Sidebar

Thứ Ba
23.04.2024

Trách Nhiệm Giáo Dục Đức Tin Của Gia Đình - Tháng 08 năm 2009

TÒA GIÁM MỤC VĨNH LONG
103 đường 3/2 VĩnhLong
26.4.2009

Vĩnh Long, ngày 31.08.2009

V/v Gia đình và trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cái

Kính gởi : Các Linh mục,
Các Tu sĩ Nam Nữ
Anh Chị Em giáo dân Giáo phận Vĩnh Long

Anh chị em thân mến,
1. Nói về gia đình là nói chuyện nhà, chuyện nhà chúng ta, chuyện liên hệ đến mọi người. Khi tác thành nhân loại, Thiên Chúa không muốn con người cô độc, nhưng muốn con cái loài người sống có đôi có bạn, rồi Chúa còn cho họ được thân thiện với Ngài, trở thành người nhà của Ngài, khi cho họ ở trong vườn của Ngài. Bởi đó, khi sinh xuống làm người, Chúa Giêsu đã đến nhà của Người, tiếc thay gia nhân của Người lại không đón tiếp Người (Gioan 1,11).

2. Tổ tiên của chúng ta đã nhờ ơn Chúa mạc khải mà học biết Thiên Chúa, học biết ơn gọi của mình. Còn chúng ta thì nhờ ai ?

Ai có quyền và có nhiệm vụ để truyền đạt đức tin cho con cái hơn cha mẹ? Cũng như cha mẹ là những người gần gũi, chăm sóc con mình từ những giây phút đầu tiên, họ phải tự giới thiệu chính mình cho con cái, rồi cũng giới thiệu ông bà, anh chị cho con cái, đồng thời cũng tập cho con cái biết lễ phép với họ hàng; không những thế, cha mẹ còn nêu gương hiếu thảo cho chúng. Vì thế, gia đình phải là trường dạy đức tin cho con cái trước tiên. Cha mẹ không chỉ bảo cho chúng nó biết điều gì là tốt, điều gì phải làm, thì ai sẽ chỉ cho chúng nó. Nhờ có được sự cộng tác của gia đình, Nhà Thờ mới tiếp tục việc giáo dục đức tin cho các tín hữu một cách hữu hiệu.

3. Để trở thành gia đình đạo đức, cha mẹ lo cho con cái sớm được rửa tội, trở thành con của Chúa. Khi con vừa bập bẹ gọi ba má, thì dạy cho biết làm dấu Thánh Giá, cho nghe những bài thánh ca, rồi cùng với cha mẹ, anh chị đọc kinh trước bàn thờ Chúa, đọc kinh trước các bữa ăn . Sau đó cha mẹ phải cho con làm quen với Nhà Thờ, với các lớp giáo lý, tham dự Thánh Lễ, chuẩn bị Xưng tội và Rước lễ lần đầu, sinh hoạt với các em Thiếu Nhi Thánh Thể, tham gia Ban Giúp Lễ, Ban Hát, sinh hoạt với các Bạn Trẻ trong Họ Đạo… Tất cả nhằm lo cho con có được tuổi thơ êm đẹp , tuổi trẻ hạnh phúc. Việc giáo dục đức tin thật quan trọng và cần thiết biết bao ! nhưng đòi nhiều hy sinh và kiên nhẫn. Người trồng cây thì phải ra công chăm sóc, nhà giáo dục phải biết trân trọng và ân cần hướng dẫn không ngừng.

4. Trường hợp hôn nhân khác đạo không thể coi là bình thường, vì sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Người bạn Công giáo, đơn độc, một đàng phải chu toàn bổn phận thiêng liêng của mình đàng khác phải lãnh lấy trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cái, mà thường khi lại thiếu sự cộng tác của người bạn không Công giáo. Thế nên đâu có đơn giản như người ta nghĩ : Đạo ai nấy giữ ! Làm sao có thể là môi trường giáo dục đức tin thuận lợi !

Trong hành trình sống đạo ở trần gian nầy, chúng ta không thể chèo chống một mình, cần phải đồng hành với những người khác. Chúng ta nhớ lại lời của Đức Gioan Phaolô II: "Khi vì yêu thương mà kêu gọi chúng ta vào cuộc sống, Thiên Chúa cũng đồng thời mời gọi họ sốngcho tình yêu" (TH về Gia đình, 11). Những người đầu tiên được Thiên Chúa quan phòng sắp đặt cho đồng hành với chúng ta là gia đình của chúng ta, là những người thân thương nhất của chúng ta. Chính vì thế chúng ta phải học sống ơn gọi làm người, ơn gọi sống hạnh phúc trước tiên trong gia đình. Mỗi người đều có trách nhiệm bảo vệ gia đình, tránh mọi nguy cơ phá đổ gia đình, nhất là trong một xã hội dung túng cho thứ tự do quá trớn, đánh mất ý thức đạo đức. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh của tình thương, của sự tôn trọng nhau, dựa trên lòng tin vào Thiên Chúa của Lòng Thương Xót vô biên

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
                            
Giám mục Vĩnh Long


CHỦ ĐỀ:  TRÁCH NHIỆM GIÁO DỤC ĐỨC TIN CỦA GIA ĐÌNH

I. THƯ MỤC VỤ số 14

"Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa là "nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời đưới đất"(Ep 3,15), (Tông Huấn Gia Đình, số 14). Thiên chức làm cha mẹ nhắn nhủ những bậc phụ huynh có trách nhiệm thông truyền đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Chính cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên cho con cái. Hãy giới thiệu cho con cái biết Thiên Chúa ngay khi con còn bé qua những lời nguyện bập bẹ đơn sơ và cử chỉ đơn giản (làm dấu Thánh Giá, vòng tay, cúi đầu...). Những lời cầu nguyện ngắn gọn, những nội dung giáo lý căn bản, những câu chuyện lấy từ Thánh Kinh, nếu được cha mẹ ân cần chỉ bảo, sẽ tạo nơi các em một nền tảng giáo lý vững chắc và một đời sống thiêng liêng sâu đậm sau này. Trách nhiệm của cha mẹ không dừng lại ở đó, mà còn thể hiện qua việc hướng dẫn, nhắc nhở con em mình đi học giáo lý, tham gia các hội đoàn đạo đức để trưởng thành hơn trong đời sống đức tin.

Hình ảnh một gia đình công giáo Việt Nam được ghi đậm nét do việc mọi thành viên cùng cầu nguyện chung với nhau. Giờ cầu nguyện chung giúp các thành viên trong gia đình gần gũi và có trách nhiệm với nhau hơn. Cầu nguyện chung là yếu tố quan trọng giúp hòa giải những mâu thuẫn gia đình và làm cho mọi người dễ tha thứ cho nhau.

II. DẪN GIẢI

Cha mẹ có nhiệm vụ dạy dỗ hướng dẫn con cái có đức tin.

Ngay khi còn bé, cũng tìm cách cho con cái nhận biết có Chúa, Chúa cao cả, Chúa yêu thương. Khi con cái lớn lên cũng phải biết liệu cách (đi học) cho chúng tìm học biết Chúa.

Dạy cả những tác động, cử chỉ, tôn thờ (làm dấu….cúi mình).

Dạy chúng cầu nguyện…giao tiếp với Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tin mến Chúa và biết cầu nguyện.

III. CHUYỆN MINH HOẠ

NHỮNG ANH CHÀNG KHÔNG CHỊU…LỚN

Những anh chàng “không chịu lớn” đang có xu hướng ngày càng nhiều lên ở nước ta. Rõ ràng phương pháp dạy con của một số bậc cha mẹ cần phải xem lại. Nếu không, vô tình sẽ tạo nên một thế hệ những chàng trai không bao giờ trưởng thành.

Đây là thư của một cô gái gửi anh chồng sắp cưới chưa chịu…trưởng thành để làm người đàn ông thực thụ.

Chỉ còn một tháng nữa là cận kề ngày cưới. Tự dưng em không khỏi lo sợ, nhất là sau khi mẹ anh gọi em tới nói chuyện. Câu chuyện của mẹ không có gì to tát mà rất gần gũi, gần gũi tới cả những món đồ anh hay sử dụng trong nhà. Mẹ kể về anh với một nổi lo lắng cho ngày hai đứa mình ra ở riêng thế cũng đủ làm em sốc.

“Nó rất sạch sẽ, đồ mặc trong ngày đều thay ra và phải được giặt luôn…Dọn phòng riêng của nó thì không được xê dịch một thứ gì để lúc cần nó đỡ mất công tìm…Buổi sáng con chịu khó dậy sớm, nấu đồ ăn cho nó, vì ra ngoài ăn, nó rất ghê miệng, mẹ sẽ chỉ cho con những món thông dụng. Ngoài ra quần áo của nó vẫn hay may ở một tiệm, thi thoảng nó mới ra đo lại, con chỉ việc chọn vải và mang về cho nó. Mấy thứ đồ nhỏ nữa. Con lo luôn cho nó, nó ngại lựa chọn những món vặt vãnh lắm…”

Em không nói gì đến chuyện chiều con của mẹ, bởi mẹ về hưu rồi, kh ông chăm sóc cậu quý tử thì biết làm gì nữa. Nhưng trời ơi! Tại sao anh, người chồng tương lai của em đến ba mươi tuổi rồi mà vẫn lệ thuộc mẹ, cả những việc quá đỗi nhỏ nhặt như thế?

Chồng của em dù không qua đỗi thành công như người khác, nhưng so với cùng lứa, anh cũng tạo dựng được cho mình một công ty nhỏ với ần 20 nhân viên. Chồng của em chín chắn, phong độ, ra ngoài như “ông lớn” khiến thiên hạ kính nể, thế mà vẫn chỉ là cậu nhỏ trong nhà.

Anh muốn sống riêng để vợ chồng mình không bị bố mẹ xét nét. Nhưgn sống riêng mà ngay cả những điều nhỏ nhặt anh cũng không thể tự lo cho mình, hoá ra sự tự lập của anh vẫn chỉ là hình thức thôi ư? Hay anh sống riêng như thể một chú bé con lên cơn ngông cuồng chứng minh khả năng mình trước bố mẹ?

