Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Nguyệt san tháng 12/2016: Thiên Chúa hằng thương xót người nghèo và những người dễ bị tổn thương trong xã hội

LỜI  CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

LỜI NGUYỆN CHUNG

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TRANG GIA ĐÌNH

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

SỐNG LỜI CHÚA

NĂM MỤC VỤ GIA ĐÌNH 2017

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

 

 

LỜI  CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.11.2016

Kính gửi: Quý Cha

            Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót nơi thánh nữ Faustina Kowalska. Tháng nầy, tôi đề cập chủ đề Giáo Hội cần phải làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Kitô (Thông điệp Dives in Misericordia số 13-15).

- Giáo hội phải tuyên xưng và công bố tất cả chân lý về lòng Thiên Chúa thương xót, giống như mạc khải đã chứng thực với chúng ta. Chân lý về lòng thương xót đó được tìm thấy trong Thánh Kinh và Truyền thống. Dĩ nhiên Thánh Kinh nói nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, và Truyền thống đạo đức của tín hữu cũng chứng minh vấn đề nầy rất nhiều. Có nhiều thần học gia quả quyết rằng lòng thương xót là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Giáo Hội tuyên xưng và công bố lòng thương xót của Thiên Chúa là ưu phẩm kỳ diệu nhất của Đấng Tạo Hoá và của Đấng Cứu chuộc khi Giáo Hội đem người Kitô hữu về gần với nguồn mạch lòng thương xót của Đấng Cứu chuộc. Cách quan trọng đặc biệt trong lãnh vực nầy là ý thức và suy nghĩ việc tham dự Thánh Thể và Bí Tích Thống hối (hay Hoà giải).

- Giáo Hội cố gắng thực thi lòng thương xót Chúa. Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta rằng con người không những nhận và kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, mà còn được kêu gọi “có hành động thương xót” đối với kẻ khác : “Phúc cho những ai biết thương xót, vì  họ sẽ được thương xót” (Mt 5, 7). Thương yêu mọi người trường kỳ và quyết định, có tính dịu dàng. Đặc biệt là sự tha thứ. Sự tha thứ chứng thực rằng trong thế giới tình thương mạnh hơn tội lỗi. Giáo Hội có bổn phận công bố và đưa vào trong đời sống mầu nhiệm lòng thương xót đã được mạc khải ở trình độ cao nhất nơi Đức Giêsu Kitô. Mầu nhiệm lòng thương xót hàm chứa sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của mình: “Xin Cha hãy tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6, 12).

Lòng thương xót thật cần thiết, nhất là giữa những kẻ gần gũi nhau hơn cả, giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa bạn bè; nó cần thiết trong việc giáo dục và trong mục vụ, trong các lãnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị.

Thế giới ngày nay càng đánh mất ý nghĩa lòng thương xót vì nhiều lý do khác nhau, thì Giáo Hội càng có quyền và nghĩa vụ kêu gọi tới Thiên Chúa của lòng thương xót trong lời cầu nguyện thành khẩn của mình.

Tất cả mọi người chúng ta là thành phần của Giáo Hội, chúng ta cũng có bổn phận công bố, cầu nguyện và sống lòng thương xót của Chúa giữa lòng xã hội mà chúng ta đang sống. Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện được những điều đó.

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 12/2016

Thiên Chúa Hằng Thương Xót Những Người Nghèo Và Những Người Dễ Bị Tổn Thương Trong Xã Hội

Chúng ta sắp đi đến kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót, nhưng lại chỉ mới bắt đầu thời đại, mà Năm Thánh như một khởi động đà tiến của công cuộc Loan báo Tin Mừng mới, trong đó Hội thánh thường xuyên “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót được tỏ hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô”[1] để từ đó Hội thánh sống, làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa hầu có thể chạm “đến trái tim của con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha”[2].

 1. Thiên Chúa đoái thương nhìn đến những con người dễ bị tổn thương nhất

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta trong Ngày Thế giới Truyền giáo 23 tháng 10 vừa qua rằng:

Hội thánh “được trao cho nhiệm vụ công bố Lòng Thương Xót của Thiên Chúa với một trái tim đang bồi hồi vì Tin Mừng”[3] và để công bố Lòng Thương Xót của Thiên Chúa tới mọi hang cùng ngõ hẻm của thế giới, và để đem Lòng Thương Xót ấy đến với hết thảy mọi người, bất kể là già hay trẻ.

Khi Lòng Thương Xót chạm đến một người, nó đem lại niềm vui mừng khôn tả nơi tâm hồn của Chúa Cha; bởi vì ngay từ lúc khởi đầu, Thiên Chúa Cha đã đoái thương nhìn đến những con người dễ bị tổn thương nhất, bởi vì sự vĩ đại và uy quyền của Ngài được tỏ lộ chính xác bằng việc đồng cảm với những người trẻ, những người chịu thiệt thòi cũng như những người bị áp bức (Đnl 4,31; Tv 86,15; Tv 103, 8; Tv 111, 4). Ngài là Đấng nhân lành, luôn luôn quan tâm chăm sóc và là một Thiên Chúa trung tín – Đấng luôn luôn gần gũi với những kẻ thiếu thốn, đặc biệt là những người nghèo khổ; Ngài đã cụ thể hóa tình yêu ấy nơi thực tế của con người cũng giống như một người cha người mẹ làm đối với con cái của mình (Gr 31, 20)”[4].

 2. Hội thánh truyền giáo là hình ảnh của Dung mạo Lòng Thương Xót

Đức Thánh Cha Phanxicô gợi ý: Hãy cởi mở tâm hồn đối với những anh chị em sống bên lề cuộc đời, biết cảm thương, mang lại ủi an, liên đới và quan tâm đến những người đang sống trong những tình trạng bấp bênh, đau khổ trong thế giới ngày nay. Đàng khác, Đức Thánh Cha nhấn mạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu là: mang lại an ủi cho người nghèo, trả lại phẩm giá cho người bị tước mất, nhất là các trẻ em không được trợ giúp cần thiết để thoát khỏi cảnh nghèo. Ngài trích lời của thánh Gioan Thánh Giá: “Vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái”. Chúng ta hãy khám phá lại những công việc của Lòng Thương Xót đối với thân xác: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết, chuộc kẻ làm tôi. Và chúng ta cũng đừng quên những công việc của Lòng Thương Xót đối với linh hồn: lấy lời lành mà khuyên người, dạy dỗ kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Những gì chúng ta làm cho một trong những anh em bé mọn đây là làm cho Chúa (x. Mt 25,31-45). Và “Ai thực thi Lòng Thương Xót thì hãy thực thi việc ấy cách vui vẻ” (Rm 12,8).[5]

Đức Thánh Cha cũng nêu cao sự hấp dẫn của một “dung mạo” lòng thương xót nơi Hội thánh: “Hội thánh có thể được định nghĩa là một “người mẹ” đối với những ai một ngày nào đó sẽ tuyên xưng cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, tôi hy vọng rằng dân thánh của Thiên Chúa sẽ tiếp tục thi hành sứ vụ của Lòng Thương Xót để giúp những ai chưa nhận biết Chúa có thể gặp gỡ và yêu mến Ngài […] Khi đi qua khắp các ngả đường trên thế giới, các môn đệ Chúa Giêsu cần phải có một tình yêu không giới hạn như tình yêu mà chính Thiên Chúa đã dành cho hết thảy mọi người. Chúng ta loan báo những quà tặng đẹp nhất và vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta: chính mạng sống và tình yêu vô bờ bến của Ngài”.[6]

 3. Đi ra vùng ngoại vi

Công cuộc loan báo Tin mừng của Hội thánh tỏ lộ dung mạo của Lòng Thương Xót của Chúa không chỉ đến với từng cá nhân dễ bị tổn thương, nhưng còn hợp tác với xã hội dân sự thông qua những chính sách, dự án, chương trình trợ giúp người nghèo, người dễ bị tổn thương.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tỉ lệ người nghèo tại Việt Nam đã giảm từ 44% năm 1990 xuống dưới 20% năm 2012. Số lượng người nghèo theo chuẩn mực khách quan có thể giảm, nhưng số lượng những “người nghèo” theo nghĩa “dễ bị tổn thương” hay bị gạt ra bên lề xã hội lại có thể tăng. Trong đó, ngoài người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người già, khuyết tật, người nghèo nông thôn, và ven đô dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, do “nhân tai” là thành phần đáng lưu tâm hơn trong thời đại ngày nay. Họ chịu ảnh hưởng nặng nề và dễ dàng khi thiên tai… Vì thế, theo lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, dân thánh đang trong “vùng tiện nghi”, phải “đi ra” lên đường đến “vùng biên” nơi cần ánh sáng Tin mừng để chia sẻ, đặc biệt là đến với vùng bị tổn thương, khốn khổ vì “nhân tai” cộng với “thiên tai”. Đối với dân thánh Việt Nam, lòng không thể không quặn thắt, ruột không thể không mềm ra, vết thương do thảm họa môi trường chưa hết nhức nhối, nay lại đứng trước thảm cảnh tan hoang sau cơn lũ nhấn chìm miền Trung vừa qua: hàng nghìn ngôi nhà chìm trong dòng nước lũ, những con đường đồng ruộng hóa thành sông.

 Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Anh chị hãy kể lại một vài chứng từ truyền giáo qua Lòng thương xót hiện diện xung quanh mình hoặc ngay trong cộng đoàn mình với những người nghèo.

2. Trong vùng miền của anh chị đang sống, ai là những người nghèo, những người dễ bị tổn thương nhất?

3. Anh chị hãy chia sẻ chứng từ của người môn đệ nghèo với anh em nghèo của mình?

----------------

[1] HĐGMVN, Thư gửi Cộng Đồng Dân Chúa 17-09-2015, 2.

[2] ĐGH PHANXICÔ, Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), 12.

[3] Ibid.

[4] ĐGH PHANXICÔ, Sứ điệp nhân Ngày Thế Giới Truyền giáo 2016, Vatican 15/5/2016.

[5] x. ĐGH PHANXICÔ, Tông sắc Misericordiae Vultus, ss. 15-16.

[6] ĐGH PHANXICÔ, Sứ điệp nhân Ngày Thế Giới Truyền giáo 2016.

 Văn phòng HĐGMVN

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

LỄ CHÚA GIÁNG SINH 25/12/2016

Kêu mời: Anh chị em thân mến, Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và cứu chuộc chúng ta. Mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Chúa, và bằng những việc lành, chúng ta cố gắng mời Chúa ngự đến và ở lại trong chúng ta. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. “Chúa giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn là dấu chỉ của sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Cứu Thế, và là dấu chỉ của sự hiệp thông trong sự sống của Thiên Chúa.

2. Chúa Cứu thế là Vua Thái bình, Ngài giáng sinh xuống trần gian, để khai mở một kỷ nguyên bình an. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người, đang sống trong thời gian cứu độ của Chúa Giêsu, đều hưởng được ơn hòa bình viên mãn.

3. Chúa Giêsu là Đấng Thiên-Chúa-làm-người, Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu diễn tả sự hiện diện của Chúa trong đời sống mình, và nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong anh chị em mình.

4. Chúa Giêsu giáng sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, sốt sắng tham dự thánh lễ và kết hợp với Chúa trong hết mọi sự, mà loan truyền ơn cứu rỗi của Chúa cho mọi người.

Kết thúc: Lạy Đấng Emmanuel, là Thiên Chúa ở cùng loài người. Chúa đang ngự giữa chúng con để làm cho chúng con trở nên con Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết vâng theo lời Chúa dạy, để chúng con hân hoan mừng Ngày Quang Lâm của Chúa ... là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

THEO GƯƠNG CHÚA PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO

Người nghèo là đối tượng của sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, và hôm nay, Giáo hội Công giáo trung thành với Tin mừng, họ nơi Thầy Chí Thánh để yêu thương và phục vụ người nghèo. Chính Chúa Giêsu từng lên tiếng ở hội đường Nazareth quê hương của Ngài, đọc cho mọi người nghe lời Ngôn sứ Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4, 16 - 19)         

Người nghèo, đi đâu cũng gặp, ở đâu cũng thấy, ở quanh ta. Thế giới càng văn minh, hiện tượng nghèo đói càng bộc lộ rõ nét từ thôn quê đến thành thị, và từ lục địa này đến lục địa khác…       

Bất công xã hội thường đặt người nghèo vào thế “cô thân cô thế”, mang thân phận bé mọn, chịu cảnh áp bức, luôn có mặc cảm bị bỏ rơi “Kẻ nghèo túng bị mọi anh em khinh rẻ, bạn hữu lại càng lánh xa ! Mong được đôi lời, cũng chẳng có.” (Cn 19, 7)                

Chính Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn trước những hoàn cảnh éo le, Đức Giêsu cảm thông với những người đói khổ, Đức Giêsu hớn hở vui mừng vì nhận ra thánh ý yêu thương lạ lùng của Chúa Cha đang được thể hiện: “Ngay bấy giờ, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “ Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, những lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Lc 10, 21)

Khi trả lời cho thắc mắc của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu khẳng định lại sứ vụ của Đấng Mêsia: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng ...” (Lc 7, 22-23)

Do đó, tấm lòng đối với những người nghèo khổ tội lỗi không phải chỉ là một tình cảm của con tim đức Giêsu, nhưng chính là nguồn cội sâu xa trong lựa chọn của Đức Giêsu, biểu hiện nơi thái độ của của Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh và hơn nữa, đó chính là nét căn bản giải thích diễn tiến của lịch sử ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Thiên Chúa không phải là một bài toán thách đố con người để chỉ lọc lựa những người tốt; nhưng ơn cứu độ ấy bộc lộ tấm lòng yêu thương quảng đại của Thiên Chúa; ơn cứu độ của Thiên Chúa tràn xuống tận đáy xã hội, có khả năng nâng dậy những người hèn kém và tầm thường nhất, những người tội lỗi và bất chính nhất, miễn là con người dám để cho Thiên Chúa đón nhận và yêu thương mình.

Nhưng ai là những người nghèo? Nhìn chung và dựa vào Giáo huấn Xã hội của Giáo hội: người nghèo là những người bị tước đoạt nhiều quyền tự do cơ bản của con người: quyền sinh sống, quyền ăn nói, quyền học tập và cả quyền tự do tín ngưỡng. Họ thiếu thốn của cải vật chất, không được hưởng thụ xã hội văn minh, không được tiếp cận văn hóa làm thăng tiến con người. Điều quan trọng nhất là nhân phẩm của họ bị đánh mất. Và nghèo theo Giáo hội nhìn rộng ra là tất cả những người bị áp bức, bị thiệt thòi; là người già, người bệnh, người trẻ, đang bị xem là hạng cùng đinh xã hội và bị gạt ra bên lề xã hội! Nghèo đói không giới hạn ở tình trạng khó nghèo vật chất. 

Ngoài ra, còn phải nói đến: nghèo khổ trong mối tương quan với đồng loại, nghèo đạo đức và tâm linh. Tùy hoàn cảnh và tùy nơi chốn, nghèo khổ được nhắc đến: phụ nữ phải đối mặt với sự kỳ thị và bạo lực, trẻ em và người vô gia cư, di dân, người tị nạn, người dân tộc thiểu số… Đức tin mời gọi các Kitô hữu bắt chước cuộc sống của Chúa Kitô. Thật vậy, vào Ngày phán xét chung, Chúa Giêsu Kitô là Thẩm phán Tối cao, sẽ xét xử và phân định rõ ràng dựa trên lối sống phục vụ người nghèo.      

