Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Nguyệt san tháng 3/2015: Giáo Xứ: Cộng Đoàn Thừa Sai Với Chứng Từ Của Đời Sống Thánh Hiến

LỜI CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

LỜI NGUYỆN CHUNG

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TRANG GIA ĐÌNH

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

SỐNG LỜI CHÚA

THẦN HỌC KINH THÁNH

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

 

 

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.02.2015

 

Kính gửi: Quý Cha

           Quý Tu sĩ nam nữ

           Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Tết và Mùa Chay

 

Năm nay, có cái lạ: 30 Tết là ngày thứ tư lễ Tro, bắt đầu vào Mùa Chay, cho nên những ngày sau đó đang vào những ngày Tết, nên phải nhường bước cho những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt:

- Mùng I, thờ Trời, cầu bình an.

- Mùng II, kính nhớ Tổ Tiên và Ông bà cha mẹ.

- Mùng III, cầu cho công ăn việc làm, cầu cho mùa màng được tốt đẹp.

 

Thật ra thì có Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa Kitô đã vượt qua từ cái chết đau khổ đến sống lại vinh quang, từ vất vả đau thương ở trần gian đến sự sống hạnh phúc muôn đời.

 

Chúng ta, nhờ Bí tích Rửa tội, cũng được tháp nhập vào:

- Sự sống của Chúa Kitô.

- Sự vượt qua từ cái chết của tội lỗi đến sự sống lại vinh phúc.

- Tiến từ cõi trần đến Nước Trời vĩnh cửu.

 

Như vậy, chúng ta cảm tạ Chúa Kitô.

 

Sẵn sàng sống Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, thông phần vào sự chiến thắng cuối cùng của Chúa Kitô.

 

Cuộc sống của chúng ta không phải là ăn Tết triền miên, không phải là ăn chơi, mà phải chiến đấu, chiến đấu oanh liệt giống như Chúa Kitô, để được tham dự vào sự sống vinh hiển của Chúa Kitô.

 

Những tiệc tùng, cuộc vui ở trần gian chỉ là mau qua, nhắc nhở ta có niềm vui, hạnh phúc bên Chúa, có bữa tiệc trong Nước Trời để ta phấn đấu:

- Trung thành với Chúa.

- Hiếu thảo, vâng lời Chúa trong mọi sự.

 

Tóm lại, Chúa ban cho ta mùa xuân vĩnh cửu:

- Hạnh phúc Nước Trời.

- Được biến đổi giống như Chúa Kitô.

 

Ta cảm tạ Chúa và cố gắng mỗi ngày.

 

Lm. Phêrô Dương Văn Thạnh

Giám Quản GP. Vĩnh Long

 

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

 

Tháng 03/2015

GIÁO XỨ: CỘNG ĐOÀN THỪA SAI

VỚI CHỨNG TỪ CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

 

“Hài nhi càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan

và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40)

Giáo xứ là “giếng nước đầu làng” nơi mọi người đến để được giải khát, nơi quy tụ và truyền thông, tạo nên cuộc sống của cộng đồng sống yêu thương hiệp thông, từ đó tạo nên chứng từ để truyền giáo. Cũng như bí tích của Tình Yêu Thần linh biểu lộ qua hai bậc sống hôn nhân và độc thân trinh khiết, đời sống hiệp thông của cộng đoàn giáo xứ cũng được hợp thành từ chứng từ sống động của các gia đình, hội thánh thu nhỏ, và của các cộng đoàn “tu trì” tức sống đời thánh hiến với các lời khuyên Phúc âm.

 

1. Đời sống thánh hiến

 

– Bậc tu trì hay đời sống thánh hiến “được thiết lập do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Hội thánh, vẫn thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Hội thánh một cách vững bền”.[1] Thực ra, mọi Kitô hữu đã được Rửa tội đều phải sống các lời khuyên của Phúc âm vốn có nhiều, nhưng đối với các tu sĩ hay những ai tự nguyện đảm nhận ơn gọi sống đời thánh hiến, họ được kêu gọi sống “sự hoàn hảo của đức ái” bao hàm nghĩa vụ tuân giữ đức khiết tịnh trong sự độc thân vì Nước Trời, đức khó nghèo và đức vâng phục. Tuyên giữ các lời khuyên này, trong một bậc sống vững bền được Hội thánh công nhận, là đặc tính của “đời sống thánh hiến” cho Thiên Chúa. Đời tu hay đời sống thánh hiến là một cách thế để sống một cách “thân mật hơn” sự thánh hiến đã bắt nguồn từ bí tích Rửa tội và dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa.[2] Người tu sĩ muốn mình bước theo Đức Kitô sát gần hơn, tự hiến cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự, và theo đuổi sự trọn hảo của đức mến để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội thánh vinh quang của thế giới tương lai.[3]

 

– Đã có nhiều hình thức sống đời thánh hiến khác nhau, đan tu hoặc cộng đoàn. Đời ẩn tu, để ngợi khen Thiên Chúa và mưu cầu phần rỗi cho thế giới bằng việc sống cách biệt với thế giới, trong thinh lặng đơn độc, chuyên cần cầu nguyện và sám hối. Đời tu dòng, với lời tuyên khấn công khai và sống thành cộng đoàn huynh đệ, làm chứng tá cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh, và sự hiện diện rất cần thiết cho sự khởi đầu của công cuộc truyền giáo. Các hội viên Tu hội đời sống giữa thế giới, cố gắng vươn tới sự trọn hảo của đức mến và góp phần vào việc thánh hóa trần gian cách đặc biệt từ bên trong, và sự hiện diện của họ tác động như men trong bột.[4]

 

2. Thánh hiến và sứ vụ

 

– “Những ai tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm có sứ vụ đầu tiên là sống sự thánh hiến của mình. Vì họ ‘dấn thân phục vụ Hội thánh do chính sự thánh hiến của mình, cho nên họ buộc phải hoạt động cách đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, theo thể thức riêng của hội dòng’”.[5]

Như Đức Thánh Cha Phanxicô nói “Hội thánh gia tăng không bởi chiêu mộ nhưng bởi sự thu hút”.[6] Ở đâu có niềm vui thì có sức thu hút. Nhiều người cảm thấy bị thu hút vì nhận ra những người Kitô hữu thường sống vui và hạnh phúc, cách đặc biệt nơi những người sống đời thánh hiến. Bởi vì người ta nhận ra họ “sống hiện tại cách say mê”, như là “những chuyên viên hiệp thông”. Trong một xã hội xung đột, một xã hội khó chung sống giữa các nền văn hóa với nhau, một xã hội chèn ép những kẻ cô thế, xã hội bất bình đẳng, các môn đệ ấy của Đức Kitô được kêu gọi trở nên khuôn mẫu cụ thể của cộng đoàn có khả năng sống tương quan huynh đệ, nhờ biết nhìn nhận phẩm giá của mỗi người và chia sẻ các ân huệ mà mỗi người đã lãnh được. Kitô hữu sống đời thánh hiến được mời gọi trở nên là những con người của sự hiệp thông, can đảm hiện diện tại những nơi có đố kị và tranh chấp, trở nên dấu chỉ khả tín của sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đổ tràn xuống các tâm hồn niềm say mê cho hết mọi người được nên hiệp nhất (x. Ga 17,21),[7] nhưng tiên vàn sự hiệp thông cần được thực hành ngay tại các cộng đoàn trong dòng: trong nhà của họ “không được phép cư ngụ những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kị”.[8]

 

– Trong cộng đoàn hội thánh địa phương, cũng như giữa lòng trần thế, các tu sĩ như những lính canh tỉnh thức (x. Is 21,11-12), tiếp tục bước đi với niềm tín thác vào Chúa và “làm thức tỉnh thế giới”, bởi vì đặc tính của của đời sống thánh hiến là tính tiên tri (prophetic). Biết Thiên Chúa và biết con người đồng loại, vị tiên tri có khả năng phân định và tố giác tội ác và những bất công, bởi vì họ là con người tự do, chỉ phải trả lẽ với Thiên Chúa chứ không trả lời cho quyền bính thế gian nào hết; họ chỉ quan tâm đến lợi ích của Thiên Chúa chứ không gì khác. Vị tiên tri thường đứng về phía người nghèo, người cô thế cô thân, vì biết chính Thiên Chúa đứng về phía họ.

 

– Hơn ai hết, trước lời cuối cùng của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ xưa cũng như hôm nay “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ”, những người sống đời thánh hiến được mời gọi đi ra khỏi chính mình để đến những ‘vùng ngoại vi’ của cuộc đời. Cả một nhân loại đang chờ đợi họ: những người đang tuyệt vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước đường đời tương lai, những người già yếu bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trong lòng rỗng không, những đang đi tìm ý nghĩa cuộc sống, khao khát sống đời tâm linh...

 

3. Giáo dân sống Năm đời sống thánh hiến như thế nào?

 

– Các giáo dân trong họ đạo và giáo phận được khuyến khích chia sẻ lý tưởng, linh đạo, sứ vụ với các tu sĩ, những người sống đời thánh hiến. Chung quanh mỗi dòng tu, chung quanh các Tu đoàn Tông đồ và những Tu hội đời, có một gia đình rộng lớn hơn, “gia đình đặc sủng” bao gồm nhiều dòng, hay tu hội, hiệp hội, nhận biết nhau trong cùng một đặc sủng, và đặc biệt là, các giáo dân cảm thấy mình được kêu gọi chia sẻ đặc sủng ấy trong điều kiện sống giáo dân của mình.

 

– Đức Thánh Cha mời gọi mọi cộng đồng Kitô hữu sống Năm đời sống thánh hiến, trước hết “để tạ ơn Thiên Chúa và nhớ lại những hồng ân mà chúng ta đã và còn đang nhận lãnh nhờ sự thánh thiện của những vị sáng lập và sự trung thành với đặc sủng của biết bao người tận hiến. Tôi mời gọi hết mọi người hãy kề sát những người tận hiến, để chia vui với họ, để san sẻ những khó khăn của họ, để hợp tác với họ, trong tầm mức có thể được, trong việc thực thi tác vụ và công việc của họ mà cũng là của toàn thể Hội thánh. Hãy giúp họ cảm nhận được lòng ưu ái và thiện cảm của toàn thể dân Chúa”.[9]

 

Câu hỏi thảo luận

1. Trong giáo xứ của anh chị em, có những thành viên tu hội đời, hay cộng đoàn đời thánh hiến nào? Đâu là đặc sủng, sứ vụ đặc thù của họ?

2. Cộng đoàn giáo xứ và các gia đình có chia sẻ gì về đặc sủng và về sứ vụ với các dòng tu, tu hội này hay không?

3. Sống mầu nhiệm hiệp thông Hội thánh giữa các thành phần linh mục, tu sĩ, giáo dân ngày nay có gặp những trở ngại nào cho công cuộc loan báo Tin mừng? Và đâu là những ích lợi?

–––––––––––––––––

[1] Lumen Gentium, 44.

[2] X. Perfectae Caritatis, 5.

[3] X. Bộ Giáo Luật, đ. 537.

[4] X. GLHTCG, 915-930.

[5] GLHTCG, 931. x. Bộ Giáo Luật, đ. 783; x. Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 69.

[6] Evangelii Gaudium, 14.

[7] ĐGH Phanxicô, Tông thư gửi tất cả những người tận hiến nhân dịp Năm đời sống thánh hiến, I. 2.

[8] Ibid., II.3.

[9] Ibid., III.2

 

Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn.

Nguồn: ubmvgiadinh.org

 

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

 

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Giáo xứ là cộng đoàn thừa sai với những người sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, và những người sống đời thánh hiến. Đời sống thánh hiến thì chuyên lo rao giảng Tin Mừng hơn. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1. Chúa phán: “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi thành phần Hội Thánh ý thức sứ mạng thừa sai của mình, để mọi nơi mọi lúc luôn làm cho mọi người được cứu rỗi.

2. Chúa phán: “Con hãy về kể lại cho người nhà con biết Chúa đã yêu thương con”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn nói cho nhau nghe những kỳ công tình thương Chúa.

3. “Con Trẻ theo cha mẹ về Nagiarét, càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và ân nghĩa Chúa”. Chúng ta cầu nguyện cho các cộng đoàn giáo xứ quan tâm nuôi dưỡng chăm sóc những cộng đoàn sống đời thánh hiến.

4. Chúa phán: “Các con hãy đến mà xem”. ‘Họ đã sống với Ngài suốt ngày hôm ấy’. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta luôn kết hợp với Chúa Giêsu, và tận tâm rao giảng Tin Mừng bằng cách riêng của mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người thực hiện sứ mạng thừa sai. Xin ban Thánh Thần hướng dẫn cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến chúng con nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, cho mọi người được ơn cứu rỗi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

 

ĐỨC TIN CỦA ĐỜI DÂNG HIẾN

 

Đi tu là một hành trình liên lỉ để nên giống Đức Giêsu Kitô và hơn bao giờ hết, hành trình ấy cần dựa trên một nền tảng đức tin vững mạnh. Ta không thể đi theo một ai đó, nếu ta không tin vào những gì người ấy nói, hay sâu đậm hơn, không tin vào chính người ấy. Đã hẳn niềm tin là điều cốt yếu của mọi Kitô hữu, nhưng với người tu sĩ, các chiều kích của niềm tin càng đòi hỏi ở một mức độ mãnh liệt hơn, cứng cáp hơn và trưởng thành hơn. Trên con đường dâng hiến, tu sĩ được gọi mời dấn bước trong niềm xác tín vào tay Chúa dẫn đưa. Có như thế, họ mới dám lao mình về phía trước để hiến thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người. 

Người tu sĩ cảm nghiệm được sức sống của hạt mầm đức tin ngay khi lời mời gọi “hãy theo Thầy” vang lên trong tâm hồn. Lời mời gọi ấy vô thanh vô sắc, không thể nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, không thể được kiểm chứng bằng máy móc. Làm sao người tu sĩ có thể xác tín là có một tiếng gọi như thế vang vọng đến mình, nếu họ không có niềm tin? Họ tin là mình được mời gọi. Họ tin là có một Đấng đang ngỏ lời với mình. Họ tin rằng Đấng ấy là Đấng đáng cho mình hy sinh tất cả để đi theo. Họ tin là khi theo Đấng ấy, mình chẳng mất mát gì nhưng còn được lợi gấp trăm triệu lần. Họ tin đến độ, dù phải đối diện với bao nhiêu thử thách, họ vẫn không nghĩ là mình sai.         

Từ đó, họ đi tìm, lần theo và xác tín vào tiếng gọi của Thầy Giêsu, một tiếng gọi có sức xoay chiều cuộc đời mình, để rẽ vào linh đạo dâng hiến. Ở đó, hạt mầm đức tin gặp được mảnh đất màu mỡ là tình yêu thương của Chúa, được tưới gội bằng làn mưa ân sủng từ trời cao, bắt đầu mọc lên những chồi non tươi tốt. Ngày từng ngày sống với Chúa, người tu sĩ càng xác tín hơn về những gì mình tin. Niềm tin ấy cứ vươn cao vươn mạnh, bất chấp bao cuồng phong kéo đến làm nó ngã nghiêng. Cho đến khi niềm tin ấy đạt đến một độ chín mùi cần thiết, người tu sĩ hân hoan cất lên lời tuyên khấn thuộc trọn về Chúa. Đó là hoa trái ngọt ngào của đức tin mà Thiên Chúa ban tặng cho họ thuở nào. Như vậy, càng xác tín vào tiếng gọi mời của Thầy Giêsu, người tu sĩ càng đủ sức để trọn vẹn dâng cả đời mình cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Cùng với niềm tin vào Thiên Chúa, hành trình hiến dâng của người tu sĩ cũng đi kèm với lòng trông cậy và tình mến yêu dành cho Ngài. Ai đã tin thì chất chứa hy vọng. Ai có thể hy vọng là vì họ có tình yêu. Tin vào lời mời gọi, người tu sĩ cất bước theo Giêsu. Hành trình đi theo ấy tuy lắm gian nan, nhưng không sao làm người tu sĩ chùn bước, vì lòng họ lúc nào cũng nuôi dưỡng một niềm hy vọng lớn lao vào ngày mai. Ngày mai ấy là ngày mà cánh đồng trổ bông nặng hạt, được gánh về với niềm hớn hở vui ca. Ngày mai ấy là ngày mà khắp nơi chẳng còn tiếng khóc than hay buồn phiền ai oán, nhưng chỉ là tiếng cười của ngày gặt bội thu. Ngày mai ấy, người tu sĩ sẽ cùng với Giêsu trở nên một với nhau, có một tình yêu sâu đậm nối kết mà không một thế lực nào, dù mạnh mẽ đến đâu, có thể ngăn chia được. Vì tình yêu ấy, họ sẵn sàng từ bỏ để hiến dâng, bước vào con đường thập giá, trở nên ngu dại và điên rồ vì yêu như Đấng mà mình yêu mến. Càng tin, càng hy vọng, tu sĩ càng nồng cháy lửa yêu để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.    

