Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Nguyệt san tháng 5/2016: Lao Động Thể Hiện Phẩm Giá Thụ Tạo Theo Hình Ảnh Của Đấng Hay Thương Xót

 

LỜI CHỦ CHĂN

 

Vĩnh Long ngày 25.04.2016

 

Kính gửi: Quý Cha

           Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 

Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót là nền tảng thực sự của đời sống Giáo Hội trong Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót. Tháng nầy, tôi đề cập vắn tắt đến Lòng thương xót trong các bí tích. Đặc biệt là bí tích Hòa Giải.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh sự cần thiết của Bí Tích Hòa Giải: “Rất nhiều người đang tìm đến với bí tích Hòa Giải, trong đó có nhiều người trẻ, nhờ trải nghiệm nầy, sẽ tìm thấy con đường quay về với Thiên Chúa, để sống những giờ phút cầu nguyện, và để tìm lại ý nghĩa cho cuộc sống. Một lần nữa, chúng ta cần xác tín vững vàng về tầm quan trọng đặc biệt của bí tích Hòa Giải, một bí tích cho phép chúng ta chạm ta vào sự cao cả của lòng thương xót. Bí tích này là nguồn suối an bình nội tâm thực sự cho mọi hối nhân” (số 17).

Con người sai lầm là điều không tránh khỏi. Có những người sai lầm, nhưng biết sửa sai, cũng có những người sai lầm nhưng cố chấp. Đối với những người sai lầm muốn sửa sai, thì Bí Tích Hòa Giải giúp họ rất nhiều: giúp họ cầu nguyện, giúp họ tìm lại ý nghĩa của cuộc sống và giúp họ quay trở về cùng Chúa sau bao ngày tháng lìa xa Chúa.

ĐGH kêu gọi cách riêng những người trẻ trong thế giới hôm nay hãy suy nghĩ và thực hành bí tích Hòa Giải. Lý do có thể là giới trẻ hôm nay dễ bị ảnh hưởng của nếp sống văn minh vật chất, dễ bị lôi cuốn, dễ bị sa đọa bởi tiếng ồn của xã hội, của những phù hoa. Những thứ đó che khuất tiếng lương tâm, che khuất sự an bình nội tâm và đặc biệt che khuất hình ảnh Thiên Chúa nhân từ. Bí bí Hòa Giải giúp những người trẻ tìm lại được những thực tại quí giá nầy.

Tất cả chúng ta hãy thường xuyên thực hành bí tích Hòa Giải. Chúng ta đến với Chúa xin sự tha thứ qua trung gian của các vị giải tội. Đặc biệt trong năm thánh nầy, Đức Giáo Hoàng sẽ gửi đi các Thừa sai của Lòng thương xót. Theo lời khuyên trong tông sắc, các vị giải tội nói chung sẽ “là người phục vụ trung thành cho ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích ấy” (số 17). Các ngài đón nhận tất cả mọi thành phần dân Chúa đang đến và sẽ đến với các ngài, không phân biệt đạo đức thánh thiện hay nguội lạnh trễ nải. Các ngài đón nhận những hối nhân cách vô điều kiện. Tóm lại “các vị giải tội được kêu gọi để trở thành dấu chỉ chính yếu của lòng thương xót, trong mọi lúc, ở mọi nơi, trong mọi trường hợp và trước hết mọi sự” (số 17).

Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được tầm quan trọng lòng thương xót của Chúa và hiệu quả tích cực của bí tích Hòa Giải. Đừng ngại thường xuyên đón nhận bí tích Hòa Giải, bởi vì bí tích nầy sẽ mang đến bình an nội tâm và được sống gần kề bên Chúa nhân từ, Chúa của lòng thương xót.

 

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

 

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

 

Tháng 05/2016

Lao Động Thể Hiện Phẩm Giá Thụ Tạo

Theo Hình Ảnh Của Đấng Hay Thương Xót

 

1. Học thuyết xã hội của Hội Thánh Công giáo là công cụ hữu hiệu của Phúc-âm-hoá

 

Hội Thánh luôn băn khoăn thao thức tìm cách làm sao để công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong các mối quan hệ xã hội vốn phong phú mà cũng phức tạp. Công cuộc Phúc-âm-hoá xã hội may mắn có chỉ nam hướng dẫn của Hội Thánh đặc biệt nhất là Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo. Học thuyết xã hội của Giáo hội “tự nó là một công cụ hữu hiệu để Phúc-âm-hoá”.[1] Học thuyết xã hội, vốn khai sinh từ những cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ của thông điệp Tin Mừng với đời sống xã hội, cho nên đó là một phương cách đặc biệt để Hội Thánh thi hành tác vụ rao giảng Lời Chúa và làm ngôn sứ.[2] “Thật vậy, giảng dạy và phổ biến học thuyết xã hội là những việc làm có liên quan tới sứ mạng Phúc-âm-hoá của Giáo hội và là một phần thiết yếu trong thông điệp Kitô giáo, vì học thuyết ấy cho biết những hậu quả cụ thể của thông điệp này trong đời sống xã hội, cũng như đặt những việc làm hằng ngày và những cuộc đấu tranh cho công lý mỗi ngày vào trong bối cảnh làm chứng cho Đức Kitô Cứu Thế”.[3]

 

Một lưu ý cần thiết đầu tiên Công đồng nhắc nhở: Giáo hội không lãnh lấy trách nhiệm về hết mọi khía cạnh của cuộc sống trong xã hội mà chỉ lên tiếng trong phạm vi chuyên môn của mình, tức là công bố Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc, nghĩa là phạm vi tôn giáo. “Đức Kitô không để lại cho Giáo hội một sứ mạng thuộc phạm vi chính trị, kinh tế hay xã hội; mục tiêu Người trao cho Giáo hội là mục tiêu tôn giáo. Nhưng sứ mạng tôn giáo này có thể là nguồn đưa tới những dấn thân, đường hướng và sức sống để Giáo hội tìm cách thiết lập và củng cố cộng đồng nhân loại cho đúng với luật Chúa”.[4]

 

2. Lao động là chìa khoá của toàn bộ vấn đề xã hội

 

Đức Giáo hoàng Thánh Gioan Phaolô II qua thông điệp Laborem Exercens (1981) đã vạch ra một nền linh đạo và đạo đức cho lao động, giá trị căn bản của con người, là nhân tố trên hết của các hoạt động kinh tế và là chìa khoá của toàn bộ vấn đề xã hội.[5] Lao động được hiểu không chỉ theo nghĩa khách quan và vật chất, mà còn phải ghi nhớ chiều kích chủ quan của lao động, như một sự biểu hiện bản thân.

 

Theo nghĩa khách quan, lao động là “tổng hợp những hoạt động, những tài nguyên, những phương tiện và công nghệ mà con người dùng để sản xuất ra sự vật, để thi hành quyền thống trị của mình trên trái đất”. Theo nghĩa chủ quan, “lao động là hoạt động của con người trong tư cách là một hữu thể năng động có khả năng làm nhiều việc trong tiến trình lao động, phù hợp với thiên hướng riêng của mình”. Lao động theo nghĩa khách quan là khía cạnh hay thay đổi vì lệ thuộc vào sự thay đổi của điều kiện công nghệ, văn hoá, xã hội và chính trị. Còn lao động theo nghĩa chủ quan là khía cạnh bền vững của lao động, không lệ thuộc vào cái người ta sản xuất ra mà chỉ lệ thuộc vào phẩm giá của những con người. Khía cạnh chủ quan của lao động này đã làm cho lao động có được một phẩm giá đặc biệt, khiến chúng ta không được phép coi lao động chỉ là một hàng hoá hay chỉ là một yếu tố phi ngôi vị trong guồng máy sản xuất. “Con người mới chính là thước đo phẩm giá của lao động”.[6] Phải đặt khía cạnh chủ quan ưu tiên hơn khía cạnh khách quan của lao động, vì đó là khía cạnh của chính con người đang tham gia lao động, con người đang quyết định phẩm chất và giá trị cuối cùng của lao động. Lao động phát xuất từ con người và chủ yếu hướng tới con người, lấy con người làm mục tiêu cuối cùng của mình.

 

3. Phẩm giá của con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, thể hiện qua lao động

 

Lao động của con người xuất phát trực tiếp từ những con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và được kêu gọi để tiếp nối công trình tạo dựng, cùng với nhau và cho nhau, bằng việc làm chủ trái đất.[7] Vì vậy lao động là một bổn phận.[8] Lao động biểu dương các hồng ân của Đấng Tạo Hoá và những tài năng đã lãnh nhận. “Lao động cũng có giá trị cứu chuộc. Khi chịu đựng những vất vả của lao động trong sự kết hợp với Chúa Giêsu, người thợ làng Nazareth và đã chịu chết trên thập giá, con người cộng tác một cách nào đó với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc của Người. Họ biểu lộ mình là môn đệ của Đức Kitô, khi vác thập giá hằng ngày trong hoạt động họ được mời gọi chu toàn. Lao động có thể là một phương thế thánh hoá và làm sinh động các thực tại trần thế trong Thần Khí của Đức Kitô”.[9] Như vậy, khi lao động con người thể hiện phẩm giá làm con Thiên Chúa vì được tạo dựng và cứu chuộc trong Đức Kitô, Dung mạo nhân loại của Lòng Thương Xót vĩnh cửu.

 

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

 

1. Anh chị có lúc nào cảm nhận được niềm vui và hứng khởi của người làm việc “trong vườn nho” của Chủ mình, là Thiên Chúa là Cha, tại nhà hay tại nơi làm việc, trong xã hội hay Giáo hội không?

 

2. Đôi khi trong công việc phục vụ hay lao động, anh chị có gặp thế lưỡng nan phải chọn lựa giữa hiệu quả công việc và sự hài hoà giữa người với người, lúc đó anh chị thường xuyên chọn cái gì: con người hay hiệu quả công việc?

 

3. Là người lãnh đạo, lớn hay nhỏ, anh chị có quan tâm đến lương bổng và đời sống của những người dưới quyền mình hay không? Quan tâm như thế nào?

----------------------

[1] Gioan Phaolô II, Tđ. Centesimus Annus (Bách Chu niên), 54.

[2] Gioan Phaolô II, Tđ. Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến các thực tại Xã hội), 41.

[3] Gioan Phaolô II, op. cit., 5. X. HĐTT CLHB, “Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo”, Libreria Editrice Vaticana 2004, bản dịch Việt ngữ của UB Bác Ái Xã hội/ HĐGMVN 2007, NXB Tôn Giáo.

[4] CĐ Vatican II, Hch. Gaudium et Spes, 42.

 [5] X. HĐTT CLHB, “Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo”, 101.

[6] Ibid., 271.

[7] X. GLHTCG, 2427.

[8] X. 2Tx 3,10.

[9] X. GLHTCG,2427.

 

Văn Phòng HĐGMVN - UBLBTM

 

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

 

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, thì con người phải lao động; nếu Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, thì con người cũng phải có lòng thương xót. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết tôn trọng việc lao động chân chính, mà giới thiệu Thiên Chúa là Đấng hay xót thương.

2.       Chúa phán: “Hãy ra công làm việc để có lương thực thường tồn”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết ra sức lao động để phát huy phẩm giá con người, để nên hoàn thiện như Cha trên trời, và để biểu hiện lòng thương xót Chúa.

3.       Chúa phán: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người biết xót thương anh chị em mình, để được Thiên Chúa xót thương, và để mọi người nên giống con Thiên Chúa.

4.       Chúa phán: “Sao ngươi không thương xót đồng bạn ngươi, như chính ta đã thương xót ngươi?”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dám thương xót anh chị em bạn hữu mình, như Chúa Cha đã thương xót chúng ta.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa. Xin ban Thánh Thần Chúa xuống giúp chúng con làm sáng tỏ hình ảnh Thiên Chúa là Đấng hay xót thương, qua việc lao động và lòng thương xót của chúng con…Amen.

 

Lm. Phêrô Nguyễân Văn Hiền

 

 

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

 

LAO ĐỘNG        

LÀM CHO CON NGƯỜI NÊN GIỐNG CHÚA

Hằng năm, người lao động trên toàn thế giới lại cùng nhau kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5. Tại Việt Nam, đây là một ngày mà mọi người dân ai ai cũng được nghỉ ngơi, vui chơi không phải làm việc.

Lạ nhỉ? Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động mà người người, nhà nhà được nghỉ ngơi, được vui chơi thỏa thích?

Lao động và nghỉ ngơi có đối chọi nhau không?

Sách Sáng thế chương thứ nhất, câu 26 được trích đọc trong ngày lễ thánh Giuse Thợ viết rằng: “Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển và chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”

Con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, hình ảnh của Đấng sáng tạo, của Đấng luôn “lao động”: suốt 5 ngày trước khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa không ngưng nghỉ việc sáng tạo trời đất, trăng sao tinh tú, chim trời cá biển, cỏ cây sông núi… . Vậy nên, một khi chúng ta thực hiện “quyền” lao động (lao động để trở thành người cai quản những thụ tạo do Thiên Chúa trao ban cho chúng ta) là chúng ta ngày càng trở nên giống Thiên Chúa hơn!

Thánh Giuse được đặt làm chủ của gia đình Nazareth, chắc chắn người cũng đã phải đổ biết bao mồ hôi để nuôi sống Mẹ Maria và trẻ thơ Giêsu. Thế nhưng, những vất vả lao nhọc đó không chỉ dừng lại việc kiếm miếng cơm manh áo, kiếm một chút lợi lộc vật chất đời tạm này, mà còn được thăng hoa lên một cung bậc cao hơn: làm để phụng sự Thiên Chúa, được diễn tả qua việc chăm sóc, nuôi dưỡng chính Con Một của Thiên Chúa!

Sự lao động đối với Đức Giêsu còn có một giá trị lớn lao hơn nữa, Ngài tuyên bố trong Tin Mừng hôm nay rằng: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi” (Ga 10,25). Như thế, lao động được nâng cao trên bình diện thiêng liêng, không còn là lao động để kiếm cơm ăn áo mặc, cũng không chỉ là để phụng sự Thiên Chúa, mà đích thực là làm chứng về chính Thiên Chúa. Bất cứ việc làm nào, hành động nào, công việc nào chúng ta nhân danh Thiên Chúa mà thực hiện, thì chúng đều có giá trị để làm chứng về Thiên Chúa.

Lý do mừng lễ có khác với mục tiêu của ngày quốc tế lao động 1-5: người ta đấu tranh làm sao để giảm bớt giờ làm, làm sao để điều kiện lao động được tốt hơn, nghĩa là người ta chú trọng đến “sự lao động” của con người, trong khi đó ngày lễ kính Thánh Giuse thợ, một lần nữa Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng: con người thì đáng coi trọng hơn sự lao động, bởi lẽ con người lao động để trở nên giống Thiên Chúa, để nên chứng nhân, nên hình ảnh của Thiên Chúa giữa cuộc đời này.

Ý nghĩa đích thực của lao động, theo niềm tin Kitô giáo là: lao động để cùng với Thiên Chúa cai quản thế giới, lao động để phụng sự Thiên Chúa và lao động để tôn vinh và làm chứng về Thiên Chúa!

Phải chăng chỉ trong lao động, con người mới thực sự nên giống Thiên Chúa? Nếu vậy, con người phải lao động cật lực “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, liên tục “24/7, 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần”?

Thưa không, xin hãy nhớ Lời Chúa: “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người” (St 2,1-3).

Đại hội các gia đình thế giới 2012 tại Milano có chủ đề là “Gia Đình: công việc và ngày lễ”. Đại hội nhấn mạnh tới giá trị của công việc, của lao động nhưng đồng thời cũng đề cao lợi ích của sự nghỉ ngơi đối với gia đình, cách riêng đối với từng thành viên trong gia đình: ngày lễ là thời gian để dành cho gia đình, cho Thiên Chúa và cho cộng đoàn.

Nghỉ ngơi không còn là thời gian dưỡng sức để chuẩn bị lao vào sự tất bật và vất vả của công việc nữa, mà là thời gian quýý giá để thiết lập và thắt chặt các mối tương quan: với Thiên Chúa là Cha chúng ta, với những người thân là gia đình của chúng ta và với những người chung quanh trong cộng đoàn là cộng đồng xã hội mà chúng ta đang sống.

Như thế, lao động và nghỉ ngơi là hai thành tố thiết yếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, ta lao động không phải chỉ vì lao động hay để có điều kiện tối thiểu duy trì sự sống. Cũng vậy, nghỉ ngơi không phải chỉ vì quá mệt mỏi cần phải có thời gian xả hơi, dưỡng sức cho những ngày vất vả kế tiếp; mà chúng ta có thể nói cách mạnh mẽ và xác tín rằng: lao động và nghỉ ngơi như là hai nhịp thở ra hít vào giúp con người nên giống Thiên Chúa, như Đức Giêsu - Đấng hằng làm việc theo thánh ý Chúa Cha - đã mạnh mẽ tuyên bố rằng: “Ta và Cha Ta là một.”

Bởi lẽ: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”. (1Cr 10, 31).

Lm Philipphê Phạm Huy Phong

(Viết lại theo bài của Chiên Già (nguồn: Blog WGPSG)

 

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

 

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

 

C. Đức Vâng Lời

I/. Phương diện lịch sử

          1/. Đức vâng lời nơi các ẩn sĩ

          2/. Đức vâng lời nơi các đan sĩ cộng đoàn

3/. Đức vâng lời theo thánh Đa minh và thánh Inhaxiô

 

II/. Đức vâng lời theo Kinh Thánh.

 

Khi nói về đức khiết tịnh và khó nghèo, chúng ta dể dàng phân biệt đó như là những đặc sủng khác nhau trong Giáo hội: không phải ai ai cũng có ơn gọi sống độc thân vì Nước Trời; không phải ai ai cũng có ơn gọi từ bỏ hết tài sản để đi theo Chúa Giêsu Kitô. Thế nhưng, khi bước sang đức vâng lời, chúng ta khó tìm thấy một bản văn riêng biệt nói về đặc sủng nầy trong Kinh Thánh, dành riêng cho các tu sĩ. Tuy nhiên, người tu sĩ đã đặt lý tưởng đời mình là bước theo và bắt chước Đức Kitô, thì chắc chắn họ phải cố gắng noi theo sự tuân phục mà Chúa Giêsu Kitô đã sống và đã dạy: sự vâng phục vì thảo hiếu với Chúa Cha, sự vâng phục vì phục vụ Nước Trời.

Trong Việt ngữ, tiếng “vâng phục” hay “vâng lời” nó bao hàm một thái độ căn bản của con người (loài thụ tạo) đối với Tạo Hóa. Vâng lời (nghe lời) có nghĩa là nghe theo lời của người nào đó, thuận theo và đáp lại.

Trong Kinh Thánh, sự lắng nghe và tuân phục là thái độ căn bản của con người trước mặt Thiên Chúa, chủ tể của vạn vật; con người là thụ tạo nên phải biết tuân theo luật lệ của Đấng tạo tác nên mình. Sự vâng phục nầy không làm hạ giá con người, nhưng đem lại sự sống cho con người (luật mang lại sự sống). Trái lại, những trang đầu của Kinh Thánh cho chúng ta một kinh nghiệm đau thương: nguyên tổ loài người muốn dành quyền định đoạt điều lành - dử theo ý mình, và rồi, họ đã chuốc lấy cái chết cho mình cũng như cho con cháu...

Ngoài thái độ vâng phục căn bản mà con người cần có đối với Đấng Tạo hóa, Kinh Thánh còn nói đến sự vâng phục của Israel đối với giao ước. Đây không phải là sự vâng phục của nô lệ với chủ nhân, nhưng là sự trung thành chung thủy của tình yêu. Các Sứ ngôn nhiều lần kêu gọi sự vâng phục của Israel bằng những từ ngữ ái ân vợ chồng (Ez 16; Hose 2). Sự vâng phục được đặt trong bối cảnh của tình yêu. Cũng vì vậy, mà các Sứ ngôn đã không ngừng chỉ trích việc tuân giữ lề luật cách máy móc, hình thức (Is 1,11-17): Thiên Chúa muốn hiến lễ của tình yêu vâng phục chứ không phải lễ tế chiên bò (Tv 40,7.9; 1Sam 15,22).

