự, để bảo vệ quyền lợi cá nhân cũng như lợi ích chung.

Tại trường Don Bosco, trong ngày đầu niên học, các học sinh cũng như các giáo sư thường tụ họp tại hội trường lớn với một nghi thức khai mạc trang nghiêm, tức là lắng nghe đọc bản quy luật của trường.

Với kinh nghiệm và năng khiếu phú bẩm của một nhà giáo dục, Don Bosco quá biết rõ sự yếu dòn của tuổi trẻ, tuy là gia sản và là tương lai của xã hội, nhưng lại là lứa tuổi dễ bị băng hại, không phải vì bản tính hoặc ý hướng xấu cho bằng vì những nông nổi không được tự chủ kịp thời. Vì thế cần được bàn tay dịu hiền uốn nắn và trái tim nhân từ nâng đỡ, dìu dắt.

Với trực giác bén nhạy của một người cha và thày dạy lành nghề, Don Bosco đã ghi chép cách vắn tắt, nhưng rất rõ ràng những điều các học sinh phải làm và phải xa tránh. Đối với Don Bosco, sự hiểu biết về một số quy luật rõ ràng và thực tiễn là chìa khóa căn bản của phương pháp giáo dục  qua mọi thời đại.

Xã hội của chúng ta  ngày nay  xem như là một xã hội có chiều hướng ngầm khai trừ mọi luật pháp. Có những người chủ trương thăng tiến ngoài vòng luật lệ. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng vô kỷ luật không thể nào là con đường của thăng tiến và phát triển được, nhưng chỉ dẫn đưa đến sự hỗn loạn và bất an về mọi mặt. Nhất là các bạn trẻ, tuy là tuổi lý tưởng, nhưng nhiều khi vì thiếu kinh nghiệm nên chỉ biết suy luận một cách cụ thể để bảo vệ sự sống còn của giây phút hiện tại mà thôi, chứ không biết nhìn xa thấy rộng.

Hơn nữa, trước những sụp đổ của lý tưởng và thiếu bậc thang giá trị trong môi trường xã hội, các bạn trẻ bước đi như con thuyền không lái, không biết định hướng thế nào, lảo đảo giữa những thăng trầm của thế sự. Một số nhà học giả xã hội gọi giới trẻ ngày nay là "giới trẻ không có địa bàn".

Vấn đề không phải là vì họ thiếu địa bàn, nhưng là vì không có ai biết cho họ một địa bàn hoặc một hướng đi nào cả. Ngay cả đến các phụ huynh, nhiều khi cũng đầy những băn khoăn lo lắng, không biết họ muốn gì, và muốn cho con cái họ đi về đâu nữa.

Ngay từ đầu Don Bosco đã hiểu rõ nhu cầu cần thiết của một số quy luật bên ngoài để dần dần trở thành những quy luật nội tâm mà mỗi người phải tự gây xác tín cho mình. Nó là như những cột trụ, những điểm quy chiếu cho đời sống mai ngày. Để được như thế, những cột trụ ấy cần có những đặc điểm sau đây:

1.  Con cái  cũng như các học sinh cần được biết rõ đâu là những bậc thang giá trị của cha mẹ và của thầy dạy. Biết rõ những gì phải tôn trọng, dĩ nhiên sẽ  đòi hỏi tinh thần trách nhiệm phải tôn trọng. Vì thế cần được hiểu biết trước, hiểu rõ kịp thời. Nhiều phụ huynh chỉ can thiệp khi sự việc đã xảy ra đành lỡ, khi những thói hư nết xấu đã ăn rễ quá sâu rồi. Do đó không lạ gì những hình phạt, những lời quở trách nặng nề, những than khóc giận dữ chỉ là phương thuốc vô hiệu mà thôi.

2.  Quy luật tốt và hữu hiệu là ít quy luật, nhưng rõ ràng và có thể thực hiện được. Không cần phải nhiều lời mới được việc. Đối với tuổi trẻ, những lời nói lải nhải, lặp đi lặp lại một  điệp khúc, những lời cấm đoán, chỉ làm cho các bạn trẻ càng thêm bực tức, chống đối, và cuối cùng là bỏ ngoài tai tất cả mọi lời răn dạy của cha mẹ.

3.  Đừng nói một đàng làm một nẻo. Hơn bao giờ hết, tuổi trẻ bắt chước gương đời sống hơn là làm theo các lời dạy. Trong các bức tranh khôi hài về giáo dục có bức vẽ một người cha cầm roi đánh con. Vừa đánh con ông vừa nói:

- Với cái roi này, mày sẽ hiểu rằng không được đánh em là gì !

4.  Các quy luật thỉnh thoảng cần được duyệt xét lại để thích ứng với nhu cầu và hoàn cảnh thực tế, với lứa tuổi, với khả năng, với bản lãnh của con cái cũng như với những đổi thay bên ngoài.

Tuân giữ các quy luật sẵn có không hẳn là đảm bảo  tránh khỏi lỗi phạm. Trái lại, việc tuân giữ luật phải là hoa trái nảy sinh từ mối liên hệ thân mật, của lòng tín nhiệm, tinh thần đối thoại cởi mở  và quý trọng giữa con cái và cha mẹ.

5.  Phương pháp hai hàng cột. Hiện nay trong các buổi họp mặt các phụ huynh thường có phần trình bày phương pháp giáo dục mang tên là "phương pháp hai hàng cột".

Phương pháp này nhắm mục đích cổ võ tinh thần đối thoại và cảm thông giữa cha mẹ và con cái. Trong bầu khí gia đình, phụ huynh và con cái ngồi trước một trang giấy trắng được chia thành 2 cột bằng một đường gạch thẳng từ trên xuống dưới.  Sau khi đã đồng ý thỏa thuận với con cái, cha mẹ sẽ viết xuống trên giấy bên cột  phía tay trái, những điểm cần thiết phải tuân giữ. Trong cột bên tay phải, họ sẽ liệt kê những điều có thể gây xung khắc và làm cho bầu khí gia đình trở nên căng thẳng, cần phải tránh. Tuy nhiên, sẽ được trao phó cho lương tâm và tinh thần trách nhiệm của mỗi phần tử trong gia đình.

Phương pháp trên đây còn là cơ hội thuận tiện gặp gỡ, trao đổi và chia sẻ trong gia đình. Phương pháp này đã giúp thay đổi bầu khí trong nhiều gia đình, giải tỏa những căng thẳng, những hiểu lầm và bắc lại nhịp cầu thông cảm giữa hai thế hệ xem như càng ngày càng xa cách nhau hơn.

Giáo Dục theo gương Don Bosco

Nguồn: donboscoviet.org

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý III của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
Bản Chất Hội Thánh của Đức Tin

"Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha mà không có Hội Thánh là Mẹ"

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ ba của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tạiQuảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư 31 tháng 10, 2012.  Hôm nay ĐTC dạy về ý nghĩa của Đức Tin.

* * *

Anh chị em thân mến,

Chúng ta tiếp tục cuộc hành trình suy niệm về đức tin Công Giáo của chúng ta. Tuần trước tôi đã giải thích về đức tin là một hồng ân như thế nào, bởi chính Thiên Chúa đã có sang kiến đến gặp chúng ta trước, và như thế đức tin là một sự đáp trả mà chúng ta dùng để chào đón Ngài như là nền tảng vững chắc của cuộc đời chúng ta.  Đó là một món quà biến đổi cuộc đời, bởi vì nó cho chúng ta nhìn với cái nhìn của Chúa Giêsu, Đấng hoạt động trong chúng ta và mở lòng chúng ta để yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

Hôm nay tôi muốn đi thêm một bước nữa trong bài suy niệm của chúng ta, bắt đầu một lần nữa từ một số câu hỏi: Có phải đức tin chỉ có đặc tính riêng tư, cá nhân hay không?  Có phải nó chỉ liên quan đến cá nhân tôi không?  Có phải tôi sống đức tin của tôi một mình hay không?  Tất nhiên, hành động đức tin là một hành động tiên quyết cá nhân, xảy ra tận đáy lòng chúng ta và đánh dấu một sự chuyển hướng, một sự hoán cải cá nhân: chính cuộc đời của tôi được đánh dấu bởi một khúc quanh và nhận được một hướng đi mới.