Bằng một tình yêu và đức tin cá vị, tu sĩ sống trong sự hiện diện cụ thể của Thầy Giêsu. Họ trở nên những con người đáng tin và thật gần gũi. Một tu sĩ thánh thiện thì không lừa lọc ai, cũng chẳng bội tín hay vô ơn với người nào. Với một cuộc sống đơn sơ và giản dị, họ chan hòa với thế giới và được tha nhân mến thương. Họ không thích sự xa hoa lộng lẫy, hay chẳng mong quyền lực chức cao. Đã có được Giêsu, họ xem tất cả những điều này như cỏ rác. Điều mà họ mong mỏi là ngày càng trở nên giống hình ảnh một Giêsu rất mực yêu thương đàn chiên và sống chết cho đàn chiên ấy. Chính Tin Cậy Mến đã giúp cho người tu sĩ hiện thực hóa được điều này.         

Trở thành một dấu chứng khả tín về thực tại Nước Trời, người đi tu không thể bị đóng khung nơi khuôn viên nhà dòng. Cho dẫu sống đời chiêm niệm, cả đời sống trong dòng kín, người tu sĩ vẫn phục vụ Giáo Hội bằng những lời cầu nguyện tán dương Thiên Chúa thay cho nhân thế. Lời nguyện cầu của họ cũng có thể bay xa đến tận chân trời góc bể, thấm sâu vào lòng Giáo Hội và chạm đến được từng phận người. Nhờ đó, họ nên men muối ướp mặn thế trần. Người tu sĩ nào cũng phải mang trong mình tâm thức “loan báo Tin Mừng”, mà loan báo Tin Mừng cũng là làm lan truyền lòng tin cậy mến mà họ ấp ủ trong tim. Như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Đức tin của người tu sĩ không phải là một đức tin của phòng thí nghiệm, nhưng là đức tin đang trong hành trình”, tu sĩ được sai đi để loan báo Tin mừng của Vua Hằng Sống, làm men muối gọi mời tin yêu. 
Lạy Chúa Giêsu, trong năm Đời Sống Thánh Hiến này, chúng con thiết tha xin Ngài ban thêm niềm tin cho từng tu sĩ, sưởi ấm con tim của họ, giúp họ luôn tín trung và yêu mến Ngài đến cùng. Cho dù phải xông pha nơi biên thuỳ nguy hiểm, nhưng với đức tín son sắt, yêu mến nồng nàn và cậy trông vững vàng, các tu sĩ có thể nên giống Chúa Giêsu trong hành trình dâng hiến.

 

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

 

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG GIÁO HỘI (TT)

 

I. Đời sống thánh hiến là gì?

II. Những hình thức sống đời thánh hiến trong Giáo hội.

Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần thứ nhất, tất cả những ai sẵn sàng đáp lại tiếng gọi đi theo Chúa Giêsu Kitô qua việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm thì đều sống đời thánh hiến. Tuy nhiên, vì chúng ta đang sống trong Giáo hội có cơ cấu hữu hình, đồng thời, với những phong phú của các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần soi sáng nơi các đấng sáng lập những hình thức tận hiến, nên giáo luật đặt ra một số quy định để phân biệt các hình thức sống đời thánh hiến theo đặc sủng của họ.

Trên thực tế có những hình thức sống đời thánh hiến được Giáo Hội nhìn nhận như sau: Dòng tu (hội dòng) và tu hội đời. Sự phân biệt nầy dựa vào hình thức tu trì của họ trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội. Bộ giáo luật đưa ra những khái niệm cho từng hình thức sống đời thánh hiến đó như sau:

 

1. Các dòng tu (hội dòng)

Điều 607 dạy như sau:

 

Xét như là sự thánh hiến toàn thân, đời tu trì biểu lộ trong Giáo Hội hôn ước kỳ diệu được Thiên Chúa thiết lập như dấu chỉ của thế giới mai sau. Như vậy, người tu sĩ hiến dâng trọn vẹn thân mình như một hy lễ được dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc sống họ trở nên một việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái (607§1).

Hội dòng là một xã hội, trong đó các thành viên, tuyên giữ các lời khấn công vĩnh viễn hay tạm thời, nhưng họ phải tuyên khấn lại khi mãn hạn,tùy theo luật riêng, và chung sống đời huynh đệ (607§2).

Việc các tu sĩ phải làm chứng công khai cho đức Kitô và cho Giáo Hội bao hàm sự xa cách thế gian là điều hợp với đặc tính và mục tiêu của mỗi tu hội (607§3).

Từ khái niệm ở điều 607 của Bộ giáo luật cho chúng ta những điểm cốt yếu của hình thức sống đời thánh hiến trong các hội dòng là:

          a/. Giữ ba lời khuyên Phúc Âm với lời khấn công;

          b/. Có đời sống chung;

          c/. Sống xa cách đời.

 

2. Các tu hội đời

Nói về các tu hội đời, điều 710 đưa ra khái niệm như sau:

Tu hội đời là một tu hội thánh hiến, trong đó các Kitô hữu sống giữa thế giới cố gắng vươn tới sự hoàn hảo của đức ái và góp phần vào việc thánh hóa thế giới một cách đặc biệt từ bên trong.

 

Như vậy, nếu so sách với các hội dòng thì tu hội đời có những đặc điểm khác biệt như sau:

a/. Không có lời khấn công mà chỉ có mối dây ràng buộc thánh;

b/. Không có đời sống chung;

c/. Sống giữa đời.

 

Ngoài ra, giữa các dòng tu và các tu hội đời có nhiều điểm giống và khác biệt nhau nổi bật như:

 

Tu hội đời cũng là một hội đời sống thánh hiến, với việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, giống như các dòng tu mà điều 570 mô tả. Tuy nhiên, các tu hội đời không biểu lộ tính cách tận hiến ra những dấu chỉ bên ngoài (không có lời khấn công mà chỉ có dây ràng buộc thánh; không buộc phải sống chung), vì họ muốn sống giữa đời. Đây là đặc tính riêng biệt làm nên tu hội của họ.

 

Khác với các phần tử của các dòng tu phải sống xa cách đời, những thành viên của các tu hội đời sống đời tận hiến trong thế gian. Điều nầy hàm ngụ rằng các tu hội đời nhắm tới hoạt động tông đồ như muối – men để thánh hoá đời ( tu hội đời tự bản chất không phải sống đời chiêm niệm), cũng như chấp nhận một đường lối sinh hoạt trà trộn giữa đời chứ không xa cách đời. Vì vậy họ không có tu phục, không có cơ sở riêng…

 

III. Các tu đoàn tông đồ

 

 

TRANG LINH MỤC

 

Chủ Chăn Không Được Độc Đoán

Nhưng Phải Khiêm Tốn Và Biết Lắng Nghe

 

Vatican (Vat. 12-11-2014) - Ý thức chức thừa tác là một ơn Chúa ban chứ không phải vì mình thông minh, tài giỏi, tốt lành hơn người khác, giúp các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế biết sống khiêm tốn, cảm thông, thương xót, biết lắng nghe và học hỏi từ người khác, chứ không độc đoán, làm như thể cộng đoàn là của riêng mình và mọi người phải quỳ phục dưới chân mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi găp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 12 tháng 11 năm 2014.

 

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý các đức tính mà các vị thừa tác của Giáo Hội phải có để sống việc phục Giáo Hội một cách đích thực và phong phú.

 

Mở đầu bài huấn giáo Đức Thánh Cha nói: Trong bài giáo lý trước chúng ta đã minh nhiên sự kiện Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên Ngài qua chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế. Chính nơi các vị Chúa Giêsu hiện diện, trong quyền lực của Thần Khí Ngài, và tiếp tục phục vụ Giáo Hội bằng cách dưỡng nuôi đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội. Như thế, các chức thừa tàc này là một ơn lớn lao Chúa ban cho mỗi cộng đoàn kitô và cho toàn thể Giáo Hội, trong nghĩa nó là một dấu chỉ sống động sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Vậy chúng ta có thể tự hỏi đâu là điều được đỏi hỏi nơi các vị thừa tác này của Giáo Hội, để họ có thể sống việc phục vụ của mình một cách đích thật và phong phú?

 

Trong các "Thư mục vụ" gửi các môn đệ của mình là Timôthêô và Titô, tông đồ Phaolô cẩn thận đừng lại trên gương mặt của các giám mục, linh mục và phó tế, bằng cách phác họa ra ơn gọi của các vị và các đức tính cần được nhận ra nơi những người được chọn và trao phó cho các chức thừa tác này.

 

Thật là biểu hiệu, cùng với các ơn gắn liền với đức tin và cuộc sống tinh thần, có vài đức tính rất nhân bản được liệt kê ra: sự tiếp đón, thanh đạm, kiên nhẫn, hiền dịu, có thể tin cậy, có con tim tốt. Ðó là mẫu tự, đó là văn phạm nền tảng của mỗi chức thừa tác. Nó phải là văn phạm nền tảng của mỗi giám mục, mỗi linh mục, mỗi phó tế. Phải, vì nếu không có bẩm chất xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, trân qúy và liên lạc với các anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì không thể cống hiến một phục vụ và một chứng tá thực sự tươi vui và đáng tin cậy.

 

Thế rồi còn có một cung cách nền tảng mà thánh Phaolô khuyên nhủ các môn đệ của người và tất cả những ai được thụ phong chức thừa tác mục tử. Thánh tông đồ khích lệ họ liên tục làm sống lại ơn đã nhận lãnh (X. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Ðiều này có nghĩa là họ phải luôn luôn sống trong ý thức rằng mình không phải giám mục, linh muc hay phó tế bởi vì mình thông minh hơn, tài giỏi hay tốt hơn các người khác, nhưng chỉ vì đó là một ơn, một ơn của tình yêu Thiên Chúa đã rộng ban, trong quyền năng Thần Khí của Người, cho thiện ích của dân Người. Ý thức này thật là quan trọng, và nó là một ơn cần phải xin mỗi ngày.

 

Thật thế, một Mục tử ý thức được rằng chức thừa tác của mình chỉ nảy sinh duy nhất từ lòng thương xót và từ con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ quyền uy, làm như thể là tất cả mọi người phải qùy dười chân mình và cộng đoàn là của riêng mình, là vương quốc của mình.

 

Ý thức rằng tất cả là quà tặng, tất cả là ơn thánh, cũng giúp một Mục tử không rơi vào chước cám dỗ đặt mình làm trung tâm sự chú ý và chỉ tin tưởng nơi chính mình. Thật khốn cho một giám mục, một linh mục, hay một phó tế nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, luôn luôn có câu trả lời đúng cho mọi chuyện, và không cần tới ai hết! Trái lại, ý thức mình là người đầu tiên là đối tượng lòng thương xót và cảm thương của Thiên Chúa phải dẫn đưa một vị thừa tác tới chỗ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông đối với người khác. Tuy ý thức là mình được mời gọi can đảm giữ gìn kho tàng đức tin (x. 1 Tm 6,20) người ấy sẽ lắng nghe dân chúng. Thật vậy, họ ý thức được rằng mình luôn luôn học hỏi được điều gì đó, cả từ những người còn xa đức tin và xa Giáo Hội. Rồi với các anh em mình tất cả phải đưa tới chỗ có một cung cách hành xử mới, mang dấu vết của sự chia sẻ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự hiệp thông.

 

Các bạn thân mến, chúng ta phải luôn luôn nhớ ơn Chúa, bởi vì nơi con người và trong chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế, Người tiếp tục hướng dẫn và đào tạo Giáo Hội Người, khiến cho nó lớn lên dọc dài con đường nên thánh. Đồng thời chúng ta cũng phải tiếp tục cầu nguyện, để cho các Mục Tử của các cộng đoàn chúng ta là hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu thương của Thiên Chúa

 

Linh Tiến Khải (Radio Vatican)

 

 

TRANG TU SĨ

 

MÙA XUÂN YÊU THƯƠNG

Trong khí trời se lạnh của buổi sáng vào những ngày cuối năm, với màu áo thiên thanh, tôi đạp xe đưa Mình Thánh Chúa đến cho những người già yếu đau bệnh trong xóm đạo. Trên đường đi, tôi chạy ngang qua khu chợ nhỏ, nhiều hàng hóa và bông hoa rực rỡ đang được bày biện rao bán hai bên đường. Không khí khu chợ nhỏ của miền quê chuẩn bị đón xuân mới hôm nay dường như rộn rã hơn, nhưng chạy xe vòng quanh vào sâu trong những con đường nhỏ đưa đến các gia đình tôi mới cảm nghiệm được cái vắng lặng của miền quê nghèo, không có gì là rộn rã của ngày gần tết, mặc dù hôm ấy đã là ngày 28 Tết, mọi vật như vẫn im lìm, nhà nhà vẫn tất bật với cuộc sống đầy lo toan của cơm – áo – gạo – tiền, đặc biệt trong những ngày này lại thêm phần chật vật.

 

Ở phía cuối con đường nhỏ là căn nhà của Ông Bà Tư đang mong chờ tôi đưa Mình Thánh Chúa đến. Bước vào bên trong nhà, tôi nhìn thấy Ông Tư đã đứng đó từ lâu, còn Bà Tư vì đau chân nên ngồi đợi phía bên trong, thấy tôi đến, cô con gái vội dìu mẹ đi ra. Tôi cúi chào mọi người và bắt đầu đọc kinh giúp Ông Bà chuẩn bị tâm hồn rước Chúa. Sau khi kết thúc, tôi nán lại thăm hỏi:

- Ông Bà Tư hôm nay thấy trong người có khỏe hơn không?

Bà Tư mĩm cười nói:

- Tui ăn được ngủ được, nhưng chỉ có hai cái chân là đi không được thôi.

- Vậy, trời lạnh này hai chân của Bà Tư có bị đau nhức gì không?

- Cũng có nhức Dì ơi, nhưng không đến nổi nào, tui chịu được.

Tôi quay sang Ông Tư, ân cần hỏi:

- Vậy, còn Ông Tư ? Sức khỏe Ông Tư có tốt hơn không, Ông Tư ?

