Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Nguyệt san tháng 02/2016: Vấn đề người di dân và tị nạn

1. LỜI CHỦ CHĂN

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

6. TRANG LINH MỤC

7. TRANG TU SĨ

8. TRANG SỐNG ƠN GỌI

9. TRANG THIẾU NHI

10. TRANG GIỚI TRẺ

11. TRANG GIA ĐÌNH

12. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

13. TRANG QUỚI CHỨC

14. SỐNG ĐẸP

 15. SỐNG LỜI CHÚA

16. CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

17. THẦN HỌC KINH THÁNH

18. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

19. CHÚT TÂM TÌNH

 

1. LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.01.2016

Kính gửi: Quý Cha

              Quý Tu sĩ nam nữ

              Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 

Anh chị em thân mến,

Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về lý do và mục đích Năm Thánh Ngoại Thường Lòng Thương Xót. Tháng nầy, tôi đề cập đến thuật ngữ Lòng Thương Xót trong Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót.

Tông Sắc nầy nêu lên bốn ý nghĩa của thuật ngữ “Lòng Thương Xót”: - Lòng Thương Xót là lời mặc khải Mầu Nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh; - Lòng Thương Xót là hành động chung cuộc và tối thượng, qua đó Thiên Chúa sẽ gặp gỡ chúng ta. - Lòng Thương Xót chính là quy luật nền tảng được đặt vào trái tim con người khi con người nhìn nhau với đôi mắt chân thành; - Lòng Thương Xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con người, mở ra cho con người niềm hy vọng được Thiên Chúa yêu thương cho dù con người tội lỗi (số 2).

Lòng Thương Xót trong tiếng La Tinh: - Misereri (thương hại)- Cor, cordis (trái tim). Nó có nghĩa : Lòng Thương Xót là có trái tim nhạy cảm, thương hại trước những cảnh khốn khổ, trước những đau khổ đủ mọi hình thức thể xác lẫn tâm hồn của những người nghèo: thể xác sống thiếu thốn, tinh thần sống trong sự yếu đuối, trong sự nguội lạnh trễ nải và  trong tội lỗi. Trái tim luôn luôn rộng lượng tha thứ cho những ai hoán cải. Trái tim nầy không bị giản lược vào những tình cảm suông, nhưng là một trái tim hành động trong ý muốn và trong việc làm. Trái tim nầy thúc đẩy phải làm điều gì đó để làm dịu bớt, hoặc làm mất đi sự khốn khổ của tha nhân như làm cho chính mình. Một trái tim hướng về những người nghèo.

Trái tim gương mẫu trong loại nầy là Trái tim của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn thương xót con người vì con người sống trong những giới hạn của mình, trong sự yếu đuối của mình. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội. Con người là những người nghèo khổ trước mặt Thiên Chúa, con người cần được thương xót. Hành động của tình yêu Thiên Chúa là việc Ngài gửi Con của Ngài để dẫn đưa tất cả mọi người trở về với Ngài. Cho nên, việc mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi cho con người; việc cho con người gặp gỡ, nối kết với Thiên Chúa, việc mở ra cho con người niềm hy vọng được yêu thương; việc con người nhìn nhau với đôi mắt chân thành là thể hiện Lòng Thương Xót, không chỉ trong tâm trí nhưng còn trong việc làm nữa.

Ước gì mọi người chúng ta cùng suy gẫm những ý nghĩa của Lòng Thương Xót trong tháng nầy.

Nhân dịp đầu năm mới Bính Thân, chúng ta cùng cầu xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta, xin Chúa cho chúng ta biết suy nghĩ, biết thực hiện lòng thương xót lẫn nhau trong suốt Năm Thánh này và suốt cả đời chúng ta, như Chúa đã thương xót chúng ta.

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 01/2016

 Lời Giải Đáp Của Tin Mừng Lòng Thương Xót

Cho  Vấn Về Người Di Dân Và Tị Nạn

 “Hãy có lòng thương xót như Cha của anh em

là Đấng hay thương xót” (Lc 6,36)

 Đức Thánh Cha Phanxicô, trong sứ điệp Ngày Thế giới về Di dân và Tị nạn 17.01.2016 năm nay với chủ đề “Người Di dân và Tị nạn chất vấn chúng ta: lời giải đáp của Tin Mừng về Lòng Thương Xót”, cảnh giác mọi người rằng ‘dửng dưng và im lặng trước thảm cảnh người di dân và tị nạn là mở đường cho sự đồng lõa, khi chúng ta như khán giả chứng kiến cái chết vì ngộp thở, vì kiệt sức, bạo lực và đắm tàu”.

 1. Thực trạng di dân và người tị nạn chất vấn

 “Này đây, Ta đứng ngoài cửa mà gõ” (Kh 3,20)

 Tình trạng tị nạn ngày nay làm gia tăng sự chú ý của thế giới, đặc biệt những đoàn người đang tìm tránh thoát các cuộc chiến tranh ở Syria, Bắc Phi, thảm cảnh đắm tàu, bạo lực, kiệt lực, … Cộng thêm vào hiện tượng di dân vì lí do kinh tế xảy ra ở khắp các đất nước vì hoàn cảnh ngày càng cách biệt giữa cuộc sống nông thôn và đô thị.

 Riêng tại Việt Nam, biểu đồ Các tỉnh thành có tỉ lệ người di cư năm 2009 sau đây cho ta thấy hiện trạng di dân tại các tỉnh thành về con số:[1]

 Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha nói đến ”làn sóng di dân liên tục gia tăng ở mọi miền trên thế giới.. Càng ngày càng có những nạn nhân của bạo lực và nghèo đói rời bỏ nguyên quán, chịu sự hành hạ của những kẻ buôn người trong hành trình tiến về giấc mơ một tương lai tốt đẹp hơn”. “Hơn lúc nào hết, ngày nay Tin Mừng về lòng thương xót lay động lương tâm, ngăn chúng ta đừng vô cảm trước những đau khổ của người khác, và chỉ dẫn cách đáp ứng bám rễ sâu từ trong các nhân đức đối thần tin, cậy, mến, và được diễn tả qua các hoạt động từ bi bác ái về tinh thần cũng như thể lý”.[2]

 2. Một lịch sử cứu độ qua di dân

 Lịch sử của dân Chúa Cựu ước được đặc trưng là một di dân: gia đình tổ phụ Giacóp di cư sang Ai cập tránh nạn đói, câu chuyện cuộc hôn nhân của Bà Rút với ông Bôat trong bối cảnh tha hương hội nhập giữa dân ngoại với dân Do Thái được Luật Chúa bảo vệ. Trong Tân ước, Dung mạo của Lòng Thương Xót của Chúa tỏ lộ qua: Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong trong đó có một người ngoại kiều (Lc 17,18), câu chuyện dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (Lc 30,30-37), “Ta là khách lạ mà các ngươi đã viếng thăm” (Lc 3,32). Và chính Thánh Gia trốn sang Ai Cập là biểu tượng và là nguồn cảm hứng của mối quan tâm chăm sóc đặc biệt cho người lao động di dân và gia đình họ.

 Đức Thánh Cha nhắc nhở cho các tín hữu rằng ”những người di dân là anh chị em chúng ta đang tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn, thoát được nghèo đói, bóc lột và bất công trong việc phân phối tài nguyên thế giới”. Ngài cũng khẳng định rằng ”sự hiện diện của những người di dân và tị nạn đang chất vấn nghiêm trọng các xã hội đón tiếp họ ... Làm thế nào để sự hội nhập người di dân và tị nạn ấy làm cho nhau được phong phú, mở ra những con đường tích cực cho cộng đoàn, và vượt thắng những nguy cơ phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc, quốc gia chủ nghĩa cực đoan và nạn bài ngoại”.[3]

 Lời Chúa trong sách Khải huyền thúc đẩy các cộng đoàn (gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận, …) không ngại đe dọa sự yên ổn mà mở rộng cửa cho Chúa Giêsu, phản chiếu nơi dung mạo của anh chị em đó: “Này đây, Ta đứng ngoài cửa mà gõ” (Kh 3,20).

 3. Xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ với anh chị em di dân

 Sẵn sàng trao ban đồng thời sẵn sàng đón nhận là đặc trưng của nền văn hóa gặp gỡ mà Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến dụ gần đây. Những cuộc di dân lớn trong thời đại chúng ta do chiến tranh (tị nạn), do lao động hay du học, việc làm, du lịch,…những cuộc di dân sinh ra một hiện tượng mới, là sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa và từ đó có truyền giáo. Những người không công giáo đến các quốc gia các vùng miền có truyền thống Kitô giáo, tạo ra những cơ hội cho tiếp cận và trao đổi văn hóa, mời gọi Giáo hội đón tiếp, đối thoại, tham dự, nói tắt là tình huynh đệ.[4] Tất cả trào lưu ấy, ngay cả di dân của những Kitô hữu ra ngoài cộng đoàn Hội Thánh của họ, tạo ra những cuộc gặp gỡ nhiều hơn, đa dạng hơn, thường xuyên và toàn cầu, các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau hôm nay, tạo một xã hội nhân loại đa nguyên mọi cấp độ (chủng tộc, văn hóa, tôn giáo).

 Lòng thương xót chỉ thực sự là hành động của tình thương – bác ái khi đồng thời chúng ta xác tín sâu xa rằng chúng ta cũng nhận được lòng thương xót từ những kẻ chịu nhận nó từ chúng ta. Khía cạnh hai chiều hỗ tương là không thể thiếu trong thực thi lòng thương xót, nhất là trong nền văn hóa gặp gỡ.

 Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

 1. Trong Tông chiếu “Dung Mạo Lòng Thương Xót” (Số 20) nhấn mạnh tới lời Chúa Giêsu trích dẫn tiên tri “Ta muốn lòng thương xót, chứ không muốn hy lễ” (Hs 6,6) có thể áp dụng theo những chiều kích nào trong cuộc sống của anh chị ?

 2. Cộng đoàn giáo xứ, giáo phận, … nơi anh chị em di dân ra đi có chuẩn bị gì cho anh chị em để trở thành người loan báo Tin Mừng về lòng thương xót?

 3. Làm thế nào để sự hội nhập người di dân làm phong phú cho nhau, mở ra những con đường tích cực cho cộng đoàn, và vượt thắng những nguy cơ phân biệt đối xử? (Sứ điệp Quốc tế Di dân 2016).

 4. Anh chị em di dân cảm nghiệm thế nào về Lòng Thương Xót của Chúa trong cuộc sống của mình, và làm gì để đem Lòng Thương Xót của Chúa cho tha nhân?

----------------

[1] Trích Di Cư và Đô Thị Hóa ở Việt Nam: Thực Trạng, Xu Hướng và Những Khác Biệt, trang 40.

 [2] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới về Di dân và Tị nạn 17.01.2016, “Người Di dân và Tị nạn chất vấn chúng ta: lời giải đáp của Tin mừng về Lòng Thương Xót”.

 [3] Ibid.

 [4] Cf. ĐGH Gioan Phaolô II, Tđ. Redemptoris Missio 37.

  Văn Phòng HĐGMVN - UBLBTM

 

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Trong bầu khí những ngày đón Tết Bính Thân, người ta loại bỏ những cái hư, xấu, cũ... trong không khí Mùa Chay, người ta hy sinh hãm mình chịu khó... chuẩn bị lãnh ơn Đại Xá Lòng Thương Xót, người ta tập nhân từ tha thứ. Chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: “Ta hãy tạo thành con người giống hình ảnh Ta”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết tôn trọng phẩm giá con người, biết mình phải có lòng thương xót, để nên cao trọng xứng bậc làm con Thiên Chúa.

2. Chúa phán: “Phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết luyện tập, để mình có lòng thương xót vì Chúa đã thương xót mình, và để làm tăng phẩm giá con người.

3. Chúa phán: “Sao ngươi không thương xót anh em ngươi, như Ta đã thương xót ngươi”. Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu biết nâng cao phẩm giá mình, bằng việc noi theo lòng thương xót Chúa mà an ủi, giúp đỡ, và tha thứ cho anh chị em mình.

4. Chúa phán: “Hãy có lòng thương xót như Chúa Cha”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, biết nêu cao phẩm giá con người, nhờ việc sống lòng thương xót Chúa đối với anh chị em đang sống quanh mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa tạo dựng loài người do lòng thương xót Chúa. Xin cho chúng con khi được Chúa thương xót, được có phẩm giá cao trọng, thì cũng làm loan truyền lòng thương xót Chúa đến cho mọi người. Chúng con cầu xin… Amen.

 

  

4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

THIÊN CHÚA VỚI  KẾ HOẠCH TÌNH YÊU

Khi mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Kitô như tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, thì đồng thời ơn gọi của con người là yêu thương cũng được mạc khải. Mạc khải này soi sáng cho chúng ta hiểu phẩm giá con người và sự tự do của con người trong mọi khía cạnh, cũng như hiểu bản tính xã hội của con người một cách sâu xa. “Là con người theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” cũng là được hiện hữu trong một tương quan, trong tương quan với một “cái tôi” khác, vì bản thân Thiên Chúa “ vừa là một vừa là ba  “chính là sự hiệp thông giữa Cha, Con và Thánh Thần”.

Con người được mời gọi hãy khám phá nguồn gốc và mục tiêu của cuộc đời và lịch sử đời mình nơi sự hiệp thông yêu thương của Thiên Chúa, vì nơi đó Ba Ngôi yêu thương nhau và chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Hiến chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng, các Nghị phụ Công đồng dạy rằng “khi cầu xin Cha “cho chúng nên một” như Chúng Ta là một” (Ga 17, 21 - 22), Chúa Giêsu Kitô đã mở ra những chân trời mới mà lâu nay trí khôn con người chưa khám phá, đó là nhìn nhận có một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của con cái Thiên Chúa trong sự thật và tình yêu. Sự tương tự này cho thấy nếu con người là thụ tạo duy nhất trên thế gian này mà Thiên Chúa muốn tạo dựng vì chính con người, thì con người chỉ có thể khám phá ra bản ngã đích thực của mình khi chân thành trao ban chính mình (x. Lc 17, 33).

Mạc khải Kitô giáo đã chiếu ánh sáng mới mẻ cho chúng ta hiểu bản sắc, ơn gọi và định mệnh cuối cùng của con người và của nhân loại. Mỗi người đều do Thiên Chúa tạo dựng, đều được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, và sẽ tự hoàn thành chính mình bằng cách thiết lập mạng lưới quan hệ yêu thương, công bằng và liên đới với những người khác, khi tiến hành các việc làm khác nhau trong thế giới. Bất cứ hoạt động nào của con người mà giúp phát huy phẩm giá và ơn gọi đầy đủ của con người, đẩy mạnh các điều kiện sống cho có chất lượng và giúp các dân tộc, các quốc gia liên đới với nhau, đều là những hoạt động phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng không ngừng bày tỏ tình yêu và sự quan tâm lo lắng cho con cái mình.

Các trang đầu tiên của quyển sách thứ nhất trong Thánh Kinh, khi mô tả con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1, 26- 27), đã bao gồm một giáo huấn cơ bản về bản sắc và ơn gọi của con người. Chúng cho chúng ta biết rằng tạo dựng con người là một hành vi hoàn toàn tự nguyện và vô điều kiện của Thiên Chúa; vì là những con người tự do và có hiểu biết, nên con người chính là “tha nhân” do Chúa sáng tạo, và chỉ khi liên hệ với Ngài, con người mới khám phá ra, mới thực hiện được đúng đắn và đầy đủ ý nghĩa của đời sống cá nhân cũng như xã hội của mình. Chúng còn cho ta hiểu rằng chính khi con người bổ túc cho nhau và trao đổi với nhau, con người mới là hình ảnh tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa trong vũ trụ. Đấng Tạo Hoá cũng trao cho con người, chóp đỉnh của công trình tạo dựng, nhiệm vụ sắp xếp thiên nhiên được tạo thành ấy theo ý định của Ngài (x. St 1,28).

