Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Bài huấn luyện của UBGD (15)

PHẦN TU ĐỨC
TÂM THẾ ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (Lc 14,1.7-15)
 
download 3Chứng kiến anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giêsu, các môn đệ đâm ra tức tối. Đức Giêsu đã sửa dạy các ông và cho các ông thấy đâu là tâm thế ứng xử của các môn đệ người: “anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. vì con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10,42-45). Làm người phục vụ anh em, nghĩa là ưu tiên quan tâm nhu cầu của anh chị em hơn nhu cầu của bản thân. Viễn tượng của Đức Giêsu về người lãnh đạo như thế có thể gây sốc cho chúng ta, những thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay, khi người ta bận tâm tìm kiếm chỗ ngồi, địa vị, quyền lực, và lợi ích cho bản thân mình hơn là tìm cơ hội khiêm tốn phục vụ.
 
Khi Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, người ta “cố dò xét Người” (Lc 14,1), nhưng thật ra khi đó, chính Đức Giêsu đang quan sát cách họ ứng xử với nhau; Người “nhận thấy” họ cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên đã khuyên nhủ họ qua dụ ngôn. Thế nhưng lời khuyên dành cho khách dự tiệc dường như chẳng có gì đặc biệt, bởi theo phong tục người Do Thái, người chủ tiệc không dành riêng một số ghế cho các vị khách quan trọng hay các bậc vị vọng, cũng không có nhóm tiếp tân hướng dẫn khách mời vào các chỗ dành riêng; quan khách phải tự căn cứ vào địa vị bản thân mà chọn chỗ ngồi thích hợp. Vậy nên, cách ứng xử ngôn ngoan là đừng ngồi vào chỗ quan trọng nhất, tránh phải nhường chỗ và phải “mất mặt”, thay vào đó, hãy chọn chỗ khiêm tốn hơn, để sau đó có thể được hãnh diện và vinh dự khi được mời công khai lên vị trí quan trọng hơn. Hẳn là mỗi người có thể tự đúc kết kinh nghiệm để biết cách ứng xử khôn ngoan như thế.
 
Trong khi lời khuyên dành cho khách dự tiệc dường như không có gì đặc biệt, thì lời khuyên dành cho chủ tiệc lại thật sự lạ thường: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14,12-14). Chắc hẳn lời khuyên của Đức Giêsu dành cho khách dự tiệc không thể được hiểu ở mức độ khôn khéo thông thường, nhưng cần được hiểu trong viễn tượng bữa tiệc nước trời: “Phúc thay ai được dự tiệc Nước Thiên Chúa!” (Lc 14,15).
 
Thật vậy, ai trong chúng ta có thể tự căn cứ vào địa vị bản thân để chọn chỗ cho mình trong Tiệc Nước Trời? Có chỗ trong Tiệc Nước Trời là một đặc ân nhưng không Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho mỗi người chúng ta. Trong viễn tượng Nước Trời, chúng ta đều nghèo hèn và lỗi tội, như thánh Phao-lô nói, trong Đức Ki-tô không có phân biệt giữa nam và nữ, giữa Do Thái và Dân Ngoại, giữa người tự do và người nô lệ. Chúng ta trở nên giống nhau trong thân phận, trong phẩm giá và ân sủng. Đó chính là chỗ nhất của mỗi người chúng ta. Chính trong viễn tượng nước trời, chúng ta nhận ra tâm thế ứng xử của người môn đệ Đức Giêsu, đó là phục vụ cách nhưng không: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
 
Hồi tâm.
 
1/ Tôi trải nghiệm thế nào trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn?
 
2/ Là thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, có khi nào tôi không được cư xử tương xứng, thiếu tôn trọng? Khi đó, tôi cảm nghĩ thế nào và ứng xử ra sao?
 
3/ Khi nghĩ đến cung cách lãnh đạo phục vụ như Đức Giêsu mời gọi, tôi thường nghĩ đến điều gì, nhớ đến ai? Ai từng làm gương cho tôi về cung cách lãnh đạo phục vụ?
 
Lm. Toma Vũ Ngọc Tín, SJ.
 
