Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Cuộc sống và sự làm chứng của Thánh André Bessette

Sức Mạnh Chữa Lành của Đức Tin

Cuộc sống và sự làm chứng của Thánh André Bessette

 

“Tôi chỉ là một người, giống như các bạn”, Anh André Bessette nhắc nhở những người đã đến với anh cầu xin. Được biết đến như một công nhân hay làm phép lạ chữa lành trong suốt cuộc đời của mình, vị thánh giữ cửa khiêm tốn này nhấn mạnh tất cả lòng tin (công trạng) vào Thiên Chúa, đức tin của những người đã được chữa lành và sự chuyển cầu của Thánh Giuse. Một cách bình thản, André Bessette nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông (bà/anh/chị…)”. Sau đó, họ được chữa lành.

Anh André sinh ở Alfred Bessette vào năm  1845 trong một tỉnh nhỏ gần Montreal[1]. Anh là người con thứ sáu trong mười người con của một bác thợ mộc và khắc gỗ. Khi sinh ra, Afred quá yếu ớt đến nỗi bà đỡ đã rửa tội cho anh ngay lập tức. Suốt cuộc đời, sức khỏe của anh cứ yếu như thế. Không ai dám tin rằng anh sẽ sống đến tuổi quá chín mươi mốt.

“Cha gửi cho các anh em một vị thánh”. Khi Alfred chỉ mới chín tuổi, cha của cậu đã qua đời trong một tai nạn. Mẹ cậu chết vì bệnh lao phổi vài năm sau đó. Tất cả con cái bị phân chia cho những người họ hàng và Alfred thành kẻ mồ côi và gần như mù chữ, bị buộc phải đi tìm việc làm. Anh đã học một số kỹ năng, nhưng vì lý do sức khỏe nên chẳng bao giờ hoàn thành được một kỹ năng nào.

Khi cha xứ của Alfred giới thiệu anh cho các anh em của dòng Holy Cross (Thánh Giá) và đề nghị Alfred nộp đơn vào Dòng, Alfred lưỡng lự vì anh không được học hành gì. Anh chưa bao giờ tham dự bất cứ trường lớp nào và thậm chí có thể rất khó mà viết được tên riêng của anh.

Tuy nhiên, vị linh mục cứ khăng khăng và thậm chí cha đã viết thư nộp đơn cho anh. Cha viết trong phần mở đầu của lá thư của mình “Cha gửi cho các anh em một vị thánh”. Alfred có lẽ thiếu trường lớp chính thức, nhưng cầu nguyện là một phần trong nền giáo dục của anh ngay từ những ngày đầu đời. Trước khi cha mẹ anh qua đời, toàn thể gia đình anh thường quây quần với nhau mỗi buổi tối để đọc kinh Mân Côi và ngay cả khi còn là một đứa trẻ, Alfred đã yêu mến suy gẫm về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu.

Chính cha của Alfred, một người thợ mộc, cũng giới thiệu anh cho người thợ mộc vĩ đại thành Nazareth, khi Alfred chỉ là một đứa trẻ, Alfred đã đặt chính mình dưới sự bảo vệ đặc biệt của Thánh Giuse. Sau đó, kinh nghiệm trong những lần di chuyển và trong công việc của mình, lòng sùng mộ Thánh Giuse người lao động – đấng biết cả sự tha hương lẫn sự nghèo túng -, đã đào sâu và bén rễ chắc chắn trong tâm hồn của Alfred. Tất cả những sự ảnh hưởng này đã kết hợp lại để hình thành trong Alfred một tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và một khát khao phục vụ Người bằng chính cuộc sống của anh. Vị giám tập của Alfred đều biết tất cả những điều này.