Sách Sáng Thế còn cung cấp cho chúng ta một số nền tảng làm nên khoa nhân học Kitô giáo như phẩm giá bất khả chuyển nhượng của con người, gốc rễ và bảo chứng của phẩm giá ấy nằm trong ý định sáng tạo của Thiên Chúa; bản tính xã hội chủ yếu của con người mà mẫu gốc của bản tính ấy là mối quan hệ nguyên thuỷ giữa người nam và người nữ, sự kết hợp của hai người này “chính là hình thức hiệp thông đầu tiên giữa con người với con người”. Ý nghĩa của những hoạt động con người thực hiện trong thế giới có liên quan tới việc khám phá và tôn trọng các định luật tự nhiên do Thiên Chúa khắc ghi trong vũ trụ mà Ngài đã tạo thành, để con người có thể sống trong vũ trụ ấy và chăm sóc vũ trụ ấy theo ý muốn của Thiên Chúa. Cái nhìn về con người, xã hội và lịch sử này bám rễ rất sâu trong Thiên Chúa và sẽ được thấy rõ hơn nữa khi kế hoạch cứu độ trở thành hiện thực.

Lời cầu nguyện của Dân thánh Chúa xưa nay đã cho chúng ta thấy được cảm nhận của con người về tình yêu của Thiên Chúa với các loài thụ tạo của Người.

Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con,

lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!

Uy phong Ngài vượt quá trời cao.

Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ

cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù,

khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan.

Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,

muôn trăng sao Chúa đã an bài,

thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,

phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?

Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,

ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,

cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,

đặt muôn loài muôn sự dưới chân:

Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng,

nào chim trời cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.

Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con,

lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu! (Tv 8)

 

 

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

B.      Đức Khó Nghèo

3/. Quản trị tài sản của dòng

Trong việc quản trị tài sản, ngoài quy tắc chung về việc quản trị tài sản Giáo hội được nói tới trong quển V của Bộ giáo luật, chúng ta thấy Giáo hội còn đưa ra vài điều đặc trưng trong việc quản trị tài sản của các dòng tu như sau:

a. Đặt người quản lý

Bề trên là người chịu trách nhiệm về chính sách kinh tế của toàn dòng. Tuy nhiên, việc quản trị tài chính thì được giao cho một người khác, mà chúng ta quen gọi là quản lý. Giáo luật điều 636§1 quy định:

Trong mỗi tu hội cũng như mỗi tỉnh dòng do một Bề Trên cấp cao lãnh đạo, phải có một người quản lý khác với Bề Trên cấp cao được đặt lên chiếu theo quy tắc của luật riêng, người này phải quản trị tài sản dưới sự hướng dẫn của Bề Trên liên hệ. Ngay cả trong các cộng đoàn địa phương, trong mức độ có thể, cũng phải đặt một người quản lý khác với Bề Trên địa phương.

Như vậy theo điều 636§1 thì hai chức vụ bề trên và quản lý phải được tách rời, ít là ở hai cấp: nhà mẹ và các tỉnh dòng; còn các cộng đoàn thì tùy thuộc vào mỗi nơi, nếu có thể thì cũng nên làm như vậy. Lý do tách rời ấy không những nhằm để cho bề trên bớt công việc, không bị bù đầu lo chuyện sổ sách kế toán, nhưng trên hết nhằm để khi hoạch định các kế hoạch tông đồ, bề trên không bị chi phối bởi các tiêu chuẩn thuần túy kinh tế.

b. Báo cáo tài chính

Các quản lý phải tường trình sổ sách vào thời kỳ luật định (hàng tháng, hàng 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm) lên nhà chức trách có thẩm quyền (của dòng), do luật riêng ấn định, như điều 636§2 quy định: “Vào thời kỳ và theo cách thức do luật riêng ấn định, các quản lý và các người quản trị khác phải tường trình cho nhà chức trách có thẩm quyền về việc quản trị”. Ngoài ra, ở điều 637 cũng nói thêm về việc báo cáo tài chánh Đấng Bản Quyền địa phương : “Các đan viện tự trị được nói đến ở điều 615 phải tường trình cho Đấng Bản Quyền địa phương mỗi năm một lần về việc quản trị; ngoài ra, Đấng Bản Quyền địa phương có quyền biết việc kế toán của một nhà dòng thuộc luật giáo phận. Việc tường trình và kiểm soát như vậy sẽ giúp cho việc quản lý được cẩn thận chính xác hơn, cũng như nếu có những sai lầm sửa chữa sớm sẽ tốt hơn.

c. Pháp lý và trách nhiệm

Điều 638

Trong khuôn khổ của luật phổ quát, việc xác định những hành vi nào vượt quá giới hạn và thể thức quản trị thông thường và việc ấn định những điều cần thiết để thực hiện thành sự một hành vi quản trị ngoại thường thuộc về luật riêng (đ.638§1).

Ngoài các Bề Trên, các viên chức được luật riêng chỉ định vào việc quản trị cũng có thể thực hiện thành sự các việc chi tiêu và các hành vi pháp lý thuộc việc quản trị thông thường, trong giới hạn trách nhiệm của mình (đ.638§2). 

Để được hữu hiệu, việc chuyển nhượng và bất cứ việc gì khiến cho tình trạng di sản của pháp nhân bị thiệt thòi, phải có phép bằng văn bản của Bề Trên có thẩm quyền, với sự chấp thuận của hội đồng của ngài. Ngoài ra, còn buộc phải có phép của Tòa Thánh, nếu là một việc chi tiêu vượt quá số tiền được Tông Tòa ấn định cho mỗi miền, hoặc nếu là tài sản được dâng cho Giáo Hội do lời khấn, hoặc là các đồ vật quý giá vì giá trị nghệ thuật hay lịch sử (đ.638§3.)

Đối với các đan viện tự trị được nói đến ở điều 615 và đối với các tu hội thuộc luật giáo phận, phải có sự chấp thuận bằng văn bản của Đấng Bản Quyền địa phương (đ.638§4).

Điều 639

Nếu một pháp nhân mắc nợ và mắc các nghĩa vụ, ngay cả khi có phép của Bề Trên, thì chính pháp nhân ấy buộc phải chịu trách nhiệm về các món nợ và các nghĩa vụ đó, chứ không thể trút cho tu viện khác hoặc cho nhà dòng (x.đ.639§1).

Nếu một tu sĩ được phép Bề Trên ký hợp đồng liên quan đến tài sản riêng tư của mình, thì chính đương sự phải chịu trách nhiệm về hợp đồng đó; nhưng nếu đương sự được Bề Trên ủy quyền để giải quyết một công việc của tu hội, thì tu hội phải chịu trách nhiệm về việc đó (đ.639§2).

Nếu một tu sĩ đã ký hợp đồng mà không có phép của các Bề Trên, thì chính đương sự phải chịu trách nhiệm, chứ không phải pháp nhân (đ.639§3).

Tuy nhiên, vẫn giữ nguyên tắc là luôn luôn có thể khởi tố người đã thủ lợi từ hợp đồng đã được ký kết (đ.639§4).

Các Bề Trên dòng phải thận trọng đừng cho phép vay nợ, trừ khi biết chắc rằng có thể trả tiền lãi nhờ hoa lợi thông thường và có thể hoàn lại tiền vốn bằng cách trả góp một cách chính đáng trong một thời gian không quá lâu (đ.639§5).

Trên đây là những quy định của luật phổ quát, mỗi dòng cần phải có những luật riêng cho phù hợp với hoàn cảnh sống và thời đại, miễn sao giữ được nếp sống khó nghèo của đời dâng hiến, để được tự do hoàn toàn bước theo Chúa Giêsu Kitô làm chứng cho Tin Mừng.

C. Đức Vâng Lời

 

6. TRANG LINH MỤC

Ghen Ghét Và Đố Kỵ – Lời Nói Có Thể Giết Người

Thánh lễ tại nguyện đường Thánh Marta 21.01.2016

VATICAN. Sáng thứ 5, ngày 21.01, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta. Phụng vụ Giáo hội dành ngày hôm nay để kính nhớ thánh A-nê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã chia sẻ về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này.

“Bài đọc một trích sách Sa-mu-en thuật lại sự đố kỵ của Sa-un, vua Ít-ra-en, với Đa-vít. Sau chiến thắng vẻ vang trước người Phi-li-tinh, các phụ nữ từ khắp mọi thành của Ít-ra-en kéo ra múa nhảy và ca hát rằng: ‘Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đa-vít hàng vạn.’ Từ ngày đó trở về sau, vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tỵ và hoài nghi. Vua nghi ngờ sau này Đa-vít sẽ phản bội, và vì thế, vua nảy sinh ý định giết Đa-vít. Nhưng sau đó, vua Sa-un đã nghe lời khuyên của người con trai mà suy nghĩ lại, không thực hiện ý đồ xấu xa của mình nữa. Ghen ghét là một căn bệnh sẽ dẫn đến sự đố kỵ

Lòng đố kỵ thật xấu xa! Đó là một thái độ xấu. Sự ghen ghét và lòng đố kỵ phát triển trong lòng người ta như cỏ dại. Nó phát triển và không để cho bất kỳ thứ thảo mộc tốt lành nào có thể mọc lên được nữa. Thứ cỏ dại ấy sẽ khiến tâm hồn người ta ra tối tăm, bệnh hoạn. Nó không để cho con người được bình an nhưng khiến con tim luôn dằn vặt, đau đớn. Một con tim đố kỵ rất có thể dẫn đến việc mưu sát người khác. Kinh Thánh đã nói rất rõ: Lòng ghen tỵ tội lỗi đã mang sự chết vào trần gian.

Lòng đố kỵ dẫn ta đến việc ‘mưu sát’ những người đang sở hữu điều mà ta không có. Nhưng chúng ta sẽ luôn bị dằn vặt, vì một con tim ghen ghét và đố kỵ sẽ luôn khổ đau, một sự khổ đau muốn người khác phải chết. Chúng ta không phải đi đâu xa để có thể thấy những điều này. Rất nhiều lần, trong cộng đoàn của chúng ta, vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán. Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác.

Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về về đoạn Kinh Thánh ngày hôm nay. Tôi mời gọi chính mình và cũng mời gọi anh chị em hãy nhận ra những gì là ghen ghét, những gì là đố kỵ trong tâm hồn mình, vì lòng ghen tỵ luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng và hạnh phúc. Căn bệnh ghen tỵ luôn khiến chúng ta nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác sở hữu đang chống đối chúng ta. Và đây là một tội thật xấu, là khởi đầu của bao nhiêu tội ác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét và đố kỵ, vì lòng ghen tỵ chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi.

Tổng trấn Phi-la-tô thật thông minh và nhạy bén vì biết rằng chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giêsu. Lòng ghen tỵ – theo cách giải thích của Phi-la-tô, một người thông minh nhưng lại không đủ can đảm – chính là điều dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. Các thượng tế trao nộp Ngài vì ghen tỵ. Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta đừng vì ghen ghét, đố kỵ mà ra tay ‘trao nộp’ những người anh chị em của chúng ta trong cùng một xứ đạo, một cộng đoàn, một xóm làng, khiến họ phải đau khổ và phải chết. Ai cũng có những tội lỗi và thiếu sót, nhưng ai cũng có những nhân đức riêng của mình. Tội lỗi và nhân đức đều có nơi mỗi người. Chúng ta hãy để ý đến nhân đức chứ đừng giết chết người khác bằng những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ.”

Chuyển ngữ: Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

7. TRANG TU SĨ

MẢNH ĐỜI CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Tôi đang ngồi nơi làm việc, bỗng nghe có tiếng chó sủa tôi giật mình quay người lại, thì ra đó là chị Duyên.

- Chào Dì Hai, Dì Hai khỏe không?

- Chào chị, em cũng khỏe, em cám ơn chị. À, dạo này chị đi đâu mà sao thấy vắng vậy?

- Nhà con nghèo quá, làm mướn đâu có được bao nhiêu, mà đôi lúc cũng không có việc làm. Con được chị bạn giới thiệu ra miền ngoài hái cà-phê cho người ta, nên con và đứa con trai của con đi làm, còn chồng con và đứa con trai út ở nhà.

- Công việc làm của chị  ra sao rồi?

- Dạ vất vả lắm nhưng được cái là thu nhập cao hơn ở nhà Dì Hai ơi. Lúc mới ra đó ai mướn gì thì con làm đó, hơn nữa con đâu có quen ai ngoài đó. Có hôm trong nhà hai mẹ con không còn gạo ăn, cũng chẳng có tiền, nhưng con đâu biết mượn ai bây giờ. Con nhìn tấm hình Lòng Chúa Thương Xót mà Dì Hai cho con hôm trước đó, con đọc hàng chữ ghi trên tấm ảnh “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”, rồi con phó thác mọi sự cho Chúa và xin Chúa giúp mẹ con con … Sáng sớm hôm sau, con đi lễ ở nhà Thờ gần đó. Sau lễ con ngồi lại bên núi Đức Mẹ trong khuôn viên nhà thờ… Thấy con có vẻ khó khăn khốn khổ nên Cha đến hỏi thăm. Biết hoàn cảnh khó khăn của mẹ con con nên Cha quan tâm giúp đỡ nhiều lắm: cho gạo, cho thuốc, có lúc ngài soạn cho mấy bộ quần áo cũ… Cha đặc biệt thương lo cho những người di dân, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn.  Nhờ vậy, con mới dành dụm được thêm ít tiền để lo cho gia đình.

- Tốt quá! Cầu xin Chúa cho Cha có sức khỏe để ngài luôn là cánh tay nối dài của Chúa chăm lo cho các anh chị em có hoàn cảnh khó khăn.

- Dạ! Lúc ở đây thì được các Dì yêu thương nâng đỡ, ra ngoài kia thì cũng có Cha thương lo. Đúng là “con Chúa, Chúa lo”, đi đến đâu cũng thấy tình thương!

- Nghe chị nói vậy em mừng cho chị lắm. Lần nay chị về đây bao lâu trở ra ngoài đó?

- Dạ, con mang tiền về cho chồng con và ở nhà được một tuần, sau đó sẽ đi làm tiếp, vì sắp tới mùa cà phê nữa rồi. Dì Hai giữ gìn sức khỏe và cầu nguyện cho con nghen!

- Em sẽ nhớ tới gia đình chị trong giờ kinh nguyện. Chúc chị mạnh khỏe, làm việc tốt, cố gắng sống giữ đạo tốt nghe chị. Hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, nhất là trong năm nay là Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa!

Sau một cái siết tay đầy tình mến, chị Duyên vội vã ra về. Nhìn theo dáng chị, tôi chợt nhớ tới câu Thánh vịnh “Lòng  nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời”. Lời thánh vịnh như nhắc nhở tôi, Chúa luôn thương yêu và chăm lo cho tôi, cho tất cả mọi người không trừ ai, trong những lúc vui hay khi buồn chán thất vọng, Ngài còn quan tâm chăm sóc chúng ta trong những lúc chúng ta gặp gian nan cùng khốn nhất. Và chị Duyên đã cảm nhận được điều này bằng những trãi nghiệm trong cuộc sống qua những thăng trầm của cuộc đời chị. Chị đã nhận ra sự hiện diện và lòng thương xót vô biên của Chúa nơi những người mà chị gặp gỡ, và chị đã được nâng đỡ rất nhiều về tinh thần, đặc biệt là đời sống đức tin. Lòng thương xót ấy giúp chị có một sức khỏe tốt  để chị sớm thích nghi với môi trừơng sống mới. Lòng thương xót ấy còn bao phủ cuộc đời của chị, để chị giữ mãi nét chất phác thật thà chứ không “biến chất” vì cơm áo gạo tiền trong vòng quay của cuộc sống.

Lòng thương xót đó không thiên tư tây vị nhưng cách thể hiện trên mỗi mảnh đời khác nhau. Ước chi mọi người biết nhận ra lòng thương xót của chúa trong mọi biến cố của cuộc đời mình, để luôn biết tin tưởng và phó thác vào Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta biết sống trọn vẹn giây phút hiện tại để ngày sống của chúng ta luôn rộn rã khúc ca của việc loan báo tin mừng lòng thương xót Chúa và mỗi ngày có thể nói rằng: “tình thương Chúa đời đời con ca tụng” (TV 88, 2).

