Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Nguyệt san tháng 02/2015: Giáo Xứ, Cộng Đoàn Hiệp Thông Để Truyền Giáo

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Diễn Giải
  3. Lời Nguyện Chung
  4. Áp Dụng Thực Hành
  5. Tìm Hiểu Giáo Luật
  6. Trang Linh Mục
  7. Trang Tu Sĩ
  8. Trang Sống Ơn Gọi
  9. Trang Thiếu Nhi
  10. Trang Giới Trẻ
  11. Trang Gia Đình
  12. Trang Giáo Lý Viên
  13. Trang Quới Chức
  14. Sống Đẹp
  15. Hỏi Đáp Mục Vụ
  16. Chuyện Thường Ngày
  17. Thần Học Kinh Thánh
  18. Một Chút Tâm Tình

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25. 01. 2015

Kính gửi: Quý Cha               
               Quý Tu sĩ nam nữ
               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v TẾT ẤT MÙI

Tết đến, mùa xuân đến, người người đều muốn ăn Tết, hưởng Tết. Tại sao vậy?

Người ta thường nói “sau cơn mưa, trời lại sáng”. Những đau khổ sẽ qua đi, nhường cho những ngày tươi sáng hạnh phúc. Những gì sợ hãi sẽ bị vượt qua; những gì bất tiện sẽ nhường bước cho những gì thích hợp với con người, với thời điểm, với phong tục của ta.

Đàng khác, Chúa là Đấng tạo thành trời đất và con người, Người là Đấng Thánhh , hoàn hảo, là Đấng làm ra những gì tốt lành cho con người, ích lợi cho phần rỗi linh hồn người ta; cứ xem những thành tựu khoa học, những tiến bộ trong việc hiểu biết và phục vụ cho con người. Chúa là Đấng cứu độ, từ con người sa ngã, phạm tội tổ tông và tội mình làm, phải đau khổ, Chúa đã chọn Abraham, diễn tả tình thương của Chúa, tình thương trung thành lo cho con người.

Rồi Chúa lại chọn dân Do Thái để tiếp nối lịch sử ơn cứu độ, cho Ngôi Hai giáng trần, chịu chết trên thánh giá, để mời gọi con người ăn năn sám hối tội lỗi, bắt chước Chúa Giêsu mà thương yêu Chúa, hiếu thảo với Chúa Cha.

Như vậy, chúng ta vui mừng hưởng Tết và ăn Tết trong tâm tình con thảo biết tạ ơn Chúa và đáp lại tình thương của Chúa.

Lm. Phêrô Dương Văn Thạnh
               Giám Quản GP. Vĩnh Long

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

GIÁO XỨ: CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO

Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Giáo xứ là Gia đình của Thiên Chúa bao gồm các gia đình là hội thánh tại gia và truyền giáo. Nếu gia đình có sứ mệnh gìn giữ, biểu lộ, và thông truyền tình yêu Thiên Chúa, và từ đó phản chiếu cách sống động cũng như tham dự một cách huyền nhiệm vào tình yêu thần linh đó, thì giáo xứ (và rộng hơn là giáo phận) mang sứ mệnh cùng độ sâu ấy (thậm chí còn sâu hơn), cao và rộng hơn, trên cả bốn khía cạnh : duy nhất, thánh thiện, công giáo, và đặc biệt là, tông truyền.

1. Hiệp thông: một tên gọi khác của Yêu thương

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

- Đức Giêsu đã làm mẫu gương cho tình yêu ấy biểu lộ đặc biệt qua hành động Người rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Ăn sau cùng, và qua cái Chết trên Thập giá như hành động hiến tế tự nguyện của Tình yêu cứu chuộc. Tình yêu tự hủy mình ra không (nihil) để kẻ được yêu hiện hữu, tức trở thành có (esse). Tham dự vào Tình yêu phong nhiêu ấy bằng cách sống tinh thần khiêm nhu, chia sẻ huynh đệ đến mức chia sẻ chính sự sống mình, thể hiện ở đỉnh cao là hành động phụng tự của Bữa Tiệc Vượt Qua hay Lễ Bẻ Bánh, chính là cử hành và sống mầu nhiệm Hiệp thông. Hiệp thông chính là tên gọi của Tình yêu, một Tình yêu tự hiến tác sinh nên sự sống mới. Bởi thế, Hiệp thông đã là truyền giáo.

- Trong cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem, các môn đệ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).

Hiệp thông trước hết là trong đức tin, đức tin của Hội thánh được đón nhận từ các Tông Đồ, là kho tàng của sự sống. Nhờ các bí tích, như các mối dây thánh thiêng, các tín hữu được kết hiệp với Đức Kitô và với nhau, đặc biệt là bí tích Rửa tội là cửa đón mọi người vào Hội thánh. Hiệp thông trong dân Thánh là hiệp thông nhờ các bí tích. Bí tích nào cũng tạo sự Hiệp thông, vì kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa, nhưng bí tích Thánh Thể đưa ta vào sự hiệp thông trọn vẹn. Trong sự hiệp thông của Hội thánh, Chúa Thánh Thần “ban phát các ân sủng đặc biệt cho các tín hữu thuộc mọi bậc sống” để xây dựng Hội thánh. “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1Cr 12,7).

“Đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32). Kitô hữu thật sự coi tất cả những gì mình có như là của chung của mọi người, luôn mau mắn sẵn sàng làm nhẹ bớt gánh nặng cuộc sống của những kẻ khốn cùng. Họ là những người quản lý tài sản của Chúa (x. Lc 16,1-3).

2. Giáo xứ là Cộng đoàn sống mầu nhiệm hiệp thông

- Như thế, đời sống trong Cộng đoàn hội thánh tại địa phương, mà đỉnh cao là Cộng đoàn Thánh Thể, là biểu hiện sự Hiệp thông với Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, mang tính bí tích đó. Biểu hiện bí tích đó nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ơn Thông Hiệp, mà thành hiện thực cho cộng đoàn cử hành. Hiện thực Tình yêu đó vừa là hiệu quả của ân sủng vừa là do sự tham dự tự do của tín hữu. Hoa quả của ân sủng và lòng tin đó thể hiện qua thái độ sống thường nhật trong cộng đoàn giữa các thành viên và với người khác: đó là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật; [...] tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

- Đời sống gia đình Kitô hữu đã là đời sống cộng đoàn hướng tới hiệp thông. Bàn ăn là nơi cả nhà vui vẻ sum vầy ăn chung trong thanh bình đầm ấm; và bàn thờ là nơi cả nhà cầu nguyện chung tạo nên giờ phút hồi tâm sau một ngày, hay một tuần, một tháng. Thế nhưng, giáo xứ mới là nơi các tín hữu có thể tập họp quanh Bàn tiệc Thánh Thể, là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cứu độ của Chúa Kitô, cho trẻ nhỏ và cho cha mẹ chúng, và là nơi thuận tiện cho việc thực thi bác ái, từ thiện và huynh đệ. Như vậy, đời sống cộng đoàn giáo xứ hướng tới sự hiệp thông sâu hơn, cao hơn, rộng lớn hơn trong cộng đoàn nhỏ gia đình.

- “Ngoài ra, giáo xứ còn là cộng đoàn “luôn luôn hiệp thông với nhau”, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự hiệp thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân”.

3. Giáo xứ là Cộng đoàn hiệp thông để truyền giáo

- Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định. [...] Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”.

- Mỗi Giáo hội địa phương phải được xây dựng trên những chứng từ của sự hiệp thông hội thánh, đó vốn là điều làm nên chính bản chất của Giáo hội. Giáo phận và giáo xứ là một sự Hiệp thông của các cộng đoàn, tập hợp xung quanh Vị Mục Tử, trong đó các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân “đối thoại trong cuộc sống và bằng con tim” được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính trong giáo phận sự hiệp thông của các cộng đoàn này được thực hiện trước hết ngay giữa lòng các thực tại xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và văn hóa. Sự hiệp thông hội thánh đó hàm nghĩa mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành một “Giáo hội tham gia” (partipatory Church), có nghĩa là, một Giáo hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi riêng của mình và thực hiện vai trò riêng của mình. Để xây dựng sự “hiệp thông vì sứ vụ” và thực hiện “sứ vụ của hiệp thông”, đặc sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy, và sử dụng cách hiệu quả. Cách riêng, cần để cho các giáo dân và tu sĩ tham gia sâu xa hơn nữa trong việc lên kế hoạch mục vụ và ra quyết định, thông qua các cơ chế tham gia như là Hội đồng Mục vụ hay các Công hội Giáo xứ.

Câu hỏi thảo luận

1. Hiện tình của Giáo xứ của anh chị em có những điểm nào cần đổi mới để trở thành một cộng đoàn giáo hội hiệp thông và tham gia?

2. Anh chị em có ý thức thường xuyên nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong gia đình, trong giáo xứ, cộng đoàn nhỏ của mình không? Các mục tử nên làm gì giúp dân Chúa sống ý thức truyền giáo này?

3. Giáo xứ (và các gia đình) của anh chị em đã và đang làm gì trong quan hệ đối thoại liên tôn, đối thoại với người không tin, đối thoại trong văn hóa, với người nghèo trong định hướng Loan báo Tin mừng?
 

1. Tertullian, Giáo phụ thế kỉ thứ II/III, nói: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống làm trổ sinh các Kitô hữu” (Apologeticus).

2. X. Lumen gentium, 12.

3. GLHTCG, 949, 950, 951.

4. GLHTCG, 952.

5. X. GLHTCG, 2179; 2226.

6. HĐGMVN, Thư Mục vụ 2014, số 4.

7. X. Evangelii Gaudium, 28.

8. ĐGH Gioan Phaolô II, TH. Ecclesia in Asia (06 / 11 / 1999) (EA), 25.

Nguồn: ubmvgiadinh.org

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Giáo xứ là Hội Thánh địa phương được Chúa Giêsu quy tụ, nên Giáo Xứ có sứ vụ như Hội Thánh hoàn vũ: Hiệp thông để truyền giáo. Chúng ta là thành phần của giáo xứ phải thi hành sứ vụ mình. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.      Chúa phán: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi thành phần Hội Thánh luôn hiệp thông với nhau, yêu thương nhau và giúp nhau hoàn thành sứ vụ truyền giáo.

2.      Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn dùng phương cách riêng mình mà loan báo Tin Mừng cho mọi người.

3.      Chúa phán: “Lạy Cha, con xin cho chúng nên một như Cha và Con là một”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn hiệp nhất hiệp thông với nhau, và giúp nhau loan truyền tình yêu Chúa cho mọi người.

4.      Chúa phán: “Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài lưới người”. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, hân hoan và sốt sắng sống đạo để thông báo cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được cứu rỗi. Xin cho chúng con được tràn đầy ơn Thánh Thần, luôn hiệp nhất hiệp thông trong Chúa, góp phần vào sứ vụ truyền giáo, làm cho mọi người được nên con Chúa. Chúngcon cầu…Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Để Họ Đạo Trở Thành Cộng Đoàn Truyền Giáo

Truyền giáo là ơn gọi và là bổn phận chính yếu của Giáo Hội, của mọi cộng đoàn Kitô hữu cũng như của chính mỗi Kitô hữu. Vì bắt nguồn sâu xa từ bản tính của Giáo Hội, truyền giáo chính là sứ vụ và trách nhiệm chia sẻ ơn Đức tin mà Giáo Hội đã nhận từ Đức Kitô cho tất cả mọi người

Trong bất cứ thời đại nào, công cuộc truyền giáo đòi hỏi sự kết hợp khăng khít giữa đời sống của cộng đoàn Kitô hữu cũng như của người rao giảng với chính lời rao giảng. Không những thế, các hoạt động truyền giáo còn phải liên kết chặt chẽ với những vấn đề thiết yếu của con người thời đại: công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống

Mặc dù truyền giáo là sứ mạng chung của tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, tuy nhiên, trách nhiệm này cũng được trao cách đặc biệt cho từng thành phần trong Giáo Hội, có thể là linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân, để trong tính đặc thù của mỗi bậc sống, mỗi thành phần Kitô hữu đều có bổn phận chia sẻ và thực thi trách vụ truyền giáo của Giáo Hội tùy theo địa vị và hoàn cảnh của mình.      
 
Đối với các cộng đoàn họ đạo, để trở nên một thực thể truyền giáo sinh động và hữu hiệu, mọi thành viên trong cộng đoàn đều được kêu mời nối kết và hiệp thông với nhau thành một gia đình trong tình liên đới siêu nhiên và trong đời sống bác ái yêu thương sống động. Để qua và nhờ dấu chứng của một cộng đoàn yêu thương phục vụ, họ đạo trở thành dấu chỉ Nước Trời cho những lương dân sống chung quanh, vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).           
 
Để xây dựng một họ đạo trở nên một cộng đoàn truyền giáo, chúng ta cần lưu ý đến những hoàn cảnh đặc thù của từng họ đạo tại mỗi vùng miền khác nhau

Quả thế, khi người Công giáo sống thành làng, xóm tách biệt với lương dân thì sẽ dễ trở nên khép kín, co cụm và tách biệt, xa lạ với bên ngoài. Vì thế, nếu một họ đạo hay một làng có đạo sống biệt lập thì sẽ dễ bị cô lập, trở nên như ốc đảo, và điều này không những tác động tiêu cực đến công tác truyền giáo mà còn gây ra những bất lợi khác đối với đời sống giáo dân như: y tế yếu kém, giao thông không thuận lợi, giáo dục ít được đầu tư… Tình trạng biệt lập cũng dễ làm cho giáo dân bộc lộ óc địa phương hẹp hòi, dễ làm cho các lương dân e dè, tránh xa, vì thế làm cho cả hai bên ít có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với nhau.     
 
Tính truyền thống của họ đạo cũng dễ trở thành một trong những ngáng trở đối với công tác truyền giáo. Nhiều họ đạo và đa số giáo dân quá tự hào về lịch sử hình thành lâu đời và tính đạo gốc của mình, vì thế những dự tòng và tân tòng dường như cảm thấy xa lạ và có lúc bị kỳ thị khi họ gia nhập vào cộng đoàn họ đạo. Hơn nữa, do lịch sử để lại, ngày nay giữa những người Công giáo với những người không Công giáo vẫn còn những thành kiến và cách biệt khó có thể vượt qua trong một sớm một chiều.

Trong chiều hướng thuận lợi cho việc truyền giáo, đa số giáo dân đều có lòng trung thành cao với Đức tin và với Giáo Hội. Họ luôn sẵn sàng và rộng rãi hi sinh tinh thần và vật chất cho các nhu cầu Giáo Hội; họ cũng rất gắn bó và nhiệt thành giúp đỡ giới linh mục và tu sĩ. Đặc biệt, họ luôn nhiệt thành và quảng đại đón nhận mọi giáo huấn của Giáo Hội qua việc vâng phục và thực thi các lời giảng dạy của các mục tử.
 
Một trong những yếu tố thuận lợi nữa cho việc truyền giáo của các giáo xứ, đặc biệt của các họ đạo ở nông thôn, là đa số lương dân sống lân cận đều chưa theo một tôn giáo chính thức nào. Trong đời sống thực tế, phần lớn những người lương đều hướng về và thực hành một hình thức tôn giáo nào đó như việc thờ kính ông bà tổ tiên, thờ các vị thần Thành Hoàng hay thờ các vị anh hùng dân tộc… Đó chắc chắn là những yếu tố thuận lợi cho việc truyền giáo, nếu các họ đạo cũng như mỗi Kitô hữu có ý thức và quyết tâm thực hành sứ vụ của mình.