Sau năm tập của Alfred, Các Bề trên Dòng Thánh Giá do dự cho anh tuyên khấn dứt khoát, Nhưng khi Đức Tổng Giám mục Montreal đến thăm Nhà Thờ Notre Dame, André đã vượt thắng được tính khiêm nhường tiêu biểu của anh và đã cầu xin Đức Tổng Giám mục giúp đỡ. Đức Giám mục bảo anh “Đừng sợ, con trai của ta, con sẽ được phép tuyên khấn”. Không nghi ngờ gì sự can thiệp của Đức Giám mục, nhưng giám tập của anh cũng biện hộ cho trường hợp của anh rằng: “Nếu người thanh niên trẻ này không thể làm việc, thì ít nhất anh ấy sẽ cầu nguyện cho chúng ta”. Do đó, Alfred được chấp nhận cho khấn năm 1870 và lấy tên André.

Các anh em dạy cho André đọc và giao cho anh một số công việc của người hầu cần thiết cho việc sửa sang lại nhà của họ. André đã làm một số công việc không chuyên môn ở Canada và ở Hòa Kỳ trước khi anh vào Dòng Thánh Giá, như thế như một thầy giúp việc, anh vui vẻ lau nhà và cửa sổ, lau chùi các bóng đèn, mang củi và làm việc như một người gác cổng và đưa tin.

Người gác cổng của Thiên Chúa. Anh André biết cách nói về tình yêu của Thiên Chúa cách mãnh liệt đến độ anh đã truyền niềm hy vọng cho mọi người gặp gỡ anh. Anh nói về Thiên Chúa như một người Cha yêu thương, anh cho mọi người lời khuyên tốt lành và có khả năng thông cảm với những người mà anh khuyên. Những đặc điểm này, cùng với tính hài hước nồng hậu của anh đã lôi kéo mọi người đến với anh.

Anh thường nói: “Bạn không được buồn”. “Thật là tốt để cười lớn một chút”. Đặc biệt với những người nghèo và bất hạnh, người anh em tốt lành này luôn vui vẻ và niềm vui nột tâm của anh dường như có tính lây lan.

Khi Anh André được chỉ định làm người gác cửa cho trường đại học của Dòng ở Montreal, điều đó chắc chắn không phải ngẫu nhiên. Cách cư xử nhẹ nhàng của anh, tính tình dễ thương của anh và thói quen của anh là dễ chịu với mọi người – cùng với khả năng nói vừa tiếng Anh vừa tiếng Pháp của anh – đã làm cho anh thành một sự lựa chọn hoàn hảo. Nhưng ở đây còn hơn cả sự logic nữa. Khi những biến cố tương lai được tỏ lộ, sự quan phòng thánh thiêng cũng được thực hiện.

Sau khi hoàn thành công việc trong ngày, Anh André thăm viếng những người đau ốm và những người già nơi nhà của họ hoặc nơi bệnh viện. Anh đặt tất cả bản tính nhân hậu và tính hài hước tốt lành của anh vào trong những cuộc viếng thăm này, nhưng một số người chỉ trích anh, họ nói rằng anh chỉ thích đi loanh quanh trong một chiếc xe hơi. Tuy nhiên, André trả lời rằng: “Có một số người nói rằng thật là niềm vui thích khi tôi viếng thăm những người bệnh tật, nhưng sau một ngày làm việc thật khó để trở nên một niềm vui cho người khác. Căn nhà cho những người nghèo thì toàn những người nam và người nữ bị bỏ rơi, không bà con không bạn bè… Thật tốt biết bao khi những người mạnh khỏe viếng thăm những người đau yếu”.

Kết quả của những lần thăm viếng này là hàng ngàn người nghèo, những người bị tổn thương và những người bất hạnh đã đến gặp Anh André trong văn phòng nhỏ bé của anh. Ở đó anh đã khuyên họ, khóc với họ và cầu nguyện cho họ. Thỉnh thoảng anh có thể quá nhanh vội và gay gắt, đặc biệt khi anh mệt mỏi. Nhưng bất cứ khi nào anh nhận ra rằng anh đã nói quá gay gắt thì anh sẽ hối hấn và tự nhắc nhở mình: “Ít nhất họ biết rằng tôi chẳng là gì ngoài một kẻ tội lỗi nghèo hèn”. Anh André không phân biệt những người xin anh giúp đỡ. Anh cầu nguyện cho mọi người. “Thiên Chúa của chúng ta là Anh lớn và chúng ta là những anh em nhỏ. Vì thế, chúng ta phải yêu thương nhau như những thành viên của cùng một gia đình”.