Hình bóng người nghèo, luôn là một cách hiện diện đặc biệt của Con Thiên Chúa, đòi hỏi Giáo hội sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo khổ. Sự lựa chọn này không hàm ý một sự chối bỏ những ai không phải là người nghèo. Thái độ này chỉ để xác nhận rằng người nghèo có chỗ đứng đầu tiên trong những mối quan tâm của người tín hữu. Sự lựa chọn ưu tiên này đòi hỏi tín hữu có bổn phận tham gia vào việc giúp đỡ người nghèo khổ cũng như có trách nhiệm trong việc sử dụng tài sản của mình. Ý thức được bổn phận và trách nhiệm như vậy, người tín hữu thực sự sống đức tin, bởi “Đức tin mà không có việc làm là Đức tin chết” (Gc 2,17).

Lm. Philipphê Phạm Huy Phong

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

CÁC CHA QUẢN HẠT

(Đ.553-555)

1. Danh Xưng

Điều 553 của Bộ giáo luật đưa ra cho chúng ta 3 danh xưng về các cha quản hạt như sau: “Cha quản hạt, còn gọi là cha hạt trưởng, hoặc linh mục trưởng hạt, hoặc theo một danh hiệu nào khác, là một linh mục đứng đầu một giáo hạt” (đ. 553§1).

Trong Tiếng Việt, nếu chúng ta gọi Hội Thánh để chỉ Hội Thánh Công Giáo toàn cầu; cũng vậy, nếu gọi Địa phận để chỉ Hội Thánh địa phương thì xuống một cấp nữa phải gọi “Địa hạt” để chỉ một địa hạt liên kết nhiều họ đạo với nhau. Dầu vậy, chúng ta không nghe ai gọi từ “Địa hạt” để chỉ giáo hạt bao giờ. Thông dụng hơn, chúng ta thường nghe hay nói “Giáo hạt” và đi liền với “Cha quản hạt”. Đơn giản vì gọi theo cách đi từ trên xuống: Giáo Hội – Giáo Phận – Giáo Hạt – Giáo xứ. Trong các gọi đó nói lên cái gì đó liên hệ với tôn giáo, bởi có chử “giáo” trong đó. Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nói đến cách gọi nào là đúng, cách gọi nào không, mà chỉ nói đến cách thức chúng ta quen gọi để thống nhất trong bài viết này. Vậy, theo từ ngữ của Bộ giáo luật chúng ta sẽ gọi là “giáo hạt” để gọi người đứng đầu của giáo hạt đó là cha quản hạt hay cha hạt trưởng.

2. Bổ Nhiệm

Sau khi nói đến danh xưng của cha quản hạt, điều 553 nói tiếp về thẩm quyền và cách bổ nhiệm cha quản hạt như sau: “Nếu luật địa phương không ấn định cách khác, thì cha quản hạt do giám mục giáo phận bổ nhiệm, tùy theo sự phán đoán khôn ngoan của ngài, sau khi đã tham khảo ý kiến của các linh mục đang thi hành thừa tác vụ trong giáo hạt đó” (đ.553§2).

Điều nầy có nghĩa: luật địa phương giáo phận có thể cho phép các linh mục trong hạt được lá phiếu quyết nghị bầu cử quản hạt (communicationes, 1981, tr303; đ.385§1). Nếu không có quy định như vậy, thì ý kiến của các linh mục được giám mục hỏi chỉ có tính tư vấn, và giám mục chỉ tùy nghi hỏi chớ không bắt buộc phải hỏi. Việc hỏi ý kiến nầy có thể được tổ chức cách cá thể hay tập thể bỏ phiếu tư vấn cho giám mục bóc riêng và tự quyền quyết định.

Đặc tính: Để bổ nhiệm vào giáo vụ của quản hạt, là giáo vụ không gắn liền với giáo vụ của cha sở của một họ đạo nào nhất định, Đức giám mục giáo phận chọn một linh mục nào mà ngài xét thấy là xứng hợp, sau khi đã cân nhắc mọi hoàn cảnh mỗi thời và mỗi nơi (đ.554§1).

Lưu ý đặc tính nầy là chức vụ quản hạt không buộc phải là cha sở, và cũng không ấn định là cha sở của một họ đạo nào, vì chức vụ quản hạt nếu gắn liền với chức vụ cha sở một họ đạo nào, thì bao lâu ngài còn làm cha sở nơi đó thì còn làm quản hạt, điều đó ngược lại với điều 554§1 nói rằng quản hạt phải được bổ nhiệm trong thời gian nhất định mà thôi, trong khi đó chức vụ cha sở thì bền vững (đ.522). Điều quan trọng hơn, cha quản hạt cần phải là một linh mục có tinh thần cởi mỡ, sẵn sàng phục vụ và được anh em linh mục tín nhiệm.

3. Nhiệm Kỳ

Nhiệm kỳ của cha quản hạt được nói rõ là do luật địa phương ấn định: “Nhiệm kỳ của cha quản hạt được bổ nhiệm cho một thời gian nhất định do luật địa phương ấn định” (đ.554§2). Trong Giáo phận Vĩnh long, nhiệm kỳ của cha quản hạt là năm năm. Nhưng khi mãn nhiệm kỳ, nếu thấy là cần thiết hoặc tiện lợi, Đức giám mục giáo phận có thể tùy khôn ngoan và thận trọng xét đoán mà tham khảo ý kiến các linh mục làm công tác mục vụ trong giáo hạt thêm một nhiệm kỳ thứ hai. Tuy nhiên, lưu nhiệm cho một nhiệm kỳ thứ ba liên tiếp không phải là một việc làm luôn luôn thuận lợi và thích thời, vì đổi mới bao giờ cũng là một nguyên tắc ưu thắng (x.đ.624 về bề trên dòng tu, không bao giờ kéo dài lâu quá).

4. Nhiệm Vụ

Nhiệm vụ tổng quát của cha quản hạt: Bộ luật 1917 quan niệm vai trò của các cha quản hạt như là viên thanh tra giám sát. Sau Công đồng Vat. II, Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong tự sắc “Ecclesiae Santae I” số 19, đã ước muốn rằng các cha quản hạt sẽ bớt giữ vai trò “cảnh sát”, nhưng cố gắng tỏ ra là những người điều hợp, cổ động các sinh hoạt mục vụ trong lãnh thổ của mình. Nói khác đi, các cha quản hạt chia sẻ trọng trách của giám mục trong khu vực đã được ủy thác cho mình.

Thật vậy, trong tiếng La tinh gọi cha quản hạt là “Vicarius foraneus”, danh từ nầy nếu dịch sát nghĩa phải nói là: “Vị đại diện ngoại ô”. Bởi ý nghĩa lịch sử và mục đích của giáo vụ. Như đã trình bày trong những tháng qua về hai giáo vụ tổng đại diện và đại diện giám mục, Đức giám mục đặt một người thay mặt mình để lo quán xuyến các công việc trong toàn giáo phận, vị ấy được gọi là “vicarius generalis”, tổng đại diện. Thế nhưng cha tổng đại diện thường chỉ loanh quanh ở tòa giám mục, nằm ở thành phố, mà Giáo hội mỗi ngày phát triển đi ra xa khỏi thành phố đến các vùng quê xa xôi hẻo lánh. Do vậy, Đức giám mục phải đặt thêm các vị đại diện của ngài cho những miền ở ngoài thành phố (foraneus, bởi chử foris là ở ngoài), ở vùng ngoại ô. 

Như vậy, vai trò của các cha quản hạt cũng được gọi là “Vicarius”, nghĩa là đại diện. Do đó, quyền của cha quản hạt là thường quyền vì được gắn liền với giáo vụ, nhưng chỉ là quyền đại diện, nên cha quản hạt hành sử quyền đó nhân danh và dưới quyền của giám mục giáo phận trong một số vấn đề theo Giáo luật và luật của giáo phận trong giáo hạt của mình.

Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể: ngoài những nhiệm vụ tổng quát ở trên, Giáo luật đưa ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:

Nhiệm vụ kiểm soát việc chu toàn kỷ luật của Giáo hội (đ.555§1,số 1 và 3):

Cổ võ và phối hợp hoạt động mục vụ chung trong giáo hạt;

Lo liệu để :

cho các nghi lễ tôn giáo được cử hành đúng theo những quy định của phụng vụ thánh;

cho việc trang hoàng và vẽ mỹ quan của các nhà thờ và các đồ vật thánh được tuân giữ cẩn thận, nhất là trong việc cử hành Thánh lễ và lưu giữ Thánh Thể;

cho các sổ sách của họ đạo được ghi chép đúng cách và được gìn giữ cẩn thận;

cho tài sản của Giáo hội được quản trị cách chu đáo (tránh lợi dụng và thao túng), và nhà xứ được bảo trì cách cẩn thận (tránh bệ rạc hoặc xa hoa).

Nhiệm vụ đối với các linh mục (đ.555§1,số 2; §2,số 1,2; §3)

Lo sao cho các giáo sĩ trong giáo hạt sống xứng đáng với bậc mình và cẩn thận chu toàn giáo vụ của mình;

Trong giáo hạt được giao phó, cha quản hạt:

hãy chăm lo để cho giáo sĩ, chiếu theo qui định của giáo phận, vào thời kỳ ấn định tham dự các lớp học, các buổi hội thảo thần học và các buổi thuyết trình, đúng theo qui định của điều 279§2;

hãy lo liệu để cho sự trợ giúp thiêng liêng có sẵn cho các linh mục, và cũng thế, hãy hết sức để tâm lo cho các vị ở trong tình trạng hoàn cảnh khó khăn hoặc bị các vấn đề tế nhị khác giầy vò;

cha quản hạt phải lo liệu sao cho các cha sở trong hạt mà ngài biết là đang đau bệnh nặng được trợ giúp đầy đủ về tinh thần cũng như vật chất; nếu có linh mục trong hạt qua đời, phải lo liệu sao cho được an táng cách xứng đáng; trong dịp nầy, phải lo liệu sao cho sổ sách, tài liệu, đồ vật thánh và các đồ vật khác thuộc về Giáo hội không bị hư hại hay bị thất thoát;

Nhiệm vụ thăm viếng mục vụ các họ đạo (đ.555§4)

Nhiệm vụ thăm viếng mục vụ các họ đạo là một nhiệm vụ bắt buộc, điều 555§4 nói:  “Cha quản hạt buộc phải thăm viếng vác giáo xứ thuộc hạt của mình theo sự chỉ thị được giám mục giáo phận ban hành” (đ.555§4). 

Đây là việc thăm viếng mục vụ chính thức mà cha quản hạt phải làm trong tư cách là đại diện của giám mục theo Giáo luật. Đó là việc thăm viếng bắt buộc, phải làm, chớ không phải do thiện chí hay sở thích. Đó cũng là chuyến thăm viếng theo qui định của giáo luật và theo thể thức giám mục ấn định, chớ không phải làm theo tùy thích và thăm viếng xã giao mà thôi. Chuyến thăm nầy mang hai ý nghĩa: 1/. Giám sát và kiểm tra; 2/. Cổ võ và phối hợp mục vụ.

Khi đã thăm viếng xong các họ đạo trong giáo hạt, các cha quản hạt phải làm tờ trường trình lên giám mục về đời sống mục vụ, về hoàn cảnh sống của các linh mục, về nguyện vọng của các linh mục và những người khác nếu có (x. Communicationes, 1981,tr.311; x.đ.388). Các tường trình nầy giúp Đức giám mục rất nhiều cho việc chính ngài cũng phải thăm viếng (x.đ.396) và làm báo cáo cho Tòa Thánh (x.đ.399).

Ngoài ra, Cha quản hạt còn có nghĩa vụ phải cư trú trong hạt mà mình phục vụ (x.CNMVGM số 187,3).

Quyền lợi của cha quản hạt

Các giáo vụ trong Giáo hội nhằm để phục vụ, lời căn dặn của Thầy Chí Thánh luôn là chăm ngôn để thi hành quyền bính của các môn đệ: “Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 42-45). 

Do vậy, quyền lợi của các cha quản hạt được Giáo luật nói tới rất ít, mà chỉ đề cập tới vài trường hợp như sau: 1/. Các cha quản hạt có quyền được giám mục giáo phận tham khảo ý kiến trước khi bổ nhiệm các cha sở (x.đ.524), và các cha phó thuộc giáo hạt của mình (x.đ.547). 2/. Các Cha quản hạt có quyền được mời và tham dự công nghị giáo phận (x.đ.463§1).

Chấm dứt chức vụ

Chức vụ quản hạt được bổ nhiệm có kỳ hạn, nên cách thông thường nhất giáo vụ chấm dứt khi hết hạn bổ nhiệm. Tuy nhiên, điều 554§3 cho phép Đức giám mục giáo phận bãi chức cha quản hạt khi: “có lý do chính đáng và theo sự xét đoán khôn ngoan của mình, giám mục giáo phận có thể tự do bãi chức cha quản hạt khỏi giáo vụ” (đ.554§3).

Nhìn chung, vai trò của các Cha quản hạt được Bộ giáo luật hiện hành dành cho một chổ đứng quan trọng để cộng tác với Đức giám mục giáo phận, chẳng hạn như để thuyên chuyển các linh mục, để xúc tiến những kế hoạch toàn diện trong giáo phận…

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ – tổng hợp

 

TRANG LINH MỤC

TÔI ĐI TĨNH TÂM

Theo thông lệ hằng năm, tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Linh mục đoàn Giáo phận Vĩnh Long trở về Chủng Viện Vĩnh Long cùng với Đức Giám Mục Giáo Phận để tĩnh tâm. Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước, Giám Mục Giáo Phận Phú Cường với tư cách Đức Cha giảng phòng đã đồng hành với Linh mục đoàn trong những ngày đặc biệt này. Chủ đề của những bài giảng là căn tính người Linh mục Chúa Kitô, Linh mục là hiện thân của Chúa Kitô, Linh mục con người hiệp thông, Linh mục chứng nhân của lòng thương xót … Nhờ đó, tôi cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa đối với tôi thật tuyệt vời. Tôi xác tín điều mà tôi đã từng được biết: chính Thiên Chúa đã đi bước trước, Ngài đã gọi tôi làm Linh mục là hoàn toàn do tình thương của Ngài. Thật vậy, Ngài đã gọi chính tên tôi, chứ không có người thứ hai mang tên tôi, giống hệt con người của tôi. Đó chính là ơn gọi huyền nhiệm và độc đáo.

Tôi mạnh mẽ xác tín là Thiên Chúa thương tôi, đã chọn gọi tôi làm Linh mục của Ngài, mặc dầu tôi yếu đuối và mỏng dòn. Thế nên, muôn ngàn đời tôi luôn ca tụng tình thương của Chúa.

Thật tuyệt vời, khi tôi ý thức rằng: Linh mục phải là con người của lòng thương xót. "Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì phải cho nhưng không". Do lòng thương xót của Chúa mà tôi trở thành Linh mục, vậy tôi phải hành xử xót thương với hết mọi người. Tôi luôn cố gắng để ai đến với tôi, khi ra về, họ cảm thấy nhẹ nhàng, hạnh phúc, niềm vui vì được Chúa xót thương họ, qua vị Linh mục.

Chính Chúa đã từng nói với chúng ta: "không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì người mình yêu", cho nên Thiên Chúa đã không khước từ khi phải treo trên thập giá. Linh mục cần phải "đồng hình đồng dạng với Đức Kitô", nên cần sống nghèo, khiêm tốn và tự hạ. Ngoài ra, linh mục còn là "người bị ăn", cũng như tấm bánh được bẻ ra cho nhiều người hưởng dùng.

Tôi nghĩ: Linh mục, hiện thân của tình thương Chúa là như thế. Nhưng Để trở nên hiện thân của Chúa, Linh mục cần để cho Lời và Thánh Thể Chúa là nguồn mạch và khuôn mẫu cho mọi hoạt động. Linh mục là người đã được thánh hiến thuộc về Thiên Chúa thì Linh mục cũng phải thánh hiến từng giây phút trong cuộc sống của mình. Phải rập khuôn đời mình theo khuôn mẫu của Chúa Kitô.