Sắc lệnh truyền giáo của Công đồng Vatican II đặc biệt nhấn mạnh đến việc truyền giáo không phải chỉ kết thúc ở việc thiết lập cộng đoàn Giáo Hội địa phương, nhưng phải được tiếp tục cho đến khi mọi người trong địa phương đó trở nên Kitô hữu. Để thi hành lệnh truyền đó, họ đạo phải được tổ chức sao cho mọi giáo dân biết ý thức và sống ơn gọi truyền giáo của mình.       
 
Mọi tín hữu đều có bổn phận chia sẻ trách vụ truyền giáo của Giáo Hội tùy theo địa vị và hoàn cảnh của mình. Cha xứ phải là người chủ động và tích cực huấn luyện mọi giáo dân cách chung và cách riêng cho các hội đoàn tông đồ trong giáo xứ ý thức về trách nhiệm dấn thân thực hành truyền giáo trong môi trường và điều kiện đặc thù của họ. Chính cha xứ là người “phải xây dựng cộng đoàn tín hữu sao cho họ biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình, để họ có thể thi hành những chức vụ đã được Chúa trao phó cho họ, nhờ đó, cộng đoàn Kitô hữu trở thành dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian.”            
 
Trong thực tế, người giáo dân có rất nhiều cơ hội và trực tiếp hơn so với các linh mục và tu sĩ, trong việc làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Những chứng tá qua đời sống của các Kitô hữu và những việc lành họ thực thi đối với những người họ gặp gỡ, đặc biệt đối với các lương dân sẽ có sức lôi kéo mạnh mẽ người ta đến với Thiên Chúa.
 
Mọi người trong họ đạo cần chủ động và can đảm đấu tranh phá bỏ, vượt qua những cách biệt và kỳ thị lương – giáo. Các Kitô hữu trong đời sống và công việc thường nhật của mình, họ nên chủ động thiết lập mối dây liên đới với các lương dân, kết bạn với họ theo phạm vi cá nhân hay gia đình, để với thời gian dài tiếp xúc, người lương có thể được thuyết phục bởi đời sống chứng tá của các cá nhân và gia đình Kitô hữu, đặc biệt qua những lúc và trong những hoàn cảnh đặc biệt của cuộc sống mà đời người phải trải qua như hiếu hỷ, bệnh tật, già cả, cô đơn…, bởi trong chính những thời điểm đó người ta mới dễ mở lòng ra đón nhận ơn Đức tin. Chính Đức Kitô, “Đấng đã nhờ việc nhập thể đã liên kết mình với những hoàn cảnh nhất định về xã hội và văn hóa của những người Chúa cùng chung sống” để qua đó mạc khải cho họ biết Người là Con Thiên Chúa.        

Người giáo dân cần luôn ý thức qua cung cách thực thi các công việc trần thế của mình, người lương dân có thể nhận ra tình yêu của Đức Kitô. Cùng với giáo dân, cha sở cần có thao thức và huấn luyện làm sao để “giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình nhằm rao giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này làm chứng tỏ tường về Đức Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại.”       
 
Giáo dân cần được huấn luyện về bổn phận và trách nhiệm của họ trong môi trường xã hội, văn hóa và kinh tế của địa phương họ sinh sống, để trong môi trường đó, người giáo dân có thể làm chứng về Đức Kitô cho những đồng nghiệp, đồng hương và đồng cảnh ngộ với mình. Nếu người giáo dân có một đời sống lương thiện và Kitô giáo đáng phục, biểu hiện qua các liên hệ thông thường của đời sống và nghề nghiệp, thì với căn tính Kitô của mình, họ đã làm chứng và rao giảng về Chúa Kitô cách hùng hồn rồi.
 
Trong hoàn cảnh xã hội – chính trị hiện nay, hình thức tông đồ bằng chứng tá cá nhân cần được chú trọng, bởi trong nhiều tình huống, chỉ có từng cá nhân Kitô hữu mới có thể thâm nhập và âm thầm làm chứng bằng chính đời sống Kitô của mình.

Cuối cùng, để công cuộc truyền giáo của một họ đạo có thực chất và đem lại hiệu quả, mọi thành viên trong cộng đoàn cần phải kết hợp và không thể tách rời giữa việc rao giảng và sống lời rao giảng.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG GIÁO HỘI (TT)

1. Đời Sống Thánh Hiến là gì?

a/ Khái niệm “thánh hiến” (tháng 01/2015)

b/. Đời sống thánh hiến là gi?

Từ những khái niệm thần học về đời sống thánh hiến của Công đồng Vat.II (GH. 43-44), trong phần III, quyển II của Bộ Giáo Luật 1983, điều 573  đưa ra một định nghĩa về đời sống thánh hiến như sau:

Đời sống thánh hiến qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm là một lối sống bền vững, nhờ đó, các tín hữu theo sát Đức Kitô hơn, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự, để một khi đã hiến thân cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc xây dựng Giáo Hội và phần rỗi thế giới, với một danh nghĩa mới mẽ và đặc biệt, họ đạt tới sự hoàn hảo của đức ái trong việc phụng sự Nước Chúa, và một khi đã trở nên dấu chỉ rực rỡ trong Giáo hội, họ tuyên báo vinh quang thiên quốc (573§1).

Các Kitô hữu được tự do đảm nhận lối sống ấy trong các tu hội thánh hiến đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo hội thiết lập theo giáo luật, bằng những lời khấn hoặc bằng những mối ràng buộc thánh khác theo luật riêng của tu hội, họ tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, và họ được kết hợp cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội nhờ đức ái mà các lời khuyên này dẫn tới (573§2).

Như vậy, chúng ta có thể tạm rút ra một định nghĩa cho dể hiểu hơn về đời sống thánh hiến là:

Đời sống thánh hiến là đời sống hiến dâng đời mình cho Chúa trong bậc sống tu trì.

- Đời sống nầy đặt nền tảng trong việc tuyên khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm: khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục (đ.573§1), hoặc những mối ràng buộc thánh khác (có chứa đựng ba lời khuyên Phúc âm) theo luật riêng của tu hội (573§2).

- Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, họ sẽ quyết tâm sống một đời sống bền vững (ổn định, không thay đổi), hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa là Đấng mình yêu mến trên hết mọi sự, nhằm xây dựng nhiệm thể của Chúa Kitô (Giáo hội) và cứu rỗi con người, đồng thời là những chứng nhân của cuộc sống nước trời mai sau.

c/. Bậc tu trì là sống thánh hiến?

Khi nói đời tu (bậc tu trì) là sống đời thánh hiến có lẽ làm cho nhiều người chúng ta khó hiểu, tại sao đời sống tu lại là đời thánh hiến?

Ý tưởng nầy chúng ta đã nói sơ qua trong phần khái niệm của cụm từ “thánh hiến” rồi. Nghĩa là người đi tu dâng hiến hay là tận hiến cuộc đời mình cho Chúa, nên gọi người tu là người sống đời thánh hiến. Điều nầy nhằm ở hai phương diện: 

1/. Phương diện con người: người đi tu là tự hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa Cha, bước theo và bắt chước Chúa Giêsu, trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

2/. Phương diện thánh thiêng: Thiên Chúa tách riêng con người đó và thánh hiến họ (xin xem phần khái niệm).

d/. Tóm lại:

Từ “thánh hiến” trong tiếng Việt gợi lên cho chúng ta ý tưởng hiến dâng (phương diện con người), thì trong Kinh thánh, tiếng “consecratio” nêu lên những ý tưởng cao cả và thiêng thánh hơn:

            1/. chính Thiên Chúa chủ động, Ngài tách biệt ra một người nào đó cho mình “trước khi con lọt lòng mẹ, Ta đã consecrare con, Ta đã đặt con làm ngôn sứ cho dân thánh” (Gr 1,5; Hc 45,4);

            2/. sự dành riêng ấy biểu lộ sự tuyển chọn do tình yêu ưu ái của Ngài, và mang theo một sự biến đổi nội tại của con người: tình yêu của Thiên Chúa thông đạt sự thánh thiện của Ngài cho con người (Ga 10,36; 17,17-19);

            3/. sự dành riêng và tuyển chọn ấy không giới hạn vào ích lợi riêng tư của người được chọn, nhưng còn kèm theo một sứ mạng nhằm phục vụ kế hoạch tình thương của Chúa đối với nhân loại nữa.

2. Những hình thức sống đời tận hiến trong Giáo hội

TRANG LINH MỤC

Đức Thánh Cha Tông Du Philippines: Ngày Thứ Nhất

CN, 18/01/2015. Lúc 11g15 Đức Thánh Cha đến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội (Nhà thờ chính toà Manila) để cử hành Thánh Lễ với các giám mục, linh mục và tu sĩ.

Trong bài giảng Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã dùng chính lời Chúa Giêsu nói với Phêrô “Con có yêu mến Thầy không? ... Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy” (Ga 21,15-17), để nói chuyện với các giám mục, linh mục, chủng sinh và các tu sĩ: “Những lời ấy nhắc nhở chúng ta về một điều chính yếu. Mọi sứ vụ mục tử đều xuất phát từ tình yêu. Mọi đời sống thánh hiến đều là dấu chỉ của tình yêu hoà giải của Chúa Kitô. Ơn gọi của chúng ta rất đa dạng, nhưng cũng như Thánh Têrêsa, mỗi người chúng ta đều được mời gọi, một cách nào đó, trở thành tình yêu trong trái tim của Hội Thánh”.

Đức Thánh Cha gửi lời chào và tình cảm quý mến của ngài đến tất cả những người già và đau yếu, và tất cả những ai không thể tham dự thánh lễ này. Ngài nói: “Đang khi Giáo hội tại Philippines hướng đến kỷ niệm năm trăm năm được Phúc Âm hoá, chúng ta cảm thấy lòng biết ơn đối với di sản của rất nhiều giám mục, linh mục và tu sĩ của các thế hệ trước đây. Các ngài lao nhọc không chỉ để rao giảng Phúc Âm và xây dựng Giáo hội ở đất nước này, mà còn để xây dựng một xã hội lấy cảm hứng từ sứ điệp bác ái, tha thứ và tình liên đới của Phúc Âm trong việc phục vụ công ích. Ngày nay anh chị em tiếp nối công việc yêu thương ấy. Cũng như các ngài, anh chị em được kêu gọi bắc những cây cầu, chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô, và chuẩn bị những con đường mới cho Phúc Âm tại châu Á vào buổi bình minh của thời đại mới”.

Về sứ vụ của các linh mục và những những ngườii sống đời thánh hiến, Đức Thánh Cha giải thích: “’Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2 Cr 5,14). Trong bài đọc thứ nhất Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng tình yêu mà chúng ta được mời gọi loan báo là một tình yêu hòa giải, tuôn trào từ trái tim của Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh. Chúng ta được kêu gọi làm “những sứ giả của Chúa Kitô” (2 Cr 5,20). Sứ vụ của chúng ta là sứ vụ hòa giải. Chúng ta loan báo Tin Mừng về Tình yêu và lòng từ bi thương xót vô hạn của Thiên Chúa. Chúng ta loan báo niềm vui của Phúc Âm. Vì Phúc Âm là lời hứa của ân sủng của Thiên Chúa, mà chỉ mình nó mới có thể mang lại sự toàn vẹn và chữa lành thế giới đã bị tan vỡ của chúng ta. Nó có thể truyền cảm hứng để xây dựng một trật tự xã hội công bằng thực sự và được cứu chuộc”.

Tiếp theo, Đức Thánh Cha ngỏ lời cách riêng với các linh mục, tu sĩ trẻ và các chủng sinh. Đức Thánh Cha xin họ chia sẻ niềm vui và nhiệt tâm yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội với tất cả mọi người, đặc biệt là với các bạn đồng trang lứa với họ: “Hãy hiện diện với những người trẻ đang băn khoăn và thất vọng nhưng vẫn còn xem Giáo hội như một người bạn của mình trên cuộc hành trình và như nguồn hy vọng. Hãy hiện diện với những ai đang sống giữa một xã hội bị đè nặng bởi nghèo đói và tham nhũng, tâm hồn tan nát, bị cám dỗ đầu hàng, bỏ học và sống trên đường phố. Hãy giới thiệu vẻ đẹp và chân lý của sứ điệp Kitô giáo cho một xã hội đang bị cám dỗ bởi các lối trình bày rối rắm về tình dục, hôn nhân và gia đình. Như anh chị em đã biết, những thực tại này đang ngày càng bị tấn công từ các thế lực mạnh mẽ đe dọa bóp méo kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa và phản bội những giá trị từng truyền cảm hứng và định hình tất cả những gì là tốt đẹp nhất trong văn hóa của anh chị em”.

Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại lời của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ nhất “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để một khi chết trong Người, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa nhưng là sống cho Người” (x 2. Cr 5,15) và dâng lời nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo hội, “đổ tràn lòng nhiệt thành trên các giám mục, linh mục và tu sĩ, để biết họ tiêu hao chính mình mà phục vụ anh chị em cách vô vị lợi”. Đồng thời, “xin cho tình yêu hòa giải của Chúa Kitô ngày càng thấm nhập hoàn toàn vào cơ cấu của xã hội Philippines, và qua anh chị em, đến những nơi xa xôi nhất của thế giới”.

TRANG TU SĨ

MỘT ĐỜI VÌ CHÚA QUÊN MÌNH CHO GIÁO XỨ

Đứng lặng nhìn những đợt cát lấp dần chiếc áo quan màu gỗ tôi vẫn nghe lòng xao xuyến một nỗi mất mát thâm trầm, một bóng cây đại thụ của giáo xứ nay về với Chúa. Gỡ lấy một  nhánh lan trên chiếc vòng hoa đặt xuống mộ phần mới phủ kín tôi thầm thỉ nói với linh hồn người đã khuất:

- Ông ba ơi, xin cầu nguyện cho con nhé, con cũng sẽ luôn nhớ đến ông.

Một cơn gió nhẹ đưa lời chào vĩnh biệt của tôi theo ông về bên trên kia bầu trời, tiếc thương một người đã sống cả cuộc đời vì Chúa vì họ đạo. Mới ba hôm trước tôi còn nói chuyện với Cha Sở về ông:

- Ông Cố ơi, sao hôm nay con không thấy ông ba đi lễ?

- Chắc cụ không khỏe, để đầu giờ chiều cha đến thăm cụ xem thế nào, cụ giờ nhiều bệnh lắm…

- Dạ, thật thương cho ông ba, chẳng có vợ con, giờ lớn tuổi rồi không ai chăm sóc cả.