Anh André có một tình yêu đặc biệt đối Thánh Thể và khuyến khích mọi người rước lễ thường xuyên. Anh nói với giọng buồn “Nếu bạn chỉ dùng một bữa một tuần, bạn có sống sót không? Linh hồn bạn cũng vậy”. Đối với André, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.

Sự đụng chạm chữa lành. Một ngày kia, sau năm năm làm người gác cổng, André đến bệnh xá thăm một sinh viên đang đau đớn vì cơn sốt trầm trọng. Anh nói với cậu: “Em sẽ hoàn toàn mạnh khỏe. Em hãy đi ra ngoài và vui chơi”. Cậu sinh viên đã làm như thế và khi bác sĩ đến kiểm tra cậu, cậu đã hoàn toàn khỏe mạnh. Ngay sau đó, một dịch bệnh đậu mùa xảy đến tại trường đại học của Dòng ở Saint Laurent. Nhiều người mắc bệnh và một số đã chết. Anh André tự nguyện chăm sóc các bệnh nhân và khi anh đến anh đã quỳ xuống cầu nguyện với Thánh Giuse. Không người nào chết nữa. Những tin đồn về sự chữa lành này bắt đầu truyền đi khắp miền Montreal, và những vị khách ban đầu tăng dần lên thành một dòng những người bệnh đi tìm André.

Khi còn là một người thanh niên trẻ, André có một giấc mơ nhìn thấy một nhà thờ ở trong một môi trường xa lạ. Sau đó anh nhận ra nơi đó chính là đỉnh Núi Royal xinh đẹp (beautiful Mount Royal), và anh đã tin tưởng rằng một đền thờ tôn kính Thánh Giuse nên được xây dựng ở đó, như anh đã cất giữ điều xác tín này cách kín đáo cho đến đúng thời điểm.

Trong khi ấy, đoàn lũ các bệnh nhân kéo đến trường đại học đã bắt đầu làm phiền các cha mẹ của các sinh viên. Vì thế, sau một thời gian André đã nhận người ốm tại một trạm xe điện nhỏ – cho đến khi các hành khách phàn nàn. Giữa tất cả sự náo động này, Đức Tổng Giám mục của Montreal đã xin bề trên của André rằng: “Nếu bề trên ra lệnh cho André, anh ta sẽ ngừng công việc này chứ?” Bề trên làm chứng về sự vâng phục của André. Ngài nói thêm: “Tốt thôi, cứ để yên anh ấy thưa Giám mục. Nếu công việc đến từ Thiên Chúa, nó sẽ tiếp tục; nếu không, nó sẽ chấm dứt”. Khi một số bác sĩ buộc tội André là (bác sĩ) lang băm, thì các chuyên gia về sức khỏe đã chứng minh anh “vô hại”.

Một căn nhà cho Thánh Giuse. Anh André là một trong những người đầu tiên cậy nhờ đến Thánh Giuse như một người quản lý nhà cửa đất đai và nhiều lần cầu khẩn ngài về sự nghèo khổ. Sau vài năm, các nhà chức trách của Dòng Thánh Giá đã cố gắng mua đất trên Núi Royal, nhưng các chủ nhân từ chối bán. André, cùng với các anh em khác và các sinh viên, bắt đầu cắm những tấm biểu tượng của Thánh Giuse trên mảnh đất đó. Bất chợt, vào năm 1896, các chủ nhân đồng ý. Thế là các anh em có được đúng mảnh đất ấy và André lần đầu tiên nhận ra giấc mơ của mình (đang được hiện thực hóa).

