Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Nguyệt san tháng 01/2015: Giáo Xứ, Gia Đình Của Con Cái Thiên Chúa

1.  LỜI CHỦ CHĂN

2.  THƯ MỤC VỤ

3.  DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

4.  LỜI NGUYỆN CHUNG

5.  ÁP DỤNG THỰC HÀNH

6.  TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

7.  TRANG LINH MỤC

8.  TRANG TU SĨ

9.  TRANG SỐNG ƠN GỌI

10.  TRANG THIẾU NHI

11.  TRANG GIỚI TRẺ

12.  TRANG GIA ĐÌNH

13.  TRANG GIÁO LÝ VIÊN

14.  SỐNG ĐẸP

15.  TRANG QUỚI CHỨC

16.  HỎI ĐÁP MỤC VỤ

17.  CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

18.  THẦN HỌC KINH THÁNH

19.  CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

20.  CHÚT TÂM TÌNH

21.  TIN NỔI BẬT

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 30.12.2014

Kính gửi: Quý Cha            
              Quý Tu sĩ nam nữ
             Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Đức Mẹ Là Mẹ Thiên Chúa

Đầu năm dương lịch 2015 là lễ trọng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Thật là hợp lý khi trong lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta tập trung mọi sự chú ý, mọi tâm tình yêu mến vào Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa đã trở nên một con người bé nhỏ, gần gủi với con người, chia sẻ cái nghèo cái khổ của con người; giờ đây chúng ta biết quy hướng về người Mẹ của Ngài, vừa là người khiêm tốn, vừa là Mẹ Thiên Chúa, nên sẽ là Đấng cộng tác tích cực vào công trình cứu chuộc, sẽ đứng gần Thập Giá đau khổ của Chúa Giêsu, vừa chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu sống lại, về trời và sẽ ngự đến trong vinh quang.

Việt Nam ta có những người nữ đáng kính, lập nhiều công như Bà Trưng, Bà Triệu; ta hạnh phúc vì có người Mẹ có tấm lòng bao la như biển Thái Bình. Người công giáo Việt Nam chúng ta cũng hạnh phúc có Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Đấng Cứu Thế, có tấm lòng bao la còn hơn biển Thái Bình để yêu thương các dân tộc và yêu thương từng gia đình, từng người chúng ta và cầu bàu cho chúng ta.

Cùng với Mẹ, chúng ta nhớ tới Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Chuộc, nhớ đến những mầu nhiệm cứu độ được nhắc nhở và diễn tả qua những ngày lễ của Chúa Giêsu (sinh ra, hiển linh, chết và sống lại, sẽ xét xử ngày cánh chung). Cùng với Mẹ, chúng ta cầu nguyện với Chúa, yêu mên Chúa và bắt chước Chúa.

Nhớ đến Mẹ, xin Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Cứu Thế. Năm 2015 là năm Hội Thánh mời gọi những cộng đoàn sống đời thánh hiến nhìn ngắm Chúa Kitô, yêu mến Chúa và bắt chước Chúa. Xin Mẹ giơ tay ban ơn lành cho họ để họ bắt chước Mẹ mà phục vụ Hội Thánh và các linh hồn.

Lm. Phêrô Dương Văn Thạnh
Giám Quản GP. Vĩnh Long

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: GIÁO XỨ, GIA ĐÌNH CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA

Tiếp nối Năm Tân Phúc-Âm-hóa đời sống Gia đình, theo đường hướng của Thư Chung của HĐGMVN 2013, là Năm TÂN PHÚC-ÂM-HÓA ĐỜI SỐNG GIÁO XỨ VÀ CỘNG ĐOÀN sống Đời thánh hiến. Các đức Giám mục Việt Nam trong Thư Mục vụ 2014-2015 nhắc lại bối cảnh mục vụ “trong khung cảnh Giáo Hội toàn cầu đang hết sức quan tâm đến ơn gọi và sứ vụ gia đình, được cụ thể hóa qua Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới bàn về “Những thách đố mục vụ cho gia đình trong bối cảnh Tân Phúc-Âm-hóa”. Đồng thời, trong năm 2015 sắp tới, kỷ niệm 50 năm Sắc lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes), chúng tôi mời anh chị em hướng đến một gia đình rộng lớn hơn, là giáo xứ. Thật vậy, giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”. (Thư Mục Vụ của HĐGMVN năm 2014)

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Đề Tài 1. Giáo Xứ: Gia Đình Của Các Gia Đình Thừa Sai

“Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” (Mc 3,33).

1. Gia đình là cộng đoàn hội thánh truyền giáo

- Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia, có sứ mệnh là làm tế bào sống động đầu tiên của xã hội[1], xây dựng Dân Chúa bằng cuộc sống thánh thiện trong khi theo đuổi ơn gọi hôn nhân và gia đình của mình[2]. Như thế, gia đình góp phần vào sứ mệnh của Hội thánh bằng cách tham gia tích cực vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, và hơn nữa tham gia vào đời sống giáo xứ và môi trường xã hội. “Tương lai của thế giới và Giáo hội đi ngang qua gia đình”[3]. Vì thế, gia đình phải là thành phần của thực tại Hội thánh toàn thể tại địa phương, tức là giáo xứ và giáo phận. Cụ thể, gia đình có sứ mệnh “gìn giữ, biểu lộ, và thông truyền tình yêu, và đây vừa là một phản chiếu sống động vừa là một sự thông dự thực sự vào Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, Tình yêu của Chúa Kitô dành cho Hội Thánh, Hiền Thê Người” (ĐGH Gioan Phaolô II Về Gia Đình). Nhưng sứ mệnh này không gì khác hơn chính là sứ mệnh của Hội Thánh.

 

- Sứ mệnh của Hội Thánh được thi hành nhờ các hoạt động qua đó, vì vâng lệnh Chúa Kitô và được thúc đẩy bởi ân sủng và tình yêu của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh trở nên hiện diện trọn vẹn với mọi người và mọi dân hầu dẫn đưa họ đến với đức tin, sự tự do và bình an của Đức Kitô nhờ mẫu gương của đời sống và giáo huấn của chính mình, nhờ các bí tích và các phương thế ân sủng khác. Mục đích cuối cùng là mở ra cho hết mọi người một con đường tự do và bảo đảm đi đến tham dự trọn vẹn vào mầu nhiệm của Đức Kitô.[4] Trung tâm của sứ mệnh gia đình là đôi vợ chồng, nhìn hôn nhân của họ như là một ơn gọi của Hội Thánh và vì Hội Thánh. Họ tự xem mình như là người Tông đồ, là người loan báo Tin mừng và làm chứng nhân Tin mừng trọn thời gian. Sứ mệnh gia đình đòi hỏi các thành viên, tức cha mẹ và con cái, phải sống yêu thương nhau, và mọi thành viên đều liên hệ với sứ mệnh trong một tinh thần chung, bởi lẽ đây là sứ mệnh của gia đình chứ không phải chỉ là sứ mệnh của các con người ngẫu nhiên hợp thành chung một gia đình.

2. Giáo xứ là Gia đình của các gia đình thừa sai

- Giáo xứ chính là Giáo hội tại một địa phương, là Gia đình của Thiên Chúa gồm các gia đình Kitô hữu ý thức sứ mệnh thừa sai của mình như vậy. Lãnh vực thi hành sứ mệnh cho gia đình trước hết là trong chính gia đình mình và trong cộng đoàn khu xóm, làng xóm láng giềng mình; và rồi mở rộng ra tới cộng đoàn giáo xứ và rồi đến các nơi làm việc. Sứ vụ đầu tiên của gia đình là mạc khải Hội Thánh cho chính mình. Thực hiện điều này không phải là phục vụ điều gì cho Hội Thánh với tư cách như một gia đình (đó lẽ ra phải là việc của thừa tác vụ gia đình); nhưng đúng hơn, đó là sống ngay giữa lòng Hội Thánh cái ý nghĩa của gia đình, vốn không chỉ là mẫu gương mà còn là men, để mời gọi dân trong Hội Thánh sống như là Gia đình của Thiên Chúa. Chính trong môi sinh đó mà gia đình trở thành men trong xã hội. Mong đợi sứ vụ gia đình sinh ích lợi trong việc loan báo các giá trị của Nước Trời từ bất kỳ một bối cảnh nào khác, nhất là trong bối cảnh của Giáo hội cơ chế phẩm trật, sẽ làm giảm thiểu đi nét đẹp này của chứng từ gia đình.

- Trung tâm và đỉnh cao của đời sống và hoạt động của giáo xứ là Thánh Thể. Có một sự rất giống nhau giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hôn nhân, bởi lẽ cả hai đều liên quan đến giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Thế nhưng, trong khi Hôn nhân là dấu chỉ của giao ước của Thiên Chúa với con người trong Đức Giêsu Kitô; thì Thánh Thể là sự làm mới lại giao ước và làm cho giao ước thành hiện thực. Nếu gia đình quy tụ nhau quanh bàn ăn hàng ngày, thì giáo xứ là gia đình rộng lớn hơn quy tụ nhau quanh bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Trong Thánh Thể Cộng đoàn hội thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu, còn trong Hôn phối hai vợ chồng và gia đình sống mầu nhiệm đó trong tình yêu, bởi lẽ hôn nhân và đời sống gia đình phải mang chịu những đau khổ âm thầm và thập giá là thành phần sống ơn gọi này tròn đầy. Yêu thương là tự hiến; không thể có Tình yêu vắng bóng Thập giá. Nếu Hôn nhân và Gia đình là dấu chỉ của giao ước, thì nó không thể tách rời khỏi dấu chỉ của trung tâm giao ước, là Thánh Giá.

Giáo xứ, vì thế, là Cộng đoàn gia đình của các gia đình loan báo Tin mừng bằng chứng từ của đời sống mình. Vì bản chất của mầu nhiệm Hội thánh vừa là Hiệp thông vừa là Truyền giáo.

Câu hỏi thảo luận

1. Đời sống và hoạt động hiện tại của Giáo xứ của anh chị có những nét nào giống đời sống của một gia đình, cả về mặt tích cực và tiêu cực?

2. Anh chị em có ý thức thường xuyên danh tính Hiệp thông và sứ mệnh truyền giáo của mình trong gia đình, trong giáo xứ, cộng đoàn nhỏ của mình không?

3. Giáo xứ của anh chị em đã và đang làm gì để loan báo Tin mừng cho anh chị em lương dân trong làng xóm, trong vùng mình sống, trong nơi mình làm việc?


 

[1] Cf. AA (Apostolicam Actuositatem), 11.

[2] Cf. GL (Bộ Giáo luật 1983), 226.

[3] Gioan Phaolô II, Diễn văn nói với Liên Hiệp các Văn Phòng Tham vấn Gia đình theo linh hứng Kitô giáo (ngày 29.11.1980), 4. Ecclesia in Asia (EA), 46 trích dẫn lại.

[4] AG (Ad Gentes), 5.

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Giáo xứ là một cộng đoàn quy tụ nhiều gia đình cùng thờ phượng Chúa, yêu thương nhau và rao giảng Tin Mừng. Gia đình và giáo xứ, đều phải dùng những phương tiện tập thể gia đình, mà truyền đạt đức tin. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. “Giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa”. Chúng ta cầu nguyện cho đại gia đình Hội Thánh, luôn truyền đạt đức tin, đức cậy và lòng mến Chúa cho nhau, để mọi người được chan hoà sức sống dồi dào của Chúa.

2. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành thánh ý Chúa.

3. “Các tín hữu lúc khởi đầu Hội Thánh, luôn hiệp thông với nhau”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn hiệp nhất với nhau, cùng nhau loan truyền tình yêu Chúa cho mọi người.

4. “Các tín hữu siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, siêng năng và sốt sắng tham dự các buổi cầu nguyện, các thánh lễ và các nghi lễ ban bí tích trong Nhà thờ giáo xứ.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con nên như một đoàn chiên Chúa, một gia đình dồi dào sức sống của Chúa. Xin cho chúng con tích cực xây dựng giáo xứ thành cộng đoàn thực hiện sứ vụ truyền giáo. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

GIÁO XỨ: GIA ĐÌNH CỦA CÁC GIA ĐÌNH THỪA SAI

I. Gia đình Thừa Sai là gì?

1. Định nghĩa “Thừa sai”: Thừa sai là nhận chịu, chấp nhận được sai phái, cử đi làm một công việc nào đó. Trước đây, Việt Nam vẫn gọi các giáo sĩ sang truyền giáo tại Việt Nam là “Giáo sĩ thừa sai” hoặc “các giáo sĩ của hội Thừa Sai”. Các tông đồ tiên khởi được Đức Giêsu Kitô sai “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15), các ngài đã chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, kể cả hy sinh tính mạng để chu toàn sứ vụ “mở mang Nước Chúa đến tận cùng trái đất”. Đó chính là các vị thừa sai đầu tiên của Giáo Hội. Như vậy là các Tông đồ (về sau là các giáo sĩ, tu sĩ) được gọi là những vị thừa sai; nhưng tại sao lại gọi “Gia đình thừa sai”?

2. Tại sao lại gọi là “gia đình thừa sai”? Sự tham gia của Kitô hữu vào ba chức vụ của Linh Mục thượng phẩm Giêsu Kitô bắt nguồn từ việc xức dầu của phép Rửa Tội, được phát triển nhờ phép Thêm Sức, được nâng đỡ và kiện toàn trong phép Thánh Thể. Đây là một ân sủng ban cho mỗi tín hữu giáo dân, được tham gia với tư cách là họ tạo thành một thân thể duy nhất của Đức Giêsu. Vì thế nên Giáo Hội được coi là Nhiệm Thể Đức Kitô, là Hiền Thê của Người. Nếu đã hiểu “thừa sai” là nhận được ơn gọi sai đi loan báo Tin Mừng, hay nói cách khác là được tham dự vào 3 chức vụ của Đức Kitô: Ngôn sứ, Tư tế, Vương giả, thì cần phải hiểu:

“Mỗi người được tham gia vào ba sứ vụ của Đức Kitô chỉ vì họ là phần thân thể của Giáo Hội, như Thánh Phêrô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội “là dòng giông được lựa chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, là dân tộc thuộc về Thiên Chúa” (1 Pr 2, 9).

Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Kitô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Augustinô viết: “Cũng như chúng ta tât cả được gọi là Kitôhữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục duy nhât.” (Tông huấn Kitô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici”, số 14).