Vì thế, Lời Chúa và Thánh Thể mời gọi Linh mục phải nên thánh và đi vào hành trình hoán cải cách liên tục. Hoán cải để khỏi tội lỗi, hoán cải khỏi những gương mù gương xấu, hoán cải khỏi những não trạng thế gian … Linh mục sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian mà là thuộc vể Thiên Chúa.

Lần tĩnh tâm năm nay, đối với tôi, đã đem lại nhiều điều hết sức tốt đẹp. Xin Chúa đồng hành với con và với anh em Linh Mục trong sứ mạng Chúa trao. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.

Linh mục Giacôbê Hòa Bình

 

TRANG TU SĨ

MÙA ĐÔNG YÊU THƯƠNG

Thế là hết một buổi chiều và một buổi sáng –Đó là ngày thứ ba.Tôi đang lẩm nhẩm trong đầu câu kinh thánh của sách sáng thế ký, thì một giọng nói làm tôi giật mình:”Dì ơi!”. Quay lại trước mặt tôi là một bé trai độ khoảng 6 tuổi.

- Chào con, con tên gì?

- Dạ, con tên là Hoàng

- Con được mấy tuổi rồi?

- Dạ, con 8 tuổi.

Tôi ngạc nhiên vì em gầy quá

- Vậy con đang học lớp 2 đúng không?

- Con không có đi học, nhà con nghèo lắm, ba mẹ ly dị, ba của con mới bị tai nạn khi leo dừa nên chưa làm việc được, bây giờ con phụ ba cắt cỏ dê và cho dê ăn.

Nghe em nói, tôi thấy  nơi sống mũi mình cay cay. Tám tuổi, tuổi ăn ,tuổi  học ,tuổi chơi, tuổi được ba mẹ đưa đón, tuổi được chăm nom chiều chuộng… vậy mà em bước vào đời sớm quá, em ngoan quá, nhìn em gầy ốm với bộ đồ nhàu nát cho tôi thấy được cái nghèo nơi em quá đỗi. Thương em quá, tôi giơ tay xoa đầu khen em và hỏi:

- Con giỏi lắm, nhưng bây giờ con đi đâu vậy?

- Dạ, con đi lễ xong rồi sẽ ạ!

Một lần nữa em lại làm tôi cảm động sắp khóc. Tôi quyết định sẽ đến thăm gia đình em để có thể giúp đỡ phần nào cho hoàn cảnh của em, ít nữa là có thể để em đến trường như bao bạn nhỏ…

Hai tuần sau  tôi đến thăm em, ngôi nhà cũ rách nằm ở một góc khuất cuối vườn, nét mặt em rạng rỡ chào tôi, còn ba em thì vẫn nằm trên giường. Em đón nhận phần quà tôi trao tặng với nét mặt như một thiên thần trong niềm vui sướng. Tôi thầm dâng em và gia đình em trong sự bảo bọc của Thiên Chúa và mẹ Maria, để  gìn giữ tâm hồn em mãi trong sáng như lời ba mẹ dạy tôi từ thuở nhỏ: “nghèo cho sạch, rách cho thơm, giấy rách phải giữ lấy lề nghe con”. Bước ra cửa, tôi thấy mình hạnh phúc. Giờ đây tôi cảm nhận sâu sắc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho tôi.

Tháng 12 là tháng có lẽ đối với tôi là tháng rộn ràng nhất, là tháng vui, tháng của niềm hy vọng, tháng có gió chướng để chuẩn bị đón xuân về, nhưng lồng trong đó là niềm vui của con Thiên Chúa giáng trần, một tình yêu nhưng không, một mầu nhiệm để tôi suy gẫm: Chúa là con Thiên Chúa đã từ bỏ trời cao xuống trần gian, sinh ra  trong hang đá ngoài đồng lạnh lẽo, lớn lên trong cảnh nghèo, và chết trong tủi nhục…Vì thế, Là người môn đệ theo Chúa. Người đang mời gọi tôi sống tinh thần nghèo, có nghèo, tôi mới gần gũi và dễ dàng đến với người nghèo và giúp đỡ họ trong  những gì mà tôi có thể, tôi cần nhìn thấy  Chúa trrong những người bé nhỏ này.

Năm thánh ngoại thường về lòng thương xót đã khép lại, nhưng Chúa luôn mời gọi mỗi người chúng ta đừng khép lòng mình trước những người nghèo khổ, vì Chúa cho ai nhiều  thì Chúa muốn người đó giúp Chúa chia sẻ nhiều. Hãy thể hiện lòng thương xót với nhau để nối dài tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì cuộc sống này có ý nghĩa gì nếu mỗi người chúng ta là một ốc đảo, thiếu quan tâm,và chà đạp lên những người kém may mắn hơn mình?” Tôi không tiền ư? Tôi có thể làm việc bác ái theo khả năng của tôi: Bác ái một nụ cười,bác ái một cái bắt tay, bác ái bằng lời cảm thông, bác ái bằng việc thăm viếng, bác ái trong nguyện cầu” như Đức Hồng Y Thuận đã nói: “Hãy cho một cách tế nhị và bác ái để khỏi phải  làm tổn thương thêm cái nhục của người thụ ơn”.

Nhìn lại hình ảnh của em, tôi thiết nghĩ chắc hôm ấy em vui lắm, có thể vì phần quà tôi trao tặng mặc dù nó chẳng có giá trị là bao nhiêu. Chắc có lẽ, em cũng vui vì sự quan tâm từ người khác. Tôi tôn trọng em vì em là hình ảnh của một vị Thiên Chúa nghèo nàn mà tôi yêu mến, tôi quan tâm em vì tôi muốn họa lại hình ảnh thương xót của Ngài, để cho mọi người nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn nhìn thấy nhu cầu của người khác, nhìn thấy Chúa trong họ để rồi chúng ta tôn trọng và yêu thương nhau hơn. xử sự tế nhị hơn, nhân bản hơn khi giúp đỡ người khác.

“Lạy Chúa xin dạy con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”.

Ước chi mỗi người chúng ta noi gương theo Thầy Chí Thánh, biết thương xót, chia sẻ cho những người kém may mắn hơn mình, để mùa đông lạnh lẽo này trở thành mùa đông yêu thương, ấm áp bởi tình yêu của người cho và người nhận giữa tình yêu bao la của vị Thiên Chúa làm người.

MTG Cái Nhum

 

ĐỂ BÉ PHÁT TRIỂN TỐT

Hai bé Ly Lan là cặp song sinh của chị Vân, chưa mở mắt chào đời thì đã mồ côi cha. Do gia cảnh nghèo, chị Vân để con thơ lại cho mẹ già chăm sóc, đi hành nghề buôn hương bán phấn ở phương xa. Con thơ chưa đủ lớn khôn, chị Vân mắc phải căn bệnh thế kỷ HIV và được đưa vào trung tâm Trọng Điểm để chữa trị.

Tuổi thơ thiếu vắng tình thương, hai bé Ly Lan lớn lên trong cảnh nghèo khổ nhất là thiếu sự chăm sóc, dạy dỗ của mẹ cha nên hai bé chậm phát triển, nhút nhát... Do sớm hôm tảo tần vất vả để lo nuôi cháu nên Bà Hai lâm cơn trọng bệnh. Biết sức khỏe mình suy yếu, không đủ sức nuôi dạy hai cháu đến tuổi khôn, Bà Hai nhờ Dì Tư ở Nhà Thờ bảo bọc nuôi dưỡng cháu ngoại của mình. Bà được người trong xóm đạo thương lo chạy chữa, sức khỏe dần được phục hồi nhưng tuổi già hiu quạnh không ai chăm sóc.Thấy rõ số phận hẩm hiu, Dì Tư đưa Bà Hai lên sống nơi nhà Neo đơn của Hội Dòng.

Biết rõ hoàn cảnh đáng thương của hai bé, Dì Tư tận tình nuôi dạy nhưng muốn Ly Lan có một môi trường thích hơp để trẻ phát triển tốt, Dì Tư tìm đến Mái Ấm Phúc  n.

Tới khuôn viên Mái Ấm, Dì Phụ trách bước ra vui vẻ:

- Chào Chị Tư mới tới.

- Chào Em, Em đang làm gì thế?

- Dạ! Em hái rau vườn vừa xong, định chiều nay luộc cho các em ăn. Ăn cơm mà có thêm rau, các em ăn ngon lắm.

- Chị muốn được tham quan cơ sở Mái Ấm. Xin phép Em và nhờ Em giúp Chị nha.

- Dạ! Em mời Chị...

Được hướng dẫn tham quan cơ sở: lầu ngủ, phòng học phòng ăn, nơi vui chơi giải trí, khu vệ sinh... Không gian khá rộng và thoáng mát, tất cả đều ngăn nắp sạch sẽ và tiện nghi tương đối. Thật đúng là môi trường thuận lợi giúp các em sống khỏe, sống vui và phát triển tốt.

Khi tận mắt nhìn thấy môi trường tốt, giúp cho tuổi thơ phát triển lành mạnh, Dì Tư ân cần hỏi Dì Phụ trách:

- Tất cả các em trong mái ấm nầy đều mồ côi cha mẹ phải không Em?

- Dạ! Chỉ có một ít em mất hết cha mẹ thôi, có em cha mẹ nghiện ngập, bị HIV, có em cha mẹ ly dị nhau, phải sống với ông bà... Nhiều em có hoàn cảnh thương tâm sống nơi mái ấm nầy lắm Chị ạ!

- Có hai bé gái hoàn cảnh rất đáng thương nơi họ đạo Chị đang phục vụ... Chị muốn gởi nơi Mái Ấm nầy.

Sau khi hiều được gia cảnh của hai bé Ly Lan. Dì Phụ trách nói:

- Đây không phải là viện mồ côi nhưng là một mái ấm Chị ạ! Cơ sở nầy đón nhận tất cả các em có hoàn cảnh đáng thương. Hai bé của Chị là những thành phần nghèo và dễ bị tổn thương trong xã hội. Là người phục vụ, Em cố gắng đem hết tình thương để giáo dục và ân cần chăm sóc các em, để bù đắp lại phần nào sự mất mát mà tuổi thơ các em đang gánh chịu.

- Cám ơn Em. Chị thật an tâm khi được gởi hai bé nơi Mái Ấm nầy. Chị về thu xếp để sớm đưa cháu đến. Chào Em.

Sinh ra trong cuộc đời vẫn có những kẻ kém may mắn, bất hạnh hơn người. Xã hội chậm tiến hay văn minh hiện đại vẫn có kẻ giàu người nghèo; người phận bạc kẻ may mắn. Với ánh nhìn đức tin, lòng thương xót Chúa vẫn tồn tại từ đời nọ sang đời kia. Ngài là Đấng luôn gần gũi những kẻ thiếu thốn, đặc biệt là người nghèo, người bị bỏ rơi. Các cơ quan từ thiện như Trung tâm xã hội, Nhà Neo đơn, Mái Ấm, Nhà Khuyết tật... đều thể hiện lòng thương xót Chúa đối với những người đáng thương nầy. Ước mong xã hội luôn có nhiều tấm lòng quảng đại, nhiều nhà hảo tâm thể hiện lòng thương xót Chúa để người bất hạnh được sống an vui.

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

GANH TỴ

Đọc trong Kinh Thánh chúng ta thấy một trong những tội đầu tiên của con người , vì kiêu căng và ganh tị, một số thiên thần phản loạn, muốn mình ngang hàng với Đấng tạo thành trời đất muôn vật. sau đó, khi phải đau khổ vì xa cách Thiên Chúa và thấy loài người được hạnh phúc, các thần dữ đã ghen tương nên xúi dục Nguyên Tổ phạm tội. Rồi đến Cain ghen ghét với em là Abel chỉ vì Thiên Chúa nhận của lễ của em mà đâm ra hiềm thù khó chịu cuối cùng đưa đến hậu quả giết ngay chính đứa em ruột thịt cùng cha, cùng mẹ với mình….

Ngoài ra trong Kinh Thánh Tân Ước cũng ghi lại nhiều chuyện liên quan lòng đố kỵ và ghen ghét. Trong dụ ngôn “Người Thợ Làm Vườn Nho” ông chủ đã đặt vấn đề với những người thợ bép xép: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:15).

Người Do-thái vì ghen tức mà phản đối và nhục mạ Thánh Phaolô (Cv 13:45). Và cũng vì ghen tức mà “họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phaolô và ông Xila để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân” (Cv 17:5).

Các Tông Đồ ghanh tức vì lợi danh, khi hai Tông Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu "cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang"(Mc 10, 37) thì liền ngay lúc đó “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan” (Mc10, 41)

Hai chị em ganh tức vì cảm thấy thiếu công bằng, cô Mac - ta ấm ức nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40). Có thể giọng nói của Mác-ta lúc đó không “êm tai” lắm đâu. Đó cũng chính là một dạng ganh tỵ!

Vậy chúng ta có thế thấy lòng ghen ghét có trong mọi hoàn cảnh mọi môi trường và đối với mọi hạng người: kẻ thù ghét nhau: ma qủy ghét con người. Anh em ghét nhau: Cain - Abel. Chị em ghét nhau: Mac-ta - Maria, Các tông đồ cùng một Thầy cũng đem lòng ghen ghét nhau….

Khi các Tông đang cùng đồng hành với Đức Kitô trên còn đường rao giảng mà cũng bị tính ganh ghen đố kỵ làm cho chia rẽ thì trong đời sống tu trì cũng không thể thoát khỏi. Trong tác phẩm “nhật ký một tâm hồn” Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng cũng cho chúng ta thấy chị em sống chúng với nhau không chỉ “ghen ăn, tức ở” mà con ghen ghét nhau vì thấy người khác đạo đức hơn, thánh thiện hơn: tiêu biểu một hôm Thánh nữ đứng giặt quần áo bên cạnh người bạn, chị bạn này cố tình chà xát mạnh tay cho bọt xà bông bắn tung tóe lên mặt, lên quần áo của thánh nữ, nhưng thánh nữ không hề giận dữ mà quỳ xuống nói với Chúa: “đây là những hoa hồng con xin dâng lên cho Chúa”. Đó là một trong muốn vàn kiều ganh ghét mà chúng ta thường gặp. Nhưng một trong những kiểu ghen ghét hay gặp nhiều trong đời sống tu trì đó là nói xấu nhau. Một trong những hành động làm chia rẽ đời sống cộng đoàn.

Tất cả mọi hành động của ghen ghét là do thiếu tình thường, một người chị em, một người anh em con cùng một Cha, cùng một cùng một chủ chăn, cùng một chí hướng, ý hướng, cùng một mục đích, cùng ăn chung, cùng học chung, cùng làm việc mục vụ chung, cùng một tu phục, cùng một Đấng sáng lập dòng… và còn rất nhiều cái chung. Đáng lẽ chúng ta phải yêu thương nhau lắm chứ! Vì chính Chúa còn dạy phải yêu cả kẻ thù và yêu như chính mình. Nếu chúng ta chưa yêu người đồng môn mình thì làm sao yêu được người khác.

Ước mong chúng ta cũng hãy biết chung tình thương “chị đỡ em nâng” để cho đời sống cộng đoàn luôn đầy ắp tiếng cười và tình yêu. Vì cộng đoàn là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, hình ảnh của tình yêu hiệp thông.

Sách Châm Ngôn dạy: “Tâm hồn bình an là nguồn sống cho thể xác, nhưng lòng ghen ghét tựa chứng bệnh mục xương” (Cn 14:30). Lòng đố kỵ thật đáng sợ! Với những người có tính đố kỵ và ghen ghét, Thiên Chúa đã thẳng thắn cảnh cáo: “Ta sẽ xử sự theo cơn giận và lòng ghen ghét của ngươi như ngươi đã xử sự khi ngươi ghét chúng” (Ed 35:11).