Hốt nhiên em nghĩ đến những đứa con trong tương lai của chúng mình. Sẽ là cái cảnh anh ngủ riêng để đêm đêm con có quấy khóc đòi sữa cũng không làm anh thức giấc. Thi thoảng anh sẽ về ôm con, khen nựng, còn nếu nó nhỡ ị đùn, thì vội nhăn mũi, tránh xa, không thay nổi cái tã. Bởi chồng em đến những việc nhỏ nhất của bản thân như dọn dẹp phòng riêng, giặt quần áo, mua vật dụng cho mình còn không làm được kia mà!

Anh sẽ tống hết việc nhà vào tay em trong khi chúng ta cùng phải lao động, cùng phải kiếm tiền, cùng phải nghĩ cách tiến thân trog một cuộc sống quá ư bon chen và nhiều biến động như bây giờ.

Ai cùng bảo đó là chuyện nhỏ, ngay cả bố mẹ em. Nhưng có thật nó nhỏ nhặt không? Thực tế có biết bao đôi lấy nhau vừa chuyển từ giao đoạn vợ chồng son sang ngưỡng bố mẹ trẻ đã hục hặc, chia tay. Nguyên nhân do đâu, em e rằng một phần không nhỏ là từ những điều nhỏ nhặt như thế đấy.

Liệu mình có phải là cặp tiếp theo không anh? Đàn ông hay trêu nhau cưới vợ là bị gông cùm, nhưng xem ra cái gông của anh còn nhẹ lắm, nếu so với cái gông mà em tự xích lên cổ.

NGỌC LƯƠNG (Báo Thanh Niên 18-07-2009)

Trong việc giáo dục nhân cách, đặc biệt giáo dục đức tin cho con em chúng ta, điều căn bản là phải giúp trẻ từng bước trưởng thành, để chúng có thể phát triển và chịu trách nhiệm về mình, bằng những lời dạy bảo, nhất là qua gương sáng mà chúng được hun đúc từ tình yêu và niềm tin của chính cha mẹ mình, những người thầy đầu tiên và chính yếu trong cuộc đời.

IV. DIỄN GIẢI

Ai trong chúng ta cũng muốn gia đình của mình là một mái ấm. Mái ấm của gia đình Kitô hữu là có Chúa Giêsu hiện diện, nơi chan hoà tình yêu thương nhau, vì Chúa là nguồn mạch yêu thương (x. 1Ga 4,8 ).

Thực tế ngày nay cho thấy khá nhiều gia đình khi còn thiếu thốn, khó khăn thì chung vui đầm ấm, giữ đạo nghiêm túc; nay khấm khá, dư giã thì gia đình trở nên mong manh, dễ vỡ, đời sống đức tin sa sút. Làm sao hài hoà được mong muốn giàu có, thành đạt, mà vẫn chan hoà yêu thương và lớn lên trong đức tin của mình?

Có người cả đời nhặt nhạnh, chắt chiu xây tổ ấm, vậy mà có khi giật mình nhìn lại, chợt chua xót nhận ra, dưới mái nhà đầy đủ tiện nghi là cả một khoảng trống lạnh, lạnh hơi người, lạnh tình, lạnh nghĩa...lạnh cả niềm tin.

Một triết gia phương Tây từng nói: “Dù tồi tàn đến đâu, không nơi nào trên thế giới có thể sánh được với mái ấm gia đình”. Thật vậy, chính cha mẹ là những người có quyền và có bổn phận gầy dựng gia đình của mình trở thành mái ấm. Sự thiếu vắng thường xuyên của cha mẹ trong việc quan tâm chăm sóc con cái là một trong những nguyên do chính yếu dẫn đến những khoảng trống về nhân cách và đức tin nơi con cái, không gì bù đắp được. Bởi vì xã hội có thể dạy chúng ta bài học kiếm sống, những va vấp nhớ đời, chứ không thể kiên trì yêu thương, uốn nắn, sửa sai, hướng dẫn một cách trung thực vô điều kiện và không bao giờ từ khước ta bất cứ điều gì!

Vậy đâu là tầm quan trọng của cha mẹ trong việc thông truyền đức tin cho con cái?

Trước hết, cần xác định không ai có thể thay thế cha mẹ trong vai trò giáo dục con cái. Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo của Công Đồng Vaticanô II viết: “Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được” (Gravissimum Educationis số 3). Cha mẹ chính là những người thầy đầu tiên và chính yếu trong việc hình thành nhân cách đức tin của con cái.

Việc giáo dục con cái phát xuất từ chính ơn gọi vợ chồng là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi đôi vợ chồng cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh ra một con người mới thì họ cũng được quyền làm cha mẹ đối với con cái mình. Như vậy, sinh sản và giáo dục con cái gắn liền với nhau trong ơn gọi vợ chồng. Đó cũng là lý do tự nhiên đòi hỏi cha mẹ phải chung thủy với nhau, vì trách nhiệm đối với cả thế hệ mai sau của con cháu.

Nhiệm vụ giáo dục của cha mẹ là làm cho con cái trở nên môn đệ của Chúa: “Nhờ ơn bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc quyền giáo dục đức tin cho con cái. Cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của đức tin, khai tâm cho con về các mầu nhiệm đức tin từ lúc chúng còn nhỏ. Họ phải đưa con cái, hòa nhập vào đời sống của Hội Thánh ngay từ lúc còn thơ bé. Nếp sống gia đình có thể tạo nên những tâm tình tốt đẹp, chuẩn bị và nâng đỡ đức tin sống động cho con trong suốt cuộc đời” (GLCG 2225).

Để chu toàn nhiệm vụ quan trọng nầy, cha mẹ cần phải nên gương sáng cho con cái. Chính từ cách sống đạo hằng ngày nơi cha mẹ sẽ dần hình thành nơi con cái, theo tuổi tác ngày một lớn lên, đời sống đức tin, cũng theo đó, tăng trưởng hơn. Chính bằng tình yêu chung thủy và đời sống cầu nguyện, cha mẹ giúp hình thành đức tin nơi con cái của mình ngày một trưởng thành hơn.

Nét đặc thù của đức tin Công giáo là mối quan hệ tình yêu có tính cách cụ thể và cá nhân. Người tín hữu tin vào Thiên Chúa chính là sống mối quan hệ trực tiếp và riêng tư với Đức Giêsu Kitô, Đấng đã mặc lấy xác phàm vì yêu thương nhân loại. Chính vì thế trước khi nói về việc thông truyền đức tin cho con cái, cha mẹ phải thương và thông truyền tình yêu cho con cái.

Việc thông truyền Đức Tin đặt trên nền tảng tình yêu sẽ dễ dàng được tiếp nhận và mang nhiều hoa quả.Trong mọi lứa tuổi của con cái, gương lành của cha mẹ là phương thế tuyệt hảo nhất để giáo dục con cái. Nếu bậc Cha Mẹ Cao Niên - trở thành Ông Bà Nội Ngoại - tiếp tục đậm đà yêu nhau thì chính cuộc sống yêu thương sẽ thông truyền cho con cái cháu chắt niềm bình-an và hạnh-phúc. Chứng tá yêu thương là hình ảnh thực tiễn nhất minh chứng mối tình trung tín suốt đời. Đây là gương lành tuyệt đẹp cha mẹ ông bà nói với con cháu: Tình yêu kéo dài mãi mãi. Chính trên tình yêu vô điều kiện và không giới hạn mà Đức Tin Công Giáo được xây dựng và được thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia.

Làm thế nào để huấn luyện cho con cái có một đức tin trưởng thành? Đức tin là một ơn ban của Thiên Chúa, nhưng đòi hỏi sự cộng tác của con người để tăng trưởng. Muốn có một đức tin trưởng thành cần phải sống đời cầu nguyện, thường xuyên gặp gỡ, kết hợp nên một với Chúa, qua việc tham dự các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể, qua giờ kinh sớm tối trong gia đình, qua các việc tôn sùng, nhất là việc lần chuổi Môi khôi “một trong những kinh nguyện tốt và có hiệu quả nhất mà gia đình Kitô giáo được mời gọi để đọc” (Familiaris Consortio, số 61). Đức tin trưởng thành là một đức tin ăn rễ sâu nơi tình bằng hữu với Chúa Kitô, theo ĐTC Bênêđictô XVI.

Sự trưởng thành trong đức tin giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ về sự hiện hữu của Thiên Chúa, về tình thương và quyền năng vô biên của Người, về sự quan phòng kỳ diệu của Người trong mọi biến cố cuộc đời.

Một đức tin trưởng thành là mục đích mà các cha mẹ Công giáo phải nhắm tới cho con cái, để chúng có thể tự mình gặp gỡ và sống mối quan hệ mật thiết với chính Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta yêu mến và tôn thờ.

Xin cho các cha mẹ biết sống đời cầu nguyện, để con cái cũng biết gặp gỡ và yêu mến Chúa. Amen

KIỂM ĐIỂM

Cha mẹ có nhận định mình có trách nhiệm giáo dục đức tin cho con em không? Đức tin thật sự thì Chúa ban cho khi Rửa tội. Giáo dục là giúp con em biết nhận định và sống đức tin.

Khi con cái còn bé, cũng nên dạy những tác động tôn thờ như làm dấu, cúi mình, hôn kính….
Khi lớn lên, nhiệm vụ đối với cha mẹ phải tiếp tục lo cho con cái học đạo theo lớp giáo lý để đức tin lớn mạnh hơn.

Khi con cái trưởng thành, mà bê bối truỵ lạc, cha mẹ có thấy ít nhiều mình có phần thiếu xót trong việc giáo dục?

Trong vấn đề giáo dục con cái, cha mẹ có nhận thấy mình khiếm khuyết rất nhiều không?

Có bao giờ học hỏi….và có mấ khi cầu nguyện cho mình bớt khuyết điểm, biết thi hành nhiệm vụ tốt đẹp hơn không?

V. LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Nếu gia đình là môi trường đầu tiên giáo dục nhân bản, giáo dục các giá trị con người, thì gia đình Kitô-giáo cũng là nơi giáo dục đức tin, giáo dục các giá trị làm con Chúa. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

  1. Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. Chúng ta cầu nguyện cho Hội Thánh, nên như đại gia đình con cái Thiên Chúa, biết giáo dục đức tin cho nhau.
  2. Chúa phán: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi gia đình Kitô-hữu, truyền đạt đức tin cho nhau, hầu làm cho mọi người tin vào Thiên Chúa và tin Chúa Giêsu Kitô.
  3. Chúa phán: “Chúa Cha thương mến các con, vì các con thương mến Thầy, và tin rằng Thầy bởi Chúa Cha”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi gia đình Kitô-hữu, biết nhận ra tình yêu Chúa, biết kính mến Chúa Giêsu và biết yêu thương nhau.
  4. Chúa phán: “Thánh Thần mà Cha sẽ ban nhân danh Thầy, Người sẽ nhắc nhở mọi điều Thầy đã truyền dạy các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi gia đình trong họ đạo chúng ta, luôn theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, mà tin cậy mến Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa ban nề nếp gia đình để dạy đức tin cho chúng con. Xin ban Thánh Thần dạy mọi thành phần gia đình chúng con biết giáo dục đức tin cho nhau, hầu làm cho mọi người được hưởng phước thiên đàng. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

VI. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

GIÁO DỤC ĐỨC TIN

Trong Sắc lệnh về giáo dục Kitô giáo số 3 có nói: “Gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua”, cho thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục trong gia đình vì cứ bình thường thì con người đi vào đời từ giữa lòng gia đình. Gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, một tế bào sống còn của gia đình nhân loại rộng lớn và phổ quát. Trong khuôn khổ gia đình, Công đồng Vaticano II mong muốn các bậc cha mẹ là những người đầu tiên “dùng gương lành và lời nói truyền dạy đức tin cho con cái” (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội số 11), đào tạo cho con cái trở thành những con người đích thực, tức là không những cho con cái mình trở thành con người mà còn phải cho chúng trở thành con Chúa.

Nhìn về đời sống của tổ phụ Apraham, chúng ta cũng có thể rút ra được bài học cao quý về việc giáo dục đức tin cho con cái. Thiên Chúa muốn thử lòng Apraham, nên muốn ông dâng lại cho Chúa đứa con một là Isaac, chính việc này đã làm cho Apraham “có dịp” thể hiện lòng tin của mình vào Thiên Chúa và dạy cho con mình sống niềm tin. Isaac nghĩ gì khi ông từ trên núi trở về nhà sau khi được Thiên Chúa cứu thoát? Không phải là một lòng tin mạnh mẽ hơn vào Thiên Chúa, một lòng phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa sao? Những cử chỉ, những hành động trong đời sống của gia đình đã giúp Isaac tiếp tục niềm tin mà Apraham để lại.

Nơi chính Chúa Giêsu, ai cũng phải nhìn nhận Người có một đức tin tuyệt đối và Thiên Chúa Cha. Chúng ta thường nghĩ rằng, do Người là Thiên Chúa nên việc tin tưởng vào Chúa Cha là chuyện bình thường phải có thôi mà ta quên rằng Người cũng là con người như chúng ta, có những thử thách, những cám dỗ trong đời sống như chúng ta…vậy tại sao Người có được một đức tin hoàn hảo như thế? Thiết tưởng nếu không đến từ nơi gia đình thì làm sao Chúa Giêsu có thể có được vì Người sống đời sống trong gia đình đến 30 năm. Chính những lần gia đình Nagiareth cầu nguyện, những lần sống phó thác cho ý định của Thiên Chúa, những lần cầu nguyện, hướng dẫn đọc lời Chúa…đã trở thành những dấu ấn không phai trong đời sống đức tin của trẻ Giêsu và nó đã trở thành một cây đức tin hoàn hảo. Không ai phủ nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng trong nhân tính của Người, Người cũng phải học cho biết sống niềm tin như thế nào tại gia đình Nagiareth.

Gia đình là hội thánh tại gia, chính trong gia đình đức tin được chuyển dịch từ cha mẹ cho con cái, đức tin được truyền thụ từ chính những hành động cụ thể như đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, dạy con nhớ tới Chúa trong ngày…chính những hành động bình thường này của việc thờ phượng mang lại cho con cái những dấu ấn linh thiêng trong đời mà khi đến đâu, sống trong hoàn cảnh nào nó cũng nhớ mà tiếp nối truyền thống đức tin của gia đình. Đức cố Hồng Y Marty kể về những kỷ niệm đáng nhớ của gia đình mình như sau: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với những người thân nhân quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Kinh nghiệm đón nhận đức tin được đón nhận từ nơi gia đình đó phải là kinh nghiệm cho mỗi gia đình chúng ta hôm nay. Đức tin là hồng ân đến từ Thiên Chúa, nhưng cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái bằng chính cuộc sống của mình. Gia đình phải là vườn ươm, là thửa đất tốt cho hạt giống đức tin được triển nở.

Trong cuộc sống ngày nay, với một nền đạo đức suy đồi do những biến động của kinh tế, văn hoá đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống gia đình. Gia đình không còn những giờ có thể ngồi bên nhau mà cầu nguyện và hiệp nhất trong Thiên Chúa, cha mẹ không có nhiều thời giờ để có thể gần gũi, chăm sóc con cái….nhưng nếu những bậc cha mẹ vịnh vào những lý do này mà bỏ qua bổn phận giáo dục đức tin cho con cái là một thiếu xót trầm trọng và kết quả là nhan nhãn những cuộc ẩu đả với những lý do hết sức vô lý, những cách sống suy đồi truỵ lạc…

Hãy bảo vệ gia đình, bảo vệ những truyền thống tốt đẹp từ nhân bản cho đến tâm linh. Hãy tạo cho gia đình mình một bầu khí cầu nguyện, một bầu khí yêu thương kính sợ Thiên Chúa bằng những việc nhỏ nhoi hằng ngày trong sự phó thác cho Chúa như: hướng dẫn con cái học biết Chúa, dẫn nhau đi cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, cha mẹ sống đời sống luân lý theo thánh ý Chúa….

Nền tảng của xã hội và Giáo hội chính là con cái chúng ta. Làm cha mẹ mà quên đi bổn phận thông truyền đức tin, lòng kính sợ Thiên Chúa cho con cái thì có thể nói là một thiếu sót trầm trọng bổn phận của mình.

VII. HỌC KINH THÁNH

BÀI 43: SÁCH AI-CA (AC)

1/ Xuất xứ.

Thánh kinh Híp-ri xếp cuốn sách nhỏ nầy trong phần “Các Văn phẩm” và xếp vào năm “cuốn” mà người ta đọc trong các đại lễ. Còn Thánh kinh Hy lạp và bản Phổ thông thì xếp liền sau sách Giêrêmia với một nhan đề gán cho Ngôn sứ nầy là tác giả của sách ấy. Song sự gán ghép ấy khó đứng vững.

2/ Nội dung.

Các bài Ai ca 1; 2 và 4 theo thể văn tang tóc, bài thứ 3 là một bài than vãn cá nhân, bài thứ 5 là một bài than vãn tập thể (trong bản tiếng La-tinh, đó là kinh cầu nguyện của Giêrêmia). Chắc là chúng đã được sáng tác tại Palestina sau khi thành Giêrusalem bị phá huỷ năm -587. Có lẽ đó là tác phẩm của một tác giả. Bằng lời văn thống thiết, ông đã mô tả cảnh tang tóc của thành đô và của cư dân; nhưng từ những tiếng than đau xót nầy, loé ra một niềm cậy trông vô song vào Thiên Chúa và một lòng thống hối sâu xa; tập sách mãi mãi có giá trị nhờ ở ?ở điểm đó.

3/ Sách Ai ca với người Do thái và Giáo hội ngày nay.

Người Do thái vẫn đọc sách nầy vào thời kỳ đại chay tịnh để cùng nhau tưởng nhớ biến cố Đền thờ bị tàn phá. Trong Tuần thánh, Giáo hội cũng dùng sách nầy để nhắc lại thảm kịch đồi Gon-gô-tha.

Lời Chúa: “Chúa ở bên con ngày con kêu Chúa, Ngài đã phán: “Đừng sợ hãi chi” (Ac 4, 57).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ở cùng con luôn mãi, nhất là những lúc mỏi mệt và thất vọng, để con cảm nghiệm được sự bình an Chúa ban. Amen.

VIII. SỐNG ĐẠO

CÁC KHỔ NHỌC LÀ NHỮNG THỬ THÁCH
TẤT CẢ ĐỀU LÀ ƠN CHÚA

Đời là bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê như thi sĩ đã diễn tả ý nghĩ của Phật giáo: đời là bể khổ. Tứ diệu đế quả quyết đời là khổ, nguyên nhân cái khổ (tật) là sinh lão bệnh tử. Cần phải diệt khổ (diệt), sống tu luyện. Sau cùng giác ngộ (đạo), toạ thiền, là tâm tư diệt tất cả những chi vô thường (không còn mãi, những chi tạm qua) để đạt thường còn (những chi còn mãi).

Đạo chúng ta không nhận định về khổ theo quan niệm của Phật giáo, nhưng quả quyết: những khổ nhọc ở đời do Chúa để xảy đến trong đời sống chúng ta, chính là để thử thách, để chúng ta chứng tỏ mình trung tín theo ý Chúa, nhiệt thành mến yêu Chúa.

Vì thế những khổ nhọc, chúng ta vẫn chân nhận là khổ nhọc, nhưng nhận thấy đó là ơn Chúa. Tất cả đều là ơn Chúa; sinh dưỡng là ơn Chúa; sức khoẻ, năng lực là ơn Chúa; bình an, phúc lạc là ơn Chúa. Mọi phương tiện giúp chúng ta nên lành nên thánh, đạt kết hợp với Chúa, thì lý do nào của chúng ta không nói được là ơn Chúa.

Sau nguyên tội, nguyên tổ đã đem khổ nhọc, đau phiền vào cuộc sống của nhân loại, kể được là hình phạt Chúa trừng trị nguyên tổ, lại truyền cho mọi người.