Mỗi Kitô hữu đã lãnh nhận Phép Rửa và Thêm Sức, được tham dự vào 3 chức vụ của Đức Giêsu, được gọi là hàng tư tế mới (“tư tế cộng đồng” – 1Pr 2, 410), là linh mục, tức là họ đã trở nên những “thừa sai” của Chúa Kitô. Trong khi đó, gia đình là cộng đồng hiệp thông các Kitô hữu, là Giáo Hội tại gia, tất nhiên được coi là “gia đình thừa sai” vậy.

II. Giáo xứ: Gia đình của các Gia đình Thừa sai:

Theo Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng “Evangelii Gaudium” (số 28) thì “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Qua tất cả các hoạt động của mình, giáo xứ khuyến khích và đào tạo các thành viên của mình thành những nhà truyền giáo.”

“Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường” nhất định, nên Giáo xứ chính là Giáo hội địa phương, là Gia đình của Thiên Chúa bao gồm các gia đình Kitô hữu với sứ mệnh thừa sai của mình. Lãnh vực thi hành sứ mệnh của gia đình trước hết là trong chính gia đình mình và mở rộng ra tới cộng đoàn giáo xứ, giáo phận (Giáo hội địa phương) và rồi lan tỏa ra Giáo hội toàn cầu. Sứ vụ đầu tiên của gia đình là tự đào tạo mình thành những nhà truyền giáo như Tông huấn Kitô hữu Giáo dân “Christi Fideles (số 63) đã dạy: “Trong công trình đào tạo, một vài điều xác tín đặc biệt được xem là cần thiết và hữu ích. Trước hết cần xác tín rằng không thể có việc đào tạo thật sự và hữu hiệu nếu mỗi người không tự đảm trách và khai triển trách nhiệm đào tạo chính mình. Vì tất cả các công trình đào tạo thiết yêú phải là “tự đào tạo lầý mình”. Sau đó, xác tín rằng mỗi người trong chúng ta là kết qủa và là nguyên tắc của việc đào tạo: Chúng ta càng được đào tạo hoàn hảo bao nhiêu, thì chúng ta lại càng có khả năng đào tạo kẻ khác bấy nhiêu.”

Chỉ có như vậy mới có thể cộng đồng trách nhiệm với các gia đình để xây dựng giáo xứ thành một cộng đoàn các gia đình thừa sai. Tuy nhiên nói đến “tự đào tạo lấy mình” nghe ra có vẻ vô cùng khó khăn, vì ai cũng nghĩ mình chỉ có thể học hỏi người khác, nhờ người khác đào tạo, chớ làm sao có thể tự đào tạo lấy mình? Thực ra, vấn đề ở đây cần phải hiểu việc “tự đào tạo” chính là cách sống Đạo một cách trung thực, hay nói cách khác đó là sống Đức Tin, sống chứng nhân giữa đời làm sao để được nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng mà minh làm chứng – Đức Giêsu Kitô. Ấy cũng bởi vì “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Loan báo Tin Mừng “Evangelii Nuntiandi”, số 41).

Nói cách cụ thể, mỗi Kitô hữu đã được Thầy chí thánh truyền dạy “Chính anh em là muối cho đời … Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13 - 14), đồng thời cũng được Người ví như “Men trong bột” (Lc 13, 2021). Vậy hãy làm sao cho mình thực sự trở nên “muối, men, ánh sáng” cho đời. Đó là sống ngay giữa lòng Giáo Hội cái ý nghĩa của gia đình, vốn không chỉ là mẫu gương mà còn là men, để mời gọi dân trong Hội Thánh sống như là Gia đình của Thiên Chúa. Chính trong môi sinh đó mà gia đình trở thành “muối ướp mặn cho đời”, “ánh sáng chiếu soi trần gian”.

III. Kết luận:

Tóm lại, “Thưc tại Giáo Hội Hiệp Thông như thế là phần tất yếu hay nói đúng hơn, nó là nội dung trung điểm của “Mầu Nhiệm”, nghĩa là của ý định Thiên Chúa trong vỉệc Cứu Rỗi nhân loại.” (Tông Huấn Kitô hữu Giáo dân, số 19), mỗi cá nhân Kitô hữu hãy ý thức trách vụ của mình, làm sao để thực sự trở thành những nhà truyền giáo, những vị thừa sai, xây dựng tổ ấm tình yêu của mình thành “gia đình thừa sai”, ngõ hầu chung tay góp sức với cộng đồng xây dựng giáo xứ thành một “Đại gia đình của các gia đình thừa sai”. Để được như vậy, hãy nêu cao tinh thần “Mến Chúa yêu người” để sống và thực thi Lời dạy của Đức Giêsu Kitô: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12), ngõ hầu “mở mang Nước Chúa đến tận cùng trái đất”.

Xin hãy nhìn vào mẫu gương tuyệt hảo của gia đình truyền giáo tiên khởi là Gia đình thánh Nadarét và dâng lòi cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ kính Thánh Gia Thất).

Lam Thy ĐVD

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG GIÁO HỘI

Xã hội văn minh dẫn đưa con người đến với những thành tựu khoa học tân tiến, giúp con người có được đời sống nâng cao, mọi sinh hoạt trở nên nhanh gọn và dễ dàng... Tuy nhiên, từ những tiện nghi và vật chất của xã hội văn minh mang lại cũng dễ dẫn con người đến một đời sống hưởng thụ, sống ích kỷ và dẫn tới suy đồi đạo đức. Trong bối cảnh đó, năm qua (2014), Giáo hội mời gọi con cái mình lấy tinh thần Phúc Âm để chỉnh đốn đời sống đạo đức gia đình (Phúc Âm hoá đời sống gia đình); năm nay (2015), Giáo hội tiếp tục mời gọi con cái mình, cách riêng bậc tu trì, cũng lấy tinh thần Phúc Âm hướng dẫn đời sống mình và thánh hoá xã hội cũng theo tinh thần ấy (Phúc Âm hoá đời sống thánh hiến). Đáp lại lời mời gọi của Giáo hội, chúng ta cùng hiệp lòng, hiệp ý để sống năm “Phúc Âm hoá đời sống thánh hiến” và cả cuộc đời theo lời mời gọi của Chúa và Giáo hội. Trong tâm tình đó, chúng ta cùng tìm hiểu về đời sống thánh hiến trong Giáo hội để hiệp thông, cầu nguyện cho nhau và cầu nguyện cho những ai được mời gọi sống trong bậc nầy.

1.  Đời Sống Thánh Hiến là gì?

a/ Khái niệm “thánh hiến”

Để hiểu ý nghĩa sâu xa của đời sống thánh hiến là gì, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của cụm từ “thánh hiến” là gì trước.

Dưới khía cạnh thuần tuý ngữ học, chúng ta thấy từ nguyên ngữ La-tin “consecratio” (danh từ) hay là “consecrare” (động từ), có nghĩa làm cho cái gì nên “thánh” (sacer); theo nghĩa là tách rời một người hay một vật ra, không dùng vào việc phàm tục nữa mà chỉ dành riêng vào việc thánh mà thôi, đặc biệt là dành vào việc phụng tự. Thí dụ việc “consecrare” một nhà thờ, hàm ý rằng chúng ta dành ra một toà nhà ấy vào việc thờ phượng Chúa, từ nay sẽ không được dùng nó vào những việc phàm tục khác (không diễn văn nghệ, không làm hội trường…). Việc làm nầy, chúng ta thường quen gọi là cung hiến, thánh hiến…diễn tả qua một nghi thức bao hàm hai khía cạnh: biến một đồ vật thành cái gì thánh thiêng; đàng khác là tách rời khỏi phạm vi trần tục.

Khía cạnh thần học Kinh thánh, thì quan niệm “cosecrare” vừa nói trên được bổ túc và kiện toàn với những chiều kích mới, cách riêng về hai điểm: chủ thể và hiệu quả của hành vi.

- Xét chủ thể, thì không những con người dâng hiến hay cung hiến cái gì đó cho Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa cung hiến con người (dân Israel, các ngôn sứ: Môisen, Gieremia…). Để hiểu rõ nghĩa hơn, chúng ta xét tới những trường hợp mà Kinh thánh nói tới việc “consecrare” của Thiên Chúa với những hiệu quả của nó.

- Trong Cựu Ước, Thiên Chúa “consecrare” dân Israel. Ngài tuyển chọn một dân riêng; Ngài tách rời dân ấy ra, dành riêng cho Ngài: “Các ngươi hãy nên thánh, bởi vì ta là đấng Thánh” (Lv. 11,44.45;19,2;20,7-8.26). Như thế ý niệm “consecrare” bao gồm sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng như những đòi hỏi về phía người được chọn: xét vì Thiên Chúa đã thông ban sự thánh thiện cho Israel, nên Israel phải cố gắng sống thánh thiện. Việc “consecrare” của Israel đòi hỏi sự tách rời khỏi tội lỗi hơn là tách rời khỏi trần tục. Như vậy, ta có thể hiểu consecrare là thánh hiến hay thánh hoá.

- Trong Tân Ước chúng ta gặp thấy lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu cho các môn đệ, trong đó Chúa dùng tiếng “consecrare” tới ba lần trong một đoạn ngắn: “Lạy Cha, xin hãy hiến thánh chúng trong sự thật, vì lời của Cha chính là sự thật. Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai chúng đến trong thế gian. Và vì chúng, con xin hiến thánh mình con, ngõ hầu chúng được hiến thánh trong sự thật” (Ga.17,17-19). Trong đoạn văn nầy, ngoài ý nghĩa Chúa Giêsu xin Thiên Chúa Cha thánh hiến các môn đệ, mà còn nêu lên chính Chúa Giêsu tự hiến bản thân “Con xin hiến thánh mình con”, tự nguyện dâng trót cả cuộc đời để thi hành sứ mạng, trao hiến mình để phục vụ chương trình của Thiên Chúa dành cho nhân loại…

Như vậy, từ “consecratio” (thánh hiến) gợi lên 3 ý nghĩa:

1) Chính Thiên Chúa chủ động, Ngài tách biệt ra một người nào đó cho mình;

2) sự dành riêng ấy biểu lộ sự tuyển chọn do tình thương ưu ái của Ngài, và mang theo một sự biến đổi nội tại của con người: tình yêu của Thiên Chúa thông đạt sự thánh thiện của Ngài cho con người;

3) sự dành riêng và tuyển chọn ấy không giới hạn vào ích lợi riêng tư của người ấy, nhưng còn kèm theo một sứ mạng nhằm phục vụ kế hoạch tình thương của Chúa đối với nhân loại nữa.

b/. Đời sống thánh hiến

TRANG LINH MỤC

15 Căn Bệnh Của Giáo Triều Roma Cần Chữa Trị

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 15 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giáo Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.

7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh 'ngồi lê đôi mách', lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

13. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

14. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

15. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ - một điều mà LM này bịa đặt - về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

G. Trần Đức Anh, OP
Nguồn: vi.radiovaticana.va

TRANG TU SĨ

TẤM LÒNG NGƯỜI CHA

Họ Đạo tôi nằm ở vùng quê nghèo. Vào khoảng năm 1990, Họ Đạo còn nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Thế nhưng Họ Đạo lại được Chúa thương ban cho có những mục tử nhiệt tình thánh thiện hết lòng lo cho Họ Đạo. Tôi còn nhớ lúc đó khi Cha Sở báo tin là Họ Đạo sẽ có Cha mới về giúp, vì Cha Sở tuổi cao sắp về nghỉ dưỡng. Mọi người im lặng vì cảm xúc vui buồn lẫn lộn: vui vì sắp có Cha mới về, nhưng lại ngậm ngùi khi phải chia tay với Cha Sở - người cha già đã gắn kết với Họ Đạo suốt mấy mươi năm trời trong thời gian khó. Và rồi Cha mới được đưa đến trong âm thầm lặng lẽ không cờ xí kèn trống như bây giờ, mà chỉ có Thánh lễ tạ ơn Chúa chung với nhau, vì lúc đó còn khó khăn về mặt chính quyền, giáo dân cũng không được đông người tham dự. Sau Thánh Lễ Cha ân cần chào thăm mọi người, ai cũng bẽn lẽn không biết nói gì ngoài câu chào hỏi, còn bọn nhỏ chúng tôi thì chạy tung tăng cười nói :

- Ông Cố này trẻ - đẹp hơn Ông Cố mình hén !

Sau một tuần làm quen với nếp sống thôn quê, Cha xin phép Cha Sở cho các ông Biện đưa Cha đi thăm bà con giáo dân trong Họ Đạo, vì đã từ lâu do sức yếu tuổi cao nên Cha Sở không thể đến thăm mọi người thường xuyên, vả lại cũng có chút khó khăn cho việc xin phép đi lại.

Hôm nay, ông Biện Đức đưa Cha đến thăm được 5 gia đình, trong đó có gia đình của tôi. Vì không biết trước Cha đến thăm nên Ba Mẹ tôi đi ruộng không có ở nhà, chỉ có tôi và Hồng Minh -đứa bạn thân ngoại đạo, chúng tôi đang học bài. Cha bước vào trong nhà nói chuyện hỏi thăm về chuyện học của chúng tôi :

- Chúng con học lớp mấy rồi?

- Dạ, tụi con đang học lớp 7.

- Con thích học môn nào nhất? Lớn lên con muốn làm gì?... Cha ôn tồn hỏi chuyên.

Tôi thích đi tu từ năm lớp 6, còn Hồng Minh thì ước mơ được đi học lên cao. Minh là học sinh giỏi toàn trường, nhưng vì gia đình quá khó khăn, Cha vừa qua đời, Minh là con gái lớn trong gia đình phải phụ mẹ chăm lo cho 3 đứa em còn quá nhỏ, hơn nữa Minh không có tiền để có thể tiếp tục học. Còn tôi thì Ba không muốn con gái đi tu sợ con không chịu nổi khổ cực rồi bỏ tu nửa chừng, nên cương quyết không cho tôi đi tu. Sau khi nghe chúng tôi trình bày ước nguyện, Cha mĩm cười nói.

Cha sẽ giúp chúng con thực hiện được ước mơ của mình. Về phần chúng con bây giờ hãy tập trung lo cho việc học vì tương lai sau này.

Lời hứa của Cha như nguồn động lực cho chúng tôi tiếp tục phấn đấu. Quả thật, Cha đã đến thăm gia đình Hồng Minh và thuyết phục Mẹ Minh cho Minh đi học. Lúc đầu bà còn do dự sợ Minh phải vô Đạo, nhưng Cha đã giải thích và Cha sẽ giúp tiền học cho Minh vì tương lai của em sau này, và sự giúp đỡ này không có điều kiện. Cha không muốn sự trợ giúp của Cha gây cho Minh một áp lục nào, Cha nói với Minh :

- Con không cần phải suy nghĩ nhiều, điều Cha mong muốn là con chăm chỉ học hành vì tương lai của con sau này và vì gia đình con.