Xin cho chúng ta biết sống yêu thương nhau, loại trừ tính ganh tị khỏi tâm trí, lời nói và hành động; đồng thời, biết nuôi dưỡng lòng nhân hậu nơi tâm hồn và thể hiện trong cách đối xử với anh em, để mọi người được sống trong tình yêu thương và nên nhân chứng cho Đấng nhân hậu và tốt lành.

Lm. Gioan Lê Tiến Thiện

 

TRANG THIẾU NHI

NHỮNG BỨC THƯ GỞI CHÚA HÀI ĐỒNG

1. Vào mỗi dịp Giáng Sinh, nhiều nơi khuyến khích các em thiếu nhi viết thư cho Chúa Hài Đồng. Đây là việc làm tốt, nhằm tập cho các em nhiều điều: biết thưa chuyện với Chúa, tập nhạy bén với cuộc sống,  rèn luyện khả năng viết… Giáng Sinh năm nay, theo truyền thống, Ban Giáo Lý họ đạo chúng tôi cùng chung tay làm một tờ báo tường để mừng Chúa Giáng Sinh. Bài viết do các em Học Sinh Giáo Lý đóng góp. Tuy nhiên, năm nay tôi mời gọi các em tự sáng tác chứ không sưu tầm những bài đã có sẵn như mọi năm nữa, đặc biệt khuyến khích các em viết những bức thư gởi Chúa Hài Đồng. Sau gần một tháng phát động, các em gởi về rất nhiều bức thư. Đọc thư của các em, tôi thấy tuy lời văn chưa lưu loát, chưa bóng bẩy lắm; nhưng chứa đựng tâm tư nguyện vọng rất đơn sơ chân thành của các em. Trong bài này, tôi xin giới thiệu ba trong số các bức thư của các em:

2. Chúa Hài Đồng kính mến,

Mùa Giáng Sinh lại về. Chúng con dọn mình đón chờ ngày Chúa đến ban ơn cho tất cả mọi người chúng con.

Chúa ơi! Giáng Sinh năm nay có vẻ không hoàn toàn nô nức, vui vẻ như những năm khác. Nhìn lại năm qua, cả thế giới nói chung và đất nước Việt Nam chúng con nói riêng đã có nhiều biến cố đau buồn xảy ra: xung đột, chiến tranh, thiên tai, thảm họa môi trường… Những biến cố ấy lần lượt xảy đến và để lại nhiều hậu quả đau thương cho nhân loại. Nhưng con người vẫn dửng dưng trước những phẫn nộ của thiên nhiên, trước những cái chết đau thương của đồng loại…

Riêng giới học sinh chúng con, sau rất nhiều sự việc đau lòng xảy ra, có một vấn đề đã trở nên nhức nhối: đó là chúng con ngày càng vô cảm với nhau hơn. Thái độ vô cảm ấy thể hiện qua sự thờ ơ trước những tai nạn của người khác, trước những nỗi đau của người khác; hay thái độ hành xử vô tâm tàn nhẫn dành cho nhau.

Vì thế, xin Chúa giúp loài người chúng con, cách riêng là các bạn thiếu nhi chúng con, biết nhận ra tình thương của Chúa dành cho con người chúng con, để chúng con cũng biết yêu thương như Chúa. Chỉ khi con người biết yêu thương nhau, con người mới có thể xích lại gần nhau hơn và thế giới này sẽ an bình hơn. Lúc ấy, chúng con mới có thể nói với nhau rằng: Mừng Giáng Sinh an lành.

3. Kính Chúa Hài Đồng,

Nhân dịp Giáng Sinh về, con cầu mong cho gia đình con luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, lúc nào cũng vui vẻ bên nhau. Những người bạn thân của con thì mãi ở bên con, mong cho họ mãi nở nụ cười và học thật giỏi.

Chúa ơi! Con thích nhất bài nhạc mà cha phát thanh trước giờ giáo lý mỗi tuần: “Học với Chúa”. Vâng, “Học với Chúa”, con học được rất nhiều điều. Điều quan trọng nhất là con đã biết yêu thương mọi người như chính bản thân con vậy. Con học được cách cho đi yêu thương và mở lòng đón nhận yêu thương của người khác. Tình yêu Chúa bảo vệ con khỏi những điều xấu xa, nuôi dưỡng con thành người tốt. Tâm hồn con lớn lên trong ân sủng vô bờ của Chúa. Hồng ân Chúa như mây như mưa rơi xuống đời con miên man miên man nâng đỡ đời con…

Lạy Chúa, năm nay con đã lên lớp Thêm Sức. Trên khăn quàng xanh thắm hàng tuần con mang đến lớp học Giêsu, có hai chữ “Hy Sinh”. Đó là lời nhắc nhở chúng con phải biết hy sinh. Vâng, con sẽ cố gắng hy sinh và làm những việc bác ái để giúp đỡ những người khó khăn bất hạnh. Chính những việc hy sinh đó sẽ giúp chúng con thành thiếu nhi ngoan của Chúa, những thiếu nhi thánh thiện tốt lành như Chúa. Con hứa với Chúa con sẽ cố gắng hy sinh như Chúa dạy, và xin Chúa cũng giúp sức cho con.

4. Chúa Giêsu Hài Đồng ơi!

Mùa đông lại về, cũng là một Mùa Giáng Sinh lại đến. Giáng Sinh đến, ai cũng nô nức chuẩn bị đón mừng. Người lớn thì trang hoàng đèn sao, máng cỏ. Con còn nhỏ chẳng biết làm gì, chỉ có một ước mơ và cũng là một lời nguyện cầu cho con và gia đình con trong dịp Giáng Sinh này. Con xin gởi đến Chúa.

Gia đình con đang gặp rất nhiều khó khăn. Mẹ con bệnh nặng phải mổ, mà chi phí mổ rất cao, lại chỉ có 50% được cứu sống thôi. Cha con thì đi làm thuê từ 3 giờ sáng đến 6 giờ chiều, vậy mà cũng chỉ đủ nuôi sống gia đình con qua ngày mà thôi, ấy thế mà cha còn phải lo cho hai anh em con học hành nữa. Con còn nhỏ quá không thể giúp gì cho mẹ, không thể chia sớt gánh nặng của cha. Con buồn lắm Chúa ơi! Con chỉ biết đọc kinh sáng tối, đi lễ hằng ngày để cầu nguyện cho mẹ con, cho cha con mà thôi.

Người ta mong đến ngày lễ Giáng Sinh để được tặng quà, để đi chơi. Còn con chỉ mong đến lễ Giáng Sinh để quỳ dưới chân Chúa Hài Đồng, cầu xin cho mẹ con được hết bệnh, xin cho cha con có thêm nhiều sức khỏe để đi làm lo cho gia đình, xin cho con và anh con mau lớn để lo cho mẹ, chia sớt gánh nặng của cha.

Xin Chúa Hài Đồng vui nhận ước mơ nhỏ bé của con.

Lm. Giuse Trần Tử Hiếu

 

TRANG GIỚI TRẺ

SỐNG VÀ LÀM VIỆC CHO NGÀY HÔM NAY

Rất nhiều lần tôi sống cho ngày hôm qua, cho ngày mai chứ không phải sống cho ngày hôm nay. Tôi đã trì hoãn những việc mình phải làm để sống và hồi tưởng lại quá khứ và tưởng tượng tới tương lai. Tôi không biết mình đã đánh mất những điều quý giá và để quá nhiều cơ hội vụt bay.

Nếu tôi làm xong bài báo cáo hôm nay thì tôi sẽ có nhiều thời gian cho ngày mai làm những việc khác. Nếu tôi rửa xong đống chén đũa mà không để đến hôm sau thì cuộc sống của tôi sẽ không còn bị ám ảnh bởi những việc của ngày hôm qua… Khi tôi làm hết việc của hôm nay, ngày sau tôi sẽ không phải cắm đầu cắm cổ làm cho xong đống việc đang chờ.

Nhiều khi thói quen trì hoãn khiến tôi có một giá trị vô cùng nhỏ bé trong mắt của “cấp trên”. Bởi vì, thái độ không chuyên nghiệp và làm việc tùy hứng khiến người khác bị ảnh hưởng và chính tôi cũng lãnh nhận hậu quả từ thái độ đó. Tôi sẽ không dễ dàng đạt được những gì tôi muốn như học bổng cho cuối năm học, hoặc một phần thưởng khích lệ nào đó từ người thân, bạn bè… Không có được thành công bạn có dám nhận những phần thưởng cho mình.

Cuộc sống trôi qua rất nhanh và chúng ta không nên mất thời gian của ngày hôm nay giải quyết những việc của ngày hôm qua. Tôi cần làm những việc mình phải làm trong ngày và đừng bao giờ để nó cho ngày hôm sau. Tôi phải sắp xếp công việc một cách hợp lý để tôi có thời gian dành cho mình và những người xung quanh.

Đừng bao giờ nói “thôi để ngày mai làm vậy” nếu tôi còn có thể giải quyết nó trong ngày hôm nay! Chính sự chần chừ của tôi đã đánh mất đi rất nhiều cơ hội để chạm tay đến thành công.

Những công việc của ngày hôm nay sẽ là những viên đá góp phần làm nên những thành công của tôi. Đôi lúc, tôi sẽ không biết phải làm gì để cuộc sống của mình bớt bận rộn, bớt căng thẳng, thực ra, tôi chỉ cần biết phải ưu tiên cho việc gì trước, việc gì sau là tôi sẽ làm cho cuộc sống của mình trở nên nhẹ nhàng và thanh thản hơn rất nhiều.

Điều quan trọng là tôi phải biết sống cho ngày hôm nay, làm những việc hôm nay phải làm và tận hưởng niềm vui có trong cuộc sống.

Bạn cũng vậy, đừng bao giờ trì hoãn ngày hôm nay của bạn nhé! Bởi vì, chỉ khi sống và làm việc với ngày hôm nay thì bạn mới nhận thấy rằng cuộc sống của mình thật hạnh phúc.

Mong rằng, tôi và bạn luôn là những người biết tận dụng hết khả năng và thời gian Chúa trao ban để chúng ta cùng sống trọn ngày hôm nay sao cho thật có ích và ý nghĩa cho cuộc đời này.

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

TRANG GIA ĐÌNH

MÃI VẪN LÀ TÌNH ĐẸP MUÔN THUỞ

Quý bạn đọc thân mến,

Bước vào tháng Mười Hai, niềm vui chuẩn bị Giáng Sinh tràn ngập khắp muôn nơi; hang đá, đèn sao, kim tuyến, cánh thiệp, cây thông, những khúc ca êm đềm vang vọng ngày đêm,… cho thấy, triệu triệu con tim đang hướng tâm hồn về Câu Chuyện Tình Thật Đẹp; ở đó, có một người cha hiền lành chăm chỉ, một người mẹ dịu dàng thánh đức, cả hai cùng ra sức yêu thương con.

Trước tính thời sự rộn rã ấy, thiết nghĩ rất thích hợp để mọi gia đình trên trái đất chiêm ngắm và “copy” trăm phần trăm khuôn mẫu Gia Đình Thánh - Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Bên cạnh đó, thêm một lý do nữa, dường như nền luân lý đạo đức trong gia đình hiện nay lâm vào cảnh “hấp hối nguy kịch”; sức mạnh vật chất, đồng tiền không ngừng chực chờ nuốt chửng giá trị tinh thần truyền thống gia đình. Bởi thế, hơn bao giờ hết, cần lắm ý thức làm sống dậy hay ít nhất đánh bóng lại nét đẹp yêu thương ngọt ngào vốn được vun đắp tự ngàn xưa.

Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, chàng trai thấy Con Cá Ngũ Sắc lượn lờ trong chậu thủy tinh được bày bán. Đó là một loài cá nước mặn xinh xắn bắt mắt mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua ngay. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất như một chuyên gia.

Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một chút. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo đó. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi chú cá yêu quý của anh nằm bất động trong đó vì nó không biết bơi.

Chàng thanh niên vô cùng tiếc xót!!! Nhưng đã quá muộn!!!

Câu chuyện trên đây phải chăng nhắc nhớ những bậc làm cha làm mẹ không bao giờ được phép quên sót bổn phận dạy dỗ và nêu gương sáng cho con cái!?

Nếu như học giả nọ đã nói: “Nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”, thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen học hành, … nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy; thì trách nhiệm của Đấng Sinh Thành vừa lớn lao cao cả vừa gánh nặng quằn vai.

Nguyện dâng lên Chúa, Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse tất cả những gia đình! Xin các Ngài tuôn đổ dồi dào ơn lành để họ trọn đời yêu thương và sống vì nhau khi an vui rộn rã tiếng cười hay cả lúc ngậm ngùi sục sùi buông tiếng khóc!

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

ĐIỀU RĂN THỨ V:  ĐIỀU RĂN THỨ SÁU

Xin nói ngay, đây là điều răn thứ sáu chứ không phải điều răn thứ nhất. Đôi lúc bạn có cảm tưởng đây là điều răn hàng đầu vì người ta nói đến nó nhiều quá. Người ta thường trách cứ Hội Thánh đã nhấn mạnh quá nhiều đến điều răn này, cứ như thể mọi sự khác đều xoay quanh điều răn này. Không thể phủ nhận rằng đã có lúc chúng ta nhấn mạnh quá đáng như thế. Ngày nay, ngược lại, chúng ta thấy tính dục lại trở thành câu chuyện dẫn đường trên các phương tiện truyền thông cũng như trong công chúng, bị khai thác bằng mọi cách. Vậy, ý định nguyên thủy của điều răn thứ sáu là gì? “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20,14). Các điều răn ở bảng hai (GLHTCG số 2067) nhắm đến môi trường sống của gia đình nhân loại, liên quan đến việc “phải tôn trọng cách đặc biệt sự sống, hôn nhân, của cải trần thế và lời nói” (số 2198).

Điều răn thứ sáu trước hết nhằm bảo vệ tình yêu hôn nhân. Trong cách nhìn của Kinh Thánh, tính dục “quy hướng tới tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ” (số 2360). Xác tín nền tảng này cũng dẫn đến tầm nhìn rộng lớn và bao quát hơn về điều răn thứ sáu, liên quan đến cách sống đúng đắn của những người không kết hôn, sống độc thân, cũng như người trưởng thành, trong vấn đề tính dục.

Không giống như nhiều thần thoại khác, Kinh Thánh nhìn tính dục nơi con người như một thực tại do Thiên Chúa muốn. Tính dục không phải là một tai hoạ hoặc tai nạn. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, và như thế, tính dục nơi người nam và người nữ là do Thiên Chúa muốn và có ý nghĩa tích cực. Chính vì thế trong các sách làm nên bộ Kinh Thánh, có sách Diễm Ca với những bài ca tuyệt vời ca tụng tình yêu giữa người nam và người nữ (số 1611). Như sách Diễm Ca diễn tả, tình yêu với tất cả những sắc mầu và niềm vui, luôn luôn là điều đáng trông mong và tìm kiếm, kể cả ngày nay.

Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng nói đến sự rối loạn mà tình dục đã gây nên kể từ sau tội nguyên tổ, khi con người xa lìa Thiên Chúa và tự biến mình thành mục tiêu tối hậu (số 398). Kể từ đó, sự hài hoà nội tại nơi con người bị đảo lộn: thân xác và linh hồn thường xuyên kình chống nhau, đam mê không còn tuân theo lý trí và ý chí, tương quan giữa những người khác phái trở nên căng thẳng và xung đột (số 400). Kể từ đó, con người phải đấu tranh vất vả để kềm chế năng lực tính dục mà Đấng Tạo Hoá đã đặt vào con người họ, sao cho nó đừng tự biến mình thành cùng đích tối hậu, nhưng thay vào đó, phải nhân hoá, trật tự hoá và toàn diện hoá nó (số 2337). Do đó điều răn thứ sáu trước hết không phải là bảng liệt kê những điều cấm đoán, đúng hơn, đó là bảng chỉ đường giúp chúng ta học yêu thương và ứng xử cho đúng đắn với tính dục. Truyền thống gọi đó là nhân đức khiết tịnh và tự chủ.

