Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

John Henry Newman: Hành trình Bản Ngã

 

Từ lúc còn sinh thời, Đức Hồng Y Newman đã được xem là một trong những người khổng lồ của thời đại mình. Khi qua đời ở tuổi chín mươi, hàng trăm cống hiến của ngài được xuất bản trên các nhật báo và tạp chí ở Anh, kể cả những tòa soạn ít quan tâm đến các vấn đề Giáo hội cũng đăng về ngài. Nhiều trong số các bài tưởng niệm khen ngợi văn phong văn xuôi của ngài (như văn sĩ James Joyce sau này đã công nhận mình ghen tỵ với ngôn ngữ văn hoa “gân bạc” của ngài) Nhưng những lời vinh danh vào năm 1890 cũng công nhận một nhân vật tâm linh vĩ đại, người mang lại minh triết mới cho chất vấn về sự dấn thân lòng đạo. Chẳng hạn như một bài bình luận rộng rãi đến ngạc nhiên của tờ Người suy nghĩ tự do (Freethinker), một tạp chí định kỳ của người vô thần:

“Newman là văn phong trong sáng nhất và là thần học gia vĩ đại nhất của ngôn ngữ của chúng ta. Tài hùng biện hoàn hảo của ngài đã thu hút được cả những người đối lập khó tính nhất… một người vô thần triệt để nhất hẳn sẽ hối tiếc vì đã phải bất đồng với ngài… Chúng ta tự nói với nhau, “Đây còn hơn cả người Công giáo, hơn cả thần học gia, đây là người có đời sống nội tâm mãnh liệt, một trong số ít những người hiểu được tâm hồn nhân loại, một người đã lần theo được các dấu vết vi tế nhất trong tâm hồn con người, giúp cho độc giả hiểu được chính bản thân mình.”

Thực vậy, tất cả phẩm chất đáng ngưỡng mộ nơi Hồng y Newman đều cống hiến cho một mục đích duy nhất. Say mê điều hướng suốt cuộc sống thọ của ngài chính là khao khát làm cho nhãn tượng Kitô có ý nghĩa trong một thời đại mà niềm tin vào Thiên Chúa dường như đang gặp trắc trở nghiêm trọng. Luôn luôn cảnh giác với các dòng văn hóa chung quanh, Hồng y Newman tận hiến sinh lực của ngài để chúng ta có được đức tin, và ngài đã làm điều đó dưới nhiều hình thức khác nhau, từ các bài giảng cho đến các suy tư thần học, từ tự truyện đến thơ văn hay tiểu thuyết. Đặc nét trong đường lối tiếp cận của ngài vẫn còn tác động đến suy tư về niềm tin tôn giáo, và ngài vẫn là người tiên phong mở đường cho thần học đức tin suốt một thế kỷ qua hay xa hơn nữa. Ngài thích nói rằng, các lý chứng hiển nhiên nhất về Thiên Chúa đã có sẵn trong con người chúng ta, vì thế ngài đưa lý luận của ngài đi ra khỏi các lý lẽ bên ngoài, chỉ hướng vào lãnh vực riêng tư và tiền-lý tính của thiện ý đón nhận luân lý và tâm linh. Không rơi vào chủ nghĩa chủ quan, ngài khám phá các chuyển biến nội tâm của bản ngã hướng đến chân lý. Thật vậy, năm 1991 Đức Hồng Y Ratzinger đã nhận xét rằng, từ sau thánh Augustinô, không thần học gia nào chú tâm đến đến chủ đề nhân sinh nhiều đến thế.

Ba thách thức về mặt văn hóa  

Newman thời trẻ thấy chính mình phải đối diện với ba thách thức lớn của đức tin.

Thứ nhất là chủ nghĩa duy lý hẹp hòi đi kèm với chứng minh khoa học. Theo quan điểm của Newman, để bảo vệ đức tin, thì lý luận cần phục hồi lại tầm mức hiện sinh trọn vẹn của mình, không phải đơn giản là ‘lý luận trên giấy tờ’ mà là một sự chuyển biến toàn thể con người. Ngài nhấn mạnh, đức tin không bao giờ đơn thuần là một kết luận của trí tuệ: đức tin liên quan đến Lời mặc khải đã chạm vào trong sâu thẳm nhân tính chúng ta rồi khơi mở cho chúng ta một cuộc phiêu lưu biến đổi kéo dài suốt cả cuộc đời. 

