Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Nguyệt san tháng 6/2016: Đối Thoại Giáo Hội: Truyền Thông Lòng Thương Xót

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.05.2016

Kính gửi: Quý Cha

           Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót trong các bí tích trong Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót. Tháng nầy, tôi đề cập vắn tắt đến Lòng thương xót được thực thi giữa người với người trong cuộc sống hằng ngày (số 13-18).

Bởi vì con người là những thụ tạo hư hõng do tội tổ tông, nên thường làm sai và thường gây tổn thương cho nhau. Nhưng, mỗi người chúng ta hy vọng rằng người khác không làm điều sai cho chúng ta, và người khác quên đi điều dữ mà chúng ta đã làm. Là Kitô hữu, chúng ta cần phải thực hành việc lành, việc thiện. Chúng ta phải sẵn sàng tha thứ ngay khi người khác xúc phạm chúng ta, ngay cả khi anh ta không yêu cầu sự tha thứ. Điều này đặc biệt quan trọng ở trong gia đình và ở nơi chúng ta làm việc. Thông thường, những căng thẳng có thể xảy ra là do thiếu sự khiêm tốn, hoặc do thiếu lòng khoan dung. Chúng ta phải cố gắng là những người đầu tiên biết tha thứ, tha thứ như Chúa Cha tha thứ cho chúng ta qua Con của Ngài. Chúa Cha luôn luôn tha thứ, luôn luôn thương xót; lòng thương xót của Ngài không giới hạn. Vì vậy, chúng ta cũng không được áp đặt giới hạn lòng thương xót của chúng ta.

Tiêu chuẩn để sống lòng thương xót: “Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót”. Chúng ta hãy biết lắng nghe và suy nghĩ lời nói nầy của Chúa Giêsu để sống cho đúng ý của Ngài. Mức độ lòng thương xót được so sánh phải sống như Chúa Chúa. Thương xót như Chúa Cha trong phạm vi liên đới người với người được Tông sắc chỉ dạy như sau.

Tất cả mọi chúng ta là những khách lữ hành đang trên đường hành hương trở về với Chúa và được kêu gọi sống lòng thương xót mà trong đó: - Trước hết, đừng phán xét cũng đừng lên án, bởi vì con người có cái nhìn thiên lệch và bên ngoài, nên có thể sai lầm. Việc phán xét và lên án là dành cho TC, nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa không làm như thế. Kế đến, Chúa yêu cầu của sự tha thứ, phải biết tha thứ và sẵn sàng cho đi. Cho nên phải có tâm hồn quảng đại. - Quan tâm đến anh chị em bị tước đoạt phẩm giá; - Đánh thức lương tâm cá nhân thường say ngủ trước bi kịch của nghèo đói, khổ đau trong thế giới ngày nay; - Thực hiện lòng thương xót thể lý cũng như tinh thần: thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối. Một câu nói rất tình người trong tông sắc không thể nào quên được: “Trong Năm Thánh này, Giáo hội được mời gọi nhiều hơn để chữa trị và xoa dịu các thương tích bằng dầu an ủi, dùng lòng thương xót để băng bó, dùng tình liên đới và thái độ ân cần quan tâm để chữa lành những vết thương ấy” (số 15). 

Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được tầm quan trọng Lòng thương xót được thực thi giữa người với người trong cuộc sống hằng ngày. Đừng ngại tha thứ cho nhau, đừng xét đoán nhau, biết thương người nghèo khó, nhờ đó con người và xã hội chúng ta sống hạnh phúc và phát triển.

 

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 06/2016

ĐỐI THOẠI XÃ HỘI: TRUYỀN THÔNG LÒNG THƯƠNG XÓT

Cần không ngừng chiêm ngắm Dung mạo Lòng Thương Xót mầu nhiệm của Thiên Chúa, vì đó là nguồn suối của hoan lạc, thanh bình, và bình an. Ơn cứu độ của chúng ta tùy thuộc điều đó. Thương Xót tỏ lộ chính mầu nhiệm của Ba Ngôi Ngàn Trùng Chí Thánh, là hành động tối thượng và tối hậu của Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Từ đó, Thương Xót trở thành luật cơ bản trong con tim của kẻ chân thành nhìn sâu vào ánh mắt của anh chị em mình trên hành trình cuộc đời. Đó chính là ý nghĩa và môi sinh trong lành nhất cho mọi cuộc gặp gỡ và đối thoại trong gia đình và xã hội. Như thế, Thương Xót vừa là chiếc cầu nối Thiên Chúa và con người, mở ra niềm hy vọng được yêu thương mãi mãi dẫu chúng ta bất xứng vì phạm tội, vừa là thông điệp tin mừng cuối cùng muốn loan báo. Đối với Kitô hữu, mọi cuộc đối thoại ở mọi cấp độ thuộc mọi lãnh vực (trong gia đình, giữa các gia đình, tại môi trường nghề nghiệp, với người nghèo, với xã hội, với văn hóa, liên tôn, trong kinh tế-chính trị…) đều là đối thoại cứu độ.

1. Đối thoại cứu độ

Từ sau Công Đồng Vatican II, quan hệ giữa Hội Thánh và thế giới hôm nay vẫn luôn được đặt nặng và theo đuổi trong tinh thần đối thoại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhìn nhận “tính cách quan trọng của đối thoại như một thể thức đặc trưng của đời sống Hội Thánh tại châu Á”[1]. Ước muốn đối thoại không phải là một chiến lược để sống chung hòa bình giữa các dân tộc, nhưng là phần thiết yếu trong sứ mạng của Hội Thánh[2], vì nhằm thông chuyển Tình yêu thể hiện qua Lòng Thương Xót muốn cứu độ. Đó là đối thoại của Thiên Chúa Cha ban ơn cứu độ với nhân loại, qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần, thể hiện nơi Hội Thánh, Thân Thể huyền nhiệm và là Bí tích phổ quát của Chúa Kitô.

Hội Thánh chỉ có thể chu toàn sứ mạng theo đường lối hành động của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Người đã thành con người, chia sẻ cuộc sống của con người và nói bằng ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Đối thoại mà Hội Thánh đề xuất cũng theo cùng đường lối Mầu nhiệm Nhập thể.