- Vậy chứ cụ là người có công với họ đạo lắm đó con ơi. Thời Cha sở Gioan còn sống cụ là một trùm biện hết sức năng nổ, thời đó mới tiếp thu đời sống khó khăn biết chừng nào, cha về đây cũng ngót hai chục năm, từ hồi còn làm Thầy được cụ giúp đỡ nhiều điều lắm…cụ có nhiều kinh nghiệm lại sống đạo đức nên ai cũng quý…

- Dạ, mấy lúc con đến thăm, ông ba cũng nói về chuyện đạo nhiều, nghe sâu sắc và thâm thúy như thể ông ba từng đi tu vậy…

- Ừ, coi vậy chứ giáo dân có những người sống thánh thiện lắm, có khi còn hơn người tu mình nữa, cha thấy mình làm linh mục nhưng cũng cần học nhiều điều nơi con chiên bổn đạo, thế mới hay cách Chúa làm việc thật mầu nhiệm…

Đúng thật vậy, những điều tôi được nghe ông ba chia sẻ về giáo lý, về cách đối nhân xử thế thật sự hấp dẫn, tôi là nữ tu mà thấy mình cần phải học hỏi những suy tư và ứng xử đầy khôn ngoan, thánh thiện của ông.  Nghe người ta nói ngày xưa ông ba thương một người con gái, nhưng chưa kịp ngỏ lời thì người thiếu nữ ấy đã đi tu mất, chắc ông ba buồn nên không lấy vợ.

Một lần tôi đến thăm và tặng quà mừng bổn mạng ông, tôi hỏi đùa ông:

- Ông ba, con hỏi cho vui nghe, ngày xưa ông ba buồn người yêu đi tu nên ông ba nghỉ lấy vợ luôn, giờ ở một mình có thấy cô đơn không ông ba?

- Trời đất! chuyện thiên hạ có người ở một mình đâu có lạ gì, mà Bà Phước nghe chi chuyện của tui cho thêm thắc mắc vậy cà?

-  Ý, con xin lỗi, ông ba không thích thì con không dám hỏi …

-  Có gì đâu, thiệt ra thì cũng có thương, rồi sau người ta đi tu, tôi càng mừng và thương nhiều hơn, vì tôi thấy chuyện đó tốt quá chứ!  Tôi đâu có chắc chắn là sẽ làm cho người ta hạnh phúc như Chúa làm cho người ta đâu, nên chọn ai chứ chọn Chúa thì tôi chẳng buồn, chẳng tiếc, người ta dễ thương Chúa chọn, tôi cũng không dành lại làm chi.

-  Chà! Ông ba làm con cảm động quá!

-  Khà! khà!!! Chắc cũng vì tôi thương Chúa nữa.

- Sao ông ba không đi tu luôn, ở vậy không có vợ giờ có ai lo lắng cho ông ba đâu!

- Nói vậy chứ hồi đó cũng vì hoàn cảnh, tôi thấy thương Cha Sở Gioan nên phụ giúp ngài trông coi Nhà Thờ, sau ngài qua đời đến Cha Sở Phêrô, Cha Sở Giuse tôi cũng làm trùm phụ với các ngài chuyện trong giáo xứ.  Thời đó khó khăn biết bao nhiêu! tự nhiên làm việc Chúa rồi thấy phải làm hết mình cho Người, không nhiệt thành không được, nên cũng chẳng có thời gian mà quen biết ai nữa, với lại thánh Phaolô cũng nói đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa mà! Tôi cũng sống Lời Chúa chớ bộ!

Tôi cười vang thích chí và ông ba cũng cười. Giờ người đã khuất, những ai còn sống hôm nay vẫn còn kể cho nhau về ông.  Họ kể chuyện ông đi đào mương với Cha Sở cho những gia đình nghèo nuôi cá, chuyện ông là người luôn luôn mở cửa Nhà Thờ giựt chuông để báo giờ Lễ, chuyện ông cùng với Thầy giúp đi giải hòa thăm viếng, chuyện ông thương lo cho các Dì ở họ … Riêng tôi, tôi chỉ nhớ mãi một dáng hình lụm cụm chống gậy, quấn khăn len sáng sáng và chiều chiều ngồi ở góc trái hàng ghế thứ hai trong nhà thờ – ông ba đó.

Một đời yêu thương không đòi cho được lợi lộc chi để còn lại chỉ là một nấm đất nhỏ. Có lẽ cả cuộc đời ông ba là một hành trình gieo hạt yêu thương và giờ đây chắc ông sẽ gặt những hoa trái yêu thương là tình yêu của Chúa trong cuộc sống Vĩnh hằng. 

Lạy Chúa, Chúa đã đặt đây đó trong đời con những con người giúp con sống tốt hơn ơn gọi của mình, con xin tạ ơn Chúa và xin Chúa ban ơn cho con luôn biết đáp trả tận tâm những ân huệ Chúa ban, hầu hoa trái tốt đẹp được lớn lên trong cuộc sống của con.

MTG Cái Nhum

GƯƠNG LÀNH LÔI KÉO

Từ xa xưa mãi đến hôm nay, trong cuộc sống nầy, khi biết mình sắp từ giả cõi đời, người ta thường trăn trối cái quí giá nhất cho người thân yêu của mình.  Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận con người, Ngài cũng giống như chúng ta.  Trước khi bước vào cái chết, Ngài cũng có lời trăn trối với nhóm môn đồ thân thương của mình: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”(Ga 15,12)  Đây là lời di chúc có giá trị vĩnh cửu, quý hơn bạc vàng châu báu vì bản chất của Ngài là tình thương, Ngài dạy các môn đệ sống yêu thương, vì “Người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau”.  Đạo yêu thương chính là phương cách tốt nhất để hạt giống Tin mừng trổ sinh hoa trái.

Hơn 2000 năm qua, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ban lệnh truyền cho các Tông đồ là:  “Các con hãy đi khắp tứ phương rao giảng Tin mừng cho muôn dân!” (Mc 16,15).  Thực hiện lệnh truyền nầy, Tin mừng đã được gieo rắc khắp nơi, nhưng đến hôm nay, vẫn chưa thu hoạch nhiều hoa trái. Phải chăng sự nhiệt thành rao giảng không chưa đủ, nhưng môi trường đó cần phân cần nước để hạt giống có thể phát triển tốt và trổ sinh bông hạt dồi dào.  Phân, nước để nuôi dưỡng hạt giống lớn lên chính là sự hiêp nhất đầy tình yêu thương.

Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ nhất định.  Đây chính là môi trường qui tụ mọi thành phần dân Chúa và mọi người được mời gọi sống hiệp thông.  Giáo xứ chính là cộng đoàn như một gia đình mà tất cả những thành viên cùng hiệp nhất và yêu thương nhau.  Người ta thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”.  Trong gia đình khi có sự đoàn kết yêu thương, thì gia đạo mới ấm êm, hạnh phúc.  Một cộng đoàn giáo xứ, khi mọi thành phần cùng hiệp thông trong một đức tin, cậy và sống hòa thuận yêu thương thì dễ dàng trở thành tấm gương soi cho lương dân nhận biết Thiên Chúa.  Tình hiệp thông được diễn tả thế nào?

Là một nữ tu được sai đến phục vụ một giáo họ ở vùng sâu.  Nơi đây có nhiều lương dân di cư do thời cuộc. Trong những năm qua, giáo họ nầy có nhiều lương dân đã trở lại với đức tin Công Giáo.  Mỗi khi dạy giáo lý cho người tân tòng, tôi thường hỏi động lực nào khiến họ tin Chúa.  Trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, từng câu trả lời của mỗi đối tượng được ghi nhận.

Một ông cụ khoảng 80 tuổi trả lời:

- Tôi muốn theo đạo Chúa vì thấy người Công Giáo sống đoàn kết.  Thấy họ thường đi lễ, đọc kinh chung với nhau.  Trong xóm có ai chết thì Ông Cha, Dì Phước đến viếng, rồi có đông bà con giáo dân đến đọc kinh nữa.  Tôi thấy ấm cúng quá.

Cô gái tuổi đôi mươi đang học Giáo lý hôn nhân vui vẻ nói:

- Trước đây, gia đình không muốn gả con cho người theo đạo Chúa.  Mấy năm nay, sống gần xóm đạo thì cha mẹ con nói: ít khi nghe người Công giáo văng tục chửi thề, ít thấy họ đánh vợ mắng con hay cảnh vợ chồng ly dị nữa.  Dì ơi!  Mẹ con bây giờ cũng thích đạo Chúa lắm.

Một quả phụ mắc bệnh ung thư trong giai đoạn cuối với giọng yếu ớt cũng trả lời:

- Người đạo Chúa thường giúp đỡ những ai bệnh tật, yếu đau.  Em là người ngoại mà cũng được Ông Cha, Dì Phước đến thăm. Có mấy bà trong xóm cũng ghé qua giúp đỡ, ủi an. Điều nầy làm em cảm động lắm, em chắc Chúa đã thương em nhiều, nên em tin Chúa. 

Giữa một thế giới đầy náo động, xôn xao; người đời ham thích hướng ngoại thì thật khó lắng lòng để nghe lời rao giảng.  Tình hiệp thông, hiệp nhất là điều Giáo Hội luôn tha thiết gọi mời mọi Kitô hữu.  Muốn giới thiệu dung mạo của Đức Kitô, thì mọi thành phần trong giáo xứ cần có sự hiệp thông.  Nhờ sự hiệp thông bằng lời cầu nguyện, sự hy sinh nhất là lòng yêu thương chân thành, sẽ nên phương cách hữu hiệu để Tin Mừng được loan báo giữa lòng xã hội hôm nay, vì “lời nói bay đi, gương lành lôi kéo”.

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

Thiên Chúa Yêu Thương Thế Giới Qua Mỗi Linh Mục Là Người Đảm Nhận Cương Vị Của Chính Chúa Kitô

Chân phước Têrêxa Kolkata nói về chức linh mục

Trong đời sống hằng ngày, mối tương quan của một linh mục trong tác vụ của mình với Ba Ngôi Thiên Chúa là gì ?

– Chúng ta đọc trong Kinh Thánh, Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Ngôi Lời và Ngôi Lời đã trở nên Huyết nhục; và Ngài đã đến và cư ngụ giữa chúng ta và với chúng ta. Và như vậy các linh mục hôm nay là người cũng được gửi đến, để bằng cuộc sống yêu thương, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới hôm nay. Linh mục là dấu chỉ, là ngọn lửa sống động, là ánh nắng của tình yêu Thiên Chúa đối với thế giới; linh mục là ngọn lửa cháy, là niềm hy vọng của hạnh phúc vĩnh cửu. Vì vậy, đối với các linh mục, để được hoàn toàn sử dụng theo ý muốn của Chúa Cha, ngài phải hoàn toàn nên một với Chúa Con, và bày tỏ cùng mang lấy tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của mình, trong thái độ của mình, trong hành động của mình, bởi vì ngày hôm nay Thiên Chúa yêu thương thế giới qua mỗi linh mục là người đảm nhận cương vị của chính Chúa Kitô. Linh mục là một Chúa Kitô khác.

Đối với linh mục Thánh Thể phải là thế nào?

– Chúa Kitô đã ban chính Người làm Bánh Hằng Sống đáp ứng cơn đói khát của chúng ta đối với Tình Yêu của Người, và sau đó Người đã biến mình thành Người Đói Khát mà chúng ta có thể làm Người được no thỏa bằng tình yêu của chúng ta; do đó, trái tim linh mục phải trong sạch để có thể nói (môi miệng nói được khi lòng đã đầy ứ), những lời: “Đây là Mình Thầy” và làm cho bánh hóa nên Chúa Kitô Hằng Sống. Làm thế nào để bàn tay của linh mục được tinh khiết, làm thế nào để bàn tay của vị linh mục hoàn toàn là bàn tay của Chúa Giêsu, để khi nâng cao lên, thì nơi bàn tay linh mục chính là Máu Thánh Chúa Kitô. Khi đến tòa cáo giải, một hối nhân mang đầy tội lỗi, thì khi bước ra khỏi tòa, anh ta là một tội nhân được sạch mọi tội. Làm thế nào để các linh mục hoàn toàn nên một với Chúa Giêsu để cho Chúa Giêsu sử dụng mình ở địa vị của Ngài, trong Danh của Ngài, bày tỏ những lời của Ngài, thực hiện những hành động của Ngài, tẩy trừ những tội lỗi, và làm cho bánh tầm thường hóa nên Bánh Hằng Sống là Mình và Máu của Người. Chỉ trong sự thinh lặng của trái tim mình linh mục mới có thể nghe thấy Lời của Thiên Chúa, và từ sự sung mãn của trái tim mình, linh mục mới có thể thốt lên những lời này: “Tôi tha tội cho bạn” và “Đây là Mình Thầy.”

Đối với linh mục cầu nguyện phải là thế nào?

– Để trung thành với việc cầu nguyện, để có thể cầu nguyện, một linh mục phải biết thinh lặng, bởi Thiên Chúa nói trong sự thinh lặng của trái tim. Cầu nguyện cũng là biết lắng nghe, và học để biết cầu nguyện là điều rất quan trọng đối với linh mục, đó là một trong những điều mà Chúa Giêsu đã cố gắng để dạy các môn đệ của Người. Và cầu nguyện đối với một linh mục là để cho Chúa Giêsu cầu nguyện trong mình và thông qua mình. Vì vậy, linh mục phải sống trong sạch, hoàn toàn để Chúa Kitô sử dụng đến mức Người có thể nên một với Chúa Cha ngay trong trái tim của linh mục, và sử dụng để công bố vinh quang Chúa Cha qua linh mục. Cầu nguyện là lương thực dưỡng nuôi đời linh mục. Một linh mục không cầu nguyện sẽ không thể sống gần Chúa Kitô, không thể để cho Chúa Kitô sử dụng mình theo ý của Người. Hoa quả của cầu nguyện luôn là chiều sâu của đức tin, và các linh mục, nếu không có đức tin sâu sắc sẽ khó lòng cầu nguyện được. Và hoa quả của đức tin luôn luôn là tình yêu. Và nếu một linh mục không có  tình yêu, thì làm sao ngài có thể giúp những người khác yêu thương? Và hoa quả của tình yêu là phục vụ - phục vụ như Chúa Giêsu nói: “Tôi đến giữa các bạn như một người phục vụ.” Và linh mục là người đến sống giữa những người thuộc về mình và trở thành tôi tớ phục vụ mọi người.

Chúa Giêsu hiện diện như thế nào trong người nghèo khi Người nói: “Quả thật ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm điều đó cho một trong những anh em bé mọn nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta”?