 
Phần IV: GIÁO DÂN TRONG CHIẾU KÍCH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI
CÁC CÔNG TÁC TIN MỪNG HÓA CẤP BÁCH:
CHÍNH TRỊ – KINH TÊ – LAO ĐỘNG
 
Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” (Ga 17:18-19)
 
 
Ki-tô hữu nói chung, và giáo dân nói riêng, thực hiện ơn gọi Ki-tô hữu của riêng mình qua việc sống Tin Mừng ngay giữa lòng thế giới hôm nay. Họ cảm thấy cấp bách phải làm dậy lên sức mạnh muối men và ánh sáng của Tin Mừng, hầu ướp mặn và soi sáng những nguyên lý hiện chi phối các sinh hoạt của thế giới con người, trong đó, hơn bao giời hết, nổi bật hai lãnh vực quan trọng là chính trị và kinh tế. Hai lãnh vực này nhất thiết cần phải được Tin Mừng mau chóng giải thoát khỏi bị chi phối bởi dục vọng do lòng tham vô đáy của con người gây nên. Đây chính là nguyên nhân của mọi chia rẽ, mọi tranh chấp và chiến tranh trong chính trị, cũng như mọi bóc lột và bất công trong hoạt động kinh tế đang hoành hành trên thế giới hôm nay.
 
1/ Nhận thức tầm quan trọng của chính trị
 
Chính trị, trong ý nghĩa và nội dung tinh ròng của nó, chính là đường hướng sinh động các trật tự trần gian của tập thể con người, hòng phục vụ cho cá nhân, gia đình và tập thể xã hội như quốc gia dân tộc cách hữu hiệu nhất. Đó là khía cạnh ‘đời công’ của con người, và liên quan tới nhiều lãnh vực như kinh tế, trật tự công cộng, luật pháp, hành chính và văn hóa v.v…, theo hướng làm thăng tiến cách có tổ chức lợi ích chung - cũng được gọi là ‘công ích’. Mọi Ki-tô hữu nói chung, và giáo dân cách riêng, nhân danh những đòi hỏi của Tin Mừng, không thể nào sao lãng bổn phận tham gia vào các hoạt động chính trị và kinh tế, nhất là trong thế giới và xã hội hôm nay (xem CFL số 42). Công Đồng Va-ti-can II thậm chí đã nhiệt liệt biểu dương sự tham gia này, và coi đó như nét chuyên biệt của người giáo dân Ki-tô hôm nay: “Hội Thánh coi công việc của những ai dấn mình vào các việc công ích của quốc gia, và chấp nhận những lao nhọc nặng nề của công tác này, tới tinh thần phục vụ tha nhân, là rất đáng khen ngợi” (GS số 75).
 
Điều này cần được mọi phần tử Hội Thánh ngày nay đặc biệt lưu tâm, vì đã có một thời, người ta coi chính trị như một lãnh vực mà bất cứ Ki-tô hữu thuần khiết nào cũng cần xa lánh. Nhiều người quan niệm rằng giữ đạo (đồng hóa với việc sống Tin Mừng) là chuyện hoàn toàn riêng tư, không liên quan gì tới lãnh vực công hay chính trường, vì đây là hố sâu phản Tin Mừng nguy hiểm nhất, đầy dẫy những thủ đoạn phi nhân. Chính vì lẽ đó mà ngày nay, các Ki-tô hữu càng phải thay đổi não trạng tự tách biệt, để biết tích cực dấn mình vào các hoạt động phục vụ công ích, đặc biệt là quan tâm và tham gia chính trị, hầu làm thay đổi bộ mặt xã hội con người. Hơn bao giờ hết, Hội Thánh thời hậu Va-ti-can II mong ước các Ki-tô hữu giáo dân thoát ra khỏi thái độ hoài nghi cũng như lãnh đạm đối với chính trị và kinh tế. Họ hoàn toàn không được phép từ chối tham gia sinh hoạt chính trị, vịn cớ rằng chính trị là môi trường nguy hiểm cho luân lý và lương tâm… Hơn thế nữa, họ còn phải xác tín rằng: chính trị chính là lãnh vực cống hiến cho mình môi trường phục vụ Tin Mừng sâu xa và hữu hiệu nhất.  
 