 

Tôi biết ông đang ở thời kỳ cuối của căn bệnh xơ gan, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên căn bệnh gần đây mới được phát hiện, vì vậy tinh thần của ông có chút hoảng loạn. Trước đây lúc Bà Tư bệnh nhiều không tiện đi xa, tôi đã có ý muốn đưa Mình Thánh Chúa đến tận nhà cho Bà đỡ vất vả phải đi xa, nhưng vì lý do nào đó Ông Tư không chấp nhận, nên Bà đã cố gắng tìm đủ mọi cách để được rước Chúa: có khi thì đến ở nhà người con gái; khi thì cho các con chở xe đưa đi; những lần khỏe hơn thì Bà tự mình đi… Tôi thấy thật cảm phục trước niềm tin và sự hy sinh của Bà. Sau khi phát hiện ra căn bệnh xơ gan đang ở thời kỳ cuối, Ông Tư đã hoàn toàn thay đổi, ông đồng ý để tôi đưa Mình Thánh Chúa đến tận nhà. Nhìn nét mặt của ông Tư, tôi cũng phần nào đoán được sự đau đớn tuyệt vọng của một người biết mình mắc bệnh nguy hiểm. Như đang cố nén cơn đau, Ông Tư trả lời tôi trong nấc nghẹn:

- Cám ơn Dì, tui không được khỏe lắm, ăn – ngủ cũng khó khăn. Chắc tui không còn sống được bao lâu nữa…

 

Nói đến đây tôi thấy mắt ông ngấn lệ, cô con gái đứng cạnh bên của đỏ hoe đôi mắt. Tôi lúng túng quá không biết phải nói gì để an ủi ông và gia đình trong hoàn cảnh này, sực nhớ năm mới sắp đến tôi nắm lấy tay Ông:

- Năm cũ đã sắp qua đi, một năm với biết bao buồn vui sướng khổ và chúng ta đã vượt qua được, vì như Chúa đã nói: “Ơn Ta đủ cho con”. Giờ đây, Chúa lại ban cho chúng ta thêm một năm nữa, tương lai phía trước chúng ta không biết nhưng chúng ta hãy tin tưởng và phó thác mọi sự cho Chúa, Người sẽ thực hiện những kế hoạch cho ta. Ông Bà Tư hãy dâng cho Chúa những bệnh tật ốm đau để Chúa biến đổi thành ân phúc cho cuộc sống ngày sau. Con cầu chúc cho Ông Bà Tư và gia đình năm mới tràn đầy phúc lộc của Thiên Chúa trong tin yêu và hạnh phúc.

 

Nước mắt đau buồn đổi thành hạnh phúc, và có lẽ niềm hạnh phúc đó bắt nguồn từ Thánh Thể Chúa đã đến hiện diện và dưỡng nuôi đời sống thiêng liêng – củng cố tinh thần và giữ vững đức tin. Ông Bà Tư cám ơn tôi rối rít và cầu chúc tôi năm mới vạn sự tốt lành. Tôi thấy trong lòng thật vui và tràn đầy ý nghĩa cho một ngày cuối năm.

 

MTG Cái Nhum

 

 

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

 

Thế Giới Cần Các Nhà Đào Tạo Chuyên Môn Và Khôn Khoan

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới cầu xin cho giới trẻ, các chủng sinh và tu sĩ nam nữ có được các nhà đào tạo chuyên môn và đầy khôn ngoan (Ý chỉ truyền giáo tháng 11-2014).

 

Trồng cây đã khó, trồng người còn khó hơn, vì công tác này đòi hỏi rất nhiều yếu tố và khả năng chuyên biệt. Trước hết là sự trợ giúp của chính Thiên Chúa, là Đấng đã hứa với Dân Người: ”Ta sẽ cho các ngươi các mục tử theo trái tim Ta” như ngôn sứ Giêrêmia viết trong chương 3 câu 15. Và đó cũng là câu Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lấy làm tựa đề cho Tông huấn ”Pastores dabo vobis” về việc đào tạo các linh mục, là những người có nhiệm vụ chăn dắt linh hồn tín hữu và chăm lo cho cộng đoàn được giao phó cho các vị.

 

Để biến một con người giòn mỏng, tầm thường trở thành một người phục vụ Tin Mừng vô vị lợi, được thánh hiến cho Thiên Chúa với sức mạnh của một sự tuân phục trung thành, của đời sống độc thân và một kiểu sống đơn sơ, là cả một nhiệm vụ lâu dài và cam go đầy thử thách. Trước hết, phải tìm ra các ứng sinh có ý hướng đúng đắn ngay lành, và chứng minh cho thấy có tiềm năng thể hiện lý tưởng sống này. Nếu việc tuyển chọn này được làm một cách nghiêm chỉnh và đúng đắn, thì vai trò của người đào tạo sẽ dễ dàng hơn cả trăm lần. Vì các ứng sinh ấy sẽ cộng tác tích cực vào tiến trình đào tạo, và góp phần đào tạo người khác.

 

Nhiệm vụ của người đào tạo là trợ giúp các ứng sinh đào sâu ý thức ơn gọi, hiểu biết một cách sâu xa rằng Thiên Chúa mời gọi họ sống cuộc đời linh mục hay cuộc đời thánh hiến với tất cả sự tự do. Họ cần được giúp đỡ phát triển một cuộc sống cầu nguyện, sẽ cho họ có được sự thân tình với Chúa gìn giữ họ trên con đường đời sống. Với sự yểm trợ của việc linh hướng họ phải đi tới chỗ hiểu biết chính mình nhiều hơn, biết rõ đâu là các điểm mạnh và đâu là các yếu đuối của mình, hầu có thể trưởng thành và tập chống trả lại các cám dỗ riêng biệt của đời giáo sĩ tu sĩ, như sự đam mê và lạm dụng quyền bình. Cần phải đậy cho họ biết các môn cần thiết để sau này biến chúng thành các dụng cụ thực dụng trong việc mục vụ.

 

Phải lấy Chúa Giêsu Kitô Mục Tử Nhân Lành làm mẫu mực. Và nếu duyệt qua một vòng các thách đố cam go, mà các linh mục phải đương đầu trong cuộc sống giáo xứ tương lai, chúng ta sẽ nhận ra rằng việc đào tạo trở thành một sứ mệnh nghiêm trọng hơn bao giờ hết, và đòi hỏi có các người đào tạo có nhiều phẩm chất cao và có một cuộc sống gương mẫu. Đây là một sứ mệnh đòi hỏi rất nhiều dấn thân, vì thế ít người muốn xung phong đảm trách.

 

Luật đầu tiên trong cuộc sống của các người đào tạo là sự hiện diện: Một nhà đào tạo vắng mặt là một nghịch nghĩa. Người đào tạo phải sống và làm việc toàn thời với những người mình đào tạo. Mục tử phải ở với đoàn chiên và hiện diện giữa đoàn chiên, dưới cùng một mái nhà, và phải luôn luôn sẵn sàng trợ giúp những người mình đào tạo, đặc biệt trong những lúc họ gặp khủng hoảng, thường cũng là những thời điểm của sự lớn lên. Kiểu sống này không dễ dàng thích hợp với nền văn hóa ngày nay, trong đó con người luôn luôn di chuyển và coi sự thay đổi và tự do là các giá trị quan trọng.

 

Hiển nhiên là một phần lớn sự hữu hiệu của việc đào tạo tùy thuộc nơi sự trưởng thành nhân bản và tin mừng của người đào tạo. Vì thế trong Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục ”Ta ban cho các con các mục tử” công bố ngày 25 tháng 3 năm 1992 Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nêu bật tầm quan trọng của việc lựa chọn các nhà đào tạo chủng sinh và tu sĩ nam nữ.

 

Việc đào tạo họ đòi hỏi phải có tính cách chuyên biệt: kỹ thuật, sự phạm, tinh thần, nhân bản và thần học, nhưng cũng cần có một tinh thần hiệp nhất và cộng tác để thực hiện chương trình đào tạo trong một sự hiệp nhất chặt chẽ, làm sao để luôn luôn cứu vãn sự hiệp nhất trong hoạt động mục vụ trong chủng viện dưới sự hướng dẫn của cha giám đốc. Nhóm đào tạo cũng phải nêu gương một đời sống theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn thánh hiến cho Thiên Chúa. Các người đào tao cũng nên có một sự ổn định nào đó và sống trong cộng đoàn chủng viện và hiệp nhất với Giám Mục, là người đầu tiên có trách nhiệm đối với việc đào tạo những người có trách nhiệm đào tạo các linh mục. Để được như vậy vị Giám Mục cần chọn các linh mục có cuộc sống gương mẫu, thánh thiện, có các đức tính như trưởng thành nhân bản và tinh thần, có kinh nghiệm mục vụ, hiểu biết chuyên môn, ổn định trong ơn gọi, được chuẩn bị đầy đù về giáo thuyết, trong các khoa học nhân văn, đặc biệt là môn tâm lý, thích hợp với nhiệm vụ đào tạo được giao phó, hiễu biết các phương pháp làm việc theo nhóm. vv...

Những điều nói trên cũng đúng đối với các người đặc trách việc đào tạo các tu sĩ nam nữ của các dòng tu hay tu hội, cũng như đào tạo người trẻ.

 

Với các tâm tình trên đây trong tháng 11 năm 2014, hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy ”Cầu xin cho giới trẻ, các chủng sinh và tu sĩ nam nữ có được các nhà đào tạo chuyên môn và đầy khôn ngoan.

 

Linh Tiến Khải

Nguồn: vietvatican.net

 

 

 

TRANG THIẾU NHI

 

XUÂN & CHAY

Tôi đã giật mình khi những trang lịch cuối cùng rơi xuống. Điều đó cũng có nghĩa là Tết cũng sắp đến và người ta sắp bước sang một tuổi mới. Trẻ em thì nô nức, người già thì mong thời gian trôi chậm lại, còn người trẻ thì lãng quên lo toan cho cuộc sống mưu sinh của mình. Mùa Xuân chính là thời điểm để con người chăm chút, bồi dưỡng thêm năng lượng cho hạnh phúc, cho tình yêu…

 

Cuộc sống cảm giác như ngày một hối hả, người ta dường như càng ít dành thời gian cho đầu óc mình thư giãn, một phút để thả hồn theo mây gió, một chút cảm xúc và một góc lãng mạn cho chính mình. Và có lẽ không ít người cảm thấy cuộc đời là một chuỗi những gánh nặng, có lúc ai đó muốn buông xuôi tất cả nhưng có một thứ vô hình đã níu kéo họ lại. Đó chính là hai chữ thật giản dị: “tình người”, rất dễ tìm mà cũng dễ đánh mất...

 

Nếu nhìn cuộc đời bằng đôi mắt tích cực, giản đơn thì chúng ta sẽ thấy hạnh phúc đang ở rất gần. Hạnh phúc có hay không là tùy thuộc ở góc nhìn của chính mình. Mùa xuân là mùa của hạnh phúc, mùa để con người ta dễ vượt qua chính mình nhất, dễ bỏ qua những nhỏ nhoi ích kỷ thường ngày để xích lại gần nhau hơn, tình người đong đầy hơn…

Năm nay sắc Xuân đã qua mau và thay vào đó là sắc tím của mùa Chay Thánh. Chính Mùa Chay sẽ giúp con người tìm lại với chính mình. Khi đối diện với chính mình thì con người sẽ thấy rõ những giới hạn, yếu đuối, thân phận đầy tội lỗi của mình để từ đó quay về với Thiên Chúa là người Cha giàu lòng xót thương. Tinh thần của Mùa Chay mời mỗi Kitô hữu hãy luôn Sám hối, Cầu nguyện và thực thi Bác ái.

 

Có một văn sĩ đã nói rằng: “Hạnh phúc sẽ nở hoa trong những tâm hồn biết cười trên những đau khổ của chính mình và biết khóc cho những đau khổ của tha nhân”. Thật đúng như vậy, khi tôi vượt ra khỏi chính bản thân mình để đến với tha nhân và đồng cảm với những đau khổ của họ thì tôi thật sự là người hạnh phúc.

 

Hạnh phúc là sự sẻ chia. Khi ta khư khư ôm chặt hạnh phúc một mình, hạnh phúc sẽ trở nên nhỏ nhoi, bé bỏng, nhưng khi ta sẻ chia cho nhiều người ở xung quanh, hạnh phúc như dâng tràn và được nhân lên gấp bội.

 

Mùa Xuân nối kết với Mùa Chay tạo nên một nhịp điệu vừa vui tươi vừa sâu lắng và mang lại ý nghĩa thật sự cho tôi khi tôi nhìn vào thực tại cuộc sống này. Xung quanh tôi còn biết bao cảnh đời bất hạnh, còn đó những con người bơ vơ nơi đầu đường xóa chợ, những con người bị chà đạp nhân phẩm, những con người sống bên lề xã hội và những con người chưa bao giờ cảm nhận sự ấm áp vui tươi của Mùa Xuân. Chúa đang mời gọi tôi đến với những phận người đó.

Tôi sẽ không hỏi Mùa Xuân đã mang lại điều gì tốt đẹp cho tôi nhưng tôi phải tự hỏi mình đã góp được những gì để cho Mùa Xuân thêm tươi thắm?

 

Tôi sẽ không hỏi Mùa Chay đã giúp ích gì cho đời sống đạo của tôi nhưng tôi phải tự hỏi mình đã sống tinh thần Mùa Chay như thế nào?

--------------------------

 

10 ĐIỀU QUÝ GIÁ BẠN TRẺ ĐANG ĐÁNH MẤT

Từng ngày trôi qua với bao suy tính, đắn đo trong công việc và cuộc sống để rồi mọi người không hề biết rằng mình đang đánh mất đi những thứ quý giá nhất của cuộc đời. Trong những điều quý giá ấy, những bạn trẻ đã vô tình đánh mất đi những điều thiết yếu nhất của cuộc sống, điều được xem như là nhựa sống của mình.

 

1. Sức khoẻ: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại vào sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ…. Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.

 

2. Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé!

 

3. Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.

 

4. Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.

 

5. Không đọc sách: Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí “nửa cuộc đời” cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì!

 

6. Cơ hội: Cơ hội là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm tay, bạn khó có thể tiến về phía trước.

 

7. Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.

 

8. Sống độc thân: Phụ nữ ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng con. Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.

 

9. Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé!

 

10. Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc đấy!

 

(Sưu tầm)

 

 

TRANG GIỚI TRẺ

 

Bài Giáo Lý XIII Về Kinh Tin Kính Của ĐTC Phanxicô

Như Một Người Mẹ Thương Con

 

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 18 tháng 9 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính và Năm Đức Tin và nói về Hội Thánh là Người Mẹ thương con.

 

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

 

Hôm nay tôi trở lại hình ảnh của Hội Thánh như một người mẹ. Tôi thực sự thích hình ảnh của Hội Thánh như một người mẹ này. Đó là lý do tại sao tôi muốn trở lại với nó, bởi vì điều này đối với tôi dường như cho chúng ta biết không những Hội Thánh như thế nào, mà khuôn mặt của Hội Thánh là Mẹ chúng ta càng ngày càng phải có dung nhan của một người mẹ.

Tôi muốn nhấn mạnh ba điều, trong lúc luôn luôn nhìn đến những người mẹ của chúng ta, tất cả những gì các bà làm, các bà sống, các bà chịu đau khổ vì con cái của của mình, và tiếp tục với những gì tôi đã nói thứ Tư tuần trước. Tôi tự hỏi: Một người mẹ làm gì?

 

1. Trước hết, mẹ dạy chúng ta bước đi trong cuộc đời, dạy chúng ta sống tốt, mẹ biết làm sao để hướng dẫn con cái, mẹ luôn luôn cố gắng để chỉ cho chúng con đường ngay thẳng trong cuộc sống để chúng lớn lên và trở nên những người trưởng thành. Và mẹ làm như thế với sự dịu hiền, với lòng trìu mến, với tình yêu, luôn luôn, ngay cả khi mẹ cố gắng sửa lại con đường của chúng ta bởi vì chúng ta đi trật một chút trong cuộc sống, vì chúng ta theo con đường dẫn đến vực thẳm. Một người mẹ biết điều gì quan trọng để giúp con mình tiến bước tốt đẹp trong cuộc sống, và bà đã không học điều ấy từ sách vở, nhưng từ quả tim của mình. Đại học của các bà mẹ là quả tim của các bà! Ở đó, các bà học làm sao thăng tiến con cái của mình.