Sách Giáo lý nhấn mạnh đây là “một công việc bền bỉ và lâu dài, không bao giờ được coi như đã đạt tới một lần là xong” (số 2342). Đồng thời Sách Giáo lý cũng cho biết sự tự chủ này được thực hiện “qua những giai đoạn tăng trưởng, phải trải qua những bất toàn và rất thường là tội lỗi nữa” (số 2343). Đây cũng không chỉ là vấn đề nỗ lực cá nhân, nhưng còn bao hàm “nỗ lực về văn hoá”, vì “sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của chính xã hội lệ thuộc lẫn nhau” (số 2344). Cuối cùng, tuy khiết tịnh là một nhân đức luân lý nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, là ân sủng, là hoa trái của Thánh Thần; vì thế chúng ta phải cầu xin Chúa trợ giúp để có thể sống khiết tịnh cách trọn vẹn.

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

TRANG QUỚI CHỨC

ĐI TRONG ĐÊM TỐI

Trong hành trình của đời sống đức tin, chắc chắn chúng ta phải trãi qua không ít những đêm tối như một quy luật của sự phát triển và để vượt qua được những đêm tối ấy, quả thật đúng là một thành công.

Là người “có đạo”, chúng ta được dạy cho biết Thiên Chúa là Đấng quyền năng, là Chúa tể vạn vật, là Đấng xét xử công bình, là Đấng hay thương xót…..Nhưng, lòng bạn có dao động không khi đứng trước một xã hội đầy bất công, người tốt luôn phải khốn đốn, bị ức hiếp, thiệt thòi, bị chà đạp; trái lại, kẻ ác luôn nhỡn nhơ, vênh váo, ngang tàn, luôn phè phỡn mà không bị ai trừng phạt ? Thiên Chúa ở đâu ? quyền năng ở đâu ? công bằng ở đâu ? lòng thương xót ở đâu ? Chắc chắn bạn đã trãi không ít những hoàn cảnh chới với khi kêu trời, trời chẳng thấu, gọi đất, đất chẳng hay. Lúc đó bạn đã nghĩ gì, làm gì ? Làm sao để tin, làm sao để cậy dựa khi thực tại quá đen tối hầu như che mờ con mắt đức tin, sức mạnh của sự dữ gần như chiến thắng hoàn toàn sức bám víu yếu ớt còn lại sau bao nổ lực bám vào sự quan phòng của Chúa. Có nhiều cách để xử lý tình thế : một là buông xuôi, mặc thế sự tới đâu hay tới đó; hai là không cần Chúa nữa, tự xử cho xong, tìm cách nào đó hợp lý nhất để đối phó tình thế; ba là cố kêu cầu Chúa trong sự bất lực và chới với.

Tuỳ vào cách nghĩ và làm mà đức tin của mỗi người lớn lên cách mạnh mẽ hay bệnh hoạn, vững chắc hay siêu vẹo và nguy hiểm hơn: mất đức tin.

Quả thật, nhiều lúc tôi thầm nghĩ phải chi mình được làm trời. Có những lúc trong cuộc sống gặp những thử thách quá sức chịu đựng, khiến tôi muốn buông tay nhưng dường như có một bàn tay bất ngờ siết chặt bàn tay tôi, một bàn tay khác áp vào bàn tay tôi như muốn nói với tôi: đừng bỏ cuôc, hãy kiên trì. Và cảm ơn Chúa, cho đến bây giờ tôi vẫn còn đứng vững.

Khi nghe lời Chúa Giêsu nói: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18,7a), tin thì tin thật bởi Chúa có bao giờ nói dối, nhưng để xác tín thì thật sự phải nghiền ngẫm Kinh Thánh mới có thể dẹp đi nỗi đắn đo trong lòng.

Hai câu chuyện trong Kinh Thánh có thể nói là nổi bật nhất để chứng minh điều này mà tôi nghiệm thấy đó là:

Câu chuyện về bà Ét-te và dân Do Thái thời lưu đày ở Babylon. Còn gì nguy hiểm hơn khi toàn dân Do Thái sắp bị tru diệt do âm mưu của Ha-man mà họ không hay biết, họ không có ai để bênh vực, cũng không có khả năng chống cự. Thế lực để họ cậy dựa không còn ai khác hơn là Chúa của họ, một Thiên Chúa vô hình, và lời của bà Ét-te nhắn với ông Mooc-do-khai : "Xin cha cứ đi tập hợp tất cả những người Do-thái ở Su-san lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như thế. Sau đó, dầu pháp luật không cho phép, con cũng vào chầu vua. Có chết con cũng đành."(Et 4,16). Chính nhờ lời cầu nguyện mà bà đã có dũng khí để lật đổ âm mưu của Ha-man và Thiên Chúa đã ra tay cứu giúp dân Do Thái thoát nạn, không những thế Ngài còn dùng chính giá mà Ha-man dựng sẳn đinh treo cổ Mooc-do-khai để treo cổ chính Ha-man.

Câu chuyện thứ hai áp dụng chính nơi Đức Giêsu. Một đời sống làm theo ý Chúa Cha, dạy người ta trông cậy, tin tưởng nơi Chúa. Thế rồi, trong vườn Cây dầu sự việc xảy ra thật trớ trêu. Ba lần kêu cầu, van xin. Sự gì đã xãy ra ? Một sự im lặng đáng sợ ! và Chúa Giêsu đã phải mang lấy sự im lặng ấy lên thập giá. Có lẽ khi uống giấm chua pha mật đắng Chúa Giêsu con chưa thấy đắng bằng. Và Ngài đã chết.

Thế nhưng, sau đó là gì, chắc ai cũng biết. Những điều chúng ta có thể rút ra từ hai sự việc trên là gì ?

Bởi chúng ta là con người, yếu đuối, sức lực, sự kiên nhẫn, lòng can đảm có giới hạn vì thế nhiều lúc chúng ta nóng vội, run sợ, không dám cùng Chúa đi hết con đường mà người đã vạch. Giống như thánh Phêrô lúc đầu hăng hái xin Thầy cho được đi trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng, đi được một đoạn thì đã hốt hoảng để rồi chìm xuống, khiến Chúa phải phì cười mắng yêu: “Người hèn tin, sao lại nghi ngờ.” (Mt 14,21). Lúc đó chúng ta chỉ cần làm nũng với Chúa : Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho chúng con. Thì chắc chắn mọi sự sẽ tốt đẹp hết thôi !

Thiên Chúa có kế hoạch của Người, Người không để cho bất cứ ai lèo lái, cũng không bị ai khích bác, Người có thể hoán đổi sự dữ nên sự lành, sự chết ra sự sống vì thế sự im lặng của Chúa đối với chúng ta, những con người yếu đuối, giới hạn là nỗi lo lắng, nhưng nếu chúng ta cố gắng rướn mình lên, vươn tay cố gắng bám vào tay Người, chắc chắn Người sẽ kéo chúng ta sẽ ra khỏi vùng tối tăm của bóng tối đức tin để thấy lòng nhân thứ và hay thương xót của Người.

Lm Antôn Lưu Thanh Tâm

 

SỐNG ĐẸP

Một Vài Cách Thức Giúp Mùa Vọng Có Ý Nghĩa Hơn

 Mùa Vọng đến. Đó là khoảng thời gian đón chờ Chúa Giáng Sinh. Sau đây là một vài cách thức giúp mọi người làm cho khoảng thời gian chờ Chúa đến thêm phần ý nghĩa.

10. Bố thí

Bạn hãy lên kế hoạch để làm cho Mùa Vọng của mình thêm đáng nhớ qua việc đóng góp tiền bạc, nhu yếu phẩm cho những người nghèo.

9. Đọc sách

Cuộc sống bận rộn hôm nay, khiến người ta quên đi việc đọc sách. Vì vậy, Mùa Vọng này là thời điểm để tìm đọc những quyển sách liên quan đến chủ đề Giáng Sinh hay bất cứ thể loại sách nào bạn thấy thích thú.

8. Lắng nghe

Hãy tìm những bản nhạc Giáng sinh. Điều này giúp cho nơi ở của bạn thêm tươi vui và gợi hứng tâm hồn của bạn hướng về ngày Chúa đến.

7. Liệt kê những công việc cần thiết

Có quá nhiều việc phải làm. Lập một danh sách thứ tự ưu tiên các công việc sẽ giúp cho bạn thấy cuộc sống của bản thân thêm trật tự hơn.

6. Gọi điện thoại đến những người bạn cũ

Ai chẳng có bạn bè. Có khi bạn đã mải bận rộn trong cuộc sống mà quên đi những người đã có một thời đi qua đời của mình. Hãy làm cho họ sống lại trong tâm hồn bằng những lời hỏi thăm thân tình.

5. Viết một lá thư

Ngày nay, một lá thư có vẻ khan hiếm. Vì vậy, lá thư trở thành một thứ thật đáng giá. Hãy cho người khác cảm nhận rằng, họ quan trọng với bạn thế nào qua lá thư diễn tả tâm tình của bạn về họ.

4. Cố gắng nghỉ ngơi và thư giãn

Cuộc sống quá căng thẳng và bận rộn với biết bao bổn phận và trách nhiệm phải chu toàn. Trong mức có thể, bạn hãy tìm cho mình những giây phút ta-với-ta.

3. Tập thể dục

Nhiều người biết rằng sức khỏe thật quan trọng, nhưng lại không cảm thấy thoải mái khi tập thể dục. Hãy dành khoảng 30 phút mỗi ngày chạy bộ, bạn sẽ thấy cuộc sống trở nên khác biệt trong những ngày chờ Chúa đến.

2. Nhờ ai đó làm một công việc bạn cần

Có lẽ, chẳng ai muốn làm phiền người khác. Nhưng, hãy để thể hiện sự quan trọng của người khác đối với bạn, bằng cách xin giúp đỡ từ những người xung quanh. Điều này giúp họ nhận ra rằng họ thực sự hữu ích cho mọi người.

1. Đến nhà thờ để cầu nguyện

Điều này có vẻ thừa thãi, nhưng lại là cách thức đích thực để bạn làm mọi thứ xung quanh đổi mới và giúp bạn biến đổi giống như Mẹ Maria và thánh nữ Martha. Bạn sẽ như những mục đồng, những vị vua và các Thiên Thần đến để triều bái hài nhi Giêsu.

Mùa Vọng rồi sẽ qua mau, nhưng những công việc này sẽ làm cho tình yêu của bạn đối với Đấng Cứu Chuộc sẽ luôn còn mãi.

Đức Thiện SJ. (Theo Aleteia)

Nguồn: dongten.net

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

TÌNH THƯƠNG CHÚA KHÔNG GIỚI HẠN

Vào một buổi sáng đẹp trời, có một người phụ nữ đứng tuổi cùng với người con gái đến gặp một vị linh mục:

- Chào cha, con không phải là người Công giáo. Con xin gặp cha và nhờ cha giải thích cho con một điều bức xúc.

- Điều gì vậy chị.

- Nói thật với cha là con sắp gã con gái cho người có đạo. Gia đình hai bên đã gặp nhau rồi. Với quan niệm con gái lấy chồng phải theo chồng nên vợ chồng con sẵn sàng cho con được học giáo lý để theo đạo.

- Vậy là tốt lắm rồi chị.

- Thưa cha, cách đây vài năm trong dòng họ của con cũng có một cháu gái lấy chồng có đạo. Mọi sự thỏa thuận giữa đôi bên tốt đẹp, cháu của con cũng theo đạo. Nhưng đến giờ rước dâu, thì gia đình bên đàng trai yêu cầu bên nhà gái phải lấy vải che bàn thờ ông bà tổ tiên lại. Nhiều người trong gia đình con lúc ấy cảm thấy rất buồn và xem đó là một sự xúc phạm. Vậy con hỏi cha bên đạo Công giáo có bắt buộc như vậy không?

- Tôi trả lời ngay với chị là không có quy định như thế đối với người Công giáo. Có lẽ, do gia đình Công giáo đó chưa hiểu đúng giáo lý nên mới có yêu cầu như vậy. Hiếu kính với ông bà tổ tiên là một trong những điều răn quan trọng mà người tín hữu Công phải giữ. Hơn nữa việc tỏ lòng tôn kính với tổ tiên ông bà là một trong những nét đẹp của người Á đông và cách riêng là của người Việt nam. Vậy trong cưới hỏi có nghi thức với ông bà tổ tiên là việc nên làm và cần phải làm.

- Vậy là tôi an tâm rồi. Cám ơn cha nhiều.

Dĩ nhiên, một sự kiện xảy ra có nhiều nguyên nhân dựa trên nhiều góc độ khác nhau. Xét về tôn giáo thì đạo Công giáo còn có tên gọi là đạo yêu thương. Vì lẽ, người tín hữu tôn thờ một Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện sống động và rõ nét nơi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đến thế gian qua khung cảnh gia đình có cha và có mẹ. Người sống tôn trọng và hiếu thảo với Đức Mẹ cũng như thánh Giuse một cách tuyệt vời. Đó là thể hiện tinh thần hiền lành và khiêm nhượng như Người mời gọi các môn đệ hãy noi gương (x. Mt 11, 29b).

Trước khi trở thành người con Chúa, mỗi tín hữu đều là con người. Hễ là con người thì cốt lõi là phải biết giữ chữ Hiếu. Nét đẹp của nền văn hóa Á Đông không phải chỉ khi cưới hỏi mà dường như trong những dịp quan trọng của đời người đều nhớ đến các Đấng sinh thành. Tùy vào các Đấng ấy còn sống hay qua đời thì người ta đều có cách thể hiện cho xứng hợp.

Trước khi về trời Chúa Giêsu căn dặn: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần." (Mt 28,19). Nghĩa là mọi tín hữu đều có bổn phận rao truyền tình thương của Chúa cho mọi người ở mọi thời đại ở mọi nền văn hóa khác nhau.

Những gì tốt đẹp bất cứ thời đại hay nền văn hóa nào miễn sao không nghịch lại với đức tin và luân lý thì người tín hữu Công giáo không nên loại trừ. Trong tình thương của Chúa luôn là dấu cộng chứ không dầu trừ, là quảng đại chứ không ích kỷ và là rộng mở chứ khép kín.

Lm Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Ba Cách Thức Không Thể Đem Con Cái Bạn

Quay Lại Với Giáo Hội

Nếu con cái của bạn đã trôi dạt, rời xa Giáo Hội, bạn không cô đơn. Giáo Hội Công Giáo đang xuất huyết người trẻ. Một nửa số trẻ người Mỹ lớn lên trong các gia đình Công Giáo (đúng 50%) không còn nhận mình là người Công Giáo nữa. Khoảng tám trong mười người (79%) đánh mất đức tin của họ trước tuổi 23.

Một số thanh thiếu niên trôi dạt khi tìm kiếm bản sắc riêng của mình. Một số đã bị tổn thương bởi những người trong Giáo Hội. Những người khác trượt vào những lối sống xung đột với giáo huấn của Giáo Hội. Nhiều người vào đại học, kết thân với những người ngoài Kitô giáo hay những giáo sư hoài nghi, và dần dần mất đi niềm tin của mình. Một số bước vào thế giới, bắt đầu xây dựng một gia đình, bị cuốn trôi trong công việc, sở thích, và cuộc sống gia đình, và rồi mất niềm tin trong những tất bật này.

Có rất nhiều câu chuyện nhưng hầu hết đều có chung một hệ quả tương tự: những người trẻ tuổi rời xa khỏi Giáo Hội.

