Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Không có "ông tổ duy nhất" của Chữ Quốc Ngữ - tt

4. Vấn đề Ông tổ chữ Quốc ngữ

 

- Về Linh mục Alexandre de Rhodes

 

Đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng chính thức ở Việt Nam. Việc  truy tìm gốc gác lịch sử của nó được chú ý. Căn cứ về mặt ngữ học, ba tác phẩm của Linh mục Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 được đánh giá là một thành tựu ghi dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Từ đánh giá này, Linh mục Alexandre de Rhodes được xem như ông tổ chữ Quốc Ngữ.

 

Tháng Giêng năm 1961, Linh mục Tiến sĩ Nguyễn Khắc Xuyên đã viết trong Lời giới thiệu tác phẩm Phép Giảng Tám Ngày: "Khi tặng cho giáo sĩ Alexandre de Rhodes cái danh hiệu là "thủy tổ chữ quốc ngữ", chúng ta thấy huy hiệu ấy sáng ngời hơn, phong phú hơn, bởi vì đã tan biến nhiều thành kiến cũng như nhiều sai lạc khi người ta bàn giải về sự nghiệp văn hóa của ngài".[23]

 

Tuy nhiên, trong lời tựa tập sách Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm chữ Quốc ngữ đầu tiên, được Tinh Việt Văn Đoàn xuất bản tại Sài Gòn năm 1961,  Nguyễn Khắc Xuyên - Phạm Đình Khiêm ghi nhận: “Việc sáng chế chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể của một số giáo sĩ người Âu, đa số là Bồ Đào Nha, với sự tham gia trực tiếp của một số người Việt dạy tiếng mẹ đẻ cho các giáo sĩ” và Đắc Lộ “chiếm công đầu trong việc hoàn thành và phổ biến lối phiên âm Việt ngữ bằng mẫu tự La-mã, quen gọi là Chữ Quốc ngữ”.

 

Quả vậy, từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, các học giả đã nhìn nhận lại: Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt. Đó là một công việc thật sự giàu tinh thần khoa học. Alexandre de Rohdes đến Đàng Trong muộn (1624), không phải là người đầu tiên dùng mẫu tự gốc Latinh ghi âm tiếng Việt, nhưng là người có công tập đại thành tổng hợp và hệ thống hóa những kết quả sáng tạo của những thừa sai đi trước như chính ông đã nói rõ trong lời tựa của Từ điển Việt-Bồ-La: "Trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được từ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào Nha, thuộc Hội dòng Chúa Giêsu [Dòng Tên] rất mọn hèn của chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng ngôn ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng Hội dòng, nhất là của cha Gaspar do Amaral và cha Antonio Barbosa, cả hai người đều đã biên soạn cho mỗi người một cuốn từ điển: Cha Gaspar do Amaral khởi đầu từ tiếng An Nam [từ điển Việt–Bồ], Cha Antonio Barbosa khởi đầu từ tiếng Bồ Đào [từ điển Bồ–Việt], nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các vị Hồng y rất đáng kính..."

 

 

 

 

 

(trích Lời tựa Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum)

 

- Về Linh mục Francisco de Pina

 

Mặc dù, việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ đã được các học giả xác định là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt.

 

Thế nhưng, sau nghiên cứu của Linh mục Roland Jacques (2002, 2004, 2012), vai trò của người Bồ được đề cao trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ, và chính Linh mục Roland Jacques cho rằng Linh mục Francisco de Pina là “ông tổ” của chữ Quốc ngữ. Gần đây, trong cuộc Hội thảo tại Lisbon, Portugal vào ngày 24.10.2019, Linh mục R. Jacques kết thúc bài tham luận của mình: "Ngạn ngữ Việt Nam nói “uống nước nhớ nguồn”. Tất cả những ai yêu thích ngôn ngữ Việt Nam, và ngưỡng mộ những phẩm chất không thể so sánh của nó, phải biết cách tỏ lòng tôn kính đối với Francisco de Pina, ông tổ của chữ Quốc ngữ”.[24]

 

Tựu trung Linh mục Roland Jacques đã dựa vào những điểm sau để cho rằng Pina là “Ông tổ chữ Quốc ngữ”:

 

- Pina được các nhà truyền giáo cùng thời ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong giáo đoàn truyền giáo.