Hội Thánh cũng làm như thế: Hội Thánh hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, dạy chúng ta những bài học để chúng ta bước đi cách tốt đẹp. Hãy nghĩ đến Mười Điều Răn: chúng chỉ cho chúng ta một con đường để đi đến trưởng thành, để chúng ta có một số điểm [qui chiếu] chắc chắn trong cách chúng ta cư xử. Và chúng là kết quả của sự ân cần, của chính tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã ban các điều răn ấy cho chúng ta. Anh chị em có thể nói với tôi: nhưng chúng là những giới răn! Toàn là những điều “cấm đoán”! Tôi mời anh chị em đọc lại chúng - có lẽ anh chị em đã “quên mất” một ít - và sau đó suy nghĩ về chúng một cách tích cực. Anh chị em sẽ thấy chúng có liên quan đến cách chúng ta cư xử với Thiên Chúa, với chính mình và với những người khác, đó chính là những gì một người mẹ dạy chúng ta để sống tốt. Chúng mời gọi chúng ta đừng tạo ra những thần tượng vật chất để sau đó biến mình thành nô lệ cho chúng, nhắc nhở chúng ta về Thiên Chúa, về việc tôn kính cha mẹ, phải thành thực, tôn trọng những người khác... Hãy thử nhìn vào chúng như thế và coi chúng như thể chúng là những lời, những giáo huấn mà một người mẹ làm để dạy chúng ta sống tốt đẹp trong cuộc sống. Một người mẹ không bao giờ dạy những điều xấu, mẹ chỉ muốn điều tốt cho con mình, và đó cũng là những gì mà Hội Thánh làm.

 

2. Hội Thánh cũng thế, Hội Thánh là một người mẹ nhân từ, hiểu biết, luôn luôn tìm cách giúp đỡ, khuyến khích ngay cả những người con đã làm những điều sai quầy và đang sai lầm, Hội Thánh không bao giờ đóng cửa nhà mình; Hội Thánh không xét đoán, nhưng cung cấp cho họ ơn tha thứ của Thiên Chúa, ban tặng cho họ tình yêu của Ngài là Đấng mời gọi ngay cả những người con đã rơi xuống vực thẳm trở về đường ngay; Hội Thánh không sợ bước vào đêm đen của họ để ban cho họ hy vọng; Hội Thánh không sợ bước vào đêm đen của chúng ta khi chúng ta đang ở trong bóng tối của tâm hồn và lương tri, để ban cho chúng ta hy vọng! Bởi vì Hội Thánh là mẹ!

 

Tôi muốn nói với anh chị em một điều thứ nhì: khi một đứa con lớn lên thì nó trở thành một người lớn, nó sống theo cách của mình, nhận lãnh những trách nhiệm của mình, tự bước đi bằng đôi chân của mình, làm những gì mình muốn, và đôi khi, cũng xảy ra, là nó đi trật đường, nó có thể gặp một tai nạn. Trong mọi hoàn cảnh, người mẹ luôn luôn kiên nhẫn tiếp tục đồng hành với con mình. Điều thúc đẩy bà là sức mạnh của tình yêu; một người mẹ biết đi theo cuộc hành trình của con mình với sự kín đáo, với sự ân cần, ngay cả khi chúng sai lạc, và bà luôn luôn tìm cách hiểu chúng, gần gũi để giúp đỡ chúng. Ờ nước tôi - chúng tôi nói rằng một bà mẹ biết cách “dar la cara.” Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là một bà mẹ có thể “bênh vực” [“đưa mặt ra cho]” con cái của mình, có nghĩa là luôn luôn được thúc đẩy để bảo vệ chúng. Tôi nghĩ đến các bà mẹ đau khổ vì con cái của họ trong các nhà tù hoặc trong những hoàn cảnh khó khăn: các bà không hỏi xem chúng có tội hay không, các bà tiếp tục yêu thương chúng, và thường thì các bà chịu những sự nhục nhã, nhưng không sợ hãi, không ngừng tự hiến.

 

3. Và đó cũng là điều mà Hội Thánh làm: Hội Thánh đặt trong bàn tay của Chúa, bằng lời cầu nguyện của mình, tất cả mọi hoàn cảnh của con cái mình. Chúng ta hãy tin tưởng vào sức mạnh của lời cầu nguyện của Mẹ Hội Thánh, Chúa không vô tình. Người luôn luôn biết làm sao để chúng ta ngạc nhiên lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Mẹ Hội Thánh biết điều này!

 

Đó là những tư tưởng mà tôi muốn nói với anh chị em hôm nay: chúng ta hãy thấy trong Hội Thánh một người mẹ tốt lành, là người chỉ cho chúng ta con đường để đi theo trong cuộc sống, là người luôn luôn biết kiên nhẫn, thương xót, hiểu biết, và biết cách đặt chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa.

Một tư tưởng cuối cùng. Một người mẹ cũng biết cầu xin, gõ mọi cánh cửa vì con mình mà không tính toán, bà làm điều ấy vì tình yêu. Và tôi nghĩ về cách mà các bà mẹ cũng biết, trên hết, là gõ cửa quả tim của Thiên Chúa! Các bà mẹ cầu nguyện nhiều cho con cái của họ, đặc biệt là cho những người con yếu hơn, cho những người con cần lời cầu nguyện nhất, cho những người con không đi theo đường tốt lành, hay đang theo đường nguy hiểm hoặc sai lầm trong cuộc sống. Vài tuần trước, tôi đã cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ Thánh Augustinô, ở đây tại Roma, nơi di tích của mẹ ngài, là Thánh Mônica, được cất giữ. Biết bao nhiêu lời cầu nguyện mà bà mẹ thánh này đã dâng lên Thiên Chúa cho con trai bà, và biết bao nước mắt mà bà đã tuôn rơi! Tôi nghĩ đến các chị em, những người mẹ thân yêu: Các chị em cầu nguyện cho con cái biết bao nhiêu rồi mà không biết mệt! Hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác con cái cho Thiên Chúa; Ngài có quả tim vĩ đại! Hãy gõ cửa quả tim của Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện cho con cái của mình của các chị em.

 

Phaolô Phạm Xuân Khôi

Nguồn: conggiaovietnam.net

 

 

TRANG GIA ĐÌNH

 

TIỀN BẠC CÓ MUA ĐƯỢC HẠNH PHÚC KHÔNG ?

XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

 

1.LỜI CHÚA: Khi ấy Chúa Giêsu phán:"Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc họ sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24).

 

2.CÂU CHUYỆN

 

Trước đây, Xuân cũng thuê làm chủ một cửa hàng cắt tóc và chăm sóc móng. Từ khi kết hôn, Xuân chỉ ở nhà nghỉ ngơi sinh con vì nghe chồng bảo rằng: công việc nhuộm, sấy tóc không tốt cho sức khỏe của bà bầu. Từ ngày nghỉ việc, không có thêm đồng ra đồng vào, cuộc sống của Xuân vô cùng khó khăn. Cần mua gì Xuân cũng phải hỏi chồng mà ông xã của Xuân thì lại quá chặt chẽ chi ly. Chẳng hạn nhiều lần Xuân đề cập đến việc cần sắm sửa vài bộ váy cho bụng bầu được thoải mái nhưng Tâm lại bảo: “Dạo này công việc làm ăn của anh không được tốt lắm. Em chịu khó xin lại quần áo cũ của bà chị để mặc cho đỡ tốn !”. Biết có năn nỉ thêm cũng vô ích nên cô đành phải im lặng chịu đựng cho qua chuyện.

 

Không giống như nhiều ông chồng đưa tiền cho vợ mỗi đầu tháng khi mới lãnh lương, chồng của Xuân lại đưa tiền cho vợ đi chợ từng ngày. Mỗi sáng vợ chồng bàn nhau xem thực đơn hôm nay ăn món gì. Sau đó Tâm sẽ tạm tính chi phí và đưa tiền cho vợ. Tối về, Xuân lại phải làm bản liệt kê mua mớ rau, con cá tổng cộng hết bao nhiêu trước vẻ mặt không mấy vui của chồng..

 

Đồng ý rằng đồng tiền luôn là chìa khóa vạn năng mở được mọi cánh cửa, nhưng cánh cửa hạnh phúc của hôn nhân gia đình thì vô giá và người ta không thể mở được hạnh phúc bằng tiền. Thiết nghĩ Tâm cũng đừng vì đồng tiền mà đánh mất đi hạnh phúc đang nắm giữ.

 

3. SUY NIỆM

 

1) Một số nhận định về giá trị của đồng tiền như sau:

 

- Tiền có thể mua đuợc một ngôi nhà nhưng không thể mua đuợc một tổ ấm.

 

-Tiền có thể mua một chiếc giuờng nhưng không thể mua được một giấc ngủ.

 

- Tiền có thể mua đuợc một chiếc đồng hồ nhưng không thể mua đuợc thời gian.

 

- Tiền có thể mua đuợc một cuốn sách nhưng không thể mua đuợc kiến thức.

 

- Tiền có thể mua đuợc thuốc men nhưng không thể mua đuợc sức khỏe.

 

- Tiền có thể mua đuợc ngừơi yêu nhưng không thể mua đuợc tình yêu của họ.

 

- Tiền có thể mua đuợc bảo hiểm nhưng không thể mua đuợc sự an toàn.

 

Gần đây tờ Los Angeles Times cũng đưa ra nhận định về ảnh hưởng của tiền bạc trên hạnh phúc gia đình như sau:

 

- 70% ngừơi Mỹ nói rằng: “Họ bị nợ nần quá nhiều và điều đó ảnh huởng đến bầu khí gia đình” và đó cũng là nguyên nhân gây ra đổ vỡ hạnh phúc nơi nhiều gia đình.

 

- Tiền bạc là nguyên nhân số một cho những xung đột của các cặp vợ chồng mới cứơi.

 

- Trong một bản khảo sát của 1001 ngừơi thì có tới hơn một nửa trong số họ cho rằng tiền bạc là chủ đề nhạy cảm trong gia đình. 40% nhận là họ đã nói dối bạn đời về số tiền đã chi.

 

Những nhận định nói trên cho thấy tiền bạc ảnh huởng lớn đến hạnh phúc gia đình. Khủng hoảng kinh tế hiện nay đang gõ cửa từng gia đình và đe dọa đến hạnh phúc của họ.

 

2) Giữa hai vợ chồng ai nên giữ tiền?

 

- Tài sản là của chung: Ông bà ta từng nói: "Của chồng công vợ". Tài sản mà hai người cùng nhau dành dụm, cho dù do ai làm ra cũng đều là của chung. Chỉ khi nhận thức được như vậy, vợ chồng mới thật sự nói được câu: "mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai" và mới chứng tỏ hai vợ chồng tin tưởng trọn vẹn và thật sự thương yêu nhau. Dù trong hoàn cảnh nào, vợ chồng tránh gây thắc mắc cho nhau về mức thu nhập, và sự chi tiêu của mình. Tốt nhất vợ chồng nên có chung một tài khoản tiết kiệm trong ngân hàng đứng tên chồng và ủy quyền cho vợ. Khi phải chi những việc lớn cần có sự thống nhất trước. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là chồng hay vợ không có quyền giữ lại một phần thu nhập để chi cho những nhu cầu cá nhân hợp lý, nhưng cần phải cho nhau biết.

 

- Vợ chồng ai quản lý tài sản?: Điều tối kỵ là chồng không bao giờ nên "chi tiền cho vợ đi chợ". Trường hợp vợ có mức thu nhập cao hơn chồng thì vợ càng phải có lối ứng xử tế nhị hơn. Cần tránh cho chồng mang mặc cảm thua kém vợ. Tuy hòan tòan có khả năng tự lo chi tiêu cho gia đình, nhưng tốt nhất các bà vợ này hãy để chồng cùng chia sẻ trách nhiệm thu chi tài chánh với mình. Có như vậy người chồng mới tự tin và có cảm giác được vợ tôn trọng.

 

- Trao đổi thẳng thắn về cách thức và mục đích chi tiêu: Chẳng hạn: Chồng thích chiu tiêu thoải mái nhưng vợ lại thích tằn tiện; Vợ thích làm từ thiện nhưng chồng lại không muốn; Chồng thích hùn vốn đầu tư làm ăn lớn nhưng vợ lại sợ bị mất trắng và chỉ muốn gửi tiền ngân hàng lấy lãi hằng tháng cho chắc ăn… Tất cả những mâu thuẫn nói trên đều có thể gây ra tranh cãi hay "chiến tranh lạnh" giữa hai vợ chồng. Do đó, tốt nhất là vợ chồng nên thảo luận cởi mở thẳng thắn về vấn đề này hầu có thể hiểu nhau hơn và cùng nhau bảo vệ hạnh phúc gia đình.

 

- Nên thảo luận khi nào? Theo lời khuyên của nhiều chuyên gia, vấn đề tiền bạc nên được thảo luận càng sớm càng tốt, thậm chí trước khi kết hôn. Khi đã có kế hoạch kết hôn, mỗi người cần trình bày các khoản nợ đang vướng mắc để tránh gây bất ngờ hụt hẫng đe dọa cuộc sống chung sau này.

 

- Một số điểm vợ chồng cần thống nhất:

 

* Chi tiêu tiết kiệm, tích lũy tương lai: Cuộc sống gia đình có nhiều vấn đề phải lo, vì vậy “sống thấp hơn một chút so với những điều kiện đang có” là xu hướng mà nhiều cặp vợ chồng trẻ lựa chọn. Họ sẽ không hoang phí, cũng không xài hết khoản tiền kiếm được mà chi tiêu tiết kiệm để tích lũy cho tương lai. Vì vậy, hai vợ chồng không nên chi xài hoang phí và nên dành tiền tiết kiệm hằng tháng đề phòng các bất trắc như đau ốm, tai nạn…cần chi tiêu ngoài dự tính.

 

* Lên kế hoạch và mục tiêu chung: Hôn nhân là một chuyện trọng đại nghiêm túc. Cả hai vợ chồng cần bàn bạc và thống nhất về vấn đề tiền bạc của gia đình, các món nợ hay các khoản tiêu riêng của mỗi nguời cũng nên đưa ra bàn bạc cụ thể. Các kế hoạch và mục tiêu dài hạn như mua nhà, sắm sửa trang thiết bị nội thất, chăm sóc con cái, đi du lịch năm... cần được lên kế hoạch chi tiết để tránh những tranh cãi có thể phát sinh sau này.

 

* Vợ chồng chỉ nên có một “quỹ”: Quỹ chung đang là xu hướng của các cặp vợ chồng hiện đại. Nếu không lập quỹ chung rất dễ xảy ra tình trạng một người sẽ phải chi trả tất cả các khoản tiền từ nhỏ đến lớn trong gia đình, đang khi người kia lại có thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, dễ dẫn đến bất hòa tranh cãi giữa hai vợ chồng. Vì vậy, vợ chồng cần chỉ có một quỹ chung với sự thống nhất về nguyên tắc chi tiêu giữa hai vợ chồng.

 

* Năng trao đổi về tài chính: Sau khi thống nhất kế hoạch tương lai và nguyên tắc chi tiêu, nhưng chắc vẫn không tránh khỏi những thay đổi hoặc một số vấn đề mới phát sinh. Do đó vợ chồng cũng nên thường xuyên bàn bạc về tài chính để hiểu nhau hơn và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với tình hình tài chính đã thay đổi.

 

* Về các khoản chi cho người thân: Cuộc sống không chỉ của riêng hai người. Vợ chồng còn cần quan tâm đến cha mẹ đôi bên và con cái. Đây có thể là một khoản tiền không nhỏ nên vợ chồng cần thống nhất ngay từ đầu để tránh những xung đột về sau như về các khỏan cần chu cấp giúp đỡ cha mẹ hai bên mỗi tháng. Một giải pháp đảm bảo tương lai cho con cái được nhiều cha mẹ trẻ thực hiện là mua những gói bảo hiểm phù hợp cho con.

 

4. THẢO LUẬN: Bạn có đồng ý với các điểm cần lưu ý nói trên không? Tại sao ?

 

5. LỜI CẦU: Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ chúng con tránh sự mâu thuẫn tranh cãi nhau về tiền bạc. Xin cho chúng con thống nhất trong cách làm tiền, tiêu tiền, và dùng tiền xây dựng hạnh phúc và góp phần vào sư vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.- AMEN.

 

LM ĐAN VINH, HHTM

 

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

 

25 Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

Bài 13: Phaolô có vợ con gì không?

 

Trong Thánh Kinh và cả những sử liệu bên ngoài không thấy nói đến vợ và con của thánh Phaolô. Có người cho là Phaolô đã có gia đình nhưng có thể vợ chết, hoặc ly dị vợ nên sống đời độc thân. Không có tài liệu chính xác nào nói đến những đồn đãi này, ngoại trừ người ta biết chắc là sau khi trở lại, Phaolô sống như một người độc thân.