2/ Các tiêu chuẩn Tin Mừng soi dẫn
 
Được soi sáng và thúc đẩy bởi Tin Mừng tình yêu của Đức Ki-tô, mọi Ki-tô hữu, trong thái độ cũng như trong tham gia chính trị, đặc biệt chính trị đảng phái, đều cần lưu ý tới các tiêu chí sau đây :
 
1/ Chính trị chân chính phải luôn nhằm phục vụ con người và xã hội, phải có ý hướng chắc chắn là tích cực bảo vệ và cổ súy cho nền công lý và hòa bình mọi nơi.
 
2/ Mọi sử dụng quyền hành trong chính trị đều phải đặt nền tảng trên tinh thần phục vụ (cũng được gọi là ‘công ích’). Đây là điều kiện cơ bản giúp cho các hoạt động của những ai tham gia chính trị, nhất là chính trị đảng phái, được luôn ‘trong sáng’ và ‘liêm khiết’.
 
3/ Phải ý thức rằng: tình liên đới sẽ là phương thế duy nhất để thực hiện một nền chính trị chân chính, hướng đến phát triển và tiến bộ đích thực của con người và xã hội. Hơn bao giời hết, trong bối cảnh thế giới hôm nay, sự liên đới phải được thể hiện trong chính trị trên bình diện ngày càng rộng lớn hơn, nhiều khi vượt ra khỏi lằn ranh của gia tộc, địa phương hay quốc gia, để tiến tới bình diện đa quốc mang tầm cỡ thế giới, hầu xây dựng được một nhân loại đại đồng hòa bình và phát triển.
 
Để làm được điều đó, Hội Thánh luôn nhắc nhở các Ki-tô hữu rằng: họ cần tôn trọng tính cách độc lập của các thực tại trần thế, đồng thời cũng biết làm chứng cho những giá trị đích thực của Tin Mừng, những giá trị luôn hướng tới việc nâng cao phẩm chất của từng con  người và toàn xã hội. Trong mọi dấn thân trần thế, nhất là trong lãnh vực chính trị và kinh tế, các Ki-tô hữu giáo dân cần biết áp dụng cách khôn ngoan và sáng tạo Học thuyết Xã hội của Tin Mừng đã được Hội Thánh đề xuất. Họ cần học hỏi, thấu triệt, và khôn ngoan ứng dụng học thuyết này vào những hoàn cảnh đa diện và phức tạp của môi trường sống mình.
 
3/ Tin Mừng hóa lãnh vực kinh tế
 
Một trong cácg mục tiêu của đời sống con người mà chính trị cần giải quyết là: làm sao thăng tiến được lãnh vực kinh tế của mỗi người và của toàn xã hội. Đây là lãnh vực mà thế giới hôm nay đang có những phát triển nhanh chóng vượt bậc, đồng thời cũng tiềm tàng không ít những bất bình đẳng và bất công to lớn. Trong khi hướng tới mục tiêu gia tăng của cải vật chất nhằm phục vụ đời sống con người và xã hội tốt hơn, chính kinh tế lại dễ bị chi phối bởi những nguyên tắc phi đạo đức, sao lãng (thậm chí còn chống lại) phẩm giá đích thực và những giá trị sâu xa nhất của con người và xã hội. Chính vì lẽ đó mà Tông huấn Ki-tô hữu Giáo Dân, dựa trên đường hướng đã được Công Đồng Va-ti-can II vạch ra (xem GS số 63), đã mạnh dạn lên tiếng như sau: “Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế và xã hội.” (CFL số 43)
 
Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, khi công bố Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đã nêu lên một số nguyên tắc Tin Mừng cơ bản, một số những công việc cụ thể cần làm, và một thái độ căn bản mà người Ki-tô hữu cần có, khi tiến hành các hoạt động kinh tế và lao động (xem các số 38-39),:
 