Trong Phụng Vụ của Bí Tích Rửa Tội, vào lúc tuyên hứa, vị chủ sự yêu cầu tuyên xưng đức tin, và đưa ra ba câu hỏi: Anh/Chị/Em có tin vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng không?  Anh/Chị/Em có tin vào Chúa Giêsu Kitô Con một Ngài không?  Anh/Chị/Em có tin vào Chúa Thánh Thần không?  Xưa kia, những câu hỏi này đã được đưa ra cách riêng cho người đã được rửa tội trước khi dìm người ấy vào nước ba lần.  Và ngay cả ngày nay cũng thế, câu trả lời ở số ít là: "Tôi tin".

Nhưng đức tin của tôi không phải là kết quả của sự suy nghĩ đơn độc của tôi, cũng không phải là sản phẩm của những suy tư riêng của tôi, nhưng là kết quả của một mối liên hệ, một cuộc đối thoại, trong đó có sự lắng nghe, và sự đón nhận một câu trả lời.  Chính việc đối thoại với Chúa Giêsu làm cho tôi ra khỏi cái "tôi" bị đóng kín trong bản thân mình để mở ra cho tình yêu của Thiên Chúa Cha.

Nó giống như một sự tái sinh mà trong đó tôi khám phá ra rằng tôi không những chỉ kết hợp với Chúa Giêsu, mà còn với tất cả những người đã đi và đang đi trên cùng một con đường.  Và việc tái sinh này, bắt đầu với Bí Tích Rửa Tội, tiếp tục trong suốt dòng đời.

Tôi không thể xây dựng đức tin cá nhân của tôi trong một cuộc đối thoại riêng tư với Chúa Giêsu, bởi vì đức tin được Thiên Chúa ban cho tôi qua một cộng đồng các tín hữu là Hội Thánh, và tôi được kể vào số các tín hữu trong một cộng đồng, không chỉ thuộc về xã hội, nhưng được bắt nguồn từ tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà trong Ngài là sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là tình yêu của Ba Ngôi.  Đức tin của chúng ta chỉ thực sự là của cá nhân khi nó cũng là của cộng đồng: nó chỉ có thể là đức tin của tôi, chỉ khi nó sống và di động trong cái "chúng ta" của Hội Thánh, chỉ khi nó là đức tin của chúng ta, đức tin chung của một Hội Thánh Duy Nhất.

Vào ngày chúa nhật, khi chúng ta đọc "Tôi tin kính" trong Thánh Lễ, chúng ta xưng mình ở ngôi thứ nhất, nhưng chúng ta tuyên xưng một đức tin duy nhất của cộng đồng.  Kinh "Tin Kính" mà mỗi người chúng ta tuyên xưng cách cá nhân được kết lại thành một ca đoàn bao la trải dài trong thời gian và không gian, trong đó có thể nói là mỗi người đóng góp vào một bản hòa âm nhiều bè của đức tin.  Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo tóm tắt một cách rõ ràng: "Tin" là một hành động của Hội Thánh. Đức tin của Hội Thánh đi trước, sinh ra, nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của chúng ta. Hội Thánh là Mẹ của mọi tín hữu. "Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha, mà không có Hội Thánh là Mẹ" [Thánh Cyprianô]" (số 181). Vì vậy, đức tin được sinh ra trong Hội Thánh, dẫn đến Hội Thánh và sống trong Hội Thánh.  Điều này là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải nhớ.

Ở bước đầu của cuộc mạo hiểm Kitô giáo, khi Chúa Thánh Thần đến với quyền năng trên các môn đệ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, như được kể lại trong sách Tông Đồ Công Vụ (x. 2:1-13), Hội Thánh thời sơ khai nhận được sức mạnh để thực hiện sứ vụ được Chúa Phục Sinh trao phó: loan truyền Tin Mừng về Nước Thiên Chúa cho đến tận cùng trái đất, và như thế dẫn đưa mọi người đến một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô Phục Sinh và đến đức tin có sức cứu độ.  Các Tông Đồ thắng vượt mọi nỗi sợ hãi trong việc công bố những gì các ngài đã nghe, đã thấy và cảm nghiệm cá nhân với Chúa Giêsu.  Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài bắt đầu nói những ngôn ngữ mới, công khai công bố mầu nhiệm mà các ngài chứng kiến.

Trong Sách Tông Đồ Công Vụ, sau đó chúng ta được biết về bài giảng tuyệt vời của Thánh Phêrô vào ngày Lễ Ngũ Tuần.  Ông bắt đầu với một đoạn trích từ sách Ngôn Sứ Giôel (3:1-5), quy nó về Chúa Giêsu, và công bố cốt lõi của đức tin Kitô giáo: Người, Đấng đã đối xử cách rất tốt lành với tất cả mọi người,  đã được Thiên Chúa chứng giám bằng những phép lạ và những dâu chỉ cả thể, đã bị đóng đinh trên thập giá và bị giết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, đặt Người làm Chúa và Đức Kitô.

Với Người, chúng ta đã bước vào ơn cứu độ dứt khoát đã được các ngôn sứ báo trước, và bất cứ ai kêu cầu Danh Người sẽ được cứu rỗi (x. Cv 2:17-24).  Nhiều người khi nghe những lời của Thánh Phêrô, tự cảm thấy bị vấn lòng cách riêng, họ ăn năn tội lỗi của họ, được rửa tội và lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Cv 2: 37-41).

Như thế bắt đầu cuộc hành trình của Hội Thánh, một cộng đồng mang lời công bố này trong thời gian và không gian, một cộng đồng Dân Thiên Chúa được xây dựng trên Giao Ước Mới trong Máu của Đức Kitô, mà các thành viên không thuộc về một nhóm xã hội hoặc chủng tộc riêng biệt nào, nhưng là những người nam nữ từ mọi quốc gia và mọi nền văn hóa.  Đó là một dân "công giáo", nói những ngôn ngữ mới và phổ quát, mở ra đón nhận tất cả mọi người, siêu vượt mọi ranh giới và đập tan mọi chướng ngại. Thánh Phaolô nói: "Ở đây không còn người Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ(Scythia), nô lệ, tự do, nhưng Đức Kitô là tất cả và trong mọi người" (Colossians 3:11).

Do đó, ngay từ ban đầu Hội Thánh là chỗ của đức tin, nơi mà đức tin được truyền thụ, nơi mà qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được dìm vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô, là điều giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và ban cho chúng ta sự tự do của con cái cùng đưa chúng ta vào hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.  Đồng thời, chúng ta được nhận chìm vào sự hiệp thông với các anh chị em khác trong đức tin, với toàn thể Nhiệm Thể Đức Kitô, nhờ cách đó mà chúng ta thoát khỏi sự cô lập của mình. Công đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta rằng: "Thiên Chúa muốn cứu độ và thánh hóacon người, không phải chỉ như những cá nhân không có một mối liên hệ nào giữa họ; nhưng Ngài muốnbiến họ thành một dân, một dân nhận biết Ngài theo chân lý và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện" (Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium , 9).

Khi nhớ lại phụng vụ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta nên lưu ý rằng khi kết thúc các lời hứa trong đó chúng ta hứa từ bỏ sự dữ và trả lời "Tôi tin" vào những chân lý của đức tin, vị chủ sự công bố: "Đó là đức tin của chúng ta. Đó là đức tin của Hội Thánh. Chúng ta hãnh diện tuyên xưng Đức Tin ấy, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta." Đức tin là một nhân đức đối thần do Thiên Chúa ban, nhưng truyền lại qua Hội Thánh trong suốt dòng lịch sử.  Thánh Phaolô, khi viết cho cá tín hữu Côrinthô, khẳng định rằng ngài đã truyền lại cho họ Tin Mừng mà ngài đã nhận được (x. 1 Corinthians 15:3).

