Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Nguyệt san tháng 11/2016: Lòng thương xót trong sứ mạng của Hội Thánh

LỜI CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

LỜI NGUYỆN CHUNG

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

SỐNG LỜI CHÚA

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

 

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.10.2016

Kính gửi: Quý Cha

            Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót nơi Mẹ Maria. Tháng nầy, tôi đề cập chủ đề Lòng thương xót nơi thánh nữ Faustina Kowalska (số 24).

Thánh nữ Faustina là một nữ tu ít học thuộc dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở Ba Lan trong những năm 1930. Thánh nữ xuất thân từ một gia đình nghèo, phải vật lộn để sống trong những năm chiến tranh thế giới I. Thánh nữ đi học có ba năm, vì vậy thánh nữ đã được giao phó các nhiệm vụ khiêm tốn nhất trong tu viện, thường trong nhà bếp hoặc làm vườn. Tuy nhiên, thánh nữ đã nhận được mạc khải phi thường - hoặc những sứ điệp - từ Chúa Giêsu.

Thánh nữ Faustina Kowalska kể lại một số cuộc hiện ra trong lúc thánh nữ xuất thần và thánh nữ viết trong nhật ký của mình, sau đó được xuất bản thành cuốn sách Nhật ký: Lòng Chúa thương xót trong Linh hồn tôi (Diary: Divine Mercy in My Soul). Các từ ngữ chứa đựng trong nhật ký là sứ điệp về lòng Chúa thương xót. Mặc dù sứ điệp về lòng Chúa thương xót không phải là mới trong các giáo huấn của Giáo Hội, nhưng Nhật ký của thánh nữ Faustina của dấy lên một phong trào lớn, và một sự tập trung mạnh mẽ và đáng kể về lòng Chúa thương xót.

Qua lời phát biểu và tầm quan trọng của sứ điệp chứa đựng trong Nhật ký của thánh nữ Faustina, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi thánh nữ là “tông đồ vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót trong thời đại chúng ta”.

Những chủ đề chính về lòng sùng kính Lòng Thương Xót là cầu xin và sở hữu lòng Chúa thương xót, tin tưởng vào lòng thương xót dồi dào của Chúa Kitô, và cuối cùng thương yêu tha nhân.

Hôm nay, chúng ta tiếp tục dựa vào thánh Faustina như một lời nhắc nhở liên tục của sứ điệp để tin tưởng vào lòng thương xót vô tận của Chúa Kitô, và sống cuộc sống thương xót đối với người khác. Chúng ta cũng hướng về thánh nữ trong sự cầu nguyện và xin thánh nữ cầu bàu cùng Đấng Cứu chuộc đầy lòng thương xót đối với từng người chúng ta.

“Thánh nữ được mời gọi bước vào tận nơi sâu thẳm của Lòng Chúa Xót Thương, xin Thánh nữ chuyển cầu và giúp chúng ta luôn sống và bước đi trong tình thương tha thứ của Thiên Chúa, cũng như trong niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Ngài” (số 24).

Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được tầm quan trọng chủ đề Lòng thương xót mà thánh nữ Faustina đã chép trong Nhật ký và xin Chúa giúp chúng ta thực hiện được những điều đó.

 

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 11/2016

LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH

1. Chứng từ của Lòng Thương Xót

Đức Giáo hoàng Phanxicô sau khi cử hành Thánh lễ mừng Ngày cử hành Năm thánh cho các Giáo lý viên 25.9.2016 vừa qua, đã nhắc đến cha Engelmar Unzeitig (1911-1945), CMM (Dòng các nhà thừa sai Marianhill), linh mục bị sát hại tại trại tập trung Quốc xã Dachau, được tuyên phong chân phước ngày thứ Bảy hôm trước tại nước Đức. Cha đã được sai đến Dachau để bảo vệ những người Do Thái, tại trại tập trung cha phục vụ các tù nhân và được mệnh danh là “vị Thiên sứ của Dachau”. Đức Giáo hoàng nói cha đã bị giết hại vì đức tin và hận thù tôn giáo, và “cha đã đối đáp lại sự thù ghét bằng tình yêu, sự tàn ác bằng dịu hiền”. Chứng từ của ngài giúp chúng ta sống làm chứng “cho tình bác ái và hy vọng, ngay cả giữa những thử thách đau khổ”.

Cũng trong dịp này, nhắc đến dân tộc Mexico, qua cuộc tuần hành của hàng trăm ngàn người biểu lộ sự bảo vệ hôn nhân truyền thống và chống đạo luật mới cho phép hôn nhân đồng tính, cùng chứng từ của hai linh mục bị sát hại thứ hai tuần trước (19/6) tại địa phận Papantla, Đức Giáo hoàng thôi thúc các giáo sĩ, giáo dân dấn thân tại Papantla “tiếp tục hăng hái thực thi sứ mạng của Hội thánh bất chấp mọi trở ngại, theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành”.

Dung mạo Lòng Thương Xót của Đức Giêsu Kitô chịu Chết và Phục sinh ngày nay tiếp tục tỏ hiện một cách mầu nhiệm qua sứ mạng của Hội thánh, ở mọi nơi và mọi thời.

2. Lòng Thương Xót tiếp tục “cắm lều” giữa lòng xã hội thế tục hóa

“Khi chia sẻ với nhân loại những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, Hội thánh đã đứng về phía mỗi con người ở mọi nơi mọi thời, mang tin vui Nước Chúa đến cho họ, Nước ấy đã xuất hiện nơi Đức Giêsu Kitô và vẫn đang tiếp tục hiện diện giữa nhân loại. Giữa lòng nhân loại và trong thế giới ấy, Hội thánh chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa, và bởi thế, Hội thánh là bí tích của niềm hy vọng huy hoàng nhất, khơi gợi và nâng đỡ mọi cố gắng và dấn thân của con người nhằm giải phóng và thăng tiến con người. Hội thánh hiện diện giữa nhân loại, tựa như túp lều hội ngộ của Thiên Chúa, tựa như “nơi Thiên Chúa ở với con người” (x. Kh 21, 3), để con người không cô đơn, lạc lõng hay khiếp sợ trong lúc thi hành nhiệm vụ làm cho thế giới trở nên nhân bản hơn; nhờ đó, con người tìm được sự hỗ trợ nơi tình thương cứu chuộc của Đức Kitô. Là thừa tác viên của ơn cứu độ, Hội thánh không sống trong trừu tượng hay thuần tuý thiêng liêng, mà ở trong chính bối cảnh của lịch sử và thế giới mà con người đang sống. Chính tại nơi đây, con người gặp được tình thương Thiên Chúa và được mời gọi cộng tác vào kế hoạch của Ngài. Chúng ta biết ơn những đóng góp của khoa học kỹ thuật để cải tiến điều kiện sống của con người, nhưng ngày nay những người nắm giữ kiến thức kỹ thuật và nhất là quyền lực kinh tế để khai thác nó dùng kỹ thuật để thống trị thế giới và nhân loại. Chủ trương thống trị bằng kỹ thuật đưa tới phá hủy thiên nhiên và khai thác bóc lột con người và các dân tộc yếu thế hơn, hướng tới thống trị kinh tế và chính trị”. (1)

3. Niềm Vui Tin Mừng thôi thúc đi ra vùng ngoại biên

Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong sứ điệp Ngày Thế giới Truyền Giáo năm 2014, diễn tả: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (2). Nhân loại rất cần ơn cứu độ do Đức Kitô đem đến. Các môn đệ Ngài là những người để cho mình được xâm chiếm bởi tình yêu của Chúa Giêsu và được đóng dấu bởi ngọn lửa say mê Nước Thiên Chúa và nhiệt tình rao giảng niềm vui của Tin Mừng. Tất cả các môn đệ của Chúa được mời gọi nuôi dưỡng niềm vui rao giảng Tin Mừng. Là những người chịu trách nhiệm chính về việc rao giảng này, các giám mục có nhiệm vụ cổ vũ sự hợp nhất của Giáo hội địa phương trong nỗ lực truyền giáo của mình. Họ được mời gọi nhìn nhận rằng niềm vui của việc thông truyền Đức Giêsu Kitô được biểu hiện trong mối quan tâm loan báo về Ngài tại những vùng đất xa xôi nhất, cũng như không ngừng vươn ra những vùng ngoại vi của giáo phận mình, ở đó có biết bao người nghèo đang mong đợi sứ điệp này. (3)

Đặc biệt, trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay, Đức Giáo hoàng Phanxicô ngỏ lời với chúng ta: “Năm Thánh Lòng Thương Xót mà Hội Thánh đang cử hành chiếu rọi vào Ngày Chúa nhật Thế giới Truyền giáo một ánh sáng chói ngời: nó mời gọi chúng ta nhìn việc truyền giáo cho muôn dân (missio ad gentes) như là một công trình bao la, vĩ đại của lòng thương xót, cả thiêng liêng và vật chất. Trong ngày Chúa nhật Thế giới Truyền giáo này, tất cả chúng ta được mời gọi “đi ra” như những môn đệ truyền giáo, mỗi người quảng đại cống hiến tài năng, tính sáng tạo, sự khôn ngoan và kinh nghiệm của mình để đem sứ điệp tình thương dịu hiền của Thiên Chúa đến cho toàn thể gia đình nhân loại. Do mệnh lệnh truyền giáo, Hội Thánh chăm lo cho tất cả những người không biết đến Tin Mừng, vì Hội Thánh muốn mọi người được cứu rỗi và trải nghiệm tình thương của Chúa. Hội Thánh được sai đi loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, trái tim đang đập của Tin Mừng” (4) và công bố lòng thương xót tại mọi góc cùng của thế giới, đến với hết mọi người, người già cũng như người trẻ” (5).

Kết thúc lời nhắn nhủ, Đức Giáo hoàng nói: lệnh truyền của Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20), lệnh truyền này chưa dừng lại; đúng hơn, nó thúc đẩy tất cả chúng ta, trong bối cảnh của thế giới đầy thách thức ngày nay, phải lắng nghe tiếng gọi canh tân “động lực” truyền giáo, như tôi đã lưu ý trong Tông huấn Evangelii Gaudium: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (6).

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Anh chị hãy kể lại một vài chứng từ truyền giáo qua Lòng thương xót hiện diện xung quanh mình hoặc ngay trong cộng đoàn mình.

2. Phúc-Âm-hóa xã hội và truyền giáo ad gentes liên hệ với nhau như thế nào trong cuộc sống của Hội Thánh địa phương của anh chị?

3. Niềm vui Tin Mừng đối với anh chị có thể kín múc từ đâu?

Văn phòng HĐGMVN

Nguồn: hdgmvietnam.org

–––––––––––––––

Chú thích:

(1) HTXHCG 60.

(2) Evangelii Gaudium, 2.

(3) Cf. ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền giáo thế giới 2014.

(4) Misericordiae Vultus, 12.

(5) Cf. ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền giáo thế giới 2016.

(6) Cf. Ibid.; Evangelii Gaudium, 20.

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Sau gần một năm sống “thương xót như Cha trên trời”, giờ đây, chúng ta khám phá ra rằng “Chúa hằng thương xót những ai biết kính sợ Người”. Hơn thế nữa, “Chúa hằng thương xót những người nghèo”. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết quan tâm thương xót cách đặc biệt đối với người nghèo, người đau khổ, người dễ bị tổn thương trong xã hội.

2.       Chúa phán: “Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết quan tâm giúp đỡ người nghèo, biết nhận chân giá trị đóng góp của người nghèo, người bé mọn trong xã hội.

3.       Chúa phán: “Hãy vào thừa hưởng Nước Trời, vì xưa Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu biết thực thi lòng thương xót mình đối với những người nghèo, đói khát, đau khổ, để xứng đáng hưởng lòng thương xót của Chúa.

4.       Chúa phán: “Anh hãy bán tất cả những gì anh có mà bố thí cho người nghèo”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết tỏ lòng thương xót đối với người nghèo, người bị tổn thương trong xã hội, như chứng tá của lòng thương xót Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được cứu rỗi. Xin ban Thánh Thần xuống biến đổi chúng con nên những chứng tá cho lòng thương xót Chúa đối với người nghèo và người dễ bị tổn thương trong xã hội, làm cho mọi người được lên thiên đàng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô… Amen.

Lm. Phêrô Nguyễân Văn Hiền

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

LOAN TRUYỀN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo. Nếu như Isaia con trai Amos được thị kiến cho biết rằng: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1 - 5), thánh Phaolô thì cho người con tinh thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Thiên Chúa muốn muôn người được nghe Tin mừng và được hưởng ơn cứu độ nhờ sự cộng tác truyền giáo của mọi thành phần Giáo hội.

Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa. “Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46 - 48).  

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).      

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2), “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Lòng thương xót chính là linh hồn của truyền giáo, Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót.

Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.        

Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).

Linh mục Philipphê Phạm Huy Phong

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

CÁC ĐẠI DIỆN GIÁM MỤC

(Vicarius episcopalis)

Nhân dịp chúng ta đã tìm hiểu về chức vụ Tổng Đại Diện hôm tháng 10 vừa qua, thiết nghĩ cũng là dịp để chúng ta tìm hiểu về chức vụ của các Đại Diện Giám Mục trong giáo phận.

Lịch sử

Nếu như chức Tổng đại diện có từ thời xa xưa trong Giáo hội, thì chức vụ Đại diện Giám mục mới có từ Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh Christus Dominus số 27. Lý do như sau: tại Công đồng, một số Giám mục phụ tá than phiền rằng nhiều khi không được Giám mục chánh giao cho công tác gì mà lại còn phải ở dưới quyền của Tổng đại diện, là một linh mục. Để chấn chỉnh trình trạng đó, Công đồng muốn rằng từ nay các Giám mục phụ tá phải được đặt làm Tổng đại diện, hoặc ít ra là Đại diện Giám mục. Như thế các vị Đại diện Giám mục cũng được xếp vào hàng “Bản quyền địa phương” (đ. 406§2; 134§1.2) và có quyền lãnh đạo trong giáo phận.

Bổ nhiệm

Việc bổ nhiệm các Đại diện Giám mục cũng do chính Đức giám mục giáo phận bổ nhiệm như điều 476 day:

Mỗi khi việc lãnh đạo tốt đẹp giáo phận đòi hỏi, Giám mục giáo phận cũng có thể đặt một hay nhiều Đại diện giám mục; các vị này có quyền thông thường mà luật phổ quát dành cho Tổng đại diện, hoặc trong một phần nhất định của giáo phận, hoặc trong một số công việc nào đó, hoặc đối với các tín hữu thuộc một lễ điển nhất định, hoặc thuộc về một nhóm người nào đó, chiếu theo quy tắc của các điều khoản sau đây (đ.476).

Điều kiện để được bổ nhiệm

Trên nguyên tắc, luật để cho Đức Giám mục Giáo phận toàn quyền chọn người nào làm Đại diện cho ngài, miễn là hội đủ những điều kiện được liệt kê ở điều 478§1, nghĩa là:

-        Phải là một linh mục;

-        Trên ba mươi tuổi;

Có học vị tiến sĩ hay cử nhân Giáo luật hoặc Thần học, hay ít nhất là thông thạo các môn đó (vì là việc hành chánh nên đòi hỏi phải có sự “thông thạo”, học vị chỉ là một đòi hỏi có tính cách trắc nghiệm, gợi ý. Đức giám mục Giáo phận tuỳ hoàn cảnh có quyền chuẩn chước);

Trổi vượt về học thuyết lành mạnh, đức độ, khôn ngoan, và có kinh nghiệm trong việc điều khiển công việc mục vụ.

Không phải là họ hàng huyết tộc với Đức Giám mục giáo phận cho hết bậc thứ bốn.

Quyền hạn của các Đại diện Giám mục

Trong khi luật muốn rằng mỗi Giáo phận chỉ có một Tổng đại diện, thì con số các Đại diện Giám mục không bị hạn chế mà tuỳ vào nhu cầu của Giáo phận. Dĩ nhiên, quyền hạn của các Đại diện Giám mục cũng có thường quyền như Tổng đại diện, nghĩa là Bản quyền địa phương (x.đ.134§1.2), nhưng được xác định vào một khu vực lãnh thổ nào đó, một nhóm người nào đó nhất định (tu sĩ, chủng sinh hoặc các kiều dân thuộc một ngôn ngữ), hoặc một công việc nào đó (tư pháp, giáo dục, truyền thông xã hội…) đ.476.

Các Đại diện Giám mục trực thuộc Đức giám mục Giáo phận chứ không trực thuộc Tổng đại diện. Nói khác đi, Đại diện Giám mục không phải là phó Tổng đại diện.

Sự khác biệt giữa Tổng đại diện và Đại diện Giám mục

Giám mục buộc phải đặt Tổng đại diện; nhưng không buộc phải đặt Đại diện Giám mục (x. đ. 475§1; 476).

Thẩm quyền của Tổng đại diện có tính cách tổng quát (generalis), bao gồm tất cả mọi vấn đề hành chính; còn thẩm quyền của các Đại diện Giám mục thì được giới hạn vào một phạm vi cụ thể (x. đ. 479§1 và 2).

Bổ nhiệm Đại diện Giám mục có hạn kỳ, ngoại trừ khi Đại diện Giám mục là một Giám mục phụ tá (x. đ. 477§1).