MTG Cái Nhum

 

8. TRANG SỐNG ƠN GỌI

DẤU CHỈ ƠN GỌI TU HỘI ĐỜI

Sống thánh hiến giữa đời khác với lối sống tận hiến trong các tu viện. Không có vấn đề hơn kém ở đây, mà chỉ có vấn đề sống tận hiến cách khác nhau mà thôi. Mỗi lối sống có những sở trường sở đoản riêng, có những lợi, bất lợi riêng. Chính vì thế, các dấu chỉ ơn gọi theo hai lối sống cũng khác nhau phần nào. Đây một số dấu chỉ của ơn gọi sống thánh hiến giữa đời:

1. Xác tín căn bản; lối sống nào cũng đòi mình phải hiến dâng tình yêu đối với Chúa và phải yêu mến Ngài mỗi ngày mỗi hơn:

Không phải mình sợ sống tận hiến cộng đoàn mà mình chọn lựa lối sống tận hiến giữa đời. Nếu như vậy, là dấu mình sợ hy sinh triệt để vì Chúa. Và như thế, đã sợ hy sinh thì lối sống tận hiến nào cũng không hợp với mình. Sống tận hiến luôn đòi triệt để hy sinh để yêu mến Chúa trọn vẹn. Còn lối sống thế này hay thế nọ, chỉ là phương tiện để đạt mục tiêu riêng của lối sống đó, một mục tiêu mà mình muốn đạt được.

- Nếu muốn làm muối cho đất và men trong bột như Chúa bảo, thì lối sống Tu Hội Đời chắc là phương tiện thích hợp hơn, mặc dầu xét theo một khía cạnh khác, gặp những nguy hiểm hơn;

- Nếu muốn nên giống Chúa Giêsu thợ trong xưởng Nazareth, thì lối sống giữa đời giúp ta nên giống Chúa Giêsu thợ nhiều hơn, và bắt chước như vậy, cũng đòi nhiều hy sinh ta phải quảng đại mới chấp nhận được. Tận hiến giữa đời không có nghĩa là hy sinh ít hơn mà chỉ có nghĩa là hy sinh nhiều, nhưng cách khác, nếu sánh với các Dòng tu.

2. Muốn sống ẩn dật âm thầm:

Đời sống tận hiến trong Cộng Đoàn là Lời chứng công khai, có thể được coi như thành trì xây trên núi, ai cũng có thể thấy. Qua bộ tu phục để được người ta nhận ra là mình thuộc bậc trọn lành, được kính nể hơn, mặc dầu đương sự không tìm kiếm những vinh dự đó.

Sống thánh hiến giữa đời là Lời chứng thầm lặng, không được như thế : không công đoàn, không tu phục, sống bề ngoài hệt như trăm ngàn người khác, không ai để ý tới mình, không ai đặc biệt kính nể mình, không ai chào hỏi mình là “Dì”, là “Sơ”, là “Thầy”… Sống vùi mình trong đám đông, như vô tích sự trước mặt cộng đoàn tín hữu quá quen với não trạng cổ truyền (=tu là phải xuất thế, phải có áo dòng). Muốn lối sống như trên mới là thành viên của Tu Hội Thừa sai Chúa Giêsu tôi tớ được.

3. Phải cảm thấy mình muốn dấn thân phục vụ:

Chính vì việc tông đồ mà mình lăn xả vào đời; được tự do tiếp xúc với mọi người, mình phải coi việc tông đồ như là một nhu cầu sống, như thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Cor 9,16). Dĩ nhiên phải hoạt động tông đồ với phương cách hợp với người tận hiến giữa đời. Phải biết khắc khoải về số phận đời đời của các anh chị em mình tiếp xúc hằng ngày, phải biết “khát” các linh hồn, như Đức Giáo Hoàng đã nói trong Tự Sắc Primo feliciter (số 2). Phải ý thức sâu xa rằng Chúa đã trao mình cho anh chị em đồng loại, và trao anh chị em đồng loại cho mình, và như vậy “đối với mình, rời bỏ thế gian chẳng khác nào đào ngũ”. Say mê việc tông đồ nhưng với cách làm phù hợp với tinh thần của Tu Hội đời.

4. Có khả năng phán đoán và quyết định đặc biệt hơn:

Tận hiến trong Tu Viện được nhiều sự nâng đỡ thiết thực hơn. Có Bề trên sẵn đấy, mình đỡ phải quyết định; Tu viện có thể đón nhận và thánh hóa các tâm hồn có ít (Ít, chứ không phải là không có) khả năng nhận lãnh trách nhiệm khi sống lẻ loi một mình. Nhưng sống tận hiến giữa đời, các thành viên phải là người trưởng thành, hoàn toàn có thể làm bề trên cho chính mình, để tự mình quyết định lấy nhiêu công việc, nhất là những công việc trần thế mình đã lựa chọn.

5. Phải có một hoạt động trần thế và thích hoạt động đó:

Phải có một nghề nghiệp ổn định đời sống trong các môi trường giáo dục, y tế, xã hội, từ thiện, sản xuất, nghiên cứu khoa học; trong các xí nghiệp các hợp tác xã v.v… Không có nghề nghiệp hay chưa có, thì chưa vội sống tận hiến giữa đời; cũng như không có một khả năng trần thế nào đó thì được coi như không có ơn gọi tận hiến giữa đời để thánh hóa việc trần thế, để thánh hoá thế gian cho Chúa, vì đó là mục đích chủ yếu của các Tu Hội Đời.                  

Nguồn: Conggiao.org

 

9. TRANG THIẾU NHI

TRỞ NÊN NGHÈO KHÓ

"Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ". (Mt 5, 3)

Đây là mối phúc đầu tiên trong bảng Hiến chương Nước Trời của Chúa Giêsu. Đối với người tín hữu từng điều trong bảng Hiến chương này đã được biết ngay từ lúc học giáo lý rước lễ lần đầu. Đoạn Tin mừng về những mối phúc này lại được Giáo hội chọn để suy niệm ngày lễ các thánh Nam Nữ hằng năm. Vì thế, thực hiện được những mối phúc này người tín hữu sẽ đạt được tình trạng THÁNH.

Tại Hội đường Nagiaret, Chúa Giêsu đọc đoạn Kinh thánh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó,...” (Lc 4, 18). Thiên Chúa Cha muốn mọi người biết tích cực đón nhận Tin mừng Ngài gởi đến qua Chúa Giêsu. Nhưng chỉ những ai biết thật sự trở nên nghèo khó mới có thể đón nhận được.

Người nghèo khó là những người không có gì riêng cho mình. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Họ như những trẻ nhỏ mà Chúa Giêsu đã nói: "Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời." (Mt 18, 3)

Người giàu có là những người có tiền của, địa vị chức quyền, tuổi tác...họ thích cậy dựa vào đó để tỏ ra dửng dưng với Chúa và lạnh lùng với anh chị em. Họ thích lấy những gì mình có để trấn áp người khác. Chúa nói với những ấy: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 24b – 25).

Có câu: “Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”. Chính Chúa Giêsu đến với con người bằng con đường đơn sơ nghèo khó. Do đó, những ai có tinh thần nghèo khó trong đời sống dễ dàng được gần gũi với Chúa, được Chúa ngự vào lòng và sẽ nắm chắc được tình trạng trở nên THÁNH.

 

HÃY TRÂN TRỌNG THỜI GIAN CỦA BẠN

Chúng ta thường nói rằng: thời gian là tiền bạc nhưng có mấy người trong số chúng ta biết trân trọng giá trị của nó. Rất nhiều người, thậm chí xem việc người khác chờ đợi mình là việc đương nhiên, là “chiêu trò” để nâng cao giá trị bản thân. Thế nhưng họ không biết rằng, chính họ đang lãng phí rất nhiều từ cuộc sống.

Có bao giờ bạn bị người khác cho “leo cây” chưa? Có bao giờ bạn phải dài cổ ngóng ai đó để rồi họ đến với nụ cười “xuề xòa” trên môi. Bạn có tức giận không, có cảm thấy người đó vô duyên và đáng chán đến nhường nào không? Hãy đặt mình vào vị trí của người phải chờ đợi để biết rằng điều khó khăn trong cuộc sống này chính là CHỜ ĐỢI.

Bạn có bao nhiêu thời gian?

Mỗi người một ngày chỉ có 24 tiếng mà thôi, không ai nhiều hơn ai cũng không ai ít hơn ai về quỹ thời gian đó. Nhưng có người dư giả, có người lại thiếu. Tất cả chỉ vì họ không biết cách sử dụng thời gian thế nào cho hợp lý.

Nhiều lúc chúng ta tìm đến các tụ điểm vui chơi, các quán xá để “giết thời gian” mà không biết rằng mình đang lãng phí quá nhiều “châu báu”. Bạn sẽ hạnh phúc hơn sau khi rời khỏi những tụ điểm đó hay ra về với vẻ mặt mệt mỏi và thân xác rã rời? Đừng nghĩ rằng, bất cứ lúc nào chúng ta cũng được phép “xả” hết quỹ thời gian của mình, phải biết tiết kiệm để bạn và những người thân luôn cảm thấy mình giàu có và được trân trọng. Hãy dành một chút trong quỹ thời gian của mình để quan tâm và chăm sóc những người thân của mình. Lúc ấy thời gian của chúng ta sẽ không bị xài phí một cách oan uổng.

Bạn sử dụng thời gian như thế nào?

Thời gian của bạn có bị tiêu hoang một cách đáng sợ không? Một ngày ngoài thời gian làm việc bạn còn làm được những việc gì khác? Hay bạn không biết làm gì cho hết ngày hôm đó? Rất nhiều người trong chúng ta thường không biết phải làm thế nào để thời gian trôi qua một cách hiệu quả. Chúng ta tiêu phí thời gian vào những việc không mang lại lợi ích gì cho bản thân và những người xung quanh.

Tại sao bắt người khác phải chờ trong khi bạn hoàn toàn có thể đến đúng giờ hẹn? Bạn nghĩ rằng mình sẽ “cao giá” hơn khi đến trễ ư? Khi trễ hẹn với một ai đó hình ảnh tốt đẹp mà bạn cố công gây dựng trước đó sẽ tan thành mây khói. Bởi sự chờ đợi luôn đem lại sự khó chịu cho chúng ta.

Phải biết sử dụng thời gian một cách hợp lý, lên kế hoạch cho những việc mình làm và tạo dựng cho bản thân thói quen tôn trọng thời gian. Nhất là khi bạn có hẹn với một người nào đó.

Hãy tôn trọng chính mình bằng cách tôn trọng thời gian.

Trong cuộc sống chắc hẳn bạn cũng không muốn bị người khác trễ hẹn. Mỗi người đều có cách ứng xử riêng khi ai đó không tôn trọng giờ giấc với họ.

Đừng để những lần trễ hẹn mà đánh mất những cơ hội quý giá của mình bạn nhé. Đừng nghĩ rằng mình “có cái này, cái kia” thì mình được quyền bắt người khác phải chờ. Bởi dù lòng kiên nhẫn có lớn đến nhường nào thì nó cũng có giới hạn của nó. Chúng ta đừng vượt quá giới hạn chịu đựng của những người xung quanh.

 

10. TRANG GIỚI TRẺ

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu loạt bài giáo lý về Lòng Thương Xót:

Thiên Chúa Nhân Từ Và Thương Xót, Chậm Giận,

 Giàu Tình Thương Và Thành Tín

 Khi bắt đầu loạt bài giáo lý mới trong buổi triều yết chung hàng tuần hôm thứ Tư 13/01/2016 tại Sảnh Đường Phaolô VI, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta, sẵn sàng tha thứ tội lỗi của chúng ta.

Suy tư bài đọc Sách Xuất Hành, Đức Thánh Cha lưu ý rằng Thiên Chúa đã tự nhận mình mình Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa nói với Môsê rằng Ngài là "Chúa, một Thiên Chúa nhân từ và thương xót, chậm giận, giàu tình thương và thành tín" (Xh 34,6).

Đức Thánh Cha cũng chỉ ra rằng từ ngữ Hebrew về lòng thương xót khơi gợi "tình yêu dịu dàng và trong cung lòng người mẹ" dành cho con mình.

"Thiên Chúa của lòng thương xót cũng khoan dung độ lượng, luôn sẵn sàng để thấu hiểu và tha thứ. Ngài chậm giận, chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi một cách kiên nhẫn, như người nông dân khôn ngoan, gieo những hạt giống của sự ăn năn để chúng lớn lên trong con tim của chúng ta. Ngài giàu tình thương và thành tín".

"Tình yêu của Thiên Chúa, tự do trao ban, đi bước trước bất kỳ công nghiệp nào của chúng ta; lòng thành tín của Ngài, như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng, không có giới hạn". Đức Thánh Cha nói thêm: "Ngài chờ đợi chúng ta, luôn sẵn sàng tha thứ cho tội lỗi của chúng ta và chào đón chúng ta trở lại với mối tương quan ngay chính với ngài".

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha đã khích lệ chúng ta trở về với Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình, tin tưởng vào lòng thương xót và ân sủng của Ngài, lòng thành tín và tình yêu vô hạn của Ngài.

Đức Thánh Cha cũng cầu xin cho việc cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót của Giáo Hội sẽ là thời điểm của ân sủng và canh tân tâm hồn đối với tất cả mọi người.

Dưới đây là toàn văn bài giáo lý:

Anh chị em thân mến, xin chào buổi sáng tốt lành!

Hôm nay chúng ta bắt đầu bài giáo lý về lòng thương xót theo viễn tượng của Kinh Thánh, để học hiểu về lòng thương xót bằng cách lắng nghe những gì Thiên Chúa đã dạy chúng ta bằng Lời Ngài. Chúng ta bắt đầu từ Cựu Ước, vốn chuẩn bị và dẫn dắt chúng ta đến sự mặc khải trọn vẹn của Chúa Giêsu Kitô, nơi Ngài, lòng thương xót của Chúa Cha được tỏ lộ theo cách trọn vẹn.

Chúa được trình bày trong Kinh Thánh là "lòng thương xót của Thiên Chúa." Và đó là danh của Ngài, qua đó Ngài tỏ lộ cho chúng ta, khuôn mặt và con tim của Ngài. Như được kể trong Sách Xuất Hành, chính Ngài đã tỏ lộ cho Môsê, mô tả về bản thân Ngài như sau: "Chúa là một Thiên Chúa nhân từ và thương xót, chậm giận, giàu tình thương và thành tín" (Xh 34,6). Chúng ta cũng tìm thấy công thức này có trong các bản văn khác, với một số thay đổi, nhưng luôn nhấn mạnh được đặt trên lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ (x. St 4, 2; Ge 2,13; Tv 86,15; 103, 8; Nkm 9,17). Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại những lời này của Kinh Thánh nói với chúng ta về Thiên Chúa.

Chúa "thương xót": từ này gợi lên một thái độ dịu dàng như một người mẹ đối đãi với con cái của mình. Thực vậy, từ ngữ Hebrew dùng trong Kinh Thánh làm cho người ta nghĩ đến bên trong hoặc trong cung lòng người mẹ. Do đó, hình ảnh gợi lên một Thiên Chúa xúc động và trở nên hiền dịu đối với chúng ta như một người mẹ bế con trong vòng tay của mình, chỉ mong muốn yêu thương, bảo vệ và giúp đỡ, sẵn sàng trao ban tất cả mọi thứ, ngay cả bản thân mình. Đây là hình ảnh mà từ ngữ này gợi lên. Vì thế , một tình yêu, có thể được mô tả như là "nội tạng" theo nghĩa tốt lành.

Bản văn sau đó viết rằng Chúa "khoan dung độ lượng", theo ý nghĩa rằng Ngài ban ơn huệ, chạnh lòng thương, và trong sự cao cả của Ngài, Ngài cúi xuống trên người yếu đuối và khó nghèo, luôn sẵn sàng đón nhận, để thấu hiểu, để tha thứ. Ngài giống như người cha trong dụ ngôn được viết trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15, 11-32): một người cha không khép kín mình trong sự oán giận vì cậu trai út bỏ đi, nhưng trái lại, tiếp tục chờ đợi nó, ông đã sinh ra nó. Và sau đó ông chạy đến gặp và ôm lấy nó, thậm chí còn không cho nó nói hết lời thú nhận - như thể ông đã bịt miệng nó - tình yêu và niềm vui của ông to lớn biết dường bao vì đã tìm lại được con. Và sau đó ông cũng đi gọi con trai lớn, người đang tức giận và không muốn ăn mừng, nhưng người cha cúi xuống với anh và mời anh vào nhà, ông cố tìm cách mở lòng anh cho tình yêu thương, để không ai còn bị loại trừ khỏi việc cử hành lòng thương xót. Lòng thương xót là sự cử hành mừng lễ!