Chúa ra đời cứu chuộc, biến đổi hình phạt khổ nhọc, đau phiền, thành phương tiện chứng tỏ niềm tin, thể hiện tín thác, và cao siêu hơn, là tỏ lòng thương mến… Tôi khổ nhọc đau phiền, tôi đành chịu, quyết ý không trái bỏ lòng tùng phục, luôn vâng theo ý Chúa. Tôi yếu đuối nhưng tin tưởng vào ơn Chúa, vào quyền lực Chúa. Tôi có khả năng chịu bất cứ thứ khổ nhọc nào. Đặc biệt vì tôi mến Chúa, nên dùng những khổ nhọc đau phiền để nói lên tôi thương Chúa.

Nếu không có khổ nhọc, đau phiền…những điều không vừa thích với bản năng hèn hạ của tôi, thế tôi làm gì, nói gì để tỏ lòng tôi mến Chúa. Gieo trong nước mắt gặt trong vui mừng! Cho nên nói được phần nào khó nhọc đau phiền, vẫn hàm chứa vui phúc.

Không có khổ nhọc, thì chúng ta cũng thiếu phương tiện lánh tội, tập nhơn đức; nhờ khổ nhọc chúng ta có được môi trường lánh tội và gặp Chúa. Chúng ta có đủ lý do để nói: những khổ nhọc đau phiền là ơn Chúa. Tất cả đều là ơn Chúa.

Vậy trong đời sống chúng ta, đối với đau phiền khổ nhọc, tâm trạng chúng ta phải như thế nào?

Thờ Chúa để Chúa ban phúc, đó chưa phải là tôn thờ, càng không đúng là thương Chúa.

Chúa để cho đau phiền thì rán chịu, nếu rầu rĩ thì thờ Chúa như nô lệ. Nếu chán ghét đau phiền…rồi phiền trách Chúa, có khi chửi Chúa nữa, thì đau phiền chính là hình phạt.

Dùng đau phiền để tin cậy mến Chúa, để được dịp đền tội, tu đức, mà nhứt là được yêu mến kết hợp với Chúa.

Ai muốn theo Thầy thì hãy vác Thập giá mà theo Thầy. Cha Thầy nhất định thương mến và cho cùng sống lại vinh hiển với Thầy.

ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI LUÔN CÓ MỘT CUỘC TỈ THÍ

Mors et vita duello. Sống chết tỉ thí. Đó là lời trong ca tiếp liên lễ Phục Sinh! Tại sao thế? Chúa tạo dựng nguyên tổ trong trật tự, nhưng các ngài đã bỏ trật tự, đem hỗn loạn vào trong tâm hồn, tạo ra có cuộc chiến đấu trong tâm hồn chúng ta.

Khởi điểm, Chúa ban cho con người có sống tự nhiên. Trên cái sống tự nhiên, Chúa lại cho có sống siêu nhiên. Sống siêu nhiên điều khiển và sử dụng sống tự nhiên trong trật tự. Nguyên tổ đã phá đổ trật tự, đem hỗn loạn vào trong tâm hồn.

Sống tự nhiên là sống thể xác và lý trí, vì chứa nguồn sống hỗn loạn, cho nên có tranh tiên, nắm chủ quyền, đàn áp sống siêu nhiên, dường như loại bỏ sống siêu nhiên.

Đời sống chỉ có lo ăn uống, vui sướng, thoả mãn tính dục, lên mặt với đời…. không nghĩ đến sống thiện hảo, làm lành, tập đức hạnh, sống gần Chúa, kết hợp với Chúa. Lại thêm những thứ ngoại xâm, có thể là người, là vật, là cảnh, lôi cuốn mê hoặc mình ở nội tâm, để chúng ta chạy theo sống tạm mà loại trừ không cho sống siêu nhiên ngoi đầu lên.

Thực tế, chúng ta có nghĩ, có ý thức trong nội tâm mình có một chiến trường gần như thường xuyên, có ý thức không?

Trong những vấn đề nhỏ, không lưu ý thì không nói đến; còn những điều hệ trọng như giết người, như hiếp dâm, như ghét muốn làm hại người chúng ta có cảm thấy trong thâm tâm vẫn có một tiềm lực chống đối: làm thì là xấu là tội, là không tốt. Cho những tâm hồn tế nhị thì những vấn đề nhỏ cũng vẫn có tranh đấu tỉ thí.

Chúng ta có nghĩ đến hiệu quả của cuộc tỉ thí này không? Sống tự nhiên chiến thắng là thắng của cái tạm qua của cái chết, vì hạnh phúc của tạm qua không đầy đủ, không thoả mãn hoàn toàn, lại có thể tạo nên bất mãn, đau phiền bịnh hoạn nữa, sau cùng là không vĩnh cửu, là không còn, là chết.

Còn sống siêu nhiên mà thắng – dĩ nhiên khởi điểm phải nhẫn nại, kiên trì tranh đấu – thì “dux vitae mortuus regnat vivus”, Tướng lãnh của sự sống chịu chết để thắng cái tạm qua, cái trần tục, thắng sự chết, và để được sống hạnh phúc và vĩnh cửu thống trị.

VÀI CẢM NGHĨ VỀ QUYỀN LỰC CỦA TIỀN BẠC

Tiền bạc là vật vô tri, con người dùng như phương tiện để trao đổi, xê dịch, giao tiếp dễ dàng hơn. Nhưng vì con người không biết sử dụng nó, quá đề cao nó, nên nó biến thành chủ nhân, ông tiên của xã hội và hành quyền chủ trị tâm hồn con người.

Nhìn vào xã hội hiện thời, có tiền mới có tất cả. Có tiền mới sống, có tiền mới chữa bịnh, mới sống khoẻ, tiền lại mua được quyền hành, danh vọng, mua cả những khoái lạc cho sở thích. Người mình cũng nói: Có tiền mua tiên cũng được, có thể hiểu là mua đến những điều cao nhứt của khoái lạc…cũng được.

Xã hội bị tiền bạc đè bẹp, con người trở thành nô lệ của tiền bạc. Nhưng tiền tệ hại, tiền bạc bẻo, không mua sắm được cho con người hạnh phúc hoàn toàn đầy đủ, lại bỏ con người vào hố chán nản và bịnh hoạn nữa.

Suy cho kỹ, thì chúng ta có muốn làm nô lệ cho tiền bạc không?

Đối với tiền Lão Tử quả quyết: Tri túc (tự túc) giả phú. Anh Thượng (người dân tộc) chỉ có cái khố, anh kể là đủ cho mình, không muốn gì thêm, đó là người giàu, tâm hồn giàu. Còn người kể là giàu, có nhiều áo, muốn có nhiều hơn nữa, có cả ngàn đôi giày mà còn kể là chưa đủ, muốn nhà, rồi muốn lầu, muốn biệt thự, muốn đền đài…còn muốn nữa, thì chính là người không tự túc, người còn thiếu, nói được là người nghèo.

Anh Thượng chỉ có cái khố, sau 4 năm quân dịch, áo quần đàng hoàng, nhưng khi về lại làng (buôn) thì lại đóng khố, có tiến sắm áo, nhưng tấm áo làm bận rộn, ở trần mát hơn, thoải mái hơn. Tiền không cần!

Có nhà hiền triết ở rừng trúc (Trúc lâm) ngụ trong chòi, sống loã thể, có vài bằng hữu đến thăm, chê ông ta kỳ dị, ông trả lời: trời là nhà của tôi, còn cái lều này là cái quần của tôi, các anh chun vào đó làm gì. Tiền không có cà ram nào cả!

Đối với Lão Giáo, tiền không có nghĩa lý gì hết! Còn đối với chúng ta, tiền có tệ bạc, tiền có bạc bẽo hay cũng có giá trị.

Chúa bảo: ai có lòng khó khăn đó là phước thật. Đó là bảo đừng ham, đừng bám vào tiền của, không được làm nô lệ nó, mà phải biết dùng nó.

Ai thương người đó là phước thật, dùng tiền, giúp cho kẻ đói ăn, khát uống, cho kẻ rách rưới áo mặc... Đó là tiền tạo hạnh phúc. Giakêu biết dùng tiền để được Chúa tha tội và ban phúc. Bà goá nghèo chỉ giúp có 2 xu vào hòm tiền mà Chúa đánh giá bằng ngàn vàng.

Còn chúng ta đối với tiền bạc cảm nghĩ như thế nào? Ngay giới tu trì và nhiều linh mục, nhà tu sợ thiếu tiền thì nhà dòng chết đói, quên mình có giá trị hơn chim sẻ, Chúa vẫn nuôi nó hằng ngày.

Còn linh mục thì nghĩ, không có tiền không làm sáng danh Chúa được, không cất nhà thờ cho có chỗ thờ phượng. Rồi Nhà thờ có trang hoàng tốt đẹp mới thu hút được tín hữu chiêm ngưỡng. Có tiền mới thi hành được việc từ thiệnv.v… Tệ hơn nữa, có tiền mới tranh đua với anh bạn của mình. Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly!

Đối với tiền bạc, tâm trạng chúng ta thế nào?
Chúng con sắp chìm, xin Chúa cứu vớt. Salva nos perimus!

IX. MỤC VỤ THIẾU NHI

Hiểu con để có thể giúp chúng phát triển là mối bận tâm của các cha mẹ. Thế nhưng, điều đó đâu phải lúc nào cũng dễ dàng. Chúng ta thử xem cách diễn tả của trẻ bằng ngôn ngữ ngày nay mà ta hay gọi là thời @.

Hoa mắt với “ngôn ngữ” của con!

“Hum ni wuoc te woman! Papa thía nèo kũn for mama một sudden thing. Mìn tờ mờ wé, hok bít papa mua gì cho mama”.

Nếu vô tình đọc dòng chữ trên từ cuốn tập của con, hẳn không ít bậc cha mẹ sẽ bị sốc vì không hiểu con mình viết gì trong đấy.

Có người hoang mang, lo lắng vì sợ con họ mắc phải chứng loạn ngôn ngữ. Thật ra, dòng chữ trên chính là một trong những kiểu viết lóng của tuổi teen thời nay: “Hôm nay quốc tế phụ nữ. Bố thế nào cũng cho mẹ một điều bất ngờ. Mình tò mò quá, không biết bố mua gì cho mẹ”.

Kiểu viết lóng này đang khá phổ biến ở các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Ở Việt Nam, phong trào dùng kiểu chữ này ngày càng phổ biến trong giới học sinh, sinh viên.

Tiếng lóng là gì?