 

Căn cứ vào những thư thánh Phaolô viết, lời giải thích rằng Phaolô không có vợ-con đáng tin cậy hơn là những giải thích ngược lại.

 

Có nhiều lý do để ta tin là Phaolô không có gia đình. Trước hết, trong những thư gởi tín hữu Roma, Galata, Ephêsô và nhất là Corintô, thánh Phaolô nói đến vai trò phụ nữ nhiều lần nên không thể nào không nhắc đến vợ con, nếu có.

 

Thứ hai, khi nói đến đời sống gia đình, Phaolô nhấn mạnh đến sự trung thành vợ chồng “… tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng… và chồng cũng không được rẫy vợ” (1 Cor 7: 10-12). Vì thế, không có lý do gì để ta tin rằng Phaolô ly dị vợ hay bỏ gia đình để đi làm việc mục vụ cho Giáo hội vì nghịch lại những gì Ngài dạy.

 

Thứ ba, trong thư thứ nhất Corintô, Phaolô nói: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ” (1 Cor 7:7-8). Đoạn Kinh Thánh này thuyết phục nhiều người tin rằng Phaolô là một người độc thân, không lập gia đình.

 

Với những người tin rằng Phaolô đã có gia đình, họ căn cứ vào thư thứ nhất Corintô: “Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, không có quyền đem theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và như ông Kêpha?” (1 Cor 9:4-5). Thật ra, đây không là một bằng chứng rõ đủ để nói lên Phaolô là người có gia đình. Có thể câu này được dùng để biện minh về quyền có gia đình thì đúng hơn, nghĩa là, Phaolô cũng như bao người khác có quyền lập gia đình, và nếu có gia đình thì họ có quyền đem theo vợ trong khi làm công việc mục vụ như Phêrô hay các tông đồ khác.

 

Thứ hai, những người này cho rằng việc Phaolô không có vợ là một chuyện lạ trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, vì người Do Thái xem việc lập gia đình và có con cái như một ơn lành của Thiên Chúa ban thưởng, ngay cả đây là mệnh lệnh Thiên Chúa yêu cầu ông bà Adong Evà trong đời sống: “hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất…” (Sáng Thế 1:28). Tuy nhiên, họ quên rằng chuyện lạ không có nghĩa là không xảy ra (như Chúa Giêsu cũng không lập gia đình).

 

Cuối cùng một số Kitô hữu vào thế kỷ 3-4 tin là Phaolô đã có gia đình, vì họ căn cứ vào câu nói trong thư gởi tín hữu Philiphê “Tôi xin cả anh Xidigot nữa, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Clementê và các cộng sự viên khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh” (Phil 4:3). Thật ra, đây là bằng chứng yếu kém nhất trong việc thuyết phục để tin là Phaolô có vợ.

 

Dù không biết chắc chắn về vợ con thánh nhân, ta biết thánh nhân nhắc đến bà con Ngài một vài lần, có người trở thành Kitô hữu trước Ngài, và có người ở trong tù với Ngài (Rom 16:7).

 

Sách Công Vụ Tông Đô nhắc đến một người chị của thánh Phaolô ở Jerusalem, và con trai của bà. Người cháu này có lẽ có chức vị trong xã hội nên đã có điều kiện biết chuyện nội bộ và báo tin cho Phaolô hay rằng các vị trong Thượng Hội Đồng đang lập mưu để giết Phaolô: “Nhưng người con trai của bà chị ông Phaolô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào báo tin cho ông Phaolô” (Cvtđ 23:16).

 

Mt. Nguyễn khắc Hy, S.S.

Nguồn: liendoanconggiao.net

 

 

TRANG QUỚI CHỨC

 

HỮU XẠ TỰ NHIÊN HƯƠNG

 

Kiến là loài sinh vật mà ai trong chúng ta đều biết. Theo các nhà khoa học, nó có mặt trên trái đất này khoảng 130-180 triệu năm rồi và có mặt khắp nơi trên trái đất. Người ta so sánh sinh hoạt của loài kiến như một xã hội loài người thu nhỏ. Một sinh hoạt cũng rất lý thú đó là cách chúng truyền tin cho nhau.

Tuy cùng một loài, nhưng những con kiến khác tổ cũng phân biệt với nhau bằng một loại hóa chất có tên là phéromone (tạm gọi là mùi của chúng đi). Đó là phương thức chúng truyền tin cho nhau.

 

Khi các con kiến đi tìm thức ăn chúng sẽ lưu lại dấu chân của mình trên đường đi để đánh dấu và những con khác có thể tìm theo, như vậy khi một con tìm thấy thức ăn, những con khác sẽ tìm theo dấu đó để lần theo tìm đến đúng vị trí nguồn thức ăn cùng mang về tổ. Mùi của nó cũng còn có tác dụng để thông báo về sự nguy hiểm từ môi trường cho những con khác biết nữa. Đó là phương thức làm việc và thông tin mà nhờ đó một sinh vật rất nhỏ như chúng có thể sống và tồn tại mãi cho đên bây giờ.

 

Chúng ta có thể học được gì nơi loài kiến ?

Có những nhà kinh doanh đã áp dụng quy luật của loài kiến để thành công trong việc làm ăn của mình, tránh được những thất bại trong việc. Chúng ta không kinh doanh, nhưng chúng ta cũng có sứ vụ như loài kiến đó là loan báo tin vui, nguồn thức ăn, nguồn sống cho đồng loại, mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã trao trước khi về trời.

 

Việc làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa và sự sống đời đời đang dành trao cho con người là một sứ mạng nhưng làm thế nào để thực hiện nó một cách tốt nhất là một việc rất khó. Giáo Hội không bao giờ chủ trương dùng bạo lực như những người Hồi giáo cực đoan IS, cũng không tìm cách hoa mắt thiên hạ hay dùng của cải vật chất để chiêu dụ, ví dụ như có những người đã nói rằng: họ vào đạo là vì trước đó họ thích đi lễ để nghe thánh ca, thích được tổ chức đám cưới trong nhà thờ theo kiểu tây, hay vì được đùm bọc bởi những cơ sở nhân đạo của người Công Giáo….Nhưng những điều đó không phải là cách để loan báo Phúc m mà là lối sống của người Kitô hữu. Người Kitô hữu là con cái sự sáng nên không được sống trong u mê hủ tục, người Kitô hữu là người phải biết “ yêu thương nhau như Thầy đã yêu” cho nên họ phải biết san sẻ mặc dù Giáo hội không giàu có nhưng biết đùm bọc nhau, xin của người giàu giúp người nghèo giúp họ vơi đi đau khổ, cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

 

Cách loan báo Phúc Âm hay (Tin Mừng) ấy phải là thông tin và chia xẻ giống như loài kiến vậy. Phải khám phá ra nguồn lương thực mang đến sự sống đời đời và dùng chính lương thực đó mà sống để cơ thể trở nên cường tráng, diễm lệ, vui tươi, thanh thoát…Đó chính là phéromone, cái mùi dùng để đánh dấu của loài kiến, để đồng loại của chúng ta tìm đến nguồn lương thực ấy mà hưởng dùng, bởi vì, xét cho cùng, mỗi người chúng ta, ai cũng đang đi tìm nguồn lương thực thần linh, nhưng mấy ai đã tìm ra nguồn thần lương ấy ? Một khi chúng ta chứng tỏ đó là thần lương bằng tất cả đời sống chúng ta qua kết quả của nó là sự khác biệt bằng đời sống tốt đẹp của mình với những lương thực tinh thần mà đồng bào chúng ta đang dùng thì tự nhiên họ sẽ tìm đến, bởi vì con người có trí khôn, trong những cái tốt, người ta vẫn muốn chọn ra cái tốt hơn cho mình.

 

 

 

SỐNG ĐẸP

 

Philippines: Một bé gái hỏi ĐTC “Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy?”

 

Em cùng với một bé trai 14 tuổi tên là Jun Chura là đại diện cho những trẻ bụi đời đang được viện 'Tulay ng Kabataan' nuôi dưỡng, và là một trong nhiều nhân chứng được chọn để trình bày những hiện trạng và thách đố cuả xã hội lên ĐTC, trong buổi gặp gỡ dành riêng cho thanh thiếu niên, tổ chức tại Giáo Hoàng Học Viện Santo Tomas.

 

“Tại sao Chuá lại để xảy ra như vậy?" là câu hỏi trong nước mắt cuả bé gái 12 tuổi Glyzelle Iris Palomar đặt ra cho Đức Giáo Hoàng.

 

Em cùng với một bé trai 14 tuổi tên là Jun Chura là đại diện cho những trẻ bụi đời đang được viện 'Tulay ng Kabataan' nuôi dưỡng, và là một trong nhiều nhân chứng được chọn để trình bày những hiện trạng và thách đố cuả xã hội lên ĐTC, trong buổi gặp gỡ dành riêng cho thanh thiếu niên, tổ chức tại Giáo Hoàng Học Viện Santo Tomas.

 

Sau khi kể hoàn cảnh cuả mình là một bé gái bị bỏ rơi và bị vất ra ngoài lề cuả xã hội. Trong cuộc sống bụi đời ấy em đã chứng kiến nhiều đồng bạn bị cha mẹ bỏ bê đã xa vào những cạm bẫy cuả sự dữ, như nghiện ngập hoặc nạn mãi dâm, em đã không thể đọc tiếp bài dọn sẵn và nhìn lên ĐTC, em đặt câu hỏi: “Bakit po pumapayag ang Diyos na may ganitong nangyayari?” ("Taị sao Chuá lại để xảy ra như vậy?")

 

"Tại sao Chuá đã cho phép những sự ấy xảy ra, dù đó không phải là lỗi cuả những đứa trẻ vô tội?"

 

Em không thể đọc tiếp, nhắm nghiền mắt lại và nức nở khóc.

 

Cố gắng lắm, em kết thúc bằng một câu hỏi thứ hai: “At bakit konti lang ang tumutulong sa amin?” ("và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế ?")

 

Người ta đã phải dỗ em trước khi đưa em lên bắt tay ĐGH. Ngài đã đứng dậy, bước xuống nửa đường để ôm em vào lòng.

Hình ảnh một vị Giáo Hoàng cũng rưng rưng nước mắt và em Palomar chôn mặt mình vào lòng cuả Ngài đã lập tức được loan tải rộng rãi trên tất cả các hệ thống truyền thông. Nhiều tờ báo đánh giá đây là giây phút cảm động nhất cuả cuộc Tông Du.

 

Trong bài giảng, để đáp lời em Palomar, ĐTC đã dùng tiếng mẹ đẻ Tây Ban Nha, là một việc Ngài làm khi cần bày tỏ những tâm tình cá nhân, Ngài nói:

 

"Em ấy là người duy nhất đã hỏi một câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Và em ấy cũng đã không diễn tả hết được bằng lời lẽ nhưng đã bằng những giọt nước mắt."

 

"Tại sao con trẻ có nhiều đau khổ như thế? Tại sao một đứa bé phải chịu đau khổ?" Ngài đặt lại câu hỏi.

 

"Chỉ khi nào mà một con tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó chúng ta mới có thể hiểu được," Ngài nói.

 

Và ĐTC kêu gọi những người trẻ cần phải học cách để mà khóc.

 

"Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây hãy tự hỏi mình, rằng tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa? Tồi đã khóc cho một ai đó đang bị nghiện ngập chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó bị lộng hành chưa?"

 

"Đây là điều trên hết mà Cha muốn nói với chúng con: Hãy học để khóc...hãy học, học thực sự để mà khóc, khóc cách nào,"

Ngay cả Chuá Giêsu cũng đã khóc.

 

ĐTC nhấn mạnh đến cách mà Chúa Giêsu đã phục vụ cho người dân của mình. Ngài đã không sử dụng lòng từ bi của thế gian, như là dừng lại một vài giây để ban phát tiền bạc hoặc những cuả cải vật chất. Nhưng, Đức Giáo Hoàng nói, Chúa Kitô đã dành trọn thời gian để lắng nghe và để thông cảm với người dân của mình.

 

"Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khóc" Đức Giáo Hoàng nói. "Ngài đã khóc cho một người bạn vừa mới chết, Ngài đã khóc trong lòng cho một gia đình vừa mới mất đứa con, Ngài đã khóc khi nhìn thấy một bà goá nghèo đem chôn đứa con trai, Ngài đã rơi nước mắt, động lòng trắc ẩn, khi nhìn thấy đám đông không có ai chăn sóc. "

 

Chỉ khi nào chúng ta học cách khóc với những ai đang đau khổ là chúng ta mới có thể bắt đầu hiểu họ và yêu thương họ, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích.

 

"Nếu các con không biết làm thế nào để khóc, các con không thể là người Kitô hữu tốt" Ngài nhấn mạnh.

 

"Chúng ta hãy học cách khóc, như Glyzelle đã làm gương cho chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta đừng quên bài học này. "

 

Trần Mạnh Trác

 

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

 

Tại Sao Thiên Chúa Ra Lề Luật Cho Con Người Thi Hành ?

 

Hỏi: Xin cha giải thích rõ vì mục đích gì mà Thiên Chúa đã ra lề luật cho con người phải tuân giữ ?

 

Trả lời: Tôi đã nhiều lần nói rõ là Thiên Chúa không hề có lợi lộc gì hay muốn tìm lợi lộc nào mà phải tạo dựng con người có nam có nữ trên trần thế này; nhất là đã hy sinh Con Một của mình là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cũng không được lợi lãi nào cho mình gì khi vui lòng chịu mọi khốn khó và chết trên thập giá cho “ muôn người được cứu chuộc”.(Mt 20:28)

 

Sở dĩ Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc con người vì Chúa là tình thương vô vị lợi, và muốn chia sẻ hạnh phúc, an vui, sung mãn của mình cho con người nên đã tạo dựng và cứu độ con người mà thôi.

 

Cũng vậy,Thiên Chúa ban lề luật –cụ thể là Mười Điều Răn – cho con người thi hành cũng chỉ vì tình thương vô vị lợi nói trên, và vì lợi ích của con người chứ không hề vì lợi lộc nào của Thiên Chúa. Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai nghĩ sai lầm rằng Thiên Chúa được lợi lộc gì khi con người tuân giữ các giới răn của Người.Dĩ nhiên là Thiên Chúa vui thích khi con người tuân giữ các Điều Răn của Chúa, vì điều này chứng minh lòng kinh yêu của con người và cũng vì thấy con người được hưởng những lợi ích do việc tuân giữ các giới răn đem lại..

 

Thực tế chứng mình điều này: nếu Thiên Chúa không ngăn cấm mà để cho con người tự do trộm cắp, chiếm đoạt tài sản của người khác, giết người, hiếp dâm, giật chồng, lấy vợ của nhau ..thì nhân loại sẽ đi về đâu ? xã hội con người còn tồn tại trong trật tự hay đã bị hủy diệt từ lâu vì không có gì ngăn cản con người làm những sự dữ nói trên ?

 

Có các giới răn của Thiên Chúa, có luật pháp của xã hội mà vẫn còn tội ác vì hận thù nghen nghét, chém giết người nhau, cướp của, hiếp dâm và gian dâm đầy rẫy ở khắp nơi trên thế gian tục hóa này, thì thử hỏi nếu Chúa không ngăn cấm và xã hội cũng để mặc con người tự do sống theo sở thích cá nhân thì thực trạng sẽ còn ghê sợ đến mức nào nữa ?

 

Lại nữa, một thực tế không ai có thể chối cãi được là ở các đô thị trên thế giới, nếu không có luật lưu thông buộc người lái xe – hay cả người đi bộ như ở Mỹ- tuân theo mọi qui luật về vận tốc, không được vượt đèn đỏ, phải đi vào lối dành riêng cho mình ( người đi bộ ở các độ thị Mỹ) .v.v thì làm sao có thể bảo đảm được an toàn cho người lưu thông trên đường phố, khi người ta được tự do lái xe và đi bộ theo ý thích của mình như ở bên Việt Nam, nơi có mức tại nạn giao thông cao nhất trên thế giời vì người sử dụng công lộ không biết tôn trọng luật lưu thông, mạnh ai nấy chậy bất chấp an toàn cho mình và cho người khác !