Chúng ta không quên:

– Sáng kiến đối thoại là của Thiên Chúa (1Ga 4,10). Đến lượt chúng ta phải có sáng kiến nới rộng cuộc đối thoại đó đến mọi người. Hội Thánh không chờ đợi mà phải đi bước trước.

– Đối thoại bắt nguồn từ Tình Thương, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (Ga 3,16). Chỉ có tình yêu, lòng nhiệt thành vô vị lợi thúc đẩy chúng ta, mà không có động lực nào khác.

– Đối thoại vô cầu (không đo bằng công trạng, hay sự đáp ứng xứng hợp), vô giới hạn, không tính toán, không so hơn thiệt, không định mức cho đối thoại.

– Đối thoại không cưỡng chế ai đón nhận, nhưng mời gọi yêu thương, khơi trách nhiệm, để con người hoàn toàn tự do hay từ chối. Đối thoại còn tự thích nghi với nhu cầu và tâm trạng mỗi người.

– Đối thoại dành cho mọi người, không phân biệt (Cl 3,11).

– Đối thoại cứu độ là một hành trình tiệm tiến, kiên nhẫn, khởi đầu khiêm tốn, vì “thời gian lớn hơn không gian”[3]: cần thời gian cho sự chín muồi về tâm lý, về lịch sử, biết chờ đợi “thời gian viên mãn”, nhưng không triển hạn đến ngày mai cái có thể làm hôm nay. Nhạy cảm với thời cơ thích hợp và ý thức giá trị thời gian. Mỗi ngày chúng ta một đổi mới, bắt đầu lại, không chờ đợi bên đối tác.

2. Đức tính cần cho đối thoại

Đối thoại cứu độ có thể nói là một nghệ thuật truyền thông thiêng liêng, nên chủ thể đối thoại cần có những đức tính sau đây trong khi tiến hành đối thoại: minh bạch, dịu dàng, tin tưởng, khôn ngoan.

– Trước tiên là sự minh bạch. Đối thoại với nhau là để hiểu nhau. Do đó nội dung trao đổi phải rõ ràng, dễ hiểu, không mơ hồ, không úp mở, dẫu phải hết sức tế nhị. Đối thoại là cách truyền đạt tư tưởng mời gọi vận dụng những khả năng cao nhất của con người.

– Kế đến là sự dịu dàng. Như Chúa Giêsu dạy “hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Lời lẽ đối thoại không được tỏ ra kiêu căng, châm chích, gây phật lòng người khác. Sức thuyết phục do uy quyền tự bên trong của chân lý được trình bày, từ tình yêu – thương xót mà nó tỏa ra, từ gương sống động của người đối thoại.

– Đức tính thứ ba là tin tưởng. Tin vào sức mạnh của lời nói của mình, tin vào sự cởi mở và khả năng đón nhận của đối tác. Lòng tin tưởng khơi gợi mở lòng, tâm sự, tạo tình thân. Tin tưởng kết nối các tâm trí, cùng tâm tình, gắn bó với điều tốt đẹp, loại trừ ích kỷ.

– Sau cùng là sự khôn ngoan. Biết lưu tâm đến tâm trạng và tinh thần của người đối thoại (Mt 7,6). Thích ứng tùy theo đối tượng: có khi là đứa trẻ con, có lúc với kẻ không có văn hóa, khi thì với người trí thức … lưu ý đến những điểm nhạy cảm.

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Trong gia đình, trong khu xóm, làng xã, trường học, trong giáo xứ anh chị, đã và đang có những loại gặp gỡ và đối thoại nào? Có những “nơi” nào cần thúc đẩy, cổ võ đối thoại hơn nữa?

2. Anh chị có cảm thấy niềm vui của tình yêu cứu độ thúc đẩy mình đi ra gặp gỡ đối thoại với mọi người, với cả “kẻ thù ghét” mình không?

3. Người lãnh đạo cộng đoàn của anh chị, và chính anh chị thấy cần chú ý rèn luyện và tập sống đức tính nào nhất trong những đức tính cần cho đối thoại?

––––––––––––

[1] GIOAN PHAOLÔ II, Ecclesia in Asia, 3.

[2] Ibid., 29.

[3] ĐGH PHANXICÔ, Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin mừng), 222-223. “Thời gian lớn hơn không gian” là một trong bốn nguyên tắc của ĐGH Phanxicô đưa ra trong Tông huấn. Nguyên tắc này giúp ta làm việc chậm mà chắc chắn, không để bị chi phối quá mức bởi kết quả tức thời. Nó giúp ta kiên trì chịu đựng khó khăn và nghịch cảnh, những đổi thay bắt buộc trong kế hoạch của ta. Nó mời gọi ta đối diện và chấp nhận sức căng thẳng giữa cái viên mãn và hoàn cảnh giới hạn hiện tại, và ưu tiên cho yếu tố thời gian (số 223).

 Văn Phòng HĐGMVN

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến, mỗi người có bổn phận truyền thông lòng thương xót Chúa cho anh chị em mình. Mỗi người dùng khả năng riêng mình để truyền thông: kẻ thì bằng đời sống thánh hiến, người thì bằng đối thoại với xã hội. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Con hãy về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết dùng hết khả năng mình mà loan báo lòng thương xót Chúa cho mọi người.

2.       Chúa phán: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết dùng gương sáng, đời sống đạo đức và lời nói mình mà loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.

3.       “Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu biết dùng khả năng mình mà nói cho mọi người biết Tin Mừng lòng thương xót Chúa.

4.       Chúa phán: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết dùng mọi phương tiện truyền thông và đối thoại xã hội, mà rao giảng Lòng Thương Xót Chúa.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa ban cho loài người có trí khôn và lời nói đối thoại. Xin cho chúng con biết tận dụng những khả năng Chúa ban mà truyền thông lòng thương xót Chúa cho mọi người được ơn cứu rỗi. Chúng con cầu xin…Amen.