Thứ hai, là những gì ngài gọi là ‘chủ nghĩa tự do.’ Ngài là một người khởi xướng vĩ đại cho ‘giáo dục tự do,’ nhưng những gì ngài phản đối chủ nghĩa tự do trong tôn giáo là ý tưởng lan tràn rằng ‘không có chân lý chắc chắn trong tôn giáo’ (những lời ngài nói khi chịu chức Hồng y ở tuổi 78). Ngài đã kịch liệt phản đối xu thế đương thời khi hạ đức tin xuống thành một loại quan điểm riêng, tựa như khiếu thưởng thức âm nhạc của từng người. Một trong những bài thơ đầu tiên của ngài với tựa đề ‘Chủ nghĩa tự do’ nói lên sự nguy hiểm đó với những lời sau:

Hỡi con người mang lòng tự phụ!

Ngươi không thể nào hạ xuống

Tin mừng ân sủng Chúa.

Theo các vầng thơ viết năm 1833 này, thì ngài thấy những người theo chủ nghĩa tự do giải thích tôn giáo theo cách thuần nhân văn, xem tôn giáo như nguồn suối an bình hay có thiện hướng, và như thế họ muốn tránh đi ‘quyền uy sâu thẳm của ân sủng.’ Sự mơ hồ thời thượng này, ẩn giấu dưới lớp vỏ khoan dung, có vẻ hấp dẫn đối với tầng lớp trung lưu thong dong của thời Victoria ở Anh quốc. Tiêu chuẩn của con người lại trở nên chuẩn mực của chân lý. Khi suy nghĩ mập mờ và thái độ ích kỷ đi chung với nhau, nó sinh sản ra một loại Tin Mừng pha loãng mà Newman gọi là ‘tôn giáo thời buổi này.’ Nhưng đối với ngài, đức tin không bao giờ bị giới hạn theo tầm mức của cái tôi, mà ngược lại, chính đức tin sẽ xóa mòn mọi tự mãn của chúng ta.

Thách thức thứ ba đến từ chính bên trong thế giới tôn giáo. Có lẽ dưới tác động của trào lưu lãng mạn trong thơ ca và nghệ thuật, các phong trào phục hưng đã nhấn mạnh rất nhiều đến cảm giác tôn giáo và cảm nghiệm của sự biến đổi. Newman luôn đánh giá vai trò của ‘tâm hồn’, ‘tưởng tượng’ và ‘cảm xúc’ trong đời sống đức tin, nhưng ngài vẫn ngờ vực sự chú trọng quá mức về cảm tính tôn giáo. Nó là mối nguy dễ dẫn đến lãng quên lịch sử phong phú của Giáo hội, truyền thống lâu đời của suy niệm thần học, cũng như quên đi trọng tâm của đời sống bí tích. Do đó, không được hạ giá đức tin thành xúc cảm mãnh liệt chủ quan; đó không phải là Tin mừng, Tin mừng khác thế, Tin mừng là một mạc khải dần dần rõ ràng về mầu nhiệm của Chúa Giêsu.

Đối diện với những thách thức này, Newman đã đào sâu suy nghĩ về đức tin và đem lại công bằng cho sắc diện trọn vẹn của cảm nghiệm Kitô. Ngài muốn giúp mọi người nhận ra sự đơn giản, nhưng phức tạp của đức tin. Một mặt, tin tưởng những gì người khác nói với chúng ta là điều cần thiết nhất trong cuộc sống bình thường mỗi ngày. Mặt khác, để đạt đến được niềm tin Kitô vào Thiên Chúa thì không chỉ cần sự ‘đón nhận về ý niệm’: niềm tin Kitô vượt xa hơn bất kỳ sự thừa nhận tri thức hay thần học nào về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đúng hơn, niềm tin Kitô cần có một chiều kích riêng tư sâu sắc, và vì thế đòi hỏi một ‘đón nhận thực sự’ theo nghĩa là một khi nhận thức được sự hiện hữu của Thiên Chúa thì nhận thức này biến đổi cuộc đời chúng ta. Newman nhất quyết rằng, cách thức chúng ta tin là bình thường và những gì chúng ta tin là phi thường: ‘trong từng giờ phút cuộc sống, chúng ta đang hành động dựa trên sự tin tưởng … đặc tính của tôn giáo không phải là hành động tin mà chính là điều chúng ta tin’ (PPS, I, 191).