Tân ước nối dài tư tưởng đó. Dĩ nhiên, ngoài sự vâng phục lề luật Chúa nói chung, thánh Phaolô đã định nghĩa đức tin như là một sự vâng lời (Rm 1,5;16,26), tuân nhận những gì Chúa đã mặc khải cho con người. Tác giả của lá thư giử dân Do thái đã trình bày những gương sống động của đức tin khởi đầu từ Abraham như là những tấm gương của sự vâng phục (Dt 11,8). Dĩ nhiên tấm gương vâng phục nổi vượt hơn cả là chính Đức Kitô. Chính tác giả của thư gửi dân Do thái đã đặt trên môi của Ngài khi vào đời những lời của thánh vịnh 39:

          “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật,

          Nhưng đã mở tai con;

          Lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi.

          Con liền thưa: “Này con xin đến!

          Trong sách có lời chép về con

          Rằng: con thích làm theo thánh ý,

          Và ấp ủ luật Chúa trong lòng,

          Lạy Thiên Chúa của con” (Dt 10,5-7)

Chính nhờ sự vâng phục mà Đức Kitô đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời (Dt 5,8-9). Khi mở Phúc Âm, ta có thể thấy tất cả cuộc đời của Đức Kitô từ đầu cho đến cuối diễn ra trong sự vâng phục Chúa Cha: từ lúc thiếu thời ở Nazareth Ngài đã thao thức với những công việc mà Cha ủy thác (Lc 2,49), hay khi bị ma quỷ cám dỗ trên sa mạc muốn lật ngược kế hoạch của Chúa (Lc 22,42), Đức Kitô luôn lấy ý Chúa lam kim chỉ nam, làm lương thực cho cuộc đời (Ga 4,34; 5,30; 6,38; 8,27; 12,27-28; 17,4). Thánh Phaolô đã tóm lại tất cả cuộc đời dương thế của Đức Kitô như thề nầy: “Người đã vâng lời cho đến chết, chết trên Thập giá” (Pl 2,8). Chính sự vâng phục của Ngài đã mang lại sự cứu độ cho nhân loại cũng như trước đây sự bất tuân của Adong đã gây diệt vong cho loài người (Rm 5,19).

Từ gương sống đó, ta cũng hiểu được yêu sách mà Đức Kitô đặt ra cho những ai muốn theo Ngài. Ngài muốn cho họ không phải chỉ vâng vâng dạ dạ ngoài môi miệng nhưng thực sự thi hành ý Cha trên trời (Mt 7,21) và phàm ai làm theo ý Cha thì sẽ trở thành anh em với Ngài (Mc 3,35).

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ

 

 

TRANG LINH MỤC

 

LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ TRÁI TIM CỦA SỨ VỤ LINH MỤC

 

“Đức Giêsu Kitô là hình ảnh lòng thương xót của Thiên Chúa Cha”. Đây là câu đầu tiên trong Tông Sắc Misericordiae Vultus của Đức Thánh Cha Phanxicô. Như vậy sự yêu thương, chăm sóc cho đoàn chiên của Đức Giêsu chính là lòng thương xót của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại chúng ta. Ngài là vị Mục Tử của lòng thương xót, lòng thương xót đó sẽ đưa đoàn chiên đến đồng cỏ xanh và suối nước trong chính là hình ảnh của hạnh phúc vô biên.

 

Đức Thánh Cha đã từng nhấn mạnh đến Bí Tích Giải Tội và lòng thương xót, Ngài tha thiết khuyên nhủ: “Cha xin các con đừng bao giờ mỏi mệt tỏ lòng xót thương. Các con phải có khả năng tha thứ như Chúa, Đấng đã đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Ngài cũng cảnh giác các tiến chức phải chống lại những cái bẫy của tính kiêu ngạo, vì sứ vụ của Linh Mục trước hết là thông truyền cho người khác đức tin mà mình đã lãnh nhận, chứ không phải sáng tạo những giáo lý mới hấp dẫn quần chúng: “Giáo lý của Hội Thánh, không phải là giáo lý của các con, các con không phải là chủ nhân của giáo lý, đó là giáo lý của Chúa”. Dẫn lời Thánh Augustinô, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc các Linh Mục cần phải xoá mình đi, không được tự hào về điều gì của cá nhân mình: “Bạn phải thi hành công việc của Chúa để làm vui lòng Chúa, chứ không phải để làm vui lòng bản thân bạn” (Bài giảng phong chức linh mục cho 13 phó tế tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô năm 2014)

Từ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha, tôi nhìn lại ơn gọi của chính mình. Tôi đã được Chúa trao ban thừa tác vụ Linh Mục, một thời gian chưa dài lắm nhưng cũng đủ để nhận ra rằng: Linh Mục phải nên giống Chúa Kitô trong chính thừa tác vụ của mình.

 

Các Linh Mục muốn khuyên bảo người có tội ăn năn trở lại, làm cho người khô khan trở nên sốt sắng thì việc đọc kinh cầu nguyện và có nhân đức thôi chưa đủ, mà còn phải có đức thương yêu nữa. Chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu là Đấng Cực Thánh, Ngài có mọi nhân đức, nhưng cũng đã lấy tình yêu mà kêu gọi mọi người theo con đường của Ngài. Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại có hồn có xác như chúng ta, đã chịu chết cho chúng ta, không những là Ngài đã thương yêu chúng ta quá bội mà còn truyền cho chúng ta phải thương yêu nhau nữa.

 

Các Linh Mục muốn khuyên bảo người ta yêu mến đạo và giữ đạo thì các ngài phải tỏ lòng thương yêu các linh hồn. Nếu Linh Mục chỉ có nhân đức, có tài giảng thuyết, siêng năng cầu nguyện, ăn chay hãm mình mà không có lòng thương yêu, không dịu dàng hòa nhã thì không làm cho người ta yêu mến đạo và giữ đạo được.

 

“Có nhiều người ở khắp mọi nơi, phải khó nhọc vì đường xá xa xôi, hao tiền tốn của mới đến được xứ Ars vì nghe tiếng Cha Gioan Maria Vianey thương yêu hết thảy mọi người, và đối xử mọi người với lòng nhân từ thương xót vô hạn, bất kể giàu nghèo, già trẻ, người nào càng khốn khó phần hồn phần xác hơn bao nhiêu, Cha lại càng thương yêu bấy nhiêu. Thật vậy, không có người mẹ nào thương yêu con mình như Cha thương những người khốn khó chạy đến với Cha. Khi Cha thấy ai lo buồn khóc lóc, Cha cũng xúc động và cùng khóc với họ. Thấy ai gặp được sự may lành Cha cũng vui mừng với họ. Ai xin điều gì mà có thể cho, Cha không từ chối bao giờ. Cung cách của Cha hiền lành và nhân hậu lắm, những lời nói của Cha dịu dàng, ngọt ngào, Cha không hề nói lời gì làm mất lòng ai, dù khi Cha bận rộn nhiều việc hay khi nhọc nhằn, kiệt sức. Dù người ta quấy rầy xin việc này việc nọ, xô lấn chen nhau làm cho Cha ngã hay vây kín chung quanh không cho Cha đi, thì Cha vẫn hiền lành bình tĩnh, không tỏ dấu gì buồn giận, không hề la mắng, gắt gỏng bao giờ”. (M. Cardo)

 

Tình Yêu bao giờ cũng lôi kéo người khác. Tình Yêu theo mẫu gương của Chúa Giêsu bao giờ cũng có sức hút người ta đến nhận ơn cứu độ. Tình Yêu của các Linh Mục là Alter Christus dành cho mọi tầng lớp người, nhất là người nghèo vật chất cũng như tinh thần, trong khi lũ lụt hay khi thất nghiệp, tình yêu đó cần được sáng lên nơi tâm hồn, trên khuôn mặt của người già, của trẻ em, của những ai không có điều kiện ăn học, bị bỏ rơi hay đang lo buồn vì “thấp cổ bé miệng” trong xã hội…Hãy để cho họ khám phá ra hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nơi các Linh Mục. Một ngày nào đó họ sẽ đến và ở lại với Thiên Chúa. Bởi vì, “Một mục tử tốt lành, một mục tử theo lòng Thiên Chúa mong ước, là một kho tàng lớn mà Thiên Chúa tốt lành có thể ban cho một Giáo Xứ, và là một trong những ân huệ quý giá nhất của lòng nhân hậu”. (Cha Gioan Maria Vianey)

 

Như vậy, Linh Mục là người tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu thánh hóa con người và thế giới qua việc loan báo Lời Chúa và ban phát các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải. Noi gương Cha Sở họ Ars, tôi sẵn sàng quảng đại chú ý tới việc phân phát cho các tín hữu các kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đặt để trong tay tôi, và tôi không phải là chủ nhân mà chỉ là các người quản lý. Đặc biệt trong thời đại của chúng ta ngày nay, một đàng xem ra có sự yếu kém của đức tin, mặt khác có nhu cầu kiếm tìm tu đức, mỗi một Linh Mục phải nhớ rằng loan báo tin mừng, phụng tự và các Bí Tích không bao giờ được tách rời nhau trong sứ mệnh của Linh Mục. Và phải thăng tiến việc mục vụ Bí Tích để đào tạo dân Chúa và giúp họ sống dồi dào qua phụng vụ, việc phụng tự của Giáo Hội và các Bí Tích như là các ơn nhưng không của Thiên Chúa.

 

Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con là các Linh Mục học được nơi Mẹ tinh thần đơn sơ, khiêm nhường, tự xóa mình để có thể yêu Chúa và yêu thương tha nhân nhiều hơn. Xin cho chúng con nhận ra tinh thần đơn sơ, khiêm nhường và tự xóa mình là nền tảng để có thể yêu thương đích thực như Thiên Chúa - Đấng giàu lòng thương xót.

 

Lm. Giacôbê Hoà Bình

 

 

 

TRANG TU SĨ

 

TRÊN TẤM LƯNG MẸ YÊU

 

Phù phù…phù…

 

Mới sáng thôi mà mồ hôi đã đổ ra như tắm, nó hì hụi đẩy thêm mớ củi vào lò.

 

Vì còn sớm, nó bước ra ngoài, không khí còn lạnh hơi sương, trên bầu trời đầy sao lấp lánh, sáng trong như những hạt pha lê đính trên tấm thảm nhung đen huyền ảo. Nó chợt hỏi lòng ở phương trời xa, có phải mẹ cũng đang nhóm lửa thổi cơm, ba và em nó cũng đang chờ một buổi sáng ấm lòng để đi làm, đi học. Nó mỉm cười quay trở vào nhà, nhìn ngọn lửa bập bùng, nó nhớ lại những ngày còn nhỏ, nó không chịu rời mẹ, mỗi sáng mẹ đều thức dậy sớm lắm để thổi cơm, chuẩn bị thức ăn cho ba đi làm rừng. Mẹ cực là thế, lại phải khó nhọc cõng nó trên lưng, tấm lưng của mẹ gắn liền với tuổi thơ của nó.

 

Ngày còn là thiếu nữ, mẹ đã phải bươn chải mà nuôi cả đàn em thơ dại. Thời buổi khó khăn, gia đình mười người mà chỉ được đong hai lon gạo, mảnh vải thô chẳng đủ may một cái quần dài. Mẹ theo người mắng tiếng tập tành đi đổi hàng, phải cất công ngược xuôi gồng gánh những bao bắp, đậu…vượt qua mấy trạm gác, rồi có lúc bị đuổi bắt, vốn liếng mất sạch lại còn bị tịch thu cả cơm nguội mang theo ăn đi đường. Chẳng có đêm nào mẹ được vô tư ngủ, vì thương mấy đứa em, giấc mơ của mẹ cũng giập dờn theo ánh lửa khuya. Các em mẹ lớn khôn, mẹ về nhà chồng, cũng gánh gồng chuyện làm dâu, vất vả trăm chiều. Qua mấy năm nương rẫy không được mùa, mẹ cùng ba lên rừng bẻ măng, cưa tre, làm đũa, trên tấm lưng yếu mềm ấy, mẹ cõng cả một trời yêu thương. 

 

Ngày nó chào đời, vì thiếu sức khỏe nên mẹ phải mổ, vết sẹo ấy vẫn còn trong cung lòng mẹ luôn nhắc cho nó về tình yêu cao cả vô bờ, thế nên lúc nào nó cũng theo mẹ không rời. Vậy mà cũng lạ, ngày nó học xong mười hai, mẹ thỏ thẻ : “Thôi con gái mẹ đi tu đi”, thế là nó vâng lời đi. Lúc đầu xa mẹ, tưởng chừng không chịu nổi, nhưng mấy lần đòi về, thấy mẹ buồn nên nó lại thôi. Nhớ lại những ngày về thăm nhà rồi lại đi, mẹ vẫn để nó đu theo trên lưng tiễn ra tới đầu ngõ, lúc nào mẹ cũng một tay chào, tay kia xoa xoa bụng, nơi có vết sẹo yêu thương.

 

Một mình giữa bao gió mưa của đời dâng hiến, có lúc nó thấy mệt nhoài và cũng muốn tìm về bên mẹ, những lúc đó, mẹ khuyên nó rất ít mà kể chuyện “hồi ấy” của mẹ, của gia đình thì nhiều, nhưng cũng chính từ những kỷ niệm mẹ kể mà nghị lực vươn lên, tình yêu quên mình, hy sinh và thầm lặng của mẹ cứ thấm vào nó tự lúc nào giúp nó quyết tâm sống mạnh mẽ hơn, vững vàng hơn.

 

Hôm nay, nó dậy sớm thổi cơm cho chị em có được bữa cơm sáng ấm lòng, dù dã phải ở liền hai phiên kế tiếp vì nhà Dòng thiếu người, chị em phải gánh vác hai ba bổn phận cũng đã kín lịch công tác, nhưng nó thấy vui vì có được dịp hy sinh chịu khó. Như mẹ nó bao năm vẫn đều đều thức khuya dậy sớm, việc trong việc ngoài chu đáo mà chẳng hề mệt mỏi hay than van, đơn giản là vì bà yêu em út, yêu chồng con. Tình yêu khiến bà sống phục vụ không đòi lương bổng, chỉ mong những người thân yêu được bình yên.

 

Nó vốn không khỏe mạnh được như chị em nhưng vẫn cố gắng, không từ chối bất cứ công việc gì nó có thể làm để phục vụ. Tình yêu được mẹ ấp ủ giờ đây nó muốn thông truyền đến mọi người qua những công việc được chỉ định, những người nó gặp gỡ, qua sự nỗ lực chu toàn bổn phận được trao phó.

 

Hơn hai ngàn năm trước cũng đã có một người mẹ chẳng quản ngại mưa nắng, khó nghèo, đắng cay một lòng yêu thương và hy sinh cho chồng con. Người mẹ ấy còn tuyệt vời và trọn hảo hơn biết bao nhiêu lần mẹ nó, đó chính là Mẹ Maria – Mẹ nhân loại, Đấng mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã yêu mến tôn vinh là Mẹ của Lòng Thương Xót. Hôm nay là một ngày của tháng hoa, nó cũng ước mong có được nhiều bông hoa hy sinh dâng Mẹ. Lòng nó miên man ngẫm lại, dường như kỳ quan vĩ đại nhất nơi một thụ tạo Thiên Chúa đã dựng nên là trái tim, nơi sự sống bắt đầu và kết thúc, nơi tình yêu không bao giờ mệt mỏi khi phải làm việc triền miên. Thiên Chúa là tình yêu, Người đâu có mệt khi thương xót…vì thế Người vẫn hằng luôn làm việc, nó cũng muốn nên giống Người, làm việc để tôn vinh Người, để tình yêu thương ngập tràn muôn lối.

 

MTG Cái Nhum

 

 

 

LAO ĐỘNG PHỤC VỤ CON NGƯỜI

 

Hành trình dâng hiến theo ơn gọi Mến Thánh Giá của Thơ đã hơn sáu năm. Sau khi ý thức rõ đời tu mang lại hạnh phúc và bình an, Thơ quyết định xin tuyên khấn trọn đời và được Nhà Dòng chấp thuận. Thời gian về Nhà Mẹ Hội Dòng hâm nóng đời tu để chuẩn bị cho ngày Tuyên Thệ vĩnh viễn, sau giờ học chiều có những phút thư giản, Thơ tìm về mái nhà đầy thân thương của thời Đệ tử, nhìn lại khung cảnh êm đềm của thời gian chập chững bước vào ơn gọi, bao nhiêu kỷ niệm đẹp còn in đậm trong ký ức, Thơ rất phấn khởi... Thấy các Đệ tử đang trồng rau xanh. Thơ nhanh nhẹn bước tới.

 

-        Chào chị Thơ.

-        Chào các em, các em lao động vui quá hả, cho chị làm với!

-        Mời chị Thơ! Làm việc xốc vác ăn ngon ngủ khỏe lắm chị ơi!

 

Thế là Thơ cùng các em Đệ tử vui vẻ lao động. Chị xới đất, em vun liếp, bón phân cấy cải xanh, gieo rau muống. Sau một giờ lao động, nhìn mấy liếp cải được cấy ngay hàng thẳng lối. Thơ vui vẻ nói:

 

-        Khoảng vài tuần nữa mình sẽ được ăn canh cải nè, cải xào, cải luộc nữa. Thích quá hả các em!

-        Dạ! Có bàn tay chị Thơ trồng chắc là cải mau tốt lắm đó!

-        Cám ơn em. Trước đây chị không thích lao động, nhưng khi hiểu được giá trị của việc làm đem lại ích lợi cho bản thân mình và phục vụ đồng loại thì chị thích lao động lắm.

-        Lao động giúp mình có sức khỏe nữa phải không chị?

-        Đúng vậy! Làm việc xốc vác giúp mình thân mình dẻo dai hơn đó em.

-        Khi làm được một việc gì đem lại ích lợi cho người khác mình cảm thấy rất vui hả chị Thơ?

-        Đúng vậy! Vì lòng thương xót, Chúa dựng nên muôn loài trên địa cầu và trao cho con người làm chủ mọi sự, khi con người biết dùng trí năng mình làm việc để tạo ra của cải, các phương tiện gíúp xã hội thăng tiến; đó là con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

-        Vậy là khi mình quét nhà, nhổ cỏ, trồng rau là việc nhỏ bé nhưng mình vẫn cộng tác với Chúa làm cho thế giới tốt đẹp phải không chị?

-        Lao động trí óc hay chân tay đều mang lại giá trị và tránh được việc xấu như người xưa thường nói: “Ở không nhưng là cội rễ mọi sự dữ” đó.

-        Chị ơi! Nhờ trồng rau, mình có rau sạch ăn, không sợ phân thuốc độc hại như rau chợ, đem lại sức khỏe tốt cho chị em trong nhà nữa. Bây giờ Dì Quản lý ít tốn tiền mua rau nhờ Đệ tử trồng đó chị.

-        Đúng rồi! Việc làm của các em mang lại hiệu quả trước mắt đó. Thôi! Gần đến giờ cơm rồi, mình nghỉ nha các em.

 

Trong lao động, con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Đấng tạo thành và lao động vì con người chứ không phải con người vì lao động. Nhờ lao động con người có được các phương tiện để nuôi sống bản thân, phục vụ cộng đồng nhân loại. Thế giới văn minh tiến bộ như hôm nay là nhờ con người biết sáng tạo trong lao động. Vì ý thức giá trị của lao động nên trong giáo dục luôn có giờ lao động và mời gọi con người yêu lao động. Tất cả mọi sự Chúa ban cho con người cách nhưng không và con người là thụ tạo duy nhất làm chủ mọi loài. Khi con người biết sử dụng nguồn vốn Chúa ban để làm cho cuộc sống thêm phong phú, xã hội được thăng tiến; đó là con người thể hiện phẩm giá làm con Thiên Chúa theo dung mạo của Đấng Lòng Thương Xót.