Cha không chỉ giúp đỡ cho Minh mà còn nhiều người khác có hoàn cảnh khó khăn, không ngoại trừ lương giáo. Đặc biệt, Cha cố ý tìm kiếm ơn gọi đi tu trong Họ Đạo bằng cách mời gọi chúng tôi thường xuyên đến phụ giúp công việc Nhà Thờ : Con trai thì đến ở Nhà Xứ giúp Cha, còn con gái thì tới với các Dì. Cha còn mở lớp học Kinh Thánh đào luyện giáo lý viên, dạy nhạc – đàn và lập thêm nhóm ca đoàn nhỏ... Cha kêu gọi mọi người cộng tác, ai cũng nhiệt tình tham gia. Không bao lâu Họ Đạo phát triển lên: nhiều người trở lại Đạo – xin vô Đạo... Cũng từ đó ơn gọi đi tu cũng từ lần nẩy nở, Cha lần lượt đưa anh Tiến vào Chủng Viện, gởi Chị Hương vào Dòng Chúa Quan Phòng, còn tôi thì đi theo Dòng Mến Thánh Giá...

Thời gian thấm thoát trôi nhanh, Họ Đạo do Cha dày công xây dựng đang từng bước trưởng thành trong niềm tin yêu nơi Đức Kitô, những đứa trẻ dân quê ngày xưa Cha chỉ đường vạch hướng nay đã hiện thực được ước mơ, trong đó có tôi – một Nữ tu của Chúa. Hồng Minh cũng đã tốt nghiệp và có việc làm ổn định với mức lương cao, cô ấy đã tự nguyện xin vô đạo và giúp lại những trẻ em kém may mắn trong Họ Đạo.

Trong năm TÂN PHÚC-ÂM-HÓA ĐỜI SỐNG GIÁO XỨ VÀ CỘNG ĐOÀN SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN, tôi ước mong các Họ Đạo luôn là Gia đình của Thiên Chúa sống ngay giữa lòng Hội thánh, loan báo Tin mừng bằng chứng từ của đời sống mình, là mẫu gương và là men là muối cho đời, vì bản chất của mầu nhiệm Hội thánh vừa là Hiệp thông vừa là Truyền giáo. Cầu xin với Ơn Chúa và quyết tâm của mỗi người Năm nay sẽ khởi đầu cho những thăng tiến trong Đời sống Giáo Xứ và Cộng đoàn sống Đời sống thánh hiến.

MTG Cái Nhum

HỌ ĐẠO SỐNG ƠN GỌI THỪA SAI

Trong một lần về thăm gia đình, tôi gặp ông lão hàng xóm - “bạn trà” với cha tôi, nay đang theo học giáo lý tân tòng, chuẩn bị nhận Bí Tích Rửa Tội. Tôi tranh thủ làm một cuộc “phỏng vấn” ngắn:

- “Ông Hai ơi, con nhớ trước đây Ông Hai thề là sẽ không bao giờ bỏ Phật và “đạo” thờ ông bà. Do đâu mà Ông Hai muốn gia nhập đạo Công Giáo vậy?”

Ông cười móm mém và giơ tay vỗ đầu tôi:

- “Cái bà phước này cũng lý sự lắm nghen! Hơn hai chục năm rồi mà con cũng còn nhớ sao? Hồi đó, vì cái ăn cái mặc, ông ít có điều kiện tiếp xúc với người có đạo. Do vậy mà ông không hiểu nhiều về Chúa. Mấy năm nay, do ông cũng già rồi, nên được rảnh rỗi hơn để tiếp xúc với nhiều người. Nhìn thấy đời sống tốt của Cha Dì và bà con có đạo ở đây, nhất là qua cơn bệnh hồi năm ngoái, ông thấm thía hơn cái chơn tình của người theo Chúa, cho nên muốn gia nhập đạo.”

Rồi, một cách vắn tắt, ông đã kể về “hành trình” tìm đến đức tin của mình: Từ lúc bà mất, ông sống thui thủi một mình trong căn nhà nhỏ. Vào một đêm cuối tháng Tư, ông bị đau bụng dữ dội đến không thể đi nổi. May sao, lúc đó có một nhóm người đi ngang qua, ông cố gắng kêu lớn để may ra được cứu giúp. Thì ra đó là các em trong ca đoàn họ đạo đi đọc kinh cho một người chết về ngang qua. Nghe tiếng kêu cứu, các em ghé vô nhà và tìm cách giúp đưa ông đi bác sĩ. Những ngày sau đó khi ông còn nằm tại bệnh viện sau ca mổ ruột thừa, không những các em nhỏ mà còn có cả cha mẹ các em và bà con trong xóm đạo tới thăm nom, chăm lo cơm nước cho ông; hai Dì ở nhà thờ thường xuyên tới thăm hỏi, động viên tinh thần ông; chưa hết, cảm động nhất là đích thân Cha Sở dù đã lớn tuổi, cũng tới thăm; sau đó Cha giúp chi trả viện phí cùng với mọi phí tổn khác… Sau khi ra viện, ông suy nghĩ lung lắm về nghĩa cử cao đẹp đó của những người Công Giáo. Dần dần, ông đã tìm hiểu, cảm mến, và quyết định trở về với Chúa.

Không những chỉ có ông Hai mà còn nhiều ông bà khác cũng đã trở lại cùng Chúa. Qua tìm hiểu, tôi được biết: từ hai năm qua, họ đạo nhỏ bé này đã tiếp nhận trên 10 tân tòng, nhờ vào gương sáng đời sống chứng tá của mọi thành phần trong họ đạo.

Sống trong môt họ đạo, tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm và được sai đi với chính trách nhiệm đó. Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta đều được mời gọi cộng tác trong việc mở rộng Nước Chúa với khả năng Chúa ban. Đừng nên nghĩ rằng, làm cho Chúa được nhận biết là bổn phận của riêng một thành phần nào. Vì, qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu là một nhà thừa sai – người được Chúa sai đi, đem Chúa đến cho người khác, làm chứng cho tình yêu Chúa giữa đời, để đem về cho Chúa những ai chưa thuộc đàn chiên Chúa. Đây là một lệnh truyền của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người (x. Lc 10, 1-16). Mà tất cả chúng ta dù lớn hay nhỏ, đều là những môn đệ được tuyển chọn của Chúa.

Bước vào năm Phúc Âm Hóa Đời Sống Giáo Xứ và Các Cộng Đoàn Sống Đời Thánh Hiến, một hướng đổi mới của Giáo Hội tại Việt Nam khi nhìn lại trách nhiệm của mình trong việc mở mang Nước Chúa. Đây là cơ hội giúp mọi kitô hữu suy nghĩ và khơi dậy ý thức biến đổi chính mình và cộng đoàn, nhờ vào Chúa Kitô là nguồi mạch mọi ơn thánh. Điều Giáo Hội mong muốn nhất chính là mỗi người trong gia đình họ đạo phải làm cho Tin Mừng Chúa được chiếu tỏa trên cuộc sống mình và lan rộng đến người chung quanh.

Họ đạo/giáo xứ chỉ có thể được phúc âm hóa khi mỗi cá nhân trong họ đạo biết ý thức mình là một phần trong một thân thể duy nhất của Chúa Kitô nơi gia đình cộng đoàn đó. Trong tinh thần thực hiện lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chúng ta hãy quyết tâm sống tốt vai trò của mình nơi họ đạo (linh mục, tu sĩ, ban hành giáo, lễ sinh, ca viên, giáo lý viên, học viên giáo lý…), ý thức mình là một nhà thừa sai trong khi phục vụ họ đạo, với quyết tâm đem về cho Chúa những con chiên lạc và nhiều con chiên chưa thuộc đàn chiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho các gia đình họ đạo trong Giáo phận chúng con biết sống tốt ơn gọi thừa sai trong lòng Giáo Hội. Xin cho mọi thành phần trong họ đạo biết cùng nhau góp phần làm cho Nước Chúa được mở rộng ngay trong hoàn cảnh và môi trường của mình. Như vậy, công cuộc Phúc âm hóa của Giáo Hội mới thực sự có kết quả và thế giới này mới mong được biến đổi.

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TỐI ĐÈN CÓ NHAU...

Chuyện kể rằng, ngày xưa ở khu rừng nọ có một bác Khỉ thông minh và láng giềng của bác là một chú Sơn Dương thích để ý chuyện của người khác. Bác Khỉ có lúc đã phê bình chú Sơn Dương là kẻ: “Chỉ hay tò mò chuyện của người khác”. Một ngày kia, cả hai cùng đi ra ngoài dạo chơi, bác Khỉ đi trước, chú Sơn Dương nối bước theo sau. Cả hai bước đi một cách chậm rãi, vừa đi vừa ngắm cảnh vật chung quanh. Bất chợt không biết từ đâu có một ngọn lửa nhỏ bay đến, đốt ngay vào mông của bác Khỉ. Chú Sơn Dương vốn dĩ là kẻ hay để ý chuyện người khác, liền lên tiếng:

- “Anh Khỉ à, anh cho tôi hỏi một câu, nếu không phải việc của mình thì có cần phải quan tâm không?”.

- Bác Khỉ liền trả lời: “Đương nhiên là không cần rồi”.

- “Bác nói đúng rồi, tôi không nên quan tâm làm gì” – Sơn Dương nói thêm vào.

Nói là vậy, nhưng bản tính thì khó đổi nên Sơn Dương không thể không quan tâm. Đi được hai bước, Sơn Dương liền quay lại hỏi:

- “Anh Khỉ nè, không phải là việc của mình, nhưng vì lợi ích của người khác, chẳng lẽ cũng không quan tâm sao?”.

- Bác Khỉ có phần khó chịu trả lời: “Chú này thiệt là lạ, quan tâm đến chuyện người khác thì có lợi gì cho mình đâu”.

Nói chưa hết câu thì mông Khỉ đã bị cháy một khoảng lông không phải nhỏ. Khi phát hiện mình bị cháy mông, Khỉ ta liền la to lên rằng:

- “Ai da, ai da, chú Dương giúp tôi dập tắt lửa ở mông với”.

- Lúc này, Sơn Dương giả vờ như không nghe thấy gì, hỏi bác Khỉ: “Anh Khỉ ơi, không phải việc của mình có cần phải quan tâm không?

- Khỉ ta đau qúa, vừa nhảy lên vừa la lớn: “Cần phải quan tâm! Cần phải quan tâm!”

Khỉ đã được dập tắt lửa ở mông, nhưng từ đó về sau thì trên mông Khỉ đã lưu lại một dấu tích không thể xóa nhòa.

Đọc hết câu chuyện, chúng ta có thể cười mỉm và tự nhủ, giá như bác Khỉ biết quan tâm đến người khác một chút thì đâu đến nỗi bị hại thân như thế. Cũng vậy, chú Sơn Dương đừng qúa nguyên tắc thì bác Khỉ láng giềng cũng đâu đến nỗi phải cháy mông. Câu chuyện ngụ ngôn mang tính giải trí, nhưng cũng dạy chúng ta một bài học về giá trị trong cuộc sống.

Xã hội ngày nay đã thay đổi và tiến bộ rất nhiều. Đối với mọi người, công việc là quan trọng nhất, họ ít có thời gian để quan tâm đến nhau. Tuy rằng vẫn có sự liên kết giữa người này với người kia, nhưng đó là những liên kết trong công việc. Có chăng một sự quan tâm thật sự cho nhau? Dĩ nhiên không ai dám phủ nhận chuyện đó, nhưng đã có phần giới hạn hơn. Chúng ta nhận thấy các gia đình sống ở thành phố ngày càng trở nên xa lạ nhau hơn, các bức tường ngày càng xây kiên cố hơn. “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi” nhưng cũng không biết nhau. “Đèn nhà ai đấy rạng”, còn đâu cảnh “tối đèn có nhau”. Một cách nào đó, chúng ta cảm thấy tiếc khi mất đi cảnh sống gắn kết “cùng một lũy tre làng”.

Những lợi ích mà chúng ta đón nhận được từ sự biết quan tâm đến nhau thì lớn vô kể. Từ chối sự quan tâm đến người khác vì bất cứ lý do gì, chúng ta cũng đều phải gánh chịu một hậu qủa khó lường cho người khác và cho chính chúng ta nữa. Đôi khi, chúng ta sợ phiền hà, sợ thiệt thòi mà không dám để ý đến những người chung quanh. Chúng ta có quan tâm đến người khác cũng chỉ vì quyền lợi của chúng ta có gắn liền với người ấy. Chúng ta luôn thể hiện sự sòng phẳng trong các mối liên hệ với nhau.

Thật nực cười, có những người bỏ ra rất nhiều của cải, vật chất để xây dựng cho mình những công trình phúc đức về sau. Họ có thể bỏ ra rất nhiều tiền để giúp xây dựng chùa chiền, nhà thờ, đền đài… hầu mong sau này có thể về cõi vĩnh hằng một cách dễ dàng. Thế nhưng, họ lại thờ ơ với những người thiếu thốn, không cơm ăn áo mặc đang sống bên cạnh họ. Ca dao có khuyên :

Dẫu xây chín đợt Phù Đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người.

Quan tâm đến tha nhân, đặc biệt những người đang cần sự giúp đỡ của chúng ta là một việc thật tốt lành. Nếu chúng ta chỉ quan tâm những người cũng quan tâm đến chúng ta thì dễ qúa còn gì, và Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “những kẻ bất chính cũng biết quan tâm đến nhau”. Khi gặp khó khăn là lúc cần đến nhau hơn bao giờ hết. Chúng ta đừng như chú khỉ trong câu chuyện, khi chưa gặp rắc rối thì không có gì phải quan tâm. Thế nhưng, khi gặp nạn thì khỉ đã la toáng lên: “Cần quan tâm chứ! Cần quan tâm chứ!”. Chỉ khi nào chúng ta gặp khó khăn thì chúng ta mới ý thức được tầm quan trọng của sự quan tâm. Bao lâu chưa gặp hoạn nạn thì chúng ta vẫn còn hờ hững với những khó khăn của người khác. Khi nào bị rơi xuống nước sâu, chúng ta mới nhận ra rằng, biết bơi thì thật là có ích.