Có một dây xích không bị gián đoạn trong đời sống Hội Thánh, trong việc công bố Lời Chúa, việc cử hành các Bí Tích, đến với chúng ta mà chúng ta gọi là Thánh Truyền.  Nó cho chúng ta sự đảm bảo rằng những gì chúng ta tin là thông điệp nguyên thủy của Đức Kitô, như được rao giảng bởi các Tông Đồ.  Cốt lõi của lời loan báo nguyên thủy này là biến cố Cái Chết và Phục Sinh của Chúa, từ đó phát sinh ra toàn thể di sản đức tin.  Công Đồng nói: "Lời rao giảng của các tông đồ, được diễn tả một cách đặc biệt trongnhững sách được linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế" (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 8).  Như vậy, nếu Thánh Kinh chứa đựng Lời Chúa, thì Thánh Truyền của Hội Thánh bảo tồn và trung thành truyền lại Lời ấy, để con người ở mọi thời đại có thể truy cập tài nguyên bao la của Lời ấy và được phong phú hóa bởi kho tàng ân sủng của nó.  Vì vậy, Hội Thánh, "trong việc giảng dạy của mình, trong đời sống và việc phụng tự của mình bảo tồn và truyền lại cho mọi thế hệ tất cả những gì là thực chất của mình và tất cả những gì mình tin" (ibid.).

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh rằng chính trong cộng đồng Hội Thánh mà đức tin cá nhân phát triển và trưởng thành.  Thật đáng chú ý khi nhận thấy rằng trong Tân Ước thuật ngữ "thánh" được dùng để chỉ các Kitô hữu như một tập thể, và chắc chắn rằng không phải tất cả mọi người trong họ có những đức tính cần thiết để được Hội Thánh gọi là thánh.  Như thế thì người ta muốn ám chỉ gì qua thuật ngữ này?  Sự thể là những người đã có đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh và sống đức tin ấy được mời gọi để trở thành mẫu mực (điểm tham chiếu) cho tất cả những người khác, bằng cách giúp họ tiếp xúc với Con Người và Sứ Điệp của Chúa Giêsu, Đấng mạc khải Dung Nhan Thiên Chúa hằng sống.  Điều này cũng đúng cho chúng ta: một Kitô hữu để cho mình được đức tin của Hội Thánh từ từ hướng dẫn và hình thành, bất chấp những yếu đuối, giới hạn và khó khăn của mình, người ấy sẽ trở thành như một cửa sổ mở ra cho ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống, nhận được ánh sáng này và truyền nó cho thế giới.  Chân Phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris missio nói rằng "hoạt động truyền giáo canh tân Hội Thánh, khôi phục đức tin và căn tính Kitô giáo, cùng cung cấp nhiệt tình mới và động lực mới. Đức tin được củng cố bằng cách cho đi!" (số 2).

Do đó, xu hướng hiện đại được lan tràn rộng rãi, là giới hạn đức tin vào lĩnh vực riêng tư, mâu thuẫn với bản chất của chính đức tin. Chúng ta cần Hội Thánh xác nhận đức tin của mình và cảm nghiệm những hồng ân của Thiên Chúa: Lời Ngài, các Bí Tích, sư trợ giúp của ân sủng và chứng tá tình yêu.  Vì vậy, trong cái "chúng ta" của Hội Thánh, cái "tôi" của chúng ta sẽ có khả năng nhận ra chính mình như người lãnh nhận và tham dự vào một biến cố vượt trên nó: kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng thiết lập sự hiệp thông giữa con người.  Trong một thế giới mà trong đó chủ nghĩa cá nhân dường như quy định các mối liên hệ giữa con người, làm cho những liên hệ ấy thành mỏng giòn hơn, đức tin mời gọichúng ta làm Dân Thiên Chúa, là Hội Thánh, những người mang tình yêu và sự hiệp thông của Thiên Chúa đến cho tất cả nhân loại (xem Hiến Chế Mục vụ Gaudium et Spes, 1). Cảm ơn sự chú ý của anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 9. TÌNH YÊU VỢ CHỒNG

"Giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình  mà tôi cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời". Sara cũng nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót chúng tôi, xin thương xót chúng tôi,  xin cho hai chúng tôi được an khang trường thọ". (Tb 8, 7)

Tình yêu vợ chồng mang tính cách một cam kết quyết liệt. Đôi bạn thời đính hôn cần hiểu rõ tình yêu này, để biết mình đang hướng đến điều gì và phải chuẩn bị tâm hồn nghiêm túc như thế nào? Thật vậy, trong tình yêu vợ chồng, "mình với ta tuy hai mà một". "Một" ở đây muốn nói lên sự kết hợp mật thiết đến độ không chỉ dừng ở việc ý hợp tâm đầu, mà còn đón nhận và trao ban cho nhau trọn vẹn, trở thành một xương một thịt suốt đời. Trao ban trọn cả con người, đón nhận nhau trọn cả cuộc sống, để trở thành một xương một thịt suốt đời và từ đó làm nảy sinh những sự sống mới. Đây chính là đặc tính của tình yêu vợ chồng.

1. Đặc tính của tình yêu vợ chồng

1.1. Tình yêu kết hợp nên một

Tình yêu vợ chồng trước hết hướng đến việc kết hợp nên một: "Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể" (St 2,24; Mt 19,5; Mc 10,8). Trước khi lấy nhau, họ là hai thế giới khác biệt với những vấn đề, những khát vọng, những niềm vui, nỗi buồn riêng tư. Giờ đây, khi đã lấy nhau, hai thế giới đó được hoà trộn vào nhau, thành một xương một thịt và một tâm hồn, chia sẻ một vận mệnh và một cuộc sống. Sự kết hợp đó sâu xa đến nỗi chỉ cái chết mới có thể chia lìa. Chính vì vậy, tình yêu hôn nhân đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly[1].

1.2. Tình yêu trao hiến trọn vẹn

Nhờ khả năng tính dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi ân ái dành riêng cho vợ chồng. Tính dục không chỉ là hành vi sinh lý, mà còn liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị.

Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng. Chúng biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn.

Sự trao hiến trọn vẹn toàn thể con người dẫn đôi bạn đến sự kết hợp mật thiết với nhau thành một trái tim, một tâm hồn, một cuộc sống. Nhờ sự kết hợp nên một và trao hiến trọn vẹn của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống.

1.3. Tình yêu chung thủy

Tình yêu hôn nhân đòi hỏi hai vợ chồng phải dứt khoát, không được tạm bợ, nghĩa là phải luôn chung thuỷ với nhau, bởi vì do giao ước hôn nhân, họ không còn là hai, nhưng đã trở thành một thân thể duy nhất.

Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh viễn không lay chuyển. Tình yêu vợ chồng được tham dự vào tình yêu này và được tình yêu này hướng dẫn và nâng đỡ. Nhờ chung thủy với nhau, vợ chồng trở thành chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa[2].

1.4. Tình yêu mở ngỏ cho sự sống

Truyền sinh vừa là một ân huệ, vừa là một mục tiêu căn bản của hôn nhân, vì tự bản chất, tình yêu vợ chồng hướng tới việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải là một cái gì được thêm vào từ bên ngoài. Vì thế, mọi hành vi ân ái phải mở ngỏ cho việc truyền sinh. Hội Thánh đã nhắc đi nhắc lại điều này nhiều lần: hành vi ân ái luôn mang hai giá trị bất khả phân ly: kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được phá bỏ.

Vì được mời gọi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tình phụ tử của Thiên Chúa.[3] Trong khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục, đôi vợ chồng biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa và trở thành như những người diễn đạt tình yêu của Ngài. Do đó, họ sẽ chu toàn bổn phận trong tinh thần trách nhiệm của một con người và một Kitô hữu.

Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm, đó là điều hòa sinh sản. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa những lần sinh con. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý.

2. Nhiệm vụ vợ chồng

2.1. Nhiệm vụ của người chồng

Trong gia đình, cộng đoàn hiệp thông giữa các ngôi vị, người nam được mời gọi sống sự tự hiến của mình trong vai trò là chồng và là cha.

Qua người vợ, người chồng nhìn thấy ý định của Thiên Chúa được thực hiện: "Đàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó" (St 2, 18). Người chồng sẽ có cùng một tiếng kêu hạnh phúc như Ađam, người chồng đầu tiên: "Bây giờ xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi" (St 2, 23).