 

MTG Cái Mơn

 

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

 

ĐÓA LỤC BÌNH

Tôi được sinh ra và lớn lên tại vùng sông nước Miền Tây, một vùng nước mênh mông, trên những con sông luôn thấp thoáng những bụi lục bình trôi lênh đênh, không bờ bến... Chợt thoáng qua tôi thấy cuộc đời mình cũng giống như những bụi lục bình này, rải rác lênh đênh trên biển cuộc đời. Nó giống như một huyền nhiệm vậy. Trước tiên là tôi được may mắn sinh ra tại Cái Mơn, một họ đạo có truyền thống Công Giáo, là quê hương của vị thánh linh mục Philipphê Minh Bổn Mạng Giáo Phận và là nơi sản sinh ra rất nhiều linh mục, tu sĩ cho Giáo Phận. Do đó, mà từ thuở bé tôi đã có ý định đi tu. Nhưng cái ý nghĩ đó cũng chỉ là thấy người ta đi tu rồi bắt chước, chứ khi đó tôi nào có biết tu là gì đâu!

 

Thời gian thắm thoát trôi, tuổi thơ cũng dường ấy mà trôi theo, tôi lớn lên và rồi “đóa lục bình” kia cũng bắt đầu chịu những gợn sóng khi “đóa lục bình bé nhỏ” bắt đầu trôi ra khỏi con kênh họ đạo. Tôi nhận giấy báo trúng tuyển Đại học, mặc dù chỉ là trường đại học bình thường ở Vĩnh Long, nhưng cũng đủ giúp tôi có trong tay tấm bằng để mai sau có thể kiếm cơm, kiếm gạo. Ý định đi tu lúc này của tôi cũng chỉ đang dừng lại ở mức độ nhìn thấy mà ước ao, tôi vẫn chưa sờ được đến lòng Chúa, tôi vẫn chưa hiểu rõ thật tu là gì, nhưng tôi vẫn ước mơ và có khi còn khát vọng để được làm một ông cha ở nhà thờ như tôi từng gặp.

 

Khi bắt đầu xa nhà, tôi được vị linh mục chính sở của mình lúc ấy viết giấy giới thiệu đến trọ lưu xá Cầu Vồng của địa phận, tôi xúc động hồi hộp khi cầm được lá thư giới thiệu và biết rằng nơi lưu xá có rất nhiều sinh viên sau khi ra trường sẽ đi Chủng Viện và đây sẽ là cơ hội cho tôi sống đời sống cộng đoàn.

 

Đến ngày nhập học tôi cũng thu xếp đồ đạc đi học xa như bao đứa sinh viên khác. Trên đường đi, tôi nao nức, hồi hộp, rồi đây mình sẽ có thêm nhiều bạn, đời sống sinh viên nhiều điều hấp dẫn hiện lên. Tôi đến và bắt đầu đi học, ở trong môi trường lưu xá. Lúc đó, tôi mới thấy đời sống cộng đoàn chính là thử thách đầu tiên trong ước muốn đi tu xem tôi có ơn gọi không:  sống chung va chạm với anh em có khi lời nói, có khi hành động, tôi bị chạm đến lòng tự ái, tính đố kị, ích kỉ,... chúng bao trùm trên tôi. Giờ phút đó từ ngữ dự tu đối với tôi chỉ còn là vỏ bọc bên ngoài, tôi quên đi sự hiện diện của Chúa, tôi quên đi Đấng thần minh tạo dựng nên tôi, tôi cảm thấy lòng mình trống vắng, tôi muốn mọi người phải chiều theo ý mình, giống như đóa lục bình không chịu trôi theo dòng nước mà cứ muốn trôi ngược dòng. Có lúc tôi suy nghĩ hay mình không hạp với đời tu!

 

Để tìm lại sự bình an, Tôi lại về với vị linh mục ngày xưa mà tôi xem như người cha linh hướng, tôi trình bày nỗi lòng của đóa lục bình đang chơi vơi không biết sẽ trôi về đâu, ngài cười rồi bảo tôi đến một nơi mà nếu Chúa muốn Ngài sẽ lo liệu cho tôi. Rồi một ngày đẹp trời, tôi lại khăn gối lên đường một lần nữa, nhưng lần này tâm trạng tôi lại khác hẳn hoàn toàn, nếu trước đây tôi háo hức bao nhiêu, thì giờ đây tôi lo sợ, tôi hoang mang. Đất Sài thành rộng lớn, một thân một mình tôi tìm đến nơi được giới thiệu, nhà ứng sinh Dòng Tên. Tôi nhìn thấy cái tên mà cảm thấy ơn lạnh cả người, tôi chỉ là một đóa lục bình nhỏ bé đến từ Miền Tây sông nước làm cho tôi có chút suy nghĩ tự ti: mình có tài cán, hay sự thông thái gì mà lại dám vào đây, tôi chỉ muốn mình nằm trong vùng nước an toàn, sợ những sóng gió, mà chỉ muốn là đóa lục bình trôi êm ả trên dòng sông không gợn sóng. Nhưng tôi đánh liều, liều mình bước đi, tôi đến gặp vị Giám đốc để bắt đầu kỳ khảo. Tôi trò chuyện một lát, rồi tôi được tin rằng: tôi sẽ được dự tĩnh tâm định hướng ơn gọi.

 

Nào giờ ở quê, tôi làm gì biết định hướng là gì, tĩnh tâm là gì... tôi lại phải nhắm mắt mà đi. Lúc ấy tôi tự hỏi mình rằng; sao mình không chịu tu gần nhà, ở đó có anh, có em, có bạn bè, lên trên này toàn là người lạ, rồi sẽ phải làm sao?  Tôi căng thẳng như muốn đứt dây thần kinh, lúc này đây tôi bắt đầu nhớ tới Chúa, nhớ đến sự bảo bọc của Ngài, thầm thì bên Chúa một lát, tôi được trấn an. Ba ngày tĩnh tâm của tôi diễn ra suôn sẽ, các bài thi đều tương đối dễ vượt qua.

 

Cuối cùng tôi được kết quả là mình đã thi đâu vào nhà Ứng Sinh niềm, vui trong tôi như vỗ òa. Đóa lục bình đã được định hướng, và hôm nay tôi không còn cảm giác bất an khi đóa lục bình biết phó thác và chấp nhận chảy theo dòng chảy của Thánh Thần.

 

Lm, Gioan Nguyễn Tiến Thiện

 

 

 

TRANG THIẾU NHI

 

DẠY CHỮ NHÂN CHO THIẾU NHI

 

Chuẩn bị lãnh chức phó tế, tôi về họ đạo nhà xin lời rao chức thánh. Trước lễ nhì Chúa Nhật, tôi ra sân nhà thờ nói chuyện với mấy em thiếu nhi. Một em chạy lại nắm tay tôi mừng rỡ: “Thầy, về hồi nào vậy thầy?” Tôi trả lời: “Thầy mới về hôm qua, có chút chuyện, rồi lát nữa thầy đi”. Tôi quên em tên là gì, chỉ nhớ trong đầu là em quậy lắm. Từ Sài Gòn, bà nội em dẫn em về nhờ dì sáu dạy giáo lý dùm. Nhiều người không dạy được em nhưng dì sáu dạy được vì dì hiểu yếu điểm của em: tính em ngang bướng nhưng chịu ngọt, thích dùng vũ lực nhưng lại yêu chuộng người khác dịu dàng với mình. Em đang hồ hỡi với tôi thì một em nhỏ khác lại méc: “Thằng này nó mới tự vẫn bằng dây chì không chết đó thầy”. Đang vui, em xuống gà, xụ mặt, phùng mang. Tôi nhìn hiểu được tâm trạng nhưng không thể ngăn cản phản ứng của em trước sự công kích của thằng bạn. Nhìn em rượt đánh thằng bạn, tôi quên cả việc ngăn em lại vì đầu óc tôi đang suy nghĩ một vấn đề: “Lời nói của một thiếu nhi vô tình nhưng trở thành nhát dao đâm vào vết thương của bạn thiếu nhi khác. Sự vô tình của thiếu nhi phải chăng nên trách người lớn, vì trong quá trình giáo dục ngày nay, các nhà giáo nổ lực đào sâu kiến thức khoa học mà quên hay không quan tâm nhiều để dạy bài học chữ NHÂN cho học trò mình.”

 

Dĩ nhiên trước tiên, bài học chữ nhân được dạy cho thiếu nhi từ các môn học trên ghế nhà trường: đạo đức, giáo dục công dân, văn chương, … Đó là hình thức dạy chữ nhân bằng chữ nghĩa, bằng lý thuyết. Bên cạnh đó, bài học này còn được dạy cách sống động và phong phú hơn từ những nguồn kiến thức khác nữa:

 

BÀI HỌC CHỮ NHÂN ĐƯỢC DẠY TỪ NGUỒN KIẾN THỨC LÀ NHỮNG YẾU TỐ THUỘC VĂN MINH, VĂN HOÁ THỜI ĐẠI

 

Tôi nhớ ngày xưa, lúc tôi học lớp 5, cứ đến chiều thứ bảy, mấy chị em tôi qua nhà bà út hàng xóm coi cải lương. Thời của tôi, coi cải lương là việc giải trí tạo niềm vui sau một tuần học căng thẳng.  Trong vỡ cải lương, những bài học luân lý hay được đan xen khéo léo vào niềm vui cuối tuần. Tôi hiểu được tình anh em qua vỡ Ăn Khế Trả Vàng, tình bạn bè qua Lưu Bình Dương Lễ, tình chồng vợ, tình người qua SựÏ Tích Trầu Cau, …và nhiều vỡ tuồng rất hay dạy chữ Nhân cho mọi giới tuổi,ø đặc biệt là bồi dưỡng tuổi thiếu nhi của tôi. Bên cạnh cải lương, tôi thích đọc những quyển truyện tranh, truyện cổ tích bà tôi mang từ Sài Gòn về. Có những ngày tôi quên ăn trưa để đọc những quyển truyện ấy. Cho tới bây giờ, khi thao thức về việc dạy chữ nhân cho thiếu nhi, tôi mới hiểu được những quyển truyện ấy là kho kiến thức vô tận dạy chữ nhân. Ngoài việc đọc chuyện ra, tôi có thêm niềm vui bên những đứa bạn cùng xóm: rủ nhau đi bắn chim, chơi năm mười, làm ống thục, thả diều, chơi kinh một kinh hai …những trò chơi này tuy quê mùa nhưng có giá trị gắn kết tình bạn bè, tình anh em lối xóm. Ngày nay, niềm vui của thiếu nhi hiện đại không còn đơn sơ, mộc mạc như ngày xưa. Cải lương được thay bằng game bạo lực, phim Hàn Quốc, thậm chí cả những phim không lành mạnh trên một số trang Web. Truyện cổ tích, truyện tranh giáo dục được thay bằng truyện Conan, Đôrêmon, hay những chuyện vui kiểu mì ăn liền. Việc chơi chung với bạn bè gần nhà được thay bằng nhắn tin điện thoại, chat, Facebook, ….Niềm vui của thiếu nhi trong thời buổi văn minh thì phong phú hơn thiếu nhi ngày xưa, nhưng tiếc thay, những thứ hấp ấy đa phần không thể bồi dưỡng và dạy sâu thêm bài học chữ nhân cho các bạn thiếu nhi.

 

BÀI HỌC CHỮ NHÂN ĐƯỢC DẠY TỪ NGUỒN KIẾN THỨC LÀ TRÁI TIM NHÀ GIÁO

 

Nhiều bài báo hay thuật lại những câu chuyện tình người rất dỡ trên con đường xã hội hiện đại. Một người bị tai nạn xe nằm đó, biết bao người đi qua nhưng không ai dám giúp đỡ nạn nhân vì sợ liên luỵ. Các bạn thiếu nhi nhìn thấy điều đó trong thực tế, trên các phương tiện thông tin, vô tình một trang vỡ dạy bài học chữ nhân bị xé nát. Không nói xa xôi trên đường đi, chúng ta quan sát xung quanh ngôi nhà của mình. Nhà cửa ngày nay hầu hết được xây tường, nhà tường có hàng rào bao quanh, hàng rào có khoá bóp lại. Hàng rào giữ trộm không rào theo khuôn khổ địa lý mà có khi rào luôn trái tim mình, đóng cửa trái tim trước hoàn cảnh khó khăn của người khác. Chiếc chìa khoá chống trộm làm sai nhiệm vụ: khoá lại lòng nhân ái, khoá tình người. Bà con lối xóm ngại ngần trước nhà cao cửa rộng, trước hàng rào kính cổng cao tường, không dám viếng thăm nhau, không dám sống cái cảnh tối lửa tắt đèn có nhau. Chiếc hàng rào, chìa khoá trở thành rào cản trong việc giáo dục chữ nhân cho thế hệ trẻ. Bước vào trong gia đình, bài học chữ nhân bị dạy ngược: vợ chồng ly dị, con cái bỏ bê cha mẹ, cha mẹ bỏ rơi con cái, anh chị em tranh dành với nhau từng đồng tiền, miếng đất, …Ngay cả trong lòng giáo dục cũng phơi bày mặt trái của chữ nhân. Có những người thầy dạy trẻ không nhắm tới ích lợi của trẻ mà chỉ vì đồng tiền, để tăng thu nhập. Trẻ tinh ý nhìn thấy được cái tâm không tốt của nhà giáo thì làm sao trẻ có thể học thuộc bài học chữ nhân trên ghế nhà trường. Dạy chữ nhân bằng lý thuyết trong sách vỡ không khó, cái khó là người lớn, đặc biệt là các nhà giáo cố gắng dạy chữ nhân từ nguồn kiến thức là trái tim mình, dạy bằng những hành động nhân ái cụ thể qua gương sáng người lớn, nhà giáo sống có tình người.

 

BÀI HỌC CHỮ NHÂN ĐƯỢC DẠY TỪ NGUỒN KIẾN THỨC LÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Nguồn kiến thức đầu tiên của chữ nhân không phải nơi sách vỡ, nơi văn minh, văn hoá mọi thời, cũng không phải nơi sâu thẳm trái tim nhà giáo mà từ nguồn chính yếu là Lòng Thương Xót Chúa: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Lòng thương xót này như một dòng sông chảy từ nguồn là Thiên Chúa Ba Ngôi, mang là phù sa tình yêu, mang chữ nhân chảy qua cuộc đời mọi người, chảy đến tận nguồn của lòng thương xót là những anh chị em nghèo nàn, đau khổ. Khi cảm nhận tình thương Chúa chảy qua cuộc đời mình, Chúa mời gọi từng người hãy mau mắn tham gia dòng chảy của lòng thương xót mang phù sang tình yêu đến trao cho người khác. Qua Giáo lý, qua Kinh Thánh, qua các biến cố cuộc sống, các giáo lý viên, các bậc cha mẹ có trách nhiệm giúp các em thiếu nhi nhận ra được loại phù sa tình yêu nơi Thiên Chúa Ba Ngôi chảy qua cuộc đời các em. Để rồi từ đó, các em cũng mang bài học chữ nhân, bài học tình yêu nhận được từ Thiên Chúa đem trao gởi cho người khác trong môi trường sống của mình.

 

Cải cách giáo dục 1914-1918 chuộng kiến thức khoa học Tây phương. Điều đó không sai nhưng đáng tiếc ở chỗø chúng ta không coi trọng và giữ lại những nét sáng trong lối giáo dục đạo đức của nhà nho. Trước những tiêu cực trong thời đại văn minh ngày nay, những bài học xưa của ông thầy đồ càng làm ta thấm thía, nhất là bài học giáo dục chữ nhân cho con người, trong đó cần thiết nhất là mầm non thiếu nhi. Năm thánh Lòng Thương xót đang mở ra cho Giáo hội Công giáo là cơ hội quý báu để dạy chữ nhân cho các kitô hữu, dạy đạo làm người mà hay hơn, cao hơn, dạy yêu như Chúa yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

 

Lm. Phaolô Phạm Thanh Sơn

 

 

TRANG GIỚI TRẺ

 

HỐI TIẾC

 

Trong cuộc sống, có rất nhiều điều khiến tôi hối tiếc như: rời xa một người nào đó để tìm kiếm những mối quan hệ mới mẻ. Đến một ngày, tôi nhìn lại chợt ngậm ngùi nuối tiếc: nếu ngày đó mình không nói lời chia tay, thì hôm nay đã không như thế này. Nhưng những gì đã qua, khó lòng mà lấy lại...

 

Những việc đã qua...

 

Có những lúc, vì nóng giận, vì thiếu kiên nhẫn mà tôi từ bỏ một cách dễ dàng. Đến lúc tôi tĩnh tâm trở lại mọi việc không thể cứu vãn được nữa. Có khi tôi vì tự cao, tự đại  mà buông lời miệt thị, khinh thường người khác. Tôi đánh mất tình bạn, tình yêu và cả những mối quan hệ tốt đẹp khác. Có khi tôi nghĩ mình có quyền, có thế, có nhan sắc và lợi thế cá nhân gây dựng một mối quan hệ mới không có gì khó khăn cả. Đến một lúc, những người xung quanh quay lưng, tôi mới nhận ra, mình chẳng là gì trong thế gian này.

 

Những việc đã qua không thể sửa chữa được, cũng không thể thay đổi được. Vì vậy, tôi không nên hối tiếc hoài mà cần phải sống tốt hơn cho những ngày tiếp theo. Tôi nên sống và trân trọng những gì đang có trong tay mình.

Những gì không đạt được...

 

Đôi lúc dù cố gắng đến thế nào đi chăng nữa, tôi cũng không thể có được điều mà mình khao khát chờ đợi. Khi đã dốc hết sức lực cho một việc gì đó mà không thể có được, tôi nghĩ mình cũng đừng quá hối tiếc vì mình đã làm hết sức mình có thể. Chỉ khi tôi không cố gắng, không nỗ lực để thực hiện điều gì đó, lúc ấy tôi cần xem xét lại chính bản thân mình. Đừng chỉ biết nói: "Nếu tôi cố thêm chút nữa...". Mà hãy học cách nói: "Lần sau tôi sẽ...". Bởi những gì không đạt được tôi hoàn toàn có thể có được vào những lần sau. Chỉ cần tôi cố gắng hơn mà thôi.

 

Đừng hối tiếc những gì không phải của tôi...

 

Những gì không thuộc về tôi, sớm muộn gì cũng rời xa tôi mà thôi. Do đó, tôi đừng hối tiếc những gì đã qua, những gì không đạt được. Những gì tôi đang có trong tay thì hãy trân trọng mà nắm giữ. Đừng nghĩ rằng đã là của tôi thì mãi mãi sẽ là của tôi. Bởi không có gì là bất biến trên thế gian này. Hôm nay nó là của tôi, nhưng ngày mai đã sang tay người khác, đừng để mất đi rồi mới hối tiếc.

 

Cuộc sống không phải lúc nào cũng như tôi mong muốn, nhưng biết trân trọng, biết yêu thương và chăm sóc... Tôi sẽ không dễ dàng đánh mất những gì mình có trong tay. Đừng vô tâm với người thân của mình, đừng hờ hững với những gì mình đang có. Nếu không, một ngày nào đó chúng sẽ ra đi. Lúc ấy, tôi hối tiếc thì đã muộn rồi.

 

Vậy, đừng bao giờ để mất rồi mới biết quý trọng, bạn nhé!

 

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

 

YÊU VÌ ĐÃ ĐƯỢC YÊU – ĐỂ TIẾP TỤC ĐƯỢC YÊU

 

Theo chu kỳ của năm Phụng vụ thì Mùa Phục sinh năm 2016 đang dần tiến đến lúc kết thúc. Mỗi mùa trong năm Phụng vụ đều giúp người tín hữu chiêm ngắm một khía cạnh của tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Chiêm ngắm để rồi người tín hữu cảm nhận tình Chúa dành cho mình thật vĩ đại dường bao. Từ đĩ, họ được mời gọi sống sao cho xứng đáng với những gì mình đã được và tiếp tục lãnh nhận.

 

Tình yêu của Thiên Chúa là vơ biên vơ tận. Tình yêu ấy được biểu lộ rõ nơi Chúa Giê su như Người nĩi với Philipphê: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (14, 9b). Tình cảm tự nhiên của con người thì khơng thể chấp nhận một ai đĩ xúc phạm và làm khổ mình là bạn. Người ta sẽ xem người đĩ như là kẻ thù của mình.