Thiết nghĩ, cuộc sống luôn cần sự nâng đỡ lẫn nhau. Đừng ai cho rằng, không có người khác thì tôi vẫn sống. “Nay người mai ta” là một lời nhắc nhở thật chí tình. Khi biết nghĩ đến người khác là chúng ta đang nghĩ đến chính mình vậy. Đặc biệt, chúng ta sống trong cộng đoàn những người dâng hiến, chúng ta là anh em trong một gia đình thiêng liêng thì việc quan tâm đến nhau là điều cần thiết và có giá trị khích lệ to lớn. Rất nhiều khi, chúng ta chuyên lo những sứ vụ to lớn mà quên mất người anh em đang hiện diện bên mình. Dẫu rằng, chúng ta không thể cứ ngồi đó để mà quan sát và giúp đỡ anh em một cách tỉ mỉ như một người mẹ chăm sóc đứa con mọn của mình, nhưng chúng ta cũng phải thể hiện được một chút quan tâm, chú ý đến anh em của mình. Và chắc chắn, chúng ta không thể quan tâm được đến tất cả những riêng tư của mọi người vì những rào cản vô tình nào đó, chẳng hạn những khác biệt về tính tình, lối sống, văn hoá... Nhưng ít ra, chúng ta cũng phải biết quan tâm đến những công việc mà người anh em đó đang làm vì sứ vụ chung, và đó cũng là trách nhiệm mà người anh em đó đang vác thay cho chúng ta. Ước mong sao, mỗi người trong cộng đoàn biết nhìn anh em mình với cái nhìn yêu thương và bao dung, để qua đó mọi người nhận ra giá trị đích thực của đời sống cộng đoàn và cảm nhận được mọi người trong cộng đoàn đang quan tâm và cùng đồng hành.

TRANG THIẾU NHI

GIÁO XỨ GÓP PHẦN VUN TRỒNG ƠN GỌI TẬN HIẾN

Gia đình có cha, có mẹ và có con. Ba thành phần chính yếu này xây dựng nên một gia đình. Người tín hữu có Thiên Chúa là Cha và Hội thánh là mẹ. Hội thánh địa phương chính là cộng đoàn giáo xứ. Đóng vai trò người mẹ, cộng đoàn giáo xứ có bổn phận đóng góp trong việc vun trồng ơn gọi tận hiến.

Người sống đời tận hiến là người được huấn luyện để rồi sẽ được sai đi. Trước khi sai 12 Tông đồ hay 72 môn đệ, Chúa Giêsu cũng đã cho các ông ở với Người. Ở với Chúa để Người huấn luyện để các ông có được một nội lực tương đối vững vàng. Như thế, việc làm căn bản đầu tiên của cộng đoàn giáo xứ là tạo điều kiện tốt nhất để cho mọi thành phần dân Chúa cách riêng cho các bạn trẻ đến và tiếp xúc với Chúa Giêsu. Việc học hỏi giáo lý, đọc và lắng nghe Kinh Thánh cũng như tham dự việc cử hành Bí tích Thánh Thể thật cần thiết trong việc gặp gỡ Chúa Giêsu.

Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ở đấy giữa họ (Mt 18, 20). Chiều kích đời sống cộng đoàn cũng không kém quan trọng trong việc vun trồng ơn gọi tận hiến. Tự bản chất con người đã là được dựng nên để sống với và sống cho người khác. Hơn nữa, người sống đời tận hiến là người của mọi người. Họ sẽ được sai đến với người khác. Do đó, thật là thiếu sót nếu cộng đoàn giáo xứ không tạo điều kiện để người trẻ trong cộng đoàn không có cơ hội làm việc chung với nhau. Làm việc chung với nhau để có được một sự đồng tâm nhất trí. Những sinh hoạt có tính cách tập thể như Thiếu nhi Thánh thể, Ca đoàn, Lễ sinh, Huynh trưởng...là những môi trường rất tốt để các bạn trẻ phát huy chiều kích đời sống cộng đoàn.

Người sống đời tận hiến được mời gọi ra khỏi thế gian để rồi sẽ được sai đến hòa nhập với thế gian. Cộng đoàn giáo xứ sống giữa thế gian và trở nên muối men cho thế gian. Mà mỗi cộng đoàn giáo xứ là một gia đình trong đại gia đình những người con của Chúa. Đại gia đình Hội thánh ở bất cứ thời đại nào cũng cần có nhiều người dấn thân sống đời tận hiến. Vì thế, mỗi cộng đoàn giáo xứ được mời gọi theo hoàn cảnh của giáo xứ mà góp phần tích cực của mình để vun trồng ơn gọi sống đời tận hiến.

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý XI Về Kinh Tin Kính Của ĐTC Phanxicô
Hội Thánh Là Đền Thờ Của Chúa Thánh Thần

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ XI của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày 26 tháng 6 năm 2013. Hôm nay Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay tôi muốn đề cập cách vắn tắt đến một hình ảnh giúp chúng ta minh họa mầu nhiệm Hội Thánh: đó là hình ảnh Đền Thờ (x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế tín lýLumen Gentium, 6).

Từ Đền Thờ làm cho chúng ta nghĩ đến gì? Từ này làm cho chúng ta nghĩ đến một tòa nhà, một kiến trúc. Nhiều người trong chúng ta liên tưởng đến lịch sử của dân Israel được kể trong Cựu Ước. Tại Giêrusalem, Đền Thờ của vua Solomon đã là nơi gặp gỡ Thiên Chúa trong cầu nguyện; trong Đền Thờ có Hòm Bia Giao Ước, dấu chỉ của sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài; và trong Hòm Bia có Bia Đá Lề Luật, mana và cây gậy của ông Aaron: một nhắc nhở đến sự kiện Thiên Chúa đã luôn luôn hiện diện trong lịch sử của dân Ngài, Ngài đã đồng hành với họ trong cuộc hành trình của họ, đã hướng dẫn các bước đi của họ. Đền Thờ nhắc lại lịch sử này: chúng ta cũng thế, khi chúng ta đến Đền Thờ, chúng ta phải nhớ lịch sử này, lịch sử của mỗi người trong chúng ta, Chúa Giêsu đã gặp tôi thế nào, Chúa Giêsu đã bước đi với tôi ra sao, Chúa Giêsu yêu thương tôi và chúc lành cho tôi cách nào.

Ở đây, những gì đã được biểu hiện trước trong Đền Thờ xưa kia, được thực hiện, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh: Hội Thánh là “Nhà của Thiên Chúa”, là nơi Ngài hiện diện, nơi chúng ta có thể tìm thấy và gặp gỡ Chúa; Hội Thánh là Đền Thờ nơi Chúa Thánh Thần, Đấng sinh động hóa, hướng dẫn và nâng đỡ Hội Thánh, cư ngụ. Nếu chúng ta tự hỏi: Chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở đâu? Chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Ngài qua Đức Kitô ở nơi nào? Chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi chiếu cuộc đời chúng ta ở chỗ nào? Câu trả lời là: nơi Dân Thiên Chúa, ở giữa chúng ta, là Hội Thánh. Ở đây chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha.

Đền Thờ cổ được xây dựng bằng bàn tay con người: họ muốn “dâng một ngôi nhà” cho Thiên Chúa, để có một dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện của Ngài giữa dân chúng. Với việc nhập thể của Con Thiên Chúa, lời tiên tri của ngôn sứ Nathan với Vua David đã hoàn thành (x. 2 Sam 7,1-29): không phải là vua, hoặc chúng ta, là người “xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa,” nhưng chính Thiên Chúa “xây nhà của Mình” để đến ở giữa chúng ta, như thánh Gioan viết trong Tin Mừng của ngài (x. 1:14). Đức Kitô là Đền Thờ sống động của Chúa Cha, và chính Đức Kitô đã xây “ngôi nhà tinh thần” của Người, là Hội Thánh, không bằng đá thể lý, nhưng bằng những “viên đá sống động” là chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô nói với tín hữu Êphêsô rằng: anh em đang “được xây trên nền móng là các Tông Ðồ và các ngôn sứ, và chính Ðức Giêsu Kitô là đá tảng góc tường. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng nối kết với nhau và lớn lên thành ngôi Đền Thánh trong Chúa. Trong Người cả anh em cũng được xây dựng cùng nhau thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa nhờ Thần Khí.” (Ephesians 2:20-22). Đây là một điều tuyệt mỹ! Chúng ta là những viên đá sống động của Thiên Chúa, được kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô, là đá góc tường nâng đỡ, và cũng là trụ cột ở giữa chúng ta. Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là chúng ta là Đền Thờ, chúng ta là Hội Thánh sống động, Đền Thờ sống động và khi chúng ta tụ họp lại, thì Chúa Thánh Thần cũng ở giữa chúng ta, giúp chúng ta phát triển như Hội Thánh. Chúng ta không bị cô lập, nhưng chúng ta là Dân Thiên Chúa: đây là Hội Thánh!

Và chính Chúa Thánh Thần với những hồng ân của Ngài, là Đấng thiết kế sự đa dạng. Điều này thật quan trọng: Chúa Thánh Thần làm gì giữa chúng ta? Ngài thiết kế sự đa dạng này là sự phong phú trong Hội Thánh và Ngài kết hợp tất cả mọi sự và mọi người, để tạo thành một Đền Thờ thiêng liêng, trong đó chúng ta không dâng những của lễ hy sinh vật chất, nhưng dâng chính mình và cuộc đời chúng ta (x. 1 Proverbs 2:4-5). Hội Thánh không phải là một hỗn hợp của các sự vật và quyền lợi, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, Đền Thờ mà trong đó Thiên Chúa hoạt động, Đền Thờ mà trong đó mỗi người chúng ta, nhờ hồng ân của Bí Tích Thánh Tẩy, là một viên đá sống động. Điều này cho chúng ta thấy rằng không có ai là vô dụng trong Hội Thánh, và nếu tình cờ có một người nói với ai đó rằng: ‘Hãy về nhà đi, bạn thật vô dụng,” điều này thật không đúng, bởi vì không có ai là vô dụng trong Hội Thánh cả, tất cả chúng ta đều cần thiết để xây dựng Đền Thờ này! Không có ai là thứ yếu cả. Không có ai là quan trọng nhất trong Hội Thánh cả; chúng ta đều bình đẳng trước mắt Thiên Chúa. Một số người trong anh chị em có thể nói: “Này, thưa Đức Thánh Cha, Ngài không ngang hàng với chúng con.” Phải, tôi cũng như mỗi người trong anh chị em, chúng ta đều bình đẳng, chúng ta là anh em! Không có ai là vô danh cả, tất cả chúng ta hợp thành và xây dựng Hội Thánh. Điều này cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ về sự kiện là nếu thiếu viên đá của đời sống Kitô hữu của chúng ta, thì vẻ đẹp của Hội Thánh cũng thiếu một cái gì đó. Một số người nói: “Tôi không liên quan gì đến Hội Thánh cả,” nhưng như thế trong Đền Thờ xinh đẹp này thiếu mất một viên đá. Không ai có thể bỏ đi được, tất cả chúng ta phải đem đến cho Hội Thánh cuộc sống của chúng ta, con tim của chúng ta, tình yêu của chúng ta, những tư tưởng của chúng ta và công việc của chúng ta, tất cả chúng ta hãy cùng nhau.

Như thế tôi muốn chúng ta tự hỏi: Chúng ta đang sống việc mình là Hội Thánh như thế nào? Chúng ta có phải là những viên đá sống động không, hay có thể nói rằng, chúng ta là những viên đá mệt mỏi, chánnản và thờ ơ? Anh chị em có thấy một Kitô hữu mệt mỏi, chán nản và thờ ơ đáng buồn thế nào không? Một Kitô hữu như thế không tốt, một Kitô hữu phải sống động, vui tươi vì là một Kitô hữu; người ấy phải sống vẻ đẹp này của việc được làm một phần tử của Dân Thiên Chúa là Hội Thánh. Chúng ta có mở lòng ra với hoạt động của Chúa Thánh Thần để trở thành một phần tử tích cực trong cộng đồng của mình không, hay chúng ta đóng kín trong chính mình khi nói rằng: “Tôi có rất nhiều việc phải làm, đó không phải là việc của tôi”?

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng và sức mạnh của Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô, Đấng là đá góc tường, là trụ cột, là tảng đá nâng đỡ cuộc đời chúng ta và toàn thể đời sống Hội Thánh. Chúng ta hãy cầu xin để, được sinh động hóa bởi Chúa Thánh Thần, chúng ta luôn luôn là những viên đá sống động của Hội Thánh.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

BỆNH VÔ CẢM Ở GIỚI TRẺ NGÀY NAY

Vô cảm thật ra không còn chỉ một trạng thái về tinh thần của con người nữa mà trở thành một căn bệnh đáng lo ngại, thường gặp ở nhiều bạn trẻ hiện nay. Càng đi sâu vào vòng xoáy cuộc sống hiện đại, dường như vô cảm trở thành một căn bệnh nan y khó chữa.

Nguyên nhân dẫn đến căn bệnh khó chữa này bắt nguồn từ chữ “Sợ”: Sợ liên lụy, sợ chuốc họa vào thân, sợ gặp phải phiền phức… đã khiến cho mọi người xung quanh nhất là giới trẻ hiện nay trở nên vô cảm. Họ không còn quan tâm hoặc thích thú với những hoạt động, những sự kiện trong đại, những vấn đề quan trọng của cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Họ tự tạo ra một cái hang để chui rúc vào đó, và tách biệt bản thân với xã hội. Vì đơn giản họ chỉ muốn được sống cho riêng bản thân mình, cho lợi ích của mình, không phải lo âu về những phiền toái của người khác.

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến căn bệnh vô cảm này chính là sự kích động tinh thần của thế hệ trẻ khi xem phim hành động hay chơi game – trò chơi bạo lực đã làm cho con người trở nên sắt đá, tính tình nguội lạnh, chẳng còn cảm giác hay suy nghĩ gì về những điều xung quanh mình… Các bạn có thể dễ dàng nhận thấy ngày nay khi ra đường nếu không may gặp phải cướp giật mà có la thật to, thật lớn kêu cướp thì mọi người xung quanh cũng chỉ đứng nhìn và ít khi nào có một “hiệp sĩ đường phố” đứng ra bắt cướp và giúp đỡ bạn. Cũng có những trường hợp té xe hay tai nạn trên đường mọi người đi đường xung quanh nhìn thấy, họ ngoái đầu nhìn, họ chỉ trỏ và họ quay lưng đi. Ngay cả trên các trang mạng xã hội, khi có một ai đó không may qua đời, hay những sự việc nào đó không vui xảy ra thì các bạn trẻ còn sẵn sàng lập ra những fanpage đại loại như là: 1000000 like cho ca sĩ X sống lại, hay là 1000000 cho A và B quay lại với nhau? Liệu chỉ một cái nhấp chuột có thể cải tử hoàn sinh, và chỉ một cái nhấp chuột có thể hóa giải mọi thứ, biến xấu thành tốt? Tất cả chỉ vì lợi ích của bản thân, vì kinh doanh.