Lm. Phêrô Nguyễân Văn Hiền

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

MỘT ÍT SUY NGHĨ VỀ TRUYỀN THÔNG NGÀY NAY

Ngày nay với các phương tiện truyền thông rất đa dạng, cơ sở hạ tầng của truyền thông ngày một phát triển, những kỹ thuật truyền thông ngày càng điêu luyện thì con người ở mọi lúc, mọi nơi đều có thể gặp gỡ, cập nhật, trao đổi những thông tin “nóng hổi” về một sự kiện ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Từ những “cái đài” (Radio), những tờ báo viết, những trang báo mạng, những chương trình Tivi được ra rả phát 24/24 đến những trang mạng xã hội, những dòng facebook, những tin nhắn Twitter… Trình độ dân trí của con người, kỹ thuật và phương tiện đều được nâng lên kéo theo “người người làm truyền thông, nhà nhà làm truyền thông”.

Người ta vui mừng chia sẻ cho nhau những những dòng cảm xúc, những thông tin vừa mới được diễn ra, người ta làm giàu cho tri thức của mình bằng những kiến thức bổ ích, người ta tận hưởng những giờ giải trí chủ động theo khả năng giờ giấc của bản thân mình. Qua truyền thông người ta gặp gỡ, người ta mở cõi lòng, người ta tìm được nhau sau nhiều năm không có cách nào liên hệ được…còn nhiều còn nhiều những lợi ích mà truyền thông hiện đại mang lại cho cuộc sống con người.

Đi liền với những ích lợi đó, truyền thông cũng gây không ít hệ lụy nguy hại. Đơn cử một vài trường hợp.

Gần đây trên đài truyền hình quốc gia có phát một đoạn phim được thực hiện ở một thôn thuộc địa bàn tỉnh Thanh Hóa về cách người nông dân làm rau sạch. Đoạn phim mô tả người nông dân vì muốn chứng minh rau mình sạch nên lấy chổi quét trên những luống rau cho rau tơi tả như bị sâu ăn để chứng tỏ rau không có thuốc trừ sâu, “rau sạch”. Người đọc lời bình cho đoạn phim ấy còn bình luận rất rõ không chỉ một vài gia đình mà hầu như cả thôn đều trồng rau sạch theo phương pháp ấy. Khi đoạn phim được phát ra, kết quả là cả thôn trồng rau bị tẩy chay, người trồng rau phải nhổ bỏ, kinh tế lâm vào ngõ cụt…người ta khiếu nại lên đài, đài kiểm tra và xác nhận đó là một đoạn phim được dàn dựng nhằm chủ ý câu rating (đánh giá sự quan tâm theo dõi của khán giả) cho một chương trình mới lên sóng. Vì một mục tiêu cỏn con mà người ta đạo diễn, cắt ghép cho đúng với chủ đích muốn nhắm tới. Vậy những mục tiêu lớn lao hơn người ta còn đạo diễn, cắt ghép, thêm bớt,…biết dường nào, thời gian qua đã chứng minh điều đó. Cẩn thận những điều mình xem thấy, coi chừng không phải như vậy.

Mạng xã hội, đặc biệt là facebook đang là nhịp cầu giao lưu, gặp gỡ, học hỏi, thông tin, chia sẻ của rất nhiều người trên thế giới, theo thống kê năm 2013 thì tại Việt Nam đã đó hơn 19, 6 triệu người dùng facebook chiếm khoảng 21, 42% dân số cả nước. Song song với những tiện ích do facebook mang lại thì người ta lại dùng facebook để câu like, câu share, câu view…bằng những thủ đoạn thấp hèn. Người ta dùng những con người nổi tiếng, những hình ảnh ghê rợn, tục tĩu, những dòng trạng thái (status) gợi ý óc tò mò…để đạt được những mục đích ấy. Hằng ngày, không biết bao nhiêu lần Hoài Linh bị chết đi sống lại, lúc thì bị tai nạn khi đóng phim ở địa phương này lúc bị tai nạn đi làm việc ở địa phương khác. Những hình ảnh tai nạn vô cùng thương tâm được cắt ghép làm cho ghê rợn cũng được người ta đăng lên để phục vụ cho những mục đích này…

Ngay cả trên báo giấy người ta cũng cắt dán, thêm bớt và đưa những thông tin sai sự thật. Trên thế giới, vì một chủ ý nào đó mà người ta cắt dán cho nguyên thủ quốc gia mình được đứng gần, bắt tay, chào đón nồng hậu ở một đất nước nào đó mà sự thật là không được như vậy… và người ta còn làm những hành động tương tự để phục vụ cho mục đích, đường lối của mình, nhóm mình, phe mình…

Vậy phải chẳng các phương tiện truyền thông là xấu, cần phải tẩy chay và loại trừ? Chắc chắn không phải là như vậy. Như đã nói, phương tiện truyền thông hiện đại vô cùng hữu ích cho con người, nó chỉ là phương tiện còn con người sử dụng phương tiện như thế nào mới cần đặt vấn đề.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói về tầm quan trọng của truyền thông trong Sứ Điệp Truyền Thông cho ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội lần thứ 50 như sau: “Truyền thông có sức mạnh bắc những nhịp cầu, thúc đẩy gặp gỡ và hoà nhập, làm cho xã hội được phong phú. Đẹp biết bao khi thấy mọi người thận trọng lựa lời và cử chỉ, để vượt qua những hiểu lầm, để chữa lành những ký ức đau thương và xây dựng hoà bình và hoà hợp. Lời nói có thể bắc những nhịp cầu nối giữa các cá nhân, các gia đình, các nhóm xã hội và các dân tộc với nhau”.

 

Ngài cũng dạy cách sử dụng các phương tiện truyền thông “Chỉ những lời nói ra bằng tình yêu cùng với sự hiền lành và lòng thương xót mới có thể chạm vào trái tim tội lỗi của chúng ta. Những lời nói và cử chỉ khắc nghiệt hay răn dạy đạo đức có nguy cơ đẩy ra xa hơn những người mà chúng ta muốn dẫn đưa họ đến chỗ hoán cải và tự do, làm tăng thêm ý muốn từ khước và phòng vệ của họ”.

Đức Thánh Cha cũng mời gọi hãy dùng các phương tiện truyền thông để rao giảng Tin mừng: “Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn”. “Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng. Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia”.