– Khi Thánh Phaolô đi tiêu diệt các Kitô hữu tại Damas, ông đã bị quật ngã và nghe có tiếng phán: “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bách hại ta?” Phaolô hỏi: “Ngài là ai?” Và Chúa đã cho Phaolô một câu trả lời rất rõ ràng: “Ta là Giêsu Kitô mà ngươi đang tìm bắt.” Chúa Kitô không nói rằng Người là các Kitô hữu Damas. Cũng tương tự như vậy, Chúa nói: “Bất cứ điều gì bạn làm cho người anh em bé nhỏ nhất của tôi, bạn đang làm cho tôi”. Nếu nhân danh tôi, bạn cho một ly nước, là bạn đang cho tôi. Nếu nhân danh tôi, bạn đón nhận một đứa trẻ, là đang đón nhận tôi. Và Người đã khẳng định điều đó như một điều kiện, mà vào giờ lâm tử, chúng ta sẽ được phán xét về những điều chúng ta đã sống và những gì chúng ta đã làm. Chính Người đang là một người đói, một kẻ trần trụi, người vô gia cư, người đau ốm, cô đơn, lạc loài, bị bỏ rơi, và Chúa nói: “Tôi đói và bạn đã cho ăn”. Không chỉ đói cơm, tôi đói tình thương. Tôi đã trần trụi, không chỉ vì thiếu áo quần, mà vì đã không được tôn trọng phẩm giá làm con Thiên Chúa. Tôi đã vô gia cư, không chỉ vì không có một mái nhà, mà vì sống bơ vơ, bị loại trừ, sống lạc lõng, không được yêu thương, bị ném ra lề xã hội, và bạn đã làm điều đó cho tôi”. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu làm Bánh Hằng Sống làm no thỏa niềm khát khao Thiên Chúa của chúng ta, vì tất cả chúng ta được dựng nên để yêu thương và được yêu thương. Và điều Chúa Giêsu giải thích thì rất rõ ràng: chúng ta yêu mến Thiên Chúa như thế nào? Nếu đã được Chúa dựng nên để yêu thương, thì tất cả chúng ta đều muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng làm thế nào? Thiên Chúa ở đâu? Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào? Bởi vậy, Ngài ban cho cơ hội để chúng ta thực hiện cho tha nhân những gì chúng ta mong được làm cho Ngài, và biến tình yêu của chúng ta đối với Ngài thành hành động trong cuộc sống. Vì thế cho nên, mọi ơn gọi linh mục không chỉ là để làm điều này hay để làm điều khác, người linh mục đã được dựng nên -  cơ thể, tâm hồn, tâm trí, con tim,  toàn thân thể của mình, trọn cả linh hồn của mình - để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa vì Ngài đã gọi đích danh linh mục. Mỗi linh mục là rất quý giá đối với Thiên Chúa, mỗi linh mục là rất thân thương trong tình yêu của Thiên Chúa, bởi Chúa Giêsu là Đấng đã chọn linh mục là “hiện thân của Ngài”. Và công việc đã được ủy thác cho linh mục, chính là một phương cách để đưa tình yêu tha thiết của mình đối với Chúa thành hành động trong đời sống. Do đó, việc linh mục làm là thánh thiêng. Và công việc đó không phải chỉ luôn dẫn linh mục đến với Thiên Chúa, nhưng còn phải có khả năng dẫn các linh hồn đến với Chúa. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói: “Hãy để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp của anh em và tôn vinh danh Cha.”

Khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục có ý nghĩa gì đối với một linh mục?

– Tình yêu đối với Đức Kitô là tình yêu trọn vẹn trong khiết tịnh. Khiết tịnh không chỉ là không kết hôn, cũng không phải là không có gia đình. Khiết tịnh chính là tình yêu không chia sẻ, “không một ai và không một điều gì”. Vì thế chúng ta cần phải có tự do để sống khó nghèo và chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được niềm vui của sự tự do vì đã từ bỏ hoàn toàn, không còn sự gì và cũng không có ai, để chúng ta có thể yêu mến Đức Kitô bằng một tình yêu trọn vẹn. Nếu chúng ta thực sự nhận biết mình thuộc về Đức Giêsu và được Người gọi đích danh, thì sự vâng phục là điều tự nhiên. Sống từ bỏ mọi sự là: Chúa có thể làm với chúng ta điều gì Người muốn, khi nào Người muốn và làm bất cứ điều gì Người muốn. Người có thể cắt chúng ta thành nhiều mảnh, nhưng mỗi mảnh vẫn thuộc về Người. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Người để Người có thể sử dụng chúng ta mà không đợi hỏi ý kiến, và như thế, để có thể yêu mến Chúa Kitô bằng tình yêu trọn vẹn trong đời sống khiết tịnh, chúng ta cần sống tinh thần hoàn toàn từ bỏ đó.

Còn về việc phục vụ, toàn tâm phục vụ, bất cứ công việc nào được chúng ta thực hiện với tinh thần vâng phục đều là  hoa trái của đức khiết tịnh, là kết quả của tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu. Linh mục là người được dành trọn cho Chúa, sống tự do và được hoàn toàn tự do để yêu mến Chúa Kitô bằng tình yêu không bị san sẻ trong đời sống khiết tịnh, vì thế khi làm việc, linh mục hiện thực hóa tình yêu của mình đối với Đức Kitô. Linh mục chạm tay vào Máu Châu báu của Chúa, bẻ tấm Bánh Hằng sống trao cho tất cả những ai đói khát Thiên Chúa. Vì thế, ngài phải sống rất mực khiết tịnh, rất mực thanh sạch, rất mực tinh tuyền, để có thể yêu mến Chúa Kitô với tình yêu không bị san sẻ, nhờ tự nguyện sống nghèo trong tín thác và toàn tâm phục vụ.

Thánh thiện nói chung là gì? Một linh mục có thể nên thánh như thế nào?

– Nên thánh là bổn phận đương nhiên của mỗi chúng ta, bởi chúng ta được dựng nên cho những gì lớn hơn, đó là yêu và được yêu. Sự thánh thiện không phải là xa xỉ phẩm dành cho một số ít người. Chúa Giêsu nói: “Hãy nên thánh như Cha là Đấng thánh”. Như thế, sự thánh thiện không phải là điều gì đặc biệt đối với linh mục, mà đó là bổn phận, vì linh mục là người hằng tiếp xúc với Chúa Giêsu. Nếu linh mục phải trở thành của lễ sống động trên bàn thờ, thì ngài phải nói lời thánh thiện, sống cuộc đời thánh thiện, thể hiện những tiếp xúc thánh thiện.

Đặc biệt nhờ sự thánh thiện này, Chúa Kitô có thể tiếp tục cuộc sống của Người nơi linh mục. Sự thánh thiện đối với linh mục là hoàn toàn nên một với Đức Kitô để Chúa có thể sống trọn vẹn nơi con người linh mục, cầu nguyện trong linh mục, làm việc qua linh mục và nên một với Chúa Cha nơi con người linh mục, đó chính là sự thánh thiện mà linh mục phải có. Ở đây không có sự so sánh; có chăng đó là sự vươn lên đời sống thánh thiện là chính Chúa Giêsu, bởi linh mục phải hoàn toàn nên một với Chúa Giêsu để Người có thể thực sự hy vọng nơi linh mục và tiếp diễn toàn bộ cuộc sống của Chúa nơi con người linh mục, và để Chúa Cha có thể yêu thương thế gian qua con người linh mục.

Đối với linh mục, Đức Maria là ai?

– Đức Maria chính là người Mẹ. Đức Maria đã, đang và sẽ mãi là Mẹ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Ai là Mẹ tôi? Mẹ tôi chính là người làm theo ý tôi, là người làm những việc đẹp lòng Chúa Cha.” Và không ai có thể làm đẹp lòng Chúa Cha cho bằng linh mục. Vì thế, Mẹ Maria rất gần gũi với linh mục, và không có ai có thể là một linh mục trổi vượt hơn Đức Mẹ, bởi lẽ khi linh mục đọc không mấy khó khăn: “Này là Mình Thầy” thì đìều này thật sự là máu thịt của Mẹ khi Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu. Và Mẹ vẫn mãi là nữ tỳ của Chúa để bạn và tôi có thể nương tựa Mẹ như Mẹ của chúng ta. Và Mẹ là một trong những người mẹ của chính chúng ta để chúng ta có thể luôn luôn kêu cầu Mẹ, nương tựa vào Mẹ và nên một với Mẹ. Và, tất nhiên, đó là lý do Mẹ đã lui lại đằng sau, để hình thành Giáo Hội, để củng cố chức linh mục của các tông đồ, để là một người Mẹ của họ, cho đến khi Giáo Hội non trẻ được hình thành. Mẹ vẫn hiện diện ở đó. Xưa Mẹ giúp Chúa Giêsu lớn lên thế nào, thì Mẹ cũng giúp cho Giáo Hội phát triển trong bước khởi đầu như vậy.

Nhiều năm sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ vẫn có mặt ở phía sau, góp phần hình thành Giáo Hội. Mẹ là một trong những người đào tạo các linh mục. Không ai cần lời cầu bầu của Đức Mẹ bằng linh mục. Điều này cho phép tôi hình dung rằng Mẹ đã có và hằng có trái tim rất nhân từ, hằng đặc biệt che chở mỗi linh mục đang cần đến Mẹ. Nhưng để có thể thực sự là một linh mục như đòi hỏi của Thánh Tâm Chúa Giêsu thì linh mục cần cầu nguyện nhiều và ăn năn thống hối. Nếu như linh mục thực sự muốn nên một hoàn toàn với Chúa Giêsu trên bàn thờ thì linh mục cần phải kết hợp hy tế của đời mình với hy tế của Chúa Giêsu. Và rồi hy lễ cuộc đời, sự thống hối trong cuộc sống mới hoàn tất hy tế của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói, chúng ta phải hoàn tất những đau khổ mà Đức Kitô còn phải chịu.

Mẹ có lời nhắn nhủ nào đối với các Chủng sinh sắp lãnh nhận chức linh mục?

– Hãy đặt đời sống của các bạn vào bàn tay của Đức  Maria và xin Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu đến trong cuộc đời của Mẹ, Mẹ vội vã mang Chúa Giêsu đến cho người khác. Và bạn cũng vậy, khi đã trở thành linh mục của Người, hãy cùng với Mẹ mau mắn đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Nhưng phải nhớ rằng bạn không thể cho điều mà bạn không có. Để có thể cho đi, bạn cần phải sống nên một với Chúa Giêsu ở trong Nhà Tạm. Hãy làm điều này trước tiên mỗi sáng, vì Chúa Giêsu chính là trọng tâm của đời sống linh mục. Trong ngày, hãy học cầu nguyện qua những công việc, hãy làm việc với Chúa Giêsu và làm cho Chúa Giêsu. Luôn gắn bó mật thiết với Mẹ Maria. Hãy xin Mẹ ban cho bạn trái tim của Mẹ, một trái tim tuyệt đẹp, vẹn sạch và vô nhiễm nguyên tội, một trái tim đầy tràn tình yêu và sự khiêm nhường, hầu bạn có thể đón nhận Chúa Giêsu và trao ban Chúa Giêsu nơi Bánh Hằng Sống cho anh chị em mình. Hãy yêu mến Chúa Giêsu như Mẹ Maria đã yêu, và hãy phục vụ Chúa nơi hình hài thống khổ của người nghèo.

Tôi cầu nguyện cho các bạn được nên giống Chúa Kitô hơn qua đời sống trong sạch và tấm lòng khiêm cung. Xin cho chúng ta được lớn lên trên đường nên thánh để mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh Đức Kitô nơi các bạn và tôi.

Nguồn: www.corpuschristimovement.com
Người dịch: Anh Quang

TRANG THIẾU NHI

GIÁO XỨ  SỐNG  HIỆP THÔNG
THEO GƯƠNG MẦU NHIỆM  CHÚA BA NGÔI

Trung tâm điểm đời sống đức tin của người Công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm này dạy cho người tín hữu sự hiệp thông. Sự hiệp thông hướng con người về một mối quan tâm; Sự hiệp thông giúp con người gần nhau hơn; Sự hiệp thông làm cho người tín hữu cùng tuyên xưng một đức tin chân thật. 

Mối quan tâm hàng đầu của người tín hữu có thể nói được là sống theo lời Chúa dạy: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35) Yêu thương nhau thể hiện một sự đồng lòng với nhau giữa các thành viên trong cùng một giáo xứ. Các tín hữu thời giáo hội sơ khai đã sống: "Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung". (Cv 4, 32). Những lúc giáo xứ có tổ chức những cuộc lễ đặc biệt thì có nhiều người tham gia phục vụ; các hội đoàn trong giáo xứ luôn có sự hòa đồng với nhau; mỗi khi có ai đó trong giáo xứ gặp khó khăn thì những người còn lại quan tâm giúp đỡ... Những việc làm ấy sẽ ghi sâu vào lòng người được giúp đỡ và đánh động đến những người còn lại.

Giữa một thế giới có nhiều phương tiện truyền thông hiện đại giúp con người liên lạc với nhau dễ dàng nhưng có vẻ như con người lại càng xa nhau hơn. Chính vì sự ích kỷ theo chủ nghĩa hưởng thụ càng làm cho con người không tiến lại gần hơn. Nếu mọi người tín hữu sống được tinh thần như của các tìn hữu đầu tiên thì thật là đẹp: "Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền,  đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu". (Cv 4, 34 - 35).

Cao điểm việc thờ phượng của người tín hữu là Thánh lễ. Thông thường Thánh lễ được cử hành nơi Nhà thờ của giáo xứ. Nơi đó tất cả tín hữu của giáo xứ cùng đến để tuyên xưng một niềm tin chân thật vào Thiên Chúa. Cùng với Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu người tín hữu dâng lên Thiên Chúa Cha một hiến lễ thật quý giá. Để rồi đa số người tín hữu tham dự Thánh lễ sẽ cùng rước Thánh Thể Chúa từ một tấm bánh duy nhất.

Hiệp thông theo mẫu gương Chúa Ba Ngôi mời gọi các tín hữu trong cùng một giáo xứ cùng nhau ý thức thật rỏ. Làm sáng danh Chúa, rao truyền Tin mừng của Chúa cho anh chị em xung quanh là bổn phận của mỗi tín hữu ở mọi thời đại.

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý XII Về Kinh Tin Kính Của ĐTC Phanxicô
Hội Thánh là Mẹ các Kitô Hữu

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ XII của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày 11 tháng 9 năm 2013. Hôm nay Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.

Anh chị em thân mến, Chào anh chị em!

Hôm nay chúng ta tiếp tục bài giáo lý về Hội Thánh trong “Năm Đức Tin” này.  Trong số những hình ảnh mà Công Đồng Vaticanô II đã chọn để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của Hội Thánh, có hình ảnh “người mẹ”: Hội Thánh là mẹ của chúng ta trong đức tin và đời sống siêu nhiên (x.  Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 6, 14, 15, 41, 42 ).  Và “một trong những hình ảnh được sử dụng bởi các Giáo Phụ của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu và tôi nghĩ rằng hình ảnh này cũng có thể hữu dụng cho chúng ta.  Đối với tôi đó là một trong những hình ảnh đẹp nhất của Hội Thánh: Mẹ Hội Thánh! Hội Thánh là mẹ như thế nào và bằng cách nào? Chúng ta bắt đầu với thực tại nhân loại của việc làm mẹ: cái gì làm thành một người mẹ?

1.  Trước hết một người mẹ sinh ra sự sống, bà cưu mang con trong cung lòng mình trong vòng chín tháng và sau đó mở ra cho nó vào cuộc sống, sinh ra nó.  Hội Thánh cũng giống như thế vì sinh ra chúng ta trong đức tin, qua công trình của Chúa Thánh Thần là điều làm cho Hội Thánh sinh hoa trái, như Đức Trinh Nữ Maria.  Cà Hội Thánh lẫn Đức Trinh Nữ Maria đều là những người mẹ; những gì người ta có thể nói về Hội Thánh thì cũng có thể nói về Đức Mẹ và những gì người ta có thể nói về Đức Mẹ thì cũng có thể nói về Hội Thánh! Chắc chắn rằng đức tin là một hành động cá nhân: “Tôi tin”, tôi đáp trả cách cá nhân với Thiên Chúa, Đấng mặc khải chính Mình và muốn thiết lập tình bằng hữu với tôi (x.  TĐ Lumen Fidei, số 39). 