 

Đang khi đĩ Chúa Giêsu lại nĩi:  “Khơng cĩ tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13). Người tiếp tục khẳng định: “Thầy khơng cịn gọi các con là tơi tớ, vì tơi tớ khơng biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15, 15). Điều này cho thấy dù người tín hữu cĩ thế nào chăng nữa trong ánh mắt của Chúa họ vẫn là bạn hữu của Người.

 

Người tín hữu sẽ khơng tìm thấy được nơi nào Chúa Giêsu tuyên bố Người chết và sống lại cho những người giàu sang hay quyền thế hay cho bất cứ hạng người nào. Người chỉ nĩi: “Ta khơng đến để kêu gọi những người cơng chính, mà kêu gọi những người tội lỗi"  (Mc 2, 17). Vì thế, tất cả lời nĩi và hành động của Chúa đều nhắm đến một điều duy nhất là yêu con người.

Mở đầu đoạn Tin mừng của ngày Chúa nhật thứ 6 Phục sinh năm C, Chúa Giê su kêu gọi: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ khơng yêu mến Thầy, thì khơng giữ lời Thầy” (Ga 14, 23). Thực hiện tốt những lời dạy của Chúa Giê su là cách tốt nhất để người tín hữu đáp trả tình yêu của Chúa và cũng là cách tốt nhất để mãi mãi được ở trong tình yêu của Người.

 

 

 

TRANG GIA ĐÌNH

 

NỖI ƯU TƯ NHƯ MUỐN NGÕ

 

Kính thưa quý bạn đọc,

 

Thời gian gần đây, khán thính giả người Việt đã chứng kiến không ít những cuộc chia tay đình đám của các ngôi sao, nam nữ diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ, nhạc sĩ, hay đại thiếu gia… khiến người hâm mộ bất ngờ và bàng hoàng.

 

Yêu nhau, yêu thần tốc, yêu ồn ào, hết duyên, hết thích, tình trốn chạy xa bay. Giống như kiểu “Còn duyên nối tiếp, hết phận chia ly.”

 

“Ớ, tại sao bây giờ yêu thì khó, bỏ thì dễ?”

 

Phải chăng vì chưa chuẩn bị kỹ lưỡng cho một cuộc tình bền vững; hay vì còn thiếu kiên nhẫn, chưa đủ hy sinh và cảm thông cho một mối tình dài lâu?

 

Tuy nhiên, không phải mối tình nghệ sĩ nào cũng đều mang đến một “định mệnh” tan vỡ. Lời kể về cuộc đời nghệ sĩ và nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Ánh 9 như một minh chứng xứng đáng nêu gương cho người đương thời.

 

Chiều ngày 14 tháng 4 năm 2016 vừa qua, người yêu nhạc và khán thính giả cả nước Việt thương tiếc người nhạc sĩ tài đức Nguyễn Ánh 9.

 

Báo chí ghi lại: Trước khi rơi vào hôn mê và vĩnh viễn ra đi, nhạc sĩ bảo con dâu tìm cho mình một tờ giấy nhỏ và cây viết để ông nhắn nhủ người vợ gắn bó với ông hơn nữa thế kỷ, rồi ông nắn nót từng từ dù đôi tay run rẫy: “Bà Nội ơi! Thương Bà Nội nhiều lắm, Bà Nội đừng giận ông nội nhé!”

 

Lúc sinh thời, tình yêu Nguyễn Ánh 9 dành cho Vợ ông (bà Ngọc Hân) được con cháu ngưỡng mộ, tình yêu ấy cũng khiến nhiều người cảm phục người nhạc sĩ tài năng.

 

Quý bạn đọc thân mến,

 

Trong ca khúc “Chuyện Chúng Mình,” Nguyễn Ánh 9 đã vẽ lên hình ảnh: Ông như con thuyền, vợ hiền là bến đỗ. Còn người viết thì ví von: Vợ như nốt nhạc chồng sánh vần thơ, như chiếc đàn và dây tơ không ngừng trỗi vang lên muôn cung điệu reo rắc.

 

Tình yêu son sắt và thủy chung bao giờ cũng là tình đẹp muôn thuở, là lối mở cho những cuộc tình chắp cánh bay lên trời.

 

Quý bạn đọc thân mến,

 

Thời nay, hiện đang có nhiều gia đình Công Giáo và không Công Giáo chỉ vừa đủ ăn đủ mặc nhưng lại có một gia đình đầm ấm yên vui; vợ chồng, cha mẹ và các con đủ sức yêu thương và cảm thông cho nhau để ngày ngày bên những mái nhà đơn sơ luôn rộn rã tiếng nô đùa. Rất có thể, gia đình chúng ta không giàu sang nhung gấm, mà lắm hạnh phúc ngọt ngào, dạt dào thánh đức. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa và cầu nguyện không ngừng: Xin Người gìn giữ tổ ấm gia đình chúng ta luôn chan chứa tình yêu mặn nồng.

 

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

 

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

 

Mười Điểm Chính Của Tông Huấn Amoris Laetitia

 

WHĐ (10.04.2016) ­­– Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Amoris Laetitia (Niềm vui Tình yêu) của Đức Thánh Cha Phanxicô vừa được công bố ngày thứ Sáu 08 tháng Tư 2016. Tông huấn là thành quả của hai Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình: Khoá ngoại thường (tháng Mười 2014) với chủ đề “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng” và Khoá thường lệ (tháng Mười 2015) với chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”, cùng với những góp ý của Giáo hội tại khắp nơi trên khắp thế giới.

 

Tông huấn chủ yếu là tài liệu suy tư về đời sống gia đình và khích lệ các gia đình; nhưng cũng là lời nhắc nhở của Đức Thánh Cha rằng Giáo hội cần tránh việc chỉ phán xét con người và áp đặt luật lệ cho họ mà không nhìn đến những phấn đấu của họ.

 

Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định giáo huấn của Giáo hội về đời sống gia đình và hôn nhân, nhưng đồng thời nhấn mạnh vai trò của lương tâm cá nhân và sự phân định mục vụ. Ngài mời gọi Giáo hội lưu tâm đến hoàn cảnh sống của con người để giúp họ có quyết định đúng. Mục tiêu là giúp đỡ các gia đình –thực tế là giúp cho mọi người– cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và biết rằng họ được Giáo hội ân cần chào đón. Tất cả những điều này đòi hỏi phải có “phương pháp mục vụ mới” (199), theo kiểu nói của Đức Thánh Cha.

 

Sau đây là mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia (*):

1. Giáo hội cần phải hiểu các gia đình và các cá nhân trong tất cả sự phức tạp của họ. Giáo hội cần phải gặp gỡ họ ở nơi họ đang sống. Thế nên các mục tử phải “tránh những xét đoán không lưu tâm đến tính phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau” (296). Không được “đóng khung hoặc xếp loại con người một cách quá cứng nhắc mà không dành chỗ cho sự phân định mang tính mục vụ và riêng biệt” (298). Nói cách khác, không có một tiêu chuẩn chung cho tất cả mọi người. Mọi người đều được khuyến khích sống theo Phúc Âm, nhưng cũng cần được đón nhận vào trong một Giáo hội biết trân trọng những phấn đấu của riêng họ và đối xử với họ với lòng thương xót. Cần tránh kiểu suy nghĩ rằng “mọi sự không trắng thì đen” (305). Và Giáo hội không thể dùng luật lệ luân lý như “những tảng đá đè nặng trên cuộc sống con người” (305). Tóm lại, Đức Thánh Cha kêu gọi phải có sự cảm thông, thương xót và đồng hành.

2. Vai trò của lương tâm là tối quan trọng trong những quyết định về luân lý. “Lương tâm cá nhân cần phải được hợp nhất với thực hành của Giáo hội trong những hoàn cảnh vốn vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta về hôn nhân một cách khách quan” (303). Nghĩa là, xác tín truyền thống về phán quyết cuối cùng của lương tâm cá nhân trong đời sống luân lý đã bị quên lãng. Giáo hội được “kêu gọi huấn luyện lương tâm, chứ không phải thay thế lương tâm” (37). Phải, Đức Thánh Cha nói, đúng là lương tâm cần phải được huấn luyện nhờ giáo huấn của Giáo hội. Nhưng lương tâm không chỉ có mỗi việc đánh giá điều gì là đúng hay sai đối với giáo huấn của Giáo hội. Lương tâm còn có thể nhận ra điều Thiên Chúa đòi hỏi nhờ “một sự chắc chắn nào đó về luân lý” (303). Vì thế, các mục tử cần giúp đỡ các tín hữu không chỉ tuân theo lề luật, mà còn biết “phân định”, tức là đưa ra quyết định sau khi cầu nguyện (304).

3. Người Công giáo ly dị và tái hôn cần phải được hội nhập vào Giáo hội đầy đủ hơn. Bằng cách nào? Bằng cách xem xét các chi tiết cụ thể hoàn cảnh của họ, bằng cách ghi nhận “những tình tiết giảm nhẹ, khuyên bảo họ ở “tòa trong” (nghĩa là cuộc nói chuyện riêng giữa linh mục và người ấy hoặc cả hai vợ chồng), và bằng cách tôn trọng điều này: lương tâm của một người có quyền quyết định cuối cùng về mức độ tham gia vào đời sống Giáo hội (305, 300). (Ở đây không nói về việc rước lễ, nhưng đó là một khía cạnh truyền thống của sự “tham dự” vào đời sống Giáo hội). Các đôi vợ chồng ly dị và tái hôn cần cảm thấy mình thuộc về Giáo hội. “Họ không bị vạ tuyệt thông và không nên được đối xử như vậy, vì họ vẫn thuộc về Giáo hội” (243).

4. Mọi thành viên trong gia đình cần được khuyến khích sống đời sống Kitô hữu tốt. Phần lớn nội dung Amoris Laetitia gồm các suy niệm Phúc Âm và giáo huấn của Giáo hội về tình yêu, gia đình và trẻ em. Nhưng nó cũng bao gồm rất nhiều lời khuyên thiết thực của Đức Thánh Cha, có khi trích từ những bài huấn dụ và bài giảng về gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở các đôi vợ chồng rằng một cuộc hôn nhân tốt đẹp là một “tiến trình động” và mỗi bên phải chịu đựng những gì không hoàn hảo. “Tình yêu không buộc phải hoàn hảo để cho chúng ta ca tụng” (122, 113). Với tư cách mục tử, Đức Thánh Cha khuyến khích không chỉ các đôi vợ chồng đã kết hôn, nhưng cả những người đính hôn, những người sắp làm mẹ, cha mẹ nuôi, người góa bụa, cũng như cô dì, chú bác, và các ông bà. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng đừng ai cảm thấy mình không quan trọng hoặc bị loại ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.

5. Chúng ta không nên nói về những người “sống trong tội” nữa. Đức Thánh Cha nói rõ: “Không thể đơn giản nói rằng tất cả những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’ là sống trong tình trạng mắc tội trọng” (301). Những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’, hoặc các gia đình không-truyền-thống, chẳng hạn các bà mẹ đơn thân, cần được “cảm thông, an ủi và đón nhận” (49). Khi nói đến những người này, mà thực ra với tất cả mọi người, Giáo hội cần chấm dứt cách áp dụng luật luân lý, như thể chúng là –theo kiểu nói sống động của Đức Thánh Cha– “những tảng đá đè nặng trên cuộc sống con người” (305).

6. Điều áp dụng được ở nơi này có thể không áp dụng được ở nơi khác. Đức Thánh Cha không chỉ nói về các cá nhân, nhưng còn về mặt địa lý nữa. “Mỗi quốc gia hoặc khu vực … có thể tìm kiếm các giải pháp phù hợp hơn với nền văn hóa của mình và nhạy cảm với những truyền thống của mình và nhu cầu của địa phương mình” (3). Thậm chí điều có ý nghĩa mục vụ ở nước này có thể không đúng ở nước khác. Vì lý do này và nhiều lý do khác, như Đức Thánh Cha nói ở phần đầu của Tông huấn, không phải mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bởi huấn quyền (3).

7. Mặc dù giáo huấn truyền thống về hôn nhân đã rõ, nhưng Giáo hội không nên chất gánh nặng cho con người với những kỳ vọng không thực tế. Hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ, là bất khả phân ly; và hôn nhân đồng giới không được xem là hôn nhân. Giáo hội tiếp tục đưa ra lời mời gọi xây dựng hôn nhân lành mạnh. Đồng thời, Giáo hội cũng thường áp đặt trên con người một “lý tưởng thần học giả tạo về hôn nhân”, tách khỏi cuộc sống đời thường của con người (36). Có khi những lý tưởng này trở thành “gánh nặng to lớn”(122). Vì thế, các chủng sinh và linh mục cần được đào tạo tốt hơn để thấu hiểu những phức tạp trong đời sống hôn nhân của con người. “Các thừa tác viên có chức thánh thường thiếu sự đào tạo cần thiết để đối phó với các vấn đề phức tạp mà các gia đình đang phải đối mặt” (202).

8. Trẻ em phải được giáo dục về giới tính và tính dục. Trong một nền văn hóa thường thương mại hóa và hạ giá những diễn tả tính dục, trẻ em cần phải hiểu biết về giới tính trong “khung cảnh rộng lớn hơn của một nền giáo dục cho tình yêu và trao hiến cho nhau” (280). Đáng buồn thay, thân xác thường được xem đơn giản chỉ như “một đồ vật để sử dụng” (153). Giới tính luôn phải được hiểu là mở ra để đón nhận món quà của sự sống mới.

 9. Những người đồng tính cần được tôn trọng. Đang khi hôn nhân đồng giới là không được phép, Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn tái khẳng định “trước hết” rằng người đồng tính cần phải được “tôn trọng trong phẩm giá của họ và được đối xử ân cần, và phải cẩn thận tránh ‘mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công’, nhất là bất kỳ hình thức công kích hoặc bạo lực nào”. Gia đình có người LGBT [đồng tính, lưỡng tính, chuyển giới] cần được Giáo hội và các mục tử “hướng dẫn mục vụ với lòng tôn trọng” để người đồng tính có thể thực hiện trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của họ (250).

10. Mọi người đều được đón nhận. Giáo hội phải giúp đỡ các gia đình bất cứ gia đình ấy thuộc kiểu nào, và mọi người bất cứ ở trong hoàn cảnh sống nào, vì, ngay cả trong những khiếm khuyết của họ, họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và có thể giúp cho người khác cảm nghiệm tình yêu ấy. Tương tự như vậy, các mục tử phải làm sao cho mọi người thấy mình được ân cần tiếp đón ở trong Giáo hội. Amoris Laetitia đề ra nhãn quan về một Giáo hội mục tử và thương xót, khích lệ mọi người cảm nghiệm “niềm vui tình yêu”. Gia đình là một phần thiết yếu tuyệt đối của Giáo hội, bởi vì xét cho cùng, Giáo hội chính là “gia đình của các gia đình” (80).

--------------------

 * Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia do linh mục James Martin, S.J. tóm kết và đăng trên tạp chí mạng America của Dòng Tên.  Các con số trong ngoặc là số của Tông huấn

Minh Đức chuyển ngữ

 

 

TRANG QUỚI CHỨC

 

CẦN LAO

 

Chuyện kể rằng: có một gia đình nọ sinh toàn con gái, nên muốn có một đứa con trai để nối dõi tông đường.

 

Sau bao nhiêu cố gắng, thế rồi trời cũng không phụ người hiền, họ cũng sinh được một cậu quí tử như long mong ước.

Đến ngày thôi nôi, mọi người đến chúc mừng với những lời đại loại như: mau ăn chóng lớn đi chơi, giàu sang phú quí, chân giày, chân dép...

Và quả thật những lời chúc thật lòng ấy quả là linh nghiệm, cậu bé lớn lên mau chóng, và vì là con trai duy nhất nên cậu được cưng chìu hết mức, không phải làm việc, không cần phải chuyên cần học tâp như đồng bạn.

Những chiến tranh xãy ra, đến tuổi phải thi hành nghĩa vụ quân sự, cậu phải lên đường như bao nhiêu thanh niên khác, được đưa sang đất bạn. Nhưng thay vì phải phục vụ trong quân đội ba năm như những người lính khác, cậu được dặt cách giải ngủ sớm hơn và trở về với chân giày, chân dép đúng như lời những người ngày xưa đã đếân cầu chúc lúc cậu mới thôi nôi.

Tất cả cũng tại vì cậu là con trai duy nhất, quá được cưng chìu nên không học hành đến nơi đến chốn, không va chạm cuộc sống, tính khí ngông cuồng…

Vốn quen ở nhưng không, không quen lao động, không được luyện rèn cho nên vào quân trường cậu không chú tâm khổ luyện để học lấy kinh nghiệm trận mạc. Người ta nói: Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, nhưng cậu đâu nghe. Thế rồi khi xung quân, những người có năng lực, chữ nghĩa được bố trí vào tuyến sau, còn những người không có năng lực, chỉ biết cầm súng thì được đưa ra tuyến đầu. Cậu được ở trong số đó. Cái giá mà cậu phải trả cho việc ăn ở nhưng không trước đây là : cái chân thật được thay bằng một cái chân giả (chỉ mang được giày mà không mang được dép!)

Câu chuyện này không phải nhằm để chế nhạo những người thương binh đáng kính trọng vì xã thân để bảo vệ quê hương đất nước, nhưng để nhắc nhở một chân lý người xưa đã nói: thành nhân bất tự tại, tự tại bất thành nhân, có nghĩa là: Muốn làm người, chớ ở không; Ở không, chẳng thành người.

Trong sách Sáng thế có viết, khi tạo dựng con người xong, Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn để làm việc. Ngôi Hai Thiên Chúa, khi trở nên xác phàm, Ngài đã làm việc liên lỉ như Ngài nói: Cha Ta và Ta làm việc không ngừng.

Chỉ những ai làm việc cần cù nghiêm túc thì mới được mọi người kính trọng. Người ta sẵn sàng dùng những những từ ngữ rất cao trọng để tôn kính như Ông…., Bà…., Ngài….mà để được như thế, những người ấy phải đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, thức khuya dậy sớm, hy sinh những cuộc vui, tận dụng thời giờ để khổ luyện, để tìm tòi, học hỏi…..chứ đâu phải tự phong hay mua bán hoặc dùng quyền lực mà có được, mà dẫu có đi nữa thì họ cũng chẳng được người khác công nhận hay kính trọng.

Thiên Chúa đáng chúc tụng và chúng ta được tạo nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh thì có nhiều chi tiết, khía cạnh, một trong những khía cạnh chúng ta giống Chúa là làm việc để trở nên hoàn hảo, sự hảo thật sự từ cái chân và cái thiện chứ không phải là sự lấp liếm bên ngoài như một lớp sơn. Phủ một lớp sơn lên một thanh sắt thì dễ dàng, mau chóng, nhưng để luyện một thanh sắt thành một thanh thép cứng chắc không sợ ten sét thì rất khó.

Lm. Ant. Lưu Thanh Tâm

 

 

 

 

SỐNG ĐẸP

 

Thời Gian

Con người sống vui vì có định mốc thời gian. Các nhà khoa học đã giả định vũ trụ hiện hữu đã có hằng tỷ năm. Chúng ta không biết chắc chắn thời gian và nguồn cội của vũ trụ càn khôn. Trên không trung có cả triệu triệu hành tinh như những ngôi sao rọi sáng trong bầu trời. Từ ngàn xưa, địa cầu cứ tiếp tục vần xoay, mặt trăng khi tròn khi khuyết và mặt trời luôn chiếu sáng và sưởi ấm. Sự có mặt hay vắng mặt của con người chẳng liên quan gì đến sự vận hành của vũ trụ. Ngày ngày trăng sao vẫn lấp lánh, mây vẫn trôi, gió vẫn thổi, sóng biển vẫn dập dồn và cây cối vẫn trổ hoa sinh trái.