Hãy là những con người của chân lý và tình thương để khi dùng những phương tiện truyền thông hiện đại ta biết đặt con tim mình vào đấy để mang lại niềm vui cho anh chị em, cho cộng đồng. Các phương tiện truyền thông sẽ là tuyệt vời nếu ta dùng nó để loan truyền chân lý, loan truyền tình thương và lòng nhân ái mà Thiên Chúa là Chân, Thiện, Mỹ tuyệt hảo. Như lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa các con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất”.

Lm Philipphê Phạm Huy Phong

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM (tt)

C. Đức vâng lời

I/. Phương diện lịch sử

          1/. Đức vâng lời nơi các ẩn sĩ

          2/. Đức vâng lời nơi các đan sĩ cộng đoàn

3/. Đức vâng lời theo thánh Đa-minh và thánh Inhaxiô

II/. Đức vâng lời theo Kinh Thánh.

III/. Đức vâng lời theo phương diện thần học

Trong phương diện thần học về đức vâng lời, chúng ta nói đến mối tương quan của người tu sĩ với Thiên Chúa Cha, noi gương Chúa Giêsu Kitô, thánh hóa bản thân để sống chứng nhân và thi hành sứ vụ. Trong chiều hướng đó, chúng ta xem lại những lời dạy của Giáo hội qua các văn kiện có liên hệ. Trước hết phải nói đến CĐ Vat. II trong  sắc lệnh Đức Ái trọn hảo, số 14, đến tông huấn Chứng tá Tin Mừng, số 23-28 của Đức GH Phaolô VI; tông huấn Hồng ân Cứu độ, số 13 của Đức GH Phaolô II. Từ đó, chúng ta thấy được bốn chiều kích khác nhau về đức vâng lời mà Giáo hội nhấn mạnh như sau:

1.       Chiều kích đối thần

Trong chiều kích đối thần, xét như mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Trong phần II đã trình bày, Kinh Thánh cho chúng ta thấy sự vâng lời như là thái độ căn bản của con người trước Thiên Chúa, ngược lại bất tuân lệnh Chúa truyền là nguyên cớ của tội lỗi và hủy hoại bản thân (tổ tông loài người). Vì thế sự vâng lời là thái độ căn bản của tín hữu: tin có nghĩa là vâng nghe Chúa và đáp lại tiếng gọi của Ngài.

Trong đời tu, nhiều lần và nhiều lúc chúng ta nói đến đức vâng lời trong khung cảnh của mối liên hệ giữa người tu sĩ với bề trên, mà quên đi điều cốt yếu căn bản, đó là mối liên hệ với Thiên Chúa. Điều căn bản cốt yếu: người tu sĩ không phải khấn hứa vâng lời cá nhân bề trên tự bản chất, mà vâng lời Thiên Chúa qua bề trên là đại diện. Xem lại các bản luật cổ truyền của các thánh Basiliô và Biển Đức đều đề cao chiều kích đối thần nây: vai trò của bề trên là giúp cho các tu sĩ biết tìm ra ý Chúa; sự tuân giữ luật dòng nhằm giúp người tu sĩ tuân giữ luật Chúa (luật dòng bao giờ cũng dựa trên căn bản là Phúc Âm của Chúa, là luật Chúa). Vì thế, chúng ta có thể nói được rằng đức vâng lời nằm ở cốt cách của đức tin và ngược lại. 

2.       Chiều kích Kitô

Như chúng ta đã tìm hiểu đức vâng lời trong phần Kinh Thánh, xuyên suốt cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu Kitô khi ở trần gian được tóm lại trong một câu “Ngài đã vâng lời cho đến chết” (Pl 2,8). Nhờ sự vâng phục của Ngài mà nhân loại được cứu rỗi, cũng như trước đây nhân loại đã mất ơn nghĩa với Chúa tại sự bất tuân của Ađam và Eva (Rm 5,19); kế đó là “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”, luôn trong tâm tình suy phục Thiên Chúa được biểu lộ qua lời Fiat khi sứ thần Gabriel truyền tin: “Này đây là nữ tì của Thiên Chúa, xin cho lời Ngài xảy đến nơi tôi” (Lc1,38). Đức Mẹ Maria được ca ngợi là có phúc không phải chỉ vì cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa cho bằng vì Mẹ đã lắng nghe và tuân hành lời của Chúa (x.Lc 11,27-28).

3.       Chiều kích Giáo hội

Mặc dù mỗi người chúng ta cần phải trở về nội tâm để tìm hiểu ý Chúa đối với riêng mình (chúng ta biết rằng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta một kế hoạch riêng biệt, không ai giống ai); tuy nhiên, trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa nhiều lần bày tỏ ý định của Ngài qua các sứ ngôn, qua các cộng đồng. Do đó, nhờ sự vâng lời các người thay mặt Chúa trong Hội thánh mà ta có thể tìm thấy ý của Chúa.

Sự vâng lời trong Giáo hội lại cần thiết hơn nữa đối với những ai muốn phục vụ dân Chúa và công việc tông đồ khác trong Giáo hội: các công việc tông đồ cần được phối trí và ủy thác bởi những người lãnh đạo (các tông đồ) của Giáo hội. Không ai tự tiện xem sáng kiến riêng tư của mình như là hoạt động tông đồ nếu thiếu sự thông hiệp với Giáo hội qua sự tuân phục những người lãnh đạo trong Giáo hội.

4.       Chiều kích Tu đức

Trong phần lịch sử của đức vâng lời nơi các cộng đoàn tu hành, chúng ta thấy các bản luật cổ nơi các động đoàn nầy đặt nặng chiều kích tu đức của sự vâng lời. Các sách tu đức khuyên rằng: trên đường trọn lành, người tu sĩ cần được người thầy lão luyện hướng dẫn để biết tìm ra ý Chúa. Trải qua dòng lịch sử, các tác giả đã bàn rộng thêm về sự phát triển các nhân đức khác do việc thực hành sự vâng lời. Chẳng hạn, thánh Biển Đức nối kết đức vâng lời với đức khiêm nhường; thánh Phanxicô thì xem đức vâng lời như hình thức thực hiện đức khó nghèo qua việc từ bỏ ý riêng...