Người ta cũng nói rằng Thiên Chúa xót thương là Ngài "chậm giận," theo nghĩa đen là "thở dài", hơi thở rộng trong sự đau khổ lâu dài và khả năng chịu đựng. Thiên Chúa có thể chờ đợi, và thời gian của Ngài không phải là thời gian thiếu kiên nhẫn của con người. Ngài giống như người nông dân khôn ngoan biết chờ đợi, để hạt giống tốt có thời gian lớn lên, mặc dù có cỏ lùng (x Mt 13, 24-30).

Và, cuối cùng, Chúa tuyên bố Ngài "giàu tình thương và thành tín". Mô tả này về Thiên Chúa thật đẹp biết bao! Mọi thứ đều ở đây, bởi vì Thiên Chúa là cao cả và quyền năng, nhưng sự cao cả và quyền năng của Ngài được thể hiện trong sự yêu thương chúng ta, chúng ta bé mọn, không có khả năng. Từ "yêu thương" được sử dụng ở đây nói về tình cảm, ân sủng và tốt lành. Đó không phải là tình yêu của những vở kịch truyền hình ... Đó là tình yêu đi bước trước, không phụ thuộc vào công nghiệp của con người mà là của sự nhưng không vô biên. Đây là sự ân cần của Thiên Chúa không có gì có thể cản nổi, ngay cả tội lỗi, bởi vì nó có thể vượt qua tội lỗi, để chiến thắng sự dữ và tha thứ cho sự dữ.

Lòng "thành tín" không có giới hạn: đây là từ cuối cùng trong sự mặc khải của Thiên Chúa dành cho Môsê. Lòng thành tín của Thiên Chúa không bao giờ suy giảm. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Giữ gìn, là Đấng không ngủ nhưng liên tục canh thức trên chúng ta để dẫn dắt chúng ta vào sự sống, như Thánh Vịnh nói:

"Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ítraen, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!  [...] CHÚA giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.  CHÚA giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới,  từ giờ đây cho đến mãi muôn đời"(121: 3-4.7-8)

Và Thiên Chúa xót thương trung tín với lòng thương xót và Thánh Phaolô nói một điều thật hay: nếu bạn không trung tín với Ngài, Ngài sẽ vẫn trung tín bởi vì Ngài không thể phủ nhận chính mình. Sự trung tín trong lòng thương xót là bản chất của Thiên Chúa. Và vì thế Thiên Chúa là hoàn toàn và luôn luôn đáng tin cậy - một sự hiện diện vững chắc và ổn định. Đó là sự chắc chắn của đức tin chúng ta. Và vì thế, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta phó thác trọn vẹn bản thân cho Ngài, và trải nghiệm những niềm vui được yêu thương bởi vì "Thiên Chúa nhân từ và thương xót, chậm giận, giàu tình thương và thành tín".

Tạ Ân Phúc chuyển ngữ

 

11. TRANG GIA ĐÌNH

Mong Ước Của Oâng Bà, Cha Mẹ Và Con Cháu

Có thể nói, mọi người dù sống trong một gia đình nhiều thế hệ, hay chỉ hai thế hệ đều mong ước có một gia đình ấm êm hạnh phúc.

Đó quả thực là một mong ước chính đáng, nhưng để có được điều đó thì không phải là dễ, nhất là ở những gia đình nhiều thế hệ (Tam đại, tứ đại hay ngũ đại…  đồng đường) có cả ông bà, cha mẹ và con cháu chắt…

 Trong tác phẩm Đường Hy Vọng câu số 463 Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nhận xét: “Chuẩn bị làm linh mục có chủng viện, chuẩn bị làm tu sĩ có đệ tử viện, tập viện, chuẩn bị làm giáo sư có trường sư phạm, chuẩn bị làm cha mẹ có gì? – Không có gì cả! thật là một thiếu sót lớn lao trên thế giới. Lúc này tạm có lớp dự bị hôn nhân, nhưng chưa đi đến đâu. Bao nhiêu người sẽ là nạn nhân do cuộc phiêu lưu của các con.”

Tuy nhiên, ta có thể tìm thấy những phương thức dạy chuẩn bị làm cha, làm mẹ, dạy con cái khá phong phú trong nhiều loại sách vở, đạo cũng như đời ngay từ thưở xa xưa. Với mong ước thật khiêm tốn, được góp một phần nhỏ bé trong kho tàng kiến thức hiện có, trong việc tìm hiểu xây dựng một gia đình ấm êm hạnh phúc. Trong phạm vi của bài viết, tôi xin nêu mấy vấn đề:

- Ông bà, cha mẹ làm gì để mong ước của mình, nơi con cháu được thể hiện?

- Con cháu làm gì để mong ước của mình, nơi ông bà, cha mẹ được thể hiện?

- Một chút cảm nhận và chia sẻ.

Ông bà, cha mẹ làm gì để mong ước của mình, nơi con cháu được thể hiện?

Ông bà, cha mẹ mong ước gì nơi con cháu?

Nhìn chung, ông bà, cha mẹ nào cũng mong con cháu mình biết yêu thương nhau, nâng đỡ dùm bọc nhau, khuyến khích, giúp nhau học tập, tiến bộ, phát triển cả về tinh thần lẫn vật chất, hầu mang ích lợi cho mỗi người, gia đình ấm êm hạnh phúc, và góp phần làm cho xã hội mình đang sống được thịnh vượng, an lành.

Riêng những gia đình Công giáo thì ông bà, cha mẹ còn mong ước dù sống trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của cuộc sống, con cháu mình vẫn giữ được Đức Tin. Đức Tin đó được tóm gọn trong kinh Tin Kính và thông truyền Đức Tin đó đến môi trường mình đang sống, hầu mai sau cùng anh em mình được hưởng nhan Chúa. Điều đó đúng như câu trả lời đầu tiên trong cuốn Giáo lý Công giáo cho giới trẻ “Youcat” trả lời câu hỏi: “Ta sống ở đời này để làm gì?” Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để làm việc lành theo ý Thiên Chúa, và để một ngày nào đó sẽ được tới quê Trời”.

Ông bà, cha mẹ làm gì để mong ước của mình, nơi con cháu được thể hiện?

Mẹ cha đã cưu mang sinh thành ra con cái. Mẹ cha, ông bà còn chính là vú nuôi, thầy cô giáo đầu đời của con cháu, vì gia đình chính là trường học đầu tiên của con trẻ.

Con cháu được ví như một tấm vải mới, một tờ giấy trắng. Cha mẹ, ông bà là người thêu dệt trên tấm vải mới; vẽ trên tờ giấy trắng những đường nét đầu tiên. Trách nhiệm giáo dục cho con cháu nơi cha mẹ, ông bà thật là quan trọng. Trong Tam Tự Kinh đã xác định: “Dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Giáo bất nghiêm, sư chi đọa. Tử bất học, phi sở nghi. Ấu bất học, lão hà vi” có nghĩa là (Nuôi mà không dạy là lỗi của cha. Dạy mà không nghiêm là quấy ở thầy. Con không học thì không phải lẽ. Còn nhỏ không học, già sẽ làm gì). Vì thế, ông bà cha mẹ có trách nhiệm dạy con cháu điều hay lẽ phải ngay từ khi các cháu còn ấu thơ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” hay “Dạy con từ thưở còn thơ, dạy vợ tử thưở bơ vơ mới về”.

Ông bà, cha mẹ muốn truyền lại tất cả những kinh nghiệm sống của mình có được trong cuộc sống cho con cháu, với mong ước, con cháu chính là đời sống nối dài của cha mẹ, ông bà. Con cháu phản ảnh hình ảnh ông bà không những trên khuôn mặt, mà còn trên cả cách sống. Điều đó đòi buộc ông bà cha mẹ phải là tấm gương sáng về mọi mặt trong cuộc sống cả đạo cũng như đời. Đó là sống công bằng, bác ái, tin thờ Chúa, Loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống Chứng Nhân của mình.

Để được như lòng mong ước, mẹ cha, ông bà ngày đêm thường âm thầm cầu nguyện, xin trao con cháu thân yêu cho sự quan phòng của Thiên Chúa, xin Chúa đỡ nâng, dẫn đưa con cháu trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống để con cháu mãi có được Đức Tin son sắt, lòng Cậy vững vàng, lòng Mến sốt sáng trong xã hội nhiều sóng gió này.

Con cháu làm gì để mong ước của mình, nơi ông bà, cha mẹ được thể hiện

Con cháu mong ước gì, nơi ông bà, cha mẹ?

Con cái thường mong ước mẹ cha, ông bà khỏe mạnh sống lâu, vui hưởng tuổi già với đàn con, lũ cháu “Sống vui, sống khỏe, sống có ích”, tiếp tục dạy bảo, tư vấn những vấn đề hệ trọng của gia đình cho con cháu như học tập, lập nghiệp, hôn nhân... Ngoài ra, ông bà cha mẹ sẽ coi sóc nhà cửa và con cháu mỗi khi cha mẹ chúng vắng nhà “Một mẹ già bằng ba hàng dậu”.

Con cháu mong ước nơi ông bà cha mẹ mãi mãi là tấm gương sáng, yêu thương trong việc sống đạo giữa đời thường, cũng như những việc ngoài xã hội.

Con cháu làm gì để mong ước của mình, nơi ông bà, cha mẹ được thể hiện?

Con cháu phải thảo kính mẹ cha, ông bà đã là một chân lý có từ ngàn xưa và còn mãi đến mai sau trên trái đất này. Làm sao có thể kể hết những gương hiếu thảo của con cháu với ông bà, cha mẹ, từ xưa tới nay ở khắp nơi trên thế giới…

Trong 10 Điều răn Chúa truyền cho Tổ Phụ Môise trên núi Sinai thì Điều răn thứ 4 Chúa dạy “Thảo kính cha mẹ và những người được Chúa trao quyền để mưu ích cho chúng ta” (câu 505 sách giáo lý hội Thánh Công Giáo của HĐGMVN, UBGLĐT)

Để cụ thể hơn sách giáo lý con cho biết bổn phân của con cháu với ông bà cha mẹ “Con cái có bổn phận hiếu thảo, biết ơn và vâng phục cha mẹ, đồng thời phải trợ giúp các ngài về vật chất cũng như tinh thần, khi còn sống cũng như khi qua đời” (Câu 509 sách giáo lý hội Thánh Công Giáo của HĐGMVN, UBGLĐT).

Thảo kính ông bà cha mẹ là nét nhân văn lung linh sắc mầu của nhân loại nói chung, và của dân tộc Việt Nam nói riêng, cần được gìn giữ và tô thắm ngày một tốt đẹp hơn. Điều đó hoàn toàn phù hợp với những điều Thiên Chúa truyền dạy ngay trong thời Cựu ước cho Tổ tiên chúng ta. Đẹp biết bao!!!

Một chút cảm nhận và chia sẻ.

Cảm tạ Chúa, gia đình tôi đã có hơn 40 năm sống thuận hòa yêu thương trong mái ấm hạnh phúc gia đình để sống đạo Chúa với ba thế hệ. Trong gần nửa thế kỷ đó có hơn mười năm mái ấm gia đình gồm bốn thế hệ (Ông, cha mẹ, con, cháu).

 Cảm tạ Chúa muôn vàn, vì Chúa đã soi sáng để mỗi thành viên trong gia đình, đều ý thức góp phần tạo dựng mái ấm gia đình, bằng chính sự tự nguyện từ bỏ ý riêng của mình, biết tôn trọng nhau, biết quảng đại và sẵn sàng thông cảm, tha thứ cho nhau.

Hạnh phúc biết bao, khi mỗi buổi tối cha con ông cháu quây quần quanh căn phòng nhỏ…; những chiều thứ sáu, các cháu nội ngoại đòi ngủ trong phòng ông bà, vì thứ bảy các cháu được nghỉ học; những bữa cơm cháu nội cháu ngoại đòi cha mẹ ăn với ông bà tuần một hai lần cho vui; những câu nói: “bữa cơm thiếu ông bà, con thấy mất vui nhiều quá, nên ăn ít và không được nghe những câu chuyện thời sự, ý nghĩa của ông bà kể…” hay “nuôi con mới biết lòng cha mẹ”. Tật cả điều đó đã góp phần tạo nên mái âm, hạnh phúc gia đình.

Ôi! Hạnh phúc biết bao! “Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa... Và mãi mãi con nhớ công ơn Người”

Inhaxiô Đặng Phúc Minh

Nguồn:  conggiao.info                                                                                           

 

12. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

25 Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

Bài 24: Nguyên Nhân Nào Khiến Phaolô Bị Bắt Và Đưa Đến Cái Chết?

Phaolô đi truyền giáo khắp “đông-tây-nam-bắc” trong hơn mười năm (được kể trong ba hành trình truyền giáo), dù gặp nhiều khó khăn nhưng không bị bắt và hăm doạ giết.

Vào khoảng đầu năm 58, Phaolô cùng các bạn đồng hành đến thăm Giacôbê, người anh em của Chúa Giêsu, là thủ lãnh của cộng đoàn Jerusalem lúc bấy giờ, và thăm các trưởng lão (Cvtd 21:18). Giacôbê nhận ra rằng sự hiện diện cúa Phaolô ở Jerusalem có thể sẽ gây ra nhiều rắc rối với những người Do thái cực đoan (Cvtd 21:21), vì nhiều lí do: (a) vì đây là trung tâm thờ phượng của Do Thái giáo nên họ rất nghiêm khắc khi cho phép người không theo Do Thái giáo vào đền thờ; (b) vì nhiều người Do thái đang thù ghét Kitô hữu dám tuyên xưng Ông Giêsu là Đấng Messiah; (c) vì sợ lòng nhiệt tình của Phaolô sẽ khiến thánh nhân rao giảng Đức Giêsu làm người Do Thái nổi giận, (d) và vì sợ những Kitô hữu gốc Do Thái ở Jerusalem không có cảm tình với Phaolô vì họ nghe đồn rằng Phaolô kêu gọi Kitô hữu gốc Do Thái bỏ lề luật Môisê (Cvtd 21:21). Đây là điều oan ức cho Phaolô vì ông không hề dạy như thế.

Giacôbê hiểu được hoàn cảnh Phaolô và những hiểu lẩm đang có giữa Phaolô và cộng đoàn Kitô hữu Jerusalem, vì thế Giacôbê khuyên Phaolô là hãy chứng minh cho những người khác biết ông là người vẫn giữ luật Môisê (Cvtd 21:17-25).

Nhân dịp lễ Tuyên Khấn Nadia, tức nghi thức mà nhiều tín hữu Do Thái muốn khấn hứa, dâng mình cho Thiên Chúa (lễ được nhắc đến trong sách Dân Số 6:1-24), Giacôbê khuyên Phaolô dẫn bốn người của cộng đoàn Jerusalem vào dự lễ tuyên khấn. Giacôbê cũng xin Phaolô trả những chi phí cho buổi tuyên hứa như cắt tóc, hay dâng của lễ là chiên con v.v… như một cử chỉ thân thiện đối với họ. Mục đích là cho những người khác thấy rằng Phaolô vẫn giữ luật Môisê như những người Do Thái khác (Cvtd 21:22-24).

Phaolô chấp nhận đề nghị này. Khi 7 ngày nghi lễ sắp hết, một số người bắt gặp Phaolô trong khu vực Đền Thờ. Họ tố cáo Phaolô là tuyên truyền phá hoại luật Môisê, và làm ô uế Đền Thờ vì đem người Hi Lạp (dân ngoại) vào khu vực cấm. Họ tìm cách bắt Phaolô, kéo Ngài ra khỏi thành để giết. Phaolô được một vị chỉ huy cơ đội Roma coi thành Antonia cứu thoát (Cvtd 21:32). Sách Công Vụ Tông Đồ kể: “Cả thành phố sôi động và dân đổ xô đến. Họ túm lấy ông Phao-lô, lôi ra khỏi Đền Thờ; lập tức người ta đóng các cửa Đền Thờ lại. Họ còn đang tìm cách giết ông, thì có tin báo lên cho vị chỉ huy cơ đội: "Cả Giê-ru-sa-lem náo động! " Lập tức, ông ta huy động một số binh sĩ và đại đội trưởng, và xông vào đám đông. Vừa thấy vị chỉ huy và binh sĩ, thì họ thôi không đánh ông Phao-lô nữa." (Cvtd 21:30-32).