Tình nghĩa vợ chồng đòi buộc người chồng phải thực sự tôn trọng phẩm giá của người vợ, như thánh Ambrôxiô đã viết: "Con không phải là chủ của nàng, nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không phải để làm nô lệ... Hãy đáp lại những quan tâm nàng đã dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng" (Exameron V, 7.19).

Đối với vợ, người chồng phải trở nên người bạn đời. Hơn thế nữa, người chồng còn được mời gọi trở nên người bạn đạo bằng cách yêu thương vợ mình một cách tế nhị và mạnh mẽ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh

Tình yêu đối với người vợ đã trở thành mẹ và tình yêu đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người chồng đến chỗ hiểu biết và thể hiện tư cách làm cha của mình. Chỗ đứng và vai trò của người cha trong gia đình có một tầm quan trọng không ai có thể thay thế được. Sự vắng mặt của người cha thường gây ra những sự thiếu quân bình về tâm lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong những tương quan gia đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha lại mang tính cách áp bức và độc đoán.

Khi biểu lộ và sống tình cha của Thiên Chúa, người chồng được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong gia đình. Để chu toàn sứ mạng này, người chồng cần phải quảng đại lãnh lấy trách nhiệm đối với sự sống đang được người vợ cưu mang, và cố gắng giáo dục con cái cùng với vợ mình; công việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, trở nên một chứng tá về đời sống Kitô hữu trưởng thành, để con cái có được kinh nghiệm sống động về Đức Kitô và về Hội Thánh một cách hữu hiệu hơn[4].

2.2. Nhiệm vụ của người vợ

Trong gia đình, người nữ cũng được mời gọi sống sự tự hiến của mình trong vai trò là vợ và là mẹ. Trước hết cần khẳng định rằng người vợ bình đẳng với người chồng về phẩm giá cũng như về trách nhiệm. Sự bình đẳng này được thể hiện một cách đặc biệt trong sự hy sinh cho con cái. Một sự trao hiến như thế chỉ có trong hôn nhân và gia đình. Điều con người cảm nghiệm, cũng là điều được mặc khải đầy đủ trong Lời Chúa. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy phẩm giá của người phụ nữ luôn luôn được đề cao.

Tuy nhiên, cho đến nay không thể phủ nhận rằng có nhiều người muốn thu hẹp phạm vi của người phụ nữ vào vai trò làm vợ và làm mẹ, không để cho họ bước ra ngoài xã hội, nắm giữ những trọng trách, vốn thường được coi như chỉ dành cho nam giới. Chắc chắn sự bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người nữ cho phép người nữ dấn thân vào các vai trò xã hội. Đàng khác, cũng cần phải nhìn nhận rằng vai trò làm mẹ và làm nội trợ của người phụ nữ có giá trị không thua kém so với những vai trò ngoài xã hội và những nghề nghiệp khác.

Cần vượt qua não trạng cho rằng danh dự của phụ nữ là do việc làm ngoài xã hội hơn là do hoạt động trong gia đình. Nhưng để đạt được điều ấy, nam giới cần biết quý chuộng và thật sự yêu thương người phụ nữ với tất cả sự tôn trọng phẩm giá cá nhân của họ, và xã hội cần phải tạo ra và phát triển những điều kiện thích hợp cho công việc tại gia đình[5].

Tại Cana, bữa tiệc cưới được nửa chừng thì hết rượu. Tình huống ấy có thể đe doạ hạnh phúc tương lai của đôi tân hôn. May thay, Đức Kitô có mặt ở đó và theo lời yêu cầu của Mẹ Maria, Ngài đã can thiệp để biến nước thành rượu, thật nhiều và thật ngon (x. Ga 2,1-12). Câu chuyện thật an ủi: Tình yêu vợ chồng đầy hoan lạc nhưng cũng kèm theo biết bao thử thách, với phận người yếu đuối tình yêu giới hạn ấy thật mong manh. Thế nhưng ngay cả khi nó đã cạn, đã thành nhạt như nước lã, Đức Kitô vẫn có thể biến nước lã ấy thành rượu ngon một cách hết sức dồi dào.

Thật vậy, như xưa Thiên Chúa đã đến gặp gỡ Dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, thì nay Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh, cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Ngài còn ở lại với họ để họ mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Ngài đã yêu thương Hội Thánh và nộp mình vì Hội Thánh.

Trong đời sống hôn nhân và gia đình, đôi vợ chồng Công giáo được mời gọi noi gương Đức Kitô và Hội Thánh để biết sống yêu thương và tôn trọng nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau, cũng như sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của nhau và của con cái.

4 GHI NHỚ :

1. H. Tình yêu vợ chồng có những đặc tính nào?

T. Tình yêu vợ chồng có những đặc tính này là :

  - Một là kết hợp nên một.
  - Hai là trao hiến trọn vẹn.
  - Ba là chung thủy suốt đời.

  - Bốn là đón nhận con cái.

2. H. Vợ chồng có những bổn phận nào?

T. Người nam được mời gọi chu toàn bổn phận làm chồng và làm cha; người nữ được mời gọi chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ.

3. H. Khuôn mẫu của tình yêu vợ chồng là gì?

T. Khuôn mẫu của tình yêu vợ chồng chính là sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh.

4 GỢI Ý SUY NGHĨ :

1. Trong Kinh Hoà bình của thánh Phanxicô có câu: "Lạy Chúa, xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ...". Anh Chị nghĩ sao nếu trong cuộc sống hôn nhân, cả hai vợ chồng đều cố gắng sống tinh thần trên?

2. Anh Chị nghĩ gì về câu nói sau đây của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn về Gia đình: "Ngày nay, làm chứng về giá trị cao quý của sự bất khả phân ly trong hôn nhân và của lòng chung thủy giữa hai vợ chồng là một trong những bổn phận quan trọng và cấp bách nhất của các đôi bạn Kitô hữu." (x. số 20)

4 CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến nỗi đổ máu ra thanh tẩy và làm cho Hội Thánh thành người mẹ sinh ra tất cả con cái Thiên Chúa. Xin giúp chúng con biết sống thông cảm, nhân hậu, khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại đối với nhau; biết tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Xin Chúa luôn ở bên chúng con, ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có thể bước theo con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Amen.

[1] x. GLHT 1643-1645

[2] x. GLHT 1646-1648

[3] x. Ep 3, 14; Mt 23, 9

[4] GĐ 25

[5] x. GĐ 22-23

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh

Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004
+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho
   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

CHỈ NAM TỔNG QUÁT VỀ VIỆC GIÁO LÝ NĂM 1997 (tt)

 PHẦN IV: CÁC ĐỐI TƯỢNG GIÁO LÝ

Phần IV nhấn mạnh: giáo lý nhắm vào những ai. Phần này có 5 chương ngắn. Nghiên cứu các tình huống rất khác nhau, các con đường mà giáo lý nhắm tới, các khía cạnh liên quan đến tình huống xã hội, tôn giáo và bàn cách đặc biệt về vấn đề hội nhập văn hóa.

Chương I : Vài nét chung về việc thích nghi với các đối tượng giáo lý.

Tất cả mọi tín hữu đều được kêu gọi lớn lên trong đức tin, nên họ có nhu cầu và có quyền học giáo lý. Tuy nhiên việc truyền đạt sứ điệp Tin Mừng phải phù hợp với cá nhân, với cộng đoàn nơi cá nhân cùng chung sống và hoàn cảnh sống của từng người.

Chương II: Giáo lý theo tuổi.

Nêu lên sự quan trọng của việc dạy giáo lý theo tuổi. Chương này cho một số đặc tính và chỉ dẫn quan trọng trong việc soạn thảo và dạy giáo lý cho người lớn, giới trẻ, trẻ em và người cao niên.

Chương III: Giáo lý trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Giáo lý phải được truyền đạt một cách đặc biệt và phù hợp cho những người khuyết tật, bị bỏ rơi và những thành phần đặc biệt trong xã hội. Giáo lý phải thực sự đi vào môi trường sống của con người.

Chương IV : Giáo lý trong hoàn cảnh xã hội tôn giáo.