 

Như vậy, vì lợi ích an toàn cho chính người dân khi ra ngoài đường phố mà người ta phải biết ơn thành phố, hay Tiểu bang đã làm ra luật lưu thông cho công chúng thi hành khi lái các loại xe trên công lộ.Chỉ có những ai sống trong rừng rú, không biết lợi ích của luật lưu thông thì mới bất mãn hay oán trách người làm ra các luật lệ này mà thôi.

 

Cũng vậy ,chỉ những người thích sống tự do theo ý mình, thích làm những việc mà chính lương tâm mình cũng không cho phép, thì mới thắc mắc hay bất mãn vì sao Thiên Chúa lại ban các lề luật về yêu thương, công bằng, bác ái, và luân lý cho con người tuân giữ để được chúc phúc và được cứu độ như lòng Chúa mong muốn, vì “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2: 4)

 

Do đó, là người có niềm tin Thiên Chúa là Đấng yêu thương, công bình và thánh thiện, chúng ta phải tin chắc rằng Thiên Chúa không hề được lợi lộc gì khi tạo dựng chúng ta là con người sống trên trần thế này, và ban cho chúng ta những điều răn hay lề luật hữu ích để tuân giữ hầu được chúc phúc và được sống , như ông Mô-sê đã nói với dân Do Thái xưa như sau:

 

“Anh em hãy lo thực hành như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em , không đi trệch bên phải hay bên trái. Anh em hãy đi đúng con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em để anh em được sống , được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.” ( Đnl 5: 32-33)

 

Mặt đất mà dân Do Thái sẽ chiếm hữu, theo lời ông Mô-sê nói trên đây, là Đất hứa Ca-na-an “đầy sữa và mật ong”, tượng trưng cho trời mới đất mới mà dân Tân Ước được Chúa Kitô cứu chuộc bằng giá máu Người đổ ra trên thập giá để dẫn đưa họ vào Nước Trời, là Đất hứa cho những ai được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa..

 

Nhưng cho được vào Đất hứa đó, dân Tân Ước, tức mỗi người chúng ta đã chịu phép rửa, phải đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” (Ga 14: 6) để cũng chịu đóng đanh với Chúa, cũng chết với Chúa cho tội lỗi con người trước khi được sống lại với Chúa trong vinh quang Phục Sinh.

 

Trong tiến trình đi theo Chúa Kitô, chúng ta được mong đợi sống Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa đã rao giảng, nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy, cụ thể là hai Điều răn quan trọng nhất : đó là mến Chúa và yêu người cộng thêm xa tránh mọi tội lỗi để được cứu độ và vào Đất hứa là Nước Trời.

 

Hai Điều Răn đứng đầu và quan trọng nhất nói trên cũng tóm gọn Mười Điều Răn mà Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái thi hành qua trung gian của ông Mô-Sê là người đã dẫn dân Do Thái an toàn vượt qua Biển Đổ để vào Đất hứa, hưởng an vui hạnh phúc.Nhưng họ không được vào Đất hứa ngay, mà phải trải qua 40 năm trong hoang địa để được thử thách về lòng họ tin và yêu mến Thiên Chúa.

 

Cũng vậy, Chúa Giê-su Kitô là Tân Mô-sê cũng dẫn dân Tân Ước qua nước Rửa tội để vào Đất hứa là Nước Trời. Nhưng sau khi được rửa tội, dân Tân Ước không được vào ngay Đất hứa mà phải tạm “lưu vong” trong trần gian này để được thử thách về đức tin đức cậy và đức mến. Cho mục đích thử thách này, dân Tân Ước được mong đợi thi hành các Điều Răn mà Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê để trao lại cho dân Do Thái xưa kia và cho tất cả mọi người chúng ta ngày nay thi hành.

 

Như vậy, cho được cứu độ để vào Thiên Quốc, dân Tân Ước- tức mọi người tín hữu chúng ta trong Giáo Hội ngày nay -không những phải cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô qua nỗ lực thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể là hai Điều Răn quan trọng nhất, đó là mến Chúa với hết tâm hồn, lòng trí và yêu thương tha nhân như yêu thương chính mình. (Mt 22: 37-39)

 

Nói khác đi, thi hành mười Điều Răn của Thiên Chúa, thâu tóm cụ thể trong hai Điều Răn Chúa Giê-su dạy phải thi hành là cách thể hiện hùng hồn niềm tin và lòng yêu mến Chúa thực sự của mọi người tín hữu chúng ta, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Chúa xưa kia như sau:

 

“Nếu anh em yêu mến Thầy

Anh em sẽ giữ các điều răn cúa Thầy…

 

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy…

 

Ai không yêu mến Thầy

Thì không giữ lời Thầy

Và lời anh em nghe đây

Không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. (Ga 14: 15, 23-24)

 

Giữ lời Thầy có nghĩa là thi hành các Điều Răn Chúa dạy bảo để được cứu rỗi và sống hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời, sau khi kết thúc hành trình con người trên trần thế này .Đó là lý do tại sao Chúa đã nói với các môn đệ Người như sau: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, mà chỉ nhũng ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

 

Như thế, yêu mến Chúa phải đi liền với việc tuân giữ các điều răn của Chúa, được ban cho chúng ta vì lợi ích của chúng ta bao lâu còn sống trên trần gian này, chứ tuyệt đối không có lợi gì cho Chúa khiến Người phải mong muốn hay đòi chúng ta phải tuân giữ.

 

Chúa truyền phải thi hành các Điều Răn, vì Người biết con người sẽ bi cám dỗ làm những sự xấu, sự dữ như gian tham, hận thù, chia rẽ, bè phái, ganh tị, dâm ô thác loạn như thưc trạng của con người sống ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.

 

Bị cám dỗ vì bản tính yếu đuối luôn hướng chiều về sự xấu sự tội, thêm với cám dỗ mạnh mẽ của ma quỷ và gương xấu của thế gian, cộng với ý muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dụng, nên người ta đã và đang sống trái nghịch với các Điều Răn của Thiên Chúa và gây biết bao tai họa cho chính con người, chứ không thiệt hại gì cho Chúa, khiến Người phải truyền cho con người thi hành những Điều Răn như điều kiện để được chúc phúc và cứu độ.

 

Thật vậy, nếu con người tuân giữ các giới răn của Chúa để không giết người, giết thai nhi , trộm cắp, gian tham,bất công, bóc lột, thay chồng đổi vợ, li dị ,phá thái, gian dâm ngoại tình…thì đã tránh được biết bao sự dữ cho chính con người ở khắp nơi xưa và nay. Do đó, con người phải biết ơn Thiên Chúa về những điều răn mà Người truyền phải tuân giữ để được an vui hạnh phúc ngay ở đời , và được cứu độ để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng mai sau.

 

Là người tín hữu , khi tuân giữ- hay thực hành- các điều răn của Chúa cũng là cách chứng minh hùng hồn bằng hành động niềm tin yêu Thiên Chúa của mình như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã dạy:

 

“Đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2: 17)

 

Hành động ở đây là thực hành những điều Chúa đã dạy về mến Chúa yêu người, về công bằng bác ái, nhân đạo và trong sạch nết na để đừng gian tham, trộm cắp, giết người, cờ bạc, dâm ô thác loạn, thay chồng đổi vợ, li dị, phá thai… như bao người không có niềm tin Thiên Chúa - hay có mà không sống niềm tin ấy- đang làm ở khắp nơi trong thế gian tục hóa ngày nay.

 

Tóm lại, chúng ta phải cảm tạ Chúa không ngừng về tình yêu bao la của Người đã tạo dựng chúng ta là con người và đã cứu chuộc chúng ta nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su cũng như đã ban cho chúng ta những điều răn quí báu giúp chúng ta sống an vui hạnh phúc ngay từ ở đời này, trước khi được vui hưởng Thánh Nhan Người cùng các Thánh các Thiên Thần trên cõi vĩnh hằng mai sau.

 

Xin nhắc lại là Thiên Chúa tuyệt đối không có lợi lộc gì khi tao dựng, ban các Điều Răn và cứu chuộc con người trong Chúa Kitô. Người đã làm mọi sự chỉ vì yêu thương và vì lợi ích cho con người, chứ Thiên Chúa không được lợi lộc nào hết.

 

Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi được đặt ra.

 

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nguồn: conggiaovietnam.net

 

 

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

 

TÔI XIN CHỌN NGƯỜI (KỲ 6):

CON NGƯỜI CHIA RẼ NHAU

Các bạn thân mến, sau khi A-đam và E-và ăn trái cấm, họ đã bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng và sự dữ cứ mãi đeo bám con người. Tương quan giữa A-đam và E-và cũng chẳng ấm êm và hai người con của ông bà đã lâm vào thảm án anh giết em. Như thế, sau khi ăn trái cấm, con người bắt đầu chia rẽ với Thiên Chúa, với chính mình và với tha nhân. Sự chia rẽ này có nguy cơ sẽ lan rộng và ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại.

 

Chúng ta có thể nhận biết điều đó qua câu chuyện của tháp Babel được sách Sáng Thế ký thuật lại. Vào thời ấy, con người nói cùng một thứ tiếng và dùng những từ ngữ như nhau. Một ngày nọ, họ có sáng kiến muốn xây dựng một thành phố và giữa thành phố họ muốn xây dựng một tòa tháp cao chọc trời. Mục đích là để danh tiếng của họ được truyền tụng qua muôn thế hệ. Họ muốn xây một tòa tháp cao vươn đến trời vì đó là nơi Thiên Chúa đặt ngai tòa của Ngài. Làm thế, con người chỉ muốn chứng tỏ rằng họ có thể làm mọi sự mình muốn mà chẳng cần đến Thiên Chúa. Họ đã quá tự mãn tự kiêu khi muốn chống đối Ngài. Kết cục, con người đi đến sự bất đồng ngôn ngữ nên họ chẳng còn có thể hiểu nhau nữa. Bất đồng ngôn ngữ nên tòa tháp cao chọc trời trong mơ ước của con người đã chẳng thể nào thành sự. Họ phân tán tứ tung khắp nơi dưới vòm trời và thành phố để đời mà họ muốn kiến thiết cũng trôi vào dĩ vãng. Con người bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau và khoảng cách giữa người với người ngày càng xa cách. Họ đã chia rẽ và chẳng bao giờ còn có thể ngồi lại với nhau.

 

Các bạn thân mến, ngày nay, con người vẫn tiếp tục xây dựng những tòa tháp Babel cao chọc trời như thế. Đối với con người ngày nay, tháp Babel là cái tôi và chủ nghĩa cá nhân được đề cao một cách thái quá. Các bạn trẻ chúng ta ai cũng muốn mình là nhất, là “cái rốn của vũ trụ” để mọi người phải chiều theo ý muốn của mình. Khi muốn mình là người quan trọng nhất, các bạn đã hạ giá tha nhân và coi thường cả Thiên Chúa. Đành rằng việc các bạn càng ngày càng tự tin vào khả năng của chính mình không phải là điều xấu, nhưng tự tin quá mức và coi thường người khác và Thiên Chúa, thì các bạn cũng đang chống đối lại Thiên Chúa như dân Babel ngày xưa. Phàm điều gì bất tuân và chống lại Thiên Chúa, chẳng thể nào có thể tồn tại.

 

Dân Babel thất bại khi xây dựng tháp không chỉ vì chống đối Thiên Chúa nhưng còn vì đã chia rẽ nhau. Họ chia rẽ vì có những ý kiến trái ngược nhau về cách thức, hình dáng, mục tiêu để xây dựng tháp. Ý kiến khác nhau là điều bình thường nhưng họ đã tranh cãi với nhau quá quyết liệt, ai cũng đinh ninh ý kiến của mình là hay nhất nên mọi người khác phải nghe theo và phải phục tùng tôi. Với sự tự mãn và tự kiêu của chính mình, đến cả Thiên Chúa mà con người cũng chẳng xem ra gì thì làm sao họ có thể tôn trọng lẫn nhau được ? Đây mới là nguyên do chính yếu khiến tòa tháp Babel của con người mãi mãi chỉ có trong ước mơ. Con người không tôn trọng lẫn nhau vì không ai hiểu ai. Họ không hiểu nhau vì ai cũng khư khư giữ lấy cái tôi của chính mình. Như thế, việc hiểu nhau không chỉ hệ tại nơi những âm thanh có thể cảm nhận bằng thính giác nhưng là sự đồng thuận giữa nhiều cõi lòng.

 

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã luôn tỏ ra thấu hiểu con người nhất. Ngài đã biết một người thu thuế tội lỗi như Giakêu cần mình như thế nào. Khi ông chẳng dám ngỏ lời thì Ngài đã chủ động thăm nhà ông và giúp ông làm cuộc hoán cải ngoạn mục để đổi đời. Như người bị bại liệt nằm 38 năm trời mà chẳng được ai đoài hoài giúp đỡ, Đức Giêsu đã đến và chữa lành cho người ấy mặc dù anh ta chưa hề ngỏ lời xin. Chẳng ai thấu hiểu nỗi đau thể xác và nỗi nhục nhằn về tinh thần mà người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đã phải chịu, ngoại trừ Đức Giêsu. Ngài đã giúp chị thoát chết và còn cho chị cơ hội được làm lại cuộc đời. Như tông đồ trưởng Phêrô, Đức Giêsu biết ông mặc cảm với mình vì ông đã chối Ngài tới những ba lần. Ngài chỉ trắc nghiệm tình yêu của ông dành cho Ngài qua ba câu hỏi, như sự tha thứ cho ba lời phản bội Thầy công khai. Thế đó, Con Thiên Chúa xuống thế làm người luôn bày tỏ sự thấu hiểu con người trong khi con người lại chẳng muốn hiểu nhau.

 

Như thế, con người chẳng cần đến một tòa tháp Babel bằng gạch đá để có thể hiệp nhất với nhau. Điều con người cần làm là dẹp bỏ những tòa tháp Babel tự mãn tự kiêu ở trong lòng mình để chỉ tôn kính Thiên Chúa như tòa tháp vô hình vĩ đại nhất. Chỉ khi quy tụ xung quanh Thiên Chúa thì con người sẽ hiểu nhau và sẽ chẳng còn cảnh chia rẽ hay phân tách giữa người với người.

Jos. Nguyễn Huy Mai, SJ

Nguồn: vietvatican.net

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY

ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA

Ga 2, 13 – 25

 

Ngày xưa Giêrusalem là Nhà thờ lớn, là nơi hành hương, là nơi muôn dân qui tụ về dâng lễ, cầu kinh. Ngày nay, mọi Đền thờ đều là nhà của Thiên Chúa, là nơi để cầu nguyện. Tin mừng của thánh Gioan hôm nay, cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ làm ô uế Đền thờ và Ngài chỉ ra Ngài chính là Đền thờ… 

Lần đầu tiên chúng ta thấy Chúa Giêsu nổi giận đối với những người buôn bán nơi Đền thờ Giêrusalem như đang buôn bán chiên, bò, bồ câu và đặc biệt Chúa Giêsu lật đổ bàn ghế của những người đổi tiền bạc. Đây là cơn giận thánh của Chúa Giêsu bởi vì Ngài vẫn nói với các môn đệ: “Hãy học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhượng”. Chúa Giêsu luôn bình thản trước những lời vua oan cáo vạ Ngài, trước những sự phản bội trắng trợn Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tức giận, tỏ thái độ nghiêm khắc với những kẻ buôn bán, đổi chác tiền bạc dù rằng những ấy chỉ diễn ra nơi tiền đình Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu vẫn cương quyết chống đối lại những người này vì Ngài cho rằng nó gây ồn ào, bất kính đối với Đền thờ, nơi Ngài cho là nhà của Cha Ngài. Ngài luôn tôn kính Đền thờ và Ngài không muốn con người xúc phạm đến Đền thờ, đến Nhà của Cha Ngài, nơi đây người ta hành hương, đi dâng lễ cầu kinh và cầu nguyện. Chúa Giêsu không chấp nhận việc con người làm cho Đền thờ ra ô uế. Chúa Giêsu thấy cần phải thanh tẩy Đền thờ dù rằng Ngài biết việc ấy sẽ gây nguy hại cho tính mạng của Ngài. Ngài nói: “Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây” (Ga 2, 16 ).