Nhờ có quốc tịch Roma, Phaolô được lính Roma bảo vệ khỏi bị người Do Thái giết (Cvtd 22:25-26). Nhưng để biết người Do Thái tố cáo Phaolô tội gì, hôm sau quan lính Roma điệu Phaolô đến trước Thượng Hội Đồng (một toà án tôn giáo của Do Thái) để bị xét xử (Cvtd 22:30). Các Thượng Tế, Kỳ Lão họp nhau và âm mưu giết cho được Phaolô (Cvtd 23:12-15).

Nhờ đứa cháu trai mật báo kế hoạch của Thượng Hội Đồng, quan Roma sợ người Do Thái giết Phaolô nên tìm cách chuyển Phaolô đến quan Tổng Trấn Judea lúc đó là Antonius Felix, đang ở Ceasarea Maritima (23:16-33).

Tổng Trấn Felix biết nhiều về tình hình Kitô giáo và sự đối nghịch giữa Kitô giáo và Do Thái lúc bấy giờ (Cvtd 24:22), vì ông làm Tổng Trấn vùng đó khoảng năm 52-60. Sau khi nghe Thượng Tế và Kỳ Lão Do Thái cáo buộc Phaolô với nhiều tội danh “chuyên gây bạo loạn giữa mọi người Do-thái trong thiên hạ, và là đầu sỏ phái Na-da-rét. Y còn mưu toan xúc phạm đến Đền Thờ” (Cvtd .24:5-6; bảng cáo trạng tựa như họ lên án Chúa Giêsu, xem Lk 23:1-3), Tổng Trấn Felix không thấy có bằng chứng kết án nên hoãn vụ án, và giam lỏng Phaolô (Cvtd 24:23). Felix cũng hi vọng là Phaolô sẽ hối lộ cho mình (Cvtd 24:26), nên giam giữ Ngài hai năm (khoảng năm 58-60).

Khi quan Tổng Trấn mới là Porcius Festus nhận chức (khoảng năm 60), ông lại đem Phaolô ra xét xử (Cvtd 25:1-12). Phaolô lấy lí do là công dân Roma nên kháng cáo lên Ceasar. Vì thế cuộc xét xử phải được đưa về Roma (Cvtd 25:11).

Nguyễn khắc Hy, S.S.

Nguồn: liendoanconggiao.net

 

13. TRANG QUỚI CHỨC

ĐỘNG LÒNG

Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương (Mt 14,14)

Không phải chỉ thời nay mà vào thời Chúa Giêsu tại thế cũng đã có những người lang thang không cửa không nhà.

Những ai quan tâm đến thời sự quốc tế hẳn cũng biết, cho đến nay, dòng người di cư từ những nước Trung Á vẫn tiếp tục đi về phía tây bất chấp cái lạnh của mùa đông, sự phản kháng của những người Châu Âu. Mặc dầu biết rằng có những nước đóng cửa biên giới, có những nước sẽ trả những người nhập cư bất hợp pháp, nhưng họ vẫn đi.

Sống giữa mùa đông, nghe thời sự về những đợt giá rét tuyết rơi khắp nơi nghĩ mà thấm lời bài hát Đêm Đông của nhạc sĩ Nguyễn văn Thương: thấu tình cô lữ đêm đông không nhà.

Tại sao họ phải bỏ nhà, bỏ quê hương xứ sở ra đi ? Có nhiều nguyên nhân nhưng có hai nguyên nhân chính khiến họ ra đi là vì: chiến tranh và chánh trị. Làm sao có thể ở được tại nơi mà chiến tranh kéo dài liên miên không hề dứt, hàng ngày cứ nơm nớp lo sợ đạn pháo dày xéo dọc ngang, trên một vùng đất mà hết bên này giành, bên kia cướp quyền kiểm soát. Làm sao có thể ở một nơi mà người bên cạnh coi mình như kẻ thù có thể giết chết bất cứ lúc nào; Ai có thể ở lại được một nơi mà chính quyền không có khả năng bảo vệ được mình. Không an cư sao có thể lạc nghiệp. Lữ hành tìm vùng đất mới có vẽ phiêu lưu, khổ nhục, nhưng ở lại có lẽ càng bế tắc hơn. Bởi lẽ không ai trên thế gian này không ở thế bức bách mà lại muốn lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình, xa quê hương, đồng bào dân tộc mình.

Những người may mắn sẽ được các nước Tây Âu đón nhận cưu mang, những người kém may mắn hơn sẽ bị trả về quê hương mình. Thật đáng buồn và đau khổ.

Chúng ta cũng không thể trách cách hành xử của những chính trị gia phương tây khi họ từ chối đón nhân thêm những người nhập cư. Bởi vì chính họ phải chịu trách nhiệm với phúc lợi, an nguy của dân tộc mình, họ đâu bị buộc phải lãnh trách nhiệm với người không thuộc trách nhiệm của họ. Và dẫu cho họ có cưu mang những người di cư thì đó cũng không phải là giải pháp tốt nhất vì đó không phải là nguyên nhân khiến người ta phải lang thang. Nguyên nhân chính là vì họ đã không được đón nhận ngay tại quê hương mình. Phải làm sao để họ được đồng bào, đồng loại đón nhận họ đó mới là giải pháp tốt nhất.

Trong trình thuật hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã dạy như thế. Thấy đám đông đói, Chúa bảo các môn đệ cho họ ăn; khi các môn đệ không có khả năng Chúa lại hỏi các môn đệ có được những gì, rồi từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ của một đứa bé Chúa đã chia xẽ cho đám đông và mọi người đều no nê, dư thừa. Mới nhìn ta tưởng đây là kế nhất thời, nhưng ẩn sau đó là bài học phải biết đón nhận, đùm bọc nhau để cùng tồn tại và tìm lấy hạnh phúc. Bởi vì Chúa biết mình sắp làm gì, Chúa có thể hóa đá thành bánh chứ đâu cần cá và bánh của một đứa trẻ ! Chúa có thể tặng cho họ mỗi người một cái mâm thần để rồi sau này họ khỏi phải vất vả tìm miếng cơm manh áo nhưng tại sao Chúa không làm ?!

Cuộc sống quanh ta cũng có những cảnh đời cô quạnh, tuy họ không ra đi nhưng cảm thấy cô đơn tại nơi mình đang sinh sống, họ đang cần chúng ta đón nhận họ để họ cảm thấy ấm lòng. Điều đó không lớn lao đối với người cho đi nhưng thật sự to tác đối với người nhận.

 

14. SỐNG ĐẸP

Đức Thánh Cha Phanxicô:

Giúp Đỡ Người Nghèo Không Chỉ Là Về Chính Trị

Và Trợ Giúp Xã Hội

 Trong giờ Kinh Truyền Tin ngày Chúa Nhật 24/01/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đào sâu một trong những chủ đề then chốt của triều đại giáo hoàng: chăm sóc người nghèo. Đức Thánh Cha nói rằng, mỗi người chúng ta cần cố gắng thực hiện Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo khi giúp đỡ người nghèo khổ.

Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Giêsu hướng Tin Mừng của Người đến với tất cả mọi người, không loại trừ một ai. Hơn nữa, Người ưu tiên cho những ai “xa cách nhất”, cho những ai đau khổ, bệnh tật, cho những người bị xã hội loại bỏ.”

Đức Thánh Cha giải thích rằng, loan báo Tin Mừng cho người nghèo bao hàm việc đối xử tốt với họ, phục vụ họ với niềm vui, và giúp họ thoát khỏi áp bức. Mỗi người phải làm tất cả những điều này theo cùng một cung cách mà Chúa Giêsu đã làm.

Đức Thánh Cha nói:

“Ngày nay, trong các cộng đoàn xứ đạo của chúng ta, trong các hiệp hội, trong các phong trào, chúng ta có trung thành với chương trình của Chúa Kitô hay không? Loan báo Tin Mừng cho người nghèo, là mang tin mừng đến với họ, điều này có được ưu tiên hay không? Hãy lắng nghe, đây không chỉ là về những trợ cấp xã hội, càng không chỉ là về chính trị. Đây là sự trao tặng sức mạnh Tin Mừng của Thiên Chúa, sức mạnh này có sức hoán cải lòng người, chữa lành vết thương, và biến đổi các mối tương quan con người và tương quan xã hội theo lý lẽ của tình yêu.”

Chuyển ngữ: Vinhsơn Vũ Tứ Quyết, S.J.

 

 15. SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN

TRỞ THÀNH NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI

Lc 5, 1 – 11

Simon Phêrô và các tông đồ là những ngư phủ lành nghề, họ biết đâu có cá, chỗ nước nào sâu, khoảng biển nào nông, chỗ nào cá làm sủi tăm, chỗ nào nước biến động. Các tông đồ đã đi bủa lưới suốt một đêm trường, mệt mỏi vì mất ngủ, họ phải đương đầu với biển cả. Suốt một đêm cực nhọc, vất vả, các tông đồ không bắt được một con cá nào. Các ông nản chí, mệt nhoài quay thuyền vào bến, Đức Giêsu đang ở đó. Ngài khuyên các tông đồ hãy ra khơi: các ông đã vâng theo lời của Chúa Giêsu, ra khơi bủa thêm mẻ lưới nữa.

Đã là ngư phủ đánh bắt cá, Simon Phêrô và các tông đồ nào còn kém chi ai vì họ đã có kinh nghiệm thả lưới. Tuy nhiên, cả một đêm hùng hục bủa lưới bắt cá, các tông đồ nào bắt được một con cá nào. Do đó, trước mẻ cá lạ lùng theo lời Của Chúa Giêsu, các tông đồ hết sức bỡ ngỡ, ngạc nhiên. Simon Phêrô đã phản ứng cách rất chân thành: “Phêrô phủ phục dưới chân Chúa Giêsu mà nói rằng: “Xin hãy xa tôi, lạy Ngài ! Vì tôi là kẻ tội lỗi” (Lc 5, 8). Nói lên điều này, Phêrô cảm thấy thân phận yếu hèn của ông và nhận ra tự sức các tông đồ, họ không thể làm được gì cả.

 “Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả” (Lc 5, 5). Với sức mạnh với ơn của Chúa: “Các tông đồ đã bắt được quá nhiều cá” (Lc 5, 6). Chúa Giêsu không để các tông đồ dừng lại trước phép lạ của mẻ cá ngoài sức tưởng tượng, Ngài còn muốn đi xa hơn trong việc kêu gọi và mời các tông đồ tham gia vào công việc cứu thế của Chúa: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta” (Lc 5, 10). Rồi các tông đồ trước lời mời gọi của Chúa và trước sự lạ lùng của mẻ cá mới đánh bắt được; các tông đồ đưa thuyền vào bời và bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu (Lc 5, 11).

Hình ảnh đánh bắt người, lưới người, Chúa Giêsu dùng để nói về công cuộc cứu thế của Ngài ở trần gian. Các tông đồ hẳn đã nghiệm ra sự bất toàn, yếu đuối và bất lực của mình: “Không có Thầy, các con không làm được gì”. Lưới người là hình ảnh sống động, cụ thể Chúa Giêsu dùng để kêu gọi các tông đồ, mời gọi Giáo Hội và mọi người trở thành ngư phủ cứu vớt con người. Lưới người được diễn tả bằng nhiều hoàn cảnh, bằng nhiều cách hoặc có khi là những con người khó nghèo bám víu vào chiếc lưới tình thương để được nuôi sống, cho ăn, cho mặc, cho uống, hoặc là những người yếu đau, bệnh tật bám víu vào chiếc lưới yêu thương của Chúa để được chữa lành, có khi là những người đau khổ, bị đàn áp, bị thử thách đang bám víu vào chiếc lưới nhân từ, chạnh thương của Chúa để được an ủi, chữa lành và cứu vớt. Tuy nhiên, việc lưới người mà Chúa Giêsu nói trên hết mọi sự là lòng nhân lành chạnh thương của Thiên Chúa đối với nhân loại, Ngài muốn qui tụ, chữa lành và cứu vớt tất cả mọi người để đem về một đàn chiên duy nhất dù con người có là gì đi nữa, có ngỗ nghịch và có những tham vọng thấp hèn theo ý con người.

 Cánh đồng lúa bao la mà thiếu thợ gặt: Chúa vẫn mời gọi nhiều tâm hồn thành tâm thiện chí đi theo chân Chúa mà ra khơi thả lưới. Giáo Hội là Giáo Hội truyền giáo. Chúa vẫn hiện diện trong Giáo Hội, trên con thuyền của Hội Thánh để nâng đỡ, giữ gìn và cứu vớt. Con thuyền Hội Thánh có lúc yên lặng, nhưng có lúc có sóng gió nổi lên làm tròng trành, khó khăn, dễ chìm, dễ ngã. Chúa vẫn tiếp tục làm những việc cả thể ngoài sức tưởng tượng của con người ngay cả khi con người tưởng bó tay, buông xuôi. Chúa vẫn yêu thương con người, tiếp tục yêu thương con người và luôn nâng đỡ Giáo Hội. Một Phêrô chỉ có thể cảm nhận sự vững mạnh để lèo lái con thuyền Giáo Hội khi Oâng cảm nghiệm sự yếu hèn cần ơn trợ giúp của Chúa và sự tác động của Thánh Thần. Một Phaolô ngã ngựa mới nhận ra sự lộng hành, cuồng dại của mình mà trổi dậy để đi theo Chúa làm tông đồ cho dân ngoại. Chúa vẫn mời gọi mọi người ở mọi thời đại góp tay vào công việc cứu thế của Chúa. Lưới người là lệnh truyền của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con, có con mắt nhậy bén để nhận ra nơi nào có cá, nơi nào cần để chúng con mau mắn vâng lệnh Chúa loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa.

 

16. CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

BA CÁM DỖ: DANH VỌNG, TIỀN TÀI và CƠM BÁNH

Lc 4, 1 – 13

 Danh vọng, tiền tài và cơm bánh là ba cám dỗ ma quỉ rất nhạy cảm để thử thách con người, thử thách mọi người và đặc biệt để xem Chúa Giêsu phản ứng ra sao? Con người sống ở trần gian, không thể nào thoát khỏi ba cám dỗ này, nhưng cái đói, cái mặc xem ra là mồi nhử quan trọng nhất đối với con người, nhất là khi con người đang phải đương đầu với cơm ăn, áo mặc hằng ngày là những nhu cầu không thể thiếu được đối với con người mỗi ngày khi tuyệt đa số con người trên thế giới đang phải chống chọi với cái đói, cái khát, cái cảnh nghèo đói. Quan trọng hơn và tệ hại hơn là cái đói về tinh thần.

 Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Chúa Giêsu vào sa mạc để chuẩn bị con đường cứu thế của Ngài: Chúa ăn chay, cầu nguyện, tâm sự cùng Thiên Chúa Cha, hỏi ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại bốn mươi ngày đêm ăn chay, cầu nguyện, lẽ dĩ nhiên Chúa cảm thấy đói. Cái đói dễ làm con người gục ngã trước mồi ngon của miếng ăn. Ma quỉ rất bén nhậy ở điểm này. Bị ma quỉ cám dỗ không phải là một điều xấu, nhưng ngã gục trước cám dỗ mới là điều xấu, đáng chê, đáng trách. Chúa Giêsu bị cám dỗ khi Ngài đói. Satan cám dỗ Chúa biến đá thành bánh. Chúa Giêsu đã chống trả cơn cám dỗ đói một cách anh dũng, Ngài  đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không bằng cơm bánh”. Chúa Giêsu đã loại trừ Satan khi nó tưởng cái đói sẽ làm Chúa mê hoặc, quên hết mọi sự. Chúa đã đánh gục ma quỉ và cho thấy rằng lời của Ngài luôn có giá trị, tồn tại tới muôn thế hệ, tới muôn muôn đời. Chúa Giêsu đã biểu lộ tình hiếu thảo của Ngài đối với Cha của Ngài. Kiêu ngạo, nhẹ dạ để làm theo lời Satan là tự gục dưới móng vuốt ác độc của nó. Chúa Giêsu đã không liều mình làm điều không cần thiết khi ma quỉ xúi giục Ngài gieo mình từ nóc đền thờ xuống. Chúa đã chiến thắng hoàn toàn Satan khi Ngài luôn làm theo ý Cha Ngài, khi Ngài không tự liều mình làm theo ý mình. Chúa Giêsu đã có lần nói rõ “Lạy Cha, đừng làm ý của Con mà hãy làm theo ý của Cha”. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là làm theo ý của Thiên Chúa Cha. Do đó, ma quỉ không bao giờ có thể lay chuyển được Chúa. Ma quỉ chỉ là kẻ chiến bại, một tù nhân được tạm rời ngục chờ ngày bị lên án tiếp, chỉ là viên  quan tướng thất trận ngay từ khi bắt đầu giao chiến. Mãi mãi Chúa Giêsu chiến thắng ma quỉ, đời đời ma quỉ phải sợ sệt và thất bại trước uy linh của Ngài. Cám dỗ trong sa mạc càng củng cố sự vinh quang, chiến thắng và danh hiệu Chúa toàn năng của Chúa Giêsu.