Hiện nay người tín hữu thường sống trong những môi trường đa tôn giáo và đảng phái, một môi trường gợi lên những vấn đề thật tế nhị và phức tạp với những niềm tin khác nhau. Hơn nữa, tại nhiều nơi, đức tin người công giáo luôn phải đương đầu với phong trào tục hóa, kể cả vô thần, đôi khi bị hăm dọa và uy hiếp... Trước những hoàn cảnh đó, giáo lý cần phải nghiên cứu kỹ môi trường để giúp người tín hữu đào sâu, củng cố, nuôi dưỡng và làm cho đức tin của họ trưởng thành hơn.

Chương này cũng nhấn mạnh thái độ tôn trọng của người tín hữu với các tôn giáo khác.

Chương V: Giáo lý trong hoàn cảnh văn hóa xã hội.

Việc dạy giáo lý phải phù hợp với hoàn cảnh văn hóa đương thời, nghĩa là phải đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hóa và các nền văn hóa. Muốn thế, việc dạy giáo lý phải tìm hiểu các nền văn hóa và cách thức diễn tả có ý nghĩa nhất của chúng ; phải tôn trọng các giá trị và kho tàng phong phú riêng của mỗi nền văn hóa. Nhờ vậy giáo lý mới có thể truyền đạt sứ điệp Tin Mừng cách thích hợp với từng nền văn hóa khác nhau.

 PHẦN V: GIÁO LÝ TRONG CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

Phần V coi các Giáo Hội địa phương là trọng tâm hấp lực của giáo lý; Giáo Hội này có nhiệm vụ chính là cổ vũ, tiên đoán, canh chừng và phối hợp mọi sinh hoạt giáo lý. Phần này mô tả đặc biệt vai trò tương xứng của các cán bộ giáo lý khác nhau (họ luôn tìm được điểm quy chiếu nơi vị chủ chăn của Giáo Hội địa phương), cũng như các đòi hỏi phải huấn luyện trong từng trường hợp.

Chương I: Sứ vụ giáo lý trong các giáo hội địa phương và các giáo lý viên.

Chương này suy nghĩ về sứ vụ của giáo lý và vai trò của những người tham dự vào sứ vụ này. Các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều phải tích cực dấn thân vào sứ vụ này tùy theo mức độ trách nhiệm và đặc sủng riêng của mình.

Chương II: Huấn luyện giáo lý viên

Việc huấn luyện giáo lý viên đóng vai trò quyết định trong việc dạy giáo lý. Muốn dạy giáo lý có hiệu quả, giáo lý viên cần được đào tạo kỹ lưỡng về mặt tâm linh, nhân bản, thần học và kỹ năng. Nếu không, giáo lý viên không thể chu toàn trách nhiệm cao cả được ủy thác.

Chương III : Nơi chốn và những nẻo đường của giáo lý

Gia đình, giáo xứ, học đường, các hội đoàn, các phong trào... là nơi chốn, là không gian thích hợp cho việc dạy giáo lý. Vì vậy các tín hữu được mời gọi gia nhập cụ thể vào một cộng đoàn.

Chương IV : Tổ chức mục vụ giáo lý trong các Giáo Hội địa phương.

Chương 4 bàn đến những tổ chức đặc biệt hơn liên quan đến việc huấn giáo như các Ủy Ban mục vụ huấn giáo cấp thế giới, quốc gia, giáo phận, giáo xứ... Các Ủy Ban này hướng dẫn mọi sinh hoạt huấn giáo trong phạm vi của mình và đề nghị những cách thức áp dụng cụ thể để việc dạy dỗ đem lại tới hiệu quả thích đáng.

PHẦN KẾT

Phần kết kêu gọi phải tăng cường sinh hoạt giáo lý, ca ngợi sự suy tư và các hướng đi bằng cách mời gọi mọi người đặt tin tưởng nơi hoạt động của Chúa Thánh Thần và vào sự hiệu quả của Lời Chúa được gieo vãi trong tình yêu.

Tóm lại : Mục tiêu của cuốn Chỉ Nam này nêu ra "các nguyên tắc nền tảng có tính thần học và mục vụ, được rút ra từ Huấn Quyền của Giáo hội, nhất là của Công Đồng Vaticanô II, làm sao để hoạt động mục vụ trong sứ vụ Lời - mà cụ thể là giáo lý - có thể được hướng dẫn và sắp xếp thứ tự cho thích nghi hơn"[34].

Ý hướng trước đây cũng như bây giờ thiết yếu ở chỗ là đưa ra những suy tư và những nguyên tắc hơn là gợi lên các áp dụng trực tiếp hoặc cho những hướng dẫn thực tế.

Ngay từ đầu, phải hiểu đúng đắn bản chất và các mục tiêu của giáo lý cũng như hiểu các chân lý và các giá trị phải truyền đạt để tránh được các thiếu sót, các sai lầm trong vấn đề giáo lý[35].

Thẩm quyền riêng của hàng Giám mục là cho áp dụng cụ thể các nguyên tắc và các điều tuyên bố ấy bằng các định hướng, các chỉ dẫn mang tính cách quốc gia, từng miền, từng địa phận, bằng các sách giáo lý và bằng mọi phương tiện khác mà các ngài phán đoán là thích hợp để thăng tiến giáo lý cho kết quả.

 Dĩ nhiên, tất cả các phần của Chỉ Nam không có tầm quan trọng giống nhau. Những phần đề cập tới mạc khải, tới bản chất của giáo lý, tới các tiêu chuẩn chỉ đạo việc loan báo sứ điệp Kitô giáo đều có giá trị cho mọi người. Ngược lại, các phần có liên hệ tới tình huống hiện tại, đến phương pháp luận và cách thức thích ứng giáo lý vào các lứa tuổi và các bối cảnh văn hóa khác nhau, nên được coi như là những chỉ dẫn và định hướng.

Cuốn Chỉ Nam chủ yếu nhắm vào các Giám mục, các Hội Đồng Giám mục và nói chung những ai thừa lệnh Giám mục và có trách nhiệm trong lãnh vực giáo lý. Dĩ nhiên cuốn Chỉ nam là một dụng cụ hữu ích cho việc đào tạo các thí sinh vào chức linh mục, cho việc thường huấn của các linh mục và để đào tạo các giảng viên giáo lý.

Một mục tiêu tức khắc của cuốn Chỉ Nam là giúp cho việc soạn thảo các hướng dẫn dạy giáo lý và các sách giáo lý. Hợp với các gợi ý trước đây của số đông Giám mục, cuốn Chỉ Nam này đã thêm vào nhiều ghi chú và nhiều qui chiếu nên chúng có thể rất ích cho việc khai triển các phương tiện này.

Khi được gởi tới các Giáo Hội địa phương, có những tình huống và những nhu cầu mục vụ rất khác nhau, vì thế cuốn Chỉ Nam chỉ có thể xem xét được các tình huống chung chung. Cũng phải hiểu như thế khi đề cập đến việc mô tả cách tổ chức giáo lý ở các cấp độ khác nhau. Khi sử dụng cuốn Chỉ nam nên để ý tới nhận xét này : Cũng giống như bản văn 1971 đã nhận xét, đối với những miền mà trình độ giáo lý đã cao, cả về thể chất lẫn phương tiện, cuốn Chỉ nam có thể không đầy đủ, nhưng ở nơi mà giáo lý chưa phát triển, nó lại có vẻ quá thừa.

Giáo Hội đã phổ biến tài liệu này như một chứng từ mới nói lên mối bận tâm ưu ái của Tòa Thánh đối với sứ vụ giáo lý : « Chúng tôi mong muốn nó được đón nhận, được kiểm tra và nghiên cứu kỹ lưỡng mà vẫn để ý tới các nhu cầu mục vụ của từng Giáo Hội địa phương. Chúng tôi cũng mong rằng tài liệu này sẽ đưa tới một sự nghiên cứu và tìm tòi sâu xa hơn để đáp lại các nhu cầu của giáo lý cũng như các quy tắc và các định hướng của huấn quyền Giáo Hội.

Xin Đức Trinh nữ Maria, ngôi sao chiếu sáng trên sự đổi mới trong việc rao giảng Tin Mừng, dẫn đưa chúng ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là Thầy và Chúa chúng ta »[36].