1/ Thiên Chúa ban tặng các của cải trên mặt đất cho tất cả và cho từng con người; nói cách khác, mọi của cải đều mang tính phục vụ và xã hội
 
2/ Quyền tư hữu có chức năng tiên quyết là phục vụ từng con người và xã hội; không ai được phép sử dụng quyền này mà tách nó ra khỏi mục tiêu phục vụ
 
3/ Lao động là quyền lợi và bổn phận của mọi công dân trong xã hội, bất luận là nam hay nữ. Tự nó, lao động tiềm tàng những giá trị to lớn nâng cao con người và xã hội, vượt lên trên cả những giá trị và lợi ích thuần kinh tế.
 
4/ Nhiệm vụ cấp bách của Ki-tô hữu giáo dân trước vấn đề lao động
 
Kể từ cuộc bùng nổ cách mạng kỹ nghệ vào giữa thế kỷ XIX, vấn đề kinh tế và lao động không ngừng chuyển biến để trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn thế giới hôm nay. Đứng trước những chuyển biến phức tạp đang diễn ra trong lãnh vực lao động và kinh tế, mà hậu quả của chúng là liên tục đảo lộn cuộc sống con người và xã hội, Ki-tô hữu giáo dân chúng ta cần có nhận thức rằng: Hội Thánh thời hậu Va-ti-can II đang trao vào tay mình những trọng trách rất lớn hòng cải tạo thế giới, đó là:
1/ Ki-tô hữu (đặc biệt giáo dân) phải là những người tiền phong tìm mọi cách giải quyết các vấn đề của nạn thất nghiệp đang gia tăng; vừa bảo đảm tiến bộ trong lao động sản xuất, lại vừa duy trì được phẩm giá của người lao động khi tạo nên những sản phẩm hữu ích.
 
2/ Họ cũng phải không ngừng đấu tranh để chống lại vô vàn những bất công phát sinh từ những cơ chế phi nhân trong lao động và sản xuất.
 
3/ Họ còn phải nỗ lực biến nơi làm việc thành một môi trường sống hiệp thông mang tính cộng đoàn, nơi mỗi con người đều có quyền tham gia, và nhân phẩm được tôn trọng. Trong cộng đoàn lao động này, họ sẽ nỗ lực phát huy những mối liên đới mới mẻ và bền chặt giữa những con người cùng chung tay làm việc, hầu tạo nên một hình ảnh sống động của một xã hội đoàn kết và yêu thương.
 
4/ Họ còn phải nỗ lực sáng tạo những hình thức sản xuất kinh doanh mới để thúc đẩy tiến bộ, thông qua những trao đổi kỹ thuật cởi mở đầy tương tác; đồng thời không ngừng duyệt xét lại các hệ thống thương mại và tài chánh, hầu xóa bỏ tối đa những bất bình đẳng và bất công dễ dàng xảy ra.
 
Tóm lại, Tông Huấn minh định thái độ tích cực của Ki-tô hữu giáo dân trước các vấn đề kinh tế và lao động như sau: “Họ phải chu toàn công việc của mình với khả năng nghề nghiệp chuyên môn, với tính liêm khiết của con người, và với tinh thần Tin Mừng như là phương tiện để thánh hóa chính mình” (CFL số 43).
 
Như thế, ta có thể không chút hổ thẹn khẳng định rằng: chính qua lao động, hoạt động kinh tế và tham gia chính trị mà các Ki-tô hữu giáo dân tìm được cho mình con đường sống Tin Mừng và thánh hóa bản thân. Chúng ta mơ ước sớm có được những diện mạo Ki-tô hữu giáo dân như thế, hầu có thể giới thiệu cho nhân loại biết về các giá trị tích cực của Tin Mừng có khả năng dẫn dắt thế giới hôm nay đi đúng đường.
 
Câu hỏi gợi ý:
1/ Là người Ki-tô hữu Việt Nam, chúng ta có ý thức gì về trách nhiệm chính trị của mình đối với tổ quốc và đồng bào của mình không? Nói cách khác, chúng ta có chứng minh được rằng: các giá trị Tin Mừng là rất cần thiết cho sự phát triển lâu bền của đất nước chúng ta hay không?
 