Giáo vụ của các Đại diện Giám mục chấm dứt cũng giống như của Tổng đại diện, ngoại trừ các ngài là giám mục phụ tá của Giáo phận (đ.481§2).

Việc phối hợp công việc mục vụ

Việc phối hợp công việc mục vụ giữa Tổng đại diện và các Đại diện Giám mục, cũng như giữa các vị nầy với Đức Giám mục Giáo phận, bộ Giáo luật dự trù các cách như sau: 

Theo điều 473, chính Giám mục có trách nhiệm phối hợp công tác mục vụ cho các Đại diện của mình; nếu cần, thì ngài thành lập uỷ ban tư vấn Giám mục (consilium episcopale). Những vị nầy đương nhiên trong ban tư vấn đó.

Khi một ơn huệ gì đã bị Tổng đại diện hay một Đại diện Giám mục bác, thì một Đại diện khác không có quyền ban cấp cách hữu hiệu; nhưng có quyền nài xin Giám mục, nhưng phải nói rõ lý do đã bị bác. Ngược lại, nếu một ơn huệ đã bị chính Giám mục Giáo phận bác, thì không thể xin Tổng đại diện hay Đại diện được nữa, đừng kể khi có sự thoả thuận của chính Giám mục (x. đ. 65§2-3). 

Tổng đại diện và các Đại diện Giám mục là những bản quyền sở tại nhưng chỉ hưởng quyền gọi là thường quyền đại diện (ordinaria vicaria). Hiểu một cách nào đó, các vị nầy làm “phó” cho Giám mục Giáo phận, nên phải thống nhất với người mà mình làm đại diện. Trong thần học và pháp lý gọi là hiệp thông Giáo hội và hiệp thông phẩm trật. Giữa những vị nầy phải có sự thống nhất với nhau về chiều dọc, nghĩa là với Giám mục Giáo phận và chiều ngang, nghĩa là giữa Tổng đại diện và các Đại diện Giám mục với nhau (x. đ.480).

Khi Giám mục Giáo phận đã hết chức (chết, thuyên chuyển, huyền chức) (đ.481§1): Nếu các Tổng đại diện và Đại diện Giám mục là linh mục, thì cũng hết chức theo; nếu Tổng đại diện là một Giám mục phó hay là Giám mục phụ tá, thì Giám mục phó dương nhiên lên Giám mục Giáo phận; Giám mục phụ tá vẫn tiếp tục chức vụ mà mình đang giữ (x. đ.481§2).

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ – tổng hợp 

 

TRANG LINH MỤC

LINH MỤC

DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CHO CÁC LINH HỒN

1. Linh mục trong phận người mong manh.

Sứ điệp quan trọng mà các linh hồn gởi đến cho chúng ta trong tháng 11 này, đó là sự mong manh của cuộc sống con người qua cái chết. Những khúc ca được cất lên trong thánh lễ cầu hồn gợi nhớ cho chúng ta rằng, “đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng”.

Đời sống ấy sẽ kết thúc như là một trạm dừng chân trước một cây cầu định mệnh mà ai ai cũng phải bước qua. Đối với những người có đức tin, quan niệm về đời sống con người không chỉ dừng lại ở sự bi quan, nuối tiếc ở cuộc sống này, nhưng với tất cả ý thức của niềm hy vọng hướng đến một kết quả chung cuộc, một kết quả do chính mình đã tự chuẩn bị lấy cho mình trong cuộc sống đời đời: “mọi sự biến tan giờ hạ huyệt, chỉ còn công phúc đã lập xưa”.

Với nhiệm vụ giảng dạy trong Chúa Kitô, các Linh mục sẽ dâng nhiều thánh lễ hơn, sẽ chuẩn bị nhiều bài giảng đầy sức thuyết phục hơn, để khuyến khích các tín hữu sống tinh thần tỉnh thức, hoán cải, tích cực lãnh nhận các bí tích và tham dự những nghi thức phụng vụ và làm những việc lành để cầu nguyện cho các linh hồn.

Chắc hẳn, không ai trong đời, có nhiều cơ hội hơn Linh mục để suy nghĩ về sự sống và cái chết. Vì không biết bao lần ngài là người chủ toạ và chứng kiến các linh hồn đến rồi đi, khi cử hành các bí tích cho người sống lẫn kẻ chết. Ngài đón chào những sự sống mới đến trần gian khi ban bí tích thanh tẩy cho trẻ thơ chào đời, ngài trao Mình Thánh Chúa như của ăn đàng và ban những bí tích sau hết cho người hấp hối, và ngài tiễn đưa những linh hồn đã hoàn tất cuộc lữ hành trần thế để trở về nhà Cha.

Với nhiều nỗi lo toan và bận tâm vì các linh hồn như vậy, một lúc nào đó “trông người mà nghĩ đến ta”, Linh mục cũng có thể phần nào nghĩ đến chính thân phận của mình.

Đối với những Linh mục cao niên, khi biết mình dần bước đến “thất thập cổ lai hy” cũng là lúc ngài ý thức rằng mình đã gần đến giây phút phải bàn giao sổ sách lại cho người khác để chuẩn bị lên đường về nhà Cha; vì “tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi” (Tv 90). Nếu như Linh mục còn trẻ, đang tràn trề sức sống ở tuổi xuân phơi phới với đầy những hoài bão và ước mơ, thì có lẽ không mấy dễ dàng để có thể cảm nhận hay chấp nhận về giờ ra đi và hậu vận chung cuộc đời mình ngay vào lúc này. Cái chết hình như không có luật trừ cho bất cứ ai hay ở bất cứ độ tuổi nào. “Sinh - bệnh - lão - tử” vốn là sự thường. Tuy nhiên, đôi lúc ta vẫn thấy xảy ra cảnh “đầu bạc tiễn đầu xanh”.

Dù suy nghĩ nhiều hay ít đến sự chết, có chuẩn bị tốt hay chưa sẵn sàng để trình diện Chúa, thì cũng như tất cả mọi người, đời Linh mục cũng vẫn phải từng bước đi vào quy luật tất yếu trong thân phận cát bụi của mình, để trải qua một hành trình biến đổi. Lẽ tự nhiên, là người, ai cũng muốn mình được trường sinh bất tử, cải lão hoàn đồng, nhưng lời kinh nguyện hằng ngày vẫn như tiếng Chúa thì thầm bên tai nhắc nhở Linh mục thức tỉnh về thân phận bụi đất của mình.

2. Linh mục: hạt bụi thần thánh

Trong ngày được lãnh nhận thánh chức, ta thường được nghe các tân Linh mục cùng với cả cộng đoàn dân Chúa say sưa cất lên bài ca tạ ơn: “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người”. Và lời ca tạ ơn ấy dẫn Linh mục từng bước đi vào chiều kích sâu thẳm nhất khi ý thức mình chỉ là hạt bụi: “Từ bụi tro, Chúa nâng con lên hàng khanh tướng”.

Thánh Grê-gô-ri-ô thành Na-di-a-nô khi còn là một Linh mục trẻ, ngây ngất trước ơn thánh cao cả, ngài đã phải thốt lên: “Tôi biết chúng ta là thừa tác viên của ai, chúng ta ở địa vị nào, chúng ta hướng về ai. Tôi biết Thiên Chúa cao cả và con người yếu đuối, và biết cả sức lực của con người. Vậy Linh mục là ai? Là người bảo vệ chân lý, được đứng chung với các thiên thần, cùng ca hát với tổng lãnh thiên thần, mang lễ vật lên bàn thờ thiên quốc, chia sẻ chức tư tế với Đức Kitô, canh tân vạn vật, phục hồi hình ảnh Thiên Chúa trong vũ trụ, tái tạo thế giới cho trời mới đất mới; nói cho cùng, ngài được thần hoá và thần hoá kẻ khác.

Linh mục ý thức mình vẫn là hạt bụi, nhưng hạt bụi ấy tuy mang thân phận phải chết, nhưng nay đã được lên ngôi thần thánh trong tình yêu hết sức kì diệu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, Linh mục không những chẳng còn phải sợ thân phận bụi đất hèn yếu đè bẹp trong cái chết nhưng đã được thần hoá. Không những họ được chia sẻ tước vị làm con Thiên Chúa trong sự sống mới mà còn được chia sẻ trọn vẹn cuộc sống và sứ mạng của Thầy Giêsu, không còn bị coi là phận tôi tớ mà lại được trở thành ban hữu thân thiết của Con Thiên Chúa làm người. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biế” (Ga 15,15).

Đức Kitô là Đấng Hằng Sống, Người đã chiến thắng sự chết và nắm giữ chìa khoá của cả tử thần và âm phủ (x. Kh 1,18). Người không phải là Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống (x. Lc 20,38 ). Thế nên, dù con người đang sống nơi thân xác hay đã ngủ yên trong lòng đất thì vẫn sống động trước mắt Thiên Chúa. Vì lẽ vì mỗi sinh linh ấy vẫn luôn mang lấy sự sống bất diệt của Người.

Vì lòng thương xót mà Thiên Chúa đã kêu gọi con người cách nhưng không để cộng tác vào chương trình cứu độ của người, Linh mục tin tưởng hân hoan bước theo Đức Kitô Phục Sinh, Thầy Chí Thánh của mình, mở rộng vòng tay yêu thương của Đức Kitô đến anh chị em mình. Bước đi theo dấu chân vị Mục Tử Nhân Lành, Linh mục học biết hy sinh vì đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng của Đấng đã đến thế gian là để làm cho các linh hồn “được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).

Khi cử hành các bí tích cũng là lúc mà linh mục được soi mình vào cuộc đời của Đức Kitô để họa lại đời sống của Người, để “cử hành bí tích cuộc đời mình”. Linh mục hiểu rõ hơn ai hết, cuộc đời mình cũng đang cưu mang chính mầu nhiệm sự sống của Đức Kitô được ẩn tàng ngay trong mầu nhiệm sự chết. Linh mục sống trong Đức Kitô và cử hành các mầu nhiệm ấy mỗi ngày trong đời sống của mình, trong việc liên tục chết đi cho tội lỗi, cho những mối bận tâm của trần thế, để có thể trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa cho anh chị em mình.

3. Linh mục: dấu chỉ của lòng thương xót

Thương xót chính là yếu tính của việc nhập thể cứu chuộc và thiên chức Linh mục của Chúa Kitô. Tự bản chất, thiên chức Linh mục của Chúa Kitô là một công trình của lòng thương xót, dựa trên giao ước Thiên Chúa đã thực hiện với nhân loại.

Quả thật, khi Linh mục cử hành các bí tích, ngài như luôn được sống cùng lúc hai vai trò trong cùng một thực tại mầu nhiệm, ý thức mình vừa là dụng cụ, là thừa tác viên của Đức Kitô, Đấng đầy quyền năng và tình yêu thương tha thứ. Linh mục nhận biết rằng mình chỉ là một thọ tạo mỏng dòn và yếu đuối đang được thừa hưởng hồng ân cứu độ.

Vì thế, Linh mục không chỉ là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa mà còn là nhân chứng, là dấu chỉ sống động của một tội nhân luôn được Chúa yêu thương. Có thể nói, trước khi Linh mục cử hành các bí tích thì chính ngài đã là kẻ đầu tiên đón nhận được ân sủng của lòng thương xót ấy.

Thánh Phaolô quả đã hết sức thấm thía về điều này khi ngài nói: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời” (1Tm 1,15-16).

Trong lời kinh, khi cầu xin Chúa thương đến các linh hồn, thì Linh mục cũng ý thức rằng mình cũng nằm trong số những “linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”. Vì lẽ đó mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở các Linh mục một cách đặc biệt khi cử hành bí tích hoà giải: “Linh mục là thừa tác viên bí tích thống hối nhưng đồng thời cũng phải là những thụ nhân, từ đó họ trở nên những người làm chứng cho lòng từ bi nhân ái của Thiên Chúa cho các tội nhân…Cũng như đời sống của anh chị em giáo dân và tu sĩ, đời sống thiêng liêng và mục vụ của Linh mục chỉ có thể giữ được phẩm chất và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân Linh mục biết thực hành bí tích thống hối một cách chuyên cần và nghiêm chỉnh.

Trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn dân Chúa, tháng các linh hồn là thời gian thuận tiện để Linh mục giúp các tín hữu biết sống niềm xác tín của mình cách sâu xa hơn nữa khi tuyên xưng đức tin vào sự sống lại, vào tín điều các thánh cùng thông công, để tích cực đón nhận ân sủng của lòng thương xót Chúa mà chuyển cầu cho cho các linh hồn. Nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô mà mỗi thành phần trong Hội thánh được liên đới và chiasẻ những lợi ích thiêng liêng trong mối giây hiệp thông giữa các thánh trong hội thánh khải hoàn, lữ hành và thanh luyện.

Khi nhớ đến các linh hồn, giúp cho Linh mục suy nghĩ và ý thức hơn nữa về giây phút quyết định dứt khoát của sự sống con người trên dương gian này, để chính ngài cũng biết giúp cho các tín hữu biết tận dụng từng phút giây trong hiện tại để có thể đón nhận được ân sủng của lòng thương xót Chúa.

Chính Linh mục là người hiểu hơn ai hết, mỗi giây phút nơi trần thế là thời giờ quý giá nhất của của ân sủng cứu độ. Nói cách khác, mỗi giây phút của của cuộc đời này là “giá máu cứu chuộc của Đức Kitô” không ngừng tuôn trào để yêu thương và cứu vớt con người. Vì thế, khi dâng những lời kinh nguyện và thánh lễ cầu cho các linh hồn trong chốn luyện hình thì cùng lúc Linh mục và cả cộng đoàn dân Chúa cũng hướng đến vô số những linh hồn ở trần gian, đang lạc xa Chúa, lạc nẻo đức tin, những linh hồn ơ thờ nguội lạnh và chai đá đặc biệt là các tội nhân khốn khổ. Thánh Gioan M. Vianney đã nói: “Một linh hồn còn quý trọng hơn cả và thế gian này”. Và “Chúa Giêsu thương linh hồn ta hư đi đời đời nên đã chịu chết mà cứu chuộc chúng ta”. Mang lấy trái tim của Chúa Giêsu, mỗi Linh mục cũng được mời gọi yêu quý chăm lo cho các linh hồn như vậy.

Chính vì bước theo mẫu gương của Đức Kitô mà Linh mục sẵn sàng hiến thân để trở nên dấu chỉ ơn cứu độ, của tình yêu và lòng thương xót Chúa cho các linh hồn. Vì thế mà đời Linh mục cũng chấp nhận phải trả giá vì tình yêu như Đức Kitô. Đó là đón lấy thập giá đời mình trong sứ mạng yêu thương phục vụ để cứu vớt những người tội lỗi theo gương Thầy Chí Thánh.

Qua vài mảnh vụn suy tư trong tháng các linh hồn này, có thể gợi lên trong chúng ta một chút cảm nghiệm về cuộc đời qua chính thân phận hữu hạn của con người chúng ta ở trần gian. Và qua thân phận ấy mà chúng ta được mời gọi trở nên những nhân chứng của Chúa Giêsu, (x.Cv 3,15) để giới thiệu cho thế giới hôm nay, “một thế giới đang sống trong sự trống rỗng nội tâm thảm hại là sự vắng bóng Thiên Chúa”, về niềm hy vọng một thực tại hạnh phúc vĩnh cửu trong nước Cha, nguồn hạnh phúc viên mãn mà mọi người luôn khao khát tìm kiếm.

Cuộc tìm kiếm ấy đang diễn ra trong lúc này, ngay khi chúng ta đang sống giữa biển trần gian. Cuộc tìm kiếm hạnh phúc đích thực trong Thiên Chúa chỉ có thể đạt đích khi chúng ta biết đón nhận và tỏ bày tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em chúng ta trong ơn gọi đặc biệt của mình.

Linh mục Giacôbê Hòa Bình

 

TRANG TU SĨ

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Chúa Giêsu về trời, đã để lại cho môn đệ lệnh truyền là loan báo Tin mừng cho khắp tứ phương thiên hạ. Hội thánh hôm nay tiếp nối sứ mạng của các tông đồ xưa kia, loan báo Tin mừng phục sinh, Tin mừng của lòng thương xót Chúa. Sẽ không ai loan báo lòng thương xót Chúa thành công, khi không nhìn gương mẫu của Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. “Từ cõi trời người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ân phúc của Chúa Thánh Thần” (Ep.1,3). Trong cuộc đời công khai Chúa đã chạnh lòng thương đám đông bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Chúa không chỉ lo bồi dưỡng tinh thần cho họ bằng giảng dạy, mà còn hóa bánh ra nhiều cho họ được ăn no, Chúa chữa bệnh tâm hồn và thể xác. Tình thương của Chúa không những cho con cái Israel mà còn lan rộng trên dân ngoại,Chúa  không để cho Tin mừng bị hạn hẹp trong một nhóm nào đó mà trên hết tất cả mọi người. Trên thánh giá Chúa đã xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Qua cái chết của Chúa nhân loại được giao hòa với Chúa Cha “Được cứu chuộc được tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người”. (Ep.1,7)

Ngày hôm nay sứ mạng lòng thương xót trong Hội thánh cần được triển nở nhiều hơn bao giờ hết. Con người đang sống trong tình trạng tuột dốc về đời sống luân lý và đức tin một cách trầm trọng. Bao cảnh giết người đã diễn ra, bao nhiêu tệ nạn xã hội nhan nhãn trước mắt chúng ta: Nạn phá thai, hôn nhân đồng tính, thuốc an tử…Chúng ta không thể làm ngơ trước bao cảnh tượng đó.