Khi các bạn làm điều đó tức là các bạn đang đánh mất chính bản thân mình, vô cảm với sự mất mát của người khác và vô cảm với mọi thứ xung quanh. Rõ ràng bệnh vô cảm đã và đang gây những tác hại to lớn đối với xã hội, với nhân cách của mỗi con người vì vậy cần phải khắc phục ngay căn bệnh này. Muốn ngăn chặn, tiêu diệt hiện tượng này thì cải cách giáo dục một cách toàn diện từ mục đích, phương pháp cho đến cách thức là điều cực kỳ cần thiết. Chúng ta cần một nền giáo dục không còn những giáo điều, lý thuyết khô khan, nặng nề, không cần thiết nữa mà thay vào đó là những bài học sinh động, thực chất dể phát triển tâm hồn, nhân cách, nhân phẩm của mỗi học sinh. Chỉ có như thế, thì vô cảm mới có thể được giảm thiểu ở mức thấp nhất.

Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, đừng để đến khi “cơn đại dịch” này lan rộng ra toàn xã hội thì lúc đó e là ta đã quá trễ, đừng để rồi đến một lúc nào đó, con người tiến hóa thêm một bậc nữa, mà khi đó phần “người” hoàn toàn biến mất trong họ.

(Sưu tầm)

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

25 Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

Bài 11: Tại sao gọi Phaolô là Tông đồ dân ngoại

Câu trả lời một cách ngắn gọn là vì trong thư gởi tín hữu Galata, Phaolô đã tự nhận danh hiệu này cho mình: “Tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như Phêrô được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. Thật vậy, Đấng đã dùng ông Phêrô hoạt động tông đồ cho những người được cắt bì, cũng đã dùng tôi hoạt động cho dân ngoại” (Gal 2: 7-8).

Về mặt lịch sứ, bối cảnh của giáo đoàn Galata mà Phaolô viết những lời này giúp ta hiểu hơn về vai trò tông đồ dân ngoại của ông.

Trong chuyến hành trình đến Galata lần thứ hai, khi còn dừng chân ở Ephêsô, Phaolô đã nghe biết một số người loan tin rằng Phaolô không phải là Tông Đồ, và sứ mạng ông rao giảng không được Chúa Kitô hay các Tông đồ trao phó (Gal 1:1, 7, 12). Hơn nữa, Phaolô rao giảng ngụy tin mừng (không là tin mừng thật) (Gal 1:7) vì ông cho phép những người theo Kitô giáo không cần phải giữ luật Môisê, như không giữ những ngày lễ ghi trong lịch Do Thái và không chịu cắt bì chẳng hạn (Gal 4:10; 6:12). Nhiều người còn vu cáo ông là người “đón gió trở cờ” hay theo cơ hội, vì có lúc ông chấp nhận phép cắt bì cho tân tòng (Gal 5:11), nay thì dạy là không cần cắt bì để nhằm có thêm nhiều tân tòng gia nhập đạo.

Những tin đồn và vu cáo này là nguyên nhân khiến Phaolô viết thư khẳng định giáo huấn thần học Ngài dạy và vai trò “Tông Đồ Dân Ngoại” của mình.

Trước hết, với những người Do thái trung thành với luật Môisê mà nay tin theo Chúa Kitô, Phaolô tôn trọng những luật lệ họ giữ, và nêu rõ là Phêrô được sai đến với họ, “những người chịu cắt bì này” (Gal 2:7-8). Với những người ngoại (không chịu cắt bì như người Hy Lạp, Roma, Ai cập…), Phaolô rao giảng rằng họ không cần phải chịu cắt bì hay giữ tất cả luật Môisê khi tin theo Đức Giêsu Kitô. Quyết định này không là ý kiến cá nhân Phaolô mà kết qủa của công đồng Jerusalem trong đó thánh Giacôbê, Giám mục Jerusalem, thay mặt các Tông đồ công bố (Cvtd 15:1-21).

Vì thế Phaolô đã phản bác những tuyên truyền sai lạc của những người mà Ngài gọi là “kẻ phá rối” (Gal 1:7), và khẳng định rằng Ngài chính là Tông đồ, được sai bởi Thiên Chúa, và tin mừng Ngài rao giảng được Thiên Chúa mặc khải qua Đức Giêsu Kitô (Gal 1:1, 12). Và với tính khẳng khái, Phaolô công bố rằng tin mừng Ngài nhận là từ Thiên Chúa chứ không phải từ loài người. Do đó, nếu có ai đến rao giảng những gì nghịch lại với tin mừng Ngài dạy, ngay cả các tông đồ hay các thiên thần từ trời xuống, Phaolô cảnh báo giáo dân không được tin theo (Gal 1:8-9).

Câu hỏi đặt ra là: khi xưng mình là tông đồ dân ngoại, Phaolô có từ bỏ căn tính Do Thái của mình để theo người ngoại hay không?

Có hai trường phái cắt nghĩa khác nhau. Một số người cho rằng Phaolô đã bỏ quyền ưu tiên làm người Do Thái để lãnh nhận căn tính Kitô hữu có tính cách rộng lớn và bao quát hơn. Những người này còn cho là Phaolô đã nhiều lần phê bình chủ nghĩa độc tôn Do Thái khi cho rằng dân tộc Do Thái là trên hết, và chỉ có người Do Thái mới được cứu rỗi.

Một số đông hơn ngày nay tin rằng Phaolô không hề từ chối căn tính Do Thái để mặc lấy căn tính Kitô hữu vì tính phổ quát của nó vì những lý do: (1) thời kỳ đó (những năm 50-60), Phaolô không rao giảng Kitô giáo như một tôn giáo mới tách hẳn ra khỏi Do Thái giáo; (2) Phaolô không hề từ chối căn tính Do Thái của mình mà còn tự hào và nhắc nhở các Tông đồ: “Chúng ta bẩm sinh là người Do Thái, chứ không phải hạng người tội lỗi gốc dân ngoại.” (Gal 2:15); hay “chính tôi đây cũng là người Israel thuộc dòng dõi Ápraham, thuộc chi tộc Bengiamin.” (Rom. 11:1).

Tư tưởng Phaolô thay đổi theo cuộc sống. Khi còn bắt bớ đạo Chúa Kitô, Phaolô tin rằng chỉ có người Do Thái tin và làm theo Ngũ Thư (Luật Môisê) mới được cứu rỗi, còn dân ngoại sống không có hy vọng trong tương lai.

Sau khi Trở Lại, Phaolô tin Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Thế cho người Do Thái cũng như dân ngoại. Giờ đây Đức Kitô, chứ không phải Ngũ Thư, là đối tượng đức tin và việc làm cho mọi người dân thuộc về Thiên Chúa.

Với tư tưởng này Phaolô tự nhận mình là Tồng Đồ Dân Ngoại khi Ngài rao giảng cho mọi người biết Đức Kitô đến để được cứu rỗi loài người. Hơn nữa, công việc rao giảng có tính cách cấp bách vì Ngài (cũng như nhiều người đương thời) tin rằng Chúa Kitô sắp đến lần thứ hai (hay tận thế gần kề) (1 Thes 4:16-17).

SỐNG ĐẸP

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Vatican

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các nhân viên Tòa Thánh và Vatican chăm sóc đời sống thiêng liêng, gia đình, tương quan với tha nhân, công việc làm và các anh chị em yếu đuối.           

Đây là những lời nhắn nhủ ngài đưa ra trong buổi tiếp kiến khoảng 2 ngàn nhân viên cấp thừa hành của Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican trưa ngày 22-12-2014, sau buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo của các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolo 6 trong buổi cũng có con cái và gia đình của các nhân viên. ĐTC nói: ”Trước tiên anh chị em cần chăm sóc đời sống thiêng liêng, quan hệ với Thiên Chúa, vì ”đây là cột sống của tất cả những gì chúng ta làm, và toàn thể cuộc sống của chúng ta. Một Kitô hữu không nuôi dưỡng mình bằng kinh nguyện, các bí tích và Lời Chúa, thì chắc chắn sẽ suy nhược và khô cằn”.  

Tiếp đến cần chăm sóc đời sống gia đình, không phải chỉ dành tiền bạc cho con cái và những người thân yêu, nhưng nhất là dành thời gian, sự quan tâm và tình yêu thương. ĐTC nhấn mạnh rằng ”gia đình là một kho tàng quí giá, con cái là kho tàng. Một câu hỏi mà các cha mẹ trẻ có thể đặt ra cho mình: ”Tôi có thời giờ để chơi với con cái tôi hay không, hay là tôi luôn bận rộn, không có giờ cho con cái của tôi?”.

Thứ ba là chăm sóc quan hệ với người khác, ”biến đức tin trong cuộc sống và lời nói thành những việc lành, nhất là đối với những người túng thiếu nhất”. Cần chăm sóc lời nói, ”thanh tẩy miệng lưỡi mình khỏi những lời xúc phạm, những lời phàm tục, sa đọa”. ”Chữa trị những vết thương tâm hồn bằng dầu tha thứ, tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta và chữa lành những vết thương chúng ta đã gây ra cho người khác”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican hãy chăm sóc công việc làm, chu toàn với tất cả sự hăng say, lòng khiêm và khả năng chuyên môn, với tâm hồn biết ơn Thiên Chúa. Tiếp đến cần chữa trị tính ghen tương, tham lam, ghen ghét, những tâm tình tiêu cực hủy hoại an bình nội tâm khiến chúng ta thành những người bị hủy hoại và tạo nên sự hủy hoại cho người khác”.    

ĐTC kêu gọi các nhân viên hãy chữa trị sự oán hận đưa chúng ta đến sự trả thù, sự lười biếng khiến chúng ta làm cho cuộc sống tàn lụi, thái độ chỉ tay chỉ trích đưa chúng ta đến sự kiêu hãnh, thái lộ luôn than phiền đưa chúng ta đến tuyệt vọng. ĐTC nói:      

”Tôi biết nhiều khi để bảo vệ công ăn việc làm, người ta nói xấu người khác, để tự vệ. Tôi hiểu những tình trạng ấy, nhưng con đường này không đưa tới điều tốt lành, rốt cuộc tất cả chúng ta đều bị tổn hại”.          

ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy chăm sóc những anh chị em yếu đuối. Ngài nói: ”Tôi đã thấy bao nhiêu gương tốt lành nơi anh chị em. Tôi khen ngợi và cám ơn anh chị em. Nghĩa là chăm sóc ngừơi già, người bệnh, người đói, những người vô gia cư và những người ngoại kiều, vì vào cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử về đức bác ái”.  

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh chăm sóc lễ Giáng Sinh, để lễ này không bao giờ trở thành dịp để tiêu thụ thương mại, chỉ có vẻ bề ngoài, hoặc là dịp mua sắm những món quà vô ích, dịp để phung phí, nhưng là lễ an vui, đón nhận Chúa trong máng cỏ và trong tâm hồn” (RG 22-12-2014)
G. Trần Đức Anh, OP
Nguồn: vi.radiovaticana.va

TRANG QUỚI CHỨC

AI LÀ ANH CHỊ EM TÔI

Một hôm, khi Chúa GIÊSU đang giảng dạy cho đám đông dân chúng, hôm đó Đức Mẹ đi tìm Ngài nhưng vì đông quá nên không đến gần Chúa được, có người thấy vậy nên chuyển tin đến Chúa GIÊSU, tình cờ có một người hàng xóm của Chúa đi xe vụt qua tình cờ nghe được câu của Chúa Giêsu nói: Ai là Mẹ Ta, ai là anh chị em Ta ? Vì xe đi nhanh quá nên không còn nghe sau đó CHÚA GIÊSU nói gì nữa. Thế mà mấy hôm sau người đó đến gặp Đức Mẹ nói rằng: Con bà mất trí rồi, không còn biết mẹ mình là ai nữa, nó là con một mà lại hỏi coi có ai là anh chị em mình không?!!!!

Dĩ nhiên đây chỉ là câu chuyện tếu lâm thôi, nhưng cũng có những chuyện để chúng ta suy nghĩ đó chứ.

Có ai dám nhận mình là anh, chị em của Chúa Giêsu không? Chắc chắn là không rồi. Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền nhận chúng ta là anh chị em của Người mà thôi và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền chọn người làm Mẹ của Con Một của Ngài. Trong Đức Giêsu chúng ta được làm con Thiên Chúa bởi vì chính từ miệng Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy gọi Thiên Chúa là Cha, trong thánh lễ chúng ta nghe linh mục chủ tế khởi xướng rằng: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng: Lạy Cha chúng con ở trên trời….

Thế nhưng, Chúa nhận chúng ta làm con là một lẽ, Người cho chúng ta cái danh nhưng chúng ta có thật sự là Con của Người hay không lại là chuyện khác. Chỉ khi nào chúng ta chu toàn bổn phận của mình, lúc đó chúng ta mới thật sự là con. Bổn phận của chúng ta để được làm con là gì? Đơn giản, chỉ làm như Đức Giêsu dạy, là trở nên bạn hữu, là anh em của Chúa Giêsu là được. Mà làm sao để là anh chị em của Chúa Giêsu ? “Ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa là Mẹ và anh chị em của Thầy”. Lời Chúa ở đâu ? Trong kinh thánh, năm quyển đầu được người Do Thái coi như Luật sống, rồi được tóm gọn trong mười điều răn và Chúa Giêsu lại tóm lại bằng một giới răn duy nhất đó là YÊU.

Khi chúng ta biết Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương mọi người như chính mình thì chúng ta là con của Chúa, là em của Chúa Giêsu, anh là em của Chúa Giêsu, chị là em của Chúa Giêsu, tôi là em của Chúa Giêsu…vậy chúng ta là anh em với nhau ! Như vậy dù chúng ta không cùng máu huyết nhưng trong tình yêu của Thiên Chúa chúng ta trở thành anh chị em của nhau vì thế những gì đối nghịch với tình yêu thì không có lý do để tồn tại trong cộng đoàn này

Trong một họ đạo, dù lớn hay nhỏ, chúng ta cùng một niềm tin, cùng tôn thờ một Chúa, cùng thực thi một mệnh lệnh của Chúa Giêsu: Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau; thế mà trong cộng đoàn chúng ta có sự chia rẽ, ganh tị, oán hận…thì người chưa phải là Kitô hữu sẽ nghĩ gì ? Làm sao Chúa Giêsu có thêm được những người anh chị em mới bởi vì họ sẽ nghĩ rằng: anh em họ còn xử với nhau như thế, người dưng nước lã thì thế nào ?