2/ Thái độ của bạn đối với lao động nói chung, và công việc làm ăn của mình nói riêng, có được các nguyên lý Tin Mừng về nhân văn và liên đới soi dẫn không? Nói cách khác, tiêu chuẩn Tin Mừng có hướng dẫn bạn trong việc lựa chọn công ăn việc làm không? 
 
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
 
PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ
MƯỜI MÔN ĐỆ KIA TỨC TỐI...
 
“Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó”. (Mt 20,24)
Dẫn vào
Theo tâm lý học, một trong những cách thức hỗ trợ việc nhận định tâm tính vốn khá phức tạp của con người là phân chia tính tình con người thành ba loại: (1) phân loại A (aggressiveness: sự hung hăng, khẳng định mạnh mẽ); (2) phân loại B (balance: sự quân bình, thích ứng hài hòa); (3) phân loại C (can: cái hộp kim loại, khả năng chứa đựng). Sự thành công hay thất bại của ai đó theo từng phân loại có thể được điều chỉnh nhờ hiểu biết tính khí bản thân mình thuộc phân loại nào, thường có khuynh hướng ứng xử như thế nào.
 
Thật vậy, nhớ lại nội dung ba bài viết liền trước bài viết này, chúng ta có thể nói: nếu muốn ngồi bên hữu hay bên tả của Thầy Giê-su là khuynh hướng tự nhiên của hầu hết mọi người thì rõ ràng nên xếp hai anh em “con ông Dê-bê-đê” và cả bà mẹ của hai anh em này vào Phân loại A,[1] với ý thức những vị này sẽ phải trải qua việc đón nhận những thực tiễn “uống chén đắng” của Phân loại C,[2] trong khi đó, ai cũng cần phải nỗ lực vượt qua chính mình, và đạt đến sự ổn định của Phân loại B.
 
Theo đó, chủ đề “Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó” (Mt 20,24) của bài chia sẻ lần này có thể giúp quý chức các hội đồng hội đoàn giáo xứ suy nghĩ nhiều hơn về vai trò phục vụ của mình, như chính các tông đồ, các môn đệ… noi gương tinh thần yêu thương phục vụ hết mình của Thầy Giê-su năm xưa.
 
Nghe vậy...
Khá nhiều các tông đồ, các môn đệ của Thầy Giê-su năm xưa thuộc Phân loại A một cách rõ ràng: hăng hái, quyết đoán, cạnh tranh, táo bạo, chạy đua với thời gian, ghét bị thua cuộc…. Chẳng vậy mà chỉ cần nghe thấy bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Ki-tô Giê-su, nài xin Người cho hai con của bà được ngồi bên hữu, bên tả của Người… thì các ông phản ứng ngay, hết sức tức tối. Tương tự, chỉ cần nghe thấy ai đó trong hàng ngũ anh chị em quý chức chúng ta gặp nhiều may mắn, lại sắp được bầu chọn vào một chức vụ cao hơn mình, chúng ta có thể sẽ cảm thấy bị thôi thúc phải làm điều gì đó, phải cạnh tranh quyết liệt, muốn chạy đua với thời gian để cũng được tiến cử vào chức vụ cao hơn như vậy (hoặc hơn vậy). Chúng ta ghét bản thân mình phải sắm vai người thua cuộc, chúng ta không thích “… là người đến sau”.
 
… mười môn đệ kia tức tối
Vì ghét sắm vai người thua cuộc, ai đó mới dễ dàng bực bội, dễ dàng tức tối…. Khi bực bội, tức tối, người ta không quan tâm đến thực tiễn luôn đòi hỏi những ai đó ở vị trí cao phải có khả năng chịu đựng;[3] phải uống được chén đắng Thầy Giê-su uống.[4] Nghĩa là, Thầy Giê-su, các tông đồ, các môn đệ đều phải trải qua những đòi hỏi của Phân loại C: biết chịu thương chịu khó, bó buộc bản thân, biết nhẫn nhịn chịu đựng.[5] Chẳng vậy mà khi gắng sức uống chén đắng một cách thái qúa, cơ thể những người thuộc Phân loại C có thể rơi vào trạng thái căng thẳng, thậm chí sau đó là trầm cảm (khả năng miễn dịch suy giảm, dễ dẫn đến ung thư). Nghĩa là, chính chúng ta, những người trong vai người phục vụ giáo xứ, cũng dễ dàng trở nên tức tối khi “phải” phục vụ những người xung quanh. Thật ra, Chúa dạy rõ ràng: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.[6]
 