Chúng ta phải mang trái tim của Chúa, Chúa ghét tội chứ không ghét người có tội .Chúng ta phải mang tội nhân trở về với Chúa. Nhưng không phải vì vậy mà chúng ta đồng tình, im lặng hoặc không lên án hay ở trạng thái “lấp lửng”để nhân danh  lòng thương xót Chúa  một cách không đúng chỗ, im lặng có nghĩa là đã thỏa hiệp, đó không phải là lòng thương xót, vì lòng thương xót là hướng con người quay về chân thiện mỹ, nếu không, đó chỉ là lòng thương xót giả tạo dẫn mọi người ngày càng xa cách Chúa. Lòng thương xót mời gọi chúng ta dấn thân chứ không dừng lại ở trí não, ở môi miệng. Sứ mạng rao truyền lòng thương xót trong Hội thánh cần phải nhiệt huyết, chín chắn, tròn đầy, thực tế và hướng thiêng.

 

Ngày 23-10 vừa qua là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo, Đức Phaolô VI nói “xã hội không cần thày giảng nhưng cần chứng nhân”. Trong sứ điệp truyền giáo năm 2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắn nhủ:” Cha muốn gởi tới tất cả mọi người và những ai đón nhận sứ điệp này phải là người ra đi”. Và quả thật, truyền giáo là nhiệm vụ cấp bách, nó không dễ mà lại rất khó vì nó đòi hỏi chúng ta chẳng những phải hiểu về Chúa mà còn yêu mến Chúa hết lòng để lời giảng dạy của chúng ta có sức thu hút. Với ý thức là một tu sĩ, là người theo sát Chúa Kitô hơn, tôi xin Chúa cho tôi luôn mang trong mình trái tim thương cảm của Chúa: Lòng vị tha, bao dung, nhiệt tâm. Không những thế, hành trang của tôi còn phải chìm đắm trong cầu nguyện, cầu nguyện sẽ giúp tôi vượt qua những khó khăn, gần gũi, vui với người vui khóc với người khóc, hòa nhập chứ không hòa tan vì “Chúa của mình” là Đấng vô thủy vô chung, Đấng duy nhất không thể nào hòa lẫn tan biến vào vị thần nào khác được, nhờ cầu nguyện tôi dễ dàng mang lòng thương xót của Chúa khi trở nên người Hy Lạp với người Hy Lạp, Do Thái với người Do Thái, để con đường truyền giáo đạt hiệu quả hơn.

Lạy Chúa, Hội Thánh Chúa ước mong mang lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người. Xin cho tất cả mọi người chúng con luôn cảm nếm lòng thương xót của Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chúng con có thể mang lòng thương xót của Chúa đến trong cuộc đời này, cho mọi người thấy được Thiên Chúa của Lòng thương xót, Thiên Chúa Là Tình Yêu!

MTG Cái Nhum

 

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

NƠI CÁC NỮ TU CỦA MẸ TÊRÊSA CALCUTTA

Trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót chúng ta thường được nghe đi nhắc lại rằng Giáo Hội có sứ mạng giới thiệu và thực hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của mình. Vậy Giáo Hội là ai? Có phải chỉ là Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục, hay Linh Mục và Tu Sĩ, hoặc một vài người tín hữu nào đó? Giáo lý Hội Thánh Công Giáo đã dạy chúng ta Giáo Hội bao gồm các tín hữu đã được rửa tội và hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng. Vậy mỗi kitô hữu tùy theo địa vị và bổn phận của mình cần canh tân bản thân, nhận ra mình đang rất cần đón nhận lòng thương xót của Chúa và có sứ mạng trở thành cách tay nối dài của Chúa Giêsu, đem đến cho con người thời đại hôm nay ơn chữa lành và lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

 Hai tuần lễ sống với các nữ tu của Mẹ Têrêsa Calcutta tôi đã được diễm phúc chứng kiến các chị mang tình thương của Chúa cho người khác qua đời sống hằng ngày của mình. Mỗi buổi sáng sau thánh lễ và điểm tâm, các Sơ nhanh nhẹn đến khu nhà bếp dành cho những người không nhà cửa và không nơi nương tựa để chuẩn bị bữa ăn cho họ. Trưa đến những phần ăn nóng hổi, thơm lừng đã sẵn sàng để phân phát cho trên dưới trăm người đến nhận. Ai nấy đều nở nụ cười trên môi nhận phần ăn với sự sung sướng và nhẹ nhàng cám ơn các Sơ. Vào buổi chiều, các Sơ còn chạy quanh các ngã đường để tìm xem ai cần thức ăn, nước uống hay thuốc men và sẵn sàng giúp đỡ họ. Thú thật những ngày đầu ở với các Sơ tôi mệt lã người ra và tự hỏi làm sao các Sơ ấy có thể làm việc một cách hăng say, vui tươi như thế từ ngày này qua ngày khác từ năm này đến năm kia như vậy?

Qua đời sống của các Sơ tôi khám phá ra rằng: cầu nguyện và lòng thương người vô vị lợi là sức mạnh cho họ thực thi sứ mạng của mình. Họ cầu nguyện trước khi làm việc bằng Thánh Lễ, đang khi làm việc bằng những chuổi Mân Côi và Thương Xót và sau khi làm việc bằng những giờ kinh và lời cầu nguyện âm thầm bên Chúa Giêsu Thánh Thể. Thêm vào đó ta sẽ không khỏi ngạc nhiên vì giữa đất nước Mỹ giàu sang, đầy tiện nghi mà những nữ tu này sống như những người nghèo thật sự. Họ nghèo từ những bữa ăn hàng ngày cho đến những đồ dùng cá nhân và vật dụng trong nhà. Ví dụ như căn nhà nguyện của họ không có bàn ghế quì, chỉ có ảnh tượng Thánh Giá, bàn thờ, tượng Thánh Giuse, Mẹ Maria và vài đóa hoa xinh xinh.

Một trong những kỹ niệm mà tôi nhớ mãi không quên là khi tôi được cùng với các Sơ đi thăm nhà hưu dưỡng. Khuôn viên bên ngoài của tòa nhà thật đẹp vì nó được bao quanh bởi những thảm cỏ xanh mướt đã được cắt tỉa cẩn thận, những cây cổ thụ thẳng tắp và những bông hoa khoe mình trong nắng với đủ mọi sắc màu. Thế nhưng bầu khí bên trong thật buồn bởi vì sự cô đơn của những cụ già không được mấy người đến thăm. Niềm vui hằng ngày của những cụ già này là tivi, hay chiếc radio, hoặc con chó con mèo. Một người đàn ông nói với các Sơ rằng: Có lần tôi đi siêu thị nhìn thấy con và các cháu tôi đàng xa tôi muốn kêu to lên và đến xoa đầu mấy đứa nhỏ nhưng sợ làm mất giờ con tôi nên tôi im lặng nhìn chúng đàng xa trong sự ngậm ngùi cho đến khi chúng đi khuất tầm nhìn của tôi.

Các Sơ đến thăm hết phòng này đến phòng khác không phân biệt là người công giáo hay không. Tôi thấy các Sơ rất hay vì họ cứ nhẹ nhàng hỏi thăm về đời sống của từng người và sau khi những cụ già này cảm thấy cởi mở để nói chuyện các Sơ mới ngỏ ý đọc lời Chúa cho họ nghe và họ nghe với sự chăm chú và thích thú. Có một bà lão nói với các sơ rằng: cám ơn Sơ lần trước đã đọc lời Chúa cho tôi nghe. Đó là lần đầu tiên tôi biết về Chúa và từ ngày đó tôi không cảm thấy buồn như trước nữa vì có Chúa làm bạn với tôi và bây giờ tôi thấy ngày nào cũng là mùa xuân cả. Cảnh làm tôi rất xúc động nhất là khi chúng tôi ghé thăm một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi. Vì tai nạn xe anh bị cưa hai chân và hầu như không thể nói được. Các Sơ hỏi anh: Anh ở đây bao lâu rồi? Anh trả lời dạ khoảng hai năm. Anh cho biết là hôm nay là sinh nhật của anh. Anh nói ngày này hai năm trước, anh với vợ và hai con có buổi tiệc sinh nhật rất vui, ấm cúng và đầy ấp tiếng cười. Các sơ không dám hỏi thế hôm hay họ đã đến và chúc mừng sinh nhật anh chưa? mà chỉ nói: Thế hay quá bây giờ chúng tôi sẽ đọc kinh cầu nguyện cho anh và hát tặng anh một bài nhe. Rồi tất cả chúng tôi đọc kinh và hát bài Happy Birthday cho anh. Khi chúng tôi hát, nước mắt anh cứ tuôn trào. Tôi không biết anh khóc vì vui sướng hay vì tủi thân. Nhưng tôi biết rằng lòng thương xót của Thiên Chúa đã chạm đến anh ta qua việc làm đầy yêu thương của các Sơ.

Những việc làm của các Sơ làm cho tôi tự vấn chính mình rằng những người nghèo, đau khổ, cô đơn, bệnh tật và thất vọng, những người chưa tin Chúa luôn ở quanh tôi. Tôi vẫn nghe và chứng kiến đây đó người này làm việc tốt này, người kia làm việc hay nọ cho anh chị em mình, vậy tôi có ra khỏi chính mình để mang Lòng Thương Xót của Chúa đến cho người khác như Chúa đã thương tôi chưa?

MTG Cái Mơn

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

THÂN PHẬN NGƯỜI LÁI ĐÒ

Tự ngàn đời nay, đạo hiếu luôn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là phải biết tôn kính và thờ phượng ông bà cha mẹ. Giáo Hội còn dành riêng tháng 11 CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI. Trong tháng này, cũng là dịp đặc biệt để con cháu trả hiếu qua những hành động cụ thể như: tảo mộ, tham dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức…. Nhưng hình ảnh đánh động tôi nhất chính là Thánh Lễ tại Đất Thánh là một hình ảnh đẹp về lòng hiếu thảo biết ơn đó: có nhiều ngôi mộ con cháu thắp hương, đốt nến rất đông, có những ngôi mộ cũng thưa thớt hơn vì con cháu đi làm xa không có dịp về. Nhưng thưa thớt nhất vẫn là các ngôi mộ của linh mục tu sĩ vắng lặng âm thầm. hình ảnh này làm cho tôi gợi nhớ đến hình ảnh của người lái đò thầm lặng :

"Một đời người - một dòng sông...

Mấy ai làm kẻ đứng trông bến bờ,

'Muốn qua sông phải lụy đò'

Đường đời muôn bước cậy nhờ người đưa ..."

Ở vùng Miền Tây sông nước, hình ảnh người lái đò rất thân thương bình dị, thường in đậm trong ký ức người đi xa. Vào những ngày bão gió, người lái đò phải chèo chống rất vất vả để bảo toàn sinh mạng của những người qua sông, kể cả lúc đêm khuya, người lái đò vẫn luôn thường trực bên bến sông để chở những khách về muộn hoặc có công việc cần  gấp.

Khi thi hành bổn phận mục vụ, người linh mục, tu sĩ cũng giống như người lái đò cần mẫn trung thành. Tại nơi mình được trao phó, người lái đò phải luôn thường trực để săn sóc những nhu cầu thiêng liêng của cộng đoàn tín hữu, bất kể đêm hay ngày, lúc thuận tiện hay khi bão tố mưa sa. Để giúp cho những người trên đò lúc nào cũng luôn trong một tư thế bình an và hạnh phúc nhất và chỉ muốn người trên đò của mình “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”.  Người lái đò này không nhằm tìm lợi ích cho cá nhân, không mong tìm đồng lời trong công việc mà tất cả chỉ nhằm lợi ích cho tha nhân và phần rỗi của họ. Miễn sao là cuối chuyến đò những người mà họ đưa qua sông được về đến Bến Bình An

Cả một đời làm nghề lái đò người lái đò thiêng liêng không nhớ hết đã đưa bao nhiêu người khách sang sông. Có những người đã chèo lái đưa qua sông nhiều thế hệ từ ông bà, rồi đến con, rồi đến cháu…nhưng người lái đò vẫn âm thâm lặng lẽ đưa qua sông.

Giữa vô số những người khách qua sông, có người dễ tính, cũng có người khó chiều. Nhưng người lái đò không bận tâm, vì nhiệm vụ chính của anh là chuyển tải mọi người qua sông và chấp nhận thân phận “làm dâu trăm họ”. Niềm vui của người lái đò chính là những chuyến sang sông an toàn, đưa người thân về với gia đình về với nơi mà họ muốn đến.

Giữa những khách qua sông, có người đi một lần rồi nhớ mãi, có người quay lại cám ơn, có người bỏ đi mà không thèm nhìn người lái đò, cũng có người lại đối xử bất công “qua sông dìm đò”. Dù ai cư xử thế nào thì người lái đò vẫn chấp nhận và sống cho thật tốt với công việc lái đò: là đưa đò.

Trong ngày lễ cầu cho Các Đẳng tại đất thánh, khi đứng trước mộ của những người lái đò tôi thấy thân phận của họ cũng giống như khi họ lái đò vậy: chỉ có vài ba người nhớ đến họ đứng cầu nguyện âm thầâm, lặng lẽ. Lặng lẽ đến độ mà chúng ta thấy ít khi có ai nhớ đến họ dù chỉ một lời kinh, một lần xin lễ, một lần viếng mộ… Buồn nhất vẫn là các tu sĩ nữ hầu như tôi chưa bao giờ thấy có ai xin lễ cho qúy Dì đã qua đời. Buồn cho thân phận lái đò thiêng liêng! Đưa đò thì nhiều nhưng có bao người nhớ đến. Thân phận giống hệt như Thầy Giêsu:

- Mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một người quay lại cám ơn. Tỉ lệ một phần mười!

- Cả ngàn người đã được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa phải vác thánh giá, chỉ có một người bằng lòng vác đỡ.

-Cả một dân tộc đã chịu ơn Chúa, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người dám công khai lên tiếng xưng tụng Chúa là người vô tội.

Chắc chắn khi hiến thân phục vụ người lái đò cũng hiểu rằng: “lãnh nhận như không thì cũng cho nhưng không” hay “làm ơn không cầu báo đáp” Nhưng với thân phận kiếp người ai cũng có những lỗi lầm thiếu xót. Người lái đò cũng rất cần một lời cám ơn của những người đi đò qua lời kinh tiếng hát cầu nguyện nhớ đến họ trong mỗi Thánh Lễ và đặc biệt là trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn.

Ông bà ta thường nói “Làm ơn cho ai không cần nhớ, chịu ơn của ai không được quên” Tôi thiết tưởng với một đời người từ khi sinh ra đến khi chúng ta chết cũng đều có bàn tay của người lái đò thiêng liêng: Khi sinh ra được rửa tội, khi lớn lên được dạy dỗ, được rước Chúa,  rồi hôn phối, rồi giải tội, rồi xức dầu, rồi an táng, và cuối cùng đưa đến huyệt mộ kết thúc một chuyến đò cũng do bàn tay người lái đò.

Hơn nữa, với truyền thống dân tộc chúng ta cũng sống sao cho xứng với câu:

“Uống nước nhớ nguồn

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

Lạy Chúa, Trong mười người phong hủi Chúa chữa lành cũng có một người đến cám ơn. Xin cho chúng con là người biết cám ơn đó, chúng con không chỉ năng cầu nguyện cho thân nhân, ân nhân mà còn nhớ đến các linh mục tu sĩ những người hàng ngày đã và đang âm thầm lặng lễ đưa đò cho chúng con.

Lm. Gioan Lê Tiến Thiện

 

TRANG THIẾU NHI

HALLOWEEN

VÀ VIỆC CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI

1. Những ngày cuối tháng 10, một em thiếu nhi đến thủ thỉ với tôi: Trường em sắp tổ chức đêm hội Halloween, nhưng mẹ em không cho em tham gia. Lý do mẹ em đưa ra là lễ hội này nghịch với đức tin Công giáo, vì khi em hóa trang thành những hình ma quái dị là em đang chơi với ma quỷ, đang đồng hóa mình với những con quỷ chuyên làm hại con người. Em hỏi tôi có phải như vậy không? Để trả lời câu hỏi của em, tôi đã tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa của lễ hội Halloween.

2. Cũng giống như lễ hội Valentine, lễ hội Halloween trước đây

chỉ được tổ chức ở các nước phương Tây. Nó mới được du

nhập vào Việt Nam trong những năm gần đây và được nhiều người đón nhận, nhất là các bạn trẻ.

Đây là lễ hội bắt nguồn từ dân tộc Celtic, một dân tộc sống cách đây hơn 2000 năm trên các vùng đất bây giờ là Ireland, Vương quốc Anh và miền bắc nước Pháp. Người Celtic mừng năm mới vào ngày 1.11, thời điểm mùa màng kết thúc, nhường chỗ cho khí hậu giá lạnh của tiết thu đông, thường được gắn liền với sự chết chóc. Người Celtic cũng quan niệm rằng đêm trước năm mới, tức là ngày 31.10, linh hồn của những người đã chết được phép trở lại dương thế. Vì thế, họ tổ chức một ngày lễ hội mang tên là Samhain: mời linh hồn ông bà tổ tiên vào nhà, còn những linh hồn tà ác thì họ hóa trang và đeo mặt nạ quái dị để xua đuổi.