Hãy sống sao để xứng đáng là anh, chị em của Chúa Giêsu và nhờ cách sống đó của chúng ta Chúa Giêsu lại có thêm những người anh chị em mới.

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Giáo Hội Có Chấp Nhận Hôn Nhân Đồng Tính Hay Không?

Hỏi: Dư luận báo chí cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công nhận hôn nhân đồng tính và bỏ luật độc thân cho các linh mục được kết hôn. Xin cha cho biết tin đồn đó có đúng không ?

Trả lời:

Là người Công giáo sống trong Giáo Hội, chúng ta không được nghe và tin những gì Giáo Hội không chính thức loan báo hay dạy bảo. Tin đồn bên ngoài Giáo Hội thì có nhiều nhưng đó chỉ là những tin đồn vô căn cứ (groundless rumors) mà thôi.

Thật vậy, từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô lên ngôi Giáo Hoàng cho đến nay, báo chí Tây phương đã phóng đại nhiều tin giật gân, cụ thể như nội dung câu hỏi trên đây, khiến gây hoang mang cho người tín hữu Công giáo.

Hội Nghị các Giám Mục (synod of bishops) về Gia đình mới đây tại Rôma, tuy chưa kết thúc bằng một quyết định chung cuộc nào , nhưng chắc chắn đã không đề nghị lên Đức Thánh Cha một thay đổi nào về mục đích của hôn nhân vốn đã được thi hành từ bao thế kỷ nay. Nghĩa là các giám mục sẽ không đề nghị những gì trái ngược với giáo lý , tín lý của Hội Thánh về bí tích hôn phối ,mà chỉ đưa ra những đề nghị nhằm tái xác định lại hay làm sáng tỏ thêm giáo huấn của Giáo Hội về định chế hôn nhân giữa một người nam và một người nữ để Đức Thánh Cha duyệt xét hầu đi đến chung cuộc trong lần Hội Nghị kế tiếp vào tháng 10 năm 2015. Như thế, chúng ta chưa thể kết luận gì về Hội Nghị các Giám mục thế giới vừa qua về gia đình.

Tuy nhiên, chắc chắn Giáo Hội sẽ không thay đổi gì về mục đích của bí tích hôn phối đã được duy trì từ bao thế kỷ nay, dựa trên giáo lý căn bản của chính Chúa Giêsu như ta đọc thấy trong cácTin Mừng Thánh Matthêu và Mác Cô sau đây :

“ … Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.Và cả hai sẽ thành một xương một thit. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19: 4-6; Mc 10 : 6-8)

Giáo lý hiện hành của Giáo Hội cũng dạy rằng:

“ Giao ước Hôn nhân, nhờ đó một người nam và một người nữ làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời, tự bản chất nó hướng tới lợi ích của những người phối ngẫu cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã lãnh nhận phép rửa tội.” (x. SGLGHCG số 1601)

Giáo luật của Giáo Hội cũng qui định rõ như sau :

“ Do giao ước hôn phối, người nam và người nữ tạo nên với nhau một cuộc thông hiệp trọn cả cuộc sống. Tự bản tính, giao ước hôn phối hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn phối giữa người đã chịu phép rửa tội lên hàng Bí Tích.”( giáo luật số 1055& 1)

Như thế, tuyệt đối không có giáo lý hay giáo luật nào cho phép hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) giữa hai người nam hay hai người nữ mà một số quốc gia –trong đó có Hoa Kỳ- đang cho phép loại hôn nhân này.Đâylà một sự suy thoái trầm trọng về luân lý và mục đích của hôn nhân, một định chế đã có từ lâu trong xã hội con người thuộc mọi nền văn hóa.Định chế đó chỉ nhìn nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mà thôi.

Nhưng nay vì đạo đức suy đồi , hậu quả của trào lưu tục hóa ( vulgarism) đang bành trướng ở khắp nơi, mà người ta muốn định nghĩa lại hôn nhân để công nhận “ hôn nhân giữa hai người đồng tính” (homosexual, lesbian), một đổ vỡ to lớn về mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng nên con người có nam có nữ và truyền cho họ “ phải sinh sôi nảy nở cho thật nhiều và thống trị mặt đất,” (St 1: 28)

Trung thành với giáo lý của Chúa, chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ thay đổi định chế hôn nhân để bảo vệ mục đích của gia đình, một giáo hội tại gia (domestic church) và cũng là hình ảnh của Gia Đình trên Trời nơi Chúa là Cha Chung của mọi con cái đã được cứu độ và đoàn tụ quanh Người trong niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu.

Liên quan đến những người “ đồng tính” Giáo Hội không kỳ thị và loại bỏ họ trong mục đích hiệp thông tôn thờ Thiên Chúa và tuyên xưng đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu. Nhưng chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận hôn nhân đồng tính giữa hai người nam hoặc hai người nữ như một số quốc gia đang làm vì áp lực chính trị để chiều theo thị hiếu của những người đồng tính muốn hợp thức hóa hôn nhân của họ.Làm như thế, họ đang phá đổ mục đich của hôn nhân và tước bỏ quyền có cha , mẹ , có ông bà nội ngoại của con cháu. Lại nữa, họ cũng tạo gương xấu (scandal) cho giới trẻ khi thấy hai người nam hoặc hai người nữ công khai sống chung với nhau như vợ chồng.

Về mặt tinh thần, những người đồng tính có thể đến nhà thờ cầu nguyện chung với mọi tín hữu, nhưng không thể lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và hòa giải được vì lối sồng của họ (sống chung như vợ chồng) không được Giáo Hội nhìn nhận như những cặp vợ chồng đã thành hôn qua bí tích hôn phối. Và ngay cả những cặp vợ chồng đã kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội, nhưng nay đã ly dị ngoài tòa dân sự mà chưa được tòa án hôn phối của giáo phận tháo gỡ hôn phối cũ mà lại sống chung với người khác như vợ chồng, thì cũng tạm thời không được lãnh nhận hai bí tích trên.

Tóm lại, dù Giáo Hội chưa chính thức lên tiếng về vấn đề hôn nhân của người đồng tính , nhưng chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ định nghĩa lại hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, vì đây là một định chế thiêng liêng ( sacred institution) mà Thiên Chúa đã thiết lập từ khi có con người trên mặt đất và đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích như đã nói ở trên.

2- Về câu hỏi liên thứ hai quan đến vấn đề độc thân của hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo, xin được trả lời như sau:

Kỷ luật độc thân (celibacy) của hàng giáo sĩ và tu sĩ trong Giáo Hội Công Giáo La mã không phải là vần đề tín lý hay giáo lý, mà chỉ là luật của Giáo hội đặt ra vì mục đích thánh hóa và hy sinh của hàng giáo sĩ (Giám mục, linh mục) và tu sĩ mà thôi. Kỷ luật này mới có từ thế kỷ thứ 11 cho đến nay vì mục đích hy sinh , “sống khiết tịnh (chaste) vì Nước Trời” như Chúa Giêsu đã phán dạy ( Mt 19: 11-12)

Do đó, chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ không thay đổi hay bỏ luật này như có một số người đã vội suy đoán sai lầm.

Tuy nhiên, cũng phải nói thêm là chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã mới có kỷ luật này, trong khi ở các Giáo hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) thì kỷ luật này chỉ áp dụng cho hàng Giám mục mà thôi; trong khi các linh mục có thể chọn lựa hoặc kết hôn hay không trước khi lãnh chức linh mục. Nếu đã chọn không kết hôn khi còn là phó tế, thì sẽ không được kết hôn sau khi là linh mục. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần nói thêm là: các linh mục Anh Giáo (Anglican Communion) và mục sư Tin Lành đều kết hôn. Vì thế ,sau khi họ trở lại với Công Giáo và được thụ phong linh mục thì họ được quyền tiếp tục sống với vợ con như cũ. Nhưng nếu sau đó vợ chết, thì không được tái kết hôn nữa..

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Nguồn: conggiaovietnam.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

TÔI XIN CHỌN NGƯỜI (KỲ 4):
SỐNG TINH THẦN TRÁCH NHIỆM

Các bạn thân mến, sau khi ăn trái cấm, A-đam và E-và mới nhận ra mình trần truồng, điều mà trước đó với họ là hoàn toàn tự nhiên và chẳng có gì phải xấu hổ. Một sự xáo trộn đã đảo lộn hoàn toàn những gì tốt đẹp ban đầu mà Thiên Chúa đã dựng nên. Sự trong suốt giữa người với người và với Thiên Chúa ngay từ khởi nguyên nay đã bị che lấp đi. Họ kết lá không chỉ để che thân xác trần truồng mà còn để giấu diếm đi con người thật của chính mình. Để rồi từ đó trở đi, con người mãi lẩn tránh tha nhân, Thiên Chúa và cả chính bản thân mình.

Nghe tiếng Thiên Chúa đến để hàn huyên với con người như Ngài vẫn làm, nên con người chạy trốn. Thấy con người lẩn tránh mình, Thiên Chúa biết rằng họ đã ăn trái mà Ngài cấm. A-đam đã thú nhận với Thiên Chúa là mình đã ăn, nhưng ông nghĩ mình chẳng có lỗi gì vì người đàn bà mà Chúa cho ở với ông đã dụ dỗ ông ăn nên ông mới ăn. Nói như thế, A-đam đã thầm trách Chúa nếu Chúa chỉ dựng nên một mình ông thôi và không có người đàn bà cùng ở với ông, chắc ông đã không sa ngã? Nếu không phải vì quá quí mến vợ mình chắc ông đã không ăn? Và mọi tội lỗi là vì E-và, ông bị oan và vô tội. Chồng không dám nhận phần lỗi và đổ thừa cho vợ. Bà cũng chẳng vừa khi nhanh nhảu chối bay chối biến để đùn đẩy trách nhiệm cho con rắn. Nói thế là bà cũng thầm trách tại Chúa dựng nên con rắn nên nó mới cám dỗ và làm bà sa ngã. Như thế là ông bà chẳng có lỗi gì. Mọi nguồn cơn của thảm kịch này là con rắn xảo quyệt và xấu xa. Trong cơn quẫn bách, chẳng ai có đủ can đảm để nhận phần lỗi về mình, trái cấm ngon lành thì ông bà sẵn sàng thụ hưởng còn lỗi lầm thì cứ mãi đẩy đưa.

Các bạn thân mến,

Thói đổ thừa ngày xưa A-đam và E-và mắc phải vẫn còn đó nơi thời đại của chúng ta. Ắt hẳn các bạn cũng có kinh nghiệm này, mỗi lần chúng ta sa ngã và phạm tội, việc đầu tiên mà chúng ta thường làm là kiếm một ai đó để đổ thừa trách nhiệm. Tại cái này, bởi cái kia, hay do một ai đó nên tôi mới như vậy. Do hoàn cảnh gây áp lực và chi phối, nên tôi mới hành xử tệ hại như thế. Ta vẫn có xu hướng chối tội và chạy tội cho chính mình. Nếu chẳng tìm được hình nhân nào để thế mạng, ta sẽ tìm lý lẽ này, nguyên nhân kia để bào chữa và biện mình cho mình được giảm trách nhiệm. Thử hỏi có mấy người trong số chúng ta can đảm nhận trách nhiệm về mình mà không chút bào chữa hay biện minh. Thậm chí, có những bạn đổ lỗi cho Chúa vì Ngài cấm đoán bằng những giới răn nên khi các bạn làm ngược lại thì mắc lỗi. Nếu chẳng có các giới răn và Đấng cấm đoán thì các bạn chẳng có tội lỗi gì. Con người ngày nay có xu hướng vơ vét quyền lợi cho chính mình còn trách nhiệm khó và hậu quả xấu thì đẩy cho người khác.

Trở lại câu chuyện của E-và và A-đam, việc chối tội để chạy án chỉ phản ánh một sự thật rằng họ không dám đối diện với con người thật của mình. A-đam chỉ thấy cái rác trong mắt E-và mà không nhìn thấy cái xà trong con ngươi của chính mình. Không chấp nhận mình đã sa ngã vì yếu đuối nên họ cũng khước từ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ. Nếu ông bà nguyên tổ biết nhìn nhận sai lỗi của mình và tự tìm đến Thiên Chúa để thú nhận và xin tha thứ, chắc chắn Thiên Chúa sẽ ôm chầm lấy họ như người cha nhân hậu đối xử với đứa con hoang đoàng. Chính bởi hoài nghi lòng thương xót của Thiên Chúa trước, trong và ngay sau sa ngã nên họ chỉ kiếm cớ để chối tội chứ một mực chẳng nài xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa không kết án nhưng chính họ đã tuyên án cho chính mình. Họ không tin Thiên Chúa sẽ tha thứ cho mình nên họ đã cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa. Phê rô ngày xưa, dù đã chối Thầy những ba lần, nhưng cũng kịp biết hối cải bằng những giọt nước mắt ăn năn. Người thu thuế tội lỗi cùng lên đền thờ với người Phari sêu, ông đã được thương xót vì cả gan dám đấm ngực nhận mình là đại tội nhân. Chúa luôn cho con người cơ hội để hối cải nhưng liệu con người có biết mở ra để đón nhận không? Nhận trách nhiệm về mình, đấm ngực mình để nhận lỗi chứ không đấm ngực tha nhân để chối bay chối biến mới là dấu chỉ tỏ lộ lòng hoán cải.

Các bạn thân mến, mỗi lần bắt đầu tham dự thánh lễ, ta thường đấm ngực ăn năn với lời kinh Cáo Mình để nhìn nhận tội lỗi và thiếu xót. Nhưng cử chỉ bên ngoài có thực sự diễn tả tâm tình sám hối và ăn năn bên trong không? Thiên Chúa chỉ thương xót và tha thứ khi ta can đảm nhìn nhận sai lầm của chính mình. Sai lầm là chuyện thường tình của kiếp người nhưng dám thừa nhận mình sai để sửa mới thực sự là chín chắn và trưởng thành. Sai lầm nhưng biết phục thiện thì đáng thương nhưng phủi tay sạch trơn khỏi trách nhiệm và đổ thừa thật là đáng trách. Các bạn muốn là người đáng thương hay đáng trách?