 

Chúng ta được sinh ra làm người là một hạnh phúc tuyệt vời. Chúng ta được chiêm ngưỡng những kỳ công vượt trên mọi trí tưởng tượng. Với khả năng được trao ban, nhân loại đã dần dần khám phá được phần nào những bí nhiệm của vũ trụ. Chúng ta cần học hỏi và tìm kiếm nhiều hơn để nhận ra ý nghĩa và cùng đích của sự hiện hữu này. Một điều kỳ lạ, có rất nhiều người ngây thơ chối bỏ căn nguyên cội rễ của vũ trụ. Họ nghĩ rằng cứ phủ nhận và chối bỏ nguyên lý nhân quả là họ được hưởng tự do. Đây chỉ là một thứ tự do ngông cuồng và vô thức. Con người có thông minh, giỏi giang và có quyền lực gì chăng nữa, cũng chỉ sống vỏn vẹn trên trần đời một thời gian ngắn dài khoảng là tám chín chục năm. Khoảng đời chẳng là gì so với tuổi của vũ trụ.

 

Chúng ta đều là loài thụ tạo. Sự hiện hữu là một hồng ân. Thời gian là một món quà. Chúng ta đã chẳng làm gì để thủ đắc, đón nhận hay sở hữu thời gian. Thời gian giống như khí quyển mà chúng ta thở hít mỗi giây phút. Món quà thời gian không chỉ dành cho riêng chúng ta. Trời ban cho mọi người thời gian đồng đều. Dù khi chúng ta ngủ hay thức hoặc ý thức hay vô thức, đồng hồ thời gian vẫn cứ chạy đều. Một năm có 12 tháng, 52 tuần, 365 ngày, 8.760 giờ, 525.600 phút và 31.536.000 giây. Người giầu kẻ nghèo, người học thức, kẻ thất học, người khỏe, kẻ yếu, đàn ông, đàn bà hay trẻ em đều lãnh nhận đủ 24 giờ một ngày.

 

Điều quan trọng nên nhớ là, chúng ta không thể ngừng thời gian. Cũng không thể làm cho thời gian nhanh hơn hay chậm lại và cũng không thể thay đổi. Thời gian tiếp tục đi tới. Chúng ta không thể cứu vãn thời gian đã trôi qua. Một khi đã đi qua là đã qua. Ngày qua đã đi vào dĩ vãng đời đời. Ngày hôm qua đã rời xa, ngày mai chưa tới và giây phút hiện tại là đang sống. Chúng ta có thể có những viễn tượng về tương lai xa gần, nhưng thật sự không thể bảo đảm việc gì sẽ xảy đến. Thời gian là một món quà rất quý báu. Chúng ta đừng hoang phí, lạm dụng quá độ hoặc dùng nó cho riêng mình. Chúng ta nên đầu tư thời gian để thi hành điều gì đó tốt đẹp cho chúng ta và xã hội.

 

Quy luật của thời gian là sự đào thải. Mọi loài thụ tạo đều có chung một quá trình trong thời gian. Có sinh, có tử. Có trẻ, có già. Có mới, có cũ. Có lúc khởi đầu và có khi kết thúc. Có đó, rồi mất đó. Con người hãy nhớ mình là tro bụi, sẽ trở về bụi tro. Tất cả các loài thực vật, động vật và loài người đều nằm trong lẽ vô thường. Hôm nay trai trẻ khỏe mạnh, ngày sau sẽ già nua yếu bệnh. Hôm nay chúng ta cố đấu tranh để đạt quyền cao chức trọng, rồi cũng có ngày phải về vườn qui ẩn. Hôm nay chúng ta chắt chiu của cải nên giầu có, rồi cũng có lúc ra đi trắng tay. Hôm nay chúng ta đầu tư thời gian để kiếm tiền, nhưng rồi khi đã có tiền, cũng chẳng mua lại được thời gian. Luật đào thải của thời gian không chừa một ai. Thời gian sẽ đẩy lùi tất cả và có thể giải đáp mọi vấn đề.

 

Tấm lịch của ngày giờ năm tháng giúp chúng ta phân chia thời gian. Ai cũng có những quãng đời dài ngắn đã đi qua. Gọi là tiến trình của tuổi ấu thơ tới tuổi già. Để nhận biết rõ hơn về chính mình, chúng ta có thể phân chia cuộc đời ra nhiều giai đoạn, mỗi kỳ khoảng 10 hay 15 năm. Nhìn bức tranh cuộc đời sẽ rõ ràng. Khởi đầu tuổi thơ ấu với nhiều kỷ niệm đẹp. Thời gian tuổi thơ là vui sướng nhất. Tuổi trẻ là tuổi thần tiên. Tuổi dệt mộng đẹp nhất. Người trẻ thì tràn đầy nhựa sống và niềm hy vọng. Khi bước vào trường đời, ước mơ của tuổi trẻ với nhiều dự tính tương lai rất ấn tượng. Tương lai đang mở ra với biết bao hy vọng. Thật là sung sướng!

 

Mới đây, trên mạng ảo facebook, có kể câu truyện thật hư không rõ, nhưng chúng ta nên để tâm suy nghĩ một chút. Truyện kể: Có một đại gia không may bị chết sớm. Người vợ thừa kế số tiền là 19 tỉ đồng.  Sau khi lo đám tang chồng, người vợ đã lấy anh tài xế của đại gia, làm chồng. Anh tài xế hân hoan phát biểu: Trước kia, tôi cứ nghĩ rằng mình làm thuê cho ông chủ, bây giờ mới biết chính ông chủ mới là người làm thuê cho tôi. Thật là xót xa. Ky cóp cho cọp nó xơi. Điển trai, danh vọng, chức vị, tiền tài chưa đủ để sống hạnh phúc dài lâu. Chúng ta cần có sức khỏe để vui sống. Ở đời chưa biết ai làm thuê cho ai.

 

Mỗi người có thể nhìn lại đời mình, ai ai cũng có khi trẻ lúc già. Bước vào tuổi nửa chừng xuân, chúng ta bắt đầu cảm nhận những đổi thay cả về tinh thần lẫn thể xác. Cổ nhân thường nói rằng: Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới. Đúng thế, sau những tháng năm dài miệt mài lao động kiếm sống, chúng ta cần có thời gian để suy tư. Thật vậy, nếu chúng ta không dành thời giờ và tiền bạc lo cho sức khỏe khi còn trẻ, chúng ta cũng sẽ phải dùng tiền đó lo cho sức khỏe khi về già. Nhiều người đã than phiền và lo lắng cho nửa cuộc đời về sau là sức khỏe, huyết áp, máu mỡ, bảo hiểm, của cải thừa kế…và sợ cái chết đến gần. Đừng sợ! Người trước kẻ sau, ai cũng sẽ được đi đến cùng đường. Bởi thế, dù đường đời dài hay ngắn, điều đó không quan trọng. Sự quan trọng là làm sao chúng ta sống cuộc đời cho có ý nghĩa.

 

Theo cách tính lịch của người Do-thái thuở xưa, sách Lêvi đã viết: “Các ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm…và sẽ công bố năm thứ năm mươi và gọi là năm thánh, năm toàn xá…(Lêvi 25, 8-10). Sự tuần hoàn của cơ thể con người cũng phát triển theo hướng tự nhiên. Cứ bảy năm, các tế bào trong thân thể của con người lại đổi mới theo một chu kỳ. Sau bảy lần bảy là bốn mươi chín năm, chúng ta bước vào giai đoạn mới của cuộc đời. Đây là tuổi của sự thành đạt trên đường đời và cũng là thời kỳ thách đố về sức khỏe. Như chiếc xe cũ, thân xác của chúng ta cũng sẽ thoái hóa dần. Đây là sự thật của luật đào thải. Chúng ta hãy chấp nhận những gì mình đang có và vui sống trong mọi hoàn cảnh.

 

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được hiện hữu trên đời. Chúng con được thưởng ngắm tất cả những kỳ công tuyệt vời của của Đấng Tạo Hóa. Tất cả là hồng ân Chúa ban cách nhưng không. Chúng con cảm tạ, ca tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

 

 

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

 

ĐỨC TIN LÀ GÌ VÀ PHẢI SỐNG ĐỨC TIN THẾ NÀO ?

Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần hay thần học (Theological Virtue) nhờ đó chúng ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật trong đó có con người,” được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1: 27)

Nhưng muốn có đức tin thì trước hết phải có ơn Chúa ban cho như một quà tặng quí giá mà không ai có thể tự sắm cho mình hay nhờ phương thế tự nhiên nào, hoặc học ở trường Đại Học nào trên thế giới mà có được đức tin.

Nghĩa là tiên vàn phải là ơn Chúa ban cho ai thì người đó được đức tin . Qua quà tăng này, Thiên Chúa đã tự mặc khải mình để cho phép ta tin có Chúa, dù không hề trông thấy Người mà vẫn vững chắc tin và sống theo Thánh ý của Người để được chúc phúc và cứu rỗi. Nói khác đi, nếu Thiên Chúa không tự mặc khải Người cho chúng ta thì không bao giờ chúng ta có thể biết Ngài là AI để tin và yêu mến, đúng như Chúa Giêsu đã nói:

“ Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6: 65)

Có nghĩa là không ai có thể biết Chúa Con , nếu Chúa Cha không ban ơn mở trí cho người ấy.

Nơi khác, Chúa Giêsu đã cảm tạ Chúa Cha về ơn mặc khải dành cho những người bé mọn, tức những người thấp hèn như chúng ta mà lại được hạnh phúc biết Chúa qua đức tin:

“ Lậy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngượi khen Cha . vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lậy Cha, đó là điều đẹp ý Cha.” (Mc 10: 21)

Như thế, chính nhờ ơn mặc khải đức tin mà chúng ta , những kẻ bé mọn đã nhận được, nên chúng ta mới biết và tin có Thiên Chúa là Cha toàn năng, tin Chúa Ngôi Hai đã xuống trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội, cũng như tin Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và là Đấng ban sự sống.

Đó là Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi (The Holy Trinity), tức Một Thiên Chúa với Ngôi vị riêng rẽ nhưng cùng một bản thể (Consubstantial) và uy quyền như nhau. Mầu nhiệm này đòi hỏi phải có đức tin thì mới chập nhận được, mặc dù không thể giải thích hợp lý theo luận lý (logic) hay bất cứ khoa học nào của con người. Khoa học và thông thái của con người chỉ giúp sáng tạo ra những tiện nghi cho cuộc sống vất chất cũng như chế tạo ra những vũ khí cực mạnh để giết hại lẫn nhau chứ không thể giúp con người nhận biết có Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật hứu hình và vô hình. Chỉ có đức tin mới giúp con người khám phá ra Thiên Chúa để tin yêu mến Ngài mà thôi.

Thật vậy, khi Chúa Giêsu sinh xuống trần gian làm Con Người, chính Chúa Cha đã mở trí cho những kẻ chăn chiên và ba đao sĩ phương Đông, nên họ đã mau mắn đi tìm để thờ lậy “một Hài Nhi ” nằm trong máng cỏ, vì họ tin đó “ là Đấng Thiên Sai (Messiah) đã đến để giải thoát cho con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và hy vọng được cứu rỗi, nhờ tin vào Người và sống theo đường lối của Người là “ con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” (Ga 14: 6)

Ngược lại , đa số người Do Thái, đặc biệt là các trưởng lão, đạo sĩ, và luật sĩ – đã không đến thờ lậy Chúa vì họ không có đức tin để nhận biết Chúa Giêsu là chính Đấng Thiên Sai, Messiah, mà các Ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế họ đã thờ ơ, không đón tiếp Người như Tin Mừng Thánh Gioan đã viết: Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1 : 11)

 

Chẳng chiu đón nhận vì họ không tin rằng Đấng Thiên Sai lại có thể giáng sinh trong cảnh khó hèn như vậy. Chính sự cứng lòng tin này từ đầu của dân Do Thái mà cuối cùng đã đưa họ đến đóng đanh Chúa Giêsu trên thập giá. “một điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cor 1 : 23-24)

 

Như thế chỉ có đức tin mới cho phép con người nhận ra trước hết: “một Trẻ Sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12) và sau này một “Tử tội bị đóng đanh cách nhục nhã trên thập giá” là Đức Kitô, Đấng Thiên Sai đã đến để “ hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).

 

Qua những bằng chứng Kinh Thánh trên đây, chúng ta thấy rõ Đức tin là điều kiện căn bản tối cần cho phép con người đến với Thiên Chúa là Đấng vô hình nhưng đã mặc khải Người cách hữu hình nơi Chúa Giêsu-Kitô, Ngôi Lời nhập thể để “ ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha.” như Chúa Giêsu đã trả lời cho môn đệ Philip-phê một ngày kia (Ga 14: 9). Nhưng ,như đã nói ở trên, đức tin phải là một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa ban cho con người , như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô khi môn đệ này tuyên xưng Chúa là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Chúa nói: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là cha của Thầy, Đấng ngự trên cao.”  (Mt 16: 17)

Như vậy, chúng tỏ cho thấy đức tin là một ơn mặc khải của Thiên Chúa ban cho con người để giúp con người tin có Ngài là Đấng đã vì yêu thương mà tạo dựng con người ,cũng như đã cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đã “ yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi.” (Gl 2 : 20)

Nhưng hạt giống đức tin mà chúng ta nhận được qua phép rửa không thể tự nó lớn lên và sinh hoa kết trái trong tâm hồn ta được, nếu ta không cộng tác với ơn Chúa để nuôi dưỡng hạt giống đức tin đó được lớn lên trong ta đến mức trưởng thành.

Thật vậy, đức tin đòi hỏi việc lành, việc đạo đức để tăng trưởng như hạt giống cần được tưới nước để nẩy mầm, sinh cây kết trái..Đó là lý do tai sao Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê đã nói :

“Thật thế, một thân xác không có hơi thở là một xác chết.Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2 : 26)

Hành động mà Thánh Gia-cô-bê nói trên đây là những việc đạo đức mà ta cần làm để thể hiện đức tin như siêng năng cầu nguyện để thắt chặt tình thân với Chúa. Sau đó, đọc và suy gẫm Lời Chúa, và năng lãnh nhận các bí tich ban sự sống như Thánh Thể và Hòa giải để đức tin được lớn mạnh thêm trong ta.Nghĩa là ai không cầu nguyện, không tham dự Thánh Lễ, không nghe lời Chúa và nhất là không rước Mình và Máu Chúa Kitô, thì đức tin của người ấy sẽ ví như cục than hồng bỏ ra ngoài lò sưởi và sẽ mau chóng tự tàn lụi thành tro mà thôi.

Đó là tất cả ý nghĩa của lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:

“ ….phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có thì , thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.” (Mt 25: 29)

Đã có đức tin thì sẽ được cho thêm nếu biết vun sới đức tin đó bằng những việc đạo đức .Ngược lại, thờ ơ hay dửng dưng mọi việc đạo đức thì đức tin sẽ chết dần mòn trong tâm hồn đến mức không còn tin tưởng gì nữa.Thực tế đã chứng minh điều này: Trong số những kẻ đang phạm tội ác, đang giết người, trộm cắp và hiếp dâm.. cũng có người trước đây đã được rửa tội, đã mang danh Kitô-hữu, nhưng nay đã dấn thân vào con đường tội lỗi chỉ vì không lo nuôi dưỡng đức tin bằng việc lành,đạo đức nên đức tin đã như cây cỏ chết khô vì không được tưới nước đầy đủ.

Khi đã không còn đức tin nữa, thì người ta dễ buông thả chiều theo những đòi hỏi bất chính và dễ dàng đi vào con đường tội lỗi để làm những sự dữ, ví như chiếc xe lao xuống dốc, xuống vực thẳm vì không có thắng ngăn chặn.

Đây là kinh nghiệm thiêng liêng của mỗi người tín hữu chúng ta sống giữa trần gian với bao quyến rũ và dịp tội thách đó đức tin của chúng ta. Chỉ cần nhìn qua cách sống của những người quanh ta cũng đủ cho ta thấy rõ lằn ranh giữa những người tin và không tin có Chúa hiện nay ở khắp noi trên thế giới.

Trước hết là những kẻ sống theo ”văn hóa của sự chết” đang mải mê tìm tiền của và mọi thú vui vô luân vô đạo, hoặc đang cai trị với bạo lực để vơ vết của cải và bóc lột người dân cách vô nhân đạo. Đây chính là những kẻ không có niềm tin vào một Thiên Chúa cực tốt cực lành. Ngược lại, có những người đang xả thân phục vụ cho người nghèo khó, bệnh tật, đói khát theo gương Mẹ Tê-rê-xa, nay là Chân Phước (Blessed), hoặc đang dấn thân, hy sinh đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ ở những nơi xa xôi nghèo đói bên Phi Châu và Ấn Độ. Họ là Ai ? phải chăng đó chính là những người có niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa nên đã hăng say thể hiện niềm tin của mình bằng việc tông đồ, truyền giáo rất đáng ca ngợi ?.

Tóm lại, nếu ta thực tâm tin có Chúa , tin có sự sống mai sau trên Nước Trời, thì ta phải tỏ thiện chí quyết tâm sống theo đường lối của Chúa ngay từ bây giờ thì đức tin của chúng ta mới có giá trị cứu rỗi. Ngược lại, nếu chỉ tuyên xưng ngoài môi miêng là có Thiên Chúa, nhưng lòng trí lại hướng chiều theo những lôi cuốn của các khuynh hướng xấu trong bản năng, chạy theo những quyến rũ của thế gian, nhất là những cám dỗ rất tinh vi, xảo quyệt của ma quỉ, địch thù của chúng ta, ví như “sư tử gầm thét rao quanh tìm mồi cắn xé” (cf. 1 Pr 5: 8 ), thì chắc chắn đức tin sẽ không giúp ích gì cho ta được sống đẹp lòng Chúa, như Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ xưa như sau:

“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu,nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” ( cf.Mt 7: 21

Nói khác đi, không phải cứ nhận mình là người Công giáo, cứ nói tôi tin có Chúa, nhưng đời sống của tôi lại hoàn toàn mâu thuẫn với niềm tin đó, vì vẫn ăn gian nói dối, ngoại tình, gian tham, tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, oán thù, nghen ghét , cờ bạc , mãi dâm, nhẩy nhót,ca hát vui chơi sa đọa …thì có nói cả ngàn lần “ Lậy Chúa, Lậy Chúa” cũng vô ích mà thôi.! chắc chắn như vậy.

Do đó, muốn đứng vững trong đức tin, trong ơn nghĩa Chúa để bảo đảm ơn cứu độ, chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện để “ khỏilâm vào cơn cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối.” (cf. Mt 26: 41) như Chúa Giêsu đã nói với mấy môn đệ đi theo Người vào vườn Giệtsêmani trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phản bội.

Phản bội vì mê tiền của hơn yêu mến Thầy, vì yêu mến tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất hơn tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất là cội nguồn mọi giầu sang phú quý và hạnh phúc bất diệt.

Nói rõ hơn, người tín hữu Chúa Kitô ngày nay bán Chúa hay phản bội Chúa chỉ vì không sống đức tin thực sự, đòi hỏi phải cương quyết xa tránh mọi tội lỗi do ma quỷ xúi dục với sự tiếp tay của thế gian và chiều theo những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong mỗi người chúng ta.Không nỗ lực chiến đấu chống lại những nguy cơ này thì không thể tự nhận mình là người có đức tin được,

Cho nên, phải tuyên xưng đức tin bằng chính đời sống của mình, từ bên trong tâm hồn xâu thẳm cho đến lời nói và hành đông bên ngoài trước mặt người đời và trong mọi hoàn cảnh sống để có thể nói được như Thánh Phaolô là: “ Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2: 20)

Ước mong mọi người tín hữu chúng ta ý thức đúng mức sự cần thiết phải sống đức tin cách cụ thể như các Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê và Phaolô dạy trên đây trong Năm Đức Tin, (The Year of Faith) sẽ được Đức Thánh Cha Bê-nê-đichtô 16 chính thức khai mạc tại Tòa Thánh La Mã ngày 11 tháng 10 năm nay và sẽ bế mạc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho sự thành công tốt đẹp của Năm Đức Tin nhằm quảng bá sâu rộng thêm Tin Mừng Cứu Độ và củng cố đức tin KitôGiaó sao cho thích ứng với hoàn cảnh thế giới ngày nay.