Về sau, khi Tin Mừng được loan truyền đến những vùng đất này, thì lễ hội Samhain của người Celtic biến thành lễ hội Halloween và được mặc cho ý nghĩa tôn giáo. Halloween là từ rút gọn của cụm từ “All Hallows Eve”, nghĩa là “đêm trước ngày Lễ Các Thánh”. Đó là đêm trước khi người tín hữu bước vào tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, mà khởi đầu với hai ngày lễ đặc biệt: Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng. Hai ngày lễ này nhắc nhớ cho các tín hữu về tín điều các thánh thông công trong Hội Thánh.

Như vậy, ngày lễ Halloween không chỉ có những hoạt động vui chơi bên ngoài như hóa trang, vui chơi, ăn uống…; mà nó còn nhắc nhớ tín điều các thánh thông công và bổn phận cầu nguyện cho những người đã qua đời.

Tuy nhiên, với phong trào Cải Cách vào thế kỷ XVI, những người Tin Lành đã bác bỏ tín điều các thánh thông công và tập tục cầu nguyện cho người chết. Từ đó, ngày Halloween đã mất dần ý nghĩa tôn giáo, chỉ còn mang tính thế tục, giải trí và thương mại mà thôi.

3. Như vậy, nếu tôi là phụ huynh của em đến hỏi tôi, tôi sẽ cho em tham gia lễ hội mà trường tổ chức, vì nó chỉ mang tính chất vui chơi giải trí bên ngoài, không nguy hại gì đến đức tin của em cả. Tuy nhiên, nhân cơ hội này, phụ huynh cũng nên hướng dẫn cho em biết về ý nghĩa tôn giáo của ngày lễ hội. Đó là hướng đến mầu nhiệm các thánh thông công và bổn phận cầu nguyện cho những người đã qua đời.

4. Về mầu nhiệm các thánh thông công: Hội Thánh của Chúa Kitô không chỉ có những tín hữu còn đang sống mà thôi, nhưng còn có cả các thánh ở thiên đàng và cả những người còn đang chịu thanh luyện trong luyện ngục nữa. Cả ba thành phần này cùng hiệp thông và chia sẻ mọi ơn lành cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh thông công.

Các thánh sau khi hoàn tất cuộc lữ hành trần thế, đã được hưởng vinh quang với Chúa trên thiên đàng. Giờ đây, các ngài trở nên gương sáng và là những vị trạng sư cầu bàu cùng Chúa cho các tín hữu còn đang sống ở trần gian. Các tín hữu còn đang sống ở trần gian thì tôn kính, noi gương đời sống thánh thiện của các thánh, và xin các ngài chuyển cầu cùng Chúa cho mình.

Với các tín hữu đã qua đời còn phải chịu thanh luyện trong luyện ngục, các tín hữu còn đang sống dâng những việc lành phúc đức để cầu nguyện cho họ. Còn các linh hồn thì chuyển cầu cùng Chúa cho các tín hữu còn đang sống, nhất là khi các linh hồn ấy được ra khỏi luyện ngục mà lên thiên đàng để hưởng nhan thánh Chúa.

Các tín hữu còn đang sống cũng thông công với nhau bằng gương sáng đời sống thánh thiện và lời cầu nguyện cho nhau. Không ai có thể sống lẻ loi một mình mà không cần đến người khác. Qua phép Rửa tội, các tín hữu trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Cho nên, việc tốt xấu của người này đều gây ảnh hưởng đến người khác. Mọi người tín hữu đều cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm về mọi việc mình làm.

5. Về bổn phận cầu nguyện cho những người đã qua đời: Người Việt Nam chúng ta coi trọng chữ hiếu: “Trai thời chữ hiếu làm đầu”. Thậm chí chữ hiếu còn được nâng lên thành đạo: “Đạo Hiếu”. Đạo Công giáo cũng luôn nhắc các tín hữu hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên. Trong Mười Điều Răn, điều răn thứ tư buộc các Kitô hữu phải thảo kính cha mẹ; và kinh Thương Linh Hồn Bảy Mối cũng khuyên dạy người tín hữu phải cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. Như vậy, việc cầu nguyện cho những người đã qua đời, trong đó có ông bà tổ tiên của chúng ta, không đơn thuần là một lời mời gọi, mà nó còn là một bổn phận đòi buộc mỗi người Kitô hữu phải thi hành.

Chính vì thế, trong năm, Giáo Hội có nhiều dịp để nhắc nhớ người Kitô hữu về bổn phận này: Ngày mùng hai tết, ngày an táng, lễ giỗ, lễ cầu hồn… Đặc biệt, Giáo Hội dành trọn tháng 11 hằng năm, là tháng cuối cùng trong niên lịch phụng vụ, để cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục. Trong tháng này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được các Kitô hữu thực hiện như: xin lễ cầu cho ông bà tổ tiên, viếng đất thánh, chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn...

6. Tóm lại, bên cạnh việc cho con em mình vui chơi lễ hội Halloween, phụ huynh cũng nên nhắc nhở các em về ý nghĩa tôn giáo của lễ hội: hướng đến mầu nhiệm các thánh thông công và bổn phận cầu nguyện cho những người đã qua đời. Vui hội, nhưng các em không được quên bổn phận cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn, trong đó có ông bà tổ tiên của mình. Đi chơi hội, nhưng các em không được quên đọc kinh, đi lễ, viếng đất thánh để cầu nguyện cho họ. Khi cầu nguyện cho họ là các em thể hiện lòng biết ơn, tinh thần hiệp thông và liên đới với họ trong Chúa Kitô.

Lm. Giuse Trần Tử Hiếu

 

TRANG GIỚI TRẺ

TRUYỀN CẢM HỨNG CHO NGƯỜI KHÁC

Trong cuộc sống, bạn đã bao giờ trở thành nguồn cảm hứng, nguồn động viên tinh thần lớn lao của những người xung quanh chưa? Truyền cảm hứng cho người khác là cách mà tôi sống đẹp hơn, vui hơn và yêu đời hơn.

Tôi đã không ít lần tìm thấy niềm cảm hứng trong những điều bình dị, tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc từ những điều nhỏ nhặt nhất. Chính bản thân, tôi đã tự tìm thấy nguồn cảm hứng sống cho chính mình. Còn bạn, bạn có nguồn cảm hứng nào để sống, làm việc chưa? Nếu chưa thì bạn hãy mau tìm động lực và sức mạnh trong chính cuộc sống của chính mình nhé.

Thực tế, có nhiều người chưa bao giờ làm người khác cảm thấy vui vẻ hạnh phúc khi ở bên họ, lúc nào họ cũng chán nản và cáu gắt đã khiến họ trở thành đối tượng bị mọi người xa lánh. Thậm chí, họ còn không bết lý do vì sao mọi người tránh mặt họ. Chẳng ai muốn làm bạn với một người lúc nào cũng mang bộ mặt nhăn nhó khó coi... Nếu tôi là người lạc quan, biết truyền cảm hứng, biết khích lệ, quan tâm và an ủi người khác thì chắc chắn xung quanh bạn sẽ có rất nhiều người yêu thương và quý trọng tôi.

Ai cũng biết rằng một lời khích lệ, động viên trước khi bước vào cuộc chiến cam go sẽ tăng thêm sức mạnh cho người trong cuộc. Nếu họ sắp lựa chọn một con đường riêng của họ, rẽ theo lối đi mà tôi cho rằng không tốt thì tôi tìm mọi cách để chê bai để mong họ quay lại con đường trước đây. Dù vậy, họ vẫn bước vào con đường đó và chỉ mang theo một chút hoài nghi, thất vọng…

Thay vì thường xuyên làm cho người khác cảm thấy buồn chán và thất vọng thì tôi cần tìm cách làm cho họ tự tin vào chính mình, quyết tâm hơn và kiên trì hơn. Tôi cố gắng đừng làm cho họ cảm thấy mệt mỏi và chán nản khi phải đối diện với tôi. Tôi cần cho họ một nguồn cảm hứng để sống và làm việc.

Thay vì chê bai hay mắng nhiếc, tôi sẽ chỉ ra cho họ thấy những khó khăn trên con đường mà họ đã chọn để có thêm những kiến thức chuẩn bị đối diện với những thách thứ ấy. Tôi thấy mình trở thành một người bạn hơn là một kẻ dẫn đường cao ngạo. Tôi không tỏ ra mình biết tuốt mọi sự mà thấy mình là một người chín chắn và trưởng thành. Từ đó, lời nói của tôi sẽ có giá trị hơn đối với người khác.

Ghen tỵ và chế diễu chưa bao giờ làm cho tôi cao trọng hơn trong mắt người khác. Nếu tôi biết động viên, an ủi tinh thần người khác thì tôi mới thực sự là người làm nên chuyện trong cuộc sống. Trước khi có ý nghĩ muốn chê bai, chế diễu ai đó thì tôi nên suy nghĩ thật kỹ xem làm như thế tôi có lợi ích gì? Nếu chúng không đem lại cho tôi, cho người kia những lợi ích cần thiết thì tốt nhất tôi không nên nói. Bởi lời nói khi đã nói ra là không bao giờ có thể rút lại được.

Vì vậy, tôi và bạn, chúng ta đừng đừng bao giờ biến mình thành kẻ đáng ghét trong mắt người khác, bạn nhé!

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

TRANG GIA ĐÌNH

ÂN TÌNH VÀ HIẾU NGHĨA

Tháng 11 ơi gởi dùm ta …

… Một chút nhớ

… Một chút thương

… Một chút thơm hương nguyện cầu …

Tháng 11 Dương lịch hằng năm, người Công giáo ta đặc biệt luyến nhớ đến những người thân là cha mẹ, ông bà, thân nhân và bạn hữu của ta đã tạ thế; họ bước qua cõi đời tạm này để vào cuộc sống mới. Nhưng phận số của họ ở cõi xa xăm ấy là thiên đàng, hay hỏa ngục, hoặc đang được thanh tẩy nơi luyện hình, làm sao chúng ta có thể biết được!?

Tuy nhiên có một điều rất chắc chắn, vốn mang thân phận con người nên nhiều lúc các ngài cũng mắc phải những lỗi lầm và mang nó theo vào cõi chết. Vì vậy, chúng ta hãy ra công làm việc lành phúc đức để cứu giúp họ sớm vào chốn vinh quang muôn đời trong Nước Chúa.

Tưởng cũng nên nhắc lại một chút, lần kia, trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ với người con yêu dấu Augustinô rằng: “Mẹ chỉ xin con hãy nhớ đến mẹ khi con tiến tới bàn tiệc thánh.”

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự như thế thốt ra từ môi miệng của những người thân trước khi họ bước vào chốn thiên thu … nhưng rất có thể, xa mặt cách lòng, dễ lãng quên nhau … Nhân dịp Mùa Xuân Ân Tình và Hiếu Nghĩa trở về, Chúa mời gọi chúng ta không ngừng nhớ đến người thân thiết đã ra đi: Hãy cảm thương, hãy cầu nguyện và hãy tín thác.

Với ngút ngàn ân sủng của Thiên Chúa, tiếng gọi này khiến chúng ta sẽ thực hiện được.

Ước chi chúng ta biết tận dụng trọn vẹn Tháng 11 để tích lũy ơn ích thiêng liêng, gia tăng cầu nguyện, dâng thánh lễ và làm việc lành nhường tất cả cho những người thân của chúng ta đã khuất, hầu mong họ sớm được yên nghỉ trong vòng tay Chúa từ nhân.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

ĐIỀU RĂN THỨ V:   NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI

Một trong những thông điệp quan trọng nhất của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là thông điệp Tin Mừng sự sống (Evangelium vitae). Ngài nói đến sự sống nào? Ngài công bố Tin Mừng nào về sự sống? Chúa Giêsu hứa ban sự sống nào? Điều răn thứ năm bảo vệ sự sống nào?

Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời, tức là sự hiệp thông với Thiên Chúa, và chính Chúa Giêsu đã đến để ban tặng cho chúng ta. Để đạt tới sự sống này, phải chấp nhận mất sự sống của mình (Mc 8,35). Chúng ta được nhắc nhớ rằng sự sống trần thế không phải là mục đích tối hậu và giá trị cao cả nhất. Thà hy sinh sự sống này còn hơn là đánh mất sự sống linh hồn (Mt 10,28).

Các vị tử đạo đã làm chứng cho chân lý này. Vì danh Chúa Kitô, các ngài đã sống theo lương tâm, chống lại những dối trá và bất công, sẵn sàng hy sinh mạng sống trần gian chứ không chịu mất sự sống linh hồn (GLHTCG số 2473). “Nếu hạt lúa rơi xuống lòng đất mà không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

Vậy phải chăng có thể tước đoạt sự sống con người cách độc đoán? Điều răn thứ năm rõ ràng đặt toàn bộ sự sống con người, cả xác lẫn hồn, dưới sự che chở đặc biệt của Thiên Chúa: “Chỉ một mình Thiên Chúa là Chủ của sự sống ngay từ khởi đầu đến khi kết thúc. Trong bất cứ trường hợp nào, không ai được dành cho mình quyền trực tiếp tiêu diệt một người vô tội” (số 2258).

Sự sống mang tính thánh thiêng vì Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn sự sống, là Đấng Thánh. Một xã hội trong đó cảm thức về Thiên Chúa bị lu mờ, thì việc tôn trọng sự sống cũng nhanh chóng mất đi. Trong sách Didache (Giáo huấn của các Tông đồ), chúng ta đọc được giáo huấn này rất rõ ràng ngay từ thuở đầu của Kitô giáo, chống lại việc khinh thường sự sống trong thế giới ngoại giáo lúc đó: “Không được giết người… Không được giết một bào thai bằng cách phá thai hoặc giết trẻ con… Đường của sự chết là thế này… Đó là đường của những kẻ không biết thương người nghèo, không quan tâm đến người bị áp bức, không nhận biết Đấng Tạo Hoá. Đó là đường của những kẻ giết trẻ thơ, huỷ diệt những hình ảnh của Chúa. Đó là đường của những kẻ quay mặt đi trước nhu cầu của tha nhân, áp bức người cùng khổ, xét xử người nghèo cách bất công. Tắt một lời, đó là đường của những kẻ lún sâu trong tội lỗi. Hởi các con, hãy giữ mình khỏi những điều đó”.

Ngày nay, trong một thế giới ngày càng mang tính ngoại giáo, Đức Thánh Cha không ngừng nói về “văn hoá sự sống”, vốn đang bị đe doạ bởi nền văn hoá sự chết, nhưng cũng là phương thế duy nhất để chống lại nó. Thánh Gioan Phaolô II cũng nhìn thấy những dấu hiệu hy vọng của nền văn hoá sự sống khắp nơi, dù ngài than phiền rằng “thật khó để thấy và nhận ra những dấu chỉ tích cực này, có lẽ vì các phương tiện truyền thông không quan tâm tới cho đủ”.

Điều răn thứ năm chỉ ra giới hạn tối thiểu mà ta không được vượt qua. Hiểu cách tích cực, điều răn đó trình bày sự tôn trọng tuyệt đối với sự sống con người, vì sự sống đó được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, và vì thế sự sống đó thật thánh thiêng.

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

TRANG QUỚI CHỨC

THƯƠNG VÀ GHÉT

Truyện kinh thánh kể rằng: ngày xưa, khi dân Do thái vừa ra khỏi Ai Cập, đên chân núi Sinai. Khi Môi Sen lên núi chay tịnh bốn mươi đêm ngày để chuẩn bị đón nhận giới luật của Chúa ( Mười Giới Răn) thì ở dưới chân núi dân Do Thái đã đúc một tượng bò bằng vàng để thờ.Một sai lầm trầm trọng xúc phạm đến Thiên Chúa đến nổi Ngài đã có ý định muốn tru diệt hết giống dân mà Ngài đã vun trồng từ thời Abraham và thay vào đó bằng dòng dõi Môi Sen. Nhưng Môi Sen đã lên tiếng nài van Chúa. Chúa nguôi giận, tha thứ cho họ.

Hơn ngàn năm sau, khi Chúa Giêsu trên đường tiến về Giêrusalem để chịu nan, đi ngang qua biên giới Samari, người Samari đã không cho Chúa mượn đường khiến hai con Giêbêđê nổi giận muốn xin lửa từ trời xuống thiêu chết họ, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách các ngài, Chúa nói: Con người đến để cứu chứ không phải để tiêu diệt.

Đó chính là triết lý của Chúa được tỏ bày rõ ràng nhất qua Lời của Người là Đức Giêsu, Con Chúa làm người để nói với chúng ta. Người muốn con người được sống, bởi thế mà dù khi con người phạm sai lầm đáng chết Người cũng muốn tìm một lý do nào đó dù rất mong manh để như là một cái cớ tha chết cho con người. Một Môi sen nhỏ bé có là gì với Chúa, những lý do mà ông nại đến cũng chẳng thuyết phục mấy khi cầu xin cho dân, nhưng Thiên Chúa vẫn con như là một lý do chính đáng để tha. Và Chúa cũng muốn điều đó phải được duy trì trong trần gian này qua sứ mạng của Giáo hội.