Từ bốn chiều kích trên của đức vâng lời trong đời sống thánh hiến, chúng ta có thể đưa ra những giá trị chính yếu như sau:

          a/. Sự vâng lời có giá trị tận hiến: theo thánh Tôma, khi khấn đức vâng lời, người tu sĩ dâng cho Thiên Chúa điều cao quý nhất của con người, đó là ý chí và tự do, quyền định đoạt về đời sống (II-II, q.186,7). Cách đặc biệt, sự vâng lời không những họa lại gương khiêm nhường vâng phục của Chúa Kitô, nhưng còn thông phần vào sự hiến dâng của Ngài nữa: “Cha không nhận lễ toàn thiêu của chiên bò, thì này đây con xin đến để làm theo ý Cha” (Dt 10,9). Cũng như Đức Kitô đã hoàn tất việc cứu rỗi nhân loại qua sự đau khổ và vâng phục (x.Dt 5,8), thì người tu sĩ qua việc hiến tế đời mình bằng hy lễ vâng phục cũng đóng góp vào sự cứu rỗi thế gian như vậy (x. Tống huấn Hồng ân Cứu độ, số 13).

          b/. Sự vâng lời mang giá trị giải thoát con người khỏi sự nô lệ của chính bản ngã. Thật vậy, khuynh hướng tự nhiên của con người là đặt mình làm trung tâm vũ trụ. Đối lại với khuynh hướng ấy, sự vâng lời nói lên thái độ phục thiện, khi nhìn nhận rằng chân lý không nằm trong tay của mình; con người cần thoát ra bản ngã của mình để đi tìm chân lý khách thể, con người cần chấp nhận tìm hiểu, học hỏi dưới sự hướng dẫn của con người khác. Hiểu như vậy, ta thấy được sự vâng lời giúp ta trở thành con người tự do hơn, theo nghĩa là thoát khỏi nô lệ của bản ngã chủ quan.

          c/. Sự vâng lời của người tu sĩ cần được đặt trong nhãn giới của đức tin, cậy và mến. Nghĩa là với những động lực siêu nhiên, chứ không phải chỉ theo thị hiếu tình cảm. Sự vâng lời cũng liên hệ tới hai lời khuyên khiết tịnh và khó nghèo, xét vì nó nằm trong kế hoạch tổng quát của việc từ bỏ mình, dâng hiến và yêu mến. Cụ thể hơn, như chúng ta đã tìm hiểu, nghĩa vụ tối thiểu của lời khuyên khó nghèo là tùy thuộc bề trên trong việc định đoạt xử dụng tài sản.

(Viết theo Cha Phan Tấn Thành, chú giải GL, q.2).

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ

 

TRANG LINH MỤC

LINH MỤC LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Linh Mục là người tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu thánh hóa con người và thế giới qua việc loan báo Lời Chúa và ban phát các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải.

Tự mình không ai có thể đặt để người khác trong sự tiếp cận với Thiên Chúa. Một phần chính ơn thánh của chức Linh Mục là nhiệm vụ tạo ra sự tiếp cận ấy. Điều này được thực hiện trong việc loan báo Lời Chúa, qua đó ánh sáng của Chúa đến gặp gỡ chúng ta và được thực hiện một cách sâu đậm trong các Bi Tích. Việc dìm mình vào trong Mầu Nhiệm vượt qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô xảy ra trong Bí Tích Rửa Tội, được củng cố trong Bí Tích Thêm Sức và trong Bí tích Hòa Giải, và được dưỡng nuôi bởi Bí Tích Thánh Thể, là Bí Tích xây dựng Giáo Hội như là Dân của Thiên Chúa, Thân Mình của Chúa Kitô, Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. Gioan Phaolo II, Tông Huấn Pastores gregis, s.32).

Như thế, chính Chúa Kitô thánh hóa, nghĩa là lôi kéo chúng ta vào trong phạm vi của Thiên Chúa. Nhưng trong lòng thương xót vô cùng, Ngài kêu gọi một số người ”ở với Ngài” (x. Mc 3,14) và qua Bí tích Truyền Chức, trở thành những người chia sẻ chức Linh Mục của chính Ngài, mặc cho sự nghèo nàn nhân loại, trở thành các thừa tác viên của sự thánh hóa ấy, phân phát các mầu nhiệm của Chúa, là các cây cầu của sự gặp gỡ với Chúa, làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với Thiên Chúa.

Người ta kể về một loài chim có tên là Bồ Nông. Những con chim mang bộ lông màu trắng này thường sống gần hồ nước mặn sâu trong đất liền. Mỗi lần kiếm ăn, chúng phải bay vài chục cây số để trở về biển khơi bắt cá. Có những ngày, vì giông bão, chim không kiếm được mồi, mà đàn con thì háu đói kêu la thảm thiết, chim mẹ không cầm lòng được, đã tự dùng mỏ mổ vào ngực mình cho chảy máu, nhỏ giọt cho con ăn, thay cho lương thực bổ dưỡng. Sau “bữa tiệc” ấy, người ta thấy nơi mỏ chim mẹ còn nhỏ dòng máu tươi, và những con chim con nằm im lìm, thỏa mãn. Thấy chim con được ăn no, chim mẹ tuy đau đớn về thể xác mà trong lòng vẫn vui. Vì thế, hình ảnh chim bồ nông trở thành biểu tượng cho lòng mẹ yêu thương con thắm thiết, sẵn sàng hiến mình cho con được sống.

Hình ảnh con chim Bồ Nông làm chúng ta liên tưởng đến tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Gioan kể lại, khi Chúa Giêsu đã chết trên thập giá, những người lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19,34). Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống mình vì tình yêu thương nhân loại. Máu và nước chảy ra là bằng chứng của một tình yêu bao la, tự hiến hy sinh cho đến cùng (x. Ga 13,1). Máu và nước cũng là tượng trưng cho bí tích Thanh tẩy và bí tích Thánh Thể. Các tín hữu được sinh ra và được nuôi dưỡng từ trái tim bị đâm thâu qua của Đức Giêsu. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là suối nguồn hạnh phúc cho con người. Biết bao người đến với Thánh Tâm Chúa đã tìm được sự ủi an và sức mạnh siêu nhiên để tiếp tục bước đi dầu cuộc đời còn nhiều cay đắng. “Anh em hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Thập giá là trường dạy khiêm nhường, là mẫu mực của tình bác ái.