Nhưng tôi nhận được đức tin từ những người khác, trong một gia đình, trong một cộng đồng là cộng đồng dạy cho tôi nói “tôi tin”, “chúng tôi tin.” Một Kitô hữu không phải là một hòn đảo! Chúng ta không thành những Kitô hữu trong các phòng thí nghiệm, chúng ta không thể tự mình thành những Kitô hữu, bằng sức riêng của mình; đức tin là một món quà, là một hồng ân của Thiên Chúa, được ban cho chúng ta trong Hội Thánh và qua Hội Thánh.  Và Hội Thánh ban cho chúng ta đời sống đức tin trong bí tích Rửa Tội: đó là lúc mà chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa, là lúc chúng ta được ban cho sự sống của Thiên Chúa, Hội Thánh sinh ra chúng ta như một người mẹ.  Nếu anh chị em đến Giếng Rửa Tội của Đền Thờ Thánh Gioan Lateranô, là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng, bên trong có một dòng chữ Latinh đại khái nói lên điều này: “Ở đây sinh ra một dân thuộc dòng dõi của Thiên Chúa, được sinh ra bởi Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho những nước này sinh hoa quả; Mẹ Hội Thánh sinh ra con cái của mình trong những làn sóng này.”  Việc này giúp chúng ta hiểu một điều quan trọng: việc chúng ta thành phần tử của Hội Thánh không phải việc bề ngoài và hình thức, không phải là việc điền vào một thẻ mà người ta cung cấp cho chúng ta, nhưng là một hành động nội tâm và thiết yếu; người ta không thuộc về Hội Thánh như thuộc về một công ty, thuộc về một buổi dạ tiệc hoặc bất kỳ tổ chức nào khác.  Mối dây liên hệ này rất thiết yếu, như một người con có với mẹ mình, bởi vì, như Thánh Augustinô nói: “Hội Thánh thực sự là mẹ của các Kitô hữu” (De moribus Ecclesiae, I,30,62-63;0 PL32, 1336).  Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi coi Hội Thánh như thế nào? Nếu tôi biết ơn cha mẹ vì các ngài đã cho tôi sự sống, thì tôi cũng biết ơn Hội Thánh vì Hội Thánh đã sinh ra tôi trong đức tin qua Bí Tích Rửa Tội?  Có bao nhiêu Kitô hữu nhớ ngày Rửa Tội của mình? Tôi muốn hỏi anh chị em ở đây câu hỏi này, nhưng tất cả mọi người hãy giữ câu trả lời trong lòng mình, có bao nhiêu người trong anh chị em nhớ ngày Rửa Tội của mình? Một số người giơ tay, nhưng có bao nhiêu người không nhớ?  Còn đối với Hội Thánh ngày Rửa Tội là ngày sinh của chúng ta, ngày mà Hội Thánh Mẹ chúng ta đã sinh ra chúng ta!  Và bây giờ tôi cho anh chị em một bài tập để làm ở nhà.  Khi anh chị trở về nhà hôm nay, hãy đi tìm kỹ xem ngày Rửa Tội của mình là ngày nào, để mừng nó, để cảm tạ Chúa vì hồng ân này.  Được không? Chúng ta có yêu Hội Thánh như một người yêu mẹ mình, dù biết và hiểu những thiếu sót của mẹ không? Tất cả các bà mẹ đều có những thiếu sót, tất cả chúng ta đều có những thiếu sót, nhưng khi chúng ta nói về những khuyết tật của mẹ mình, chúng ta che đậy chúng, chúng ta yêu mẹ như thế.  Và Hội Thánh cũng có những nhược điểm của mình: chúng ta có yêu Hội Thánh như yêu một người mẹ; chúng ta có giúp Hội Thánh trở nên xinh đẹp hơn, xác thực hơn, theo Chúa không? Tôi để lại cho anh chị em những câu hỏi này, nhưng đừng quên nhiệm vụ: tìm kiếm ngày Rửa Tội của anh chị em để có nó trong tâm hồn và mừng nó.

2.  Một người mẹ không những chỉ ban sự sống, nhưng với sự chăm sóc chu đáo giúp con cái lớn lên, cho chúng sữa, nuôi chúng, dạy chúng cách sống, luôn luôn đồng hành với chúng bằng những quan tâm, bằng cảm tình và bằng tình yêu của mình, ngay cả khi chúng đã lớn.  Và trong việc này, mẹ cũng biết cách sửa lỗi, tha thứ, hiểu biết; biết cách gần gũi khi con bệnh tật, đau khổ.  Nói tóm lại, một người mẹ tốt giúp con cái đi ra ngoài chính mình, không tiếp tục ở lại cách thoải mái dưới đôi cánh từ mẫu, như một đàn gà con dưới đôi cánh gà mẹ.  Hội Thánh như một người mẹ hiền cũng làm như thế: Hội Thánh đồng hành với việc lớn lên của chúng ta qua việc truyền thụ Lời Chúa, là một ánh sáng soi cho chúng ta thấy con đường của đời sống Kitô hữu, cùng qua việc cử hành các Bí Tích.  Hội Thánh nuôi dưỡng chúng ta bằng Bí Tích Thánh Thể, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải, nâng đỡ chúng ta khi bệnh tật bằng Bí Tích Xức Dầu Thánh.  Hội Thánh đồng hành với chúng ta trong suốt đời sống đức tin của chúng ta, trong suốt đời sống Kitô hữu của chúng ta.  Như thế giờ đây chúng ta có thể tự hỏi mình vài câu hỏi khác: tôi có mối quan hệ gì với Hội Thánh? Tôi có cảm thấy Hội Thánh giống như một người mẹ giúp tôi lớn lên như một Kitô hữu không? Tôi có tham dự vào đời sống Hội Thánh không, tôi cảm thấy là một phần tử của Hội Thánh không? Liên hệ của tôi với Hội Thánh là một mối liên hệ hình thức hoặc là mối liên hệ thiết yếu?

3.  Một tư tưởng ngắn thứ ba.  Trong những thế kỷ đầu của Hội Thánh, đây là một thực tại khá rõ ràng: trong khi Hội Thánh là Mẹ của các Kitô hữu, trong khi Hội Thánh “tạo ra” các Kitô hữu, thì Hội Thánh cũng được “làm nên” bởi họ.  Hội Thánh không phải là một cái gì khác với chúng ta, nhưng được coi như toàn thể các tín hữu, như “cái chúng tôi” của các Kitô hữu: tôi, anh chị em, chúng ta đều là phần tử của Hội Thánh.  Thánh Giêrônimô đã viết: “Hội Thánh của Đức Kitô không là gì khác ngoài các linh hồn của những người tin vào Đức Kitô” (Tract., Tv 86: PL 26, 1084 ).  Do đó, tất cả chúng ta, các mục tử và tín hữu, đang sống trong tình mẫu tử của Hội Thánh.  Đôi khi, tôi nghe: “Tôi tin vào Thiên Chúa nhưng không tin vào Hội Thánh… Tôi nghe rằng Hội Thánh nói… các linh mục nói…”.  Nhưng các linh mục là một điều, còn Hội Thánh không chỉ được hình thành bởi các linh mục, tất cả chúng ta là Hội Thánh! Và nếu anh chị em nói rằng anh chị em tin vào Thiên Chúa và không tin vào Hội Thánh, thì anh chị em nói rằng anh chị em không tin vào chính mình, và điều này là một điều mâu thuẫn.  Hội Thánh là tất cả chúng ta: từ em bé mới được rửa tội lên cho đến các giám mục và Giáo Hoàng, và tất cả chúng ta đều bình đẳng trước mắt Thiên Chúa! Tất cả chúng ta đều được mời gọi đóng góp trong việc sinh ra các Kitô hữu mới trong đức tin; chúng ta được mời gọi để thành những nhà giáo dục đức tin, để loan báo Tin Mừng.  Mỗi người chúng ta nên tự hỏi là tôi phải làm gì để những người khác có thể thông phần vào đức tin Kitô giáo? Tôi đang sinh ha quả trong đức tin của tôi hoặc đang đóng kín? Khi tôi lặp lại rằng tôi yêu một Hội Thánh không đóng kín trong nội vi của nó, nhưng có thể đi ra ngoài, di chuyển, ngay cả khi có một số rủi ro, để đem Đức Kitô đến mọi người, tôi nghĩ đến tất cả mọi người, nghĩ đến tôi, đến anh chị em, đến mọi Kitô hữu.  Tất cả chúng ta đều thông phần vào tình mẫu tử của Hội Thánh, để ánh sáng của Đức Kitô có thể chiếu đến tận cùng trái đất.  Mẹ Thánh Hội Thánh muôn năm!

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

TÂM THƯ GỞI BẠN

“Tôi muốn làm các việc bác ái xã hội, tôi không muốn đi nhà thờ dự lễ, không muốn xưng tội nữa và tôi bất mãn về vị linh mục của tôi, ông có nhiều sai sót, sống không gương mẫu, tôi không phục ông, nhưng tôi vẫn luôn yêu mến Chúa…”

Đó là những nỗi niềm, những lời tâm sự chân thành của bạn đã gởi đến tôi. Với kiến thức hạn hẹp, tôi xin chia sẻ cùng bạn vài điều sau đây:

Trước tiên, tôi nhận thấy rằng những lời bạn nói có lý lắm, nhưng xin bạn cùng tôi suy nghĩ thêm những điểm này nhé.

Thực ra, bạn hiểu linh mục là người như thế nào? Linh mục là ai?

Điều này chắc bạn tự trả lời được phải không? Tôi xin nhắc lại rằng, linh mục cũng là những con người bình thường như bao người khác (bạn đừng nên thần thánh hóa linh mục). Đã là con người thì làm sao tránh khỏi những sai lầm, những yếu đuối của kiếp người, phải không bạn? Nhưng chức linh mục không thể trao đổi hay mua bán được, đó là hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho những ai Ngài đã tuyển chọn, cho dù những người đó có tội lỗi, kém cỏi hơn bao người khác nhưng họ vẫn là những người đã được chính Thiên Chúa chọn gọi. Những gì thuộc về Thiên Chúa thì bạn không nên xem thường. Bạn có thể xem thường những khuyết điểm, thiếu sót của “con người linh mục”, nhưng đừng vì thế mà bạn xem thường luôn “chức linh mục”, điều này ảnh hưởng đến đời sống đạo của bạn đấy.

Bạn đừng vì bất mãn về đời sống không gương mẫu của một vị linh mục nào đó để rồi bạn bỏ luôn nhà thờ hoặc không đón nhận ơn Chúa qua các bí tích mà vị linh mục ấy cử hành nhé. Chúa không bỏ rơi linh mục, Chúa ban cho có nhiều tín hữu, nhiều con chiên đạo đức hằng chuyên cần cầu nguyện cho vị linh mục, vị chủ chăn đáng thương của họ. Điều hạnh phúc nhất của người linh mục là thấy đoàn chiên của mình sống ngoan hiền, đạo đức và luôn quan tâm cầu nguyện cho mình.

Nếu bạn giữ đạo hay bỏ đạo chỉ vì một linh mục thì bạn thật sai lầm đấy. Bạn theo Chúa theo linh mục? Bạn sống cho Chúa hay sống cho linh mục?... Điều này đáng để bạn suy nghĩ cho đời sống đạo hiện tại của mình.

Bạn đã nói rằng: “Tôi muốn làm việc bác ái, giúp đỡ nghèo khổ, tôi không muốn đi dự lễ, tôi không muốn lãnh nhận các bí tích vì quá bất mãn về linh mục…, nhưng tâm hồn tôi vẫn luôn yêu mến Chúa”.

Có thể bạn đã nhận ra được hình ảnh của Thiên Chúa nơi những người đói khổ, bệnh tật xung quanh bạn vì vậy bạn sẵn sàng giúp đỡ họ với khả năng của mình. Điều này rất tốt, không có gì sai cả. Nhưng tôi tiếc cho chính bạn, tại sao bạn không nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa đang hiện diện nơi vị linh mục của bạn để bạn mạnh dạn đến lãnh nhận các bí tích rất cần thiết cho linh hồn bạn?

Sao bạn lại dễ dàng chối bỏ các bí tích mà chính linh hồn bạn đang khao khát? Tại sao bạn không thương cảm và cứu lấy linh hồn mình khỏi bàn tay nham nhúa của ma quỷ, linh hồn bạn đang đau khổ hơn những đau khổ của kẻ khác mà bạn đang gặp, chắc bạn cũng nhận ra điều đó chứ?

Ma quỷ trong thời đại hôm nay cám dỗ con người rất tinh vi, nó đã làm đảo lộn những suy nghĩ của con người cách dễ dàng, làm cho con người không còn khả năng phân biệt: điều lành – điều dữ; cái tích cực – cái tiêu cực; cái chính – cái phụ, và đã đặt sai bậc thang giá trị đời mình, nhưng nhất là làm cho con người chỉ nhìn thấy những khoái lạc trần thế mà không nhìn thấy được Thiên Chúa đang hiện diện nữa. Từ đó, con người chỉ say mê làm việc và làm việc, tất cả vì tiền, làm sao kiếm được thật nhiều tiền và xem đó là điều cần thiết hơn cả, thích sống hưởng thụ, buông thả, không quan tâm gì đến tôn giáo, tục hóa các nghi thức thánh thiêng… Bạn của tôi ơi, xin bạn hãy luôn cảnh giác với những trò cám dỗ tinh vi của ma quỷ nhé!

Bạn à, nếu tâm hồn bạn không thanh sạch (mắc tội trọng) thì những việc thiện bạn làm cũng không có ích gì cho phần rỗi linh hồn bạn. Tội trọng sẽ cắt đứt sự liên lạc giữa tâm hồn bạn với Thiên Chúa là nguồn mọi ơn lành. Thiên Chúa luôn ban ơn lành nhưng những tội trọng là trở lực không cho linh hồn bạn tiếp nhận những ơn đó để nuôi dưỡng linh hồn, dần dần linh hồn sẽ khô héo và làm cho bạn khô khan trong các việc đạo đức, bạn luôn có mặc cảm tội lỗi và bạn luôn sợ Thiên Chúa sẽ phạt bạn, bạn không dám đối diện với Thiên Chúa. Những điều đó là do tội gây ra cả.

Vậy, bạn hãy luôn canh tân chính tâm hồn mình là mạnh dạn đến với linh mục của bạn để lãnh nhận các bí tích cần thiết mà linh hồn bạn đang khát khao.

Tôi luôn tin rằng bạn là người mạnh mẽ, bạn hãy xây dựng cho mình có một đời sống đạo đức vững chắc nhé.

Cuối cùng, xin bạn cùng tôi, chúng ta hãy luôn cầu nguyện nhiều cho vị linh mục của bạn và cho tất cả các vị chủ chăn trong Giáo hội luôn sống theo Thánh ý Thiên Chúa.

Hy vọng rằng những chia sẻ của tôi trên đây sẽ mang lại cho bạn một chút lạc quan nào đó trong đời sống đạo của bạn. Xin Chúa Thánh Thần luôn soi sáng, hướng dẫn bạn trong tư tưởng, lời nói, việc làm và trên mọi bước đường bạn đang đi.

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

25 Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

Bài 12: Thánh Phaolô là người Do Thái, làm sao có thể là công dân Roma?

Ta biết được cuộc đời thánh Phaolô qua sách Công Vụ Tông Đồ và những thư Ngài viết cho các tín hữu trong thời kỳ đầu tiên của giáo hội. Nhiều chi tiết trong đời sống của Phaolô (chẳng hạn quyền công dân Roma) được sách Công Vụ Tông Đồ kể lại, nhưng không thấy Phaolô nhắc đến trong những thư Ngài gởi cho các tín hữu, dù Ngài có nói đến công dân “nước trời” trong thư gởi tín hữu Philiphê (Phil 3:20).