Tất nhiên, tất cả chúng ta đều cố gắng hết sức để lôi kéo họ trở lại. Nhưng sự tuyệt vọng đôi khi có thể dẫn chúng ta đến việc theo đuổi các mục tiêu đúng nhưng bằng các phương pháp sai. Vì vậy, nếu bạn muốn lôi kéo con bạn trở lại, chúng ta hãy nhìn kỹ vào ba chiến lược, mà bạn không nên sử dụng. Mỗi bước đi sai lầm sẽ chỉ tạo ra thêm một bức tường ngăn chặn con bạn trở về với Giáo Hội.

1. Buộc đi lễ

“Chán quá! Ước gì tôi có thể làm cho nó bắt đầu đi lễ trở lại!”. Maria phàn nàn với tôi, buồn phiền vì đứa con ở tuổi dậy thì. “Nó chẳng đoái hoài gì đến những gì tôi làm - cầu xin, nài nỉ, ra lệnh, khóc lóc – cũng chẳng làm sao lay động được nó. Một vài lần tôi đã có thể buộc nó phải đi lễ bằng cách đe dọa không trả tiền điện thoại di động của nó hoặc cắt không cho nó tiền tiêu xài nữa, nhưng nó chỉ đến ngồi trong nhà thờ mặt lạnh như tiền, cáu kỉnh ra vẻ không muốn đến đó”.

Đây là một mẹo rất quan trọng và có lẽ đáng ngạc nhiên: hãy ngừng buộc con em mình tham dự Thánh Lễ.

Điên à? Chắc chắn không điên đâu! Nếu bạn muốn con cái bạn có một tiến bộ lâu dài trong đức tin, hãy nhớ rằng tham dự Thánh Lễ phải là bước cuối cùng của bài toán đố, không phải là bước đầu tiên. Đó phải là điểm đến cuối cùng, là hoa quả và hệ quả của một mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ này.

Bạn phải đặt để những khối đá xây dựng đầu tiên khác ngõ hầu Thánh Lễ có thể mang lại những ơn ích cho linh hồn con bạn. Một linh mục gần đây nhận xét với tôi rằng: “Nếu ai đó đến dự Thánh Lễ, nhưng không muốn và không chuẩn bị trước, người ấy có nguy cơ lớn là bệnh hoạn về tâm linh. Nếu chương trình nghị sự của chúng ta chỉ đơn giản là làm cho mọi người đi lễ - nếu đó là tất cả những gì chúng ta cố gắng làm, mà không cần bất kỳ bước trung gian nào - thì tôi e rằng chúng ta có thể làm cho dân chúng bị bệnh nặng hơn, từ góc độ tâm linh”.

Ý tưởng đó có vẻ rắc rối đấy, nhưng nó bắt nguồn từ Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô. Ngài viết: “Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết”.

Thánh Phaolô đã ám chỉ đến những đau khổ thể lý người dân Côrintô đã phải chịu như là hậu quả của việc cử hành thánh lễ mà không có sự tôn kính thích hợp, và đặc biệt là không nhận ra sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Trong thời đại chúng ta, Thiên Chúa không mấy khi trừng phạt một người với bệnh tật hay tử vong chỉ vì ngủ gật trong Thánh Lễ hoặc đón nhận Bí Tích Thánh Thể không xứng đáng. Nhưng nếu chúng ta đến với Thánh Lễ mà không chuẩn bị trước, không tập trung, hoặc không muốn tham gia, thì chúng ta có thể bị ảnh hưởng tinh thần nghiêm trọng. Thay vì kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa, Thánh Lễ có thể tách ly mối quan hệ đó.

Tất nhiên, hầu hết các bậc cha mẹ không có ý định này. Khi họ buộc con mình đi tham dự Thánh Lễ, họ đang hành động theo ý nghĩ tốt và biết rằng:

1) Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Lễ một cách đặc biệt;

2) Vì vậy, họ phải làm mọi thứ có thể được để con mình có mặt ở đó.

Tư tưởng nhấn mạnh đến việc tham dự thánh lễ đã được thúc đẩy bởi nền văn hóa Tin Lành đang bao quanh chúng ta, trong đó các buổi thờ phượng chung được xem như là một cửa ngõ để tham gia đầy đủ trong đời sống Kitô hữu. Nếu anh chị em Tin Lành của chúng ta muốn đưa một người bạn lạc xa Giáo Hội của họ trở lại, động thái đầu tiên của họ là đưa người ấy đến nhà thờ, mọi chuyện khác tính sau. Một khi người đó đã chịu đến nhà thờ, họ tin là người ấy sẽ tìm thấy sự đón tiếp nồng nhiệt, một thông điệp mạnh mẽ và liên quan tới mình, và một lời mời gọi tham gia vào một nhóm nhỏ. Nói cách khác, nếu con đường trở nên người môn đệ của Chúa là một cái phễu, thì Tin Lành đặt các buổi nhóm trong nhà thờ ở phía trên, ở đầu cái phễu, trong khi những người Công Giáo đặt Thánh Lễ ở phía dưới, ở phần cuối của cái phễu.

Vì vậy, lần sau khi bạn đang muốn quyết liệt bắt con em mình phải tham dự Thánh lễ, cho dù bạn biết trong lòng nó đang muốn kháng cự, thì hãy lùi lại một chút. Đừng bắt buộc nó, và đừng lặp đi lặp rằng bỏ Lễ là một tội trọng – đúng là như thế, nhưng cơ bản là có nói như thế cũng là vô ích ở giai đoạn này. Trước hết, hãy gieo những hạt giống khác.

2. Chỉ trích lối sống của nó

Abraham Piper, người trôi dạt khỏi Giáo Hội khi còn là một thiếu niên, có lời khuyên tốt cho cha mẹ của những đứa trẻ đã chọn một quyết định đạo đức xấu, đó là: “Bất chấp những hành vi của con mình nhằm thể hiện sự bất tín của nó, luôn luôn chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta chú ý đến căn bệnh trong tâm hồn của nó chứ không phải là các triệu chứng bên ngoài”.

Bắt đầu với những mệnh lệnh về đạo đức thường là không lay động được những người trẻ tuổi. Nếu điều đầu tiên con bạn nghe là “đừng làm điều đó” hoặc “thay đổi cuộc sống của mày đi” hay “cắt đứt ngay cái mối quan hệ đó đi cho tao” nó sẽ nhanh chóng đẩy bạn ra ngoài. Bạn có thể sẽ làm mất đi luôn cơ hội để hùng hồn thuyết phục nó trở lại với Thiên Chúa và Giáo Hội của Người. Điều này không có nghĩa là bạn chỉ nên quan sát cách yên lặng và thụ động khi con bạn đưa ra những quyết định sai lầm. Thay vào đó, nó có nghĩa là phương pháp tiếp cận đầu tiên của bạn nên được đánh dấu bởi sự dịu dàng và kiên nhẫn, chứ không phải là nóng giận chỉ trích nó.

Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên chỉ trích cách tiếp cận “mệnh lệnh đạo đức” như vậy. Trong cuộc phỏng vấn lớn đầu tiên của mình trong tư cách là giáo hoàng, ngài giải thích tại sao chiến lược tốt nhất là chúng ta nên giới thiệu ai đó về Chúa Giêsu Kitô trước khi nói đến các yêu cầu đạo đức bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ đó. Ngài nói: “Điều quan trọng nhất là việc công bố ngay từ đầu: Chúa Giêsu Kitô đã cứu rỗi bạn… Tuyên bố trong một phong cách truyền giáo phải tập trung vào các yếu tố thiết yếu, về những điều cần thiết: đây cũng là những gì mê hoặc và thu hút hơn, những gì thiêu đốt con tim người ta, như đã xảy ra với các môn đệ trên đường Emmaus. Chúng ta phải tìm kiếm một sự cân bằng mới, nếu không, ngay cả công trình luân lý của Giáo Hội cũng sẽ sụp đổ như ngôi nhà làm bằng giấy, đánh mất sự tươi mới và hương thơm của Tin Mừng. Những đề xuất từ Tin Mừng phải đơn sơ, sâu sắc và rạng rỡ hơn. Chính từ đề xuất như thế, sẽ tuôn trào các hệ quả luân lý. Việc công bố tình yêu cứu độ của Thiên Chúa phải đi trước mệnh lệnh luân lý và tôn giáo. Hôm nay đôi khi dường như thứ tự ngược lại là phổ biến hơn”.

Hầu hết mọi người trẻ ngày nay tin vào một cái gì đó gọi là “moralistic therapeutic deism” (tức là thuyết cho rằng thế giới này có các thần minh nên con người phải ăn ngay ở lành), trong đó tập trung chủ yếu vào những điều được làm và những điều đức tin không cho phép làm (vì thế có hạn từ “moralistic”). Tuy nhiên, là một người cha, người mẹ, mục tiêu của bạn không chỉ đơn giản là cải thiện luân lý hoặc thay đổi hành vi. Mục tiêu của bạn phải là thu hút con em mình vào một mối quan hệ phát triển không ngừng với Chúa Giêsu trong Giáo Hội của Người. Một khi bạn làm điều đó, những thay đổi về đạo đức chắc chắn sẽ đi theo.

Nhưng chúng ta hãy thẳng thắn: điều này không dễ dầu gì. Nó đòi phải cắn lưỡi nhiều lần khi bạn cảm thấy sự thôi thúc phải quở trách con bạn khi biết rằng nó đang lìa xa Chúa. Tuy nhiên, như Bert Ghezzi khẳng định rõ ràng: “Các vết sẹo sẽ có giá trị của nó!”.

Đôi khi quở trách đạo đức là cần thiết để một đứa trẻ bắt đầu trở về với Giáo Hội. Những đứa con ngỗ nghịch đôi khi cần một ai đó kéo chúng ra khỏi những hoang mang về đạo đức của chúng và nói thẳng với chúng: “Những quyết định này đang hủy hoại cuộc sống của con” hoặc “Con có thể đạt được nhiều hơn nữa nếu con chọn một con đường khác”. Nhưng thường thì sẽ tốt hơn nếu những sửa sai đó không phải là điều đầu tiên chúng nghe thấy và lý tưởng hơn khi nó đến từ một người bạn đáng tin cậy, người cố vấn, hoặc người khác quan trọng đối với nó. Mối quan hệ của bạn với trẻ bướng bỉnh thường là đã quá mong manh và cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đừng mạo hiểm bắt đầu với một lời khiển trách dữ dội.

3. La rầy liên tục

Nhiều bậc cha mẹ la rầy liên tục, thúc bách, và quấy rầy con cái của họ - thậm chí cả khi chúng đã trưởng thành - để buộc chúng đi nhà thờ thường xuyên hơn hoặc để thay đổi lối sống của chúng. Chiến lược này hầu như không bao giờ có tác dụng, và trong thực tế, nó thường có tác dụng ngược lại: nhiều người cố tránh xa Giáo Hội Công Giáo chỉ vì cha mẹ của họ liên tục quấy rầy họ.

Vì vậy, ngay bây giờ bạn hãy cố tránh đưa ra những câu hỏi như: “Tại sao con làm như thế với cha mẹ?”, hoặc “Khi nào con hết lười biếng và đi nhà thờ trở lại?”. Gần như không thể nào làm cho con cái cảm nhận được hoàn toàn nỗi đau của bạn, không thể nào làm cho chúng biết bạn tuyệt vọng đến mức nào để lôi kéo chúng trở lại với Giáo Hội. Vì vậy, không đáng để lãng phí năng lượng của bạn vào những lời cằn nhằn cố làm cho chúng có cảm giác tội lỗi.

Những tiếng thở dài thườn thượt, những lời than van thụ động dai dẳng kêu trời trách đất còn tệ hơn những lời cằn nhằn trách móc trực tiếp. Sarah, một phụ nữ trẻ đã lâu không đi lễ, nói với tôi: “Tôi không thể chịu đựng được khi mẹ tôi nói chuyện với tôi về nhà thờ nhưng tôi thậm chí còn ghét cay ghét đắng hơn nhiều khi mẹ tôi chỉ la một chút, rồi thở dài, hay chắc lưỡi. Mẹ tôi không ngớt lời khen em tôi đi dự Thánh Lễ và làm cho tôi có cảm giác rằng em tôi mới chính là một người con gái tốt”.

Thánh Gioan Phaolô II, có lẽ là nhà truyền giáo hiệu quả nhất của thế kỷ XX, tổng kết một chiến lược khác tốt hơn. Ngài nói đơn giản như thế này: “Giáo Hội đề nghị chứ không áp đặt gì cả”. Những bậc cha mẹ thành công trong việc lôi kéo con cái của họ trở lại với Giáo Hội không cằn nhằn hay ép buộc con cái họ về mặt tôn giáo. Thay vào đó, họ mời gọi, nhẹ nhàng và trân trọng, thông qua trò chuyện ấm áp và tình yêu vô điều kiện. Đừng phàn nàn về những khuyết điểm của con quý vị; nhưng mời gọi chúng vươn tới một cái gì đó tốt hơn. Đề xuất, nhưng đừng áp đặt.

 Tác giả: Brandon Vogt

Chuyển ngữ: J.B. Đặng Minh An

Nguồn: Học Viện ĐaMinh (catechesis.net)

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật III Mùa Vọng

Chúa Giê-Su Là Ai Trong Đời Tôi

Mt 11,2-11

“Một đời lần trong đêm tối, tình yêu con nay như hao mòn. Một đời tìm trong thao thức, lòng con ngập tràn bao nỗi buồn . . .” (sống trong niềm vui – Lưu Hồng). lời bài hát diễn tả nỗi khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời mình, tìm kiếm trong khoắc khoải và lo âu. Đó cũng là tâm tình của Gioan tẩy giả trong tin mừng hôm nay.

Gioan tẩy giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một thẩm phán chí công, thưởng phạt nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến là ngày kinh hoàng đối với những người tội lỗi, những kẻ không chịu ăn năn sám hối. Nhưng khi Chúa Giê-su đến thì Người không làm như vậy nên Gioan thắc mắc, không biết Chúa Giê-su có phải là đấng Cứu Thế mà ông rao giảng không ? tại sao Ngài vẫn chưa bắt đầu sứ mạng Cứu thế của mình. . .? biết bao nghi vấn được đặt ra trong tâm trí của Gioan mà không có lời giải đáp.

Để trả lời cho Gioan và các môn đệ, Chúa Giê-su đã mượn lời của ngôn sứ Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế:  “người mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại. . .” Đến lúc này thì Gioan mới hiểu Đấng Cứu Thế đến “không phải để xét xử hay luận phạt nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư hỏng”. “ Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối”. . .

Cái nhìn của Gioan về Đấng Cứu Thế uy quyền đã có cách đây gần hai ngàn năm, một cái nhìn sai nhưng ngày nay không biết bao người vẫn đi vào con đường đó, vẫn mang cặp mắt kính đó khi nhìn về Thiên Chúa, họ vẫn đang mong đợi một đấng Cứu thế khác, một  Đấng Cứu Thế theo cái nhìn của họ. Bởi vì, tại sao Chúa lại để cho người tốt phải gặp nhiều nỗi gian truân, tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ và bệnh tật, tại sao những kẻ ác lại hưởng an nhàn ? . . . biết bao vấn đề được đặt ra, biết bao câu hỏi mà họ thật sự không thể giải đáp. Chính vì vậy mà họ cần một Đấng Cứu Thế khác, Ngài trừng phạt hơn là yêu thương, thống trị hơn là phục vụ.

Lời Chúa hôm nay như như một lời mời gọi tha thiết, nhằm hoán cải cái nhìn của chúng ta về Đấng Cứu thế : Chúa Giê-su là ai trong cuộc đời tôi ? tôi có xác quyết Ngài là Đấng Cứu thế trong đời tôi không ? khi gặp những thử thách, đau khổ, thất vọng. . . tôi có vững tin vào Ngài hay không ?