Tập trung vào thiên hướng và lương tâm 

Lúc 28 tuổi, Newman đã giảng những lời trên với tư cách mục sư Anh giáo. Mười năm sau, ngài bắt đầu một loạt năm bài giảng tại trường Đại học Oxford, với chủ đề chung về đức tin và lý luận. Ngài đã giảng các bài này vào những thời điểm khác nhau trong khoảng giữa năm 1839 và 1841, và chúng nổi tiếng ngay lập tức. Một số thính giả của ngài, như nhà thơ Matthew Arnold vẫn nhớ lại giọng điệu như âm nhạc với sức lôi cuốn thôi miên người nghe trong các suy tư của ngài. Năm bản văn này cho chúng ta thấy nhân học về đức tin của Newman. Trọng tâm chính yếu của ngài là thái độ riêng của từng người cho chúng ta mở ra hay khép lại lòng mình trước sự khả dĩ của niềm tin Kitô. Rất nhiều lần ngài tách mình ra khỏi trường phái ‘bằng chứng’ nổi trội của đại học Oxford, một trường phái nỗ lực chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa qua trật tự của vũ trụ tự nhiên. Ngài nghĩ rằng họ đã đi nhầm đường. Thay vào đó, Newman chọn con đường thiên về tâm lý hơn, nhấn mạnh vào nội tâm con người. Do khí chất, ngài là người rất hướng nội và thấy được rằng thiên hướng đời sống của chúng ta phù hợp với đức tin, hơn là lối biện chứng bên ngoài của các bạn hữu khoa bảng đồng môn với ngài. Ngài không quan tâm lắm đến bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng hướng đến các thái độ cá nhân cụ thể mà một người cần có để đạt đến đức tin.

Điểm nhấn này có lẽ đã khơi mào từ suốt những năm học tại Oxford, lúc ngài có những cuộc tranh luận không đem lại kết quả với Charles, người em trai của ngài sau này thành người vô thần. Tám bức thư còn được lưu giữ cho chúng ta biết đôi điều về những trao đổi này, nhấn mạnh đến những giá trị nội tâm cần thiết cho mọi bước tiến từ không tin đến tin. Ngài nói thẳng với em trai, ‘đầu óc em không sẵn sàng để nghe bất cứ một lý luận nào.’ Bởi ‘bằng chứng nội tâm hiển nhiên tùy thuộc phần lớn vào cảm giác luân lý’ nên sự khước từ đức tin thường khởi đi ‘từ một sai lầm của tâm hồn, chứ không phải của lý trí.’ Ngài thấy em trai mình như bị thành kiến chống lại đức tin cản lối: nghĩa là khi bàn đến ‘chủ đề tôn giáo’ chúng ta có khuynh hướng nhìn mọi thứ ‘qua lăng kính của những lề thói đã có’ (LD, I, 212-226) Như Newman thường lặp lại trong nhiều năm về sau, lý do điển hình của việc khước từ không tin vào Chúa là do tự tin quá mức, do khước từ lạnh lùng và cao ngạo đối với bất kỳ sự lệ thuộc nào, do bác bỏ chính lương tâm của họ. Nỗ lực bất thành để thuyết phục người em trai về chân lý Kitô có lẽ đã khiến ngài ngờ vực về các tiếp cận ngoại tại. Nhưng một cách tích cực hơn, nó làm cho ngài tin tưởng vào khuynh hướng tự nhiên của mình khi chú tâm đặc biệt vào thiên hướng tâm linh của từng người hay của trọn một nền văn hóa.