Đem tất cả những thứ ấy ra khỏi nơi thờ phượng bởi vì chúng xúc phạm đến Cha của Ngài, xúc phạm đến chính thân xác, đến con người của Chúa Giêsu. Ngài muốn nơi thờ phượng phải là nơi tôn nghiêm, nơi tĩnh lặng, nơi thanh vắng, nơi con người, nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa.

Người Do Thái lúc đó đâu có hiểu Ngài, đâu có nhận ra Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ trần gian. Do đó, họ vặn lại Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã nói thẳng thừng với họ: “Cứ phá hủy Đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2, 19 ). Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng nào đâu họ có hiểu ! Và Đền thờ ở đây, Đền thờ Ngài nói tới là chính thân xác của Ngài, thân xác sống lại của Ngài sẽ là Đền thờ mới, nơi toàn thể nhân loại sẽ thờ phượng cách đích thực.

Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, nhưng đồng thời Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta và thanh tẩy các nhà thờ, các nơi thờ phượng của chúng ta bởi vì tâm hồn chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, nhưng nhiều khi chúng ta đã để chúng ra ô uế, do tội lỗi, do những bất xứng chúng ta xúc phạm đến Chúa. Nhiều nơi thờ phượng, nhiều nhà thờ chúng ta xây dựng hoành tráng, to tát bên ngoài nhưng việc đạo đức nhiều khi không đúng ý Chúa. Nhiều nơi tổ chức linh đình bề ngoài nhưng bề trong lại xa Chúa. Do đó, Chúa muốn chúng ta thanh tẩy nội tâm, thanh tẩy những gì bề ngoài không phù hợp với ý của Chúa…        
Mỗi thánh lễ nơi một nhà thờ nào đó, chúng ta hiệp dâng cùng với linh mục. Chúng ta hiểu rõ rằng qua bí tích rửa tội chúng ta được tháp nhập vào trong Hội Thánh, và như thế, chúng ta được hội nhập, được tháp nhập vào một Đền thờ mới là chính thân xác phục sinh của Chúa. Nhà thờ là nơi thờ kính, là nơi cầu nguyện, là nơi tôn kính Chúa Cha qua Đức Kitô. Nhà thờ này còn quý giá hơn cả Đền thánh Giêrusalem xưa vì Đền thờ bây giờ chính là Con người Chúa Giêsu đã kinh qua cái chết và phục sinh.       

Chúng ta luôn phải hiểu rõ rằng Đền thờ, nơi Thờ phượng hằng ngày chúng ta lui tới là nơi Chúa Giêsu ngự, là nơi Ngài qui tụ chúng ta lại và là nơi Ngài gặp gỡ chúng ta và ngược lại chúng ta được diễm phúc gặp gỡ Ngài. Nhà thờ còn là nơi có những mối quan hệ mật thiết với mỗi Kitô hữu hơn bất cứ nơi nao bởi đó là nơi có những kỷ niệm êm đềm nhất từ lúc chúng ta sinh ra cho đến khi chúng ta lìa đời. Nhà thờ là di sản quí báu của tổ tiên, cha ông chúng ta để lại.Nhà thờ là nơi qui tụ, họp mặt mọi người ta xứ họ để cảm tạ Thiên Chúa và xin ơn với Ngài. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ, bảo vệ và thanh tẩy Nhà thờ sao cho đẹp lòng Chúa và hợp với ý của Chúa.       

Lạy Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

 

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

HÃY NHÌN LÊN CON RẮN ĐỒNG

Ga 3, 14 - 21

 

Thường con người muốn dễ dãi hơn muốn khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn đi trên những con đường hẹp, muốn bóng tối hơn là thích ánh sáng chói chan! Sống thỏa hiệp, sống buông thả để được những cái lợi, cái sung sướng trước mắt là thảm kịch sống của con người: “Ánh sáng đã đến thế gian, những người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” ( Ga 3, 19 ). Cái nghịch lý của con người như thánh Phaolô nói: “Có những điều muốn làm tôi lại không, mà có những điều tôi không muốn làm tôi lại làm”.    

Đường hẹp và vác thập giá thì ít ai muốn đi, muốn thực hiện.Con người thường thích bóng tối, thích đồng lão với tội lỗi vì tội lỗi thì buông thả, dễ dãi và đường rộng thênh thang.Theo Chúa, Ngài khuyên nhủ: “Vác thập giá mỗi ngày mà theo Ngài”. Lời mời gọi này của Chúa Giêsu quả thực không phải ai cũng hiểu được và không phải ai cũng ưa thích.Bởi vì, có ai thích cái khó bao giờ. Nhưng tin vào Chúa đòi hỏi phải kiên vững, đòi hỏi phải vươn lên mãi. Chúa là ánh sáng. Con người chỉ có thể tới với ánh sáng nếu họ biết từ bỏ, biết đẩy xa bóng tối là dính bén tội lỗi dù rằng tội đó là nhỏ nhặt, dù rằng đó chỉ là những tật xấu thường tình. Do đó, để tìm được ánh sáng, con người cần thay đổi cuộc sống, cần đổi mới để tin vào Chúa hơn. Con người không được chạy trốn ánh sáng như Ađam và Eva, như Cain sau khi đã giết em mình là Abêlê.Ánh sáng sẽ phơi bầy trần trụi con người mình để mình cảm thấy cần ơn Chúa, cần chính Chúa.       


Chúa Giêsu đã bộc lộ cho nhân loại một con đường duy nhất: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Dân Do Thái khi xưa trong sa mạc kêu trách Chúa, nên họ bị rắn độc cắn chết. Môsê van nài Chúa và một con rắn được đúc bằng đồng được treo lên, ai nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát. Ngày nay, chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Ai tin tưởng nhìn lên thập giá với lòng yêu thương, khiêm nhường sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Thập giá là nơi qui tụ con người và là nơi tưới đổ hồng ân cứu rỗi xuống cho muôn dân. Thập giá là tột cùng của tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã từng nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con” (Mc 10, 52).   

Chúa đã chết vì yêu thương và cứu độ chúng ta. Thập giá là cây tình thương, là quả phúc đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Do đó, chúng ta phải làm cho đức tin tỏa sáng, đức tin trong sáng. Đức tin mang lại niềm vui và nụ cười cho mọi người. Cuộc đời này quả có nhiều đau khổ nhưng so sánh với sự đau khổ của Chúa Giêsu thì đau khổ của chúng ta chưa thấm vào đâu. Chúng ta hãy làm cho những việc làm của chúng ta tỏa sáng để nhiều người nhận ra tình thương vô biên của Chúa. Bởi vì, chỉ nơi thập giá mới có ơn cứu độ.         


CHÚA NHẬT V MÙA CHAY

HẠT LÚA MÌ

Ga 12, 20 – 33

 

Ở Việt Nam chúng ta ít thấy những cây lúa mì và những bông lúa mì trĩu trái. Tuy nhiên, hình ảnh những ruộng lúa tại Việt Nam vẫn đem lại cho chúng ta nhiều ấn tượng và cảm xúc. Bởi vì cũng như những bông lúa mì, những bông lúa thường khi chín vàng dưới ánh nắng, hạt lúa có rơi xuống ruộng, có rơi xuống đất thì cũng như những hạt lúa mì, khi hạt chín rơi xuống đất, một thời gian nó sẽ mọc lên. Đó là hình ảnh rất tự nhiên đời thường, nhưng ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính Con Người của Mình: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32).   

Đức Giêsu đã trả lời với Anrê và Philipphê khi có một số người nhờ các tông đồ hỏi Chúa Giêsu, Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 23 - 24). Đây là lời khẳng định của Chúa Giêsu, vì hạt lúa tức thân xác của Chúa không chết đi theo ý định của Thiên Chúa Cha, nhân loại sẽ không được cứu độ. Tự chết vì người khác không phải là điều dễ chấp nhận bởi vì con người ít quảng đại và thường bo bo giữ những gì mình đã có. Chúa Giêsu nếu không chấp nhận hy sinh, nếu Ngài không chết đi, nhân loại vẫn còn nguyện trong u tối, trong tội lỗi. Thật vậy, Chúa nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25).

 

Chúa đành mất mạng sống mình vì thế gian, vì loài người, Ngài đem lại hạnh phúc cho mọi người. Con người chúng ta cũng vậy, dường như khi mình bám víu lấy của cải, danh vọng, vật chất, tiền tài, họ cảm thấy bơ vơ trơ trọi vì họ chỉ dành riêng cho chính bản thân mình mà thôi. Con người chỉ có thể được triển nở, hạnh phúc khi họ đi ra khỏi cái vỏ ốc ích kỷ và ra khỏi những bận tâm tính toán để chỉ làm lợi cho mình, hầu sống cho tha nhân và Thiên Chúa.

Con người chỉ có thể an bình khi sống xả kỷ và quảng đại, hy sinh cho người khác. Con người chỉ có thế bình an khi sống hy sinh, quên mình, từ bỏ đón lấy cái chết như hạt lúa mì vùi sâu trong lòng đất. Tuy nhiên, những quên mình, hy sinh, từ bỏ, quảng đại lại làm cho chính Đức Giêsu xao xuyến, dao động: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha xin tôn vinh danh Cha” (Ga 12, 27 - 28). Vâng, Chúa Giêsu cũng bị giằng co giữa những thử thách, những mất mát, thua thiệt ở đời này, tuy nhiên Chúa Giêsu đã vượt thắng và luôn hy sinh, hiến mình vì mọi người. Cuộc đời con người chúng ta cũng thế, hy sinh, từ bỏ là những cố gắng phải vượt thắng, nhưng khi đã tỉnh thức, cầu nguyện và cố gắng, con người sẽ cảm thấy chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời, lúc mất là lúc được lại.      

Người Kitô hữu luôn ý thức rằng chết là được sống. Bởi vì chính trong giờ phút quyết liệt Chúa Giêsu đã chiến thắng và Ngài đã tiêu diệt sự chết. Các thánh tử đạo đã minh chứng cái mất, cái được. Cái chết của Cha Maria Kolbê và của nhiều thánh tử đạo đã nói lên lời yêu thương Thiên Chúa, yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa.    
Trong sự chết và sống lại của Chúa Giêsu chúng ta hiểu được sự quan phòng của Thiên Chúa Cha. Cái chết của Con Thiên Chúa dẫn đến sự sống của Người, và sự chết của Người cũng dẫn tới sự sống lại của chúng ta.    

Chúa Giêsu qua cái chết của Ngài trên thập giá đã trổ nụ, đơm hoa dồi dào. Người Kitô hữu qua cái chết lành, qua cái chết vâng phục Chúa Cha cũng tỏa hương thơm thiên đàng.  

Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho chúng sống lại trong ngày sau hết”. Và chúng ta tin rằng: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32).

Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em.Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ chúa nhật V Mùa Chay).

 

 

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

VINH QUANG THẬP GIÁ

Mc 14, 1 - 15, 47

 

Chúa nhật lễ lá hé mở cho chúng ta về một nhân vật tuyệt đối quan trọng là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại, loài người và con người. Lễ Lá bắt đầu một chuỗi những biến cố, những sự kiện mà Thiên Chúa đã dự định từ trước. Đức Kitô được Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ thực hiện kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa. Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu rỗi. Đức Kitô là Đấng được xức dầu và là Con Chiên gánh tội, xóa tội trần gian.

Lễ lá khai mào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Thánh. Chúa Giêsu trong ngày lễ lá đi vào Giêrusalem trong tiếng tung hô vang dội của mọi người như là một Vị Vua chiến thắng oai hùng, nhưng thực tế, đó lại là một cuộc khải hoàn để rồi Chúa Giêsu lãnh nhận ý định của Chúa Cha gánh tội cho trần gian qua cái chết nhục hổ trên thập giá. Cao điểm là Thứ Sáu Thánh, Thứ Bảy Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh.Đây là những Ngày Thánh của Đức tin Kitô Giáo.        

Đối với người Do Thái chiều thứ năm đã bước vào ngày thứ sáu, do đó Phụng vụ cho thấy: “Chúa Giêsu đã biết giờ, Người phải ra khỏi thế gian mà về cùng Cha. Người đã đã yêu thương những người thuộc về Người trong trần gian và Ngài sẽ tỏ bày tình yêu của Ngài dành cho họ đến cùng” (Ga 13, 1). Từ “ đến cùng” không có nghĩa là đến cùng tận sự sống ở thế gian, nhưng thánh Gioan muốn diễn tả “tới tình yêu tròn đầy, tình yêu viên mãn”. Ở đây, Chúa Giêsu muốn diễn tả tình yêu viên mãn của Ngài qua cái chết hy tế trên thập giá. Theo từ ngữ Hy Lạp, đến cùng được diễn tả: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Chính cái chết trên thập giá biểu tỏ tình yêu viên mãi của Chúa Giêsu.         

Đức Giêsu Kitô qua hành động cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để nuôi sống nhân loại, nuôi sống con người. Đây là Mầu nhiệm vượt qua, sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giêsu đã nuôi các môn đệ và truyền cho các môn đệ cử hành Bí tích Thánh Thể để nuôi sống đời sống thần linh của con người.        

Đỉnh tuyệt vời của cuộc khổ nạn là Chúa Giêsu đã thực sự bị treo lên thập giá vào chiều ngày thứ sáu trên đồi Golgotha đúng như lời Ngài nói: “Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Ngày thứ bảy thánh, ngày thứ hai của Tam nhật Thánh. Chúa Giêsu nằm yên nghỉ trong mồ. Đây là sự thật để minh chứng Chúa Giêsu đã chết thật và nhân loại được mời gọi thinh lặng để chiêm ngưỡng Chúa chịu chết, và chờ đợi sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu.

Ngày tuyệt vời nhất là ngày Chúa Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, phá tan bóng đêm và ra khỏi mồ cách vinh hiển. 

Lễ Lá bắt đầu tuần thánh và cao điểm là Tam nhật Thánh với niềm vui, hân hoan vì Chúa Giêsu sẽ khải hoàn ra khỏi mồ, chiến thắng thần chết. Thánh giá vẫn là dấu chỉ chiến thắng của Chúa Giêsu. Nên, thập giá chính là sự vinh quang phục sinh của Chúa.

 

Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

 

THẦN HỌC KINH THÁNH

 

Các ngày lễ theo tinh thần tài liệu về Phụng vụ của Công Đồng Chung Vatican II

và Hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium.

Trong năm phụng vụ việc cử hành lễ Phục Sinh phải chiếm chỗ quan trọng nhất, vì nó thuộc chu kỳ của các mầu nhiệm cứu độ. Vì thế cần trả lại cho lễ Phục Sinh sự độc đáo của nó, làm sao để tín hữu tiếp xúc trực tiếp với bản chất của chương trình cứu rỗi, rộng mở cho các đòi hỏi của thời đại chúng ta và các điều kiện địa phương. Từ lễ nghi canh thức hay lễ nghi vọng Phục Sinh, là tuyệt đỉnh của việc cử hành hằng năm, bắt nguồn toàn năm phụng vụ. Tất cả các việc cử hành trong năm đều hướng về đỉnh cao đó.

 

Trong việc cử hành chu kỳ năm phụng vụ, Giáo Hội đặc biệt tôn sùng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, là Đấng không thể tách rời khỏi công trình cứu chuộc của Con Mẹ. Nơi Đức Maria, Giáo Hội ngưỡng mộ và chúc tụng Hoa Trái cao trọng nhất của ơn cứu chuộc và chiêm ngưỡng với niềm vui sướng như trong một hình ảnh rất trong sạch, điều mà Giáo Hội ước mong và hy vọng là. Tài liệu về Phụng Vụ Thánh viết trong số 103 như sau: ”Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hằng năm như thế, Giáo Hội với một tình yêu đặc biệt, tôn kính Đức Maria vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã được nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Giáo Hội ngưỡng mộ và tán tụng thành qủa tuyệt diệu của công trình cứu chuộc, và vui mừng chiêm ngắm nơi Mẹ, như trong hình ảnh tinh tuyền trọn hảo, điều mà toàn thể Giáo Hội ước mong và trông đợi” (SC 103).