Các Linh Mục được mời gọi sẵn sàng quảng đại phân phát cho các tín hữu các kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đặt để trong tay Linh Mục, và Linh Mục không phải là chủ nhân mà chỉ là các người quản lý. Đặc biệt trong thời đại của chúng ta ngày nay, một đàng xem ra có sự yếu kém của đức tin, mặt khác có nhu cầu kiếm tìm tu đức, mỗi một Linh Mục phải nhớ rằng loan báo Tin Mừng, phụng tự và các Bí Tích không bao giờ được tách rời nhau trong sứ mệnh của Linh Mục.

Như chim Bồ Nông mẹ hiến mình cho đàn chim con được sống, Đức Giêsu đã mở trái tim của Người để chúng ta được đón nhận sự sống siêu nhiên. Niềm vui của chim bồ nông mẹ là niềm vui của hy sinh tự hiến. Niềm vui của chim bồ nông con là niềm vui của nhận lãnh dồi dào. Chim mẹ đau mà vẫn vui vì biết rằng nỗi đau của mình đem lại cho chim con sự sống. Chim mẹ chẳng cần đắn đo suy tính xem sự hy sinh của mình có được chim con biết đến hay không. Đó là sự hy sinh không đòi điều kiện, không mong đáp đền. Sự hy sinh ấy nói với ta về huyền nhiệm của tình thương.

Hình ảnh con chim bồ nông cũng được dùng để diễn tả đời Linh Mục. Linh Mục là người được thánh hiến để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Qua sứ mạng của Linh Mục, nhân loại mọi nơi mọi thời được gặp gỡ Đức Giêsu, được đón nhận nguồn suối ơn lành từ Thánh Tâm Chúa. Sứ mạng của Linh Mục là dẫn đưa con người đến với Chúa và đem tình thương của Chúa đến cho con người. Chiếc áo dòng màu đen biểu tượng cho sự hy sinh khổ chế, mời gọi Linh Mục chết đi mỗi ngày để cho đàn chiên được sống, noi gương Đức Giêsu, mục tử nhân lành đã hiến mình vì đàn chiên.

Lm. Giacôbê Hoà Bình

 

 

TRANG TU SĨ

ĐỐI THOẠI: MÓN QUÀ TÌNH YÊU

Đã hơn 30 phút trôi qua mà chuyến xe tôi chờ đợi chẳng tới. Thời gian dài cho người chờ đợi, thật là đúng với tôi trong giây phút này. Bầu trời vẫn trong xanh, chỉ có ánh nắng ngày càng gay gắt hơn làm cho tôi mồ hôi nhễ nhãi. Một làn gió nhẹ làm mát lòng, xua đi trong tôi bao nhiêu nóng nực. Tôi cảm ơn Chúa quá sức…nụ cười nở vội... Ah, Chuyến xe tôi chờ đợi đã tới. Lên xe, tôi chọn cho mình  ghế cạnh cửa sổ vì đôi lúc tôi cũng bị say xe và để có thể xem cảnh ven đường.

Tôi đang thả hồn trong cảnh vật, một bàn tay chạm vào tôi, trước mặt tôi là dáng người phụ nữ có phần sang trọng, hỏi xem ghế cạnh tôi có ai ngồi không, tôi ra hiệu là không, trong tôi có một chút ngại ngùng vì chính bản thân tôi lên xe rất ngại nói chuyện bởi vì từ lâu mẹ tôi dặn: “lên xe con cẩn thận nhé, coi chừng người ta dụ mình”. Lời người mẹ thôn quê mộc mạc đã khắc vào tâm khảm tôi tự lúc nào. Ngồi cạnh tôi, cô bắt đầu gợi chuyện, ban đầu, tôi còn ngại ngùng dè dặt nhưng ánh mắt dịu hiền của cô làm cho tôi cảm giác thật gần.

Cuộc đối thoại trở nên cởi mở hơn khi cô biết tôi là nữ tu. Cô bắt đầu chia sẻ thêm, gia đình cô đạo phật, thời trẻ cô được người ta giới thiệu vượt biên, với khát vọng của tuổi trẻ cô muốn đổi đời và cô đã đi theo họ qua Thái Lan rồi sau đó định qua Mỹ nhưng không thành công. Cuối cùng tài sản dần dần cạn kiệt. Nơi đất khách quê người không có ai giúp đỡ, giữa lúc tuyệt vọng cùng khốn cô gặp một vị Linh mục, qua gặp gỡ, vị Linh Mục truyền tải cho cô niềm tin giữa con người với con người, niềm tin vào tình yêu thương nhân loại, niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa mà ngài đã yêu mến. Ngài còn giới thiệu một masơ đỡ đầu cho cô. Cũng nhờ đối thoại mà cô mới có cơ hội hiểu thêm về Đạo Công Giáo, cũng nhờ đối thoại mà cô nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa ban xuống trên cô khi cô được giúp đỡ. Từ đó cô có cảm tình với Đạo và theo Đạo. Nghe lời cô kể, tôi lại thấy ấm lòng khi được tiếp thêm niềm tin vào tình yêu của lòng thương xót Chúa.

Tôi cũng kể cho cô nghe về hành trình ơn gọi của tôi, Chúa đã chọn tôi mặc dầu tôi không xứng đáng, Chúa đã nâng đỡ tôi, giữ gìn tôi từng ngần ấy năm tôi sống. Có những điều rất giản dị bình thường mà ít ai nhận ra tình thương của Chúa quan phòng… Cô cám ơn tôi vì đã chia sẽ về tình thương của Chúa, cô chúc tôi bền đỗ trong nhà Chúa và yêu Chúa đến cùng. Nơi cô muốn đến đã tới, cô xuống xe, gởi lại cho tôi một nụ cười đầy nắng và gió, có cả mùi thơm của hương lúa mới ven đường. Tôi nhủ lòng tôi sẽ cầu nguyện cho cô trong giờ kinh nguyện chiều nay.

Gió thổi tạt vào mặt một cảm giác nhẹ nhàng lâng lâng. Nụ cười của cô làm tôi nhớ mãi. Tôi thầm cám ơn vị linh mục và masơ nào đó đã gieo vào cô hạt giống của lòng thương xót Chúa. Nếu ngày ấy, các vị không gặp gỡ và đối thoại với cô thì làm sao có cơ hội giúp đỡ và giúp cô hiểu về tình yêu của Chúa. Và hôm nay, nếu tôi ngần ngại khép kín thì chính tôi bỏ đi cơ hội đối thoại để hiểu nhau.