Trọng tâm hướng đến thái độ nội tâm hay luân lý cần thiết cho đức tin, đã đặt Newman vào thế xung đột với lối biện giáo đương thời – cả trong Anh giáo và Công giáo. Trong Apologia pro Vita Sua (Biện hộ cho sự sống) được viết mười năm sau khi trở lại đạo Công giáo, ngài thẳng thắn nói về sự bực mình của ngài đối với những bằng chứng truyền thống về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Trong một đoạn văn xuất sắc, ngài chỉ ra nền tảng cho lòng mộ đạo vững chắc của ngài chính là ở nơi cảm nghiệm lương tâm của ngài:

Khởi đầu với sự hiện hữu của Thiên Chúa, (như tôi đã nói, là điều tôi chắc chắn như chính sự tất yếu hiện hữu của bản thân tôi…) tôi nhìn ra khỏi bản thân tôi, nhìn vào thế giới con người, và thấy một cảnh tượng dâng đầy lòng tôi một nỗi đau không nói nên lời. Thế gian dường như chỉ đem đến lừa dối cho chân lý vĩ đại, một chân lý tràn ngập trong lòng tôi… Nếu khi nhìn vào gương mà không thấy bộ mặt của tôi, thì cảm giác đó cũng giống như khi tôi nhìn thế giới náo nhiệt sôi động này mà không thấy phản ảnh của Đấng Tạo Hóa… Nếu không có tiếng nói này vang lên rõ ràng trong lương tâm và trong tâm hồn mình, tôi hẳn đã là người vô thần… Tôi không chối bỏ uy lực có thật của những luận cứ chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, rút ra từ các sự kiện chung của xã hội loài người và của dòng lịch sử, nhưng những điều này không sưởi ấm cũng không soi sáng cho tôi, chúng không đưa tôi thoát khỏi băng giá của tiêu điều, cũng không làm cho chồi non nảy nụ và cành lá trổ sinh trong tôi, chúng không cho hiện hữu tinh thần tôi được vui mừng (A, 241).

Những bài giảng tại đại học và ‘nhiên tính tiền đề’ 

Câu cuối của đoạn trên là một sự khai mở. Sau khi nói lên cái nhìn thương tâm của mình về thế giới, ngài gợi ý cách nhận biết tốt nhất về một đức tin đích thực là nhìn vào hoa trái của nó, bao gồm sự tăng tiến vững chắc của đời sống nội tâm và ý thức hân hoan. Ngài đã đề cập đến cách tiếp cận này mười năm trước trong các bài giảng ở đại học. Điều thú vị là, sau khi trở lại đạo Công giáo, ngài lo lắng thẩm quyền Roma sẽ không đánh giá đúng các bản văn thời Oxford của mình. Trong thời gian lưu lại ở Roma trong năm 1846, ngài nhận thấy tư duy về đức tin đang chiếm ưu thế ở đây, thiên về tính khái niệm và phi nhân thể – giống như trường phái cho rằng phải có bằng chứng bên ngoài mà ngài đã chống lại trong cộng đồng Anh giáo của mình. Trong một lá thư viết từ Roma vào năm 1847, ngài nói rằng thấu suốt nguyên sơ của ngài liên quan đến ‘nhiên tính tiền đề.’ Điều này thường được trình bày trong các bài giảng ở trường đại học của ngài, và cho dù mới đầu nó có vẻ rắc rối nhưng thực sự thì khá đơn giản: ‘nhiên tính tiền đề’ hướng về cái đi trước tất cả mọi diễn đạt dứt khoát. Ngày nay chúng ta thường nói về lĩnh vực tiền khái niệm của suy tư. Trước khi có tuyên xưng hay lý luận công thức về đức tin, thì đã có toàn bộ các thái độ cơ bản của chúng ta. Trong lãnh vực tiềm ẩn này của thiên hướng tiền hữu trong chúng ta, Newman xác định nhiên tính (hay không có nhiên tính) của sự sẵn sàng của chúng ta đối với đức tin.