Tiếng lóng của giới teen xuất phát từ nhu cầu muốn khẳng định cái tôi đặc trưng, vị thế của mình trong xã hội của cộng đồng những người trẻ.

Tuổi teen là độ tuổi khám phá, tìm hiểu những điều mới lạ. Trong khi đó, đây là độ tuổi khiến các ông bố bà mẹ lo lắng nhất. Để con không hư, phụ huynh thường siết chặt quản lý. Khi sử dụng tiếng lóng trong nói và viết, con bạn có cảm giác được sống riêng tư, không có sự can thiệp của cha mẹ.

Hiểu tiếng lóng của con, bạn có thể bí mật thâm nhập thế giới của trẻ để xem chừng và năng chặn kịp thời khi con làm sai.

Teen viết lóng như thế nào?

Tiếng lóng không theo bất kỳ quy luật nào. Mỗi thiếu niên có một kiểu viết lóng riêng. Bố mẹ có thể bắt gặp những câu từ kết hợp lộn xộn giữa biểu tượng, viết tắt và các con số, dấu câu, tiếng Anh, Pháp trộn chung với tiếng Việt. Ngôn ngữ lóng thường được sử dụng trong blog, chat, nhắn tin qua điện thoại di động.

Viết tắt là cách sử dụng phổ biến nhất. Giới trẻ hay ghép các chữ cái đầu của các từ trong một câu để làm thông điệp cho nhau, thông thường là những câu tiếng Anh hoặc chúng có thể tuỳ tiện thay thế, thêm bớt bất kỳ ký tự nào chúng thích vào một từ.

Ví dụ: ILU = I Love U, SUL = see you later, G9 = good night, hum ni = hôm nay, hok bit gì mờ bì đek = không biết gì mà bày đặt…, ngồi pùn hem bik lèm j = ngồi buồn không biết làm gì, bik oj, mì đến đéy rùi đợi tau! = biết rồi, mày đến đó rồi rồi đợi tao, pls = làm ơn!...

Ngoài viết tắt, giới trẻ còn dùng biểu tượng hoặc kết hợp ký tự, dấu câu và con số để làm thông điệp. Những dấu câu như @, $, /, * thường được dùng khi trẻ muốn biểu lộ cảm xúc vui, buồn nào đó. Ví dụ: $_$ (vui như được tiền), 8_0 (bị sốc), # # # (thăng rồi), $% (thật 100%)…

Bên cạnh các dấu câu, việc kết hợp các ký tự, biểu tượng, con số lại với nhau cũng là cách thể hiện cá tính của trẻ. Thông thường, khi bạn đọc một đoạn con viết với nhiều biểu tượng, con số, ắt hẳn chúng đang trong trạng thái linh hoạt, vui tươi.

Teen cũng thích bỏ đi nguyên âm trong từ ngữ và thay vào đó những ký tự đồng âm với từ mình cần dùng. Chẳng hạn, what’s up = wozup (chuyện gì xảy ra vậy?), b4 = before, sk8board = skate board (ván trượt), en = ăn, thít = thích…

Vũ khí bí mật của cha mẹ

Một điều cần chú ý, sau khi hiểu được ngôn ngữ của con, bạn không nên dùng điều đó làm vũ khí để quản thúc và thâm nhập một cách nóng vội vào thế giới của con.

Đừng để con biết bạn có thể đọc được ngôn ngữ của chúng. Hãy dùng điều đó như một vũ khí bí mật. Nếu phát hiện những sai phạm của con, bạn nên dùng thái độ nhẹ nhàng từ từ khuyên bảo, uốn nắn con.

(Theo Báo Tiếp thị Gia đình)

X. MỤC VỤ GIỚI TRẺ

Một trong những trách nhiệm của bậc làm cha mẹ là lo giáo dục con cái trở thành người tốt có ích cho bản thân cũng như cho người khác. Đối với những cha mẹ Công giáo còn phải lo cho con cái mình được giáo dục trong đức tin. Bởi lẽ, ngày cử hành lễ Hôn phối cả hai người đã cùng nhau long trọng thề hứa sẽ giáo dục con cái mà Chúa sẽ ban theo luật Chúa và luật Hội thánh.

Được làm cha mẹ là thiên chức cao cả mà Thiên Chúa ban cho những ai sống trong bậc sống gia đình. Thiên chức ấy đòi hỏi họ chu toàn tốt trách nhiệm lo giáo dục con cái mình mỗi ngày trong đức tin.

Đời sống đức tin được hình thành từ những thói quen đạo đức hằng ngày. Việc đọc kinh sáng tối chung trong gia đình, cầu nguyện trước và sau khi ăn, nhắc nhở đi tham dự Thánh Lễ, nhắc nhở con cái đi học giáo lý… là những việc làm hết sức cần thiết để vun đắp đời sống đức tin trong gia đình.

Ngày nay nhiều gia đình trẻ Công giáo vì quá chú tâm đến đời sống vật chất nên nhiều cha mẹ lơ là trong việc lo giáo dục đức tin cho con của mình. Thật là một thiếu sót hết sức nặng nề. Bởi vì, lo giáo dục đức tin cho con cái là một trong những yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc gia đình hôm nay và ngày mai. Đời sống đức tin càng vững mạnh thì hạnh phúc gia đình càng được bền vững.

XI. MỤC VỤ ƠN GỌI

GIA ĐÌNH HƠI THỞ BAN ĐẦU CỦA ĐỨC TIN

Ngày nay các bậc cha mẹ thường than phiền: phải lo vật lộn với cuộc sống, không có thời gian quan tâm chăm sóc nhiều cho con cái. Cũng vì chạy đua với cơm áo gạo tiền mà gia đình không còn những bữa ăn chung; không còn những lời kinh râm ran mỗi tối; không còn hình ảnh cha mẹ và con cái đi tham dự thánh lễ Misa chung. Chính vì không có thời gian quan tâm nhiều đến con cái mà cha mẹ đang đánh mất vai trò giáo dục của mình trong gia đình.

Công đồng Vatican II trong “Tuyên Ngôn Giáo Dục Kitô Giáo” đã xác định vai trò quan trọng của các bậc làm cha mẹ trong việc giáo dục con cái: “vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và vì thế họ được coi là nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được” (số 3). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông huấn Familiaris Consortio nhìn nhận rằng: “quyền lợi và nhiệm vụ giáo dục của cha mẹ là điều thiết yếu…, vai trò này là vai trò căn bản và chính yếu so với vai trò của những người khác”.

Sứ mạng giáo dục, cha mẹ lãnh nhận được từ Bí tích hôn phối. Qua Bí tích này họ được thánh hiến để giáo dục con cái: mời gọi họ chia sẻ quyền bính và tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ Bí tích hôn phối cha mẹ lãnh nhận trách nhiệm và đặc quyền giáo dục, đặc biệt là giáo dục đức tin cho con cái. Cha mẹ phải giáo dục đức tin cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ. Truyền đạt đức tin từ những điều hết sức giản dị trong bầu khí yêu thương gia đình là cách thức sơ đẳng nhất nhưng cũng quan trọng nhất trong việc làm cho con người gặp gỡ Chúa Kitô và trở thành môn đệ của Người. Gia đình là Hội thánh tại gia, là nơi qui tụ hơi thở ban đầu của đức tin nên cha mẹ phải là người đầu tiên dẫn đưa con mình đến với Chúa Kitô.

Có một vị Giám mục lão thành đáng kính chia sẻ kinh nghiệm của ngài nhận được từ nơi gia đình như sau: “Tôi xét mình xem nhân tố nào đã ảnh hưởng sớm nhất và sâu sắc nhất trong hành trình giáo dục mà tôi đã trải qua. Xét đi xét lại, tôi vẫn thấy nhân tố đó là bố mẹ tôi. Các ngài đã dạy tôi những điều đơn sơ. Chính những điều giản dị ấy đã cho tôi những định hướng rõ”. Con cái có thể quên hết những lời cha mẹ dạy dỗ. Nhưng các em không thể nào quên được những gì các em thấy cha mẹ mình làm ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ. Đó là tình yêu cha mẹ dành cho con cái. Đó là các việc lành, các việc bác ái. Lòng thủy chung. Đời sống cầu nguyện và nhất là việc siêng năng cùng nhau lãnh nhận các Bí tích.

Thật vậy, qua việc cầu nguyện chung với con cái, những giờ kinh tối sớm trong gia đình; giới thiệu Chúa cho các em qua những câu chuyện Kinh thánh ngắn gọn hay những đoạn Lời Chúa cùng đọc với nhau. Đặc biệt là Tràng hạt Mân Côi được coi là một trong những kinh nguyện tốt và có hiệu quả nhất mà gia đình kitô hữu được mời gọi. Dẫn các em đến với Chúa qua các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Nhắc nhở các em trong việc học giáo lý, tham gia các sinh hoạt trong họ đạo…đó là cách thức cha mẹ chu toàn sứ trách nhiệm của mình và cũng là cách dẫn đưa con cái trong đức tin và trưởng thành hơn trong đời sống đức tin.

Giáo dục con cái, nhất là giáo dục đức tin là bổn phận chính yếu nhất của bậc cha mẹ, nó còn quan trọng hơn cả cơm ăn áo mặc. Những gì các bậc cha mẹ làm hôm nay cho con cái là những hạt giống nằm sâu trong tâm hồn con cái. Một lúc nào đó Chúa sẽ làm cho chúng mọc lên. Gia đình là chiếc nôi, là trường học đầu đời, là trường đào luyện đức tin đầu tiên và thường xuyên cho con cái. Gia đình là môi trường chính để đức tin được lớn lên với những ơn gọi khác nhau. Xin mượn lời của vị Giám mục đáng kính trên để điểm tô cho sứ mạng giáo dục của cha mẹ: “Khi nhìn lại khởi điểm nền giáo dục Công giáo trong đời tôi, tôi nhận ra gia đình Công giáo là một qui tụ nhỏ những hơi thở đầu tiên của đức tin… Gia đình là một qui tụ hơi thở ban đầu của đức tin. Từ qui tụ ban đầu đó, tôi bước sang những qui tụ khác, nhà tu, Giáo xứ, Giáo phận, Hội thánh. Trong đó tôi được phát triển và thanh luyện. Tất cả đều được dòng tình nghĩa và tinh thần trách nhiệm của cha mẹ chảy qua. Tất cả đều có Thiên Chúa là Cha chăm sóc. Tất cả đều có Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse phù trợ. Trong tất cả, tôi luôn là người con bé nhỏ”.