Chính mối dây nối kết chặt chẽ con người của Mẹ Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là nền tảng sự hiện diện của Đức Maria trong năm phụng vụ. Việc tôn sùng Đức Maria được phong phú hóa và củng cố vì tương quan của Mẹ với mầu nhiệm phục sinh và chu kỳ cử hành mầu nhiệm ấy một cách trực tiếp.

 

Trong cuộc cải cách phụng vụ liên quan tới Đức Maria, vấn đề không phải là số lượng, mà là phẩm chất và giá trị của nó, đâm rễ sâu trong vai trò của Đức Maria trong lịch sử cứu độ. Do đó, tách rời Đức Maria hay cô lập hóa Mẹ khỏi lịch sử cứu độ để ca tụng Mẹ, là việc phục vụ tồi tệ nhất; nó tỏ lòng sùng kính Mẹ một cách quảng đại, nhưng không được soi sáng. Trong khi quy hướng việc canh cải về Chúa Kitô là định tính nó trong nội dung, và đây là điều tốt đẹp nhất có thể làm để tôn vinh Mẹ.

 

Cả việc tưởng nhớ các vị tử đạo và các thánh khác cũng phải làm thành một sự thống nhất có lớp lang với chu kỳ của năm phụng vụ. Là các chứng nhân của Chúa Kitô, được kết hiệp với Chúa trong chiến đấu cũng như trong vinh quang, các thánh là các mẫu gương và là các người bầu cử cho chúng ta qua vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô.

 

Đề cập tới tương quan giữa các Thánh ở trên Thiên Đàng, các tín hữu còn sống trên trần gian này và các người đã qua đời nhưng đang được thanh tẩy trong Luyện Tội, Hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium viết trong số 49 như sau:

”Cho tới khi Chúa ngự đến trong uy nghi, có tất cả các Thiên Thần theo Người, và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người, thì trong số các môn đệ Chúa, có những kẻ vẫn còn tiếp tuc cuộc hành trình nơi trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh luyện, và có những kẻ được hiển vinh đang chiêm ngưỡng rõ ràng chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có. Nhưng hết thảy mọi người chúng ta tùy cấp bậc và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta, vì tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh Thánh Thần Người, đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và liên kết với nhau trong Người. Bởi vậy sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên đường dương thế với các anh em đã an nghỉ trong an bình của Chúa Kitô không hề bị gián đoạn, trái lại, Giáo Hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững mạnh nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Qủa thực, nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo Hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng, mà hiện nay Giáo Hội tại thế dâng lên Thiên Chúa, được cao cả hơn, và góp phần phát triển Giáo Hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách. Được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa nhờ Người, với Người và trong Người, các Thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha, bằng cách trình bầy các công nghiệp đã lập được khi còn ở dưới thế, nhờ Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Kitô, khi họ đã phục vụ Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân xác họ những gì còn thiếu sót trong các đau khổ của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Giáo Hôi. Do đó, với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn” (LG 49).

 

Đó là lý do khiến cho các tín hữu còn sống trên trần gian này tưởng niệm những người đã chết và kính nhớ các Thánh. Hiến chế về Giáo Hội viết tiếp trong số 50: ”Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, ”vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh”. Đối với các tông đồ là những vị tử đạo của Chúa Kitô, là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo Hội luôn tin rằng, các ngài liên kết với chúng ta mật thiết hơn trong Chúa Kitô: với lòng yêu mến đặc biệt Giáo Hội tôn kính các ngài cùng Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu cho. Sau đó không bao lâu, thêm vào số các vị trên, Giáo hội còn tôn kính những người đã nhiệt thành noi gương khiết trinh và khó nghèo của Chúa Kitô; sau cùng, có những người vì đã thực hành cách phi thường các nhân đức Kitô giáo và được Chúa ban nhiều ân điển, nên được các tín hữu thành tâm tôn kính và noi theo”.

 

Tiếp đến tài liệu Công Đồng khẳng định rằng khi ngắm nhìn đời sống những người đã trung thành bước theo Chúa Kitô, tín hữu khám phá ra một lý do mới thúc đẩy họ tìm kiếm Thành Thánh tương lai và biết con đường chắc chắn nhất giúp đạt sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa Kitô, nghĩa là đạt sự thánh thiện giữa bao thăng trầm trần thế, tùy theo bậc sống và hoàn cảnh riêng của mỗi người. Qua cuộc sống của những người cùng mang một bản tính nhân loại nhưng đã được biến đổi nên giống hình ảnh Chúa Kitô hơn, Thiên Chúa tỏ lộ rõ ràng cho con người thấy dung nhan và sự hiện diện của Ngài. Chính Ngài nói với chúng ta qua các vị ấy và ban cho chúng ta thấy dấu chỉ Nước Ngài, và mãnh liệt lôi cuốn chúng ta tới Nước Trời nhờ đông đảo các chứng nhân và nhờ chân lý Phúc Âm được chứng thật như thế.

 

Tuy nhiên, các tín hữu còn sống kính nhớ các Thánh trên trời không chỉ vì gương lành của các vị mà thôi, nhưng đúng hơn để sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội trong Thánh Thần được bền vững nhờ thực hành đức bác ái huynh đệ. Cũng như mối hiệp thông giữa các kitô hữu còn sống trên dương thế đưa chúng ta tới gần Chúa Kitô hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng hiệp nhất chúng ta với Người, là Đầu và là Nguồn phát sinh mọi ân sủng và sự sống của chính Dân Thiên Chúa. Do đó điều hết sức thích đáng là chúng ta yêu mến các bạn hữu và những người đồng thừa tự của Chúa Kitô, cũng là anh em và ân nhân đặc biệt của chúng ta, đồng thời dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì các ngài, và thành khẩn van nài, chạy đến xin các ngài cầu nguyện và trợ lực giúp đỡ, để Chúa Cha ban cho nhiều ơn lành, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta, Đấng Cứu Chuộc và Giải Thoát duy nhất của chúng ta.

 

Thực vậy, tự bản chất mọi bằng chứng đích thực biểu lộ tình yêu của tín hữu đối với các Thánh trên trời luôn qui hướng và kết thúc nơi Chúa Kitô là triều thiên của toàn thể các Thánh, và nhờ Người qui hướng và kết thúc nơi Thiên Chúa, Đấng đáng ca tụng và tôn vinh trong các Thánh.

 

Sự hiệp nhất của tín hữu với Giáo Hội thiên quốc đươc thực hiện một cách hết sức cao cả, đặc biệt trong Phụng Vụ; ở đó quyền năng của Chúa Thánh Thần hoạt động trên tín hữu qua các dấu chỉ bí tích; ở đó tín hữu cùng lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa uy linh, và tất cả mọi người thuộc mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia được cứu chuộc trong máu Chúa Kitô, họp nhau trong một Giáo Hội duy nhất, đồng thanh chúc tụng một Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì, khi cử hành hy lễ tạ ơn, tín hữu kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội thiên quốc, vì hiệp cùng Giáo Hội tín hữu kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh, sau là Thánh Giuse, các Thánh Tông Đồ và Tử Đạo cùng toàn thể các Thánh.

 

Trong số 51, tài liệu về Giáo Hội của Công Đồng đưa ra các hướng dẫn mục vụ. Công Đồng khuyên nhủ tất cả các vị hữu trách phải hết sức ngăn cản và sửa dạy những ai lạm dụng cách thái qúa hay bất cập, và tái lập mọi sự để Thiên Chúa và Chúa Kitô được ngợi khen cách trọn hảo hơn. Các vị phải dậy cho tín hữu biết rằng việc tôn kính các Thánh đích thực không hệ tại nhiều ở những việc bề ngoài, cho bằng ở cường độ tình yêu. Tình yêu ấy giúp tín hữu tìm thấy một mẫu gương trong khi gặp gỡ các ngài, được thông hiệp qua việc kết hợp với các ngài và được các ngài cầu bầu trợ giúp, để đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội và cho tín hữu. Đàng khác, các vị chủ chăn cũng phải giúp tín hữu hiểu rằng mối liên lạc giữa tín hữu và các Thánh trên trời hiểu theo ánh sáng trọn vẹn của đức tin, không hề suy giảm sự tôn thờ đành riêng cho Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, nhưng trái lại càng làm cho sự tôn thờ ấy thêm phong phú hơn.

 

Vì tất cả đều là con cái Thiên Chúa và họp thành một gia đình trong Chúa Kitô nên khi hiệp thông với nhau trong tình yêu qua lời đồng thanh ca tụng Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cùng đáp lời mời gọi thân tình của Giáo Hội và được tham dự, cảm mến trước phụng vụ vinh hiển toàn hảo. Vì khi Chúa Kitô hiện đến và khi kẻ chết sống lai trong vinh quang, ánh sáng Thiên Chúa sẽ chiếu soi Thành Thánh trên trời, và Con Chiên sẽ là đuốc sáng. Toàn thể Giáo Hội các Thánh sẽ thờ lậy Thiên Chúa và Chiên Con đã bị sát tế, trong hạnh phúc sung mãn của đức ái, và đồng thanh ca tụng rằng: ”Ngợi khen, danh dự, vinh hiển, quyền năng muôn đời cho Đấng ngự trên ngai và Chiên Con”. (Thánh mẫu học bài 322)

 

Linh Tiến Khải

Nguồn: vietvatican.net

 

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

PHÚT CẦU NGUYỆN:

CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN

 

Người sống đời thánh hiến, họ là ai?

 

Họ cũng là những con người bình thường như bao người. Con tim của họ cũng khao khát yêu và được yêu. Họ yêu Đấng chưa bao giờ thấy nhưng tim họ rạo rực và thổn thức khi Ngài cất lời gọi họ thầm kín và mãnh liệt. Bầu máu nóng và lòng quả cảm thúc giục họ cất bước theo lời gọi của Thầy Giêsu. Đáp trả tiếng mời gọi thân thương ấy, họ mong muốn toàn hiến mình cho Thiên Chúa tình yêu. Lối nẻo họ dấn mình bước vào là con đường hẹp và chẳng mấy ai đi.

 

Đôi chân họ vẫn bước đi vững chải giữa cuộc đời nhưng tâm trí họ luôn hướng về thượng giới. Con mắt họ tinh tế để đánh đổi những niềm vui giả tạo và chóng qua trên trần gian này hầu hướng về niềm vui chân thật và vĩnh cữu. Quảng đại rời xa gia đình, gác lại tất cả sự nghiệp và bao mộng ước tốt đẹp họ lên đường để xây dựng Nước Trời ngay tại dương gian. Những tương quan máu mủ ruột thịt được họ biến đổi thành mối dây của sức sống thiêng liêng.

 

Họ từ khước những thói thường của nhân thế, để thanh bần trở thành y phục, khiết tịnh trở nên mũ triều thiên, và vâng phục là gậy chỉ đường. Đấng họ bước theo chẳng có nỗi một hòn đá để tựa đầu. Nhưng họ cảm thấy thích thú với cuộc sống tiêu diêu và tự tại ấy. Bơi ngược dòng đời, chấp nhận một cuộc sống không bị ràng buộc bởi lòng tham và tư lợi, họ chẳng vun vén hay dành dụm chút của cải nào để phòng thân. Với niềm trông cậy và phó thác, họ tin tưởng Thiên Chúa sẽ đảm bảo sự sống còn cho họ. Chấp nhận khoét rỗng cái có của mình để Thiên Chúa và tha nhân chiếm trọn con tim của họ.

 

Dưới mắt người đời, họ là những con người có vẻ rồ dại khi tự nguyện khước từ sự nâng đỡ của người khác phái trong đời sống lứa đôi. Nhục cảm và bản năng phụ mẫu chỉ bóp nghẹt tự do của họ thôi. Họ chấp nhận chẳng chiếm hữu ai cũng chẳng mong ai độc chiếm chính mình để thanh thoát đón nhận bất kỳ ai. Họ góp phần thánh hóa hơn là làm cho Giáo Hội ngày một thêm đông. Tự nguyện sống độc thân và khiết tịnh, họ minh chứng một tình yêu không đi liền với nhục dục. Họ lèo lái và thăng hoa con lũ sục sôi của nhục cảm trở nên nguồn suối hiền hòa của tình yêu hiến thân.

 

Rời bỏ gia đình ruột thịt họ đón nhận những người cùng chí hướng với mình thành cha mẹ và anh chị em thiêng liêng. Họ khuôn mình sống theo Hiến chương chẳng vì nệ luật nhưng xác tín đó là những cử chỉ vì yêu. Món quà tự do quý giá được Thiên Chúa tặng ban nay được họ trao nộp để Chúa tùy nghi sử dụng qua Thánh Ý của Ngài thể hiện nơi các bề trên. Họ mong được đóng đinh ý riêng của mình vào Thánh Giá Chúa để trở nên nhẹ nhàng và siêu thoát hơn. Dẹp bỏ ý riêng, họ đã vùi dập cái là của mình dưới gót chân.

 

Với lòng quảng đại và vị tha, họ liều mình nơi những biên cương chẳng ai muốn hay chẳng thể đến. Noi gương thầy Giêsu họ muốn ghé vai vác đỡ thánh giá nặng của tha nhân. Xác tín mình nhận lãnh nhưng không, họ cũng dâng tặng lại hoàn toàn vô vị lợi. Họ không chỉ ước mong hoàn thiện bản thân nhưng còn khát khao phần rỗi của tha nhân. Họ tìm an vui nơi những phút giây ở bên Chúa để hàn huyên tâm sự với Ngài hầu có cơ hội nói về Ngài cho tha nhân. Như thợ gặt được sai đến cánh đồng, họ hứa hẹn sẽ đưa về bao mùa gặt bội thu.

 

Tuy ân sủng Chúa đong đầy trên mình nhưng họ cũng chỉ là những bình sành mong manh dễ vỡ. Khước từ những thói thường của nhân thế nhưng sự bù trừ cứ thôi thúc họ mãi thôi. Sự cô đơn sẽ giằng xé họ khi bản năng phụ mẫu chợt trỗi dậy hay khát khao một bờ vai để gục đầu, một vòng tay nồng nàn để sưởi ấm. Đời sống cộng đoàn đầy cọ sát sao tránh khỏi những va quẹt và tổn thương. Chỉ mài mòn những góc cạnh sắc hiểm họ mới chung sống mà không làm tổn thương nhau. Sắc hồng thuở mới tu bỗng sụp đổ khi màu đen ảm đạm của giông tố nổi lên. Đời thánh hiến khi ấy không còn là vùng đất Hứa tràn đầy sữa và mật nhưng là hoang mạc đầy rẫy xương rồng có gai. Có lúc ơn gọi như ngọn đèn leo lét trước gió vì họ chán nản muốn bỏ cuộc và buông xuôi. Dầu thánh hiến hảo hạng Thiên Chúa đã châm vào ngọn đèn ơn gọi sẽ cạn kiệt và mất chất khi họ nghi ngờ sự dấn thân của mình là vô nghĩa. Hơn ai hết, họ thấu hiểu kinh nghiệm bất trung với giao ước để rồi phải tái giao ước với Thiên Chúa tình yêu.

 

Lạy Chúa, Giáo Hội dành năm hồng phúc này để Tân Phúc Âm hóa đời sống thánh hiến. Xin Chúa giúp những người đang sống đời thánh hiến luôn ngước nhìn lên Chúa ngõ hầu họ quên đi chặng đường đã qua mà lao mình về phía trước. Xin nâng đỡ họ trên đôi vai của Chúa để họ nhẹ nhàng lướt qua những đêm tối của đức tin. Xin cho họ trung trinh trong tình mến để đời thánh hiến trở nên khung trời ngợp hạnh phúc và niềm vui. Xin cho họ bước theo Chúa đến cùng cho dẫu phải hiến tế chính mình nơi Can-vê của đời họ. Amen.

 

Jos. Nguyễn Huy Mai

Nguồn: vietvatican.net

 

 

757    02-03-2015 01:48:52