Chuyến xe ngày hôm nay đã dạy cho tôi bài học, đừng bao giờ im lặng khi có cơ hội nói về Chúa. Nhờ đối thoại mà tôi thông truyền lòng thương xót và đó cũng là sứ mạng của tôi và của tất cả mọi người. Ước chi đời sống của chúng ta luôn cảm nếm tình yêu của Thiên Chúa để rồi khi đối thoại chính là lúc chúng ta trao ban món quà tình yêu ấy.

MTG Cái Nhum

 

NHỚ LẠI TRƯỜNG XƯA

                      Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo.

                     Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...

 

Lời thơ“Thăng Long thành hoài cỗ”của Bà Huyện Thanh Quan được Cha Gioan Baotixita Lê Đình Bạch chia sẻ trong Thánh lễ họp mặt Cựu học sinh Trường Fatima tại Nguyện Đường của Hội Dòng ngày 02/01/2016 vừa qua, đã ghi đậm dấu ấn nhớ về trường xưa trong tâm lòng những mái đầu xanh của học sinh Fatima thời Trung học.

Đã hơn 40 năm rời xa, hôm nay trở về trường cũ, ngoài một vài ân sư cao niên đã khuất bóng thì thầy còn đó, trò còn đây. Tuy hôm nay trường đã chuyển đổi mục đích thành nơi đào tạo ơn gọi của Hội Dòng, thì ngôi trường thân yêu vẫn sừng sững đứng đó, như đợi chờ ngày họp mặt của những học trò thân thương xuất thân từ khung trời Fatima dấu ái nầy. Từ khi xa trường, bạn bè mỗi đứa một nơi, mỗi người một hoàn cảnh; nay được trở về họp mặt vui như lễ hội. Thầy trò, bạn bè gặp nhau, tay bắt mặt mừng; niềm vui, nỗi xúc động hòa quyện cao dâng, lệ ứa bờ mi, ai cũng mừng mừng tủi tủi.

Sau Thánh lễ tạ ơn, thầy trò cùng vui vẻ liên hoan tiệc mặn. Dì Lan chủ nhiệm lớp 8 năm xưa đồng bàn với 12 em hiện diện. Sau thời gian dài xa cách, đây là giây phút thân tình ngập tràn yêu thương của tình thầy trò. Bao nhiêu kỷ niệm đẹp của khung trời lớp 8 thân thương trong ký ức được khơi dậy. với những nụ cười làm rạng rỡ từng gương mặt dấu ái. Khi các bạn huyên thuyên nói cười, Dì Lan dịu dàng đưa mắt nhìn từng em và nói:

Bây giờ cuộc sống các em thế nào, Dì muốn mỗi bạn chia sẻ cách trung thực gia cảnh mình, để chúng ta hiểu nhau nhiều hơn.

Thế là từng bạn bộc bạch, cách chung nhiều em gia đạo an vui, con cái thành đạt, đời sống gia đình tương đối hạnh phúc.

 

-        Dì chia vui và chúc mừng các em nha

Một thoáng nhìn qua, Dì Lan đọc được nỗi lo âu trên gương mặt kém vui của Thu. Dì ân cần hỏi:

-        Còn Thu gia đạo em thế nào?

-        Thưa Dì, chồng em đang bị bại liệt, con em cũng bệnh, em phải gồng gánh việc nhà. Thấy cũng khổ... quá Dì ơi!

-        Dì thông cảm với Thu và sẽ cầu nguyện nhiều cho gia đình em.

Lặng thầm suy nghĩ một chút, Dì Lan hỏi:

-        Còn nhiều bạn của lớp 8 nữa sao hôm nay vắng mặt vậy?

Lớp Trưởng chậm rãi trả lời:

-        Thưa Dì, em có thông tin cho các bạn ấy, nhưng có bạn ở xa, có bạn muốn về thăm lại trường cũ nhưng gia cảnh khó khăn. Có bạn trong tình trạng rối đạo nên mặc cảm mà ngại đến họp mặt đó Dì.

-        Các em ơi! Trước mặt Chúa mỗi người chúng ta hoàn toàn bất xứng. Tất cả những gì các em đang sở hữu trong tay, là của Chúa ban cho do lòng thương xót của Ngài. Chúng ta đang sống trong năm Thánh lòng thương xót, Mỗi em hãy cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa dành cho mình, mà cám ơn Chúa và cố gắng sống đạo tốt hơn, nhất là biết đem lòng thương xót ấy mà chia sẻ cho tha nhân; tha nhân gần nhất là bạn bè mình đó.

Lớp Trưởng thay lời các bạn:

-        Dạ! Cám ơn Dì giúp chúng em hiểu rõ hơn về lòng thương xót.

-        Các em tìm cách liên lạc với các bạn vắng mặt, rồi chúng ta sẽ cố gắng đến thăm từng gia đình. Riêng hoàn cảnh của Thu cần sự hỗ trợ của bạn bè. Dì hy vọng gia cảnh Thu sẽ bớt khó khăn hơn.

Cuộc vui nào cũng có phút tàn, thầy trò chia tay đầy lưu luyến và mong ngày tái ngộ. Sau khi tiển chân học trò, Dì Lan bước vào Nhà Nguyện, quì lặng thầm trước Thánh Thể với tâm tình tạ ơn Chúa. Dì cảm nhận được niềm vui vì đã thông truyền lòng thương xót của Chúa đến với những học trò thân thương của mình. Hy vọng qua cuộc đối thoại chia sẻ buồn vui, từng em sẽ ý thức hơn và biết cảm tạ lòng Chúa thương xót nhất là biết sẻ chia lòng thương xót ấy cho mọi người.

MTG Cái Mơn

 

 

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

SAU KHÁC TRƯỚC

Ngày 29 tháng 6 sắp tới là ngày Giáo Hội mừng lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, là ngày Đức Giám Mục Giáo Phận sẽ phong chức Linh mục cho quý Thầy Phó tế; ngày vui mừng của linh mục đoàn và ngày đáng ghi nhớ của các Tân chức nầy.