XII. MỤC VỤ GIÁO LÝ VIÊN

GIÁO LÝ VIÊN YÊU LÀ NGƯỜI MẾN HỘI THÁNH

1. Từ kinh nghiệm của Gioan:

Với Chúa Giêsu
Chắc chắn, Gioan chỉ trọn vẹn là người môn đệ được yêu khi ông sống trong lòng Hội Thánh. Ông là thành phần của nhóm 12, của nhóm nhỏ những người đứng dưới chân thánh giá Chúa. Dưới chân thánh giá, Gioan đãø chứng kiến cạnh sườn Chúa bị đâm thủng, có máu và nước chảy ra. Chính nơi này, từ trái tim của Đấng Cứu Thế, Hội Thánh được khai sinh. Chính nơi này là cội nguồn của các bí tích trong Hội Thánh. Chính khi nhìn ngắm Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến thí mạng mình, tông đồ Gioan đã nhận ra mình được yêu.

Với Mẹ Maria
Thật cảm động khi Chúa tin tưởng Gioan, tin tưởng tình yêu của ông nên Ngài trao phó Mẹ Chúa, Mẹ Hội Thánh cho ông, và chính vì được yêu, nên Gioan cũng được Chúa trao đời mình cho Đức Mẹ.

GLV thân mến ! hôm nay Chúa Giêsu cũng trao người môn đệ được yêu của Ngài là GLV vào tay Đức Mẹ. Cũng như Gioan, GLV cũng được mời gọi đưa Mẹ về nhà mình, như lời kết của Đức Gioan Phaolo II, trong tông huấn dạy GLV : “Đức Maria vừa là Mẹ vừa là gương mẫu của GLV” (DGL. số 72 ).

Với Hội Thánh
Hội Thánh không chỉ là Nhiệm Thể Chúa mà còn là đoàn dân có tổ chức, có cơ cấu và phẩm trật, mà Phêrô là người đứng đầu. Người môn đệ được yêu có thể nhạy bén hơn trong tình yêu và trong sự nhận biết Chúa (x. Jn 20,4;21,7 ), nhưng không vì thế mà ông qua mặt người đứng đầu.

Quả thật, trước ngôi mộ trống, Gioan đã dừng chân lại, nhường cho Phêrô bước vào trước và được vinh dự là chứng nhân đầu tiên bước vào mộ Chúa (x. Jn 20,6 ). Sau biến cố người què đi được và trước công nghị Do Thái, Gioan đã thinh lăng để một mình Phêrô nói lên tiếng nói chính thức (Cv 3,12;4,8 ).

Những chi tiết vừa rồi rất quan trọng với GLV. Giáo lý mà bạn trình bày không phải của riêng bạn, nhưng đã được Chúa Kitô uỷ thác cho Hội Thánh Công Giáo, do Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn lãnh đạo. Dù là bạn hay tôi, chúng ta không nói ý riêng của mình, nhưng chúng ta truyền đạt lại sự thật Mạc Khải theo đúng ý Hội thánh.

2. Đồng cảm với Hội Thánh

Bằng và với tâm tình người môn đệ được yêu, GLV sẽ không chỉ vâng phục cách máy móc, nhưng luôn để trái tim mình nhạy cảm và đồng nhịp với Hội thánh. Là một chi thể trong Nhiệm Thể Chúa, bạn chia sẽ và đau nỗi đau chung của Hội thánh, vui niềm vui chung của Hội Thánh. Khi đồng cảm với Hội Thánh, trước bất cứ vấn đề gì, bạn sẽ trực giác thấy ngay mình phải có tâm tình nào, phản ứng ra sao. lập trường và thái độ của bạn luôn nằm trong lập trường và thái độ của Hội Thánh. Là thành phần của dân Chúa, bạn mau mắn quảng đại góp phần cho cộng đoàn.Để được như thế, xin đề nghị bạn GLV :

Mỗi ngày, bạn nên đọc Kinh Thánh của Thánh Lễ trong ngày.
Cầu nguyện theo các Thánh Vịnh được sắp xếp cho giờ kinh phụng vụ ngày hôm ấy. Vì đó là những lời Kinh Thánh mà ngày hôm ấy, người Công Giáo khắp năm châu, từ Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, Lin Mục, tu sĩ đến giáo dân đều cùng đọc.

3. Được yêu trong Hội thánh :

Không chỉ GLV là người được Chúa yêu trong Hội thánh mà bạn còn được Hội Thánh yêu thương, Đức Giám Mục giáo phận yêu thương và quan tâm bạn. Các linh mục và cách riêng Cha Sở yêu thương bạn. Các đan sĩ, tu sĩ âm thầm đang cầu nguyện cho bạn. Đông đảo anh em GLV trên thế giới đang hiệp thông mật thiết với bạn. Các em học sinh và phụ huynh dù đôi khi có vẻ vô tình nhưng vẫn có lòng yêu thương bạn.

Hội Thánh không chỉ có trên thế gian này và còn có cả trên thiên đàng và trong luyện ngục, Mẹ Maria, Thánh Giuse đoái thương bạn. Các Thánh tông đồ yêu thương bạn. Thánh Gioan Bosco, Thánh Gioan Lasal và các nhà Giáo dục thánh yêu thương bạn. Các thánh tử đạo yêu thương bạn, thánh Anrê Phú Yên và các bạn GLV Việt Nam đã về trời trước bạn yêu thương bạn. Các linh hồn ở luyện ngục yêu thương bạn.

Khi gặp khó khăn, bạn có thể và hãy cầu nguyện với Đức Mẹ và các thánh. Giữa những công việc vất vả hằng ngày, hãy nhớ rằng bạn được yêu thương trong cõi lòng Hội Thánh. Bạn hãy nhớ rằng, trong trái tim của mỗi thành viên Hội Thánh hữu hình và vô hình, và trên hết, trong trái tim của Chúa Giêsu, bạn là người môn đệ được yêu.

XIII. MỤC VỤ GIA ĐÌNH

ĐÀO LUYỆN ĐỨC TIN NƠI GIA ĐÌNH

Thư mục vụ 2008 xác định gia đình là trường học đầu tiên, nơi hình thành nhân cách và là nơi định hướng cho tương lai của con người. _Thiên chức làm cha mẹ nhắn nhủ những bậc phụ huynh có trách nhiệm thông truyền đức tin cho các thế hệ kế tiếp._Chính cha mẹ là giáo lý viên đầu tiên cho con cái. Đồng thời Thư Mục Vụ này cũng cho cha mẹ một số chỉ dẫn mục vụ cụ thể đào luyện đức tin cho con cái. Dựa trên số 14 của Thư Mục Vụ này, chúng ta tìm cách giúp cho các gia đình công giáo chu toàn trách nhiệm đào luyện đức tin.

Ngạn ngữ Rôma “Nemo dat quod non habet” “Không ai có thể cho cái mình không có”, để gia đình có thể giúp các thế hệ tài bồi đức tin thì những người có trách nhiệm trong gia đình phải có đức tin và có khả năng, nghệ thuật thông truyền và đào luyện đức tin, rồi nhiệt tâm thực hiện công việc này cho các thế hệ kế tiếp nơi mái ấm gia đình.

Để cha mẹ, huynh trưởng có đức tin, sống đức tin, có khả năng và nghệ thuật thông truyền đức tin, thì các vị hữu trách trong giáo hội là Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Lý Viên phải giúp các cha mẹ và các người dự bị hôn nhân khôn ngoan, khéo léo làm nhiệm vụ giáo dục của mình. Các vị hữu trách đào luyện cho các người chuẩn bị làm cha mẹ, các huynh trưởng học hiểu đầy đủ giáo lý công giáo, tìm hiểu sống Lời Chúa, siêng năng cử hành phụng vụ, lãnh nhận các bí tích, giống như các tín hữu thời giáo hội sơ khai “chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng!”(Cvtđ 2,42). Đồng thời cũng chỉ bảo cho họ qua gương sáng đời sống, qua những thực hành sống đạo hằng ngày, qua sự ân cần thân thương, chỉ dạy, khích lệ con cháu mở lòng đón nhận đức tin Chúa ban, làm cho đức tin ấy lớn mạnh qua việc học hỏi giáo lý tại nhà, tại nhà thờ họ đạo, qua việc tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, cầu nguyện trong gia đình, kinh hôm, kinh mai, kinh nguyện trước sau bữa ăn và các biến cố vui buồn, thành công và thất bại của cuộc sống. Đời sống đức tin là đời sống được đào luyện mỗi ngày, liên tục và liên lỉ, để mỗi cá nhân xác tín tâm hướng về Chúa, cần Chúa, cầu Chúa, gắn bó với Chúa đến độ kết hiệp mật thiết với Ngài, trở thành công cụ đa dụng để Chúa dễ dùng mà hành động.

Chính cha mẹ và huynh trưởng bằng những việc làm cụ thể đào luyện đức tin nơi gia đình. Việt Nam ta có câu “người làm sao chiêm bao làm vậy”. Cha mẹ và huynh trưởng có ý hướng giáo dục đức tin cho các thế hệ kế tiếp, từ ý hướng chuyển thành ước muốn, từ ước muốn trở thành hành động và hành động liên tục, tận dụng mọi cơ hội cụ thể: “Khi Abraham đem Isaac sát tế cho Chúa trên đất Moria” (St 22,1-19), ông đã cho con biết đời sống của cha con ông do Chúa ban, hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa, luôn luôn làm theo thánh ý Cháu, hằng ngày phải thờ phượng chúa và tế lễ cho Chúa điều chúa muốn. Ông cũng nói với con sự quan phòng kỳ diệu của Chúa: Chúa lo, Chúa liệu. Một khi đã tế lễ xong đi xuống, ông sẽ cắt nghĩa cho con về lòng tin tưởng cậy trông phó thác tuyệt đối nơi Chúa và lòng yêu mến Chúa trên hết, từ bỏ mọi sự vì Chúa, Chúa quyền năng quảng đại, rộng rãi hơn chính mình, hãy dâng hiến Chúa tất cả ngoài sức tưởng tượng của mình. Ông đã trao cho con một mẫu gương sáng, kinh nghiệm cụ thể thể hiện lòng tin, cậy, mến Chúa.