 Như Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ trong sa mạc, những cám dỗ, những thử thách ma quỉ bầy ra để xúi giục con người xưa cũng như nay đều giống nhau: ma quỉ thường tách con người xa khỏi Thiên chúa, chúng xúi giục con người đừng tin vào Chúa, đừng cậy trông vào sự quan phòng của Chúa. Các cơn cám dỗ của ma quỉ đều qui vào danh vọng, tiền tài, cơm bánh. Cám dỗ lớn nhất, ma quỉ xúi giục con người là tôn thờ, khuất phục chúng và chúng hứa ban cho quyền thống trị thế giới. Ma quỉ sẽ ban cho con người những phương tiện làm giầu, tình yêu lăng loàn, bằng cách lấy của người này, đẩy người khác một cách bất chính, nhưng tất cả đều phải theo ý đồ xấu xa của chúng. Ai chẳng muốn giầu có, phú quí, vợ đẹp con khôn, nhà lầu xe hơi. Ai chẳng muốn danh vọng, địa vị được tâng bốc: tất cả những thứ đó là những miếng mồi ngon ma quỉ đang bầy ra trước mặt mọi người. Tất cả những cái đó là những cơn cám dỗ triền miên trong cuộc đời con người. Tuy nhiên, vẫn còn một thứ đói cực kỳ nguy hiểm  đang âm ỉ trong con người, trong tâm hồn của con người mọi thời đại. Ma quỉ cũng đang dùng mọi phương tiện  hấp dẫn để cám dỗ nhân loại, cám dỗ từng người. Tuy nhiên, con người có thể dùng những phương thế như Chúa Giêsu đã dùng để chiến thắng ma quỉ, Satan, sự dữ: đó là cầu nguyện, khiêm nhường, tuân theo ý Chúa Cha, từ chối khiêu khích Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt có lợi cho con người. Hoặc là tin Chúa hoặc là tôn thờ ma quỉ. Thờ ma quỉ được lợi lộc ngay chốc lát trước mắt nhưng chúng đòi lại mạng sống con người và như thế là mất tất cả. Thiên chúa ban cho ta nhưng không gắp trăm, gấp ngàn lần cho ai chỉ cho Ngài một chút nước lã. Theo Chúa, thờ Chúa phải hy sinh, vác thập giá mà theo Ngài, nhưng con người sẽ được bình an và được sống đời đời.

 Mùa chay lại đến, người Kitô hữu hướng tới mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Sự sống lại của Chúa giải thoát con người khỏi chết và ban cho con người sự sống mới, sự sống vĩnh cửu. Thực hành những phương thế Giáo Hội mời gọi: cầu nguyện, ăn chay và bố thí với lòng tin, sự cậy trông, yêu mến, con người sẽ cảm thấy thanh thản và quảng đại để nghĩ tới anh em đồng loại. Cái đói vật chất rất cần được bù đắp mà cái đói tinh thần lại cần được lưu tâm, khỏa lấp hơn. Đó là trách nhiệm của Hội Thánh và của mỗi người Kitô hữu chúng ta.

 

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY

CUỘC BIẾN HÌNH ĐẸP MẮT CỦA CHÚA GIÊSU

Lc 9, 28b – 36

Nếu nhìn theo mắt người phàm, cuộc biến hình của Chúa Giêsu xem ra thật hấp dẫn và đẹp mắt. Mà không đẹp, không hấp dẫn sao được khi Tin Mừng của thánh Luca nói: “Đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh rực rỡ” (Lc 9, 28 b). Chúa biến hình trên núi để tỏ uy quyền và vinh quang của Chúa cho các môn đệ thân tín. Các môn đệ còn ngái ngủ và khi tỉnh dậy, các ông thấy Đức Giêsu chói lòa trong vinh quang. Cái hào nhoáng bên ngoài làm các môn đệ lóa mắt. Các ông vẫn sống trong say xưa của vinh quang Thầy mình. Ngộ giả chỉ thấy vinh quang của cuộc biến hình của Chúa Giêsu, rồi đứng yên ở vinh quang ấy thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu sau này, chắc chắn các môn đệ không bao giờ dám màng, dám nghĩ đến.

 Thường con người sinh ra trên trần gian này vẫn ước mong được may mắn, hạnh phúc hơn là gặp rủi ro, đau khổ. Chấp nhận đau khổ để được sự sống vĩnh cửu sau này là phần thưởng cho những con người có đức tin. Vinh quang, hạnh phúc may mắn đâu có tới dài dài cho cuộc sống của một con người vì nếu cứ luôn luôn được ca tụng, tâng bốc, sáng láng luôn mãi sẽ làm cho con người dễ tự kiêu, tự đại, dễ quên đi Đấng tạo dựng nên họ. Suốt cuộc đời ẩn dật và ba năm rao giảng của Chúa Giêsu cũng vậy, cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời mai ẩn, Ngài ẩn dật và chỉ muốn khiêm hạ để con người nhận ra và tự do yêu mến Ngài. Chúa Giêsu không bắt buộc con người phải tung hô, phải ca tụng Chúa, Ngài mai ẩn và để con người hoàn toàn tự do đến với Ngài. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi hôm nay cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan là một cuộc đáp trả của Thiên Chúa Cha khi Chúa Giêsu sẵn sàng vâng phục ý Chúa Cha để gánh tội cứu chuộc loài người. Các môn đệ thân tín thoáng thấy vinh quang của Chúa Giêsu, họ đã cảm thấy ngất ngây vì ánh sáng tuyệt vời của Ngài. Ánh sáng này là phần thưởng của cả một sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Ánh sáng này, Chúa Giêsu sẽ được Chúa Cha trao ban khi Người làm cho Đức Kitô từ trong cõi chết sống lại. Thiên Chúa Cha luôn yêu thương tôn trọng Chúa Con và đáp trả tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu, Con của Người, Chúa Cha đã mặc vinh quang và ánh sáng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được biến đổi ngay trong lúc cầu nguyện ngay trong lúc đang thân mật với Chúa Cha và lúc đó tiếng Chúa Cha làm ta suy nghĩ nhiều: “Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.

 Các môn đệ sau cuộc biến hình của Chúa Giêsu, lại gặp Ngài với con người thường nhật của Chúa. Và chỉ sau khi Chúa sống lại, các môn đệ lại thấy con người vinh quang của Chúa. Luca khi tường thuật cuộc hiển dung của Chúa Giêsu chỉ ra hai thực tế: thần tính -nhân tính và khiêm hạ - vinh quang liên kết với nhau. Sự việc biến hình xẩy ra khi các môn đệ đang ngủ và sự kiện này gợi ra cuộc thương khó Chúa Giêsu sẽ chịu ở Giêrusalem vì tình yêu vâng phục Thiên Chúa Cha. Quả thực, mọi người chúng ta đã được Kinh Thánh, Phụng vụ, Giáo Huấn của Hội Thánh dậy bảo nhiều. Với những nghi lễ phụng vụ nghiêm trang, đạo đức và đẹp mắt chúng ta vẫn tham dự, chúng ta trở về với thực tế cuộc sống hằng ngày, Chúa vẫn hiện diện, vẫn đồng hành, vẫn có mặt với ta trong mọi biến cố cuộc đời. Và như thánh Phaolô nói: “Chúng ta phản chiếu sự sáng láng của Chúa, và chúng ta được hiển dung theo cũng chính hình ảnh này càng ngày càng chói sáng” (1 Co 3, 18). Vâng, cuộc hành trình đức tin của ta dù có nhiều thử thách, gian nan, thánh giá, nhưng nếu ta kiên tâm chịu đựng, sẵn sàng đi theo Chúa, chúng ta sẽ  gặp được Ngài trong thâm giao êm ái và chắc chắn, ta sẽ được hiển dung với Chúa vì ta được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài.

 Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết kiên tập chịu đựng để chúng con cũng noi gương Chúa làm mọi sự vì tình yêu vâng phục Chúa Cha, xin cho chúng con được hiển dung với Chúa.

 

 CHÚA NHẬT III MÙA CHAY

CHÚA MỜI GỌI ĂN NĂN HỐI CẢI

Lc 13, 1 – 9

Càng đi gần tuần thánh, phụng vụ càng hối thúc con người ăn năn sám hối tội lỗi để lãnh nhận sự tha thứ của Chúa. Phụng vụ Chúa nhật thứ III mùa chay kêu gọi con người quay về với Chúa với lòng thống hối thật tình để đón nhận lòng thương của Chúa Giêsu.

 Thánh Luca trong trích đoạn Tin mừng đọc Chúa nhật III mùa chay, năm C đã kể lại rằng: “Lúc ấy có mấy người đến thuật lại cho Chúa Giêsu về việc tổng trấn Philatô giết một số người ở Galilêa. Chúa Giêsu trả lời với họ ngay: “Các ngươi tưởng những người bị giết là những người tội lỗi hơn những người ở Galilêa hay sao? Không đâu, nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng bị giết như những người ở Galilêa”. Chúa Giêsu còn đưa vụ 18 người bị tháp Siloe đè chết. Việc này làm xôn xao dư luận dân chúng ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói ngay: có chắc rằng 18 người bị tháp đè là những người tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem không?

 Trong thời Chúa Giêsu và ngay trong thời đại chúng ta đang sống, chúng ta dễ cắt nghĩa những biến cố, những vụ việc, những sự kiện theo cảm nghĩ chúng ta, những lối giải thích thiếu bác ái, thiếu lòng thương xót đối với người khác hoặc chúng ta cho đó là Trời phạt, Trời có mắt, còn sự việc nào có liên quan tới ta, ta cắt nghĩa nhẹ đi, hay ém nhẹm cả đi. Qua những phản ứng của chính Chúa Giêsu khi dân chúng thuật lại vụ việc Philatô giết một số người ở Galilêa và 18 người bị tháp Siloe đè chết. Chúng ta có thể thấy nơi Chúa Giêsu một số quan niệm sống. Đối với Ngài không có chuyện những người bị tai họa là những người tội lỗi hơn những người khác. Mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa và con người tất cả đều phải hối cải, ăn năn, trở về với Thiên Chúa. Để giải thích cho con người hiểu hơn về tấm lòng của Thiên Chúa chờ đợi con người hối cải, không thể chần chờ, ù lì mãi trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã đưa ra ví dụ cây vả. Cây vả đã ba năm không có trái, ông chủ muốn chặt, nhưng người làm vườn đến xin ông chủ khoan nhượng cho thêm một năm nữa để anh cuốc xới, bón phân, tưới nước, xem thế nào không chừng nó sẽ sinh quả, bằng không sẽ chặt nó đi. Ông chủ luôn tỏ ra kiên nhẫn đợi chờ.

 Mọi Kitô hữu đều giống như cây ăn quả Thiên Chúa trồng: con người từ nhỏ đã được lãnh nhận bí tích rửa tội, làm con Thiên Chúa và làm con của Giáo Hội, Chúa đã vun xới, chăm con người qua những lời giáo huấn, Kinh Thánh, Phụng vụ, con người đã lãnh nhận biết bao ơn huệ Thiên Chúa trao ban, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn… Do đó, con người đừng để cho mình trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả trong dụ ngôn hôm nay. Chúa đã trao cho con người tùy khả năng: người một nén, người hai nén, người ba, bốn nén và người năm nén. Tất cả phải làm lợi ra cho Chúa tùy khả năng của mình. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi con người miễn là con người biết hối cải, ăn năn và quay trở về với Thiên Chúa. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân thống hối để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa thật lạ lùng kỳ diệu. Không những Thiên Chúa không bắt tội con người mà còn sai chính Con Một của Ngài đến trần gian để yêu thương, tha thứ và hoán cải tội lỗi con người không ngừng. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để con người ăn năn, hối cải, trở về với Chúa để xin Ngài tha thứ cho. Mùa chay cũng giúp con người đổi mới suy nghĩ, thái độ và cử chỉ đối với người khác. Sự hoán cải của con người là cử chỉ tốt đẹp để con người đáp trả lại lòng Chúa thương yêu, muốn cứu vớt con người.

 Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để sám hối, ăn năn và trở về với Thiên Chúa hầu lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa.

 

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

NGƯỜI CHA NHÂN TỪ

Lc 15, 1 – 3. 11 – 32

Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nói lên lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa đối với con người, đối với loài người. Ngài quảng đại, rộng mở đối với từng người. Ngài sung sướng, hân hoan khi thể hiện lòng yêu thương và bác ái với con người. Ngài mời gọi con người chia sẻ niềm vui đó. Vì thế, chúa nhật IV mùa chay còn gọi là Chúa nhật vui mừng vì con người cảm nghiệm được tình yêu thương sâu xa, dạt dào của người cha khiến con người tin yêu, phó thác, can đảm dấn thân theo Chúa trong cuộc hành trình đức tin tiến về núi Canvê.

 Tưởng rằng đứa con hoang đàng đòi cha mình phân chia gia tài, rồi y đi phương xa phung phí tất cả tài sản y được chia phần, thất thế trở về, y sẽ không được người cha đón nhận. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Luca cho ta thấy rõ lòng thương xót của người cha đối với đứa con phung phá, đối với đứa con hoang đàng.

Dù đứa con thứ có bê bối, buông thả, hư đốn, tội lỗi, chẳng ra gì, người cha vẫn một mực yêu thương. Nên, khi người con hối cải, ăn năn, thống hối quay về, y cứ tưởng mình sẽ không được đón nhận, không được thứ tha, y chỉ muốn trở nên người làm thuê mà thôi…Nhưng, cái trớ trêu vẫn là người cha không những không tức bực, nổi giận, không đánh đập, mắng nhiếc cho thỏa dạ, trái lại người cha đã đón nhận người con thứ hư đốn trở về với tất cả lòng bao dung, nhân từ của mình: ôm hôn, cho thay quần áo mới, giầy mới, nhẫn trang sức và cho giết bê béo ăn mừng. Thái độ của người cha đã đánh thức tâm hồn, lay tỉnh lương tâm người con phung phí đến tận căn. Người con bây giờ đã thấu hiểu tấm lòng cao vời, độ lượng của người cha như thế nào. Anh cảm nghiệm sâu xa tình thương diệu vời của cha mình và bỗng chốc, mọi suy nghĩ trong anh đã thay đổi hoàn toàn, trước mắt anh chỉ còn một ý hướng, một con đường mới: con đường quảng đại và tình thương cứu rỗi. Anh hiểu thấu cha mình không nhìn mình với ánh mắt hời hợt, thông cảm cho có nhưng cha anh đã yêu thương với cả tấm lòng, cả con tim của mình.Cái hóm hỉnh của đoạn Tin Mừng này đổ dồn trên thái độ của người anh cả, đáng lẽ người anh phải vui mừng vì em anh trở về còn mạnh khỏe, đàng này anh lại ghen với em, so bì với em và tức bực vì lòng quảng đại của cha. Anh cho rằng anh chưa bao giờ làm gì xúc phạm tới cha, chưa bao giờ làm gì thiệt hại gia đình, anh phải được cưng chiều và ưu tiên hơn. Nhưng, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy người cha đã nói với người con cả những điều anh chưa bao giờ nghe: “Này con, con hằng ở với cha, thì tất cả những gì của cha là của con. Nhưng phải ăn khao vì em con đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Cái ngộ nghĩnh vẫn là người cha cần tình thương hơn cần sự giúp đỡ, làm giầu và vâng lời máy móc của người anh cả.