Lm.  Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

Ga 20, 19 - 23

 

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng hơn cả. Khi cầu nguyện, lời nguyện của hầu hết chúng ta là hướng về Chúa Cha, về Chúa Giêsu, về Đức Mẹ, hay về một vị thánh nào đó, chứ ít khi hướng về Chúa Thánh Thần. Và khi nói về Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm sức. Chúng ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì lớn đến đời sống chúng ta. Nhưng qua giáo lý, chúng ta được biết Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa, ngài có vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo hội, nhất là trong cuộc đời của mỗi Kitô hữu. Chính ngài là Đấng khai sinh Giáo hội, ngài là nguồn sức sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo hội, là năng lực đổi mới thế giới, không có Ngài thì sẽ không có đạo công giáo và giờ này chúng ta không ngồi đây. Tại sao lại như vậy?

 

So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Chúa Giêsu bị giết, các Tông đồ sợ hãi người Do Thái, sợ đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa lại. Thế mà ngay sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.

 

Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc, các ông đã dám tuyến bố trước mặt người do thái rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới thật văn minh, nhưng cũng tràn đầy những khó khăn phức tạp trong cuộc sống. Muốn cho cuộc sống được thoải mái một chút, thì cả vợ chồng phải đi làm, nhiều khi không còn có giờ để lo cho con cái. Thêm vào đó là những đau khổ phiền muộn trong đời sống gia đình. Nhìn thấy bao nhiêu vấn đề tuổi trẻ đang gặp phải tại nhà trường, nơi bạn bè, nhưng lại không có khả năng và sức lực để giúp đỡ họ. Đối với tuổi trẻ, hằng ngày họ phải đối diện với biết bao nhiêu những cám dỗ, những áp lực của bạn bè. Hơn thế nữa, là Kitô hữu, hằng ngày chúng ta còn cần chu toàn bổn phận đối với Chúa, để mỗi ngày tiến hơn lên trong tình yêu mến Chúa.

 

Nhưng làm sao có đủ sự khôn ngoan và sức mạnh để lướt thắng những khó khăn gặp trong đời sống thường ngày. Cũng như các Tông đồ xưa khi chưa được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ngài sống âu lo sợ sệt. Nhưng sau khi lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, được sự bình an Chúa ban, các ngài đã tìm được sức mạnh để chu toàn sứ mạng Chúa trao cho các ngài. Là những Kitô hữu sống trong ơn thánh, chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và Người vẫn luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta. Người vẫn hằng phù trợ, ban ơn, giúp sức cho chúng ta. Ai trong chúng ta lại không một lần được cảm nghiệm ơn phù trợ của Người khi được ơn soi sáng để làm một quyết định quan trọng, để giải quyết một vấn đề khó khăn, hay để làm một việc lành. Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong ta, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Người không.

 

Hôm nay Thánh Thần của đấng Phục Sinh đã đến. Ngài mở ra cho các môn đệ chân trời của cuộc sống mới, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín. Nguyện xin Ngài, cũng ban cho chúng ta ơn can đảm để vượt ra ngoài những sợ hãi nghi nan: sợ tha nhân đến làm phiền, nhờ vả; sợ mất thời gian; sợ phải đổi mới theo đúng tinh thần của Phúc Âm.

 

Chúng ta đang sống trong tháng kính Đức Mẹ, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Mẹ Maria đã hiện diện cùng với các tông đồ để cầu nguyện và chờ đợi Thánh Thần, xin Mẹ cũng hiện diện bên chúng ta, giúp chúng ta noi gương Mẹ, mở rộng tâm hồn và sẵn sàng để cho Thánh Thần hoạt động và sử dụng cả con người chúng ta theo ý Chúa. Amen.

Lm Pet.  Nguyễn Thanh Phong

 

CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI

Ga 16, 12 - 15.

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Dịp này cũng giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Khi chiêm ngắm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có những cảm nghiệm về tình yêu của Ngài như sau.

Thứ nhất: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sách giáo lý Công giáo dạy rằng: "Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo và đời sống Kitô giáo. Đó là nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin. Đó là giáo huấn căn bản nhât và chủ yếu nhất trong "Phẩm trật các chân lý của đức tin" (GLCG 134). Thật thế, Ngài là một thực tại giống như không khí chúng ta đang hít thở để bảo tồn sự sống. Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm gống như mầu nhiệm của sự sống. Bất kỳ sự sống nào không liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa đều vô nghĩa. Và trống rỗng. (Ga 15, 4; 1Cr 13,1-3). Do đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang hiện hữu, điều khiển và nâng đỡ từng giây phút của mọi sinh hoạt vạn vật và nhân sinh trên vũ trụ.

Thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi là một liên hệ yêu thương. Lịch sử cứu rỗi nhân loại là cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Tân Ước, các Tông Đồ mới gặp gỡ Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài là một Con Người tuyệt hảo, đầy thu hút. Họ đem lòng yêu mến, "un coup de foudre" bỏ mọi sự bước theo Ngài (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22). Dần dần qua sự liên hệ thân mật giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ, Ngài cho họ biết những điều bí mật về Thiên Chúa Cha, về chính Ngài là Thiên Chúa Con, và về Đức Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 6). Và sự liên hệ là: "Ta và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30).

Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả cuộc sống Kitô hữulà sự liên đới và hiệp thông với mỗi ngôi vị của Ba Ngôi, mỗi người Kitô hữu là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị: " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Nên chúng ta cần bày tỏ sự kính trọng và yêu thương đối với mọi người chúng ta gặp gỡ. Sự kính trọng và yêu thương như những cơn mưa tưới nước xuống vườn hoa. Khi mưa rơi trên những cây hoa, nó sẽ nở bông, khi con người được cư xử với sự kính trọng và yêu thương, họ cũng sẽ nở hoa, vì có ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi họ.

Thứ ba là Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Sự Thật. Thiên Chúa Ba Ngôi chính là sự thật mà mỗi người phải dựa trên đó để sống có ý nghĩa và được cứu rỗi. Yêu mến Thiên Chúa là sống trong sự thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát đuợc con người (Ga 8, 32). Chúa Giêsu đã nói: "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14, 6). Đức Chúa Cha đã sai Chúa Con đến để dẫn đưa con người về với sự thật của ơn cứu rỗi mà Ađam và Eva đã bị ma quỷ lừa dối (Rm1, 20; Ep 1, 3). Và chính Đức Chúa Giêsu đã gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật: "Khi nào Thần Khí Sự Thật đến,Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 13; 14, 17; 15, 26)

Khi chúng ta xum họp nơi đây để chúc tụng và Tôn vinh Chúa Ba Ngôi, chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật, vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đón nhận, tin, vì Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.

Chúa Ba Ngôi là ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.

Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta là con cái của Người nên chúng ta đi trong đường lối của Người, tín thác hoàn toàn và yêu thương như Ngài đã yêu.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con biết yêu thương và sống chứng nhân về tình yêu mà Ngài dành cho chúng con. Amen.

 

CHÚA NHẬT MÌNH THÁNH CHÚA C

CỖ THÁNH THỂ - TIỆC TÌNH YÊU

Lc 9,11b - 17

“Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”.

 

“Đi ăn cỗ” là cách nói rất quen thuộc của người Việt. Chúng ta cũng có thành ngữ “mâm cao cỗ đầy” để chỉ một bữa tiệc thịnh soạn đầy dư rượu thịt. Từ điển tiếng Việt của nhóm tác giả Vĩnh Lộc giải thích chữ “cỗ”: “một hay từng mâm được bày biện nhiều món ăn để dâng cúng, ăn uống theo tục lệ” . Tôi cũng muốn dùng từ cỗ để nói về một bữa tiệc còn thịnh soạn và cao trọng vạn lần bữa tiệc mà tác giả Vĩnh lộc vừa nói. Đó là Cỗ Thánh Thể.

 

Đoạn Phúc Âm vừa rồi Luca trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều. Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch câu 15 như sau: “Cho họ ngã mình xuống, thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi”. Tuy cách dịch này không được xác nghĩa so với bản văn Phụng Vụ, nhưng nó lại khá ăn ý với điều mà Isaia đã tiên báo trong bài đọc 1: “Ngày ấy trên núi này ta sẽ thết đãi dân ta một bữa tiệc, rượu thì ngon, thịt thì béo” (Is 25, 6). Các hình ảnh cỗ và bữa tiệc đầy rượu ngon, thịt béo này đều nhằm để chỉ về Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ lập sau này.

 

Tuy nhiên, trong tiệc Thánh thể, rượu không là sản phẩm từ cây nho mà là máu của Đức Kitô từ cây thập giá. Thịt không là thịt chiên, bò mà là chính Thân Thể Đức Kitô. Thật vậy, “trong đêm bị nộp Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Đây là mình Thầy, hiến dâng vì anh em” (1 Cr 11,24).

 

Như vậy, Thiên Chúa đã lấy chính máu thịt mình mà làm tiệc thết đãi chúng ta. Theo nghĩa mặt chữ, lời này quả khó nghe. Ai mà dám ăn thịt người? Thật ra, điều này cũng không phải lạ trong văn hoá người Việt ta.  Ngày xưa, nàng Sương Nương đã từng lóc thịt mình nuôi mẹ chồng đấy thôi. Thế thì, trên phương diện nhân ái điều này quả đáng anh hùng. Nếu người trần gian còn biết cho nhau những của tốt lành và đối xử với nhau dạt dào nhân nghĩa như thế thì lẽ nào Thiên Chúa không hơn như vậy sao? Chẳng phải Đức Giêsu đã xác nhận: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người đã hy sinh mạng sống cho bạn hữu  mình” hay sao? Thiên Chúa đã cho chúng ta bữa tiệc ăn không còn đói và uống không còn khát. Ngài đã tự nghiền nát bản thân mình để nên tấm bánh bé nhỏ, đơn sơ làm lương thực nuôi dưỡng con người. Ngài chấp nhận tan biến trong máu huyết xác phàm của con người cho con người được tồn tại trong Máu Huyết thần thiêng của Thiên Chúa.

 

Qua đó, Thiên Chúa đã cho chúng ta được phép “dự phần vào Máu và Thân Thể của Đức Kitô” (x.1 Cr 10,16), “được đầy tràn ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai” (SC 47), “tiền dự vào bữa tiệc cưới Giêrusalem trên trời” (GLCG 1329).

 

Thế nên, chúng ta phải thật cẩn trọng trong khi tham dự Đại Cỗ này. Chúng ta đừng hành xử như những kẻ không có lòng tin, để rồi phải nhận lấy án phạt cho chính mình (x. 1 Cr 11,9). Nhiều người không giữ chay theo luật định (1 giờ trước khi rước lễ) hoặc rước lễ trong tình trạng còn mắc tội trọng, hay đôi khi rước lễ mà trong lòng không có ý thức. Chúng ta hãy làm như lời khuyên của Thánh Phaolo: “Anh chị em không thể vừa uống chén của Thiên Chúa và vừa uống chén của ma quỷ được” (1 Cr 10,21). “Ai nấy phải tự xét mình rồi hãy ăn bánh và uống chén này” (1 Cr 11, 28).

 

Thánh Thể là bảo chứng rõ ràng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, là sự hiện hữu tỏ tường của Thiên Chúa nơi trần thế và trong chính con người chúng ta. Thiên Chúa đã không ngại ngùng ẩn thân trong tấm bánh đơn sơ ấy để ở lại với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế. Do vậy, không dại gì chúng ta không chạy đến với Thánh Thể để được sống và sống dồi dào.

 

Lm Pet. Nguyễn Minh Thái

 

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN C

DẤU CHỈ THÀNH NAIM

Chúng ta đang đứng trước một mạc khải lớn của Tin Mừng được viết ra do thánh Luca: lòng thương của Chúa chỉ có một câu ngắn trong đó từ ‘thương xót’ nói lên tất cả: “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương: bà đừng khóc nữa!”

“Vừa thấy bà”. Khi Chúa Giêsu nhìn thì chính Thiên Chúa nhìn. Chúng ta chỉ hiểu được Tin Mừng ngày nào mà chúng ta nhận rõ được điều này: Chúa Giêsu là cái nhìn phàm nhân của Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa nói với chúng ta Ngài nhìn chúng ta như thế nào. Điều này không được mạc khải cho chúng ta qua các triết gia, qua các thần học gia cũng như qua các nhà thần bí mà là qua phản ứng của Chúa Giêsu: vào một ngày nọ, tại cổng thành Naim, Ngài đã thấy một góa phụ đi bên quan tài của đứa con trai độc nhất.

Luca nói: “Chúa Giêsu động lòng thương”. Đây là lời nói có sức mạnh mạc khải mà tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh đến. Lời đó có nghĩa là: bối rối, thương xót. Trong Tin Mừng lời này chỉ được dùng để nói Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người mà thôi. Chúa Giêsu “thương xót” đám đông, những người bệnh tật; người cha của đứa con hoang đàng (nghĩa là Thiên Chúa) “động lòng thương” khi thấy lại con trai của mình. Chúng ta có nghĩ rằng Thiên Chúa nhạo báng chúng ta khi làm cho chúng ta nghĩ rằng Ngài động lòng thương hay không?

Ở đây Ngài chứng tỏ điều đó: Chúa Giêsu bị động lòng do một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất trên trái đất chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng cảm nghiệm sự đau khổ của con người, trong khi không thể chịu đựng được đau khổ hơn chúng ta: “Bà đừng khóc nữa”. Đây là một lòng thương xót có hiệu quả. Bằng một lời nói, với sự giản đơn của quyền năng toàn vẹn, Ngài làm cho sống lại: “Hãy trỗi dậy!” Một cử chỉ tế nhị kết thúc việc chứng minh cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa: “Ngài trao nó lại cho mẹ nó!”. Ngài không trả lại con cho tôi… Ngài không trả lại cô vợ ba mươi tuổi của tôi… Ngài không trả lại vị Linh mục trẻ mà chúng tôi cầu nguyện cho rất nhiều.

Đây vẫn luôn luôn là bí ẩn đó và sự hiểu lầm đó. Không phải Chúa Giêsu đã đến và đang đến để sửa chữa đau khổ ở đây hoặc ở kia, Ngài đến để sửa chữa tất cả. Việc cậu con trai thành Naim sống lại vừa là một cử chỉ thương yêu mãnh liệt, vừa là dấu hiệu của một lòng thương xót vô cùng mãnh liệt: Thiên Chúa hành động vì sự cứu độ thế giới và vì cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao nếu đứng trước mỗi cái chết, chúng ta nghĩ: hết rồi, tất cả đều chấm dứt.

Chắc chắn bà mẹ thấy con mình sống lại thì hết sức hạnh phúc. Còn đám đông thấy điều khác, đó là “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Chúng ta, những người đang đọc Tin Mừng, chúng ta phải –thậm chí đang ở trong nỗi đau khổ lớn lao- để cho dấu chỉ của thành Naim mở lòng của chúng ta ra cho toàn bộ thực tế mầu nhiệm của việc Chúa đến viếng thăm.

Lòng thương xót của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng chúng ta được yêu thương. Nhờ Ngài, Thiên Chúa làm một chuyến viếng thăm không thể tưởng tượng được: đích thân đến thăm chúng ta, cứu chuộc và sống lại theo những điều kiện trên trái đất này.

Vâng, nhưng ở đây trí khôn của chúng ta chựng lại: công việc cứu chuộc dẫn đưa Chúa Giêsu đến thập giá, công việc này để cho các bậc cha mẹ bị tan nát cõi lòng mãi mãi, cho đến tận thế, rồi những bạo lực và ích kỷ, làm sao hiểu được công việc cứu chuộc? Đâu là những biện pháp và cái nhìn của Thiên Chúa? Chúng ta muốn ít ra là Ngài giải thích công việc đó cho chúng ta.

Chúa làm điều đó, điều mà chúng ta gọi là Mạc Khải, nghĩa là tất cả những điều mà Thiên Chúa đã đặt dần dần trong tầm hiểu biết, và tấm lòng của chúng ta qua Thánh Kinh: quan điểm của Ngài, công cuộc sáng tạo và ơn cứu độ của Ngài, sự nhẫn nại và tình yêu của Ngài, Tình Yêu của Chúa! Tình yêu này sẽ luôn luôn vượt lên, bằng chiều rộng và chiều sâu trên điều mà chúng ta có thể hiểu được.

Không cấm việc đặt câu hỏi với Chúa. Đây cũng là một cách để yêu mến người Cha, tất cả các bậc cha mẹ đều biết điều này. Nhưng đây phải là cuộc đối thoại của một con người đặt câu hỏi với Thiên Chúa trong khi biết rằng con người sẽ nhận được những câu trả lời mà một con người có thể nắm và chuyển tải.

- Lạy Chúa, sau những gì đè bẹp chúng con vào lúc này, làm sao có thể nghĩ rằng Ngài yêu thương chúng con? Ngài đã để cho xảy ra, Ngài ở xa, Ngài im lặng.

- Ta không ở xa đâu. Ta đã đến tận thành Naim. Ta không im lặng đâu. Khi Ta nói: “Hãy trỗi dậy!” Ở Naim, thì đó là Ta nói với tất cả những người bị đè bẹp, với tất cả những người chết. Cho đến tận cùng, một con người vẫn có thể trỗi dậy, và một ngày nào đó tất cả mọi người sẽ trỗi dậy.

André Sève (Sưu tầm internet)

 

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN C

LIỀU MÌNH VÌ YÊU

Lc 7, 36 - 50

Một ngày nọ tôi được báo tin người bạn thân sắp làm đám cưới. Tò mò muốn biết người mà bạn ấy sắp cưới là ai. Té ra đó là một người phụ nữ quê mùa lại mắc phải một dị tật bẩm sinh. Một sự chọn lựa quả là hơi khác thường nơi người bạn của tôi. Nhưng ở đời cái gì cũng có lý do của nó. Tìm dịp thuận tiện tôi đã đến hỏi thăm bạn ấy: "Sao mà liều thế, dám chọn cô ta không sợ người khác chê cười sao?". Anh bạn chỉ trả lời một câu đơn giản: "Vì tôi yêu cô ta"

Đúng vậy, khi yêu thì người ta dám làm tất cả, người ta dường như chẳng còn sợ gì cả.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta một mẫu gương liều mình vì yêu. Mẫu gương đó lại là một phụ nữ tội lỗi. Có nhiều chi tiết mà Thánh Luca cho thấy chị ta thật liều lĩnh. Chi tiết đầu tiên là chị dám xông vào giữa bữa tiệc. Bữa tiệc này do chính người Pharisêu được gọi là người công chính đứng ra tổ chức. Chị là người phụ nữ lại là người tội lỗi mà đã hiên ngang bước vào. Chị ta quả là người "điếc không sợ súng".

Chi tiết thứ hai là quỳ xuống dưới chân Chúa Giêsu khóc nức nở rồi xổ tóc ra lau chân Người. Theo phong tục người Do thái, người nữ phải giấu kín tóc của mình trước mọi người. Đến nỗi nếu người chồng thấy được vợ mình xổ tóc trước đám đông thì có quyền ly dị với nàng. Không những thế, chị còn đập vỡ bình bạch ngọc đựng dầu thơm trị giá 300 quan tiền tương đương thu nhập cả năm mà đổ lên chân Chúa Giêsu.

Như thế, tình yêu đã thúc đẩy người phụ nữ này liều mình đến với Chúa Giêsu. Chị tin nơi Thầy Giêsu sẽ tha thứ cho những yếu đuối của mình. Và kết quả chị đã được như lòng mong đợi. Người đã nói: "Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Chẳng những được tha mà chị còn được Chúa Giêsu bênh vực khi người chủ nhà có ý trách móc. Từ đó, chúng ta thấy Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Mặc dầu, những gì con người làm chẳng đáng là bao. Nhưng khi con người làm với cả tấm lòng nhất là với lòng mến thì Thiên Chúa sẽ không để cho ta chịu thiệt bao giờ.