KẾT: Những chỉ dẫn của Giáo Hội trong 3 tài liệu nói trên cho ta một cái nhìn rõ ràng và chính xác hơn về đường hướng dạy giáo lý. Dạy giáo lý không phải là giúp chạy theo những nhu cầu hợp sở thích hay đáp ứng những đòi hỏi thời đại, nhưng là tìm cách khám phá kho tàng phong phú của Lời Chúa để giúp các kitô hữu sống đạo cách tốt đẹp giữa xã hội văn minh vật chất và luôn thay đổi. Theo đường hướng này, ta có thể xác định mục đích và nội dung của giáo lý.

[34]Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý năm 1997, phần giới thiệu

[35] Như trên

[36] Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý , phần mở đầu

Tu viện Dòng Mân Côi Chí Hoà 2009

SỐNG ĐẸP

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA

10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu

Những chia sẻ "10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu" do ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm Vui Sống Đạo" của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

6 - Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng

Phúc-âm cũng cho chúng ta thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã hội xếp loại không "đàng hoàng", Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan 2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ nạn bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp theo).

Thế nhưng lịch sử nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy rằng nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu nguyện hay sao!

Luca thuật lại rằng, sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống" (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn để cứu người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu...

Cái mới của Chúa Giêsu làm cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu thương phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt trong câu: "Hãy yêu rồi làm gì thì làm" (Ama et fac quod vis).

(còn tiếp)

Đức Hồng Y Px.  Nguyễn Văn Thuận

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

TIẾNG QUẾT BÁNH PHỒNG TRONG ĐÊM[1]...

Xưa mỗi độ xuân về, quê tôi nhà nào cũng làm bánh phồng, bánh tráng. Từ giữa tháng chạp âm lịch là nhộn nhịp hẳn lên, bà con xay bột tráng bánh, lựa nếp quết bánh phồng. Nhà nào không có hai loại bánh này cúng ông bà kể như không có tết.

Muốn quết ánh phồng người ta chọn nếp mùa ngon, dẻo, không lộn gạo để tránh khi ăn lợn cợn khó nhai. Nếp được ngâm vớt ra nấu thành xôi rồi bỏ vào chiếc cối giả gạo dùng chày quết cho nhuyễn, sau đó ngắt từng cục bột nhỏ để lên tờ lá chuối dùng ống trúc hoặc ống lồ ô thoa dầu dừa cán cục bột mỏng ra thành bánh phơi khô.

Bánh tráng làm bằng bột gạo lúa mùa, lọc sạch cặn bã rồi đổ lên miếng vải trắng bịt ngang miệng nồi nước đun sôi làm chín mang ra phơi. Để bánh tráng ngon bổ người ta còn trộn hạt mè vào bột. Bánh tráng chia làm hai loại: bánh tráng ngọt (có trộn đường) và bánh tráng trắng (không đường). Bánh tráng ngọt khi ăn phải nướng, bánh tráng trắng chỉ cần nhúng vào nước sạch cho mềm rồi gói thịt, cá, rau... làm gỏi cuốn.

Ngày xưa từ rằm tháng chạp âm lịch trở đi độ canh ba canh tư khi gà trống gáy rộ là nghe tiếng quết bánh phồng "ì ành" làng này sang làng khác như âm thanh báo hội xuân. Giờ đây tiếng quết bánh phồng trong đêm vào những ngày cận tết quê tôi đã lùi xa vào dĩ vãng kể từ khi nền công nghệ bánh phát triển rầm rộ. Tuy nhiên, với tôi, âm vang và hình ảnh ấy mãi còn đọng lại trong lòng mỗi lần tiết trời se lạnh, không gian huyền ảo nên thơ, nhiều hoa xuân khoe sắc bên đời.

Thành Nam (Cần Thơ)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

NĂM ĐỨC TIN: TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÍ TÍCH HÒA GIẢI

Bí tích hòa giải (reconciliation) là một trong các bí tích ban ơn cứu độ rất quan trọng và cần thiết mà Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ trước tiên và cho Giáo Hội ngày nay cử hành để ban ơn tha thứ của Chúa cho các hối nhân còn tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa.

Thật vậy, sau khi từ cõi chết sống lại và hiện ra với các Tông Đồ, Chúa Kitô đã nói với các ông  như sau: "Anh  em tha cho ai, thì người ấy được tha. Anh  em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ" ( Ga 20: 23)

Trước khi thọ nạn thập giá, Chúa Giêsu cũng đã trao quyền tha tội cho Phêrô, sau khi môn đệ này tuyên xưng Chúa là " Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống." ( Mt 16: 16)

"Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời : dưới đất anh cầm buộc điều gì trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" ( Sđd: 20: 19)

Trên đây là nền tảng Kinh Thánh của bí tích hòa giải mà Chúa Kitô đã thiết lập và trao cho các Tông Đồ trước khi Người về Trời.

Sở dĩ Chúa ban bí tích này là vì Người biết rõ con người vẫn còn yếu đuối sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội. Còn yếu đuối  và dễ nghiêng chiều về  sự xấu trong bản tính đã bị băng hoại vì Tội Nguyên Tổ (original sin) cộng thêm  với ý muốn tự do (Free will) mà Thiên Chúa luôn  tôn trọng cho con người sử dựng,  cho nên nguy cơ phạm tội còn đó . Vì thế  Chúa đã ban bí tích hòa giải để giúp con người nối lại tình thân với Chúa  sau khi đã lỡ  phạm tội cá nhân vì yếu đuối và  nhất là vì ma quỷ cám dỗ và gương xấu của thế gian. Bao lâu còn sống trong thân xác có ngày phải chết  này,  thì bấy lâu con người còn phải chiến đấu,  hay bị giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa sự  tốt và sự xấu trái nghịch nhau  như ánh sáng và bóng tối. Do đó, "anh  em  hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh  em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế." ( 1 Pr 5 : 8-9).

Đó là lời khuyên dạy của Thánh Phêrô Tông Đồ.

I- Nhưng trước hết phải hiểu rõ thế nào là tội và có mấy loại tội

Con người ngày nay, phần nhiều  đã mất hết ý thức về tội nên đã thi nhau làm những điều tự bản chất là sai trái, là vô luân  như ăn gian, nói dối, trộm cắp,  dâm đãng, ngoại tình, cờ bạc, giết người, phá thai,  buôn bán ma túy, súng đạn giết người, sách báo phim ảnh dâm ô, nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghê mãi dâm, hoặc làm nô lệ tình dục  cho người nước ngoài  dưới chiêu bài "hôn nhân ngoại quốc" hay " lao động nước ngoài".Nhiều tín hữu cũng mất ý thức về tội nên đã coi thường hay không muốn đi xưng tội nữa dù đã làm những việc mà thực chất là có tội.

Những hình thức của tội lỗi  nói trên đây đã  ít nhiều  xúc phạm đến Thiên Chúa là tình thương, là công bình và thánh thiện. Do đó, khi ta làm bất cứ điều gì xúc phạm đến tình thương, sự công bình và thiện hảo  thì đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa là hiện thân của Chân, Thiện Mỹ tuyệt đối.

Giáo lý Công Giáo cũng dạy rằng: "Tội lỗi chống lại tình thương của Thiên Chúa dành cho ta và khiến trái tim ta xa lìa tình yêu đó. Cũng như tội nguyên thủy, tội lỗi của ta là một sự bất phục tùng, một sự phản loạn chống lại Thiên Chúa..." ( x. SGLGHCG số 1850)

Thánh Phaolô đã  liệt kê những tội con người có thể phạm như sau: "Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, nghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo cho mà biết như tôi đã từng bảo : những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa." ( Gl 5:19-21)

Thánh Gioan cũng quả quyết rằng " Mọi điều bất chính trên đều là tội." ( Ga 5 : 17)

II- Giáo Hội phân biệt tội thành hai loại: tội trọng và tội nhẹ

1. Tội trọng (mortal sin) là tội tự bản chất nó là sự dữ  như giết người, hiếp dâm, ngoại tình., tiếp tay với quân khủng bố đặt bom giết hại người khác, nhất là  chối bỏ hay lăng mạ  Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, công khai chối đạo ...