Trước khi trao quyền cho thánh Phêrô ít lâu, Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở ngài và còn hơn thế nữa, nếu chúng ta đọc kỹ lời của Chúa Giêsu với Phêrô chắc chắn chúng ta sẽ rất phân vân. Phải hiểu thế nào về ý định của Ngài: “….Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, anh hãy cũng cố anh em nên vững mạnh.” (Lc 22,32)

Chúa Giêsu có thể bảo vệ thánh Phêrô, giúp ngài tránh đối diện với tình huống phải vì yếu đuối mà phạm tội không ? Điều đó chẳng có gì là khó với Ngài, Nhưng dường như ở đây, Ngài muốn để cho nó sẽ phải như vậy, để rồi như một ấn tích bằng sắt nung đỏ ấn vào tâm hồn Phêrô, một ấn tích để đời, để ông trãi nghiệm sự yếu đuối của con người, lòng thương xót của Chúa đối với ông, hầu khi đã trở nên người đại diện cho Chúa, ông cũng biết hành xử như Chúa đã thương ông.

Bởi thế trong Giáo hội, từ sơ khai đến nay và cho đến tận thế, tòa giải tội không phải là nơi để lên án nhưng là nơi để tha thứ, giao hòa,

Hàng giáo sĩ, các linh mục, nhất là các cha sở dù trong tòa giải tội hay trong đường hướng mục vụ vẫn luốn lấy lòng thương xót của Chúa làm phương châm dẫn dắt đoàn chiên. Nhưng nhiều lúc có sự hiểu lầm về cách làm của các ngài. Có thể so sánh như là cách người ta điều trị một căn bệnh

Một khối u nhọt có hai cách trị. Hoặc là xoa cho nó lặn, hoặc là nặn cho ra cùi.

Cách thứ nhất nhẹ nhàng, dễ chịu ai cũng thích nhưng xem ra không hiệu quả vì một khi nó chưa ra cùi thì một ngày nào đó nó sẽ mọc trở lại đó là điều chắc chắn. Cách thứ hai có vẽ bạo lực quá nhưng trị dứt di chứng của nó. Nhưng để nặn nhọt cho một người thì cần phải can đảm đấy ! không khéo mang họa vào thân, bởi vì nặn nhọt thì phải làm cho người ta đau, mà khi đau quá thì mất kiểm soát, khi đó thì chính họ cũng không biết họ làm gì thì chúng ta làm sao lường được hậu quả ? Nhưng đâu phải vì thế mà tất cả mọi người đều tránh làm điều đó. Vì bác ái, yêu thương, họ vẫn cứ làm, mặc dầu biết rằng phần nhiều phần thiệt sẽ về mình.

Có những lúc cha mẹ dùng lời lẽ nặng nề với con cai. Có phải lúc đó cha mẹ không thương con? chúng ta nên nhớ rằng lời cảnh báo cho một người có nhiều mức độ. Khi mức độ nguy hiểm ít lời lẽ khác, nguy hiểm nhiều lại khác; khi nguy hiểm còn ở xa thì khác, trái lại khi hiểm nguy cận kề giọng điệu phải khác. Có cha mẹ nào thấy đứa con mình đang dự định nhảy xuống mé sông tắm, nơi mà mình biết có nhiều cọc nhọn mà không hét lên khiến nó phải dừng lại lập tức không, hay để nó nhảy xuống đi rồi sau đó chở đi bệnh viện vì sợ hét lên làm con cái phật lòng ? Có ai thấy một người bị tai nạn gãy xương, chảy máu mà không dám băng bó vì sợ làm nạn nhân đau?

Phần nhiều, chúng ta ước muốn làm sao để điều trị vết thương mà không làm đau, muốn hết bệnh mà không cần điều trị. Điều đó cũng có thể, nhưng cũng tùy loại bệnh. Có những căn bệnh không mổ xẻ sẽ cắt bỏ sẽ không thể khỏi và đó là liệu pháp cuối cùng để bệnh nhân được sống, không một bác sĩ nào lại mang một người mạnh khỏe để mổ xẻ cả. Ông bà ta nói: thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi là thế.

Đồng cảm không nhất thiết phải đồng cảnh; bao dung không đồng nghĩa với dung túng. Trong y học muốn cứu người, nhiều lúc phải chấp nhận gây cho bệnh nhân cái chết giả mới có thể cứu được họ. Cha mẹ nhiều lúc phải cắn răng để phạt con, điều đó không có nghĩa là cha mẹ không thương con. Giáo hội cũng thế, nhiều lúc phải có những biện pháp mạnh, những lời lẽ cứng rắn, tất cả cũng vì muốn sau này chúng ta sẽ cùng nhau họp mặt trên thiêng đàng mà thôi.

Lm Antôn Lưu Thanh Tâm

 

SỐNG ĐẸP

Những Lời Cuối Cùng Của Steve Jobs - Người Sáng Tạo Ra Iphone Apple - Chấn Động Cả Thế Giới

"Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tượng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.  

Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho cuộc đời của bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.

Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.    

Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? Đó là giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống.Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn."

Theo internet

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn Bắt Đầu Từ Đâu ?

Phụng vụ dành ngày 2 tháng 11 để kính các linh hồn. Nguồn gốc lễ này bắt đầu từ đâu? Nó có giống với lễ Vu lan trong Phật giáo không?

Như chị đã biết, lễ Vu lan được cử hành vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là Tết Trung nguyên. Có lẽ lễ này không bắt nguồn từ Phật giáo, nhưng từ phong tục dân gian. Dù sao, trọng tâm của niềm tin ngày rằm tháng bảy âm lịch là “xá tội vong nhân”: vào ngày này, các tội nhân dưới âm phủ được giải thoát. Thân nhân những người mới qua đời tổ chức lễ cầu siêu. Nguồn gốc của lễ các linh hồn bên Công giáo thì khác, với nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Ta có thể lấy một mốc điểm lịch sử là ngày 2 tháng 11 năm 998, để từ đó theo dõi sự tiến triển khi đi ngược hay đi xuôi.

Tại sao lấy ngày 2 tháng 11 năm 998 làm mốc điểm?

Tại vì theo lịch sử, thánh Ôđilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny dòng Biển đức đã ấn định dành ngày 2 tháng 11 (nghĩa là ngày hôm sau lễ kính các thánh) để cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, qua việc dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm việc bác ái.

 Tại sao chọn ngày 2 tháng 11?

Như vừa nói, cha Ôđilon chọn ngày 2 tháng 11 bởi vì liền kế ngày 1 tháng 11. Vào ngày này, phụng vụ mừng lễ kính tất cả các thánh, nghĩa là các tín hữu đã lìa đời và đang được hưởng hạnh phúc ở bên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng bên cạnh các phúc nhân, còn có những tín hữu khác đang trải qua cuộc thanh luyện. Vì thế, chúng ta cũng hãy nhớ cầu nguyện cho họ.

Đây là một tư tưởng do cha Ôđilon gợi ra phải không?

Chúng ta cần phân biệt nhiều khía cạnh: việc dành ngày 2 tháng 11 để cầu cho tất cả những người qua đời là sáng kiến của cha Ôđilon. Nhưng việc cầu nguyện cho những người đã qua đời thì đã có từ lâu rồi, mãi từ cuối thời Cựu ước, như chúng ta đọc thấy chứng tích trong sách Macabê, quyển hai, chương 12, khi ông Macabê quyên tiền gửi về đền thờ Giêrusalem để cầu nguyện cho các tử sĩ. Trong Tân ước, ta cũng thấy thánh Phaolô khuyên ông Timôthêô hãy cầu nguyện cho Onêsiphorô, một cộng tác viên với thánh Tông đồ tại Êphêsô (2Tm 1,16-18). Dĩ nhiên, tập tục này được duy trì trong suốt lịch sử của Hội thánh. Còn việc dành một ngày trong năm phụng vụ để cầu cho tất cả các linh hồn thì cũng đã có trước cha Ôđilon từ ba thế kỷ.

Tại sao phải cầu nguyện cho những người qua đời?

Việc tưởng nhớ những người qua đời được gặp thấy nơi nhiều dân tộc, với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có khi việc tưởng nhớ người quá cố là dịp để thân quyến gặp gỡ nhau, để ôn lại công đức tiền nhân, bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ, đồng thời khuyến khích nâng đỡ nhau trên đường đời. Có nơi thì tin rằng hương hồn của tổ tiên vẫn còn hiện diện với con cháu, vì thế họ được mời đến tham dự những biến cố quan trọng của gia đình, cũng giống như lúc sinh tiền. Có nơi tổ chức cúng giỗ để cung cấp lương thực và đồ dùng cho người quá cố, bởi vì người ta tin rằng những người bên kia thế giới cũng có những nhu cầu và sinh hoạt giống như ở đời này. Có nơi thì tổ chức lễ cầu siêu, xin cho các linh hồn còn bị giam ở địa ngục được giải thoát. Dĩ nhiên, không phải tất cả các quan niệm này đều phù hợp với đức tin Kitô giáo.

Thế thì các Kitô hữu cầu nguyện cho các người qua đời để làm gì?

Trong việc cầu nguyện cho những người qua đời, có khá nhiều động lực khác nhau. Trước hết, chúng ta không thể nào bỏ qua khía cạnh tâm lý: những buổi cầu nguyện bên cạnh quan tài người chết hoặc vào dịp giỗ giáp tháng giáp năm nhằm bày tỏ sự thương tiếc người đã qua đi. Thế nhưng bên cạnh động lực tâm lý, dần dần đức tin Kitô giáo đã mang đến nhiều động lực mới. Ngay từ những lá thư đầu tiên (tựa như thứ thứ nhất gửi các tín hữu Têxalônica, chương 4, câu 13), thánh Phaolô đã nhắc nhở các tín hữu đừng buồn rầu như những kẻ thiếu niềm hy vọng. Thực vậy, đối với người tín hữu, cái chết không phải là sự tận diệt của cuộc sống, mà chỉ là ngưỡng cửa bước sang cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, các tín hữu tiên khởi gọi ngày qua đời là “sinh nhật” ( dies natalis), bởi vì họ được sinh vào cuộc sống mới. Điều này được áp dụng đặc biệt cho những vị tử đạo. Không lạ gì mà vào ngày giáp năm ngày tử đạo, các tín hữu họp nhau lại để đọc hạnh tích của vị tử đạo, không những để khuyến khích nhau bắt chước tấm gương can đảm, nhưng nhất là để tạ ơn Chúa vì đã cho một tín hữu được hoà đồng với Đức Kitô. Nói cách khác, việc mừng các vị tử đạo được liên kết với Thánh lễ, tức là lễ hy sinh của Đức Kitô. Các vị tử đạo là những người đã đi theo sát với Thầy mình trên đường thập giá, cho nên chắc chắn họ cũng được thông dự vào sự phục sinh với Người.

Nhưng mà đâu phải tất cả các tín hữu đều tử vì đạo?

Đúng rồi. Khi kính nhớ các vị tử đạo, các tín hữu xác tín rằng các ngài đang được hưởng vinh quang với Chúa rồi. Đó là buổi cử hành vui tươi. Thế nhưng không phải tất cả các tín hữu đều chết vì đạo. Nói cách khác, không phải tất cả các tín hữu sau khi qua đời đều nắm chắc sẽ được hưởng vinh quang với Chúa. Vì thế, những người qua đời cần được Hội thánh cầu nguyện để được thanh luyện khỏi tội lỗi, như chúng ta thấy phản ánh nơi đoạn văn trích từ sách Macabê quyển 2 chương 12 đã nhắc đến trên đây. Chúng ta chỉ cần trưng dẫn một chứng tích thì đủ rõ. Trong sách Tuyên xưng (Confessiones hay Tự thuật), thánh Augustinô kể lại lời trối trăn của thân mẫu Monica rằng: “Các con có thể chôn xác mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con một điều là dù các con ở đâu, thì hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Câu nói này phản ánh một tập tục đã có từ lâu đời, đó là cầu nguyện cho các người qua đời trong khi dâng Thánh lễ. Thánh lễ là nơi mà các tín hữu sống cao độ tín điều về sự “thông hiệp các thánh”. Thực vậy, không những các tín hữu thông hiệp vào Mình và Máu của Chúa Kitô, nhưng còn thông hiệp với Nhiệm thể của Chúa là Hội thánh. Các Kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc đến sự thông hiệp với Đức Maria, các thánh, các phúc nhân, và tất cả những ai đã ly trần. Sự tưởng nhớ này không những chỉ tuyên xưng rằng các người qua đời vẫn còn sống (chứ không bị hủy diệt ra tro bụi), nhưng còn cầu xin Chúa nhân lành thương xóa bỏ những thiếu sót của họ. Dĩ nhiên, không phải chỉ chúng ta (những người còn sống) chuyển cầu cho các người qua đời, nhưng là cả Hội thánh (nghĩa là kể cả Đức Kitô, Đức Maria và các phúc nhân) đều liên đới chuyển cầu cho các linh hồn. Ngoài việc cử hành Thánh lễ, Hội thánh cũng cầu nguyện cho các người qua đời bằng những kinh nguyện khác, cũng như bằng các công tác bác ái.

Lúc nãy, cha nói rằng việc cầu nguyện cho người qua đời đã có từ Cựu ước, còn việc dành một ngày để cầu cho tất cả những người qua đời thì mới chỉ thành hình từ thế kỷ VII. Lai lịch tục lệ này như thế nào?

Trên đây, chúng ta nhắc đến lễ Trung nguyên, một ngày mà tục lệ dân gian ở Á đông cầu siêu cho các vong nhân. Ở Rôma thời cổ, cũng có một ngày cầu siêu như vậy, vào ngày 22 tháng hai dương lịch (nghĩa là vào ngày cuối năm theo lịch cổ Rôma). Không lạ gì mà nhiều nơi trong Giáo hội công giáo cũng muốn dành ra một ngày để cầu nguyện cho tất cả các người qua đời. Chứng tích cổ nhất là bản luật các đan sĩ của thánh Isiđorô Sevilla bên Tây ban nha (+636), truyền dâng Thánh lễ cho tất cả các người qua đời vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vào các thế kỷ sau đó, người ta thấy tại nhiều đan viện tại Đức, Pháp, Ý, chỉ định một ngày trong năm để cầu cho hết các linh hồn, tuy không trùng ngày như nhau. Với cha Ôđilon, thì ngày này được ấn định sau lễ kính các thánh. Nhờ uy tín của các đan viện Cluny, tục lệ này sớm lan tràn khắp châu Âu từ thế kỷ XI.

Tục lệ mỗi linh mục dâng ba thánh lễ nhân ngày kính các linh hồn cũng bắt đầu từ thánh Ođilôn, phải không?

Không phải, tập tục này ra đời muộn hơn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV với các cha dòng Đaminh ở Valencia (Tây ban nha). Đức thánh cha Bênêđictô XIV năm 1748 châu phê tập tục này và nới rộng cho tất cả các linh mục bên Tây ban nha, Bồ đào nha, châu Mỹ la-tinh. Mãi đến năm 1915, đức thánh cha Bênêđictô XV mới nới rộng ra toàn thể Hội thánh. Dù sao, nên biết là Hội thánh không chỉ dành mỗi năm một ngày để tưởng nhớ các người đã qua đời. Nhiều tu viện và giáo xứ vẫn có thói quen cầu nguyện cho các linh hồn mỗi ngày, hay ít là mỗi tuần vào ngày thứ hai.

Tại sao dành ngày thứ hai để cầu nguyện cho các linh hồn?

Nguồn gốc tục lệ này là một quan điểm hơi kỳ quặc vào thời Trung cổ. Người ta cho rằng các linh hồn ở luyện ngục được xả hơi vào Chúa nhật để mừng Chúa Phục sinh, và qua ngày thứ hai, lại phải tiếp tục lao động. Vì thế, chúng ta nên giúp cho họ một tay. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn vào bất cứ ngày nào mà không cần đếm xỉa đến tập tục đó.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật XXXII Thường Niên C

CHÚA LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lc 20, 27 – 38

Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố.

Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ ba, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?

Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào.

Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi.

Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa; cuộc sống ấy rất thánh thiện như "các thiên thần" cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là "Con của Chúa".

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại. Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào ?

Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào?

Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.

Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:

Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống. Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình. Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội. Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.

Chúng ta phải nhớ nguyên tắc "Gieo gì thì gặt nấy": nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thời giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.

Lm Phêrô Nguyễn Thanh Phong

 

Chúa Nhật XXXIII Thường Niên C

Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

ANH HÙNG TỬ ĐẠO

Giáo Hội long trọng mừng ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam, để chúng ta ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa, đã thực hiện những công trình vĩ đại trên quê hương Việt Nam, là dịp để chúng ta chiêm ngắm và noi gương các vị tiền bối đã anh dũng làm chứng cho đức tin, là dịp để chúng ta hãnh diện về Hội Thánh Việt Nam, tuy chỉ mới hơn 400 năm, nhưng đã đóng góp cho Giáo Hội hơn 300.000 vị tử đạo.