Chúng ta nhớ Thánh Phêrô khi Chúa Giêsu bị bắt, vì chưa có lòng mến nên ông chưa dám liều mình tuyên xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Ông đã vội vàng chối Thầy chỉ với những người hết sức bình thường. Ngược lại, sau đó Chúa Giêsu hỏi ông ba lần có mến Người không thì ông đã trả lời: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy" (Ga 21, 17). Lúc này ông đã trả lời với xác tín mạnh mẽ. Chính lúc ấy Chúa Giêsu đã trao phó sứ mạng đặc biệt cho ông là chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Một sứ mạng phải nói cam go, thử thách và đòi hỏi nhiều sự liều lĩnh. Vì lòng mến nên ông đã hoàn thành sứ mạng Chúa Giêsu trao phó một cách tốt đẹp.

Chúa Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Mỗi người chúng ta hãy nhìn lại xem lòng mến của ta vào Chúa như thế nào? Chúng ta có dám liều mình tuân giữ Lời Chúa giữa thế giới này không? Giữa một thế giới mà người ta xem việc lừa dối, gian xảo là chuyện hết sức bình thường chúng ta có dám liều mình để nói và sống sự thật không? Giữa một thế giới mà người ta ham mê quyền lực đến nỗi sẵn sàng chà đạp lẫn nhau chúng ta có dám liều mình sống khiêm tốn, nhường nhịn và yêu thương nhau không? Giữa một thế giới có nhiều người đặt Thiên Chúa thành giá trị thứ yếu trong cuộc đời của mình, chúng ta có dám liều mình để đặt Thiên Chúa làm giá trị hàng đầu không?

Xin Chúa Giêsu thương gia tăng lòng mến cho ta vào Chúa. Nhờ đó, chúng ta dám liều mình tuân giữ Lời Chúa hằng ngày trong cuộc sống.

Gioan Lê Tiến Thiện

 

 

 

THẦN HỌC KINH THÁNH

 

Cầu Nguyện Trong Kinh Thánh

Con người khi cầu nguyện thường có khuynh hướng cầu nguyện để xin một điều gì đó. Lý do có thể là vì một phần lớn các kinh cầu chú trọng nhiều đến việc xin Chúa thương cứu giúp. Ngoài việc cầu nguyện để thỉnh cầu, còn có nhiều hình thức cầu nguyện khác, chẳng hạn như chuyển cầu (cầu nguyện giúp một ai đó), tạ ơn, và ngợi khen, tuy nhiên thỉnh cầu vẫn là cách cầu nguyện phổ biến hơn cả. Chúng ta có thể thấy được điều tương tự ngay trong Kinh Thánh.

Chỉ cần đọc lướt qua sách Thánh Vịnh, chúng ta cũng có thể thấy đa số các Thánh Vịnh là những lời kinh cầu xin, và trong một số lời kinh đó lại dưới hình thức kêu ca hay than vãn. Những lời kinh này thường bắt nguồn từ những hoàn cảnh khó khăn của cá nhân hay tập thể. Tuy nhiên, những lời kinh cầu xin đó không chỉ được thấy trong các Thánh Vịnh. Chúng ta còn tìm thấy chúng nơi những sách tiên tri và kể truyện trong Cựu Ước cũng như nơi các Tin Mừng và các Thánh Thư trong Tân Ước. Những tình huống khó khăn khiến các tín hữu cầu nguyện kêu cứu bắt nguồn từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đôi lúc người ta nghĩ là Thiên Chúa hay thay đổi và bất công. Lúc khác, người ta lại nghĩ Chúa chẳng thương xót người đang chịu khổ đau. Và có lúc, họ lại nghĩ Chúa đã bỏ rơi hay chối từ họ. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, thì lời cầu xin có liên quan đến cá nhân hay cộng đoàn khi họ đối mặt với sự hữu hạn kiếp con người.  Con người đã dùng cạn nguồn lực của riêng mình để giải quyết những vấn đề của mình người. Vào lúc tuyệt vọng, họ cầu cứu Chúa. Dù sao đi nữa, phía sau nỗi lo lắng tận cùng này là niềm tin tưởng kiên vững khiến các lời kinh cầu xin giúp đỡ thấm đẫm lòng cậy trông. Họ cũng tỏ ra kiên trì khi cầu nguyện nữa.

Sau đây là ba ví dụ của hình thức cầu nguyện xin giúp đỡ. Ví dụ thứ nhất liên quan đến việc ông Mô-sê cầu bầu cho dân (Ds 14, 13-19), Ví dụ thứ hai về An-na xin Chúa chữa khỏi bệnh hiếm muộn (1Sam 1, 9-20). Ví dụ thứ ba về việc Chúa Giêsu đi vào vườn Ghết-sê-ma-ni nơi Người đối chất với Thiên Chúa về vận mệnh tương lai của mình (Mc 14, 32-42).

Mô-sê cầu khẩn cho Dân Người (Ds 14, 13-19)

Đoạn Kinh Thánh này kể về khung cảnh mà dân Ít-ra-en định nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì đã đưa họ vào một tình huống vô vọng. Đất Ca-na-an có một sắc dân hùng mạnh đang chiếm ngụ và họ được trang bị vũ khí đầy đủ hơn hẳn dân Ít-ra-en. Mặc dầu đất này trù phú, nơi chảy sữa và mật ong, nhưng dân Ít-ra-en chẳng có cách nào để chiếm lấy (Ds 13, 25-33). Mô-sê và A-ha-ron phải gánh chịu cơn thịnh nộ của dân vì họ đã đưa dân tới hoàn cảnh này. Dân muốn chọn một thủ lãnh mới để đưa họ quay về lại Ai-cập. Họ nghĩ rằng nếu không làm như thế, mọi người sẽ phải chết.

Mô-sê và A-ha-ron cố gắng làm dịu dân nổi loạn và khuyến khích họ rằng nếu họ làm vui lòng Chúa, Chúa sẽ giúp họ chiến thắng và tiến vào vùng Đất Hứa. Những lời khuyên giải này chẳng đi tới đâu, trái lại họ còn muốn ném đá hai ông (Ds 14, 1-10). Đối với họ, sự đáp ứng của Thiên Chúa đã không như điều họ mong đợi.  Qua suốt toàn bộ cuộc hành trình qua sa mạc dân Israel đã phàn nàn về phương tiện sống nghèo nàn với đồ ăn nhàm chán, và họ cảm thấy rằng Thiên Chúa không chăm sóc họ đúng mực. Mối đe dọa nổi dậy cuối cùng khiến Chúa phải phản ứng. Ngài cho Mô-sê biết rằng một số người trong dân phải dừng ngay cái hành vi nổi loạn của họ. Thế nhưng, họ không vâng phục, vì vậy Thiên Chúa không muốn cho họ hưởng gia nghiệp nữa và Ngài muốn xóa bàn làm lại với Mô-sê là người thủ lãnh. Quyết định của Thiên Chúa có vẻ như là chung cuộc và không còn gì để kì kèo nữa (Ds 14, 11-12).

Mô-sê đã tỏ ra khôn khéo khi đối ứng với cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ông cầu xin Thiên Chúa đừng để ý đến những gì dân đã làm hoặc những gì họ xứng đáng phải chịu. Thay vào đó, Mô-sê mạnh dạn thưa với Chúa rằng dự định của Ngài không hay vì nó sẽ làm nhơ danh tiếng của Thiên Chúa. Các vua nước ngoài sẽ biết chuyện này và sẽ mỉa mai Thiên Chúa vì Ngài không thể đưa dân đến nơi đã hứa (Ds 14, 13-16). Mô-sê còn đi xa hơn nữa bằng cách trích dẫn lời tự mô tả của Thiên Chúa để bắt bí Ngài: "ĐỨC CHÚA chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác, nhưng không dung tha điều gì; phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông”. (Ds 14,18; Xh 34, 6-7)

Tuyệt vời thay, lời cầu nguyện dông dài này của Mô-sê (Ds 14: 1,3-17) lại có hiệu quả! Mô-sê nhận được sự giúp đỡ mà ông tìm kiếm từ Thiên Chúa, không phải vì dân xứng đáng được giúp đỡ nhưng chính vì bởi tình yêu Thiên Chúa rất đỗi kiên trung. Sự giúp đỡ mà Mô-sê muốn có được từ Thiên Chúa là Thiên Chúa sẽ tha thứ tội lỗi của con người. Ở đây, Mô-sê đã cố tình nhắc khéo Thiên Chúa về bản tính của Ngài.

Bà An-na nài xin Thiên Chúa hủy bỏ lời nguyền hiếm muộn (1 Sm 1, 9-20)

Hiếm muộn được coi là một lời nguyền trong thời Kinh Thánh. Tự thân người phụ nữ không phải là căn nguyên của lời nguyền. Nhưng lời nguyền này có thể xuất phát từ những hoàn cảnh thuộc các thế hệ trước đó. Người ta biết rằng bà ấy đã thừa hưởng tội tổ tông. Kinh Thánh thuật chuyện một số phụ nữ nổi tiếng chịu cảnh hiếm muộn nhưng nhờ Chúa can thiệp, nỗi đau hiếm muộn của họ đã biến thành ân sủng và họ có thai rồi sinh con, nhiều đứa con của họ đã  trở thành nổi tiếng. Điều này giúp chúng ta đặc biệt nhớ đến Xa-ra, Rê-bê-ca, Ra-khen (St 17, 16-19; 25: 21 - 26; 29, 31- 30:24), và mẹ của Sam-sôn (Tl 13, 2-5). Chúng ta hãy tìm hiểu về bà An-na, mẹ của tiên tri nổi tiếng Sa-mu-en, với vị trí của bà trong nhóm các phụ nữ với niềm tin trung kiên.

Bà An-na có một người chồng tên là En-ca-na, người thực lòng yêu bà nhưng không thể nắm bắt đầy đủ sự phức tạp của tình hình. Bà An-na, người vợ hiếm muộn, có hiềm khích nghiêm trọng với bà vợ khác của ông En-ca-na tên là Pơ-nin-na, người có nhiều con (1 Sam 1, 6). Ông En-ca-na nghĩ rằng ông có thể an ủi bà An-na với lòng quảng đại và tình yêu của mình (1 Sam 1: 8). Ông không nhận ra rằng bà An-na cảm thấy bị nguyền rủa cách bất công và bị nhục vì bà sẽ không bao giờ trở thành một người đàn bà thực thụ với khả năng sinh con đẻ cái.  Nhân chuyến thăm hàng năm đền thờ Shi-lô, bà An-na quyết định cầu nguyện trước nhan Chúa (1 Sam 1, 9-11).  Bà cay đắng dốc hết bầu tâm sự trong lời cầu nguyện dâng lên Chúa. Bà không chỉ cầu xin Chúa thương cứu mình thoát cảnh hiếm muộn bằng cách cho bà sinh một đứa con trai, bà lập thệ hứa sẽ hiến dâng và trả lại đứa con này cho Chúa như một người giữ lời khấn Na-dia mãi mãi (người được thánh hiến phục vụ Chúa, không uống rượu, để tóc dài, không để ô uế vì gần xác chết) (Ds 6, 5).

Đến đây trọng tâm câu chuyện chuyển từ bà An-na đến ông Ê-li, vị tư tế phụ trách đền thờ tại Si-lô.  Ông ta kém năng lực về mục vụ bao nhiêu thì bà An-na lại người tín trung bấy nhiêu. Ông quan sát thấy cô cầu nguyện thật sốt sắng. Tuy nhiên, ông Ê-li quá dở và không nhạy cảm đủ để phân biệt được sự khác nhau giữa cầu nguyện và say rượu (1 Sam 1, 12-14). Ông đến gặp bà An-na và buộc tội bà say rượu, có lẽ đây là điều mà ông sẽ không bao giờ làm nếu người ông đối diện là một người đàn ông. Tuy nhiên, tại thời điểm này, bà An-na không để cho vị tư tế vụng về này quấy rối buổi cầu nguyện của mình bằng những lời vu khống. Bà nói với ông Ê-li một cách rõ ràng rằng bà không say rượu nhưng đang cầu nguyện, khẩn thiết xin Chúa thương bà là người đàn bà nghèo hèn và cứu bà khỏi cảnh hiếm muộn. (1 Sm 1, 15-16). Chẳng biết ông Ê-li có hiểu bà An-na nói gì không, nhưng ông đã chúc bà về bình an và khẳng định rằng Thiên Chúa sẽ ban cho bà sự giúp đỡ mà bà cầu xin. Có lẽ không cần nhờ đến lời chúc của ông Ê-li, bà An-na vẫn có thế đi từ đền thờ Shi-lô về đến nhà và bà biết rằng lời cầu nguyện của mình sẽ được nhận lời. Bà hết buồn và không còn hiếm muộn nữa (1 Sm 1, 18-19).

Trong câu chuyện này, bà An-na là một ví dụ điển hình của một trong những người đau khổ, đã cầu nguyện xin Thiên Chúa dủ lòng thương cứu giúp. Đau khổ của bà ấy có chiều kích thần học, cá nhân, và cả xã hội nữa. Bà đã cầu nguyện cách dễ dàng như những lời van xin trong Thánh Vịnh 6, 1-2: "Lạy CHÚA, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ, đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình. Lạy CHÚA, xin đoái thương, này con đang kiệt sức, chữa lành cho, vì gân cốt rã rời."

 Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 32-42)

Cảnh tượng khi Chúa Giêsu, cùng các môn đệ, đi vào vườn Ghết-sê-ma-ni để cầu nguyện cho vận mệnh của mình là một trong những khoảnh khắc ấn tượng nhất trong toàn bộ Phúc Âm Máccô. Đến lúc này, Chúa Giêsu biết rõ rằng hành trình sứ vụ Ngài đã chọn rốt cuộc sẽ đưa Ngài đến cái chết. Thánh sử Mác-cô không do dự cho thấy rằng Chúa Giêsu rất lo âu vì tình huống nguy hiểm và nghiêm trọng này. Chúa Giêsu được mô tả có tâm trạng "đau buồn" và "bồn chồn lo lắng." Những từ tâm lý cơ bản này thường được sử dụng để diễn đạt một tâm trạng bấn loạn, rối bời với những cảm xúc chồng chéo. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được." (Mc 14, 33-34). Ngài chỉ cho các môn đệ cách giữ được sự tỉnh thức trong khi Ngài đi vào vườn cầu nguyện một mình. Chúa Giêsu cần sự giúp đỡ, và Ngài biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được Ngài thôi.

Tiếp đến là một lời cầu nguyện đầy kịch tính được thể hiện dưới hình thức một cuộc điều đình. Chúa Giêsu tin chắc rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và có thể làm bất cứ điều gì. Thế nên Thiên Chúa có thể "cất chén này" đi để Ngài khỏi phải uống. Chúa Giêsu không muốn tiếp tục thực hiện cuộc hành trình với điểm dừng là cái chết của Ngài, mặc dù Ngài sẽ nhượng bộ trong sự vâng phục nếu cần thiết (Mc 14, 35-36). Ngài sử dụng ngôn từ thân mật "Abba" để thưa cùng Thiên Chúa, điều này cho thấy mối quan hệ cha con của Ngài với Chúa Cha. Chúa Giêsu tín thác vào quyền năng Thiên Chúa sẽ thay đổi con đường thương khó của Ngài mà giờ đây Ngài đang cận kề cái chết. Dường như Chúa Giêsu nhắc nhở Thiên Chúa rằng Thiên Chúa thực sự có quyền năng đó.  Thế nhưng Chúa Giêsu không nhận được câu trả lời Ngài đã mong. Ngài không dừng lại ở đó. Ngài nhắc lại lời cầu xin một lần nữa và lời yêu cầu của Ngài lại bị từ chối. Ngài lặp lại lần thứ ba nhưng cũng không thành công. Kế hoạch của Thiên Chúa được tiếp tục và Chúa Giêsu sẽ là người thực hiện kế hoạch đó. Đây không phải là điều Chúa Giêsu muốn, nhưng là điều Ngài đã đồng ý.

Trong lúc đó, các môn đệ không tỉnh thức. Họ không biết đến những điều đã xảy ra từ một nơi không xa chỗ họ ngủ (Mc 14, 37-41). Chúa Giêsu không khiển trách họ. Thật vậy đã có một chuyển đổi mạnh mẽ và lạ lùng nơi tâm hồn Ngài. Tuy Ngài không nhận được câu trả lời Ngài đã mong chờ từ Thiên Chúa, nhưng Ngài lại nhận được sự giúp đỡ Ngài cần. Cái tâm trạng bấn loạn trước kia không còn nữa. Giờ đây Ngài cảm thấy bình tĩnh, biết rằng giờ định mệnh đã đến và Ngài sẵn sàng đón nhận nó. Kể từ thời điểm này cho đến lúc kết cuộc Ngài sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ đau khổ như Tiên Tri Isaia mô tả (Is 52, 13- 53,12). Ngài sẽ là con chiên vô tội bị đem đi làm thịt. Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu sự giúp đỡ Ngài cần để đối mặt với số phận khủng khiếp đang chờ đợi Ngài. (Mc 14, 42).

Phần kết luận

Những lời cầu nguyện xin giúp đỡ mà chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh cho chúng ta một cái nhìn bao quát về thân phận con người trong tất cả sự yếu đuối của mình. Những mẫu chuyện ngắn gọn ở trên cho chúng ta thấy rằng Kinh Thánh không miêu tả những nhân vật trong các câu chuyện đó là những kẻ thất vọng, cho dù họ đang lâm cơn cùng quẫn hoạn nạn. Họ không sợ phải đối đầu với Thiên Chúa và biết cách nói lên các nhu cầu của họ. Họ có một đức tin thúc giục họ chấp nhận rủi ro và tỏ ra dạn dĩ trong cách tiếp cận với Thiên Chúa. Chẳng có gì cấm cản họ, và chẳng có câu hỏi hay cảm xúc nào là điều cấm kỵ với họ. Họ không bao giờ có thể dự đoán được kết quả của lời cầu nguyện xin giúp đỡ.

Tuy nhiên, họ vững tin rằng bằng cách nào đó Thiên Chúa sẽ giúp đỡ họ, cho dù sự giúp đỡ đó không phải là hình thức giúp đỡ mà họ cầu mong chờ. Thường thì Thiên Chúa giúp đỡ bằng cách ban ơn sức mạnh để người xin ơn đủ mạnh mẽ đáp ứng các thách thức mà họ đang gặp phải. Đôi lúc chúng ta thấy rằng kết quả của sự trợ giúp từ Thiên Chúa là sự biến đổi tâm hồn nơi người xin ơn, qua đó nỗi đau của những cảnh đời bi thương được chuyển thành lời ca ngợi lòng nhân lành của Thiên Chúa. Điều này được thể hiện rõ nét nơi các thánh vịnh thở than. Những lời cầu nguyện xin ơn cho thấy rằng không phải tất cả những vấn đề của chúng ta về Thiên Chúa sẽ được đáp ứng. Thế nhưng, sẽ không có vấn đề nào mà chúng ta không dám cầu xin.

Tác giả: Lm. Eugene Hensell, OSB

Chuyển ngư:õ Luke Quang

Nguồn: Gpquinhon.org

 

 

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

 

BÀI 5.  LÒNG THƯƠNG XÓT, SỰ THÁNH THIỆN, SỰ CÔNG CHÍNH VÀ TRUNG THÀNH CỦA THIÊN CHÚA

Lòng thương xót của Thiên Chúa được trải dài trong lịch sử cứu độ, từ công trình sáng tạo đến các cuộc mạc khải của Ngài cho Mô-sê, và các tiên tri cũng đã khám phá lòng thương xót của Chúa, đặc biệt là tiên tri Hô-sê. Nơi tiên tri Hô-sê, lòng thương xót của Thiên Chúa liên hệ chặt chẽ với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Kasper còn nhấn mạnh thêm rằng, lòng thương xót gắn liền với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Qua đó, sự thánh thiện của Chúa nói lên sự khác biệt và sự vượt trổi của Thiên Chúa so với những gì thuộc về trần thế, và thuộc về sự dữ. Sự thánh thiện này, tiên tri I-sai-a đã nhắc đến với ba lần cao rao: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6,3). Trước những lời tung hô đó, con người cần phải cẩn trọng, không được xúc phạm đến Thiên Chúa, không được coi thường Ngài và lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, con người cũng không được phép biến Thiên Chúa thánh thiện và tràn đầy lòng thương xót, thành một người ngốc nghếch không biết gì. Và con người cũng không được phép lấy Thiên Chúa ra làm trò cười cho mình, hay chế diễu Thiên Chúa. Con người là ai? Trí thông minh con người lớn cỡ nào? Sức con người mạnh đến mấy? Một cơn gió thổi qua cũng đủ làm cho những con người thông minh nhất, kiêu hãnh nhất và mạnh mẽ nhất có thể gục ngã. Thiên Chúa thương xót con người. Đó là một điều rất tuyệt vời, mà con người cần chiêm ngắm và cảm tạ. Trong chính lòng thương xót của Chúa, Chúa chỉ cho chúng ta thấy bản chất thánh thiện của Ngài.