Sách Công Vụ Tông Đồ cho ta biết là Phaolô có quyền công dân Roma khi sinh ra, không phải là người trở nên công dân Roma khi đã lớn:

“Họ vừa nọc ông Phaolô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng gần đó: "Một công dân Rôma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn không?" Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy rằng: "Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rôma!" Vị chỉ huy liền đến gặp ông Phaolô và hỏi: "Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rôma sao?" Ông Phao-lô trả lời: "Phải." Vị chỉ huy nói tiếp: "Tôi đây, tôi phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy." Ông Phaolô đáp: "Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi." Lập tức những người sắp tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phaolô là công dân Rôma mà mình lại đã còng ông ấy (Cvtđ 22:25-29; xem thêm 23:27 và 16:37).

Công dân Roma là một quyền ưu tiên chỉ dành cho những người sinh ra bởi cha mẹ có công dân Roma trong đất nước của hoàng đế Roma cai trị, hay những ngoại kiều có công trạng với Roma.

Chúng ta không biết tại sao và làm thế nào gia đình Phaolô có được quyền ưu tiên này. Tuy nhiên, trong lịch sử ghi lại là một số các tướng lãnh nổi tiếng của Roma như Julius Caesar và Mark Anthony đã ghé thăm Tarsus, nơi Phaolô sinh ra

Theo Thánh Kinh ta biết Phaolô làm nghề dệt lều (Cvtđ 18:3). Công việc này giúp Phaolô kiếm tiền trên đường đi truyền giáo mà không phải là gánh nặng về kinh tế cho những cộng đoàn Ngài đến thăm (1 Cor 9:18), và gặp sự giúp đỡ của những đồng nghiệp, nhất là hai vợ chồng Aquila và Pricilla (Cvtđ 18:1-3).

Sống trong vùng Trung Đông, lều là một phương tiện cần thiết cho đời sống của những du mục và dân định cư điạ phương.

Có lối giải thích rằng khi lính Roma đóng quân trong khu vực Tarsus, gia đình Phaolô có thể đã cung cấp lều như quân cụ cho quân đội. Vì thế, khi những tướng lãnh đến thăm vùng này, gia đình nhận được sự chú ý của tướng Roma nên được ưu đãi quốc tịch Roma hay được sự tưởng thưởng của hoàng đế Augustus về những đóng góp này.

Đây chỉ là những lối giải thích phỏng đoán. Điều ta biết chắc là Phaolô sinh ra trong gia đình Do Thái, thuộc chi tộc Benjamin (Rom 11:1; Phil 3:5; 2 Cor 11:22). Trong xã hội, ông được nhiều ưu tiên hơn đồng bạn, như được học với thầy Gamaliel nổi tiếng thời bấy giờ (Cvtđ 22:3), và sau này được tin tưởng cắt cử làm người dẫn đầu đi bắt bớ Kitô hữu (Cvtđ 9:1-2).

Việc thánh nhân làm thế nào mà có quyền công dân Roma từ khi mới sinh thì không ai biết rõ, nhưng chính nhờ có quyền này mà Phaolô không bị đối xử tàn tệ như những ngoại kiều (Cvtđ 23:27), và theo truyền thuyết, Phaolô bị chặt đầu (hình phạt dành cho công dân Roma) chứ không bị hành hạ và đóng đinh (như Phêrô là người Do Thái).

Lm. Mt. Nguyễn khắc Hy, S.S.

TRANG QUỚI CHỨC

TỒN TẠI TRONG YÊU THƯƠNG

Kiến là một sinh vật mà chắc không ai trong chúng ta không biết. Đó là một loài sống rất có tổ chức và rất đoàn kết, mỗi loại có công việc riêng và rất tận tụy trong công việc và đặc biệt chúng rất thương nhau.

Chúng ta thường chứng kiến những trận giao tranh giữa kiến vàng và kiến hôi (kiến đen). Tuy kiến vàng to con, kền càng hơn nhưng nếu một chọi một với kiến hôi thì phần thắng thường nghiêng về kiến hôi, vì thế, trừ khi lâm vào thế cô độc, chúng thường tập trung lại để chiến đấu để giành phần thắng, bảo vệ đồng loại, và thật cảm động, khi một con kiến vàng bị chết, con sống sẽ mang xác con chết về tổ chứ không bỏ lại tại bãi chiến trường ! Chính vì lẽ đó mà kiến vàng vẫn có thế tồn tại và đẩy lui kiến hôi mặc dù kiến hôi độc hơn.

Người xưa nói đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết, Chúa Giêsu cũng nói : một nước mà chia rẽ thì có thể tồn tại được sao ? cánh rừng sở dĩ không được vun tưới nhưng vẫn giữ được màu xanh dù vào mùa mưa hay mùa hạn là do các cây trong rừng đan tay (tàng) đan rễ lại với nhau, rụng lá khô xuống đất để tích trữ nước khỏi ánh nắng mặt trời và hạn chế quá trình thẩm thấu để chúng dùng chung bảo vệ cây con yếu ớt để chúng tồn tại.

Cây cối là sinh vật vô tri đâu biết suy tính nhưng chúng có thế làm được như thế là nhờ luật tự nhiên trời ban cho chúng để chúng tồn tại, vì thế kết đoàn là qui luật của sự tồn tại, con người cũng là một sinh vật nên cũng không thể đi ngược lại qui luật đó.

Là Kitô hữu chúng ta cũng là một con người muốn tồn tại chúng ta cũng phải biết đoàn kết để tồn tại, không thể coi kẻ khác như thù địch, những kẻ đáng chết giống như cách nghĩ của những chiến binh Hồi Giáo cực đoan IS, bởi vì cách nghĩ đó sẽ đưa thế giới đi vào tận diệt, hơn nữa người Kitô hữu còn mang sứ mạng mang Phúc Âm đên cho mọi người, sứ mạng đó chỉ có thể hoàn thành khi trong mỗi người Kitô hữu có tình thương, đó là phương tiện để thành công. Có khí cụ đó thì dù là một người bị khinh miệt bởi gốc gác: sinh ra trong chuồng lừa, chỉ là con bác thợ mộc làng Nazareth cũng khiến cho cả thế giới phải cúi đầu. Chính Mẹ Têrêsa Thành Calcuta cũng đã thành công nhờ khí cụ đó.

Tình thương tự nó có tính liên kết, tình thương tự nó có sức biến đổi, tình thương sẽ nãy sinh hạnh phúc. Mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành giới răn của Chúa Giêsu đã dạy, chắc chắc tự nơi minh, gia đình, họ đạo mình sẽ thay đổi và như vậy Giáo hội Việt Nam sẽ trãi đầy hoa hồng và hương thơm của nó sẽ tỏa ngát trên toàn cõi quê hương chúng ta.

SỐNG ĐẸP

Vị Giáo Hoàng Của Ngạc Nhiên

Hai điều đáng lưu ý trong chuyến viếng thăm Sri Lanka của Đức Phanxicô

 Điều thứ nhất: ngài là vị giáo hoàng của ngạc nhiên. Điều thứ hai, ngài là vị giáo hoàng, dù trong cảnh ngộ nào, vẫn được cảm tình của tường thuật truyền thông.

Giáo hoàng của ngạc nhiên

Tại Colombo, Đức Phanxicô vẫn duy trì được danh hiệu giáo hoàng của những ngạc nhiên và nối vòng tay lớn. Thực vậy, vào buổi tối Thứ Tư vừa qua, ngài đã phối hợp được cả hai khía cạnh ấy khi bất ngờ viếng thăm ngôi đền Phật Giáo tại thủ đô Sri Lanka.

Theo phát ngôn viên Tòa Thánh, tại ngôi đền trên, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã được chỉ cho xem một căn phòng có tượng Buddha và hai vị thánh khác của truyền thống Phật Giáo. Các vị sư trụ trì cũng cho ngài xem một chiếc bình đựng thánh tích mà thỉnh thoảng lắm mới được mở ra, nhưng dịp này, các vị đã mở ra cho ngài xem.

Nhân dịp này, các vị sư trụ trì cũng cho ngài nghe ca hát mà theo phát ngôn viên Tòa Thánh, ngài đã “tôn kính lắng nghe”.

Dù không hề là lần đầu, vì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng tới thăm một vị lãnh đạo Phật Giáo Thái Lan tên Vasana Tara tại một trung tâm Phật Giáo khi thăm Bangkok năm 1984, nhưng việc Đức Phanxicô thăm ngôi đền Phật Giáo này phải được coi là bất thường.

Một phát ngôn viên của Tòa Thánh cho biết một trong các vị có thẩm quyền trong Phật Giáo, khi nghinh đón Đức Phanxicô tại phi trường Colombo đã mời ngài ghé thăm, và Đức Phanxicô “muốn chứng tỏ tình bằng hữu và thái độ tích cực của ngài” đối với các Phật Tử.

Cuộc ghé thăm không dự trù trước mà theo phát ngôn viên Tòa Thánh kéo dài 20 phút này diễn ra sau khi Đức Phanxicô từ Đền Đức Mẹ Madhu trở về, nơi trước đây vốn là vùng tranh chấp trong cuộc nội chiến kéo dài 30 năm.

 Cuộc nội chiến này khiến người đa số Phật Giáo chống lại người thiểu số Tamil theo Ấn Giáo, và là lý do khiến cho vấn đề hòa giải và hoà hợp tôn giáo trở thành các chủ đề chính của chuyến viếng thăm Sri Lanka.

Trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo Phật Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo và Kitô Giáo vào đêm thứ Ba, chẳng hạn, Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng “không bao giờ được lạm dụng các niềm tin tôn giáo để bênh vực bạo lực và chiến tranh”.

Cuộc ghé thăm ngôi đền cách bất ngờ hôm thứ Tư có một ý nghĩa đặc biệt nếu xét tới phản ứng tiêu cực của Phật Giáo đối với cuộc viếng thăm năm 1995 trước đây của Đức Gioan Phaolô II, một cuộc viếng thăm diễn ra không lâu sau khi ngài làm người Phật Giáo nổi giận vì gọi tín ngưỡng của họ “phần lớn thuộc hệ vô thần” trong một cuộc phỏng vấn của một nhà báo Ý. Các vị lãnh đạo Phật Giáo hồi ấy đã tẩy chay cuộc gặp gỡ liên tôn do ngài tổ chức.

Dù trong cảnh ngộ nào, vẫn được cảm tình của tường thuật truyền thông

Nhà báo John L. Allen Jr., trong bài báo viết ngày 14 tháng Giêng từ Colombo, cho rằng chuyến tông du Sri Lanka, một lần nữa, nói lên khía cạnh quyến rũ của Đức Phanxicô đối với tường thuật truyền thông.

Ông cho rằng những nét tổng quát trong tường thuật thông thường về Đức Phanxicô nay đã trở thành quen thuộc. Ngài được coi như người bênh vực người nghèo và người bị chà đạp cũng như là nhà cải cách không câu nệ muốn dẫn Đạo Công Giáo tiến theo chiều cấp tiến.

Tuy không được người Công Giáo bảo thủ ưa thích, nhưng xét theo công luận và tường thuật truyền thông, lối nhìn trên thường có nghĩa là ngài vượt qua nhiều thiên kiến mà các vị tiền nhiệm không vượt qua được.

Tháng tám năm ngoái, chẳng hạn, khi Đức Phanxicô tới thăm một cơ sở bác ái CG bên ngoài Hán Thành tên là Kkottongnae. Cơ sở này chứa 5,000 người bệnh và khuyết tật, do một linh mục đầy lôi cuốn tên là John Oh thành lập. Vị linh mục này vướng vào nhiều tai tiếng xưa nay.

Một số người trong Giáo Hội Đại Hàn coi nghiệp vụ này như một bịp bợm, chỉ lo gây quĩ hơn là phục vụ người cần tới; trước khi Đức GH tới thăm, những người chỉ trích cơ sở này vốn tổ chức cả hàng loạt các cuộc phản đối.

Tuy nhiên, cuối cùng, không một tai tiếng nào ảnh hưởng tới cuộc thăm viếng của Ngài; tình yêu thương người nghèo của ngài đã trở thành một thứ dã sử. Truyền thông không hề đặt dấu hỏi nào về chuyến viếng thăm này cả.

Tuần này, tại Colombo, ta cũng thấy một chuyện tương tự. Đêm thứ Ba, Đức Phanxicô đọc một bài diễn văn tại cuộc gặp gỡ liên tôn. Bài diễn văn này không khác về nội dung so với Đức Bênêđíctô XVI chút nào: cũng dè dặt về các giới hạn của cuộc đối thoại liên tôn: “Như kinh nghiệm đã cho thấy, muốn cho cuộc đối thoại như thế được hữu hiệu, nó cần được đặt cơ sở trên việc trình bày ngay thẳng các xác tín của mình” nghĩa là phải “trung thực” khi nói lên các niềm tin của mình.

Ngài nói tiếp “người ta không cần phải từ bỏ căn tính của họ, bất luận là căn tính sắc tộc hay tôn giáo, mới có thể sống hòa hợp với anh chị em mình”.

Nếu là Đức Bênêđíctô XVI nói như thế, nhiều thính giả chắc chắn sẽ nghĩ tới các tranh cãi lâu đời khiến Rôma chống lại các giám mục và các thần học gia Á Châu trong các vấn đề này. Họ sẽ cho rằng Đức GH muốn dập tắt hay ít nhất cũng muốn lên án cách khéo léo các quan điểm cấp tiến, muốn sáp lại Á Châu và các truyền thống của nó.

Với Đức Phanxicô thì khác, không ai hoài nghi ý muốn nối vòng tay lớn, nguyện vọng tha thiết muốn đối thoại của ngài, nên những nhận định như thế không ai chú ý cả, hay ít nhất không gây nên bất cứ phản ứng hay nhận định tiêu cực nào.

Sáng thứ Tư cũng thế, Đức Phanxicô, trong bài giảng lễ phong thánh cho linh mục Joseph Vaz, đã thúc giục người Công Giáo noi gương vị thánh mới và trở nên “các môn đệ truyền giáo”; ngài cho rằng “chúng ta được kêu gọi lên đường với cùng một lòng nhiệt thành như thế’.

Đức Gioan Phaolô II cũng nói như thế khi tông du Ấn Độ năm 1999. Ngài kêu gọi cho có một mùa gặt đức tin vĩ đại trên lục địa bao la và chủ yếu này… Thiên niên kỷ thứ nhất, thánh giá được trồng tại Âu Châu, và thiên niên kỷ thứ hai, được trồng tại Mỹ Châu và Phi Châu thế nào, thì thiên niên kỷ thứ ba, Thánh Giá cũng phải được trồng tại Á Châu như thế.

Lời nhận định ấy đã khiến nhiều người Ấn Độ theo Ấn Giáo nổi giận và lên tiếng phản đối phong trào cải đạo của Kitô Giáo tại đây. Họ tổ chức nhiều cuộc phản đối dọc lộ trình của ngài và yêu cầu ngài xin lỗi.

Nhưng với Đức Phanxicô, sự việc có khác. Cũng những câu nói với cùng nội dung đã không bị ai phê bình chỉ trích dù là người Phật Giáo đa số hay người Ấn Giáo thiểu số.

(Vũ Văn An, VCN 15.01.2015)

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Được Thờ “Ông Thần Tài” Không ?