Vào năm 1904, khi André xin phép xây một nhà nguyện nhỏ để tiếp nhận các bệnh nhân, lời thỉnh cầu của anh bị từ chối. Các bề trên của anh không phép anh, tuy nhiên, các ngài cho phép anh đặt một tượng Thánh Giuse ở một hốc trên núi. Họ bảo anh hãy tiết kiệm những tiền bố thí mà anh nhận được và một vài đồng xu anh kiếm được như một thợ cắt tóc để lo cho dự án tương lai. Khi André thu góp được hai trăm đô la, anh được phép xây dựng. Tất cả những gì anh cần là các công nhân.

Ngay sau đó, một người thợ nề bị bệnh đau bao tử nghiêm trọng đã xin André cầu nguyện cho. André trả lời bằng cách hỏi anh: “Nếu Thánh Giuse chữa bệnh cho anh, anh sẽ đến làm việc với tôi trên núi chứ? Nếu anh sẵn sàng, tội sẽ cầu nguyện cho anh sáng ngày mai”. Người thợ nề đồng ý, và lần đầu tiên trong những tháng đó anh ta đã có thể làm việc trọn cả ngày.

Và người ta liên tục kéo đến. Ngay sau khi nhà nguyện đầu tiên được hoàn thành, vào năm 1908, Anh André cư trú ở đó. Khách hành hương đến hàng ngàn người. André nhận thấy cần có một linh mục và một linh mục mắt đã yếu được gửi đến để giúp đỡ anh. Tuy nhiên, sau vài tuần, vị linh mục đó nói với André rằng ngài không thể nhìn thấy nữa và sẽ phải rời khỏi đây thôi. Ngài đau buồn nói rằng: “Tôi cảm thấy rằng tôi đã thất hẹn với anh rồi”. André chỉ nói thầm thì “xin cha hãy đợi đến sáng mai”. Ngày hôm sau, thị lực của linh mục được cải thiện cách đột ngộ và ngài có thể tiếp tục ở lại. Các khách hành hương tiếp tục tuốn đến và André biết rằng Đền thờ (Thánh Giuse) cùng với nhà nguyện cần phải được nới rộng ra.

Trong suốt thời kỳ Đại Khủng Hoảng (Suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 1929), việc mở rộng Đền thờ đã bị trì hoãn vì thiếu ngân quỹ. Không chịu thua, André khuyên rằng: “Hãy đặt một tượng Thánh Giuse ở giữa tòa nhà. Nếu ngài muốn có một cái mái trên đầu ngài thì ngài sẽ có thôi”. Vì thế, một bức tượng đã được mang tới và trong suốt hai tháng việc xây dựng lại được tiếp tục thực hiện theo lịch trình. Ngôi đền vẫn ở đó cho đến mãi hôm nay, Nhà thờ của Thánh Giuse là ngôi nhà thờ lớn nhất trên thế giới được thánh hiến cho ngài. Điều đó phù hợp với tính cách của André là qua suốt thời gian xây dựng ngôi nhà thờ, anh chưa bao giờ xem đền thờ nay như là dự án “của anh”. Trái lại, anh nói: “Thiên Chúa đã chọn một người dốt nát nhất”.

Anh Amdré được Chúa gọi về cách bình thản trong một bệnh viện ở Montreal vào tháng Giêng năm 1937. Ước lượng khoảng một triệu người leo lên sườn Núi Royal giữa cơn mưa thường, mưa tuyết và cả khi đầy tuyết để bày tỏ những cử chỉ và lòng kính trọng sau hết đối với người anh em khiêm tốn này.

André Bessette – “chỉ là một người bình thường như bạn” – đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI phong thánh vào ngày 17 tháng 10 năm 2010. Hôm nay, nhờ lời chuyển cầu và gương sáng đời sống của ngài, Thánh André khuyến khích chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và mở cánh cửa đời mình cho sức mạnh chữa lành và biến đổi của Người.

Theo the Word Among us
Saints & Heroes Resource Articles 2018
Chuyển ngữ:  Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương

[1] Montreal: seaport and second largest city in Canada situated on Montreal Island in the Saint Lawrence River in the Province of Quebec (Babylon Dictionary).

3167    08-02-2018