Giáo Hội Việt Nam có sức sống mãnh liệt như ngày hôm nay, phần lớn là nhờ các vị tử đạo; các ngài đã gieo những hạt giống vào lòng đất, và tưới bằng chính máu của mình. Thật thế, những hạt giống tử đạo không chỉ ở một nơi nào, mà các ngài đến từ mọi miền đất nước, khác nào một vườn hoa với đủ sắc màu dâng lên Thiên Chúa, có đủ mọi thành phần: từ Giám mục, Linh mục, phó tế rồi đến cả giáo dân. Đặc biệt là cả những quan nhân, những người phụ nữ cũng quật cường can đảm tuyên xưng đức tin trước muôn vàn lưỡi kiếm mũi đao, chỉ vì trung thành với đức tin mà các ngài phải hy sinh bản thân bị mất danh dự, cam chịu khổ hình, và cuối cùng là dâng hiến bằng cái chết.

Trong số các thánh tử đạo Việt Nam, có người là quan lớn trong triều đình, có chức cao quyền trọng như thánh Hồ Đình Hy vì Chúa dám tuyên xưng đức tin, rồi phải chịu những tai họa khủng khiếp, mất chức quyền, mất danh vọng và mất cả mạng sống. Kế đến là những thầy giảng, như thầy Anrê Phú Yên, chủng sinh Tôma Thiện các Ngài có cả một tương lai rộng mở, tuổi đời còn đang tràn trề sức sống với nhiều ước mơ. Cũng có những lời hứa khuyến dụ của các quan nhưng các ngài đã khước từ tất cả, để chọn Thiên Chúa làm gia nghiệp, hướng dâng tuổi thanh xuân làm của lễ đẹp lòng người.

Có cả những quân nhân như thị vệ Tống Viết Bường, hay y sĩ Phan Đắc Hòa, họ là những người có vợ con, gia đình sống hạnh phúc êm ấm. Nhưng họ sẵn sàng dâng cả gia đình vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, để rồi chịu sức tử đạo trong niềm vui dâng hiến. Đặc biệt là những vị thánh nữ thân phận yếu đuối như bà Anrê Lê Thị Thành, chân tay mền yếu phải chịu gông cùm, bị tra tấn hành hạ để thể hiện tình yêu với Chúa Kitô.

Không phải tất cả các tín hữu đều được ơn tử đạo, hay chấp nhận chịu chết vì đạo. Có rất nhiều tín hữu đã bị bắt, có những người đã chối Chúa. Thật sự được tử đạo ơn ban của Thiên Chúa, không phải người nào cũng được ơn ban này. Nhưng Thiên Chúa chỉ dành cho những người yêu mến Ngài. Lòng yêu mến đó được thể hiện qua chính cuốc sống đời thường của các Thánh. Họ đã sống lời Chúa ngay trong chức vụ của mình, là người cha, người mẹ gương mẫu, là người chồng, là người vợ tốt, là người con thảo hiếu trong gia đình, là những người lính kiên cường dũng cảm, là những lý trưởng yêu dâng. Trái họ đã là những công dân tốt trước khi được làm công dân nước trời.

Các Thánh tử đạo đã để lại cho Giáo Hội Việt Nam những cái chết hào hùng những tấm gương anh dũng cho hậu thế nói theo. Ngày hôm nay hình thức bắt đạo, tử đạo đã khác với thời các Thánh, không còn gươm giáo, xiềng xích nữa. Nhưng chúng ta lại bị bắt đạo bằng nhiều hình thức khác.

Chúng ta bị bắt từ ngay chính bản thân, bị cuốn hút bởi danh vọng và địa vị, chính danh vọng đã làm cho con người bất chấp tất cả, không dám tuyên xưng đức tin Công Giáo trước mặt người đời, danh vọng làm cho người ta bất chấp tất cả, cho dù đó là tội lỗi xấu xa, chỉ sao nhằm đạt đước mục đích bản thân. Lúc này Thiên Chúa của họ là danh vọng địa vị, con người không bào giờ thỏa mãn với những gì mình đang có.

Đứng trước một nền kinh tế đang phát triển ồ ạt, nếu không có một đức tin vững mạnh, chúng ta không thể đứng vững trước những xiềng xích của đồng tiền lôi kéo, nó như một ma lực mà tự chúng ta chui vào. Và khi đó con người là đủ mọi cách để có tiền, không từ chối một phương cách nào, từ cướp bóc, gian lận, cờ bạc, hối lộ… tiền bạc hầu như chi phối tất cả mọi lãnh vực trong xã hội. Do đó, người Công Giáo cũng dễ bị cuốn hút theo, đòi hỏi họ phải có quyết tâm trong chọn lựa; Thiên Chúa hoạc tiền bạc. Vì thế để lựa chọn Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tử đạo ngay trong đời sống này, chấp nhận nghèo còn hơn có được đồng tiền bất chính, thà chịu mất địa vị hơn mất đức tin.

Trong cuộc sống ngày nay, tử đạo không còn phải chạy trốn, né tránh như các Thánh ngày xưa, mà tử đạo là một cuộc chiến đấu không ngừng giữa thiện vá ác, giữa lựa chọn và từ bỏ. Mỗi quyết định của chúng ta một lưỡi gươm đâm vào người. Các Thánh chỉ một lần bị xử trảm. Còn chúng ta bị “xử trảm” mỗi ngày trong cuộc sống.

Lạy Chúa, nhờ ơn Chúa mà các Tháh tử đạo dám hy sinh từ bỏ, đổ máu đào để làm chứng cho đức tin. Ngày hôm nay, xin cho chúng con biết noi gương các thánh tử đạo dám can đảm, từ bỏ, hy sinh để làm chứng cho tin mừng trong thế giới hôm nay

Lm Gioan Lê Tiến Thiện

 

Chúa Nhật XXXIV Thường Niên C

Đức Kitô Vua Vũ Trụ

ĐÚNG, NGÀI LÀ VUA

Lc 23, 35 - 43

Từ ngữ “vua” được biểu tượng hóa trong Kinh Thánh để chỉ định cho một ai đó đang sở hữu một quyền lực tối thượng. Theo đây, Kinh Thánh từ Cựu Ước cho đến Tân Ước không thiếu những ý tưởng nhắc nhớ vị trí Đức Vua của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã được nhắc đến trong tư cách một vị vua: “Giờ đây kính dâng Thiên Chúa duy  nhất, vua vĩnh cửu, bất tử, vô hình, được vinh dự và vinh quang đến muôn muôn đời” (1 Tm 1,17).

Còn cụm từ “vua muôn vua” được dùng sáu lần trong Kinh Thánh. Lần đầu tiên, danh hiệu này được áp dụng cho Chúa Cha (1 Tm 6,15), hai lần dành cho Chúa Giêsu (Kh 17,14 và 19,16). Ba lần khác trong các sách Er 7,12; Ed 26,7; Đn 2,37 gắn liền với vua Artaxerxes hoặc vua Nebuchadnezzar, là những vị vua đã dùng cụm từ vua muôn vua để diễn đạt vương quyền tuyệt đối của họ trên các phần lãnh thổ tương ứng (Persia và Babylon). Với cách hiểu này, tác giả Sách Khải Huyền (19,16) đã gọi Đức Giêsu là “Vua muôn vua, Chúa các chúa” như một thông báo Đức Giêsu chính là người có uy lực để thực hiện quyền năng một cách tuyệt đối trên lãnh thổ của Ngài. Trong trường hợp của Đức Giêsu thì lãnh thổ của Ngài là tất cả tạo vật hay trần gian, nơi mà Đức Giêsu sẽ quay trở lại để phân xử và thiết lập vương quốc, như được tiên báo ở Mc 13,16.

Như vậy, khi Chúa Giêsu được gọi là “Vua muôn vua, Chúa các chúa”, có nghĩa mọi quyền lực khác sẽ bị chinh phục hoặc bãi bỏ, và duy Đức Giêsu giữ quyền tối thượng trong tư cách là Vua và là Chúa tể khắp trần gian. Không còn vua chúa, quan quyền hay thủ lãnh nào có thể đối kháng và chiến thắng được Ngài. Những dẫn chứng từ Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu rõ điều này hơn.

Sách Isaia báo rằng vị chúa tể làm cho vương hầu hóa hư không, thủ lãnh trần gian thành hư ảo, hơi thở của người sẽ cuốn chúng đi như gốc rạ khô (Is 40,23 -24). Hình ảnh về Con Người trong thị kiến của Đaniel (Đn 7,13-14) là một “Đấng Lão Thành” có vương quyền bao phủ trên mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ, đó là một quyền bất hoại trong một vương quốc không hề hư hoại. Tác giả thư Do Thái cũng đề cập Đức Giêsu là “nguồn gốc vinh quang của Thiên Chúa, là phản ảnh chân thật bản tính Thiên Chúa, và Ngài duy trì vạn vật bằng Lời quyền năng của Ngài” (Dt 1,3). Nói cách khác, quyền lực trên vạn vật của Đức Giêsu là tuyệt đối, điều này đã quá rõ ràng.

Phaolô ghi nhận Đức Giêsu đã hủy mình trong sứ vụ trần thế của Ngài và sự hủy mình của Ngài sẽ có kết quả trong vinh quang. Thư Phip 2,5-11, Phaolô bàn đến cấp độ mà Đức Giêsu đã đi qua để đền tội cho người tội lỗi; sự vâng phục trọn hảo của Ngài là lý do để Thiên Chúa “tôn vinh Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu trổi vượt trên muôn danh hiệu, đến nỗi nghe danh của Đức Giêsu, mọi đầu gối trên trời, trên đất và dưới lòng đất quỳ xuống, mọi miệng lưỡi ca ngợi rằng Đức Giêsu  là Chúa, vinh danh Chúa Cha” (c. 9-11). Người tôi tớ đau khổ trở thành vua muôn vua.

Cuối cùng sách Khải Huyền, chúng ta thấy rõ vương quyền của Đức Giêsu. Chương 5, Con Chiên (Đức Giêsu) là người duy nhất trong các tạo vật có quyền mở cuộn giấy chứa đựng lời xét xử của Thiên Chúa. Chương 11, chúng ta nghe tiếng công bố vương quốc trần gian đã đến, vương quốc của Đức Kitô và Ngài sẽ cai trị đến muôn đời. Chương 12, vương quyền của Đức Kitô làm cho Satan thất trận. Chương 17, Con Chiên chinh phục các dân chống lại Ngài. Chương 19 thông báo chiến thắng của Đức Giêsu thôn tính các nước và bước đi trong bồn đạp nho chứa sự phẫn nộ của Thiên Chúa, Ngài có quyền làm thế vì Ngài là Vua các vua và Chúa các chúa.

Nói gọn lại, ý tưởng Đức Giêsu Kitô là Vua muôn vua, Chúa các chúa nghĩa là không còn quyền lực nào cao hơn nữa. Vương quyền trên mọi tạo vật của Ngài là tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Thiên Chúa đã nâng Ngài lên từ cõi chết và đặt làm vương bá mọi sự, “Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị...Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô” (Eph 1,21-23).

Dù trong suốt cuộc sống trần thế, Đức Giêsu không tỏ rõ quyền đế vương của mình. Trừ lần Ngài tiến vào Giêrusalem, cho ứng nghiệm lời Dacaria. Trước lòng ngưỡng mộ mang nhiều tham vọng của Israel, Đức Giêsu hướng họ về ngày quang lâm. Trong khi trả lời chất vấn của Philatô Ngài không phủ nhận Ngài không phải là Vua, nhưng Ngài lại khẳng định “nước của tôi” không thuộc trần thế này. Chính sự cứng tin và mù quáng của giới lãnh đạo Israel khiến họ không muốn nhìn nhận vương quyền này. Tuy vậy, khi mặc cho Đức Giêsu áo choàng đỏ, đội mảo gai, kèm những lời tung hô có tính nhạo báng, và ngay cả tấm bảng ghi tên người tử tội lại mang hình ảnh của một vị vua. Như thế, vương quyền của Đức Giêsu lại được tỏ bày trong cuộc hành khổ và vinh quang xuất hiện sau phục sinh. Hay nói khác đi, dù quyền đế vương của Đức Kitô có bị ẩn khuất thì thật sự nó đã được mở ra nơi cuối cuộc đời của Ngài.

Vì vương quyền của Người không thuộc thế gian này. Nên công dân của Ngài cũng không thuộc thế gian này. Con người trở thành con của Người khi “Thiên Chúa cứu họ khỏi đế quốc tối tăm để đưa họ vào nước của con, vì trong Người họ mới được cứu chuộc” (Col 1,13). Cho nên, dù con người có phục tùng quyền lực các vua trần gian đều không ảnh hưởng gì đến Thiên Chúa. Vì các vua cũng là sự cắt đặt từ Thiên Chúa. Vấn đề là tất cả tạo vật, dù là vua chúa, quan quyền hay thường dân đều phải phục quyền Đức Giêsu, không được chống lại Người.

Khốn thay, loài người đã làm như thế (như đã xảy ra trong cuộc tử nạn của Đức Giêsu). Loài người cho rằng mình là tất cả, mình là đế vương của bầu trời cũng như đáy đại dương. Vì họ đã từ chối quyền bính của Thiên Chúa nên họ cũng ra sức phá hủy Giáo Hội của Người. Sự  phủ nhận đó không đem lại hòa bình nhưng càng làm cho thế giới thêm hỗn loạn. Tuy vậy, chúng ta không sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn. Dẫu thế nào, quyền năng của Chúa vẫn chiến thắng. Nói khác đi, đồng thuận hay chối từ, Thiên Chúa vẫn tồn tại, Vua Giêsu vẫn muôn đời bất diệt.

Với vương quyền tuyệt đối của Đức Kitô chắc chắn không phải để Người lật đổ, thống trị hay bành trướng uy lực nhưng qua đó để cứu vớt, để chở che và phục hồi. Với quyền tuyệt đồi vô song ấy, Đức Giêsu đem về cho Thiên Chúa những tử tội. Khi bước lên ngai vàng là cây thập giá, Vua Giêsu đã tiêu diệt hận thù, ghen ghét, tội lỗi và sự chết. Nơi Vua Giêsu, Vua của lòng thương xót, chúng ta không sợ hãi nhưng hoàn toàn có quyền mơ ước một cuộc đổi thay khi chúng ta dám cùng chết với Người.

Lm Phêrô Nguyễn Minh Thái

Chúa Nhật I Mùa Vọng A

LỜI KÊU GỌI KHẨN THIẾT

Mt 24, 37 - 44

Hằng năm, cứ đến mùa vọng là chúng ta được nghe những bài sách thánh mà ý nghĩa tựu trung mời gọi chúng ta sửa đổi đời sống, tẩy sạch tâm hồn xứng đáng đón chờ Chúa đến. Nhưng chúng ta phải hiểu ngày Chúa đến theo hai nghĩa: một là chờ đón Chúa đến lần thứ nhất cứu cuộc nhân loại qua mầu nhiệm nhập thể trong dịp lễ Giáng Sinh, hai là chuẩn bị đón ngày Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại đó là ngày quang lâm.

Nhưng cho dù hiểu theo ý nghĩa nào đi chăng nửa thì cách chung, sứ điệp mà Giáo hội muốn gởi đến toàn thể Dân Chúa trong mùa vọng vẫn là chủ đề tỉnh thức. Tỉnh thức để canh tân đời sống, cải thiện nội tâm và tránh thái độ mê muội chạy theo thói đời mà buông trôi giáo huấn của Chúa.

Có thể nói đây là chủ đề chính và nổi bật nhất trong mùa vọng mà chúng ta sẽ được nghe lập đi lập lại nhiều lần. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: Tại sao lại phải tỉnh thức và tỉnh thức mang lại lợi ích gì cho tôi trong cuộc sống đời thường cũng như đời sống đức tin? Nếu nhìn việc tỉnh thức dưới cái nhìn sinh lý, thì con người trong thời đại này thức nhiều hơn ngủ.

Nhưng tỉnh thức ở đây có ý nhấn mạnh về khía cạnh nội tâm. Do đó tỉnh thức đây không thể hiểu là không ngủ. Vì thế có thể nói được có người thức nhưng mà không tỉnh, mắt và tai vẫn mở nhưng không thấy, không nghe, không cảm nhận được cuộc sống đang diễn ra quang mình. Vì thế chúng ta cần phài tỉnh thức vì con người vốn dễ bị cám dỗ sống buông thả theo thói quen, hành động và nói năng theo bản năng và cảm tính mà không thể làm chủ con người mình được cách đúng mức. Tỉnh thức là ý thức mọi hành vi của mình, nghĩa là mỗi hoạt động của mình đều được suy nghĩ cách cẩn thận.

Người thiếu tỉnh thức là người có đời sống cách mái móc trôi theo giòng đời. Họ ăn mà không biết mình ăn, nói nhưng không biết mình nói, hành động nhưng không hiểu được tại sao. Chính vì thế mà cuộc sống họ luôn bị tội lỗi xâm nhập và dễ dàng sa chước cám dỗ. Các nhà tu đức cho rằng không ai có thể phạm tội khi người đó hiểu hết những tai hại mà tội đó mang đến. Cũng như chúng ta không thể đặt vào tai người anh em những lời khó nghe khi ý thức rằng việc đó chẳng ích lợi gì cho tôi. Vì nếu tôi hiểu được những lời thô lỗ, nhục mạ xúc phạm hay những hành động tiểu nhân, bỉ ổi… mà tôi dành cho người khác chẳng mang lại lợi ích gì cho tôi ngoại trừ sự tức tối, thù ghét mà người đó sẽ trả lại. Và đây chính là nguyên nhân làm cho đời sống đức tin của chúng ta không sinh hoa kết quả được.