 

Thực ra nói sành tiếng Việt với việc biên soạn ngữ pháp và từ điển là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.

 

            - Bức thư được cho là của Pina viết năm 1623 có chép: Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và về các cung điệu của ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp…”.[25]  Dựa vào nội dung này, Linh mục Roland Jacques cho rằng "Manuductio ad Linguam Tunckinensem Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài" được soạn/phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina[26] Và dựa vào bản văn Manuductioad Linguam Tunckinensem, R. Jacques xác định " Ta đã thấy nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina"  . [27]  Thực ra cho đến nay, hình thức và nội dung của "tập nhỏ" được đề cập trong thư 1623 chưa hề có nhà nghiên cứu nào đã tìm thấy, ngay cả Linh mục R. Jacques .

 

Gần đây (2019) Tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly có bài " The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem - Nhà biên soạn thực sự của Manuductio ad linguam Tunkinensem". [28] Tiến sĩ Kiều Ly không chấp nhận quan điểm Linh mục R. Jacques về Manuductio ad linguam Tunkinensem, một bản thảo khuyết danh ở thế kỷ 17 hay 18 với những chứng cứ khoa học:

 

- Linh mục Pina chỉ làm việc tại Đàng Trong (1617-1625), học và nghiên cứu ngôn ngữ tại Đàng Trong, vùng phương ngữ có năm thanh điệu so với Đàng Ngoài có sáu thanh điệu. Như vậy Pina không thể biên soạn sáu thanh điệu cho tiếng Đàng Ngoài như trong Manuductio ad linguam Tunkinensem, một phương ngữ mà Pina chưa một lần tiếp xúc.

 

- Linh mục R. Jacques cho rằng Linh mục Alexandre de Rhodes biên soạn "Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratiovà tác giả "Manuductio ad Linguam Tunckinensem" biên soạn độc lập nhưng cùng dùng một bản quy chiếu là văn phạm của Linh mục Pina. Sau khi đưa ra những bằng chứng, Tiến sĩ Kiều Ly kết luận: "Tất cả các dữ liệu ngôn ngữ và lịch sử được trình bày ở trên [theo bài của tác giả] chứng minh rằng tác giả của Manuductio đặt nền tảng bản thảo của chính ông trên bản ngữ pháp của Alexandre de Rhodes. Ngoài ra, không cần thiết phải tranh luận về tình huống thiếu thuyết phục, khó có thể xảy ra rằng hai tác giả làm việc độc lập nhưng sử dụng cùng một tài liệu ngữ pháp được giả định do Francisco de Pina biên soạn".[29]

 

Thật vậy, trong khi Dòng Tên chưa hiện diện ở Đàng ngoài, Pina chưa đến Đàng Ngoài, R. Jacques cho là Manuductio ad Linguam Tunckinensem (Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài) được soạn/phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina và nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina"  là không có cơ sở. Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chỉ đưa ra những giả định về tác giả của Manuductio ad Linguam Tunckinensem.  Hiện vẫn chưa tìm thấy bất cứ nguồn sử liệu hay bằng chứng khoa học nào để xác định bản đầu tiên là của Linh mục Francisco de Pina viết năm 1623.