… tức tối với hai anh em đó
Khi hành động của bản thân không minh nhiên tỏ ra mình là những người sẵn sàng phục vụ… thì chính đó là lúc chúng ta hay tức tối với những người xung quanh, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Trong khi đó, với danh nghĩa là những quý chức hội đồng hội đoàn giáo xứ, chúng ta được mời gọi nên như các tông đồ, các môn đệ, những người theo Chúa – như chính các vị này đã noi gương Thầy Giê-su – tình nguyện phục vụ, đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.
 
Vậy ra, khởi đầu là tính cách thuộc về Phân loại A, chúng ta cần tránh rơi hoàn toàn vào Phân loại C. Nghĩa là, chúng ta cần khéo léo cân bằng tính cách của mình để có thể thuộc về Phân loại B: ôn hòa, dễ chịu, không nuôi cảm giác cấp bách về thời gian, không tham vọng, nhưng vẫn dồi dào lý tưởng, và luôn lạc quan. Thật ra, tức tối, bực bội… với những người là đối tượng mà chúng ta tự nguyện cam kết yêu thương phục vụ là một sai lầm kép. Tức tối, bực bội đã không được gì mà bực bội, tức tối lại còn làm mất đi “những người bạn”. Đành rằng, muốn thành công phải là người có khuynh hướng thuộc về Phân loại A; muốn được nổi tiếng là người tốt, cần phải là người có khuynh hướng thuộc về Phân loại C. Tuy nhiên, người tốt nhất và thành công nhất chính là người có tính cách thường xuyên thuộc về Phân loại B.
 
Chuyện vui minh họa
Một anh chồng trẻ nọ vừa tan sở chạy vội về nhà dùng cơm tối với gia đình. Thấy cô vợ đang đánh phạt đứa con trai nhỏ, anh ta bỏ đi thẳng vào nhà bếp. Lại thấy nồi cháo gà đang nghi ngút khói trên bàn, anh ta nhanh nhẩu múc ngay một tô để ăn. Ăn xong, thấy vợ vẫn còn đang đánh phạt đứa con, anh ta không nhịn nổi, bèn nói: “Giáo dục con cái đừng dùng roi vọt, phải giảng giải cho con hiểu chứ…”. “Anh biết không…”, chị vợ nói, “em mất công nấu nồi cháo gà thơm ngon là thế mà nó lại tè vào một bãi, tức tối quá chừng đi…”. Anh chồng vừa nghe đến đó liền nổi cơn “lôi đình”, tức tối giận dữ quát: “Á à, á à… thôi em nghỉ ngơi một chút đi, để anh xử lý cho…”.
 
Câu hỏi giúp thảo luận
Với đề tài chủ đạo “Ơn gọi của người giáo dân trong gia đình, Giáo hội, và xã hội”, trong Đại hội Ủy Ban Giáo Dân từ ngày 16 đến 18-7-2019 vừa qua tại Bãi Dâu, Vũng Tàu, bạn có cảm thấy ý thức hơn về ơn gọi được làm giáo dân quý chức hội đồng, hội đoàn giáo xứ? Bạn nghĩ tính cách của bạn thuộc phân loại nào theo tâm lý học (A, hay B, hay C)?
Khi gặp chuyện bất bình, bạn thường ứng xử ra sao? Có khi nào vừa nghe biết một nguồn tin trái ý, không như mong đợi… bạn nổi giận ngay lập tức không? Bạn thường ứng xử như thế nào? Theo bạn, có nên tùy tiện đánh giá việc này việc nọ không?
20-7-2019, GTHH
523    11-10-2019