Jos. Nguyễn Huy Mai, SJ
Nguồn: vietvatican.net

THẦN HỌC KINH THÁNH

BA LỜI CẦU NGUYỆN CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊSU

Các lời cầu của Chúa Giêsu trước khi chết trên thập giá mời gọi chúng ta biết sống yêu thương nhân từ luôn luôn tha thứ cho những người hãm hại chúng ta, cầu nguyện cho họ, và xác tín rằng ngay cả trong những thử thách khó khăn và đau khổ lớn nhất chúng ta cũng sẽ không bao giờ rơi ra ngoài đôi tay của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với hơn 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư hàng tuần hôm 15-2-2012 trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ba lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi tắt thở trên thập giá, theo trình thuật của thánh sử Luca. Lời cầu nguyện thứ nhất và thứ ba hướng tới Thiên Chúa Cha, lời cầu thứ hai là lời hứa với người kẻ trộm hối lỗi.

Chúa Giêsu nói lên lời cầu nguyện đầu tiên ngay sau khi bị đóng đanh, lúc quân lính chia nhau áo của Người như phần thưởng công việc buồn thảm của họ. Thánh sử Luca viết: “Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm” (Lc 23,33-34). Đức Thánh Cha nói:

Lời cầu nguyện đầu tiên mà Chúa Giêsu thưa lên với Thiên Chúa Cha là lời bầu cử: xin ơn tha thứ cho các kẻ giết mình. Qua đó Chúa Giêsu chu toàn điều Người đã dạy trong Bài giảng Trên Núi, khi nói: “Thầy nói với các con là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Lc 6,27); và Người đã hứa cho những ai biết tha thứ như sau: “phần thưởng của các con sẽ lớn lao, và các con sẽ là con Đấng Tối Cao” (c. 35). Giờ đây, Người không chỉ tha thứ cho các kẻ giết mình, mà còn hướng thẳng về Thiên Chúa Cha và bầu cử cho họ nữa.

Thái độ này của Chúa Giêsu tìm thấy sự noi gương cảm động trong trình thuật ném đá thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên sắp chết: “Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi ông an nghỉ (Cv 7,60). Đó đã là câu nói cuối cùng của thánh nhân. Thật ý nghĩa khi so sánh hai lời cầu nguyện. Thánh Stêphanô hướng tới Chúa Phục Sinh và xin Chúa đừng quy tội giết người của họ. Chúa Giêsu trên thánh giá hướng về Thiên Chúa Cha, không chỉ xin ơn tha thứ cho các kẻ đóng đinh Người, mà còn bào chữa cho họ nữa. Người lấy sự “không hiểu biết” của họ làm lý do để xin Chúa Cha tha tội cho họ, bởi vì sự không hiểu biết đó rộng mở cho con đường hoán cải, như xảy ra với lời của viên quan bách quản nói về cái chết của Chúa: “Người này đích thực là người công chính” (c.47), là Con Thiên Chúa. “Còn lại một sự an ủi cho tất cả mọi thời và cho tất cả mọi người là đối với các kẻ giết Chúa, những người thật sự không hiểu biết, cũng như những người hiểu biết và đã kết án Người, Chúa Giêsu lấy sự không hiểu biết như là lý do lời cầu xin ơn tha thứ, coi nó như cánh cửa có thể mở ra cho sự hoán cải” (Đức Giêsu thành Nagiarét. II, 233).

Lời nói thứ hai của Chúa Giêsu trên thập giá, được thánh sử Luca ghi lại, là một lời hy vọng, đáp trả lời cầu xin của một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh với Người. Trước Chúa Giêsu, người ăn trộm lành trở về với chính mình và hối lỗi, anh nhận thấy mình đang ở trước Con Thiên Chúa, Đấng khiến cho Gương mặt của chính Thiên Chúa trở thành hữu hình, và anh cầu nguyện: “Ông Giêsu ơi, xin nhớ tới tôi khi Ông vào vào Nước của Ông” (c. 42). Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt xa hơn điều anh ta xin; thật thế, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (c. 43). Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chúa Giêsu ý thức rằng Người trực tiếp bước vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha và tái mở ra cho con người con đường vào Thiên Đàng của Thiên Chúa. Như vậy qua câu trả lời này, Người trao ban niềm hy vọng chắc chắn rằng lòng lành của Thiên Chúa có thể đụng chạm tới chúng ta trong giây phút sau hết của cuộc đời; và lời cầu nguyện chân thành, cả sau một đời lầm lỗi, cũng gặp vòng tay rộng mở của Thiên Chúa Cha từ nhân đón chờ đứa con đi hoang trở về.

Thánh Luca viết tiếp trong trình thuật: “Bấy giờ đã tới giờ thứ sáu. Thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (cc.44-46). Trình thuật có vài điểm khác với trình thuật của hai thánh sử Marcô và Mátthêu. Thánh Marcô không miêu tả ba giờ tối tăm, trong khi thánh Mátthêu gắn liền chúng với một loạt các biến cố khải huyền như động đất, mồ mả mở ra, người chết sống lại (x. Mt 27,51-53). Trong trình thuật của thánh sử Luca các giờ tối tăm là do nhật thực, nhưng trong lúc đó bức màn che trong Đền Thờ cũng bị xé rách. Trình thuật giới thiệu hai dấu chỉ song song trên trời và trong Đền Thờ. Trời mất đi ánh sáng, đất sụp xuống, trong khi trong Đền Thờ là nơi hiện diện của Thiên Chúa, màn che cung thánh bị rách. Đức Thánh Cha nói:

Cái chết của Chúa Giêsu có đặc thái tỏ tường như một biến cố vũ hoàn và phụng tự; đặc biệt nó ghi dấu sự khởi đầu của một phụng tự mới, trong một đền thờ không do tay người phàm làm ra, bởi vì chính Thân Xác của Chúa Giêsu chết và phục sinh quy tụ các dân tộc và hiệp nhất họ trong Bí tích của Mình và Máu Người.

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong lúc khổ đau ấy: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” là một tiếng kêu mạnh mẽ của sự tín thác tột cùng và hoàn toàn cho Thiên Chúa Cha. Lời cầu nguyện đó diễn tả ý thức tràn đầy không bị bỏ rơi. Tiếng “Cha” nhắc nhớ lời tuyên bố đầu tiên của thiếu niên Giêsu khi lên 12 tuổi. Khi đó Người ở lại trong Đền Thờ Giêrusalem, mà bức màn giờ đây bị xé, và đã trả lời cha mẹ rằng: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49).

Từ đầu cho tới cuối điều xác định hoàn toàn sự cảm nhận, lời nói việc làm của Chúa Giêsu, là tương quan duy nhất với Thiên Chúa Cha. Trên thập giá Người sống một cách tràn đầy trong tình yêu, tương quan con thảo đó với Thiên Chúa Cha, là Đấng linh hoạt lời cầu nguyện của Người.

Các lời Chúa Giêsu nói sau tiếng kêu lạy Cha đó lấy lại lời Thánh Vịnh 31: “Con xin phó thác hồn con trong tay Chúa” (Tv 31,6). Tuy nhiên, chúng không chỉ đơn thuần là lời trích, mà diễn tả một quyết định vững chắc: Chúa Giêsu “tự trao mình” cho Thiên Chúa Cha trong một cử chỉ hoàn toàn tín thác. Các lời này là một lời cầu nguyện “tín thác”, tràn đầy tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa. Lời cầu của Chúa Giêsu trước cái chết thê thảm như đối với tất cả mọi người, nhưng đồng thời nó cũng thấm nhuần sự thanh thản sâu xa, nảy sinh từ niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa Cha và từ ý chí trao mình hoàn toàn cho Người. Trong vườn Giệtsêmani khi Chúa Giêsu bước vào cuộc chiến cuối cùng và lời cầu nguyện sâu đậm; và khi “sắp bị giao vào tay con người” (Lc 9,44, mồ hôi Người trở thành “như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Nhưng trái tim Người hoàn toàn vâng phục ý muốn của Thiên Chúa Cha, và vì thế “một thiên thần từ trời” đến để an ủi Người (x. Lc 22,42-43). Giờ đây trong những giây phút cuối cùng này, Đức Giêsu hướng tới Thiên Chúa Cha và nói lên đây là bàn tay trong đó Người thực sự trao thác toàn cuộc sống của Người.

Trước khi lên Giêrusalem Chúa Giêsu đã nhấn mạnh với các môn đệ: “Hãy lắng tai nghe kỹ các lời sau đây: Con người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc 9,44). Giờ đây sự sống đang bỏ Người. Người đóng ấn trong lời cầu nguyện quyết định cuối cùng của Người: Chúa Giêsu để cho mình bị trao vào tay người đời, nhưng chính trong tay Thiên Chúa Cha mà Người trao phó linh hồn Người. Như vậy như thánh Gioan khẳng định tất cả đã hoàn tất, cử chỉ tột cùng của tình yêu thương đã được đem đi cho tới cùng, cho tới ranh giới và vượt qua ranh giới nữa.

Và Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, các lời của Chúa Giêsu trên thập giá trong các giây phút cuối cùng cuộc sống của Người trên trần gian này cống hiến cho chúng ta nhiều chỉ dẫn dấn thân trong lời cầu nguyện, nhưng cũng mở ra cho sự tin tưởng thanh thản và niềm hy vọng vững vàng. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người hãm hại chúng ta bằng cách luôn luôn tha thứ để ánh sáng của Thiên Chúa có thể soi sáng con tim họ. Nghĩa là Chúa mời gọi chúng ta sống thái độ thương xót yêu mến trong lời cầu của chúng ta như Chúa yêu mến và thương xót chúng ta. Người thông truyền cho chúng ta xác tín rằng cho dù có gặp các thử thách khó khăn cam go và khổ đau nặng nề tới đâu đi nữa, chúng ta sẽ không bao giờ rơi ra ngoài bàn tay của Thiên Chúa đã tạo dựng, nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trên con đường cuộc sống, vì chúng ta được hướng dẫn bởi một tình yêu vô biên và trung tín.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau đặc biệt là Hiệp hội gia đình đông con Italia. Ngài cầu mong có các thăng tiến xã hội và pháp luật để bảo vệ và trợ giúp các gia đìinh đông con, là một kho tàng phong phú và là niềm hy vọng cho toàn quốc gia. Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
Nguồn: vietvatican

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

Đôi Dòng Suy Tư

Cuộc sống có nhiều giá trị khiến con người phải nghĩ suy cân nhắc và sau cùng phải chọn lựa để từ đó rút ra một “giá trị sống” hữu ích cho đời mình. Đồng thời, mình cũng phải biết phát huy để “giá trị sống” ấy ngày càng được triển nở hơn trong cuộc đời ta.

Có lẽ điều làm cho rất nhiều người bận tâm trong cuộc sống, đó chính là cơm ăn áo mặc, sức khỏe, v.v... chung quy là những gì liên hệ trực tiếp đến sự sống thể lý của con người. Chính vì thế, đôi khi nó xâm chiếm gần trọn thời gian của mình và còn cuốn ta vào vòng xoáy vô tận của nó, khiến ta không còn thời giờ để nghĩ suy về những giá trị tinh thần để ta theo đuổi.hoặc để nhìn lại bản thân mình.

Lúc nhỏ, khi chưa là sinh viên, tôi không nghĩ nhiều về vấn đề “bố thí” cho người nghèo, những người ăn xin. Với nếp suy nghĩ đơn sơ của lứa tuổi mới lớn, tôi “cho” vì thấy họ đáng thương, tội nghiệp. Đến thời sinh viên của ngành công tác xã hội, lúc bấy giờ một câu hỏi lớn được đặt ra cho tôi: “Tôi làm Công Tác Xã Hội hay tôi làm Bác Ái?”.

Sống ở thành phố có dịp giao tiếp, gặp gỡ nhiều người, cùng với môn học của ngành đã làm thay đổi cách suy nghĩ của tôi lúc nhỏ khá nhiều. Tôi dần nhận thức được rằng việc mình “bố thí” chỉ vì “tội nghiệp” là không đúng. Có thể đúng khi nó chỉ là động lực ban đầu thúc đẩy để mình “cho”. như họ Vì dường như họ không bao giờ nghĩ mình phải cố gắng, phải vượt lên “số phận” mình. Tôi thật buồn khi nhận ra rằng: việc mình giúp họ không thật sự giúp họ được là bao mà đôi khi còn làm cho họ có ý nghĩ ỷ lại! Từ đó trở đi tôi rất ít giúp đỡ, nếu không muốn nói là quyết tâm không giúp, những trường hợp đại loại như thế.

Trong lần Hành hương kính viếng Đức Mẹ Tà Pao vừa qua, cả nhóm chúng tôi cùng cầu nguyện suốt đêm trên núi dưới chân Mẹ, sáng ra nhóm đi xuống nhà thờ tham dự Thánh lễ. Trên đường đi, tôi nhận thấy hai bên đường có rất nhiều cụ già và trẻ em đang ngồi xin tiền. Có lẽ họ đã ngồi đó suốt cả đêm với câu: “Cô ơi! Chú ơi! Làm ơn cho xin…”. Câu ấy cứ lập đi lập lại như một điệp khúc của một bản nhạc. Ngay trong khoảnh khắc đó, lòng tôi lạnh lẽo với quyết tâm là sẽ không để lòng mình bị xiêu lạc.

Lễ xong, đoàn chuẩn bị quay về thành phố. Bỗng trên đường ra xe, tôi chợt thấy một bà cụ vận trên mình bộ quần áo thật cũ kỹ, nhầu nát, khuôn mặt hằn lên đầy những nếp nhăn dấu ấn của thời gian năm tháng hòa với nước da sạm nắng tiến về phía chúng tôi. Tôi nhận thấy, trên khuôn mặt khắc khổ ấy có cả sự nhẫn nại, tia hy vọng lẫn một nỗi u hoài sâu lắng! Trong ánh mắt bà muốn nói: “các cháu này ăn mặc lịch sự dễ thương, chắc tốt bụng lắm, hy vọng các cháu sẽ thương cụ già khốn khổ này”. Với niềm hy vọng đó, không nói lời nào, bà chìa chiếc nón lá rách cho các bạn tôi, nhưng thật đáng tiếc bà không nhận được sự giúp đỡ nào. Trước mắt các bạn ấy dường như bà cụ ăn xin nầy không hề hiện hữu!