Lạy Chúa, đã có nhiều lần trong cuộc đời con đã nghi ngờ Ngài là Đấng cứu Thế, cũng không biết bao nhiêu lần con đặt nhiều nghi vấn giống như Gioan tẩy giả, nhưng con biết Ngài vẫn luôn nói với con bằng cách này hay cách khác, để giúp con luôn xác tín vào Ngài. Xin ban thêm đức tin cho con để con luôn thể hiện niềm xác tin đó trong cuộc sống hằng ngày của mình.

Lm Giuse Nguyễn Phước Lễ

 

Chúa Nhật IV Mùa Vọng

Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta        

Mt 1, 18 – 24

Tác giả Đào Trung đã mở đầu bài hát “không ai là một hòn đảo” bằng một kinh nghiệm đầy tính nhân văn:  “Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi! không phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi! Thế giới này không ai là một hòn đảo! vườn hoa này không có loài hoa lạc loài!” Vâng, không ai là một hòn đảo, vì chính Thiên Chúa giáng trần đã xoá bỏ khoảng cách giữa con người với con người và chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong chốn con người đã mở ra một kỷ nguyên yêu thương, hoà hợp trên chốn dương gian.

Bắt đầu từ bài đọc 1, Isaia kể lại câu chuyện của vua Achaz. Achaz đã bỏ Chúa, sống xấu xa, truỵ lạc, chạy theo ngẫu tượng. Isaia nói cho vua biết triều đại của vua David chỉ được bảo đảm bằng cách đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Iasia đã yêu cầu nhà vua xin Thiên Chúa cho một dấu hiệu để chứng minh Thiên Chúa luôn phù giúp vua. Achaz sợ hãi và ông từ chối yêu cầu. Dù vậy, Chúa vẫn cho một dấu hiệu “trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, và sẽ đặt tên nó là Emmanuel".

Trong đoạn Tin Mừng về giấc mộng của Giuse, Matthêu đã giải mã được bí mật của hài nhi nằm trong bụng Đức Mẹ, Con Trẻ thực sự là Ðấng Thiên Sai do Chúa Cha gởi tới. Như vậy, dấu hiệu mà Isaia đã nói với vua Achaz đang được thực hiện nơi Đức Trinh Nữ Maria. Trong câu chuyện này, Giuse nổi lên như một nhân vật quan trọng. Có vẽ như Giuse chỉ là người hát bè nhì cho Maria thôi nhưng Giuse lại là một thành phần quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Thật vậy, vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, chịu thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần, nhưng việc này diễn ra rất riêng tư và âm thầm nơi Thiên Chúa và Maria thôi. Chính Giuse đưa Ngài ra công khai khi nhận Ngài và dòng tộc Đavit. Qua Giuse, Thiên Chúa chính thức gia nhập gia đình nhân loại. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của gia tộc và gia đình. Vận mệnh của Người gắn liền với lịch sử quốc gia và dân tộc, gia đình ấy. Nếu Maria đã góp máu thịt làm nên con người Đức Giêsu thì Giuse đã lấy chính thân phận dòng tộc Đavit của mình để làm nên gốc tích con người cho Đức Giêsu, để Thiên Chúa đủ điều kiện làm Đấng Emmauel. Tên 'Emmanuel' xuất phát từ một nhóm các từ tiếng Do Thái, và có nghĩa là "Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, một hình ảnh quen thuộc và đầy yêu thương trong cả Cựu Ước và Tân Ước. Khi Chúa gọi Môisen, Người đã khuyến khích tinh thần của ông với lời hứa: "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh 3:12). Rồi đến lượt Giêrêmia, Giavê cũng lên tiếng báo trước: “Ta ở cùng ngươi" (Gr 1:8). Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng thì cũng là lời hứa: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20).

Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa "ở cùng người yêu", và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được "sống chung với người yêu". Một chàng trai có thể hứa với người con gái: "Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm nhẫn cưới; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...", nhưng nếu không có lời hứa "ở cùng em" thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn không phải là những lời chúc mừng, hay những phần quà bạc tỷ, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa "ở cùng nhau suốt đời".

Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến "ở cùng" con người, mới có danh hiệu Emmanuel. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa. Ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, ngày Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, cho hoà bình chớm nở trên trái đất, Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. 

Gợi ý: Dành thời gian thăm viếng nhau trong mùa Giáng sinh. Nếu có bất hoà với ai hãy tìm cách xoá bỏ, để chúng ta được gần nhau hơn trong kỷ nguyên của tình yêu thương này.

Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, nhưng còn là lời mời gọi chúng ta hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người, để việc tôi "ở cùng" tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Lm Phêrô Nguyễn Minh Thái

 

Lễ Giáng Sinh

Ánh Sáng và Bóng Tối

Ga 1, 1 - 18

Chúng ta biết rằng, ngày 25/12 không phải là ngày Chúa Giêsu sinh ra thật. Cũng không ai biết chính xác Chúa sinh ra vào ngày nào. Nhưng Giáo hội chọn ngày 25/12 là ngày Sinh nhật của Chúa Giêsu vì ngày này nhiều nước ở thế giới Phương Tây, đặc biệt là Hy lạp đã tổ chức kính Thần Mặt Trời rất long trọng. Giáo hội muốn cho mọi người thấy rằng chính Đức Giêsu mới chính là Mặt trời Công Chính, là Ánh sáng thật – Ánh sáng ban Sự sống cho con người, chứ không phải anh Thần Mặt Trời Astra nào đó.

Có thể nói, trước khi Đức Giêsu Giáng sinh, nhân loại đang ngụp lặn trong bóng tối vì không có ánh sáng của Chân lý soi đường dẫn lối, nên con người không biết đường biết hướng về đâu. Nói như thế, có lẽ có nhiều người thắc mắc rằng: Như vậy thì Lời Chúa trong Cựu Ước thì sao? Chẳng lẽ lời của các Ngôn sứ lại ra vô hiệu hết hay sao? Không phải thế. Lời các Ngôn sứ vẫn có giá trị. Nhưng các Ngôn sứ, ngay cả Giao Thẩy Giả cũng chỉ đến để rao giảng và làm chứng cho ánh sáng thật và Chân lý là Đức Giêsu Kitô mà thôi. Còn chính Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sáng. Người có quyền tha tội và ban sự sống cho con người. “Ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12), nghĩa là ban sự sống muôn đời cho họ vì Thiên Chúa là Sự sống vĩnh cửu, sự sống đích thực.

Nhưng đáng buồn thay, Ngôi Lời là Ánh Sáng thật đã đến thế gian nhưng thế gian đã chối từ và không tiếp nhận ánh sáng đó. Lý do nào mà con người không muốn đón nhận Ánh Sáng thật là Đức Giêsu? Có thể có những lý do sau đây:

- Con người thích ở trong Bóng tối. Họ sợ đến cùng ánh sáng vì các việc làm của họ thì xấu xa. Họ sợ phải phô bày công việc của mình vì họ đang làm những công việc đen tối. Họ muốn huỷ diệt ánh sáng vì ánh sáng đã làm họ mất “mảnh đất sống”.

- Họ sợ phải tha đổi, sợ phải bỏ lớp vỏ mà họ đã xây đắp bao năm rồi. Não trạng cố hủ, lão hoá đã thâm căn cố đế trong họ rồi. Những người này sẽ không ngần ngại nói rằng: “rượu cũ ngon hơn” dù họ chưa nếm rượu mới bao giờ và biết rượu mới có thể ngon quí giá hơn rất nhiều.

- Bán tín bán nghi. Đây là thái độ của những con người vụ lợi. Họ muốn đem lên bàn cân tất cả những giá trị trong cuộc đời này, ngay cả đó là vấn đề tâm linh. Họ phải thấy quyền lợi ngay trước mắt thì họ mới đi theo. Vì thế, có rất nhiều người bước`Chúa theo Chúa Giêsu nhưng khi gặp hay nghe những gì không đúng với ý muốn của họ là họ tìm cách thoái lui ngay. Hạng người này có thể nói là nhiều nhất trong thời của Chúa Giêsu, ngay cả các môn đệ cũng có não trạng đó. Nhưng may mắn là họ được Chúa thanh lọc, nên họ đã thức tỉnh và nhận ra sai lầm của mình. Đơn cử một vài trường hợp mà Tin mừng nhắc đến. Có lần, khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu công bố Người là Bánh hằng sống, thì có nhiều người trong số họ đã nói: “ Lời này chướng tai quá ai nghe cho nổi”(Ga 6, 60). Từ đó, có nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. Hay ta cũng thấy cảnh đám đông chen lấn đến với Chúa Giêsu để tung hô Người khi Người vào Thành Thánh Giêrusalem: “Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa, chúc tụng Vua Israel” (Ga 12, 13). Họ tung hô và reo hò như thế vì họ tưởng rằng Chúa Giêsu sắp lên làm vua cai trị họ. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu bị quân lính vây bắt và bị hành hạ thì họ liền thay đổi thái độ đối với Người. Lời tung hô chúc tụng giờ đây trở thành lời nhạo báng chê cười và kết án. Họ là những người đồng thanh hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá” (Ga 19, 15).

Và chắc sẽ còn nhiều lý do khác nữa. Nhưng với 3 lý do nêu trên thiết nghĩ cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ và xét mình lại. Chúa Giêsu là Ánh Sáng thật phát xuất từ Ánh sáng. Người đã đến chiếu ánh sáng vào những chỗ tăm tối trong tâm hồn ta, nhưng ta có chịu mở cửa tâm hồn mình ra để đón nhận ánh sáng và để cho ánh sáng của Chúa biến đổi lòng ta hay chưa. Hay ta vẫn thích ở trong Bóng tối, sợ phải thay đổi hay đón nhận kiểu nửa vời . . . Ai đón nhận kiểu nửa vời thì cũng đồng nghĩa với không đón nhận gì cả. Ánh sáng rồi sẽ chiến thắng bóng tối. Cuộc chiến giữa Bóng tối và Ánh sáng rồi sẽ đưa về chiến thắng cho Ánh sáng, dẫu rằng cuộc chiến ấy sẽ có nhiều gay go và gian khổ. Bóng tối của thế gian chính là ma quỷ, là sự dữ, tội lỗi và sự chết. Còn Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô. Nơi diễn ra cuộc chiến ấy là cuộc sống dương thế này và ngay trong con người của ta, ở cõi lòng ta. Chúng ta nên biết rằng chúng ta không phải là đối thủ của ma quỷ. Chúng ta không thể chiến đấu và chiến thắng chúng bằng tự sức của ta được. Vì thế, chúng ta cần biết cậy dựa vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô là Ánh sáng thật thì chúng ta mới có thể đẩy lùi và tiêu diệt Bóng tối ấy được.

Xin Chúa giúp chúng ta biết mở lòng mình ra để đón hận chính Chúa là Ánh sáng ban sự sống cho chúng ta. Xin Chúa biến đổi chúng ta thành con cái của Ánh sáng để chúng ta có thể chiếu soi ánh sáng ở những nơi còn trong bóng đêm tội lỗi, để lòng của mọi người đều vang lên lời ca tán tụng rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời.Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”

Lm Gioan Lê Tiến Thiện

 

Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Maria, Mẹ Thiên Chúa  

Lc 2, 16 - 21

Trong ngày tết chung của thế giới, chúng con vui mừng kính tôn Mẹ Maria, người đã đem hoà bình yêu thương đến cho thế gian nơi Đức Giêsu Kitô con Mẹ. Mẹ thật diễm phúc vì đã được làm Mẹ Thiên Chúa và nhờ đó chúng con có được người Mẹ tuyệt vời và Chúa Giêsu làm Anh Cả Chí Thánh.

Danh hiệu Mẹ Thiên Chúa đã được tuyên xưng đầu tiên trên môi miệng bà Ysave : "bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm…". Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa thật cao cả biết bao; bởi chức ấy, Mẹ được mọi danh dự, mọi hạnh phúc vì chẳng còn chi cao trọng hơn thế nữa. Chức làm mẹ Thiên Chúa cho Mẹ vượt trên các Thiên thần, mọi thụ tạo. Là mẹ Thiên Chúa, Mẹ là cộng sự viên của Chúa Cha trong việc Ngôi Hai làm người. Mẹ đã sinh ra Đấng tạo thành vũ trụ, đã lấy sữa mình mà nuôi Đấng ban của ăn cho muôn vật. Mẹ đã cưu mang, hạ sinh, nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ Đức Giêsu, Mẹ đã trông nom giáo dục Ngài bằng ngôn ngữ nhân loại và làm cho Con Thiên Chúa phát triển hết mọi tài năng của Ngài. Đức Maria tiếp tục là người Mẹ hiền của Chúa Giêsu trong suốt 30 năm ẩn dật. Trong những sự kiện đặc biệt của cuộc đời Chúa Giêsu luôn có bóng dáng của Mẹ. Mẹ đồng hành với Chúa Giêsu trên con đường khổ giá, khi mà nhiều người chỉ biết ông Giêsu như tội phạm bị lính Rôma điệu đi xử tử thì chính Mẹ hiểu con mình hơn ai hết. Mẹ không can ngăn Chúa Giêsu dù Mẹ rất đau khổ khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ sỉ nhục. Trong lúc mọi người đều bỏ Chúa cô đơn trên thánh giá, Mẹ tiếp tục đứng dưới chân thánh giá, Mẹ không né tránh sự việc đau thương đó nhưng đồng hành, đón nhận nó và ôm vào lòng mình. Mẹ xứng đáng lãnh nhận tước hiệu mẹ Thiên Chúa vì đã cùng Thiên Chúa làm trọn hy tế cứu chuộc loài ngừơi. Xưa kia chính tay Mẹ ẵm con mình dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ thì trên đồi Golgôtha Mẹ lại ẳm con mình dâng hiến cho Chúa Cha để đền thay vì tội lỗi nhân loại. Mẹ có tất cả những can đảm đó là nhờ việc suy niệm tìm hiểu ý Chúa. Tình yêu của Mẹ Maria đối với Thiên Chúa là một tình yêu đặc biệt, yêu Con Thiên Chúa như yêu một người con. Đó là tình yêu của người Mẹ đau khổ, kết hiệp cùng Chúa Giêsu trên Thánh giá. Chính Đức Maria cũng được Thiên Chúa yêu bằng tình yêu độc đáo: tình yêu của người Con hoàn hảo nhất trong con cái loài người. Chúa Giêsu một lòng thảo hiếu, luôn vâng phục và yêu mến Đức Maria, mẹ của mình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã trở thành mẹ Thiên Chúa và Mẹ tiếp tục làm người Mẹ hiền của từng người chúng con, của Hội Thánh Chúa. Con tin chắc Mẹ hằng dõi theo chúng con để nâng đỡ ủi an cứu giúp, xin Mẹ giúp chúng con suy niệm hàng ngày tình yêu Thiên Chúa đối với từng người chúng con để chúng con luôn đáp trả thánh ý Chúa. Trước những cám dỗ và thử thách của cuộc đời, xin đức Mẹ hướng dẫn cứu giúp chúng con biết chống trả quyết liệt trước những gương xấu. Xin cho chúng con cũng biết ý thức tộI riêng đã làm cho Chúa Giêsu con Mẹ đau khổ trên đường lên núi sọ và chết đớn đau tủi nhục trên thánh giá. Chúng con sẽ suy niệm luôn về cuộc đời thầm lặng của Mẹ và về tình thương của Chúa Giêsu con mẹ đối với nhân loại. Chúng con sẽ năng đọc sách Thiêng liêng, rước lễ và chịu các Bí tích. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gìn giữ và thông ban bình an của Chúa trong tâm hồn mỗi người chúng con để chúng con biết xây dựng hoà bình nơi chúng con đang sống. Xin phù giúp chúng con mỗi ngày một thăng tiến hơn trên đường sống đạo, phục vụ anh em, thánh hoá chính mình và những ngườI xung quanh.