Như trong một bài giảng đại học của ngài, ‘sai lầm chết người’ của suy nghĩ thế tục là phán xét ‘chân lý tôn giáo mà không có sự sẵn sàng của tâm hồn’ (US, X, 43). Và ngài còn phê phán chủ nghĩa duy lý lạnh lùng trong biện giáo: ‘trong các trường phái của thế gian, con đường đến với Chân lý là con đường lớn mở ra với tất cả mọi người ở mọi thời. Người ta tiếp cận Chân lý mà không có lòng tôn kính’ (US, X, 42). Đây là tóm gọn của Newman: bất cứ con đường nào dẫn đến đức tin mà muốn sinh hoa trái thì phải luôn có một mức độ đón nhận thiêng liêng nào đó, đối lập với thái độ xa cách kiêu ngạo. Theo ngài, nhận thức tôn giáo chỉ hữu thực khi có ‘tâm hồn sống động’ chứ không phải nhờ tranh luận tài tình. (US, X, 44). Nếu không có đặc tính truy tầm trung thực này, chúng ta không thể đạt đến ‘sự nhìn nhận thực sự’ là chính đức tin và là sự khẳng định cho đức tin (GA, 3.45). Nói cách khác, Newman đã có can đảm để nhấn mạnh những gì mà nền văn hóa trí thức thời đó và bây giờ có xu hướng coi thường, ngài quả quyết rằng trong vấn đề đức tin, những gì có thể suy nghĩ theo công thức thì ít quan trọng hơn những thiên hướng, khát khao và tình trạng của tâm trí. Tôi nói lại lần nữa: theo quan điểm của Newman, sự mở lòng cho đức tin kéo theo một số thái độ tinh thần cụ thể trong mỗi con người, và nếu không có những điều này thì tất cả mọi cố gắng để làm đức tin trở nên đáng tin về mặt lý tính có thể chỉ là uổng công luống sức.

Hai năm sau khi trở lại đạo Công giáo, Newman chuẩn bị lời giới thiệu cho một ấn bản bằng tiếng Pháp các bài giảng đại học của ngài, nhưng ngài viết bài giới thiệu bằng tiếng La Tinh. Trong đó có câu: ‘Praeambula fidei in individuis non cadunt sub scientiam’, nghĩa là những lời ban đầu của đức tin trong cá nhân không được hạ xuống phạm vi khoa học. Dịch thoáng hơn có thể như thế này: những con đường chuẩn bị cho người ta đến với đức tin không thể hạ xuống theo các phân tích kinh nghiệm. Có lẽ Newman nhìn thấy mình như phiên bản trí thức của Gioan Tẩy Giả: ngài muốn dọn đường cho đức tin bằng cách chú trọng vào thái độ nội tâm của con người, một chiều kích không dễ dàng diễn tả: ‘tất cả mọi người đều có một lý luận, nhưng không phải ai cũng có thể đưa ra một lý luận’ (US, XII, 9).

Nội tâm hiện sinh và biến chuyển của tâm trí 

Khi hầu hết mọi người đương thời của ngài đang cố gắng tìm cách để biện hộ sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của quan sát thực nghiệm, thì Newman chuyển trọng tâm đến những gì chúng ta có thể gọi là nội tại hiện sinh. Như đã nói ở trên, khí chất của ngài rất hướng nội, thậm chí có thể là thu vào nội tâm. Tuy nhiên, ngài dùng đặc tính cá nhân của mình để kéo sự chú ý vào những tầm nhận thức sâu sắc hơn những biện giáo khôn khéo mà các đồng liêu của ngài đưa ra. Ngài nhất quyết nhấn mạnh luôn mãi rằng ‘đức tin không phát xuất từ lý chứng’ mà con người tạo ra, nhưng từ điều gì đó tự phát và tích cực hơn, ‘riêng tư và sống động hơn’ (US, XI, 5-6). Giống như khi nhận xét về người em trai, theo quan điểm của ngài thì quyết định hướng theo hay chống lại đức tin thường thường có thể chịu tác động bởi chọn lựa vô thức hay do cao ngạo hơn là do có các ý niệm rõ ràng. Mỗi người bị ảnh hưởng theo các nguyên tắc và thói quen mạnh nhưng không phải lúc nào cũng rõ ràng của mình, nhất là đối với những vấn đề dấn thân tôn giáo. Nếu không lưu tâm đến những vùng ngầm trong suy tư của mình, chúng ta có nguy cơ nhầm lẫn các giải thích bên ngoài với những hoạt động thực sự của trí óc của mình.

893    15-02-2019