 

5. Kết luận     

 

            Chữ Quốc ngữ là một thành tựu văn hóa đã bén rễ sâu rộng trong đời sống xã hội Việt Nam. Khởi đầu là sự dày công mày mò của các thừa sai Dòng Tên làm việc truyền giáo ở Đại Việt cách nay hơn 400 năm. Với sự trợ giúp của người Việt, các thừa sai sáng kiến dùng mẫu tự gốc Latinh để ghi âm tiếng Việt. Lúc khởi đầu, mỗi người ghi âm theo cách cảm nhận tự nhiên của mình, trải qua thời gian việc ghi âm ấy dần dần được chắc lọc, đi vào điển chế và hoàn thiện. Đến nay vấn đề đã ngã ngũ rằng: Chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể, trong đó có cả người phương Tây và cả người Việt. Không thể có "Ông tổ duy nhất" của chữ Quốc ngữ.

 

Hội thảo khoa học Bình Định với chữ Quốc ngữ (13.01.2016), Giáo sư Phan Huy Lê đã tổng kết:

 

"Trong buổi sơ khai, chúng ta có nêu lên đóng góp của một số người ở một số trung tâm nhất định, nhưng thật khó và không thể xác định được tên tuổi một người ở một nơi vào một thời điểm cụ thể được coi là người và nơi đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Trên quan niệm như vậy, tôi nghĩ rằng trong buổi đầu, nhiều giáo sĩ Dòng Tên, đi tiên phong là người Bồ, người Ý, đã tham gia vào quá trình Latinh hóa chữ viết của người Việt, để lại những chữ Quốc ngữ đầu tiên. Ba trung tâm đã góp phần vào quá trình này là Nước Mặn, Hội An, Dinh Chiêm với tên tuổi của Francesco Buzomi, Cristoforo Borri, Francisco de Pina trong những năm 1618-1623 rồi tiếp theo là Alexandre de Rhodes, Gaspar Luiz, Antonio de Fontes những năm 1625-1626. Có thể coi đó là ba dòng suối đầu tiên tạo nên dòng sông chữ Quốc ngữ. Nếu xem xét sâu hơn về những chứng cứ văn bản có chữ Quốc ngữ thì trong ba trung tâm đó, trung tâm Nước Mặn có phần sớm hơn với sự hiện diện của chữ Quốc ngữ trong cuốn sách của Borri viết năm 1621 và xuất bản lần đầu năm 1631".[30]

 

            Nguyễn Thanh Quang & Linh mục Gioan Võ Đình Đệ



[1] Giai đoạn từ khi đoàn thừa sai Dòng Tên tới Đàng Trong đến khi Linh mục Alexandre de Rhodes xuất bản hai tác phẩm Từ điển Viêt-Bồ-La và Phép Giảng Tám Ngày.

[2] Xem Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao  trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.

[3] Xem JOÃO RODRIGUES GIRÃO, JAP. SIN 71, ARSI trang 008v, hàng 493-495; Trang 009, hàng 535-540

[4] DANIELLO BARTOLI, Dell'Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Vol.17,  Libro Terzo, Torino 1825, trang 125-126.

[5] DANIELLO BARTOLI, Sđd, trang 328-329

[6] - Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 38.

  - JAP-SIN 68,36-36V

[7] Xem  JOÃO  RODRIGUES  GIRÃO, sđd,  trang 002, từ hàng 22 đến 30.

- Tác giả thư báo cáo cũng như các thừa sai dòng Tên đương thời có quan điểm ngôn ngữ Trung Hoa không có ngữ pháp. Điều này các vị dựa vào nghiên cứu của thừa sai Matteo Ricci. Khi nghiên cứu ngôn ngữ Trung Hoa, Lm. Matteo Ricci đã chứng minh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không có "quán từ, cũng không biến đổi hình thức theo số, giống, thì (temps), thể (mode). Không giống như các chức năng ngữ pháp Latin, tiếng Trung Hoa không biến đổi hình thái. Do đó, ông kết luận rằng ngôn ngữ này không có ngữ pháp. [Xem Liam Matthew Brockey, Journey to the East: The Jesuit Mission to China 1579-1724, Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press, 2007, trang 247.]