Chúa đến trần gian là để mang hạnh phúc cho mọi người. Dân Do Thái cứ tưởng rằng Chúa là riêng của họ, ơn cứu rỗi chỉ tới với họ. Họ đã lầm lớn và chỉ sống trong ảo tưởng. Chúa đến để giải thoát, để cứu độ mọi người. Suốt trong thời gian đi loan báo Tin Mừng, giới thiệu Nước Trời, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với đủ hạng người, Ngài đã đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Ngài yêu thương kẻ nghèo. Ngài đi với người tội lỗi để đưa họ về với tình thương. Ngài trọng nhân nghĩa chứ không trọng của lễ. Do đó, cuộc đời của Ngài là cuộc tìm kiếm con chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc đánh mất, Ngài mời gọi những kẻ đầu đường xó chợ vào dự tiệc cưới, Ngài cứu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền, Ngài xua trừ ma quỉ, Ngài làm việc không ngơi nghỉ. Ngài luôn có mặt bên con người dù con người dửng dưng với Ngài. Tình thương của Chúa cao vời, dạt dào. Ngài luôn sống xả thân vì đàn chiên và quảng đại, yêu thương, băng bó từng con chiên bị thương tích. Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Chúa không muốn bất cứ một con chiên nào bị loại trừ, bị hư đi.

 Trước tấm lòng quảng đại, tình thương vô biên của Chúa, con người hãy mau mắn trở về với tình thương của Chúa. Cảm nghiệm tình thương của Chúa, con người hãy mở rộng cửa lòng để đón tiếp, giúp đỡ anh em như thái độ của người cha đã đứng đón con mình trở về từ đàng xa. Trở về với tình thương không chỉ là đón nhận anh em một cách máy móc cho qua, cho có lệ, nhưng là giúp đỡ, động viên, khích lệ anh em, những người xung quanh với tất cả con tim, tình thương vô vị lợi của mình. Trở về với Chúa trong những ngày chay này là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của ta để ta luôn có cái nhìn, lối đánh giá và suy nghĩ như Chúa Giêsu. Trở về là xây dựng tình thương nơi Gia đình, Xã hội và Giáo hội  để mọi người đều nghiệm ra tình thương xả kỷ, vô vị lợi và hy sinh của Thiên Chúa Cha nhân từ.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

17. THẦN HỌC KINH THÁNH

Nhiệm Vụ Của Tông Đồ An-rê Trong Các Sách Tin Mừng

Nhiều người cho rằng trong tất cả các tông đồ, An-rê là nhân vật  bí ẩn và bị hiểu lầm nhất.  Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, An-rê, dù được xác định là anh của Simon Phê-rô, dường như đã bị đặt ở vị trí sau cặp anh em Gia-cô-bê và Gio-an, con của ông Dê-bê-đê. Ngay cả bà Dê-bê-đê cũng có một vai trò quan trọng hơn ông (Mt 20, 20-21; 27, 56). Để tìm hiểu những điều thú vị về An-rê, con của Jonah, ta phải nghiên cứu Tin Mừng Thứ Tư. Thế nhưng, có nhiều vấn để nảy sinh khi đọc Tin Mừng này, đặc biệt xung quanh việc tác giả hình như có ý định đề cao vai trò  của An-rê và như thế lại hạ thấp căn tính truyền thống và vai trò của Phê-rô, ít ra là trong một sự kiện quan trọng: gọi tên Chúa Giêsu là “Đức Kitô”.         

Có lẽ một phần lý do chuyện mập mờ về An-rê là vì ông là người duy nhất được biết đến như là môn đệ của Gioan Tẩy Giả trong tất cả các tông đồ của Chúa Giêsu. Các mối quan hệ mơ hồ giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của Chúa Giêsu có thể dùng để giải thích chuyện vai trò của An-rê bị hạ thấp trong các Tin Mừng Nhất Lãm nhưng lại được nâng cấp trong Tin Mừng Thứ Tư.    

An-rê trong Tin Mừng Nhất Lãm     

An-rê được nhắc đến bảy lần trong ba Tin Mừng đầu tiên (Mc 1, 16, 29; 03, 18; 13, 3; Mt 1, 18; 10, 2; Lc 6, 14). Nơi duy nhất mà cả ba Tin Mừng cùng ghi tên An-rê là trong danh sách các tông đồ (Mc 3,14-19; Mt 10: 2-4; Luke 6,13-16). Tuy nhiên, trong Tin Mừng Mác-cô (3,18) và Lu-ca (6,14) tên của An-rê không nằm sau tên Si-môn Phê-rô, như trong Tin Mừng Mát-thêu (10, 2). Thay vào đó, tên Gia-cô-bê và Gio-an lại đứng trước tên ông (Mc 3, 18; Lc 6, 14). Cũng trong Tin Mừng Mác-cô, nơi đoạn kể về những người cùng ngồi với Chúa Giê-su trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ khi Chúa Giêsu báo trước sự tàn phá của nó (Mc 13, 1-2), lại một lần nữa tên bốn người đó được liệt kê như sau: "Phê-rô, Giacôbê, Gioan, và An-rê "(Mc 13, 3). An-rê, anh trai của Simon Phê-rô, được kể sau anh em nhà Dê-bê-đê.   

Tin Mừng Lu-ca đề cập đến An-rê chỉ một lần (Luca 6: 14), sác Công Vụ Tông Đồ cũng thế. Khi kể tên những người ở Lầu Trên dịp lễ Ngũ Tuần, tương tự như trong Tin Mừng Luca, tác giả Công Vụ Tông Đồ cũng đặt tên An-rê ở vị trí như sau: "Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê" (Cv 1, 13).        

Câu Mc 1,29 cho chúng ta biết rằng Simon và An-rê ở chung nhà, nhưng trong khi Tin Mừng Lu-ca viết về Gia-cô-bê và Gio-an như "bạn chài với ông Si-môn" (Lc 5, 8-9), thì chẳng có Tin Mừng nào đề cập đến chuyện An-rê làm nghề hay thuộc một gia đình chài lưới. Tuy nhiên, vì Tin Mừng Mác-cô và Mát-thêu đề cập đến việc Chúa Giêsu kêu gọi Phê-rô trước rồi đến An-rê khi họ đang ở trên thuyền của họ, ta có thể giả định rằng ông Giô-na, người cha của Phê-rô và An-rê, đã chết hoặc là ông ta không thể quán xuyến cái nghề chài lưới của gia đình được nữa; ông Giô-na không như cha của Gia-cô-bê và Gio-an, (người đã có mặt với hai con trên chiếc thuyền của gia đình).  

Chúng ta có thể thấy rõ việc An-rê là “người ngoài cuộc” trong ba trình thuật được kể trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm,  tên các tông đồ được nêu trong chuyện gồm Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an, nhưng không có tên An-rê. Ba trình thuật đó là: chữa bệnh của các con gái của Gia-ia, trưởng hội đường (Mc 5, 37; Lc 8, 51); biến hình (Mc 9, 2;  17, 1; Lc 9, 28); và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 34; Mt 26,37). Cuối cùng, theo Tin Mừng Luca, Chúa chỉ sai Phê-rô và Gio-an (không có tên An-rê và Gia-cô-bê) chuẩn bị cho bữa ăn lễ Vượt Qua (Lc 22, 8; Mc 14, 13).   

Từ những điều vừa đề cập, chúng ta có thể nói rằng, dù có một ưu đãi đối với An-rê, khi Chúa Giêsu gọi Phê-rô và Anrê trước (Mc 1, 16-17; Mt 4, 18-19), nhìn tổng thể, các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt tên Gia-cô-bê và Gio-an trước tên An-rê, Thật vậy, khi Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Chúa kêu gọi các môn đệ, tên An-rê thậm chí không được nhắc tới trong tên những môn đệ được gọi  (Lc 5, 1-11). Rõ ràng, có chuyện gì đó đã xảy ra khiến An-rê trở thành một môn đệ hạng hai, đặc biệt trong mắt của Mác-cô và Lu-ca. Thực ra đây không phải là trường hợp với Mát-thêu và điều đó có thể giúp chúng ta hiểu tại sao.         

 An-rê trong Tin Mừng Thứ Tư        

Tên An-rê được nhắc đến trong Tin Mừng Thứ Tư nhiều hơn bất cứ các Tin Mừng khác (Ga 1, 40, 44; 6, 8; 12,22 [2X]); thêm vào đó,  có một chỗ mô tả Bethsaida là "thành phố của An-rê và Phê-rô" (Ga 1:44).  Dù cho số lần tên "An-rê" được nhắc đến trong Tin Mừng Gioan vượt trội hơn các Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Tin Mừng Thứ Tư cho An-rê một vai trò hoàn toàn khác, không tìm thấy nơi các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Hơn nữa, nếu vị trí của An-rê có vẻ như bị chuyển xuống sau cặp anh em Gia-cô-bê và Gio-an trong Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca, thì chuyện đó sẽ khác hẳn trong Tin Mừng Thứ Tư. Trong Tin Mừng này, chính An-rê mời em mình là Si-môn làm môn đệ Chúa, và rồi còn quan trọng hơn thế nữa, không phải Phê-rô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nhưng chính An-rê đã loan báo điều này cho em mình là Si-môn. Chúng ta hãy đọc lại bản văn đó, như sau:

Sau khi ông Gio-an Tẩy Giả (đang đứng với hai môn đệ) công bố lần hai tên Đức Giê-su là "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1, 29; 36)  

Hai môn đệ này nghe ông nói thế… liền đi theo Đức Giê-su. Khi Đức Giê-su quay lại và thấy họ đi theo, Ngài nói với họ, " Các anh tìm gì thế?" Họ nói với ông: "Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? Ngài nói với họ: " Người bảo họ: "Đến mà xem." Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: "Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha" (tức là Phê-rô). (Ga 1, 37-42).

Tiếp theo khuynh hướng của Tin Mừng Thứ Tư giảm nhẹ vai trò của Phê-rô (và đặc biệt tạo sự tương phản với các đoạn văn nhấn mạnh đến sự độc đáo của Phê-rô trong Tin Mừng Mát-thêu (ví dụ, Mt 14, 28-31; 16, 17-19), tác giả của Tin Mừng Thứ Tư dường như đã cố gắng nêu tên An-rê trước Phê-rô ở một vài chỗ. Chúng ta nghe kể rằng: "Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa, cùng quê với các ông An-rê và Phê-rô", (Ga 1:44) Trong tường thuật nơi chương 6 của Tin Mừng Gio-an về phép lạ hóa bánh ra nhiều, chúng ta được biết rằng: " Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! "(Ga 6, 8). Và, có lẽ với một chút xem thường Phê-rô, (người được biết là bị một số kẻ ngoại Hy Lạp trong số những người Do Thái cải đạo thách thức), Tin Mừng Gioan kể cho chúng ta nghe rằng chính Phi-líp và An-rê thưa với Chúa Giêsu rằng có" người Hy Lạp "muốn tìm gặp Chúa": " Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su."(Ga 12, 20-22).         

Nhưng rồi chúng ta lại thấy xuất hiện một sự đảo ngược, và thứ tự các tên lại được xếp đặt như trong Tin Mừng Nhất lãm, tên An-rê  đứng sau Phê-rô, Giacôbê và Gioan (ít ra là trong Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca), thật vậy, chúng ta không thấy tên An-rê nơi đoạn kết thứ hai của Tin Mừng Gioan, nơi mà tên Phê-rô và "các con trai của  Dê-bê-đê " đã được nhắc đến cùng với tên của các môn đệ khác. Nhìn thoáng qua, chúng ta có thể nói ở đây tác giả đã xử dụng một bản tường thuật có xu hướng thiên về truyền thống xem nhẹ An-rê. Chỗ được đề cập tới Biển Hồ Ti-bê-ri-a, nơi Chúa Giêsu "đã tỏ mình ra": " Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. "(Ga 21: 2). Có lẽ vì Chương 21 được thêm vào từ nguồn Ngoài Gio-an để phục hồi" và hòa giải” Phê-rô với Chúa Giêsu, qua đó, chúng ta đoán biết là có một sự đôi co / tranh luận giữa một bên là Tin Mừng Nhất Lãm (hay ít ra là  hai Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca) có khuynh hướng hạ thấp An-rê và một bên là Tin Mừng Gio-an với khuynh hướng đề cao An-rê.     

 Kết luận    

Tại sao lại có sự khác biệt rõ ràng này? Các Tin Mừng Nhất Lãm cho là, vì Chúa Giêsu đã nhận phép rửa của Gioan, nên Ngài là một môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mc 1, 9-11;  Matt 3, 3-17; Lc 3, 21-22). Và chỉ trong Tin Mừng Thứ Tư, chúng ta mới được biết là An-rê là một môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng Thứ Tư  cũng ngụ ý rằng vì Chúa Giêsu đã chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, nên việc này đã khiến Ngài trở nên một môn đệ của Gio-an (xem Ga 1, 32-33). Phải chăng có điều gì đó đặc biệt trong mối liên kết của họ với Gio-an Tẩy Giả như là những cựu môn đệ và tạo nên một mối quan hệ có một không hai giữa Chúa Giêsu và An-rê? Phải chăng điều này khơi dậy một sự ghen tuông nào đó được thể hiện trong ý đồ hạ thấp vai trò của An-rê mà chúng ta tìm thấy nơi Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca? Phải chăng cái vị thế đặc biệt của An-rê trong mối liên hệ với Chúa Giêsu vì cả hai cùng là môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã khiến Mác-cô và Lu-ca cố gắng "đặt An-rê vào đúng vị trí của ông ta"? Chúng ta có chứng cớ để nói rằng hình như đã có một sự căng thẳng giữa các nhóm người cải đạo, những người xưa đã từng là đệ tử của Gio-an Tẩy Giả, những người vẫn còn là đệ tử của Gio-an Tẩy Giả, và những người không bao giờ là môn đệ của Gio-an Tẩy Giả. Trong ý nghĩa này, Raymond Brown viết: " 'bằng chứng hạn chế' về mối liên hệ giữa các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả và các môn đệ của Chúa Giêsu cho phép chúng ta suy đoán rằng đã có tranh chấp giữa một bên là cộng đoàn theo thánh sử Gio-an và một bên là những môn đệ của Gio-an Tẩy Giả. (Raymond E. Brown, The Community of the Beloved Disciple: The Life, Loves, and Hates of an Individual Church in New Testament Times) [New York, et al.: Paulist Press, 1979].  

Tin Mừng Thứ Tư rõ ràng đối xử với Phê-rô cách khác hẳn, không như cách chúng ta thấy trong các Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là Tin Mừng Mát-thêu (Tin Mừng này có khuynh hướng đề cao Phê-rô vượt hơn cả điều mà Mát-thêu tìm được từ các nguồn mà Mác-cô và Lu-ca cùng xử dụng). Sự khác biệt nơi Tin Mừng Gio-an là cách dùng “Nhóm Mười Hai” thay cho “các môn đệ”.  Cha Raymond E. Brown viết rằng “Thánh Sử Gioan muốn biểu tượng hóa nhóm đặc biệt của các Kitô hữu với hình tượng của Phê-rô và Nhóm Mười Hai” (Ga 6, 60-69) và bởi vì sự tương phản có chủ ý và kiên định giữa Phê-rô và người Môn Đệ Được Sủng Ái, cũng là người hùng của cộng đoàn Gio-an”, người được nhắc đến trong năm hay sáu đoạn Tin Mừng …. và điều này rõ ràng tương phản với Phê-rô.” Cha Brown lý luận rằng “khi đem người anh hùng của họ đối nghịch với người nổi nhất trong Nhóm Mười Hai, một cách biểu tượng cộng đoàn của thánh sử Gio-an (1) đang tự mình đối nghịch với các giáo hội kính trọng Phê-rô và Nhóm Mười Hai – còn gọi là các Giáo Hội Tông Đồ, và cũng được các học giả đặt tên là ‘Giáo Hội Cả’” (Community of the  Beloved Disciple, 82-83).  

Như đã biết Tin Mừng Thứ Tư giảm nhẹ vai trò của Phê-rô (ít ra là so với Tin Mừng Mát-thêu), chúng ta có thể suy đoán về lý do mà An-rê, chứ không phải là Phê-rô (Mc 8,29; Mt 16,16; Lc 19,20) là người đã nhận ra Đức Giê-su là  Đấng Ki-tô (Ga 1, 41). Thật vậy, An-rê không chỉ nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, nhưng chính ông đã nói cho Phê-rô biết thông tin đó. Chuyện này cho thấy ý đồ của thánh sử Gio-an muốn đánh đổ truyền thống cho rằng Phê-rô là người đầu tiên đã gọi Đức Giêsu là Đấng Ki-tô.        