Tỉnh thức là đưa lý trí vào trong lời nói, hành động… hay đưa mọi vấn đề cuộc sống vào trong suy nghĩ để từ đó chúng ta có những cách cư xử đúng đắn, cao thượng, đầy nhân bản, thấm tình người. Chính vì thiếu tỉnh thức mà chúng ta làm trì truệ cuộc sống nội tâm và bóp nghẹt nó, khiến nó không thể triển nở. Mùa vọng là thời gian mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Nghĩa là từng hành động của mình trong cuộc sống phải được ý thức cách sâu sắc. Nhưng ý thức và suy nghĩ theo tiêu chuẩn nào? Tiên tri Isaia nói rõ trong bài đọc I: Chính Chúa Giêsu là ánh sáng mà Thiên Chúa gởi đến để soi đường dẫn lối cho nhân loại, để những ai biết chạy đến với Ngài thì sẽ được sống trong nước thái bình, hạnh phúc.

Nhưng con người vốn hay quên sót và dễ bị ru ngũ bởi những cám dỗ, những đam mê đầy hấp dẫn của cuộc sống. Chúng ta thường để cho sự hưởng thụ tầm thường làm mờ mắt mà không thể nhìn thấy những giá trị thiêng liêng, cao thượng khác từ Thiên Chúa. Bài học của dân chúng thời ông Noe được Chúa Giêsu nhằc lại như một kinh nghiệm hết sức thực tế đáng để chúng ta suy nghĩ. Vì chưng, lối sống chỉ lo ăn uống hưởng thụ của họ cũng chính là lối sống mà mỗi người chúng ta đang theo đuổi, tìm kiếm mỗi ngày. Chính lối sống hưởng thụ cách vô độ đã ru ngủ và làm cho chúng ta quên mất mục đích và ý nghĩa của chúng ta nơi trần gian tạm bợ này.

Chúa Giêsu nhắc nhở và cảnh tỉnh chúng ta chớ nên bám víu vào những giá trị của trần gian này như mục đích cuối cùng. Vì nếu chúng ta có đủ tỉnh thức để suy xét thì cuộc sống này chỉ là tạm bợ và chóng qua. Vì ai cũng biết rằng có một chân lý, một sự thật không thể chối cải được là tôi sẽ phải chết. Nhưng không vì thế mà chúng ta có thái độ, suy nghĩ bi quan, khinh thường hay được phép bê tha cuộc sống đời này. Vì cuộc sống đằng sau cái chết của ta được xây dựng từ chính cuộc sống hôm nay, bắt đầu từ trần gian này. Vì thế có thể nói mức độ cao nhất của việc tỉnh thức là suy nghĩ về cái chết của mình. Chính thái độ đó sẽ chi phối toàn bộ cuộc đời của tôi. Như một triết gia nào đó đã nói: “Hãy sống như ngày mai bạn sẽ chết, nhưng hãy hành động như mình bất tử”. Nếu chúng ta biết được ngày nào mình chết chắc chắn chúng ta sẽ sống tốt hơn. Nhưng thông thường chúng ta hay phất lờ hay không muốn để ý hoặc trốn tránh sự thật này.

Tỉnh thức là nhìn cuộc sống với giá trị thật cuả nó, không trốn tránh nhưng đối mặt và chấp nhận nó. Vì có trốn tránh hay không thì chúng ta vẫn phải chết. Điều quan trong ở đây không phải là trốn tránh nhưng là làm sao cho cuộc sống mình có ý nghĩa và đáng sống hơn. Vì cái chết không dẫn chúng ta vào cỏi hư mất muôn đời nhưng là dẫn vào sự sống vĩnh cữu. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức để mỗi hành động, lời nói của chúng ta trong đời thường sẽ tồn tại vĩnh cữu và chúng sẽ theo ta vào Vương quốc vĩnh cữu của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian này và đã sống trọn phận con người. Ơ đó, Chúa cũng đã nếm biết mùi vị của những đau khổ, hạnh phúc và nước mắt của kiếp người, xin cho chúng con nhận ra những vất vả, đau khổ trong cuộc sống này là những cơ hội để chúng con bước vào cuộc sống đời sau. Xin Chúa cũng cho chúng conbiết luôn tỉnh thức để có thể nhận ra được nhưng vẻ đẹp và sự hấp dẫn của đời này không ngăn cản bước chân con tiến về bên Chúa, mà cho chúng con luôn biết tìm đường lên trời bằng cuộc sống yêu thương, tận hiến. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con mọi người nhận ra Chúa và Nước vĩnh cữu của Chúa đang tỏa hiện.

Lm Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

Chúa Nhật II Mùa Vọng A

CANH TÂN ĐỜI SỐNG

Mt 3, 1 - 12

Cũng như con người cần tắm rửa mỗi ngày để giữ cho thân xác được sạch sẽ và mát mẻ thế nào, thì họ cũng cần thiết phải sám hối và hoán cải để làm tươi trẻ tâm hồn của mình như vậy. Sám hối là hành động chỉ có ở nơi con người. Con người cần sám hối mỗi ngày để trở người hơn. Vì thế, ai không biết ăn năn, sám hối thì có thể nói, họ chưa là con người theo đúng nghĩa của nó; hoặc họ chưa trưởng thành dù tóc trên đầu của họ đã bạc màu theo thời gian. Nhưng sám hối thật sự và đúng nghĩa thì phải đi đến hoán cải. Sám hối mà không hoán cải thì trở nên giả hình, ảo tưởng và vô ích. Sám hối khi đó trở thành sáo ngữ và một tiếng kêu vô hồn.

1.       Sám hối và hoán cải là lời mời gọi của Tin Mừng

Tin mừng hôm nay nói về việc Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ của ông. Khởi đầu sứ vụ của mình, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”.

Theo nguyên ngữ, thống hối được dịch từ nguyên ngữ “metanoia”, có nghĩa là “thay đổi ý kiến, hối tiếc ăn năn, hối cải”. Trong Cựu Ước, sám hối là quay về với Thiên Chúa chân thật và từ bỏ tà thần hay các thần ngoại bang. Còn trong Tân Ước, sám hối mang một ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là việc biến đổi từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn bằng một quyết tâm thay đổi toàn diện và được biểu lộ ra cách rõ ràng trong cuộc sống. Câu chuyện về sự biến đổi của Da-kêu là điển hình rõ nét nhất cho vấn đề này.

Những người đến với Gioan Tẩy Giả ngày xưa có thể nói, có rất nhiều những tâm hồn thiện chí, muốn sám hối về những lầm lỗi của họ. Họ can đảm nhìn nhận mình có lỗi và tha thiết muốn được Gioan Tẩy Giả chỉ cho biết cách thức để làm lại cuộc đời. Và thánh nhân đã không ngần ngại chỉ cho họ biết con đường ăn năn sám hối bằng những hành động rất cụ thể. Chúng ta thấy rõ được điều đó trong Tin mừng của thánh Luca. “Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây? " Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy."Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? "Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? " Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."

Sám hối thật sự là đi đến việc hoán cải và có những hành động cụ thể như thế đó.

Như vậy, chúng ta cũng nhận ra một điều rất cơ bản này nữa là: muốn sám hối và hoán cải thì phải nhìn nhận mình có lỗi, phải nhận ra mình còn nhiều thiếu sót trong cuộc sống này. Khi đó, ta mới cần sám hối và ăn năn. Đức Giáo hoàng Piô 12 đã nói như sau: tội lỗi lớn nhất của con người trong thời đại này không phải là tội này hay tội kia, mà chính là sự mất cảm thức về tội. Phải, khi con người mất cảm thức về tội, thì con người không còn nhận ra đâu là chân lý và đâu là sai lầm của họ nữa. Họ phạm nhiều tội lỗi tày trời mà vẫn cảm thấy lương tâm bình an và thư thái vô cùng. Sự mất cảm thức về tội có thể còn là không nhận thấy mình có tội mà chỉ thấy tội lỗi nơi người khác mà thôi. Đó chính là thái độ của những người Pharisêu mà Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án và cảnh tỉnh họ. Chính Gioan Tẩy Giả hôm nay cũng gọi họ là nòi rắn độc khi thấy họ đến với ông. Bởi lẽ, họ đến với ông không phải để thú nhận tội lỗi hay mong đợi được ông chỉ dạy cho con đường sám hối mà là để dò xét.

Chúng ta cũng cần phải tuyệt đối tránh thái độ mất cảm thức về tội hay thái độ dò xét người khác như thế. Khi đoán xét người khác, chúng ta thấy mình hoàn toàn sạch tội và tự hào, tự phụ. Chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận rằng: không ai là hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa cả.

Có nhiều người đến toà giải tội, nhưng không xưng thú tội của mình là là xưng tội của người khác. Chẳng hạn: thưa cha, chồng con nó bê bối quá trời cha ơi, nhậu nhẹt tối ngày, lại còn về nhà đánh đập vợ con; hay cha ơi, người hàng xóm của con sao mà tham lam quá, lại còn hỗn hào nữa . . . Họ không thấy mình có tội gì hết, chỉ thấy người khác có tội thôi.

Gioan Tẩy Giả hôm nay cũng nói cho chúng ta biết ràng: chúng ta đừng cậy dựa vào thành tích của mình hay của cha ông mình mà tiếp tục sống phóng đãng và tội lỗi. Vì Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào đó mà xét xử chúng ta đâu. Đừng nghĩ rằng mình là con cháu Abraham; cũng đừng nghĩ rằng mình có luật Môsê rồi. Và chúng ta cũng đừng nghĩ rằng: tôi là đạo gốc, tôi đi lễ mỗi ngày, tôi làm được rất nhiều việc từ thiện, bác ái . . . Không. Tất cả chỉ là những tiếng kêu rỗng tuếch trước mặt Thiên Chúa nếu chúng ta không sám hối và xét mình mỗi ngày. Đừng để cho những thành tích của chúng ta ru ngủ và lừa gạt chúng ta. Hãy ăn năn sám hối và hết lòng cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa.

Bí tích Rửa tội mà mỗi người tín hữu lãnh nhận là một lời mời gọi và là một cam kết rằng: phải nhất quyết từ bỏ tội lỗi và hướng về Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng lời mời gọi và cam kết đó không phải chỉ quyết định một lần cho cả đời, mà là một quá trình quay về liên lỉ. Chúa cũng không kêu gọi chúng ta một lần rồi thôi, nhưng Ngài kêu gọi chúng ta liên tục để bước theo Ngài và đi trong đường lối của Ngài. Hãy lắng nghe và suy gẫm lời nói của Gioan Tẩy Giả : “Tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”.

2. Cần phải sám hối thường xuyên và liên tục.

Lịch sử của dân Israel là một bài học quí báu cho chúng ta về việc sám hối. Dù là tuyển dân, nhưng Israel đã phản bội với giao ước và lỗi phạm với Thiên Chúa của họ liên tục. Và cứ mỗi lần lỗi phạm, Chúa lại sửa dạy họ qua biến cố này hay biến cố nọ. Rồi khi họ nhân ra tội lỗi của mình, thì Chúa tha thứ cho họ. Và điệp khúc ấy đã diễn đi diễn lại không biết bao nhiêu lần trong Kinh Thánh.

Lịch sử của Israel cũng chính là lịch sử của chính mỗi người chúng ta. Chúng ta thấy rằng: con người chúng ta rất mỏng dòn, yếu đuối, tham lam, ích kỷ . . . nên rất cần sự ăn năn, hoán cải thường xuyên. Sám hối là một đòi hỏi và là một bổn phận chính yếu mà những người con cái Chúa phải cố gắng chu toàn suốt đời và không bao giờ có thể nói được là đã hoàn thành.

Sám hối là để đi đến biến đổi và hoán cải. Sau một lỗi phạm, một vấp ngã là một quyết tâm sửa đổi và đứng lên để làm lại. Có thể nói, sám hối là niềm vui và niềm hy vọng của chúng ta. Vì khi biết sám hối và hoán cải, chúng ta thấy tâm hồn mình được bình an và tràn đầy sức sống để có thể can đảm dấn thân và tiến bước trên con đường theo Chúa.

Lm Carôlô Đặng Đăng Nguyên

 

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

THƯƠNG VIẾNG KẺ LIỆT

Qua Phúc Âm của Thánh Gio-an người ta vẫn nói, phép lạ đầu tiên Chúa làm là phép lạ ở tiệc cưới tại Ca-na, nhưng nếu đọc Phúc Âm nhất lãm, chúng ta thấy rằng, Lu-ca và Mác-cô đều nêu phép lạ đầu tiên Chúa Giê-su làm là phép lạ chữa lành người bị quỷ ám và chữa lành nhạc mẫu của ông Phê-rô (x.Mc 1,21-31 và Lc 4,31-39). Còn Mát-thêu lần đầu tiên nhắc đến việc Chúa làm phép lạ qua câu: “Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (4,23). Nếu chúng ta đọc lại bốn Tin Mừng, thì Chúa Giê-su luôn chú ý đến những người bệnh và Ngài sẵn sàng nâng đỡ và chữa lành cho họ. Qua đó, Chúa Giê-su được coi là người thầy thuốc tốt lành. Đối với các tông đồ, Chúa Giê-su cũng mong muốn các ông sống tinh thần viếng kẻ liệt, chữa lành người đau yếu.

“Nhóm Mười Hai được sai đi để chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1). Chữa lành là một chiều kích quan trọng của sứ mạng tông đồ và Đức Tin Ki-tô giáo nói chung. Eugen Biser còn đi xa hơn khi gọi Ki-tô giáo là “tôn giáo chữa bệnh”, một tôn giáo chữa lành. Một cách nào đó, điều này diễn đạt nội dung của “cứu độ”…. Trong những phép lạ chữa lành do Chúa và nhóm Mười Hai thực hiện, Thiên Chúa bày tỏ quyền năng nhân từ của Người trên thế gian. Những phép lạ này là “những dấu chỉ” thực thụ hướng đến chính Thiên Chúa, và giúp đưa con người vào trong chuyển động hướng tới Thiên Chúa.[1]

Cùng với Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài, tín hữu được mời gọi chú ý đến những người đau yếu, những bệnh nhân đang cần đến sự quan tâm và yêu thương không chỉ của Thầy Thuốc, Bác Sĩ và Y Tá, mà còn cần đến những người xung quanh, nhất là những người gần gũi trong gia đình, họ hàng, làng xóm…Trên hết, tinh thần viếng thăm và chú ý đến người đau yếu được Chúa Giê-su nhắc nhớ chúng ta, vì chính Chúa đang hiện diện sống động trong những người đau yếu. Nói khác đi, họ chính là hiện thân của Chúa Giê-su: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Khi thánh Rôsa thành Lima bị mẹ trách vì đã đem những kẻ nghèo, những bệnh nhân vào nhà, thánh nữ trả lời: “Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em”.[2]

Nhưng thăm viếng bệnh nhân như thế nào? Ở đây, không bàn đến khía cạnh chuyên môn trong lãnh vực y tế với cách chữa bệnh và cách giao tiếp với bệnh nhân, nhưng xin được có cái nhìn đơn sơ qua chính hình ảnh của Chúa Giê-su. Đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su với mẹ vợ của Si-môn (thánh Phê-rô) trong Phúc Âm thánh Mác-cô với ba câu ngắn gọn: “Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). Câu chuyện nói rằng, ngay lúc Chúa đến thì mẹ vợ của Si-môn đang ngã bệnh. Ở đây, Mác-cô diễn tả rằng, lập tức người ta nói cho Chúa biết tình trạng của bà đang bị bệnh nằm trên giường, không thể dậy để đón tiếp Chúa và mọi người được. Chúa Giê-su đã phản ứng thế nào? Chúa có nghe lời của người ta nói về tình trạng đau yếu của mẹ vợ Si-môn đang bệnh không? Mác-cô nói tiếp, Chúa lại gần bà. Thái độ lại gần của Chúa chứng minh điều, Chúa đã nghe rất rõ lời người ta nói, và Ngài còn nghe bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Vì thế, trái tim lắng nghe đã thúc đẩy Chúa lại gần, Chúa cất bước đến với người đau yếu, và lại gần họ. Người bệnh rất nhạy cảm với thái độ và cách hành xử của người thăm viếng. Đến thăm người bệnh mà ở xa xa để nhìn thì việc viếng thăm đó chỉ mang chút xã giao bên ngoài, chỉ là một ánh mắt nhìn đến với một chút tội nghiệp, nhưng trái tim thì chưa rung động thật sự, chưa mang một giao động của tình yêu. Chúa đã đến gần bà mẹ vợ của Si-môn, và tại giường bà, Chúa đã đưa tay ra cầm lấy tay bà. Người bệnh luôn cảm thấy một sự cảm thông, một sự ủi an, khi được người thăm viếng nắm lấy đôi tay. Một cuộc gặp gỡ thật sự của thân xác tràn đầy ủi an, cảm thông và nâng đỡ. Khi cầm lấy tay bà, Chúa đã đỡ bà dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa đang vực con người yếu đau dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa không bao giờ muốn con người cứ thế mà nằm trên giường, do bởi cơn bệnh nặng đang chế ngự. Con người đau yếu và tội lỗi cần được tiếp tục đứng dậy. Đức Ki-tô, Đấng mặc lấy thân phận của con người, chính Ngài sẽ vượt qua sự chết để trỗi dậy mãi mãi, sẽ làm cho con người được trỗi dậy với Ngài.