Lm Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

NĂM MỤC VỤ GIA ĐÌNH 2017

Những Câu Hỏi Thông Thường Về Tông Huấn Amoris Laetitia

1. Tông huấn là gì?

Tông huấn là một bài huấn dụ đặc biệt của Đức giáo hoàng nhằm truyền đạt nhận định của ngài về một vấn đề nào đó. Đức giáo hoàng thường dùng Tông huấn để công bố những kết luận ngài có được sau khi xem xét những khuyến cáo của một Thượng Hội đồng Giám mục. Ngài cũng có thể dùng Tông huấn để khuyến dụ các tín hữu tiến sâu hơn vào đời sống làm môn đệ Chúa Kitô, chẳng hạn như Đức giáo hoàng Phanxicô đã dùng Tông huấn Evangelii Gaudium để công bố Tin Mừng trong thế giới ngày nay (24-11-2013).

2. Tông huấn Amoris Laetitia do đâu mà có?

Amoris Laetitia là kết quả của những suy tư trong cầu nguyện của Đức giáo hoàng Phanxicô về những cuộc thảo luận và những kết quả của hai Thượng Hội đồng Giám mục tổ chức tại Roma: một Thượng Hội đồng Ngoại thường năm 2014, và một Thượng Hội đồng Thường lệ năm 2015, cả hai đều có chủ đề về hôn nhân và gia đình. Tông huấn này muốn chia sẻ với toàn thể Hội Thánh giáo huấn và khuyến dụ của ngài về công tác mục vụ gia đình, và về những gì hôn nhân và gia đình được mời gọi trong thời điểm này của lịch sử.

3. Thượng Hội đồng Giám mục là gì?

Thượng Hội đồng Giám mục là một định chế thường trực của Hội thánh Công giáo, được Chân phúc Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập năm 1965, không lâu sau khi bế mạc Công đồng Vatican II, để tiếp nối tinh thần của giám mục đoàn và sự hiệp thông đã có được tại Công đồng Vatican II. Thượng Hội đồng là một đại hội các giám mục trên toàn thế giới nhằm tham vấn cho Đức giáo hoàng về những vấn đề quan trọng Hội thánh đang trực diện bằng cách bảo vệ huấn giáo của Hội thánh và củng cố kỷ luật trong Hội thánh (xem website của Tòa thánh và Giáo luật, khoản 342).

4. Tông huấn Amoris Laetitia đề cập những vấn đề nào?

Amoris Laetitia đề cập đến rất nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân và đời sống gia đình, và chú trọng đặc biệt vào ơn gọi và sứ mệnh tình yêu của gia đình. Tông huấn nói về những sức mạnh và những ân huệ của gia đình, và những thách thức hiện thời các gia đình trên khắp thế giới đang phải đối mặt. Tông huấn khuyến khích các đôi vợ chồng, các gia đình, và các tác viên mục vụ hãy đồng hành và chăm lo cho các gia đình và những ai đang cần được Chúa thương xót và chữa lành. Điều này đòi hỏi ta phải biết suy nghĩ sâu xa về tình yêu và những gì tình yêu bao hàm trong thực tại hằng ngày của hôn nhân và đời sống gia đình.

5. Tên của Tông huấn này nghĩa là gì ?

Amoris Laetitia là từ ngữ la tinh hàm nghĩa “Niềm Vui của Tình Yêu”. Câu mở đầu nói: “Niềm Vui của Tình Yêu các gia đình trải nghiệm được cũng chính là niềm vui của Hội thánh” (s.1). Tông huấn muốn làm vọng lại xác tín của các Nghị phụ Thượng Hội đồng rằng gia đình Kitô hữu “quả thực là tin tốt lành” (s.1) và muốn giúp Hội thánh gần gũi với các gia đình trong mọi hoàn cảnh.

6. Ai nên đọc Tông huấn này?

Văn kiện này dành cho tất cả những ai quan tâm đến tương lai của gia đình. Tông huấn ngỏ lời với các giám mục, linh mục, phó tế, những người được thánh hiến, các đôi vợ chồng Kitô hữu và tất cả các Kitô hữu giáo dân. Cách riêng, các đôi vợ chồng được nhắc nhở về ơn gọi và sứ mệnh của mình qua Tông huấn này, và các gia đình có thể thấy Tông huấn này là nguồn cảm hứng liên tục.

7. Những nhà lãnh đạo Công giáo có thể sử dụng Tông huấn này như thế nào?

Amoris Laetitia sẽ là một kim chỉ nam giá trị cho tất cả những ai dấn thân vào tác vụ giúp các bạn trẻ phân định và chuẩn bị hôn nhân cũng như những đôi vợ chồng và các gia đình ở mọi giai đoạn của đời sống. Các vị lãnh đạo Công giáo cần phải dành mọi nỗ lực để nghiên cứu trọn vẹn Tông huấn này. Nhất là cần chú ý xem những nhận định sâu sắc của Đức giáo hoàng đã có thể làm cho tác vụ đặc thù này trở nên phong phú và sống động ra sao. Chính Đức giáo hoàng Phanxicô đã ân cần mời gọi chúng ta đọc tông huấn này một cách kiên nhẫn và cẩn thận, với hy vọng “khi đọc văn kiện này, tất cả sẽ cảm nhận mình được mời gọi biết yêu mến và quý trọng đời sống gia đình…” (s.7).

8. Đức giáo hoàng Phanxicô bộc lộ mối quan tâm của ngài đối với các gia đình như thế nào trong triều đại của ngài?

Đức giáo hoàng Phanxicô đã tỏ lòng yêu mến đối với hôn nhân và các gia đình bằng nhiều cách. Ngay trong năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng của ngài, ngài đã triệu tập hai khóa họp khoáng đại Thượng Hội đồng Giám mục liên tiếp về gia đình. Ngài đã dành các buổi tiếp kiến hằng tuần suốt hơn một năm để ban những huấn dụ về các chủ đề liên quan đến hôn nhân và gia đình, và ngài đã nêu lên những chứng từ sôi nổi hấp dẫn về vẻ đẹp trong kế hoạch của Thiên Chúa về gia đình trong kỳ Đại hội Thế giới các Gia đình tại Philadelphia. Ngài cũng tôn phong Đức Gioan Phaolô II – mà ngài xưng tụng là “vị giáo hoàng của gia đình” lên bậc hiển thánh.

9. Còn những văn kiện chủ yếu nào khác nữa của Hội thánh về hôn nhân và gia đình?

Như Đức giáo hoàng Phanxicô đã trình bày trong chương ba, Amoris Laetitia khai triển tiếp theo một kho tàng giáo huấn phong phú của Hội thánh về hôn nhân và gia đình. Tông huấn này là một văn kiện song hành và bổ túc cho văn kiện Familiaris Consortio (Về Vai trò của Gia đình Kitô hữu trong Thế giới Ngày nay), do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành sau Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình họp trong năm 1980, đã là viên đá thử vàng cho mục vụ chăm sóc hôn nhân và đời sống gia đình từ khi được phổ biến. Đức Gioan Phaolô II còn cống hiến cho Hội thánh một văn kiện khác nữa cho các gia đình trong năm 1994, tên là “Thư gửi các Gia đình”, và các bài giáo lý của ngài về tình yêu con người, thường được gọi là “thần học thân xác”, cũng đã làm cho việc chiêm nghiệm của Hội thánh về hôn nhân và đời sống gia đình ngày nay được trở nên thực sự phong phú. Tất cả những công trình này được trích dẫn ở nhiều điểm khác nhau trong Amoris Laetitia. Những văn kiện then chốt khác, cũng đã được trích dẫn, bao gồm cả Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Công đồng Vatican II (Về Hội thánh trong Thế giới Ngày nay), Thông điệp Humanae Vitae (Về Sự Sống Con Người) của Chân phúc Giáo hoàng Phaolô VI, và Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình yêu) của Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI.

10. Làm thế nào để tôi có được bản Tông huấn Amoris Laetitia?

Có thể liên hệ mua Tông huấn Amoris Laetitia - Niềm Vui của Tình Yêu, bản dịch tiếng Việt do Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam thực hiện và xuất bản tại Văn phòng HĐGM số 72/12 Trần Quốc Toản Q.3 Tp. HCM, kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2016. Cũng có thể tìm đọc toàn văn Tông huấn này sẽ được đăng tải trên trang mạng của HĐGM Việt Nam. Bản tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha… của Tông huấn Amoris Laetitia có thể tham khảo trên trang mạng của Toà Thánh: www.vatican.va.

 Văn phòng HĐGMVN

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

NẺO ĐƯỜNG “THẢ LƯỚI”

Những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi về trời: “Anh hem hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), đó là lệnh truyền thúc bách tất cả những ai là người môn đệ của Chúa phải hăng hái lên đường và cũng là lệnh truyền của Giáo Phận Vĩnh Long khi Đức Giám Mục Phêrô chọn khẩu hiểu “hãy ra khơi và thả lưới”.

Thật vậy, kể từ khi Đức Cha Phêrô coi sóc Giáo Phận Vĩnh Long thì Ban Loan Báo Tin Mừng cũng ra đời. Với khẩu hiệu “hãy ra khơi và thả lưới”, Đức Cha đã muốn các Mục Tử trong Giáo Phận phải ra đi, phải chấp nhận gian khó để làm sao có “nhiều cá” được đưa về.

Quả thật đây là một vấn đề không phải dễ trong bối cảnh xã hội ngày nay, bởi lẽ hai từ “Đạo Chúa” thì dường như ai cũng đã nghe và đã biết, nhưng cách chung thì người ta cũng chỉ với những câu đại loại như: “Đạo nào cũng tốt, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”, và còn có câu nghe nặng nề hơn:“đạo gì khó quá!”... Thật là khó khăn bởi ông bà ta vẫn thường nói: “cái khó bó cái khôn”, bởi hoàn cảnh khó khăn cản trở ta thực hiện tốt được công việc loan báo Tin Mừng, ấy vậy mà với “sứ mệnh” của ban loan báo Tin Mừng đã đưa ra chỉ tiêu: “mỗi tuần đi thăm viếng một ngày”, vậy phải đi thế nào đây???

Lệnh truyền phải lên đường . . .

Trong những lần ra đi tái truyền giáo, tôi gặt được những thành công tốt đẹp, những người nguội lạnh lâu ngày như thêm được sức mạnh, họ đã trở lại Nhà Thờ. Đó là một tin vui, nhưng chẳng được mấy lần rồi họ lại nguội lạnh trở lại, thế là lại phải đến với họ. Thôi thì kiên nhẫn vậy!

Có lần tôi tiếp xúc với một người được xem là “phần tử xấu”, sau khi tạo được sự thân quen, tin tưởng và cuối cùng tôi cũng đã đem thêm một người về cho Chúa. Tôi được chị chia sẻ rằng cuộc sống đã không được sự cảm thông chia sẻ, nhưng trái lại con người lại ác nghiệt với nhau. Cảm tạ Chúa đã giải cứu một người dù rằng chính tôi cũng chịu nhiều lời khó nghe.

Tôi cũng nhớ một lần, có một tai nạn xảy ra trong Họ Đạo do các em tinh nghịch, khi tôi đến thăm và trùng dịp em cũng có một người ông bên lương đến thăm, thế là tình cờ tôi chịu nghe một trận cứng người: “tao nói mầy không được cho tụi nó đến đó, chỗ ăn dốc nói láo, xúi quấy, gây chia rẽõ . . Ôi! Đau xót biết bao khi người ta nghĩ về đạo và nơi thờ phượng của chúng ta như thế, tưởng chừng như bế tắt để trao đổi, bởi ông ấy là “cựu chiến binh”.

Nhưng trong “cái khó đã ló cái khôn” không phải là bế tắt, là bị “bó” mà đã có “ló” ra một lối thoát, đó chính là sự kiên nhẫn, là sự chịu đựng lắng nghe cho hết cơn “thịnh nộ” của ông ấy. Tôi thầm cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, và khi thấy tôi không có phản ứng gì thì ông cũng dịu giọng và cuối cùng tôi cũng đối thoại được với ông và dần trở nên “bạn” thân thiết. Tạ ơn Chúa bởi tôi đã cảm hoá thêm được một người.

Với nẻo đường loan báo Tin Mừng, tôi chợt hiểu ra rằng: việc loan báo không phải là khó do bối cảnh mà nguyên do chính đó là vượt qua bản thân mình. Đâu cần chúng ta phải là nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc; đâu cần chúng ta phải thông minh xuất chúng; khi chúng ta biết quên đi cái tôi, biết hạ hình, biết lắng nghe, và đón nhận thì đó chính là lúc mà chúng ta đang loan báo Tin Mừng, và cuối cùng thì tôi nhận ra rằng: đó chính là bước đường khiêm hạ mà Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã bước khi xưa.

Lạy Thầy Giêsu, xin dìu chúng con trên bước đường Loan Báo Tin Mừng.

Jos. Khoadang

 

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

MÓN QUÀ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Giáo Hội vừa bước vào một chu kỳ thời gian nữa – năm Phụng vụ mới, một năm mới trong đời sống đạo, bắt dầu bằng Mùa Vọng, hướng đến một đại lễ hân hoan: Giáng Sinh – khởi đầu của Ơn Cứu Chuộc.

Hội Thánh vừa trải qua một năm tràn đầy hồng ân. Như ai cũng biết: năm Thánh kết thúc nhưng lòng thương xót thì phải còn mãi. Năm Thánh giúp ta cảm nhận sâu sắc lòng Chúa xót thương đề ta tiếp tục thể hiện tình thương ấy trong cuộc sống đời thường, vì “lòng thương xót của Chúa còn mãi muôn đời”.

“Bác ái xã hội” là thể hiện lòng thương xót ấy của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà trong Tông huấn “Dung mạo Lòng Thương xót” Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người quan tâm đến hành vi của lòng thương xót, phần xác cũng như phần hồn "thương người có 14 mối" (số 15). Nếu việc bác ái của chúng ta thường chỉ hướng đến phần xác thì Đức Giáo hoàng không quên nhắc ta phải lo cả phần tinh thần, đó là giúp người khác thoát khỏi: ngờ vực, lo sợ, cô đơn, thất học, buồn chán,… mỗi người biết sống tha thứ, kiên nhẫn, quan tâm; loại trừ oán hận, thù ghét, bạo lực,… Và trên tất cả, mọi hành động của lòng thương xót ấy, đỉnh cao chính là loan báo Tin mừng cho muôn người “Tình yêu và ơn cứu chuộc của Chúa”. Lời của cố Đức Cha Tôma: “Mọi việc bác ái phải hướng người ta tới Chúa”. Lời đó như một định hướng cho mọi hoạt động bác ái của chúng ta.

Trong niềm trong chờ Chúa đến, chúng ta hy vọng món quà từ lòng Thương xót của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Hài đồng, sẽ được nhiều người đón nhận.

Làm sao đại lễ Giáng Sinh này làm mọi người thấy được chỉ có Đấng là Hoàng Tử Bình an mới có thể mang đến cho nhân loại sự bình an đích thực trong một thế giới bất ổn vì chiến tranh, bao lực này. Chúng ta cầu mong cho mọi người nhận ra Đấng luôn quan tâm đến hạnh phúc của họ cũng giúp họ biết quan tâm đến nhau hơn giữa một thế giới của sự toàn cầu hóa dửng dưng.

 

Chúng ta cũng cầu xin cho mình, những người thuộc về Chúa Giêsu, biết đi đến ngoại vi của môi trường sống của chúng ta để gặp gỡ những người anh em, làm sao qua các tiếp xúc và cư xử của chúng ta, giúp họ biết được một Thiên Chúa hiền lành và khiêm tốn, qua cách sống của chúng ta họ thấy được vẻ đẹp của Kitô giáo là đạo yêu thương.

Caritas Vĩnh Long

1343    19-12-2016 10:23:45