Vì sự thánh thiện này, Thiên Chúa luôn chống lại sự dữ. Thánh Kinh nhắc đến sự giận dữ của Thiên Chúa. Tiên tri Nakhum đã nói rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa ghen tương và báo oán, Đức Chúa là Đấng báo oán: Người nổi cơn lôi đình, Đức Chúa báo oán những kẻ thù địch, những kẻ thù của Người, Người tỏ lòng oán hận” (Nk 1, 2).

Chắc chắn có nhiều người không thể chấp nhận hình ảnh của Thiên Chúa giận dữ như vậy. Điều đó cũng đúng thôi. Tuy nhiên, sự phẫn nộ này của Thiên Chúa không phải là sự tức giận mang tính cách tình cảm (emotionel), mà là thái độ mạnh mẽ của Thiên Chúa chống lại tội lỗi và những bất công. Cho nên, tức giận ở đây có thể nói là một cách thức diễn đạt đầy năng động và mạnh mẽ về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Vì thế, mà sứ điệp của ngày Chúa phán xét không được phép bỏ qua trong các chú giải.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa luôn tương hợp với sự công chính của Ngài. Trong Cựu Ước, suy nghĩ về luật lệ và sự công chính luôn là những suy nghĩ nền tảng và quan trọng. Vì sự thánh thiện của Thiên Chúa, nên Ngài không thể làm gì hơn, là trừng phạt sự dữ và ân thưởng sự tốt lành. Nhưng người đạo đức của Cựu Ước luôn hy vọng vào sự mạc khải về sự công chính mang tính cách toàn cầu của Thiên Chúa (x.Tv 5 – 9; 67,5; 96,13; 98,9). Một niềm hy vọng cánh chung mong chờ ngày Đấng Mê-si-a công chính sẽ đến: “Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà” (Is 11,3-4).

Sự công chính và công lý ở trong một thế giới bất công, đã là một hành động của lòng thương xót đối với những người thấp cổ bé miệng. Như vậy, sứ điệp của lòng thương xót không phải là một ân ban rẻ tiền. Thiên Chúa cũng chờ đợi nơi con người chúng ta hành động đúng đắn theo luật lệ và sự công chính: “Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (Am 5,24). “Ngựa có phi được trên đá lởm chởm không? Người ta đem trâu bò đi cày ngoài biển sao? Thế mà các ngươi đã biến lẽ phải thành thuốc độc, đổi công lý nên ngải đắng!” (Am 6,12). Như thế, lòng thương xót không đối nghịch với sự công chính và công lý. Trong lòng thương xót, Thiên Chúa dừng cơn giận dữ của Ngài lại, và ban tặng cho con người những cơ hội mới để sám hối ăn năn trở về. Lòng thương xót của Thiên Chúa ban tặng cho người tội lỗi thời gian ân huệ, và mong muốn sự quay về của họ. Cuối cùng, lòng thương xót là ân sủng giúp con người ý thức ăn năn sám hối trở về với Đấng yêu thương.

“Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi,

nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.

 

Lúc lửa giận bừng bừng,

Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi,

nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót,

Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.

 

Ta cũng sẽ làm như thời Nô-ê: lúc đó, Ta đã thề rằng

hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,

cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu.

 

Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay,

tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi,

giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay,

Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54, 7-10).

Với lời này, tiên tri I-sai-a muốn diễn tả rằng, lòng thương xót chính là sự công chính rất năng động và đầy sức sáng tạo của Thiên Chúa. Lòng thương xót vượt trên những lô-gíc sắt đá của cuộc đời là mang tội thì bị phạt. Nhưng lòng thương xót không bao giờ đối nghịch với sự công chính và công lý. Hơn nữa, lòng thương xót phục vụ cho sự công chính và công lý. Thiên Chúa xót thương không phải là một quan toà nghiêm khắc xét xử mọi người theo lề luật đã được đặt sẵn. Thiên Chúa cũng không phải là một quan chức thực thi theo những quy định đã được đề ra. Ngài thực hiện luật lệ với quyền năng của Ngài. Sự tự do đầy quyền năng của Thiên Chúa cũng không phải là sự tự do tuỳ tiện, và cũng không mang tính cách theo hứng, mà là một hành động của sự trung thành của Thiên Chúa. Thật vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn gắn liền với sự trung thành của Ngài, như tiên tri Hô-sê đã diễn tả. Thiên Chúa luôn luôn và hoàn toàn đáng tin cách tuyệt đối trong sự tự do tuyệt đối của Ngài. Con người có thể tin tưởng vào Thiên Chúa, trong mọi hoàn cảnh con người có thể cậy dựa vào Ngài. Niềm tin tuyệt đối luôn được hướng về Thiên Chúa. Niềm tin không đơn giản có ý nghĩa là công nhận điều gì là thật. Niềm tin có ý nghĩa là trong sự chân nhận sự thật, con người tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, đặt trọn niềm tin của mình vào Ngài, hoàn toàn bám chặt vào Chúa, và đứng vững trong Chúa. Nói khác đi, niềm tin là tín thác hoàn toàn vào sự trung thành và lòng thương xót của Thiên Chúa.“Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7,9). “Cứ tin tưởng vào Người, các ngươi sẽ tồn tại” (2Sb 20,20).[1]

------------------------

[1] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 59-62.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

 

BƯỚC CHÂN CHẬP CHỮNG

 

“Loan báo Tin mừng cho muôn dân”, một cụm từ không mới, một hoạt động không lạ, nhưng lại gây cho tôi nhiều trăn trở, cách riêng sau lần Đại Hội của UBLBTM toàn quốc vừa qua. Những lời khẳng định, những con số thống kê của các thuyết trình viên, những chia sẻ của các tác viên Tin Mừng là nguyên nhân của những ray rứt đó:

 

"LBTM không phải là một trong những hoạt động của Giáo Hội, không phải là hoạt động quan trọng nhất trong số các hoạt động mà là hoạt động duy nhất của GH." (Trích bài phát biểu của ĐC Nguyễn Năng, chủ tịch UB.GLĐT, HĐGMVN)

 

"Trong 55 năm qua, với biết bao tổ chức, công sức, tiền bạc  cho việc truyền giáo,số người vào đạo có tăng lên nhiều lần nhưng xét trên tỉ lệ dân số, người Công giáo VN vẫn không tăng một phân nào, vẫn là 6,93%." (năm 1960: giáo dân là 2.000.000/ 30.000.000 người. Tỷ lệ 6,93%. Năm 2014: giáo dân 6.606.495/ 95.247.775 người. Tỷ lệ 6,93%)

 

“Ngày nay phần lớn những người vào đạo là từ việc lập gia đình với người có đạo.” (Trích bài phát biểu của ĐC Anphongsô Nguyễn Hữu Long, chủ tịch UB.LBTM, HĐGMVN)

 

Từ đó, Đại hội LBTM đã gây cho tôi không những một ý thức Truyền giáo mà còn là một thúc đẩy phải ra đi. Nhưng đi đâu? Làm gì? Bắt đầu từ đâu đây?

        

 "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì nhát."

 

Nhận xét trên của một báo cáo viên, như một lời nói đùa lại quá đúng cho tôi. Đang lúc tìm tòi một phương thế để khởi sự cho công việc lớn lao đó, tôi nghe được một chia sẻ của Đức Cha giảng phòng trong dịp tĩnh tâm năm của các linh mục như sau:

 

“Có một họ đạo kia, mỗi tuần Cha Sở và Quới chức dành một ngày đi thăm người bên lương và rồi kết quả là mỗi năm có vài trăm người nhập đạo.”

 

Thấy được quá, tôi thử bắt chước và kêu gọi các tu sĩ trong họ đạo cùng làm. Mỗi tuần tôi cũng dành một ngày đến với anh em lương dân… Và dường như là Chúa ủng hộ, nên bước đầu mọi việc tiến triển tốt đẹp, cũng có vài kết quả, làm tôi nhớ lại việc các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa, sau khi vâng lời Chúa ra đi đến các làng Chúa sẽ đến, họ trở về đầy hân hoan thuật lại kết quả: thấy ma quỷ sa xuống như ánh chớp.

 

Sau khi đi thăm về thì nghe nói có những anh chị bên lương khoe với bà con là được ông cha nhà thờ ghé thăm, có người xúc động thốt lên rằng :"con chờ cha lâu nay rồi mà không thấy cha ghé thăm, hôm nay cha ghé nhà con mừng quá..." có người lại không kềm được nước mắt... có người muốn gia nhập đạo nữa…

 

Nhưng cũng có những khó khăn: có ông quới chức đi theo hướng dẫn thì vợ ở nhà lo lắng, sợ chính quyền làm khó nên xin rút chân, có người bị hiểu lầm là đi chiêu dụ đạo như một vài tôn giáo khác đã làm, có người lại cương quyết từ chối: “làm gì thì làm chứ không đi thăm người lương...”

Thấy những bất lợi đó, mình cũng hơi buồn, coi như Chúa thử thách nhưng khi tiếp tục đến với anh em lương dân, Chúa lại ban niềm vui và an ủi khác, có lẽ Chúa muốn mình đừng nản lòng...

Nhìn lại những tháng ngày vừa qua, dù đã đi thăm được khá nhiều nhưng số anh em lương dân chung quanh mình vẫn còn quá nhiều, không biết bao giờ thăm được hết… khi nào họ mới về với Chúa… đúng là: con người mình nhiều giới hạn và lời Chúa dạy khi xưa thật quá đúng:

 

“Chúng con hãy xin chủ ruộng sai người đến gặt lúa về…”        

 

Xin chia sẻ vài cảm nghĩ và công việc và xin mọi người giúp lời cầu nguyện.

 

Lm. Mt Nguyễn Văn Hiền

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

THÁNG HOA: SUY NIỆM VỀ MẸ MARIA

 

Từ thời rất xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được Giáo Hội và mọi con cái yên mến và sùng kính cách đặc biệt. Lòng yêu mến và sùng kính đó được biểu lộ qua muôn vàn hình thức và dưới nhiều tước hiệu trong Giáo Hội. Các tín hữu mọi thời đã khẩn cầu và ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Tại Công đồng Êphêsô (431) Giáo Hội đã tuyên xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa”, và từ đó các tín hữu càng gia tăng thêm lòng sùng kính Đức mẹ cách lạ lùng.

 

Giáo Hội đã đặt ra nhiều kinh để ca tụng, ngợi khen và cầu xin Đức Mẹ. Biết bao thi sĩ, nhạc sĩ đã dâng lên Mẹ muôn lời thơ, vạn ý nhạc. Nhưng nói về Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bút nào tả xiết, không lời nào diễn tả cho xứng. Đã có nhiều đền thánh được Giáo Hội đặc biệt dâng kính Đức Mẹ; Giáo Hội cũng đã đặt nhiều ngày lễ biệt kính các đặc ân và biến cố của Mẹ để tỏ lòng tạ ơn và suy tôn Mẹ. Và đặc biệt, Giáo Hội đã dành trọn tháng Năm này để biệt kính Mẹ, và tháng này như là thời khắc ưu việt để mọi con cái kết hợp với Mẹ cách riêng từng giây phút trong tình yêu tuyệt vời với Con Mẹ là Chúa Giêsu – Người Con mà Mẹ đã ban tặng cho nhân thế.

 

Kính chào Đức Maria đầy ơn phúc !

 

Mẹ là con người tuyệt diệu của trần thế và trời cao. Mẹ đẹp nhất trong muôn vàn thọ tạo, sáng giá nhất trong mọi loài chúng sinh. Ai nói hết được những kì công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ! Để làm Mẹ Chúa Cứu thế, Mẹ đã được Thiên Chúa ban cho những hồng ân tương xứng với một phận sự lớn lao như thế. Lúc truyền tin, thiên sứ Gabriel đã chào Mẹ “đầy ân sủng!” Lời chào đó như một sự xác nhận vị thế và uy danh của Mẹ. Đừng kể tên Chúa Giêsu, thì cả trên trời dưới đất chẳng có tên nào trọng, đáng kính và linh ứng cho bằng tên của Mẹ. Vì Mẹ là Trinh Nữ Vương của Thiên đàng và trần thế, bởi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của loài người.

Mẹ là thánh điện vinh quang của Thiên Chúa, là cung khuyết linh thánh Vua Trời. Mẹ đã thay toàn thể nhân loại đón nhận quà tặng tuyệt vời nhất của Thiên Chúa trao ban qua tiếng “xin vâng!” Lời “xin vâng” của Mẹ có sức mạnh làm thay đổi tất cả. Và nhân loại sẽ không là gì nếu Mẹ đã không thưa “xin vâng” để Ngôi Hai nhập thể làm người. Mẹ trở thành “Mẹ Thiên Chúa” nhờ tiếng “xin vâng”. Qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã phó thác trọn vẹn bản thân cho Chúa bằng ý chí mãnh liệt nhưng với bản ngã thần linh, để xóa bỏ thân phận ngục tù thế gian cho loài người. Loài người đang run lên vì hạnh phúc được gọi Maria là mẹ của mình.

 

Mẹ xuất hiện trên thế gian như bình minh huy hoàng đem ánh sáng thánh đức tiên báo ngày Mặt Trời công chính mọc lên. Ngày mà Mẹ cất tiếng “xin vâng” đáng được gọi là ngày cứu chuộc, ngày ân sủng! Mẹ là Mặt Trăng phản chiếu ánh sáng Mặt Trời để soi sáng đêm đen trần thế. Và với ánh sáng huy hoàng thánh đức của Mẹ, Mẹ cũng sáng soi những đêm tối trong linh hồn nhân loại. Chúa Giêsu hiển hách trước mọi nam nhân thì Mẹ cũng huy hoàng lộng lẫy trước mọi người nữ.

 

Mẹ là gương các nhân đức

 

Tuy Thiên Chúa đã để các cực hình dồn dập xâm chiếm và đè nén lên tâm hồn Mẹ, nhưng nhờ đức tin mạnh mẽ, đức cậy vững vàng và đức mến bỏng cháy, Mẹ đã bình tĩnh trước những đau khổ mà Mẹ biết sắp xảy đến với Mẹ. Ý Chúa là nơi trú ngụ bình an của Mẹ, vì thế, chúng ta kinh ngạc trước sự tín thác vào Chúa nơi Mẹ. Nhờ đức tin, Mẹ đã chế ngự được đau khổ; nhờ đức cậy, Mẹ đã thắng được nghi nan; nhờ đức mến, Mẹ đã đi trọn con đường thập giá với Chúa Giêsu. Khi ông già Simêon tiên báo về cái chết khổ nhục của Chúa Giêsu: “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2, 34), thì Mẹ sầu khổ biết chừng nào. Nhưng Mẹ vẫn hằng trông cậy và hoàn toàn tín thác nơi Chúa.

 

Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, Mẹ đã cưu mang và chia sẻ hoàn toàn với Chúa Giêsu bằng sự hiệp thông trọn vẹn. Mẹ đã qui hướng tất cả mọi tư tưởng, tâm tình và ý chí của một tạo vật ngất ngây yêu mến về Đấng Duy Nhất ấy. Đức tin đã đưa Mẹ đến với thái độ khiêm nhường, phó thác thâm sâu vào “Đấng Hằng Hữu Vô Biên”, và Mẹ đã hiến cả thân mình bằng cách chuyển sang Chúa Giêsu tất cả. Nhờ đức tin, Mẹ đã “sở hữu” được Chúa Giêsu để ban lại Chúa Giêsu cho nhân loại. Đức tin, đức cậy và đức mến nơi Mẹ chính là đời cầu nguyện liên lỉ, bởi không lúc nào mà Mẹ không hướng về Chúa: Mẹ đã cầu nguyện sốt sắng trong hang lừa Bêlem, trong Đền thờ, trong nhà Nazareth và đặc biệt lúc dưới chân Thập giá.

 

Mẹ bầu chữa cho kẻ có tội

 

Thiên Chúa đã đặt Đức Mẹ làm mẹ các giáo hữu, đồng thời đã ban quyền thế và lòng từ ái cho Mẹ. Mẹ rất có quyền thế trước mặt Chúa vì Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa” và hằng thực thi ý Chúa. Mẹ hằng bầu cử cho mọi người, chẳng trừ ai, dù là người tội lỗi. Mẹ hằng sẵn lòng xin cho ta mọi ơn phần hồn, phần xác miễn là ta biết chạy đến xin Mẹ bầu cử, như lời Mẹ nói cùng thánh nữ Birgitta rằng: “Chẳng ai ở thế gian, dù vô phúc thế nào mà Mẹ chẳng thương yêu nâng đỡ.” Mẹ cũng nói cùng bà thánh Gertruđê: “Mẹ nâng đỡ người ta trong lúc sống, Mẹ cũng nâng đỡ họ trong giờ Chúa xét xử.”

 

Giáo Hội đã ví “Trái tim Mẹ như thánh điện chứa đựng cả Ba Ngôi Thiên Chúa, như thánh đường nguy nga thanh sạch, không chút bợn nhơ; là vườn rào kín, trong đó có đủ mọi thứ hoa xinh tươi không bao giờ tàn úa.” Trái tim Mẹ trọn hảo và đầy lòng từ ái, luôn bốc cháy ngọn lửa yêu thương. Để chứa đựng Chúa vô biên, tâm hồn Mẹ phải rộng lớn biết chừng nào. Nhờ lòng từ ái và lời bầu cử của Mẹ mà nhân loại tội lỗi sớm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Thế gian này thật có phúc khi Mẹ được Thiên Chúa ban quyền bầu cử cho loài người trước mặt Chúa. Mẹ đã cưu mang những đứa con của trần thế sinh vào Thiên Quốc nhờ sự cưu mang Con Thiên Chúa sinh cho trần thế!

 

Mẹ là mẫu gương truyền giáo

 

Đến với cung lòng Đức Maria, chúng ta gặp lại cuộc hành hương của Ngôi Lời đến với nhân loại. Và nơi cung lòng Mẹ, chúng ta gặp được cuộc hành hương của niềm tin chúng ta. Chúng ta hãy cùng lên đường với Mẹ trên những nẻo đường đức tin, vì Mẹ là ngôi sao dẫn đường trên hành trình Tin Mừng hóa của Giáo Hội. Trong tâm hồn Mẹ, hết mọi lời của Tin Mừng vang vọng cách lạ thường. Cùng với Mẹ, chúng ta hãy đào sâu ý nghĩa của ơn gọi làm Kitô hữu. Nhờ thái độ chiêm ngắm mà kinh Mân Côi gợi lên, chúng ta hãy cùng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ lời Chúa và suy nghĩ trong lòng (x.Lc 2,19), để đi sâu vào các mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Noi gương Mẹ và cùng với Mẹ, chúng ta mới có thể làm nổi bật chiều kích chiêm niệm và truyền giáo, là đến với Chúa và mang Chúa đến cho mọi người chung quanh chúng ta.

 

Lạy Mẹ Maria Trinh Nữ Vương! Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt hơn mọi người trên thế gian, để thực hiện ý Chúa. Chúng con cảm nghiệm tình thương vô biên của Mẹ đã dành cho chúng con. Xin Mẹ gìn giữ Hội Thánh và thế giới luôn bình an. Và xin Mẹ dạy chúng con biết biến mọi biến cố trong mọi giây phút cuộc đời thành những nghĩa cử yêu thương, để cùng Mẹ, chúng con biết đem Chúa đến với cuộc đời hôm nay. Amen.

 

Fx. Hồng Ân

1363    06-05-2016 23:57:06