 

Trở về với hình ảnh người ta nói với Chúa về người bệnh, và Chúa đã lắng nghe. Đó là một điều thật căn bản cho việc thăm viếng bệnh nhân. Trong những trường hợp đó, người bệnh ao ước được lắng nghe, được thấu hiểu và được cảm thông. Trong căn bản, người bệnh luôn tìm sự ủi an qua việc người khác lắng nghe họ: “Xin hãy lắng nghe lời tôi nói, và như thế đã là yên ủi tôi” (Gióp 21,2).[3] Ngược lại, đi thăm người bệnh mà chỉ nói về chuyện của mình, hơn nữa lại còn ngồi lê mách lẻo với bệnh nhân chuyện của người khác, thì chỉ làm cho người bệnh thêm mệt. Như thế, thì việc thăm viếng đó đánh mất đi hoàn toàn ý nghĩa và giá trị của nó. Vì thế, khi đi thăm viếng người bệnh và đau yếu, cần phải ra khỏi chính mình, và ra khỏi chính tính tình và thói quen tiêu cực của bản thân, để mở lòng ra với người bệnh, để chú ý hoàn toàn đến họ, để cho họ có được một chỗ trong tâm hồn, trong ngôi nhà của mình. Lắng nghe, nghĩa là để cho người khác hiện diện. Lắng nghe người bệnh là đón nhận họ, dọn cho họ một chỗ và không bao giờ lấy mất đi không gian của họ. Lắng nghe với trái tim cảm thông là thái độ ủi an sâu thẳm đối với người bệnh và yếu đau. Đôi khi chỉ cần lặng thinh, nắm tay người bệnh và nhìn họ với tấm lòng cảm thông tràn đầy yêu thương, thì đã đưa lại món quà cao quý cho người bệnh rồi. Đừng vội nói. Cần chấm dứt thói quen nói cho đã. Người ta không thể đồng hành với người bệnh, nếu người ta không bước vào trường học lắng nghe.[4] Cũng thế, người ta không thể cảm thông được với người tù tội, nếu không thinh lặng lắng nghe họ, lắng nghe với trái tim yêu thương (Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ. - Nguồn : dongten.net)

---------------------------

[1] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.212-214.

[2] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2449.

[3] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, Édetions Parole et Silence, Genève 2003,  t.67-68.

[4] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, t.68-70.

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

TRUYỀN GIÁO: DỄ HAY KHÓ?

Trên bước đường loan báo Tin Mừng, tôi thường bắt gặp một số người có lòng khát khao đi truyền giáo nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu, truyền giáo như thế nào. Vì lẽ đó, trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ một chút kinh nghiệm bé nhỏ của bản thân cho những ai ước ao lao tác trên cánh đồng của Chúa với ước mong chúng ta trở thành những cộng sự đắc lực của Chúa Thánh Thần và của nhau.

Trước tiên, tôi thiết tưởng người khát khao làm việc truyền giáo đã có sự chuẩn bị tốt nhất về mặt nội tâm, hay còn gọi là đời sống thiêng liêng, hoặc nói theo kiểu ở đời là sự đối nội vững chắc. Nghĩa là, người truyền giáo, tự bản thân, là người có đời sống cầu nguyện chuyên cần, gắn bó với Lời Chúa, nhạy bén với thánh ý Thiên Chúa, tình bạn thân thiết với Chúa Kitô, cộng tác với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, yêu mến chinh phục các linh hồn về với Chúa và để họ trở thành chiến sĩ của Chúa Kitô, v.v..

Bên cạnh chiều kích đối nội như thế, người truyền giáo nên thủ đắc một số kỹ năng cơ bản, tạm gọi là kỹ năng đối ngoại hoặc phương thức truyền giáo. Với kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân, tôi xin phép chia sẻ “năm kỹ năng cơ bản trong ơn gọi truyền giáo” hay “năm bước truyền giáo” như sau:

1.       Thiết lập và phát triển tình bạn giữa tôi và đối tượng cần được truyền giáo

Nhiều người khi vừa đặt chân đến mảnh đất truyền giáo đã vội vàng lo ngại về sự khiếm khuyết ngôn ngữ bản địa của bản thân. Thực tế, có một thứ ngôn ngữ mà mọi người trên thế giới này đều có thể hiểu và câu thông với nhau, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Khi bạn có tình yêu chân thực dành cho người bản địa, hầu chắc bạn có thể dễ dàng kết bạn với họ. Vì lẽ đó, người truyền giáo không nên e ngại về ngôn ngữ câu thông, nhưng nên khôn ngoan thiết lập mối tương quan tình bạn với bà con đang cần được nghe biết Tin Mừng. Tất nhiên, việc thông thạo ngôn ngữ và văn hóa của người bản địa là điều cần thiết, nhưng không phải là điều kiện tiên quyết để truyền giáo. Một lần nữa, chúng ta nên nhớ rằng bước đầu tiên của việc truyền giáo là thiết lập Tình Bạn, chứ không phải là nói về Chúa cho “dân ngoại” nghe ngay tức khắc. Nếu vừa gặp bà con đã vội vàng giới thiệu Chúa cho họ, thì e rằng hành động ấy sẽ khiến cánh cửa tâm hồn của bà con cũng vội vàng khép kín. Như thế, việc truyền giáo vô tình bị chặn đứng bởi chính người truyền giáo, chứ không phải bởi người bắt hại Đạo. Nói cách khác, một khi cánh cửa tâm hồn của người cần được nghe biết Tin Mừng bị đóng chặt, thì khó lòng khiến nó mở ra. Do đó, việc thiết lập tình bạn rất quan trọng và là nhịp cầu giúp chúng ta khởi sự việc truyền giáo. Thế nhưng, làm thế nào để thiết lập tình bạn, và giai đoạn này cần bao nhiêu thời gian? Thiết lập tình bạn tùy thuộc vào kỹ năng và phong thái riêng của mỗi người. Nếu bạn tiếp xúc với một người mới gặp, bạn tạo nên một không gian cởi mở, vui vẻ, thân thiện, chân thành…, thì khả năng kết bạn trở nên dễ dàng hơn. Bạn cũng không nên quá vồn vã khi vừa mới quen biết người khác và môi trường khác. Cần kiên nhẫn và quan sát. Cần tìm hiểu văn hóa và thói quen của đối phương. Có khi bạn chỉ cần hai hoặc ba lần gặp gỡ là có thể trở nên thân quen với người mới. Nhưng có khi bạn tốn khoảng một vài tháng mới có thể thân thuộc với đối tượng cần được kết bạn. Nói chung, kiên nhẫn và hài hòa là hai điều cần thiết trong việc thiết lập tình bạn. Thiết lập được tình bạn rồi, bạn cần xây dựng một mối tương quan đáng tin cậy cho người bạn của mình. Đây là bước thứ hai.

2.       Xây dựng lòng tin qua việc chia sẻ cuộc sống của nhau.

Để có thể mở cửa tâm hồn của người bạn mới, bạn cần gõ cửa tâm hồn của họ trước. Để gõ cửa tâm hồn của họ, bạn cần xây dựng lòng tin tưởng. Nghĩa là, bạn hãy chứng minh cho họ thấy bạn là người đáng tin cậy, là chỗ dựa tinh thần của họ. Như thế, công việc bạn cần làm để xây dựng lòng tin chính là sự quan tâm của bạn dành cho họ. Bạn nên biết họ đang cần gì, họ thiếu thốn điều gì, gia đình và hoàn cảnh sống của họ ra sao, con cái họ ăn học thế nào, công việc mưu sinh của họ có bảo đảm không, sức khỏe của họ có ổn định không, v.v.. Có thể bạn không giúp họ các trực tiếp, nhưng bạn có thể làm trung gian giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn, san sẻ tất cả những gì bạn có với mọi khả năng của bạn. Làm được điều này, bạn đang xây dựng lòng tin với họ cách vững chắc, bền lâu… như một câu ngạn ngữ của nước ngoài diễn tả về tình bạn: “Một người bạn đích thực là một người luôn có mặt trong những nhu cầu của bạn mình” (A friend in needs is a friend indeed). Một khi họ tin tưởng bạn, bạn có thể gõ cửa tâm hồn của họ và họ sẵn sàng mở cửa để bạn bước vào mảnh đất thánh của con người họ.

3.       Đối thoại đức tin

Khi tình bạn trở nên tin tưởng và gần gũi, việc đối thoại đức tin ắt sẽ diễn ra cách tự nhiên. Dù bạn của bạn là một người chưa theo tôn giáo nào, hoặc đã là Phật tử, hoặc đã theo đạo Tin Lành…, thì việc đối thoại đức tin cũng sẽ rất cởi mở, một khi đã có một tình bạn chân thành với nhau. Tôi xin đưa ra một dẫn chứng cụ thể để minh họa cho việc đối thoại này. Một ngày nọ, bạn đến thăm người bạn mới quen thân. Người này mời bạn dùng bữa cơm gia đình. Trước khi ăn cơm, bạn làm dấu thánh giá và âm thầm cầu nguyện, thậm chí khá sốt sắng cầu nguyện, người kia hầu chắc sẽ chú ý hành động kỳ lạ của bạn. Cứ tự nhiên, họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn về ý nghĩa của hành động ấy. Khi bạn giải thích cho họ nghe về niềm tin của bạn trong việc bày tỏ thái độ biết ơn với Đấng đã ban cho bạn có hạt gạo như một hạt ngọc làm lương thực nuôi sống thân xác bạn, khi đó bạn đang thực hành bước thứ ba này là đối thoại đức tin. Có thể họ sẽ hỏi bạn nhiều điều về niềm tin của bạn. Có thể họ không hỏi nhiều, không chú ý về hành vi cầu nguyện trước bữa ăn của bạn. Tuy thế, bạn cứ kiên nhẫn, rồi họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn nhiều điều khi bạn duy trì bước thứ hai trong mối tương quan tình bạn, khi bạn luôn sống tốt, sống Lời Chúa giữa mối tương quan này. Mặt khác, nếu họ không thắc mắc gì về đức tin của bạn, thì bạn nên chủ động thắc mắc về đức tin của họ. Sự thắc mắc của bạn chính là khởi điểm của việc đối thoại đức tin. Khi sự đối thoại đức tin ngày một sâu rộng và hài hòa, bạn có thể nghĩ đến giai đoạn thứ tư của việc truyền giáo.

4.       Mời gọi cùng nhau cầu nguyện và tìm hiểu đức tin của nhau

Bạn có thể kết thúc việc đối thoại đức tin bằng lời mời gọi người bạn của mình tham gia một giờ cầu nguyện của bạn, hoặc của một nhóm bạn nào đó, hoặc tham dự Thánh Lễ, hoặc tham dự một dịp đại lễ của Đạo Công Giáo. Lúc này không còn một mình bạn là người truyền giáo nữa, mà là một cộng đoàn, là cả Giáo Hội đang cùng bạn truyền giáo, giới thiệu Chúa cho người bạn mới đến. Phần bạn, bạn hãy xin Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ trên người anh em này để họ có thể chia sẻ đức tin của họ và tìm hiểu đức tin của bạn. Nếu họ là người chưa đi theo tôn giáo nào, bạn có thể mời họ đến cộng đoàn cầu nguyện thường xuyên, hoặc gia tăng đối thoại đức tin với họ, để có thể tiến tới giai đoạn cao trào của việc truyền giáo, giai đoạn thứ năm.

5.       Chào mừng gia nhập Hội Thánh qua các Bí tích Khai tâm Kitô giáo

Đây là bước cuối cùng của sứ mạng truyền giáo, là hoa trái của quá trình truyền giáo, là giai đoạn chuẩn bị cho người bạn của mình gia nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa. Như thế, bạn nên có những người cộng tác nhiệt thành, những cộng tác viên trong việc giảng dạy Giáo lý, để bàn giao công việc này cho họ. Nhờ đó, bạn có thời giờ để tiếp tục lên đường tiến tới những biên cương mới, gặp gỡ những người bạn mới, nhưng cũng không quên dành thời gian đồng hành với những người mới biết Chúa và quan tâm tới sự trưởng thành trong đời sống đức tin của họ, củng cố đức tin cho họ vào những dịp thuận tiện.

Tóm lại, truyền giáo không dễ và cũng chẳng khó. Khó hay dễ là tùy thuộc vào bản thân của bạn. Bạn đã chuẩn bị kỹ lưỡng những hành trang cần thiết để lên đường hay chưa, như con người của Mẹ Maria được diễn tả trong trình thuật Truyền Tin và thăm viếng bà Isave (Lc 1:26-56) – mẫu gương của người truyền giáo sống động – luôn biết lắng nghe và suy đi nghĩ lại Lời Chúa, được tràn đầy Thánh Thần, mau mắn thi hành ý Chúa, sống đơn giản và lẹ làng lên đường đem Chúa đến với người khác. Nói cách khác, để chuẩn bị lên đường truyền giáo và trở thành một người thợ lành nghề trên cánh đồng truyền giáo, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần có một đời sống nội tâm trưởng thành và lành mạnh, một đời sống cầu nguyện chuyên cần, không cậy dựa vào sức riêng nhưng bám vào Chúa và để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, kinh nghiệm thâm sâu về Đức Kitô, học hỏi và tuân thủ các kỹ năng truyền giáo để có thể giới thiệu Chúa cho những người bạn chưa bao giờ nghe biết Tin Mừng. Đây chính là phong thái cần có của người truyền giáo và là điều kiện cũng như phương tiện giúp chúng ta lao tác trên cánh đồng của Chúa mà không e ngại thành công hay thất bại, vì chúng ta chỉ là cộng tác viên của Chúa Thánh Thần, là khí cụ để Thiên Chúa dùng phục vụ cho thánh ý của Người, là người tiếp nối sứ vụ còn dang dở của Chúa Giêsu. Do đó, không có thành công hay thất bại trong việc truyền giáo, chỉ có lòng tín thác và kinh nghiệm của Chúa khi lao tác trên cánh đồng truyền giáo mà thôi.

 

LỜI NGUYỆN CỦA NGƯỜI TRUYỀN GIÁO

Lạy Chúa Giêsu, khi xưa Chúa phán rằng “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2). Giờ đây, chúng con đặt mình trước Chúa, xin Chúa hãy sai chúng con đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa.

Để chúng con không cậy dựa vào sức riêng của mình, xin Thánh Thần của Chúa dạy chúng con cầu nguyện, giúp chúng con thấm nhuần Lời Chúa, biết kín múc Lời Hằng Sống của Chúa làm nguồn thần lương nuôi sống linh hồn chúng con, làm nguồn thần lực giúp chúng con nương tựa nơi Ngài để ra đi rao giảng Tin Mừng, giúp chúng con có đủ sức mạnh và tình yêu dành cho Chúa để chúng con làm việc không tìm nghỉ ngơi, để chúng con truyền giáo với tâm hồn quảng đại, với tình yêu dâng hiến, với sự hy sinh quên mình.

Lạy Chúa Giêsu, khi nào chúng con tính toán hơn thiệt, hèn nhát, không dám lên đường truyền giáo, thì xin Chúa hãy nhắc nhớ chúng con rằng chúng con đang quên Chúa, đang lười biếng cầu nguyện, đang dựa vào sức riêng của bản thân, đang thiếu tình yêu dành cho Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, khi nào chúng con chia rẽ, xung đột, chán nản…, thì xin Chúa hãy nhắc nhớ chúng con rằng chúng con đang thiếu cầu nguyện, đang hành động và suy nghĩ theo xác thịt, chứ không phải theo Thần Khí.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con khát khao được cộng tác với Chúa, tiếp nối công trình tái tạo và cứu chuộc còn dang dở của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con hăng say cầu nguyện và kết hiệp với Chúa như gương của Mẹ Maria, để chúng con nhiệt thành lên đường đến với lương dân, vì chúng con sẽ trở nên những kẻ vô dụng và khốn khổ nếu chúng con ngại ngùng lên đường truyền giáo, như Thánh Phaolô đã từng thổ lộ: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9:16) và “Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!” (Rm 10:15).

Xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng con trên bước đường truyền giáo như Mẹ đã từng đồng hành với Chúa Giêsu khi xưa vậy. Amen.

 Giuse BCD

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Ngồi Buồn  Nhớ Mẹ Ta Xưa

 Bần thần hương huệ thơm đêm

khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn

chân nhang lấm láp, tro tàn

xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào

nón mê thay nón quai thao đội đầu

rối ren tay bí tay bầu

váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa...

Cái cò... sung chát đào chua

câu ca mẹ hát gió đưa về trời

ta đi trọn kiếp con người

cũng không đi hết những lời mẹ ru

Bao giờ cho đến mùa thu

trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm

bao giờ cho tới tháng năm

mẹ ta trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm

bờ ao đom đóm chập chờn

trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời

sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn

bà ru mẹ... mẹ ru con

liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm

lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa

ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.

NGUYỄN DUY

1432    10-11-2016 06:45:10