[8] Xem http://conggiao.info/cong-cuoc-truyen-giao-tai-quang-nam-nam-1623-va-van-de-ngon-ngu-d-7707

[9] Daniello Bartoli, Dell'Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Libro Quarto, Torino 1825, trang 67-68 

[10] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Annotations à la Lettre de Gaspar Luiz par Léopold Cadière, trang 414.

[11] Tác phẩm được xuất bản tại Roma năm 1631.

[12] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Annotations à la Lettre de Gaspar Luiz par Léopold Cadière, trang 410 .

[13] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 263.

[14] Cristoforo Borri, Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong 1631, bản dịch Hồng Nhuệ, nxb. Thăng Long, Hoa Kỳ 1989trang 06.

[15] - Xem Daniello Bartoli, Dell' Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Delle Asia, Libro Quarto, Torino 1825, trang 61.

- Xem Thư Fernandes gởi cho Nuno Mascarenhas, ngày 02/7/1625 tại Faifo. ARSI. JAP-SIN 68, trang 11.

- Xem Wikipedia, the free encyclopedia, mục từ Jerônimo Majorica.

[16] Lm. Nguyễn Hưng, Sơ thảo Thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam, lưu hành nội bộ, 2000, tr. 23. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính, Majorica viết 48 tác phẩm. (Xem Dòng Tên trong Xã hội Đại Việt 1615-1773, Antôn & Đuốc Sáng, trang 161.

[17] Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Antôn & Đuốc sáng, USA 2006, trang 57

[18] Xem Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn 1972 , trang 34-37

[19] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, sđd, trang 39.

[20] Linh mục Alexandre de Rhodes cho ấn hành nhiều tác phẩm liên quan đến đất nước con người Việt Nam, cuốn “Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài” in năm 1650, tiếp đến “Hành trình và Truyền giáo” và cuốn “Cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên” được xuất bản vào năm 1653. Tổng kết có 10 tác phẩm Linh mục A. de Rhodes đã viết và cho xuất bản liên quan tới Việt Nam 08 cuốn, Nhật và Iran mỗi nước 01 cuốn.

[21] Xem Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, sđd, trang 54-65.

 

[22] Hành trình và Truyền giáo, Ủy ban Đoàn kết Công giáo TP. HCM, 1994, trang 56.

[23] Phép Giảng Tám Ngày, Tủ sách Đại Kết, Sài Gòn 1993, trang XX

[24] Bài tham luận với tựa đề "Vài suy niệm về Francisco de Pina và những bước đầu tiên trong việc hình thành chữ Quốc ngữ". Xem tại https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/vai-suy-niem-ve-francisco-de-pina-va-nhung-buoc-dau-tien-trong-viec-hinh-thanh-chu-quoc-ngu

[25] Được lưu trữ trong quyển sách số 49/V/7 của bộ Jesuitas na Asia tại Biblioteca da Ajuda, Lisbonne.

[26] Manuductio ad Linguam Tunckinensem, một bản văn khuyết danh  được lưu trữ  tại Thư viện Ajuda, Lisbon, Bồ Đào Nha, trong bộ sưu tập Jesuítas na Asia, Vol. 49-VI-08, 313r-323v.

[27] Roland JacquesNhững người BĐN tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, Viện NNH dịch và xb năm 2007, trang 40.

[28] Bản tiếng Anh "The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem" tại https://doi.org/10.1525/vs.2019.14.2.68. Journal of Vietnamese Studies, Vol. 14 No. 2, Spring 2019; trang 68-92. – Xem bản dịch Việt ngữ tại Tài liệu hội thảo 25&26.10.2019, Bốn Trăm Năm Hình Thành & Phát Triển Chữ Quốc Ngữ trong Lịch Sử Loan Báo Tin Mừng Tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Văn Hóa, trang 138-171.

[29] Xem Kiều Ly, The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem, trang 84-85.

 

[30] UBND tỉnh Bình Định, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam…, Kỷ yếu Hội thảo Bình Định với Chữ Quốc Ngữ, nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, trang 617-618.

660    12-02-2020