Ngay khi cha mẹ mới sinh con, cha mẹ phải thấy con mình là tình yêu của Chúa, hồng ân, món quà Chúa trao mà cùng với con cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Chúa. Mẹ dâng mọi phút giây đời con cho Chúa, xin Chúa gìn giữ, chăm sóc, bảo vệ, hướng dẫn. Khi cho con bú, bà mẹ làm dấu trên con, cảm tạ Chúa vì dòng sữa tươi mát đầy sức sống yêu thương, khi con ọc sữa hay nấc cục bà ẵm con trong tư thế thuận lợi, lau lọt, vuốt ngực con đang khi cầu xin Chúa và Đức Mẹ chữa con: “Chúa chữa con, Đức Bà chữa con”. Khi con bệnh hoạn, một mặt tìm thầy chạy thuốc, một mặt cầu nguyện: “bà mẹ thánh bonaventura đem con nhỏ đang bệnh ngặt nghèo xin thánh Phanxicô Assisio cầu nguyện, Chúa đã nhậm lời chữa đứa bé lành mạnh cách lạ thường”. Khi con biết tiếp xúc với ngoại cảnh, ngoại vật, hãy đem con đến trước bàn thờ Chúa dạy con chấp tay cúi đầu ạ Chúa, ạ Mẹ, ạ các thánh, tập con làm dấu thánh giá, kêu Chúa ơi. Khi con biết nói, dạy con cầu nguyện ngắn gọn, đơn sơ… “Lạy Chúa, con mến Chúa. Xin cho con mạnh giỏi”…Cha mẹ, anh chị có thể ru bé bằng những bài hát thánh thi, thánh ca. Khi con nói sõi thì dạy con những câu giáo lý đơn sơ căn bản truyền khẩu, cha mẹ, anh chị đọc trước, con em đọc sau, mỗi ngày một lần, kể cho con nghe những câu chuyện thánh kinh, dạy cho con đọc thuộc lòng những ca vè, thơ ca công giáo, tập cho con và cùng con cầu nguyện. Ngay khi con còn rất nhỏ, tuần tự cho con những ấn tượng đẹp về Chúa, kể cho con nghe Hạnh các thánh nhân với những mẫu gương nổi bật phù hợp với lứa tuổi, để em noi đòi bắt chước nên thánh.

Khi con đến tuổi đi nhà trẻ, hãy gửi nhà trẻ của họ đạo có các soeurs, các dì, các cô hướng dẫn cả đời sống nhân bản, cả về đức tin. Mỗi ngày, các em ngồi với các soeurs, các dì rồi tham dự thánh lễ, các em sẽ nghiêm trang, lễ phép trong nhà thờ: biết chào Chúa, đứng, quì, ngồi ngay ngắn trật tự, mau thuộc kinh, mau biết hát, lúc rước lễ sẽ nghiêm trang cung kính lên xin dấu thánh giá trên trán, sau lễ cùng lên cung thánh với các bạn cùng trang lứa cầu nguyện chung. Tập thói quen đi lễ hằng ngày ngay từ nhỏ, ước ao rước lễ thiêng liêng.

Rồi các em sẽ được cha mẹ nhắc nhở, chở đi học giáo lý trong nhà thờ theo lớp tuổi: khai tâm, rước lễ lần đầu, thêm sức, bao đồng, vào đời. Kế đến tham gia các sinh hoạt tập thể để cũng cố đức tin, tham gia việc bác ái tông đồ, phục vụ:hội giúp lễ, ca đoàn, thiếu nhi thánh thể, con Đức Mẹ.Trong bầu khí đạo đức, phụng vụ của họ đạo các em nhìn thấy gương sáng, các em được động viên trở thành Kitô hữu trưởng thành. Cho các em đi học, dẫn đến nhà thờ không phải để phó thác, bán cái mà là theo dõi, hướng dẫn, bổ túc cho con em càng ngày càng nên tốt hơn.

Những lúc quây quần bên gia đình cùng ăn cơm có cầu nguyện trước sau bữa ăn, nói chuyện thâm tình trong bầu khí hoà nhã yêu thương, những lúc đọc kinh hôm kinh mai củng cố đời sống đạo đức gia đình, tạo thành thói quen cầu nguyện với nhau tạo nên truyền thống, nếp sống đức tin, gia đình quả là Hội Thánh tại gia.

Ngày nay, vì quá lo đời sống vật chất, vợ chồng tất tả thức khuya, dậy sớm lo công ăn việc làm, con cái tất bật với những lớp học chính khoá và học thêm, gia đình không còn là mái ấm tình yêu, trở thành khách sạn, quán trọ bình dân, trở thành nhà hàng, không còn là môi trường đào luyện làm người và làm con Chúa. Uớc mong gia đình luôn là nơi cung cấp những hành trang tinh thần và những điều kiện vật chất để con cháu được phát triển đời sống toàn diện, dám hiên ngang đầu đội trời, chân đạp đất, sống với Chúa, với người, với đời và Hội Thánh một cách tốt đẹp và kết quả.

_________________

CẢM NGHĨ VỀ VIỆC GIÁO DỤC ĐỨC TIN

Một đứa bé được sinh ra trong một gia đình nếu cha mẹ không cùng quốc tịch thì nó có thể có hai quốc tịch của cha và mẹ. Nếu nó được sinh ra ở một đất nước khác thì nó có quyền có thêm một quốc tịch thứ ba nơi nó được sinh ra, nếu nó được sinh ra trên một chuyến bay thì nó lại có thêm một quốc tịch của hãng hàng không đó. Như vậy nó có thể có đến bốn quốc tịch.

Thế nhưng lạ thay, một đứa bé dù cả cha lẫn mẹ đều là người công giáo, sinh ra trong một bệnh viện công giáo đi nữa, nó vẫn là người ngoại đạo, không công giáo!

Xem ra việc một người là công giáo hay không, không phải chỉ được người ta gán cho từ bên ngoài vào, như mang một quốc tịch, mà là một tiến trình mà chính bản thân người đó phải trở thành.

Ngày xưa, trước khi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, ông đã từng là tiếng kêu trong hoang địa: có nghĩa là ông đã từng giảng dạy, kêu gọi sám hối sau đó Ông mới làm phép rửa. Đên thời giáo hội sơ khai cũng thế. Hôm đó thánh Phê rô đã làm phép rửa cho khoảng 3000 người nhưng trước đó họ cũng đã “ học giáo lý” với thánh Phêrô.

Ngày nay, việc cho trẻ nhỏ được rửa tội sớm là một việc có thể nói là đặt cái cày ở trước con trâu. Có nói gì đi nữa thì đó cũng là một việc nghịch lý. Giáo Hội biết điều đó. Thế nhưng nhìn ở khía cạnh khác, đó là một sự nhân nhượng của Giáo Hội và để nhắc nhở các bậc cha mẹ và những người có đạo nhớ lại trách nhiệm mình đã lãnh nhận bí tích ấy và để cho đứa trẻ có cơ hội đón nhận ơn cứu độ từ chính môi trường mà chúng sống: gia đình, người thân. Điều đó được cụ thể hoá trong nghi thức Rửa Tội khi :

- Chất vấn các bậc cha mẹ và người đở đầu: “Khi xin phép rửa tội cho con cái, ông bà lãnh nhận trách nhiệm giáo dục em trong đức tin, để em tuân giữ các giới răn Chúa là mến Chúa yêu người, như Chúa Kitô đã dạy chúng ta, ông bà có ý thức điều đó không?”

“Người đở đầu có sẳn sàng giúp đở cha mẹ em này thi hành nhiệm vụ không?”

- Cho những người tham dự nghi thức rửa tội nghe lại lời Chúa Giêsu căn dặn: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều thầy đã truyền cho các con.”

Như vậy đứa trẻ được rửa tội thì đã là người có đạo chưa ?

Nếu chỉ xét theo bề ngoài thì có thể nói là có. Nhưng nếu hiểu cho đúng thi phải nói là chưa, vì người ta là người công giáo thật sự khi và chỉ khi người đó hiểu đạo (biết thánh ý Chúa) và sống đạo (thực hành lời Chúa dạy). Đó là một tiến trình từ bên trong con người chứ không phải đơn giản là một sự việc đến từ bên ngoài.

Nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ như vậy nên khi đem con đến xin chịu phép rửa tội thì con như mình đã hoàn thành bổn phận đối với con cái, sau đó không chú tâm đến việc trở nên gương sống đạo cho con cái, không đốc thúc, tạo điều kiện cho con em mình được học biết Thánh ý Chúa (đạo) qua việc học giáo lý, những giờ kinh nguyện, lãnh nhận các bí tích.........

Ước gì các bậc cha mẹ hiểu rõ những điều này và nhớ lại lời hứa của mình khi cho con mình được rửa tội, để họ biết sống và hoàn thành trách nhiệm mà mình đã tự nguyện cam kết.

XIV. MỤC VỤ QUỚI CHỨC

SẮC LỆNH TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

Chương V: Hệ Thống Phải Theo
27. Cộng tác với anh em Kitô giáo và ngoài Kitô giáo

Vì cùng chung một gia sản là Phúc Âm và do đó cùng chung một bổn phận là làm chứng cho Chúa Kitô, người công giáo nên và thường phải cộng tác với các Kitô hữu khác, hoặc cá nhân với cá nhân, hoặc giữa các cộng đoàn Giáo Hội trong các hoạt động cũng như trong các hội đoàn trên bình diện quốc gia hay quốc tế 9.

Vì cùng chung những giá trị nhân bản, nên người Kitô hữu đang theo đuổi mục đích tông đồ cũng thường phải cộng tác với những người tuy không theo Kitô giáo, nhưng cũng nhìn nhận những giá trị nhân bản đó.

Nhờ sự cộng tác năng động và khôn ngoan này 10, sự cộng tác có tầm quan trọng đặc biệt trong các hoạt động thuộc lãnh vực trần thế, người giáo dân làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế giới và làm chứng cho tình đoàn kết đại đồng của cả gia đình nhân loại.