Thấy cụ lòng tôi đau xót! Tâm trí tôi đã phải đấu tranh thật nhiều. Tôi quyết không để mình thua khi phải thay đổi “quyết tâm” trước kia. Sau cùng, tôi cùng với nhóm, chúng tôi lên xe trở về thành phố nhưng hình ảnh cụ ăn xin đáng thương ấy vẫn cứ lãng vãn trong tâm trí tôi. Xem ra tôi đã thắng khi vẫn giữ được quyết tâm của mình, nhưng xét về phương diện nào đó thì tôi đã thua, vì trong chính thâm tâm tôi nó đã khiển trách tôi: “tại sao bạn không giúp đỡ bà lão ấy!”.

Kể từ lúc ấy, tôi suy nghĩ, suy nghĩ rất nhiều về điều mình đã “quyết tâm” trước đây. Liệu những “quyết tâm” ấy đúng hay sai? Tôi có quá cứng nhắc khi để lòng mình không còn biết thương cảm trước những hoàn cảnh tương tự như vậy? Bao câu hỏi hiện lên trong tôi. Tuy tôi không có dịp giúp đỡ bà trực tiếp nhưng tôi sẽ nỗ lực giúp cho những anh chị em đồng loại của chúng ta qua công việc tôi đang đảm nhận là phục vụ những người có H. Tôi sẽ thực hiện công việc nầy với cả cái TÂM chớ không mang tính hình thức hay với ý nghĩ “bố thí” như trước đây.

Dẫu biết “một con én không làn nên mùa xuân”, nhưng có thể con én cũng báo hiệu cho ta biết có mùa xuân đang về. Công việc của tôi không nhằm xoa dịu nỗi đau theo kiểu “bố thí” mà là cố gắng giúp họ hiểu được rằng trong nỗi cô đơn, nghèo đói, bệnh tật mà họ đang đối diện vẫn còn có nhiều người cùng đồng hành, quan tâm và chia sẻ với họ.

Suy nghĩ như thế lòng tôi thấy nhẹ nhàng, phấn khởi và mở cho tôi một Năm mới với hy vọng công việc phục vụ nầy sẽ mang lại nhều hiệu quả thiết thực hơn.

Caritas Vĩnh Long

CHÚT TÂM TÌNH

TU CŨNG THẾ

Một ngày nọ, anh em đang cùng nhau bàn tán về vườn nhãn ở trong khuôn viên Đại Chủng Viện, thì có một anh thắc mắc: “Sao sao những năm gần đây nó ít trái quá nhỉ?” Anh khác trả lời: “Có lẽ, nó già quá rồi”. Anh khác nữa nói đùa: “Chắc là nó cũng đi tu như chúng ta.” Thế là tất cả anh em đều phá lên cười. Vừa khi ấy, chú làm vườn nghe được và chú cho biết rằng những cây nhãn này trước đây nhờ được chăm sóc chu đáo như phân bón, tưới tiêu và đặc biệt được tỉa cành nữa, nên chúng ra rất nhiều trái. Chú còn cho biết thêm: “Có năm, chúng ra trái nhiều đến nỗi ăn không hết, mà còn dư đem đi biếu cho các nhà dòng nữ nữa .” Chợt một suy nghĩ thoáng qua trong tôi và tôi tự hỏi: “Phải chăng tu cũng thế?” Nghĩa là cũng như cây nhãn, tôi được cha mẹ sinh thành và dưỡng dục, được thầy cô dạy cho kiến thức, được các cha các thầy hướng dẫn và uốn nắn về đời sống nhân bản, đặc biệt là đời sống tâm linh, đồng thời cũng được anh em góp ý xây dựng để tôi lớn lên và trưởng thành, hầu có thể phục vụ cho mọi người.

Câu chuyện về cây nhãn khiến tôi cứ suy nghĩ về đời sống tu trì ở trong Đại Chủng Viện tĩnh lặng và thân thương này. Ở đây, tôi phải tu học mọi điều, trong đó, điểm cốt yếu là đời sống tâm linh – tập kết hợp sâu sát với Thiên Chúa, để rồi tôi có thể kín múc được nhiều ơn sủng, nhất là đức mến. Mến Chúa và yêu thương anh em. Từ đó, tôi thấy được niềm vui trong mọi công việc và trong tình huynh đệ. Thiết nghĩ, mình có thể được biến đổi và trưởng thành là để góp vui cho đời, để phục vụ mọi người và sống với anh em. Đó mới là niềm vui thực sự và tròn đầy ý nghĩa của đời tu. Tuy nhiên, việc tiến bước trên con đường tu trì không dễ chút nào, bởi một mặt là “cái tôi” của mình còn quá lớn và quá xù xì, mặt khác còn nhiều cái tôi của anh em sống với mình nữa. Trong những cái tôi ấy chứa đầy nào là tham, sân, si, chứa đầy tính sĩ diện, tự ái, kiêu căng, nóng giận,... tất cả như những cành nhãn không có trái, hoặc có chỉ toàn trái sâu và toàn lá sâu, trông rất khó chịu. Mà quả thực, ai trong chúng ta cũng còn cái tôi to đùng và đầy ứ những thứ hỗn độn như thế.

Thật vậy, có những lúc tôi thấy mình sao mà độc đoán, ích kỷ, thô lỗ thế,... Tôi độc đoán, nên tôi thường xét đoán, nghi kỵ và không tin tưởng và tín nhiệm anh em. Tôi ích kỷ, nên tôi không chịu chia sẻ và giúp đỡ anh em, để rồi cảm thông và nâng đỡ nhau trong mọi tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Tôi thô lỗ và cộc cằn, nên tôi thường cư xử thiếu tế nhị, làm cho anh em buồn phiền và đau khổ, đôi khi còn làm cho cả cộng đoàn xáo trộn. Có lúc, tôi vô tình hay hữu ý nói ra những lời làm tổn thương anh em, dồn anh em vào đường cùng và sau đó đẩy bật anh em ra khỏi cộng đoàn. Hay nói cách khác, thay vì xây dựng, chữa lành, cứu vớt, thì mình lại “tiêu diệt anh em”. Nguyên nhân là cái tôi cái tôi của tôi quá lớn, điều này cần được cắt tỉa, bởi vì chúng ta đang cùng nhau bước đi trên một con đường và trong một đại gia đình Chủng Viện, nơi đây, chúng ta được ở bên nhau, sống với nhau, cùng nhau và vì nhau. Do đó, lúc nào tôi còn sống, thì còn phải tu, vì xưa có câu: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Như vậy, tôi phải tu học cho đến khi xuống lỗ mới thôi. Trên chặng đường dài như thế, việc tu tập đòi hỏi chúng ta cố gắng liên tục, hy sinh liên tục và bị cắt tỉa “những thứ lăng nhăng nó hại ta”. Tuy nhiên, khi bị cắt tỉa thì đau đớn lắm, rát lắm và nhức nhối lắm, nhưng phải chấp nhận thôi – có vậy cây mới có trái. Tu là thế.

Thật vậy, khi sống trong cộng đoàn, chúng ta luôn được anh em cắt tỉa những thứ lởm chởm và xù xì của cái tôi, vì nó cứ mọc ra những cành ngang ngược cùng với nhiều lá sâu khó chịu và ra nhiều quả dở khó nuốt,... Khi được cắt tỉa, hẳn là ai trong chúng ta cũng cảm thấy rát lắm, đau lắm và nhức nhối lắm. Nhưng có như thế, chúng ta mới đâm chồi nẩy lộc xanh tươi mơn mởn đầy sức sống và điều quan trọng là sinh ra nhiều hoa quả ngọt ngào trong cuộc sống. Thiết nghĩ, anh em chúng ta đang sống với nhau lâu dài, gần gũi và cọ xát còn nhiều, nên chúng ta hãy sửa đổi cho nhau cách chân thành, cắt tỉa những cành xấu và lá sâu cho nhau, để mỗi ngày chúng ta thăng tiến hơn trên bước đường theo Chúa Giê-su.

Một chút suy nghĩ đơn sơ về đời sống tu trì qua hình ảnh những cây nhãn không trái như thế, tôi ước mong mỗi anh em trong chúng ta đều là những cây nhãn khỏe mạnh và tràn đầy sức sống đem lại nét đẹp cho người cho đời, với những cành nhãn đầy lá xanh tươi mơn mởn và trĩu quả ngon ngọt. Như chúng ta đã biết, muốn đạt tới vinh quang, thì phải trải qua chặng đường khổ giá, nên chúng ta phải biết chấp nhận được cắt tỉa, biết chịu rát và chịu nhức nhối trong nỗi đau ngọt ngào.

TIN NỔI BẬT

Đức TGM Phê rô Nguyễn Văn Nhơn được chọn làm Hồng Y

VATICAN. ĐTC Phanxicô tuyên bố bổ nhiệm 15 Hồng Y mới vào ngày 14-2-2015, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM giáo phận Hà Nội.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 4-1-2015 với hàng chục ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Như đã loan báo, ngày 14-2 tới đây tôi sẽ vui mừng nhóm Công nghị Hồng Y, trong đó tôi sẽ bổ nhiệm 15 Hồng Y mới, đến từ 14 quốc gia thuộc mọi đại lục, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Giáo hội Roma và các Giáo Hội địa phương trên thế giới.

Chúa nhật 15-2, tôi sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể với các Hồng Y mới, trước đó ngày 12 và 13-2, tôi sẽ nhóm Công nghị với tất cả các Hồng Y để suy tư về những hướng đi và đề nghị cải tổ giáo triều Roma.

Sau đây là các Hồng Y mới:

1. Đức Cha Dominique Mamberti, người Pháp, TGM hiệu tòa Sagona, Chủ tịch Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, (63 tuổi, 1952)

2. Đức Cha Manuel José Macário do Nascimento Clemente, Thượng Phụ thành Lisboa, thủ đô Bồ đào nha (67 tuổi, 1949)

3. Đức Cha Berhaneyesus Demerew Souraphiel, CM, TGM Addis Abeba, Etiopia, (67 tuổi, 1948)

4. Đức Cha John Atcherley Dew, TGM giáo phận Wellington, thủ đô New Zealand (67 tuổi, 1948)

5. Đức Cha Edoardo Menichelli, TGM giáo phận Ancona-Osimo, Italia (76 tuổi, 1939)

6. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội, Việt Nam, 77 tuổi (1938)

7. Đức Cha Alberto Suárez Inda, TGM Morelia, Mêhico, (76 tuổi, 1939)

8. Đức Cha Charles Maung Bo, SDB, TGM giáo phận Yangon, Myanmar, (67 tuổi, 1948)

9. Đức Cha Francis Xavier Kiengsak Kovithananji, TGM Bangkok, Thái Lan, 66 tuổi (1949)

10. Đức Cha Francesco Montenegro, TGM Agrigento, Italia, (69 tuổi, 1946)

11. Đức Cha Daniel Fernando Sturla Berhouet, SDB, TGM Montevideo, Uruguay, (56 tuổi, 1959)

12. Đức Cha Ricardo Blázquez Pérez, TGM Valladolid, Tây Ban Nha, (73 tuổi, 1942)

13. Đức Cha José Luis Lacunza Maestrojuán, OAR, GM giáo phận David, Panamá (71 tuổi, 1944)

14. Đức Cha Arlindo Gomes Furtado, TGM Santiago de Cabo Verde, Quần Đảo Capo Verde, (66 tuổi, 1949)

15. Đức Cha Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga, (Quần đảo Tonga) (54 tuổi, 1961).

Ngoài ra, tôi cũng liên kết với Hồng Y đoàn 5 vị TGM và GM về hưu đã nỏi bật về đức bác ái mục tử trong việc phục vụ Tòa Thánh và Giáo Hội. Các vị đại diện cho bao nhiêu Giám Mục, cũng với lòng nhiệt thành mục tử đã nêu chứng tá tình yêu đối với Chúa Kitô và Dân Chúa tại các Giáo Hội địa phương, cũng như tại Giáo Triều Roma, hoặc trong ngành ngoại giao Tòa Thánh.

Đó là các vị:

16. Đức Cha José de Jesus Pimiento Rodríguez, nguyên TGM giáo phận Manizales (Colombia) (96 tuổi, 1919)

17. Đức Cha Luigi De Magistris, TGM hiệu tòa Giubalziana, nguyên là quyền chánh tòa ân giải tối cao (89 tuổi, 1926)

18. Đức Cha Karl-Joseph Rauber, TGM hiệu tòa Tucumán, nguyên là Sứ Thần Tòa Thánh (81 tuổi, 1934)

19. Đức Cha Luis Héctor Villalba, nguyên TGM Tucumán, Argentina (81 tuổi, 1934)

20. Đức Cha Júlio Duarte Langa, nguyên GM giáo phận Xai-Xai (Mozambique) (88 tuổi, 1927)

”Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tân Hồng Y, để, khi canh tân tình yêu đối với Chúa Kitô, các vị là chứng nhân về Tin Mừng của Chúa tại thành Roma và trên thế giới, và với kinh nghiệm mục tử, các vị nâng đỡ tôi khẩn trương hơn trong việc phục vụ Tông Đồ của tôi”.

Đức Hồng Y tân cử Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sinh ngày 1-4-1938 tại Đà Lạt, thụ phong linh mục ngày 21-12-1967, được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991, và trở thành GM chính tòa ngày 23-3-1994. Ngày 22-4-2010 ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội, và ngày 13-5-2010 ngày thăng TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

Trong số 20 Hồng y tân cử, vị trẻ nhất là Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga 54 tuổi. Giáo phận ”khỉ ho cò gáy” của ngài trong Thái Bình Dương là một quần đảo rộng 103 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 13.300 tín hữu Công Giáo với 14 giáo xứ, 29 LM giáo phận và 9 LM dòng, 40 nữ tu, 15 tu huynh và 9 chủng sinh.

Vị cao niên nhất trong số các tiến chức Hồng Y là José de Jesus Pimiento Rodríguez Manizales, 96 tuổi (1919) cai quản tổng giáo phận Manizales (Colombia) từ 1975 đến khi về hưu năm 1996.

Việc bổ nhiệm Hồng y lần trước cũng như lần này cho thấy chủ trương của ĐTC Phanxicô giảm bớt số Hồng y tại giáo triều Roma và không nhất thiết theo truyền thống bổ nhiệm Hồng Y cho các giáo phận lớn. Ngài cũng bổ nhiệm Hồng Y cho các nước chưa hề có Hồng Y, hoặc những giáo phận nhỏ bé.

G. Trần Đức Anh OP
Nguồn: vi.radiovaticana.va

 

739    19-01-2015 19:48:02