Ngoài bản chất là nghiêm  trọng, tội trọng chỉ thành tội khi người ta đã biết rõ tính chất nghiêm  trọng đó mà vẫn cố tình phạm với ý muốn tự do ( free will).Tội trọng phá hủy hoàn toàn đức ái và và cắt đứt  mọi tình thân đối với Chúa vì đã chống lại Người cách quá nặng nề.

Do  đó, nếu ai chết trong khi đang mắc tội trọng mà không kịp xin tha qua bí tích hòa giải thì sẽ chiu hình phạt hỏa ngục ( x. SGLGHCG số 1035).

2. Tội nhẹ (Venial sin): không cắt đứt tình thân với Chúa nhưng cũng xúc phạm đến Người và làm tổn thương phần nào đức ái (x.  SGLGHCG số 1855)

Đây là giáo lý của Giáo Hội mà mọi tính hữu phải tuân thủ cho được hiệp thông với Giáo Hội trong mục đích yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa và thực hành các giới răn của Người  hầu được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Cũng  theo giáo lý của Giáo Hội thì mọi tội nặng hay nhẹ đều có thể được tha qua bí tích hòa giải nếu  hối nhân còn tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa và thật lòng ăn năn sám hối. Chỉ có một tội không thể tha được, đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn và không còn tin tưởng gì nơi lòng thương xót của Chúa nữa.

Liên quan đến bí tích hòa giải, không thể quan niệm rằng người tín hữu trưởng thành không cần giữ Đạo cách "cổ xưa" với việc tuân giữ luật lệ. Nếu việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội là không "hợp thời" và cần thiết thì tạo sao Thiên Chúa lại ban 10 điều răn cho con người tuân giữ để được chúc phúc và tại sao Chúa Kitô đã nói với các môn đệ xưa điều này: "Nếu anh  em yêu mến Thầy anh  em sẽ giữ các điều răn của Thầy" ( Ga 14: 15).

Như thế, yêu mến Chúa đồng nghĩa với việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Và nếu không tuân giữ thì đã phạm tội chống lại Chúa là tình thương, công bình, bác ái và thánh thiện, vì mọi tội con người có thể phạm đều liên hệ ít nhiều đến các đặc tính trên đây của Thiên Chúa.Cụ thể : giết người hay âm mưu sát hại người khác là chống lại bản chất yêu thương, nhân từ của Chúa. Trộm cắp, gian  tham, lừa đảo là phạm đến sự công bình của Chúa. Dâm ô - đặc biệt là tội ấu dâm rất khốn nạn ( child prostitution)- là xúc phạm nặng nề đến  sự thánh thiện, trong sạch  của Chúa . Do đó, muốn sống đẹp lòng Chúa và  nhiên hậu được cứu độ thì mọi người có niềm tin yêu Chúa phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội mới đẩy chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa là Đấng yêu thương và "muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý." ( 1 Tm 2 : 4) nhưng lại gớm ghét mọi tội lỗi vì  nó hoàn toàn đi ngược lại  với bản chất yêu thương,  nhân từ , công bình và thánh thiện của Người.

III- Tại sao cần phải xưng tội và xưng cách nào ?

Như đã giải thích ở trên, tội là một thực thể và một thực tế (entity and reality) trong trần gian và trong mỗi người chúng ta. Không ai có thể nói là mình không có tội nào như Thánh Gioan đã quả quyết: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta." (1 Ga 1: 8)

Nhận biết mình có tội thì lời mời gọi là hãy sám hối và xin Chúa tha thứ. Chúa ghét mọi tội nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết ăn năn xin tha thứ, như Chúa Giêsu đã đối xử  với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và bị bọn Biệt phái dẫn đến xin Chúa cho ném đá. Chúa đã không ném đá và chỉ nói với chị kia rằng " ..Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ  về  đi, và từ nay đừng phạm tội nữa." (Ga 8: 11).

Qua lời  Chúa trên đây, chúng ta hiểu rõ lòng nhân từ  và khoan dung của Chúa đối  với kẻ có tội, nhưng cũng không muốn ai lợi dụng lòng nhân từ đó để cứ phạm tội, cứ lấy cớ  Chúa  yêu thương tha thứ  để  không quyết tâm cải  thiện đời sống và xa tránh mọi tội lỗi. Đành rằng là con người,  ai cũng yếu đuối  trong bản tính, nhưng nếu ta quyết tâm và nương nhờ ơn Chúa phù giúp  thì chúng ta mới có thể đứng vững được  trước mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, ví như "sư tử  gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé" ( 1 Pr 5: 8), của xác thịt yếu đuối  dễ sa ngã và  của gương xấu đầy rẫy ở mọi môi trường sống.

Nói rõ hơn, nếu ta không có thiện chí xa lánh tội và mọi cơ hội đưa đến phạm tội, để rồi cứ sa đi ngã lại,  thì Chúa không thể cứu ai được mặc dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô  là vô giá, và đủ cho ta được cứu rỗi.Nhưng dù là đủ,  Chúa vẫn còn mong đợi nơi thiện chí công tác của con người vào ơn cứu độ, vì con người còn có tự do để cộng tác  hay khước từ  ơn cứu độ và tình thương của Chúa để sống theo ý riêng mình..Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã cảnh cáo những ai không quyết tâm chừa tội và sống theo đường lối của Chúa  mà cứ đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh như sau:

"Ta biết việc các ngươi làm.: ngươi chẳng nóng và cũng chẳng lạnh.Phải chi ngươi  lạnh hẳn hay nóng hẳn đi !  nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" ( Kh 3 : 15-16)

IV- Xưng tội là một tiến trình hoán cải đả trở nên hoàn hảo hơn

Như đã nói ở trên, Chúa Kitô ban bí tích hòa giải vì Người biết trước con người sẽ còn phạm tội cá nhân nhiều lần nữa, sau khi được rửa sạch một lần hậu quả của tội nguyên tổ qua phép Rửa.

Phạm tội vì yếu đuối thì khác với cố tình không quyết tâm chừa tội để rồi lại tái  phạm nhiều lần nữa. Cha giải tội có thể không ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng mãi một tội vì  không cố gắng chừa bỏ..

Trong Tin Mừng Thánh Lu ca, để trả lời cho  một số người đến hỏi Chúa xem có  phải  những người  Ga li-Lê  bị Tổng trấn Phi-la-tô giết chết, lấy máu hòa lẫn với tế vật là vị họ tội lỗi hơn những người khác hay  không, Chúa Giêsu đã trả lời họ như sau: " ...Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy." ( Lc 13 : 3)

Như thế có nghĩa là chúng ta phải cố gắng chừa tội và sám hối về những việc sai trái đã làm.

Sám hối  là nhìn nhận mình có tội,  ăn năn chừa bỏ và  mau kíp chạy đến với Chúa qua bí tích hòa giải để được tha thứ và giao hòa lại với Chúa và với Giáo Hội.

Khi đi xưng tội , mọi hối nhân cần lưu ý hai điều quan trọng sau đây:

  1. Phải hoàn toàn tin tưởng có Chúa Kitô hiện diện  trong các thừa tác viên con người là Giám mục hay Linh mục. Chính Chúa nghe  và tha tội cho ta qua tay các thừa tác viên.

  2. Do đó, phải thành thật xưng các tội nặng nhẹ đã phạm vì yếu đuối con người, kể cả những tội kín thuộc các giới  răn thứ sáu và thứ chin. Nếu không thành thật xưng ra các tội mình đã phạm , nghĩa là có ý dấu không xưng một tội nào thì việc xưng tôi sẽ không thành và không đáng được Chúa tha thứ qua trung gian của thừa tác viên. ( x. SGLGHCG số 1505)

Xưng tội là dịp cho ta nhớ đến lòng thương xót tha thứ của Chúa sau khi nhận  biết tội lỗi mình đã xúc phạm đến Chúa.Nhưng phải có quyết tâm từ bỏ tội với ơn Chúa nâng đỡ để không sa đi ngã lại. Đây là tiến trình trở nên hoàn hảo hơn như Chúa mong muốn cho mỗi người tín hữu chúng ta. Nói rõ hơn, không phải cứ theo thói quen lâu lâu đi xưng tội để cho an tâm rồi lại không quyết tâm từ bỏ tội lỗi nên lại tái phạm để rồi lại đi xưng tội. Sống đức tin kiểu này thì quả thật xứng đáng để nghe lời Chúa cảnh cáo trên đây.