Gợi ý giải thích:
Điều mà Công Đồng thiết tha mong muốn là người giáo dân không nên sống riêng rẽ và khép kín với những người không cùng một đức tin như mình. Công Đồng kêu gọi sự cộng tác "năng động" và "khôn ngoan" của chúng ta với mọi người thiện chí để cùng nhau thăng tiến và cổ võ những gì chân thật, công bằng, thánh thiện và đáng yêu quí (x. Ph 4,8; TĐ 14); và hãy luôn lưu tâm đến "những gì hiệp nhất hơn là chia rẽ".

Gợi ý thực hành:

Quới Chức cộng tác thế nào với những người Kitô-hữu khác?
Quới Chức cộng tác thế nào với những người thuộc các tôn giáo bạn?
Quới Chức cộng tác thế nào với những người không tôn giáo?

XV. TẢN MẠN

NHÀ TÙ CAO CẤP

Có nhiều thứ nhà tù khác nhau dành cho nhiều hạng người khác nhau. Đó có thể là nhà tù bằng gạch đá; nhưng cũng có thể là những nhà tù tinh thần, trói buộc tâm hồn.

Tù ngục tinh thần không giam hãm thân xác con người - chỉ giam hãm con tim của con người mà thôi - biến con tim của những “tù nhân” trong những nhà tù này thành con tim ngục tù, khiến họ không còn khả năng yêu thương đúng nghĩa, mà thành những con rối cho người khác giựt dây. Những “nạn nhân” tự nguyện này gồm đủ mọi hạng người. Dĩ nhiên là không loại trừ những người sống đời dâng hiến và thánh hiến.

Nhà tù không chấn song đang hiện diện khắp nơi. Tù nhân của hình thức nhà tù này xem ra rất tự do vì họ được quyền đi lại, sinh hoạt bình thường; vẫn có chức có quyền, ăn mặc sang trọng, đi đứng oai vệ trước nhiều người, phương tiện sinh hoạt và đi lại rất hợp thời. Nhưng ai nào biết con tim họ đang bị người khác giam hãm. Không ai biết họ ở trong tình trạng ấy, chỉ có họ và “người ấy”, thậm chí “tù nhân” loại này đôi khi không biết mình đang mang một trái tim ngục tù nữa mới đáng thương chứ!

- Có một linh mục xin hồi tục sau 6 năm thi hành thừa tác vụ thánh chức. Lý do đơn giản là ông thích được để tóc dài, thích để râu và thích “tự do” để sống cho riêng mình! Được chấp thuận cho hồi tục, ông liền kết hôn với một người nữ mà ông đã từng quen biết và yêu mến trước đó. Ông làm việc trong một công ty bảo hiểm nhân thọ khá lớn ở Mỹ. Một hôm, người bạn linh mục thân thiết của ông trước kia vô tình gặp lại ông, ngài thấy ông ta hớt tóc rất cao, không để râu, đi lại có vẻ vội vàng lắm. Ông còn mời người bạn đang là linh mục của mình mua bảo hiểm nữa. Vị linh mục ấy từ chối vì lý do đã mua rồi và ngài khéo mời ông đi uống nước để tâm sự sau những tháng năm không có dịp nhau. Ông từ chối ngay và bảo: “bà xã mình đang chờ cơm ở nhà. Hơn nữa, mình còn phải ghé công ty cho kịp giờ để báo cáo!

Lạ lùng thật! Ông nghĩ rằng làm linh mục khiến ông không được tự do. Thế mà bây giờ ông lại trở thành một con người vô cùng lệ thuộc. Ông đã tự tạo cho mình một thứ nhà không chấn song để giam hãm mình mà có lẽ ông cũng không hề biết!

- Nhà tù có chấn song bọc lụa: nhìn bề ngoài không ai nghĩ đây là nhà tù cả, vì nó rất giống một toà “lâu đài” hay một “biệt thự” lắm. Chỉ có người ở trong cuộc mới biết đây là “nhà tù” thôi. Nhưng lạ đời là có nhiều người muốn được làm “tù nhân” trong nhà tù ấy, vì tù nhân của nhà tù này luôn được chìu chuộng, luôn được giúp cho có đầy đủ điều kiện vật chất để sống một lối sống trưởng giả: xe đời mới, Điện thoại di động thời thượng, quần áo chính hiệu, tiền rủng rỉnh túi, ăn uống dư dật, lỡ “họ” một tiếng là có người mang thuốc tới ngay; nhất là “tù nhân” có dư “khả năng” lo cho gia đình, cho người thân của mình trong việc sửa sang nhà cửa, mua sắm vật dụng cao cấp trong nhà . . .. nói chung, đây là hạng “tù nhân” cao cấp.

Nhưng có điều, tù nhân không được làm phật lòng người chủ nhà tù ấy. Phải ưu tiên giải quyết những chuyện phức tạp nếu họ gặp phải. Chẳng hạn, phải được đặc cách cho học giáo lý hôn nhân trong 1 tháng thôi thay vì ít là phải 3 tháng theo luật chung! Hoặc Chúa nhật ở nơi “nhà tù” ấy có tổ chức sinh nhật cho cậu ấm, thì phải “hy sinh” chuyện mục vụ ở giáo xứ để đáp ứng nhu cầu cho kịp nhu cầu “cấp thiết” ấy! Thế mới biết, mình đang trở thành con rối cho người khác giật dây mất rồi. Không còn làm được những gì lương tâm và con tim thôi thúc. Tệ hại hơn là đôi khi nhìn thấy gian dối, bất công xảy ra ngay trước mắt mà vẫn phải làm thinh “giả mù, giả điếc” trong khi mình đang được kêu gọi sống và làm chứng cho sự thật! Thử hỏi có nổi đau nào lớn hơn nổi đau ấy không? Điều đáng nói là hình thức nhà tù có song chắn bọc lụa này ngày nay đang gia tăng rất nhiều và cũng có rất nhiều người đã tự nguyện “nỉ non” cho mình được làm “tù nhân” cho loại nhà tù này!

Một cách chim thật sự sẽ không bao giờ chịu ở lồng dù cho chiếc lồng đó có là chiếc lồng vàng, lồng son đi nữa. Chỉ có bầu trời mới thật sự là nhà của mình mà thôi, dù cho có phải trú ngụ nơi cành cây héo úa giữa mùa dông tố hay băng giá đi nữa, nó vẫn vui vẻ và hót líu lo.

- Nhà tù không lính gác: nhà tù loại này không cần có người gác cổng vì tù nhân đâu biết lối để mà ra. Nói đúng hơn là họ không muốn ra khỏi nơi này vì những đam mê và dục vọng đã làm cho họ không còn thấy đường để tìm lối ra. Họ chìm đắm trong những cơn say: say men rượu, say men tình, say tiền bạc, say danh vọng và địa vị . . . say quá trở thành mê, mê rồi ngủ luôn trong những thứ “êm ái” đó cho tới lúc thấy mình sao mà khác người quá! Sao mà hèn kém quá! Sao sống mà giống như chết vậy! Cuộc đời như thế thật đáng thương làm sao! Nhưng là lùng là tù nhân ở trong nhà tù ấy lại thích được như vậy. Thế mới lạ!

- Những hạng tù nhân kể trên là nhưng tên tù ngục “cao cấp” và ở trong những nhà tù sang trọng. Nhưng đã là tù nhân thì không ai có thể nói là mình hoàn toàn tự do được. Cái khổ của con người là không được tự do để làm những điều thiện ích nên làm; không được sống cho ra một con người đích thực; không sống đúng được với ơn gọi mà mình đã lãnh nhận. Chúa Giêsu đến trần gian là để giải thoát con người khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi, và làm cho chúng ta trở nên con người tự do. Tự do thật sự là không làm nô lệ cho tội lỗi, cho thế gian, cho xác thịt. Ma quỷ đang giăng mắc quá nhiều cạm bẫy, bày ra quá nhiều nhà tù “cao cấp” để lôi kéo thật nhiều người tự nguyện đi vào đó. Câu nói quen thuộc chúng thường dùng để cám dỗ con người và đã từng giúp chúng làm nên chiến thắng là: “chết chóc gì đâu! Cứ thử đi!”

Có một câu chuyện kể như sau: “Một ông lão đi đường vô cùng ngạc nhiên và thắc mắc là không biết tại sao bầy heo lại chen chúc nhau chạy theo một chàng thanh niên để vào một lò “giết mổ động vật”. Chàng thanh niên ấy điềm tĩnh trả lời: “Có gì khó khăn đâu cụ! Chỉ cần thỉnh thoảng cháu rải vài hạt đâu phụng xuống đường thì bầy heo tham ăn ấy chạy theo cháu thôi. Chúng không biết là chúng đi vào chỗ giết thịt chúng đâu!”

Tôi thầm ước nguyện và cầu mong sao cho mọi người, nhất là những người Kitô hữu và đặc biệt là những người sống đời thánh hiến mãi mãi là con người tự do thật sự, với một con tim nhẹ nhàng và thanh thoát.

XVI. MỘT LỐI SỐNG

Dễ & Khó

- Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một người, nhưng khó là khi bạn tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.

- Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác, nhưng khó là khi nhận ra sai lầm của chính mình.

- Dễ là khi nói mà không suy nghĩ, nhưng khó là khi biết kiểm soát những lời nói của mình.

- Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi hàn gắn vết thương đó.

- Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ cho mình.

- Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc, nhưng khó là khi làm theo chúng.

- Dễ là khi nằm mơ hàng đêm, nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.

- Dễ là khi thể hiện chiến thắng, nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.

- Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã, nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.

- Dễ là khi hứa một điều với ai đó, nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.

- Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.

- Dễ là khi phê bình người khác, nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.

- Dễ là khi để xảy ra sai lầm, nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.

- Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.

- Dễ là khi nghĩ về một việc, nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành động.

- Dễ là khi nghĩ xấu về người khác, nhưng khó là khi cho họ niềm tin.

- Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.

- Dễ là khi đọc những điều này, nhưng khó là khi bạn thực hiện nó.

Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã!

XVII. SỐNG LỜI CHÚA: GIOAN 6,5

Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?

1163    23-04-2012 14:40:52