Với lập luận trên, Cha Brown nhận định rằng: trái ngược với trình thuật thời thơ ấu trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca, Lời Tựa của Tin Mừng Gio-an làm nổi bật sự tiền hữu (2) của Chúa Giê-su với câu Ngôi Lời đã trở nên người phàm (Ga 1, 1-18). Và “Kitô học, nền tảng cho niềm tin của các Kitô hữu thời các tông đồ chưa có ý niệm đầy đủ về sự tiền hiện hữu của Chúa Giê-su và nguồn gốc từ trên cao của Ngài.” Trong khi hai Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca thừa nhận việc Chúa được sinh ra mà không cần một người cha trần thế, cả hai Tin Mừng này không chứa đựng một “thượng Kitô học” với những chỉ dấu về sự tiền hữu (Community of the Beloved Children). Từ cách nhìn đó, chúng ta có thêm một dấu chỉ về sự khác biệt trong vai trò của An-rê nơi Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng Thứ Tư.  Phải chăng chúng ta có thể tìm được lời giải thích cho sự khác biệt đó bằng cách đọc kỹ phần cuối đoạn 1 của Tin Mừng Gio-an?  Thật vậy, ngay sau khi Chúa mời gọi An-rê “ở lại” với mình (để trở nên một môn đệ Chúa cùng với một đồ đệ khác của Gio-an Tẩy Giả), và An-rê đã giới thiệu Chúa Giê-su là “Đấng Mê-si-a” cho Si-mon, người được Chúa đặt tên là Phê-rô (Ga 1. 42), chúng ta nghe được cuộc tranh luận của Na-tha-na-en về nguồn gốc của Chúa (Ga 1, 43-51)? Ở đoạn văn đó, sự tiền hữu của Chúa Giêsu được diễn đạt một cách thân mật với việc Ngài được gọi tên là Con Thiên Chúa và Con Người, thêm vào những danh hiệu khác đã có trước.  

The Bible Today – Jan/Feb 2016     

--------------

 Chú thích: 

1/ Cộng Đoàn Thánh Sử Gioan là một mạng lưới các giáo hội ở vùng Tiểu Á, gồm những tín hữu di cư từ Palestine tới đó sau biến cố thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá năm 70. Có giả thuyết cho rằng bốn bản văn Tân Ước gồm Tin Mừng Gio-an và ba thư của Gio-an có gốc gác từ cộng đoàn này, khi các thành viên của cộng đoàn có những tranh luận tôn giáo với những người Do Thái gốc Giu-đê-a, bao gồm cả những môn đệ của thánh Gio-an Tẩy Giả.         

2/ Tiền hữu –từ thần học. Pre-existence:  Tiên tồn, tồn tại từ trước, tính tiên tồn, tồn tại tiên nghiệm, tiền hữu, tiền thế [như Phúc âm Gioan, Ngôi Lời trước khi nhập thể, thì đã có từ nguyên thủy; hay như quan niệm linh hồn đã có từ đời đời] (Tự Điển Thần Học Tín Lý Anh Việt, VietMissio 1996).  

Đọc số 444 của Giáo Lý Công Giáo – năm 1992  (536, 554). Vào hai thời điểm quan trọng, Phép Rửa và Hiển Dung của Đức Ki-tô, các sách Tin Mừng ghi lại tiếng Chúa Cha gọi Đức Giê-su là "Con yêu dấu" ( x.Mt.3,17; 17,5) của Người. Chính Đức Giê-su cũng tự xưng là "Con Một của Thiên Chúa" (Ga 3,l6) và qua danh hiệu đó, xác nhận mình tiền hữu từ muôn thuở ( x.Ga l0,36). Người đòi phải tin vào "danh Con Một Thiên Chúa" (Ga 3,l8). Lời tuyên xưng này của Ki-tô giáo đã xuất hiện ngay từ trong tiếng kêu của viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su trên Thập Giá : "Quả thật ông này là Con Thiên Chúa" (Mc l5,39). Chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, người tín hữu mới hiểu được đầy đủ danh hiệu "Con Thiên Chúa".

Lm. Michael H. Crosby, OFMCap

Lucas Khổng Kim Quang dịch và chú thích.

Nguồn: Gpquinhon.org

 

18. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

BÀI 2. LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Từ Ngữ Thương Xót Trong Cựu Ước Và Lòng Thương Xót

Của Thiên Chúa Trong Câu Chuyện Sáng Tạo

Trong Cựu Ước, từ ngữ lòng thương xót được nhắc đến khoảng 400 lần (tính theo sự xuất hiện của từ ngữ rachamim và hai từ ngữ khác có sự liên hệ gần gũi là hesed vàhen).  Các tác giả của Cựu Ước đặc biệt đã nhắc đến từ ngữ rachamim, có nghĩa là tấm lòng (entrailles), là tử cung (utérus) của người mẹ mang thai đứa con của mình trước khi sinh ra em bé. Tấm lòng, trong chiều sâu, diễn tả không gian trong người phụ nữ có hướng nhìn về người khác. Nghĩa là, trong ý nghĩa của Thánh Kinh mang tính cách nhân chủng học, tấm lòng diễn tả một nơi chốn là nguồn mạch của mọi cảm xúc, là nguồn mạch sâu xa nhất của tình yêu. Tình yêu này được biểu lộ như là lòng từ bi: tình yêu nội tâm, mãnh liệt, thương xót. Ở đây, chúng ta có thể nhớ đến một đoạn của tiên tri I-sai-a: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? ”Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49,15).[1]

Lòng của người mẹ chỉ được hiểu cách trọn vẹn, khi hướng về trái tim, về tình yêu thương của người mẹ dành cho con mình. Như thế, để hiểu được lòng thương xót, theo Kasper, thì cần phải trở về và suy nghĩ về từ ngữ trái tim trong Thánh Kinh (leb, lebab, cardia). Trong ý nghĩa Thánh Kinh, từ ngữ trái tim không chỉ biểu lộ cách đơn giản về một bộ phận quan trọng nhất của sự sống, mà nhìn theo phương diện nhân chủng học, trái tim diễn tả trung tâm điểm của con người, là nguồn mạch của mọi cảm xúc, và của mọi khả năng phán đoán. Ở đây, chúng ta nhớ đến các bài Thánh Vịnh trong Cựu Ước mang tính cách kêu than, tới bài hát ai oán của Giê-rê-mi-a, tới lời than van kêu gào của Vua Đa-vít về cái chết của con trai là Áp-sa-lon (2Sam 19). Chúa Giê-su cũng phẫn nộ và buồn rầu về sự cứng lòng của nhóm Pha-ri-sêu: “Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá”. (Mc 3,5), cũng như Ngài chạnh lòng thương dân chúng: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. (Mc 6,34).

Thánh Kinh đi xa thêm một bước, khi nói về trái tim của Thiên Chúa trong ý nghĩa Thần Học. Thiên Chúa chọn con người theo trái tim của Ngài: “Nhưng bây giờ vương quyền của ngài sẽ không đứng vững. Đức Chúa đã tìm cho mình một kẻ như lòng Người mong muốn, và Đức Chúa đã đặt kẻ ấy làm người lãnh đạo dân Người”. (1 Sam 13,14). “Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta”. (Cvtđ 13, 22).[2]Những hành động của Thiên Chúa luôn là hành động của trái tim, hành động chan chứa lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại. Điều này, Thiên Chúa đã tỏ lộ ngay trong việc sáng tạo của Ngài.

Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ được biểu lộ qua từ ngữ, mà đặc biệt qua lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Lật lại các trang Thánh Kinh về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, chúng ta khám phá được lòng thương xót sâu xa của Thiên Chúa. Qua việc sáng tạo, Thiên Chúa đã làm mọi sự đều tốt đẹp và rất tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp”. (St 1, 31). Đặc biệt, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài, với người nam và người nữ. Ngài đã chúc lành cho con người, và con người cần sinh sôi nảy nở khắp mặt đất. Ngài còn trao trách nhiệm cho con người coi sóc và làm thăng tiến mọi loài thọ tạo. (St 1, 17-30; 2,15). Tất cả tốt đẹp và rất tốt đẹp.

Tuy nhiên, lập tức câu chuyện lại tiếp tục với một thảm hoạ. Con người lại muốn giống như Chúa và muốn tự vinh danh mình, và muốn mình có khả năng biết điều thiện điều ác. Sự lạ lẫm của con người với Thiên Chúa dẫn đến sự lạ lẫm của con người với nhau, và của con người với thiên nhiên. Trái đất giờ đây mang vào mình biết bao nhiêu gai nhọn, và mọi người phải cực nhọc vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt, để làm việc cho sự sống còn. Mầm sống mới giờ đây chỉ có thể được sinh ra trong đau đớn. Phụ nữ và nam giới trở nên xa lạ với nhau (St 3, 16-19). Còn cả chuyện anh em ruột Ca-in và Aben giết hại lẫn nhau nữa (St 4). Sự dữ lớn mạnh như những cơn bão tuyết. Trái tim và những giác quan của con người ngày càng nhuốm màu của sự dữ (St 6,5).

 Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không để cho thế giới và con người tiếp tục sống trong thảm hoạ, và tiếp tục rơi vào trong khổ đau. Từ khởi đầu Thiên Chúa nhiều lần đã ra tay can thiệp với những biện pháp khác nhau, để chống lại tội lỗi và sự dữ. Ngài luôn có những hành động tương phản đối với sự hỗn loạn và với những thảm hoạ xảy ra. Từ ngữ lòng thương xót không xuất hiện trong các chương đầu của sách Sáng Thế, nhưng hành động của Thiên Chúa ngay trong câu chuyện sáng tạo diễn tả rất rõ ràng lòng thương xót của Ngài. Khi đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, Thiên Chúa đã ban cho con người áo quần mặc, để con người có thể tự che chở trước đe doạ của thiên nhiên, và che đậy sự xấu hổ của con người với nhau, cũng như gìn giữ phẩm giá của con người (St 3,21). Hơn nữa, dù có phạt Cain về tội giết em, nhưng Thiên Chúa vẫn bảo vệ Cain, đã ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp ông không giết ông (St 4, 15). Cuối cùng Thiên Chúa đã tạo cho ông Nôe một cơ hội mới để bắt đầu một cuộc sống mới, sau trận lụt hồng thuỷ. Thiên Chúa đã ban phúc lành cho ông Nôe và con cháu ông, Ngài lập lại trật tự và ký kết giao ước tình yêu che chở con người mang hình ảnh của Ngài. (St 8 và 9).

Nhưng như vậy cũng chưa đủ cho con người. Tính kiêu căng của con người không có điểm kết. Con người lại xây dựng tháp Babel cao ngất tới trời cao. Sự kiêu ngạo đã đưa con người tới tình trạng hỗn loạn của ngôn ngữ, con người không còn hiểu nhau được nữa, vì thế con người đã chia cách nhau và tràn lan khắp mặt đất. (St 11). Một lần nữa Thiên Chúa lại không để con người bất trung và bội phản cô đơn lẻ loi với số phận của họ. Ngài đã chống lại hỗn loạn và thảm hoạ. Với việc kêu gọi ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã bắt đầu một trang sử mới với con người (St 12, 1-3). Với Áp-ra-ham Thiên Chúa viết trang sử cứu độ con người. Trong Áp-ra-ham, tất cả mọi người trên trái đất được Thiên Chúa chúc phúc. Trong câu chuyện của Áp-ra-ham, người ta có thể đọc được những lời nói diễn tả tình thương và sự trung thành của Thiên Chúa. (St 24, 12.14.27; 32,11). Đó là khởi đầu của câu chuyện nói về hành động tràn đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối diện với biết bao tội lỗi con người gây ra, đối diện với hỗn loạn và thảm hoạ của tội lỗi. Ngay từ ngày đầu tiên, lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thực hiện rõ ràng. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng là cách thức hành xử của Thiên Chúa với sự dữ luôn đe doạ con người. Cách hành xử và hành động xót thương của Thiên Chúa tương phản với sự dữ và hỗn loạn cùng thảm hoạ của nó, và cách hành xử và hành động của Thiên Chúa không nhuốm màu bạo lực. Ngài không tự nhiên xen vào ngay, nhưng với lòng thương xót Ngài tạo cho con người những cơ hội mới, và tái lập sự sống mới với không gian được Chúa chúc lành.[3]

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

-------------------------

[1] X. BIANCHI E., Chemins d’humanité, Les Béatitudes, Cerf, Paris 2013, t. 92-93.

[2] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 50-51.

[3] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 52-53.

 

19. CHÚT TÂM TÌNH

TỪ THIỆN

 Vào hạ tuần tháng 12 năm 2015, qua trung gian người quen, một nhà hảo tâm đã hỗ trợ cho nhà thờ NP xây dựng một cây cầu bê-tông nối liền hai xóm. Cầu có chiều dài 20m, rộng 2m5, tổng kinh phí 77.000.000đ cùng với 20 ngày công của giáo dân. Ngày 17 tháng 01 năm 2016 vừa qua, nhóm tài trợ đã đến khánh thành chiếc cầu nầy.

Hỏi chuyện với anh trưởng nhóm, người đã đến khảo sát nhu cầu và địa điểm thích hợp để bắt cây cầu, được biết đây là một Hội Từ thiện quy tụ một số cựu học sinh Trường Trung Học Tống Phước Hiệp Vĩnh Long mà giờ đây các vị đã ở tuổi ngũ tuần trở lên, dĩ nhiên toàn là quý bà. Số còn lại thuộc nhóm người trẻ, nam giới thời Trung học Lưu Văn Liệt. Các thành viên rất thành đạt trên đường công danh sự nghiệp, giờ đây lập ra Hội Từ thiện Tống Phước Hiệp - Lưu Văn Liệt nầy. Mục đích của Hội để giúp đỡ những vùng nông thôn nghèo có được những cây cầu để con em thuận tiện đến trường, các bà dễ dàng trong việc đi đến chợ búa. Ngoài ra, Hội còn giúp đỡ tập sách, gạo, mì, cho các em học sinh nghèo, người già neo đơn, khuyết tật theo thời vụ: đầu niên học, dịp lễ, Tết, thiên tai. Điều muốn nói trong Hội không có người Công giáo.

Từ Thiện, hai từ nầy có lẽ rất quen với nhiều người trong chúng ta. Thỉnh thoảng trên đường ta thấy những chuyến xe căng biểu ngữ với hàng chữ: “Đoàn Từ thiện Hội… công tác giúp người nghèo vùng….”. Khi có nơi nào bị thiên tai thì ta sẽ thấy nhiều hơn nữa những chuyến xe với những biểu ngữ tương tự như thế lưu thông trên đường.

Vậy TỪ THIỆN là gì? Đối với người Kitô hữu Từ thiện có phải là BÁC ÁI không?

Theo quyển Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin năm 1998 đã định nghĩa: “Từ thiện là có lòng lành, hay thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, khổ đau để làm phúc, tấm lòng từ thiện, hội từ thiện” (tr.1759).

Theo định nghĩa trên đây, ta thấy việc từ thiện xuất phát từ tấm lòng thương người, đưa đến việc sẵn sàng giúp đỡ với mục đích để tạo phúc cho mình hay cho gia đình mình. Như vậy, từ thiện cũng có yếu tố tương tự như Bác ái Kitô giáo là yêu người, giúp đỡ người nghèo khó và cầu phúc cho mình  bằng những việc làm cụ thể như trong Kinh Thương người có mười bốn mối các nhà thờ thường đọc trong ngày Chúa nhựt. Ở đây không đề cập tới những trường hợp làm Từ thiện để đánh bóng cá nhân hay thương hiệu Cơ sở, Công ty, Xí nghiệp mình thay vì dùng tiền để mướn quảng cáo. Tuy nhiên, từ thiện vẫn chưa là việc Bác ái đúng nghĩa của Kitô giáo vì thiếu đối tượng là Chúa Kitô. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy’ (Mt 25, 40).

Vậy người Kitô hữu muốn biến việc “từ thiện” mình thực hiện trở thành việc Bác ái thì không thể thiếu yếu tố “Phục vụ, làm” với ý hướng cho Chúa Kitô xuyên qua những con người khổ đau, nghèo đói. Có vậy, việc làm “từ thiện” mới mang lại cho ta công nghiệp, mối phúc trước nhan thánh Chúa: vì ta đã làm cho chính Chúa.

Văn phòng Caritas Vĩnh Long

781    31-01-2016 01:14:09