Nói khác đi, phải quan niệm đúng đắn hơn về bí tích hòa giải. Đây phải là phương thế hữu hiệu để giúp con người  không những lấy lại tình thân với Chúa  mà còn giúp ta dần dần trở nên hoàn hảo về mặt thiêng liêng qua quyết tâm từ bỏ tội lỗi để  trở nên thánh thiện như Chúa Kitô đã kêu gọi: "Anh  em phải nên thánh (nên hoàn hảo) như  Cha anh  em ở trên Trời là Đấng toàn thiện." ( Mt 5: 48)

Trở nên thánh thiện hay hoàn hảo là trở nên giống Chúa  là Đấng trọn tốt trọn lành, là suối nguồn an vui và hạnh phúc của các Thánh và các Thiên Thần. Do đó, phạm tội hay sống trong tội là tự ý xa lìa Chúa và không muốn được cứu độ để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Tóm lại,  Bí tích hòa giải không chỉ đơn thuần tha các tội nặng nhẹ con người có thể phạm mà còn là phương thế hữu hiệu để giúp con người  trở nên hoàn thiện, qua cố gắng xa tránh mọi tội lỗi để trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối..

Chính trong chiều kích thiêng liêng nói trên mà mọi tín hữu được mời gọi  cách riêng trong Năm Đức Tin  này là  hãy siêng năng  đến với bí tích hòa  giải trong tâm tình  ca tụng và cảm tạ  tình thương , tha thứ  vô biên của Chúa và  cũng để nói lên quyết tâm cải thiện đời sống thiêng liêng bằng cố gắng chửa bỏ dần dần  mọi tội lỗi như một thiện chí muốn trở nên hoàn hảo hầu xứng đáng được "thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này" như Thánh Phêrô đã mời gọi ( 2 Pr 1 : 4).

Ước mong mọi quí tín hữu suy nghĩ và thực hành mục đích của bí tích hòa giải trong Năm Đức Tin này.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nguòn: conggiaovietnam.net

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

10 Cách Để Sống Năm Đức Tin

Để làm nổi bật kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II và 20 năm phát hành Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Đức Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 và kết thúc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013. Năm Đức Tin nhằm củng cố đức tin cho người Công giáo và qua gương mẫu của họ đưa thế giới đến với đức tin.

Đức Cha David Ricken của Giáo phận Green Bay, chủ tịch Uỷ ban Truyền giáo và Giáo lý trực thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đề nghị "10 cách để sống Năm Đức Tin". Các đề nghị này được lấy từ những hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, vài đề nghị trong số này đã là những đòi hỏi dành cho người Công giáo; những điểm khác có thể được người công giáo thực hiện vào mọi lúc và đặc biệt trong Năm Đức Tin:

1. Tham dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có ý thăng tiến việc mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Điều này xảy ra hầu như ngay lập tức nơi Bí tích Thánh Thể. Tham dự Thánh Lễ thường xuyên làm đức tin tăng trưởng qua Kinh Thánh, Kinh Tin Kính, các lời nguyện, Thánh nhạc, bài giảng, việc rước lễ và thông phần với cộng đoàn đức tin.

2. Đi xưng tội. Giống như đi dự lễ, người Công giáo tìm thấy sức mạnh và đào sâu đức tin của mình qua việc tham dự Bí tích Sám Hối và Hoà Giải. Việc xưng tội thúc đẩy con người quay về với Thiên Chúa, diễn tả lòng đau xót vì đã sa ngã và mở đời sống mình cho quyền năng chữa lành của Thiên Chúa. Việc xưng tội tha thứ những tổn thương của quá khứ và ban sức mạnh cho tương lai.

3. Học hỏi đời sống của các thánh. Các thánh là những gương mẫu vượt thời gian về cách sống đời Kitô hữu, và các ngài giúp cho niềm hy vọng được tiếp diễn không ngừng. Các ngài không chỉ là những tội nhân đã liên tục cố gắng gần gũi với Thiên Chúa, mà còn là ví dụ điển hình những cách thức mà một người có thể phụng sự Thiên Chúa: qua việc giảng dạy, truyền giáo, bác ái, cầu nguyện và đơn sơ cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong các hoạt động và quyết định bình thường của đời sống hằng ngày.

4. Đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh cung cấp con đường trực tiếp đến với Lời Thiên Chúa và kể về lịch sử ơn cứu độ con người. Người Công giáo có thể cầu nguyện bằng Kinh Thánh (bằng phương pháp lectio divina hoặc các phương pháp khác) để trở nên hòa hợp hơn với Lời Thiên Chúa. Nói cách khác, Kinh Thánh là một điều đòi buộc để trưởng thành trong Năm Đức Tin.

5. Đọc các văn kiện của Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II (1962-65) mở ra một cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội. Công đồng định hình cách cử hành Thánh Lễ, vai trò của giáo dân, cách Giáo Hội hiểu về chính mình, tương quan của mình với những Kitô hữu khác và những người không phải Kitô hữu. Để tiếp tục cuộc canh tân này, người công giáo phải hiểu những điều Công đồng dạy và cách thức làm cho đời tín hữu nên phong phú.

6. Học Giáo lý. Được xuất bản đúng 30 năm sau khi Công đồng khai mạc, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo bao trùm những điều phải tin, các giáo huấn luân lý, việc cầu nguyện và các bí tích của Hội Thánh Công Giáo trong một quyển duy nhất. Đó là nguồn giúp gia tăng sự hiểu biết đức tin. Một nguồn hữu ích khác là Sách Giáo lý Công giáo của Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành (USCCA).

7. Tham gia các sinh hoạt của giáo xứ. Năm Đức Tin không thể chỉ có việc học hỏi và suy niệm. Sự hiểu biết vững chắc về Kinh Thánh, Công đồng và Giáo lý phải chuyển thành hành động. Giáo xứ là một nơi tuyệt vời để bắt đầu, và ơn riêng của mỗi người giúp xây dựng cộng đoàn. Mọi người được mời gọi tham gia các việc như tiếp tân, ca hát trong phụng vụ, đọc sách, giáo lý viên, và các vai trò khác trong đời sống giáo xứ.

8. Giúp những người khốn khó. Toà Thánh khích lệ người Công giáo đóng góp cho việc bác ái và tình nguyện giúp đỡ người nghèo trong Năm Đức Tin. Điều này có ý làm cho mỗi cá nhân gặp được Chúa Kitô nơi người nghèo, người sống bên lề xã hội và những người dễ bị tổn thương. Giúp đỡ người khác khiến cho người Công giáo diện đối diện với Chúa Kitô và tạo nên một gương mẫu cho những người khác trong thế gian này.

9. Mời một người bạn đến dự Thánh Lễ. Năm Đức Tin có tính toàn cầu, tập trung vào việc canh tân đức tin và việc truyền giáo của toàn thể Hội Thánh, tuy nhiên sự thay đổi thật sự xảy ra ở bình diện địa phương. Một lời mời cá nhân có thể làm thay đổi hoàn toàn một người nào đó đang xa rời đức tin hoặc cảm thấy xa lạ với Hội Thánh. Ai cũng quen biết những người như thế, do đó ai cũng có thể gởi đi một lời mời gọi yêu thương.

10. Làm cho các mối phúc thấu nhập vào đời sống hằng ngày. Các mối phúc (Matthêu 5,3-12) vạch nên một kế hoạch chi tiết phong phú cho việc sống đời Kitô hữu. Các mối phúc chứa đựng sự khôn ngoan giúp cho mọi người khiêm tốn hơn, kiên nhẫn hơn, công bằng hơn, trong sáng hơn, yêu thương hơn, tha thứ nhiều hơn và tự do hơn. Đó chính là mẫu đức tin sống động, cần có để lôi kéo người ta đến với Hội Thánh trong năm sắp tới.

 Biên dịch: Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo


[1] Cuộc thi " Cảm xúc về hàng Việt, đặc sản Việt với cái Tết cổ truyền của dân tộc", trích báo Tuổi Trẻ, Số 5/2013, trang 6.

1593    09-01-2013 07:29:29