Hỏi: Xin cha cho biết người Công Giáo có được phép trưng hình “Ông Thần Tài” ở trong cơ sở thương mại của mình không?   Và có được phép xem bói toán hay không ?

Trả lời: Trước hết, xin nói qua về việc thờ phượng Chúa theo giáo lý của Giáo Hội. Điều Răn Thứ Nhất dạy rằng: “Ngươi phải  bái lậy Đức  Chúa là  Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4:10).

Như vậy, người Công Giáo không được phép tôn thờ  bất cứ thần linh nào ngoài Thiên Chúa là Đấng dựng lên và cứu chuộc loài người  trong Chúa Giêsu Kitô.

Chỉ một Mình Ngài được thờ kính trên hết mọi sự ,và trên  mọi tạo vật mà thôi.

Trong việc thờ phượng này, chúng ta cần phân biệt việc tôn thờ (adore) và tôn kính (venerate, honour).

Tôn thờ, hay thờ lậy chỉ dành cho một mình Thiên Chúa Ba Ngôi, còn việc tôn kính được dành cho Đức Mẹ và các Thánh nam nữ trên trời.

Cụ thể, khi vào nhà thờ hay nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa, thì việc đầu tiên là phải bái gối (genuflect) trước Thánh Thể trong Nhà Tạm (Tabernacle) để nói lên lòng tôn thờ Chúa, sau đó mới bái kính ảnh tựợng Đức  Mẹ hay các Thánh nào khác có trưng trong nhà thờ.Nghĩa là không nên bái kính ảnh tượng nào khác trước khi bái lậy Chúa. Đây là hành vi tôn thờ và tôn kính xứng hợp phải làm để biểu lộ đức tin.

Chính vì mục đích tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất mà người Công Giáo không được phép tôn phục bất cứ thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa ra. Nói rõ hơn, không được phép trưng ảnh tượng bất cứ thần linh nào dù là của tôn giáo khác hay  theo truyền thống dân gian như ông thần tài, ông công, ông táo, ông địa  v,v trong nhà hay nơi buôn bán, dịch vụ thương mại. Vì trưng bày như vậy có nghĩa là tin tưởng vào quyền năng của một ai ngoài Thiên Chúa là nguồn duy nhất của mọi ơn phúc và uy quyền trên mọi tạo vật và vũ trụ. Nói khác đi,  trưng các ảnh tượng kia là vô tình hay cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật  mà ta phải thờ lậy theo đúng niềm tin Công Giáo.

Vậy, nếu không muốn trưng hình Chúa, Đức Mẹ hoặc  Thánh nào trong nhà hay  nơi cơ sở làm ăn, buôn bán, thì không được trưng ảnh tựợng của bất cứ thần linh nào khác vì làm như vậy là  trái với tinh thần thờ phượng của giới răn thứ nhất  Chúa đã dạy.

Cũng trái với giới răn này là các hành  vi thiếu đức tin, thiếu lòng  trông cậy vào một mình Chúa như việc xem bói toán, tướng số,  xin xâm ,xin thẻ, bói  bài, đồng bóng, ma thuật. (x.  SGLCG, số  2112, 2115,2116…)

Tóm lại,  trưng ảnh tượng các thần linh ngoại giáo, hay tham gia vào các việc thiếu đức tin và mê tín dị đoan như nói trên và ngay cả tin 12 con vật làm chủ vận mạng con người và vũ trụ,  kiêng chụp hình 3 người, kiêng các con số 10, 13, tin số 9 ,v,v đều đi ngựợc điều răn  thứ nhất dạy ta phải tôn thờ, tin tưởng và trông cậy  một mình Thiên Chúa mà thôi. Tin và tham gia vào những việc mê tín này thì chắc chắn là phạm tội nghich điều răn thứ nhất theo giáo lý của Giáo Hội.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Nguồn: conggiaovietnam.net

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

TÔI XIN CHỌN NGƯỜI (KỲ 5): ĐỔ VỠ TƯƠNG QUAN GIA ĐÌNH

Các bạn thân mến,

Sau khi A-đam và E-và bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng vì ăn trái cấm, nhờ ơn Chúa, ông bà đã sinh được hai người con. Người con cả tên là Ca-in, chuyên nghề trồng trọt và cày cấy. Người em của ông là A-ben thì làm nghề chăn nuôi gia súc. Sau một thời gian, Ca-in đã dâng những hoa quả đầu mùa của mình lên Thiên Chúa. A-ben cũng dâng những chiên con đầu lòng cùng với mỡ của chúng. Lạ lùng thay, Thiên Chúa lại ghé mắt nhìn A-ben và lễ vật của ông. Còn Ca-in và hoa màu của ông thì Ngài lại chẳng đoái hoài. Đáng buồn thay, Ca-in lại tỏ vẻ tức giận ngay trước mặt Thiên Chúa.

Ông đã ganh tỵ và ganh ghét người em cùng máu mủ của mình. Sự thù ghét cứ âm ỉ trong lòng của Ca-in và sự dữ đã bày vẽ cho ông cách thức để loại trừ cái gai trong mắt của mình. Như đã định từ trước, Ca-in giả vờ tử tế rủ A-ben cùng đi thăm đồng rồi thừa cơ em mình không mảy may phòng bị, ông đã tước đoạt mạng sống của em mình. Máu của A-ben đã kêu thấu tới trời và Thiên Chúa đã không thể làm ngơ. Ngài đã trừng phạt Ca-in và ông phải lìa bỏ gia đình mà lang bạt khắp tứ phương. Chỉ vì chút ganh tỵ nhỏ nhen, ông đã làm đổ vỡ tương quan gia đình và phải đi lưu đày biệt xứ.

Các bạn thân mến,

Tấn thảm kịch của anh em Ca-in vẫn đang xuất hiện nhan nhản trong thời đại chúng ta. Anh chị em cãi vã và đánh đập nhau, con cái hỗn hào và tệ bạc với cha mẹ. Anh em sẵn sàng từ mặt nhau hay lôi nhau ra tòa để phân xử vì chút hồi môn của cha mẹ chẳng được phân chia đồng đều. Tư lợi được đề cao hơn tình máu mủ và ruột rà. Tổ ấm mà Thiên Chúa từng ước mong cho con người nay đã trở thành hỏa ngục ngay trần gian. Thay vì cùng nhau vun vén hạnh phúc, cuộc sống gia đình chỉ còn là sự tra tấn và hành hạ lẫn nhau. Tất cả âu cũng vì  gia đình sống với nhau mà chẳng có chút tình thương.

Trở lại câu chuyên của Ca-in và A-ben, phải chăng Thiên Chúa chẳng đoái nhìn đến Ca-in vì biết ông chẳng hề thương yêu em mình một chút nào? Thiên Chúa chỉ muốn thử lòng ông nhưng ông lại trút giận lên người em của mình. Nếu là một người anh thực sự thương em thì Ca-in phải hết lòng mừng vui vì em được Thiên Chúa đoái thương. Đằng này, ông nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa cũng có giới hạn nên khi A-ben đã được đoái thương thì ông sẽ bị mất phần. Ông đã chẳng kính mến Thiên Chúa đủ để có thể yêu thương người em ruột thịt của chính mình.

Người đau đớn nhất khi chứng kiến thảm kịch giết em của Ca-in đó là A-đam và E-và. Cùng một lúc, họ đã mất cả hai người con dấu yêu của mình. Nhưng họ cũng chẳng thể trách ai được vì chính họ đã không giáo dục con mình cho nên. Gia đình nguyên tổ không phải khi xảy ra thảm kịch anh giết em mới lâm cảnh nồi da xáo thịt mà ngọn nguồn sâu xa của sự lục đục đã khởi nguồn từ khi ông bà bất tuân Thiên Chúa mà ăn trái  cấm. Còn nhớ khi ông bà đã ăn trái cấm, tương quan của hai vợ chồng đã rạn nứt khi họ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Chính họ đã không yêu thương nhau đủ để có thể bù đắp những hạn chế và khiếm khuyết của nhau. Rút cuộc, người con cả đã đi vào vết xe đổ của chính cha mẹ mình để phản Chúa mà giết em. Gia đình nguyên tổ đã đổ vỡ từ trong trứng nước bởi cũng chỉ tại một điều: cả gia đình chẳng hề kính mến Thiên Chúa. Do vậy, người kính mến Thiên Chúa duy nhất trong gia đình là A-ben cũng chẳng có cơ hội sống sót.

Sự bất tín và bất kính vào Thiên Chúa của gia đình nguyên tổ đã mang lại tai họa, sự kính tin của Thánh gia đã kéo lại hồng ân. Còn nhớ sau biến cố Truyền tin năm nào, dù có chút nghi ngờ về tác giả của bào thai mà Ma-ri-a đang cưu mang, thánh Giuse đã chọn giải pháp là âm thầm bỏ đi vì không muốn Ma-ri-a bị ném đá vì tội ngoại tình. May thay, Thiên Chúa đã kịp truyền tin cho Giuse và ông đã vâng nghe lời Thiên Chúa để nhận lời làm chồng của Đức Ma-ri-a, và cha nuôi của Đức Giêsu. Còn Đức Ma-ri-a đã một lòng xin vâng với thánh ý Thiên Chúa cho đến trót cuộc đời của mình. Với lòng kính mến Thiên Chúa hết mực như thế, Giuse và Maria đã tận tâm tận lực giáo dưỡng Đức Giêsu theo cách thức đẹp lòng Thiên Chúa. Như Đức Giêsu , làm con thì phải yêu thương và vâng lời cha mẹ để càng lớn thì càng khôn ngoan và đẹp lòng Thiên Chúa và tha nhân. Làm cha mẹ thì phải giáo dục con không chỉ bằng lời dạy và quyền lực nhưng bằng chính đời sống mẫu mực và khuôn thước như Giuse và Maria. Mỗi người trong gia đình Thánh đều kính mến Thiên Chúa nên họ đã chu toàn bổn phận của chính mình.

Có lẽ, khi còn sống bên nhau, gia đình Thánh đã siêng năng đọc và cầu nguyện với lời dạy của Thánh vịnh 127 và lời kinh này đã trở nên nguồn trợ lực để gia đình Na-da-rét cùng nên thánh. Còn các bạn thì sao, các bạn có mong muốn gia đình mình trở thành một Thánh gia khác, một thánh gia thứ hai không? Nếu có, gia đình các bạn cũng hãy chuyên chăm đọc và suy gẫm lời thánh vịnh mà Thánh Gia hay đọc:

Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA,

ăn ở theo đường lối của Người.

Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng,

bạn quả là lắm phúc nhiều may.

Hiền thê bạn trong cửa trong nhà

khác nào cây nho đầy hoa trái;

và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn,

xúm xít tại bàn ăn.

Đó chính là phúc lộc CHÚA dành cho kẻ kính sợ Người.

Xin CHÚA từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc.

Ước chi trong suốt cả cuộc đời

bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn thịnh,

được sống lâu bên đàn con cháu.

Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình.

Jos. Nguyễn Huy Mai, SJ
Nguồn: vietvatican.net

THẦN HỌC KINH THÁNH

Israel Khẩn Cầu Giavê Thiên Chúa, Vì Là Dân Riêng Của Người

Lần trước chúng ta đã bắt đầu tầm nguyên nguồn gốc của lời cầu nguyện. Nó phát xuất từ tương quan của con người là thụ tạo với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đã dựng con người giống hình ảnh Người. Bản chất và ơn gọi của con người là duy trì nguyên tuyền hình ảnh đó và sống tương quan thân tình với Thiên Chúa, đối thoại với Người. Chiều chiều khi gió hiu hiu thổi Thiên Chúa đến vườn Êđen đi dạo và nói chuyện với con người. Đây là định nghĩa tuyệt diệu đầu tiên của lời cầu nguyện: cầu nguyện là đối thoại, nói chuyện thân tình với Thiên Chúa.

Nhưng lời cầu nguyện còn phát xuất từ sự kiện Thiên Chúa chọn dân Do thái làm dân riêng của Người. Thánh Kinh là cuốn sách kể lại cuộc lựa chọn đó và các hệ lụy của nó trong cuộc sống của dân Do thái. Ơn gọi của tổ phụ Abraham cho thấy Thiên Chúa chuẩn bị cho Người một dân riêng. Để trở thành tổ phụ dân riêng Thiên Chúa chọn, Abraham phải ra khỏi khung cảnh mà ông đã sống cho tới khi đó, như kể trong chương 12 sách Sáng Thế: ”Giavê phán với ông Apram: ”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Ra khỏi môi trường xã hội đa thần, ra khỏi vùng đất phì nhiêu, và cuộc sống định cư bảo đảm, để bắt đầu cuộc sống bán du mục phiêu lưu vô định, nhưng dưới sự hướng dẫn và chở che của Thiên Chúa duy nhất. Sự dứt khoát từ bỏ đó là cả một hy sinh cao độ. Và Thiên Chúa đổi tên ông thành Abraham.

Tuy nhiên, những gì ông Abraham phải bỏ bề ngoài chỉ là biểu tượng cho sự từ bỏ bên trong: từ bỏ chính con người mình, từ bỏ tâm thức con người trần gian của mình để bước vào trong cái luận lý của Thiên Chúa, nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa và suy tư lý luận như Người. Điều Thiên Chúa muốn ông Abraham tử bỏ là chính cái tôi và tâm thức loài người của ông, hầu hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và chương trình của Người. Nhưng Thiên Chúa củng cố và thanh tẩy đức tin của tổ phụ Abraham. Ngài hứa ban cho ông có con và dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển, nhưng Abraham và bà Sarah vợ ông đợi mãi cho đến khi tuổi già vẫn không thấy có con. Tới khi có được Igiaác Thiên Chúa lại thanh luyện đức tin của Abraham bằng cách xin ông sát tế Igiaác cho Người. Trong tất cả các thử thách và thanh luyện cam go đó ông luôn sẵn sàng thưa vâng với Thiên Chúa. Nhưng ở đây nữa, Thiên Chúa không muốn cái chết của Igiaác, mà muốn rằng cái tôi, con người và tâm thức của Abraham phải hoàn toàn chết đi, để Ngài có thể nhào nắn ông theo như Ngài muốn, và đặc biệt để ông có thể là tổ phụ của dân riêng Chúa chọn, một dân tin nơi Giavê, kính yêu Ngài, tín thác nơi Ngài và vâng lời Ngài. Có thể ví cái luận lý của Thiên Chúa là thứ luận lý của kim tự tháp lật ngược. Điểm tựa của nó là đức tin tín thác, bé tí, vô hình. Nhưng chính trên điểm vô hình ấy Thiên Chúa xây kim tư tháp của lịch sử cứu độ và lịch sử của dân Do thái là dân riêng Ngài chọn. Và công trình của Thiên Chúa càng lên cao lại càng rộng mở mênh mông bát ngát như bầu trời.

Trong câu chuyện cuộc đời tổ phụ Abraham Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đưa ra sáng kiến, đề nghị, hướng dẫn và truyền lệnh. Ngài gọi ông, và Abraham luôn thưa: ”Lậy Chúa, này con đây”. Đây cũng lại là thái độ cầu nguyện. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa tín hữu cũng phải luôn thưa: ”Lậy Chúa, này con đây”. Lời thưa đó cũng có nghĩa là ”Xin Chúa phán, này tôi tở Chúa đang lắng nghe”, lắng nghe để hiểu biết ý muốn của Chúa và mau mắn làm theo.

Chương 18 trình thuật chuyến Thiên Chúa viếng thăm Abraham dưới hình của ba sứ giả. Đây là một thí dụ khác nữa cho thấy cuộc đối thoại thân tình giữa Thiên Chúa và Abraham, tổ phụ dân Israel. Một cuộc đối thoại rất đẹp, vì hoa trái của nó là người con nối dõi tông đường mà hai cụ già Abraham và Sara hằng mong đợi từ bao năm nay. Cuộc đối thoại với Thiên Chúa luôn đem lại các hoa trái mà con người không ngờ tới. Ở đây là Igiaác, nụ cười, niềm vui, sự ủi an và chồi lộc Thiên Chúa ban cho hai thân cây già cỗi khô cằn, không còn nhựa sống và không sinh hoa trái được nữa theo luật tự nhiên. Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.

Sau khi báo cho Abraham biết sang năm ông sẽ có con, Thiên Chúa cũng không muốn dấu ông ý định của Ngài là đi đánh phạt dân chúng hai thành Sodoma và Gomorra, vì cuộc sống dâm loạn và qúa bê tha tội lỗi của họ. Ở đây chúng ta tìm thấy vài khía cạnh khác nữa của lời cầu nguyện: đó là lời cầu bầu của tổ phụ cho người ngay lành thánh thiện cũng như cho kẻ tội lỗi. Abraham nài nẵng và mặc cả với Chúa để cứu những người lành thánh, trong đó có ông Lót là cháu và gia đình ông. Abraham thưa với Chúa: “Chẳng lẽ Ngài lại tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét cử công minh sao?” Đức Chúa đáp: ”Nếu Ta tìm được trong thành Sôđôma năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó”.

Từ năm mươi người lành, Abraham giảm xuống dần chỉ còn mười người. Nhưng Thiên Chúa cũng đã không tìm thấy mười người ngay lành thánh thiện trong thành, nên Sôđôma và Gômora đã bị lửa diêm sinh từ trời rơi xuống thiêu rụi. Cuộc đối thoại của tổ phụ Abraham với Thiên Chúa còn cho thấy hiệu năng của lời cầu nguyện. Nó có thể cứu sống sinh mạng của những người tội lỗi nữa.

Tuy nhiên, trong cuộc sống của tổ phụ Abraham còn có một biến cố thê thảm khác nữa: đó là khi Thiên Chúa truyền cho Abraham sát tế Igiaác cho Ngài để thử lòng và để tôi luyện đức tin của ông, như kể trong chương 22 sách Sáng Thế. Ở đây cuộc đối thoại của tổ phụ Abraham với Thiên Chúa rất ngắn gọn. Thiên Chúa gọi, ông thưa ”Dạ, con đây”. Rồi Thiên Chúa phán: ”Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Igiaác, hãy đi đến xứ Morigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,1-2). Chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi khổ đau xâu xé nát lòng tổ phụ như thế nào. Nhưng trình thuật cho thấy Abraham mau mắn thi hành đòi hỏi xem ra vô lý và tàn ác của Thiên Chúa. Sáng hôm sau ông dậy sớm thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con là Igiaác. Ông bổ củi để đốt lễ toàn thiêu rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba Abraham ngước mắt lên và thấy nơi tế lễ ở đàng xa. Ông dặn đầy tớ: ”Các ngươi ở lại đây với con lừa, còn cha con ta đi lên tận đằng kia; chúng ta làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các ngươi”. Tuy ông biết mình sẽ sát tế con, nhưng vẫn xác tín rằng mình sẽ cùng con trở về với các đầy tớ. Ông lấy củi để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai con. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. Khi Igiaác hỏi ”có củi có lửa ở đây còn chiên làm lễ toàn thiêu ở đâu”, ông trả lời: ”Chiên làm lễ toàn thiêu chính Thiên Chúa sẽ liệu con ạ”. Lên tới nơi, Abraham dựng bàn thờ, xếp củi lên, trói Igiaác lại và đặt lên bàn thờ trên đống củi, rồi đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Nhưng sứ thần của Chúa từ trời gọi ông: ”Abraham, Abraham”. Ông thưa: ”Dạ, con đây”. Người nói: ”Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc”. Ông Abraham ngước mắt lên thì nhìn thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt lấy nó dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.

Thật ra, Thiên Chúa chỉ muốn thử lòng tin của tổ phụ chứ không muốn cái chết của người con mà chính Ngài đã ban cho ông. Điều Thiên Chúa muốn đó là cái chết của chính cái ”tôi” của Abraham, của tâm thức con người trần gian. Abraham phải sát tế nó, để có một đức tin mạnh mẽ tinh tuyền, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, bước vào trong cái luận lý của Thiên Chúa, nhìn mọi sự với cái nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần điều đó để biến ông trở thành tổ phụ của dân riêng Người chọn, từ đó phát xuất ra Đấng Messia, Đầng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, là Đức Giêsu Kitô dòng dõi vua Đavít thuộc chi tộc Giuđa. Đó cũng là thứ đức tin mà Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi và chờ mong nơi các môn đệ và các kitô hữu.

Như thế, cuộc đời của tổ phụ Abraham cho chúng ta thấy thái độ sống nòng cốt của tổ phụ là cầu nguyện đối thoại thân tình với Thiên Chúa. Và hoa trái của lời cầu nguyện đó là tâm tình tin yêu phó thác, lắng nghe, vâng phục, quảng đại và luôn sẵn sàng với Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Chúa định liệu những gì Ngài muốn trong cuộc đời mình, theo chương trình cứu độ của Ngài.

Linh Tiến Khải
Nguồn:  vietvatican

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Các sự kiện nổi bật của Giáo hội Công giáo trong năm 2014

WHĐ (28.12.2014) – Năm 2014 sắp kết thúc. Theo thông lệ, Ban biên tập Trang tin điện tử Hội đồng Giám mục Việt Nam bình chọn 10 sự kiện đáng chú ý nhất trong sinh hoạt của Giáo hội toàn cầu và Giáo hội Việt Nam 365 ngày qua.

– Giáo hội toàn cầu:

1/ Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình

Thượng Hội đồng Giám mục đã khai mạc Khoá ngoại thường về gia đình vào Chúa nhật 05-10-2014, với Thánh Lễ trọng thể do Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Chủ đề củaThượng Hội đồng là “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng”. Sáng Chúa nhật 19-10, ngày Khánh nhật Truyền giáo 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô và các nghị phụ đã đồng tế Thánh lễ Tạ ơn bế mạc Thượng Hội đồng và tuyên phong Chân phước cho Đức giáo hoàng Phaolô VI.

2/ Tôn phong hiển thánh hai Đức giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Chúa nhật 27-04-2014, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử 2.000 năm của Giáo hội Công giáo, hai vị giáo hoàng được tôn phong hiển thánh trước sự hiện diện của hai vị giáo hoàng và gần một triệu tín hữu trên khắp thế giới.

3/ Năm Đời sống thánh hiến

“Năm Đời sống thánh hiến” do Đức Thánh Cha Phanxicô thiết lập đã chính thức khai mạc vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, 30-11-2014. Thánh Lễ trọng thể khai mạc Năm Đời sống thánh hiến được cử hành tại Vươngcung thánh đường Thánh Phêrô do Đức hồng y João Braz de Aviz, Bộ trưởng Bộ Đời sống thánh hiến và các Tu đoàn tông đồ, chủ tế. Năm Đời sống thánh hiến thực tế kéo dài hơn một năm, và sẽ kết thúc vào ngày 02 thángHai 2016.

4/ Thành lập Quốc vụ viện Kinh tế

Với Tự sắc Fidelis dispensator et prudens ban hành ngày 24-02-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập Quốc vụ viện Kinh tế, và đã bổ nhiệm Đức hồng y Georges đứng đầu Viện này. Quốc vụ viện Kinh tế là một cấu trúcmới có nhiệm vụ “điều phối trong lĩnh vực kinh tế và hành chính của Toà Thánh và Nhà nước Vatican”.

5/ Đức Thánh Cha tông du Thánh Địa

Trong ba ngày từ 24 đến 26 tháng Năm, Đức Thánh Cha đã thực hiện chuyến tông du Thánh Địa, để kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ đại kết lịch sử giữa Đức giáo hoàng Phaolô VI và Đức Thượng phụ Athenagoras.

6/ Cầu nguyện cho hoà bình tại Thánh Địa

Buổi “Gặp gỡ-cầu nguyện cho hoà bình tại Thánh Địa” –theo sáng kiến của Đức Thánh Cha  Phanxicô trong chuyến tông du Thánh Địa 3 ngày hồi cuối tháng Năm 2014– đã diễn ra tại Vatican ngày 08-06-2014 với sự hiện diện của Tổng thống Israel Shimon Peres, Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas, Đức Thượng phụ Bartholomaios và Đức Thánh Cha Phanxicô.

7/ Đức Thánh Cha tông du Thổ Nhĩ Kỳ

Từ ngày 28 đến 30-11-2014, Đức Thánh Cha đã thực hiện chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ, theo lời mời chung của Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Thổ Nhĩ Kỳ và Đức Thượng phụ Constantinopolis là Bartholomaios I. Chiều kích đại kết là nét chính của chuyến viếng thăm này. Kết thúc chuyến tông du, Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng phụ Bartholomaios I đã ký một Tuyên bố chung.

8/ Đức Thánh Cha tông du Hàn Quốc và tham dự Đại hội Giới trẻ châu Á

Từ ngày 14 đến 18 tháng Tám, Đức Thánh Cha đã đã thực hiện chuyến tông du Hàn Quốc. Đây là chuyến tông du đầu tiên đến châu Á của Đức Thánh Cha Phanxicô. Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã tham dự Đại hội Giới trẻ châu Á lần thứ sáu và tôn phong Chân phước cho Paul Yun Ji-Chung và 123 người bạn, tất cả đều chịu tử đạo vì đức tin.

9/ Đức hồng y Tauran được bổ nhiệm làm Hồng y Nhiếp chính

Ngày 20-12-2014, Đức hồng y Jean-Louis Tauran đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm “Hồng y Nhiếp chính của Giáo hội Roma”. Đức hồng y Tauran năm nay 71 tuổi, đã từng là “Bộ trưởng Ngoại giao” vào thời Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II từ năm 1990 đến 2003. Từ năm 2007, ngài là Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn.

10/ Chủ tịch Hội đồng Giám mục của Cộng đồng Công giáo “thầm lặng” Trung Quốc qua đời

Đức Giám mục Giuse Phạm Trung Lương, Dòng Tên, giám mục Thượng Hải, 96 tuổi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục của Cộng đồng Công giáo “thầm lặng” Trung Quốc, và là người lãnh đạo cộng đồng Công giáo “thầm lặng” tại Thượng Hải, qua đời tại Thượng Hải hôm Chúa nhật 16-03-2014, sau một thời gian dài lâm bệnh.

– Giáo hội Việt Nam:

1/ Khánh thành Văn phòng Hội đồng Giám mục

Đúng ba năm sau ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng (26-04-2011), Văn phòng Hội đồng Giám mục của Hội đồng Giám mục Việt Nam, toạ lạc tại 72/12 Trần Quốc Toản, Phường 8, Quận 3, TP.HCM, đã hoàn thành. Lễ khánh thành được cử hành trọng thể vào lúc 18g15 thứ Năm 24-04-2014, nhân dịp Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) họp Hội nghị Thường niên Kỳ I/2014.

2/ Kỷ niệm 400 năm Dòng Tên đến loan báo Tin Mừng trên Đất Việt

Ngày 18-01-2014, tại nhà thờ Chính toà Sài Gòn, Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng giám mục phó Tổng giáo phận TP. HCM, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã cử hành Thánh Lễ khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 400 năm Dòng Tên đến loan báo Tin Mừng trên Đất Việt. Năm Thánh sẽ bế mạc ngày 18-01-2015.

3/ Legio Mariae kỷ niệm 66 năm hiện diện tại Việt Nam

Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và mừng Đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15/8), đồng thời mừng kỷ niệm 66 năm Legio Mariae hiện diện trên dải đất Việt Nam (12/08/1948 – 12/08/2014), đông đảo hội viên Legio Mariae hoạt động và tán trợ thuộc các cấp Hội đồng trong Hệ thống Legio Mariae tại Việt Nam miền Sài Gòn cùng với quý cha, quý tu sĩ linh giám đã cử hành Thánh lễ tạ ơn vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy 2/8/2014 tại nhà thờ giáo xứ Thị Nghè, Tổng giáo phận Tp.HCM.

4/ Lễ khánh thành và cung hiến Nhà thờ Chính toà giáo phận Phú Cường

Sau gần 5 năm thi công, kể từ ngày Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ làm phép viên đá đầu tiên (13-06-2009) xây dựng ngôi Nhà thờ Chính toà mới, công trình của toàn thể Dân Chúa giáo phận Phú Cường đã hoàn tất và ngày thứ Sáu 25-04-2014 Nhà thờ Chính toà mới đã được cung hiến và khánh thành.

5/ Tân Tổng giám mục Tổng giáo phận TP. HCM

Ngày 22-03-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận đơn từ nhiệm Tổng giám mục Tổng giáo phận TP. HCM (Việt Nam) của Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn. Theo giáo luật, kế nhiệm Đức hồng y Gioan Baotixita là Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng giám mục phó Tổng giáo phận TP. HCM.

6/ Tân giám mục giáo phận Mỹ Tho

Ngày 26-07-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, hiện đang là Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, hiệu toà Trofimiana, làm Giám mục giáo phận Mỹ Tho.

7/ Tân Giám mục phụ tá giáo phận Long Xuyên

Ngày 05-04-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm cha Giuse Trần Văn Toản, Giám đốc Trung tâm Mục vụ giáo phận Long Xuyên, làm Giám mục phụ tá giáo phận Long Xuyên, hiệu toà Acalisso. Lễ tấn phong tân Giám mục diễn ra ngày 29-05-2014 tại Nhà thờ Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, giáo phận Long Xuyên.

8/ Đức Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt: Sứ Thần Toà Thánh tại Sri Lanka

Ngày 22-03-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt –hiệu toà Rusticiana, hiện đang là Sứ thần Toà Thánh tại Costa Rica–, làm Sứ thần Toà Thánh tại Sri Lanka. Đức Tổng giám mục Phêrô từng đảm nhiệm chức vụ Sứ thần Toà Thánh tại các quốc gia: Benin và Togo (2002), Chad và Cộng hoà Trung Phi (2005), Costa Rica (2008).

9/ Hồ sơ xin phong Chân phước cho cha Trương Bửu Diệp: không có gì ngăn trở

Ngày 31-10-2014, Bộ Phong Thánh đã chính thức gửi thư cho Đức cha Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ, thông báo rằng không có gì ngăn trở trong việc xúc tiến hồ sơ xin phong Chân phước cho Cha Trương Bửu Diệp. Hồ sơ xin phong Chân phước cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp đã được Đức cha Stêphanô chính thức cho xúc tiến từ năm 2011.

10/ Cuộc họp vòng thứ năm của Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam–Toà Thánh

Từ ngày 10 đến ngày 11 tháng Chín 2014, Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam–Toà Thánh đã nhóm họp vòng thứ năm tại Hà Nội. Cuộc họp nhằm “củng cố và phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam và Toà Thánh”.

WHĐ


1293    11-02-2015 19:50:19