Ngày thụ phong rồi cũng sẽ qua đi như vạn ngày, ồn ào náo nhiệt hay âm thầm lặng lẽ của ngày lễ tạ ơn rồi cũng sẽ qua đi theo thời gian. Cái chính yếu là sống đời linh mục những ngày tiếp theo.

Những năm trong chủng viện , thường chúng ta mang một tâm trạng chờ đợi và náo nức, nhiều và rất nhiều dự phóng cho tương lai linh mục. Mặt khác, những linh mục trẻ tuổi còn sức khỏe, đầy nhiệt huyết, hăng say sau bao năm tu luyện và miệt mài với đèn sách tại Đại Chủng Viện để rồi hôm nay chính thức trở thành những người thợ gặt thực thụ chứ không còn là người học việc ở ĐCV, đã qua giai đoạn khai tâm và chính thức bắt đầu bước vào một sứ vụ mới không còn là THẦY nữa mà đã là CHA.

Do đó, mà trách nhiệm khi làm linh mục cũng sẽ khác với khi mình còn là một Chủng Sinh. Vì sự khác biệt này mà thỉnh thoảng chúng ta sẽ gặp được những than phiền: “Ông cha nọ, ông cha kia khi còn làm thầy thì dễ thương ơi là dể thương, nhưng khi làm cha rồi thì sao mà khó ưa vô cùng! Thấy mà ghét…”.

Tôi còn nhớ ngày tôi được thụ phong linh mục, trước Thánh Lễ thụ phong mọi người còn gọi tôi là “thầy”, Nhưng sau thánh lễ thì được gọi là “cha”. Vì vậy mà sau khi tan lễ tôi đi xuống tam cấp nhà thờ Chánh Tòa và nghe tiếng chào: con chào cha! tôi không biết là họ chào mình vì tôi vẫn quen kêu tiếng “thầy”. Đi vài bước nữa tôi mới nhớ ra là họ chào tôi. Tôi quay lại chào đáp lễ muộn. Liền khi đó, trong nhóm có một người nói với tôi: “Con tưởng thầy làm cha bây giờ quên tụi con”. Nếu tôi không nhận ra lời chào và không đáp lại thì chắc chắn tôi đã bị mang tiếng: “SAU KHÁC TRƯỚC”.

Vì công việc mục vụ các cha phải chấp nhận hy sinh bị nói: “làm thầy dễ thương, làm cha thấy ghét”. Thật vậy, khi làm Thầy chưa có trách nhiệm nhiều trên giáo dân, khi làm cha phải lãnh lấy trách nhiệm họ đạo mà Đức Cha trao phó, giống như một người cha trong gia đình vậy. Có những lúc “thương con cho roi cho vọt” những lúc như thế lại bị nói “SAU KHÁC TRƯỚC”.

Cũng có những trường hợp “SAU KHÁC TRƯỚC” thật. Nhưng đó là những trường hợp đi tu mà thiếu ý hướng ngay lành, đi tu với mục đích ích kỷ cá nhân có thể đi vì tìm kiếm danh vọng hoặc đánh bóng bản thân và còn rất nhiều mục đích khác chỉ nhằm cho mình hoặc gia đình.

Bởi quan niệm con đường Linh Mục là một chức “cao quyền trọng”, được “thăng chức Linh Mục”, và sau đó là “vinh quy” đã làm cho nhiều người hiểu và hành động sai lệch, đồng thời đưa đến những tiếng đồn hư hư thực thực là có những người đã phải “nín thở qua cầu” để được phong chức hay cũng đã “buộc lòng” chấp nhận một số “dạy dỗ”, “điều kiện” làm mất sự thư thái độc lập trong việc thi hành nhiệm vụ.

Chúng ta cũng không lấy làm lạ khi có người còn lập ra cả một diễn đàn để nhận xét “cái ngày lên hàng khanh tướng” sao mà nó khác quá! Ngày mới vào nhà tu chỉ cọc cà cọc cạch trên chiếc xe đạp cà tàng nhưng nay sao mà có chiếc xe xịn quá! Ngày mới vào dòng mơ cũng chẳng có chiếc máy tính để bàn vậy mà giờ đây sau vài năm nhìn lại chẳng cần mơ cũng có chiếc laptop rủng rỉnh trong tay. Ngày mới vào dòng phải dùng chung một chiếc điện thoại thật khó chịu vậy mà ngày nay lại có một con dế be bé con con đầy đủ chức năng chẳng thua kém ai” không như “các vị truyền giáo qua Việt Nam chỉ di chuyển bằng ghe thuyền và xe ngựa”

Trong bài giảng lễ truyền chức LM tại Roma hồi năm 2006, ĐTC Bênêđicto XVI đã cảnh giác chúng ta về nguy cơ theo đuổi “công danh sự nghiệp, cám dỗ muốn leo lên cao, dựa vào Giáo Hội để kiếm cho mình một địa vị”.

Chắc chắn có những vị linh mục sau khi ra trường đã sống “SAU KHÁC TRƯỚC” nhưng đó chỉ là một số rất ít. Đôi khi cũng chỉ vì “một con sâu làm rầu nồi canh”. Và hơn nữa, con người linh mục thì yếu đuối, lại được mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói theo thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Thế nhưng, kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục (x. 2Cr 4,7). Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị sứt mẻ, vỡ bể cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.

Khó mà sống sao cho đẹp lòng người “Ở rộng người cười ở hẹp người chê”. Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì e rằng các linh mục sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, vừa phải khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và nan giải! Điều quan trọng là chúng ta phải sống như một ALTER CHRISTUS ở giữa đoàn chiên mà Đức Giám Mục giao phó. Và chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta hoàn thành được sứ mạng mà Chúa trao đó. 

Có lẽ cũng vì cảm nghiệm được điều đó, nên các cha mới của chúng ta đã  chọn khẩu hiệu cho đời linh mục của mình: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), “Điều đáng kể không phải là địa vị trong Giáo Hội, nhưng là biết ở trong tình yêu của Chúa và làm cho tình yêu của Chúa chiếu sáng rạng ngời.” (ĐTC Bênêđicto XVI, dịp đến viếng thăm Đại chủng viện giáo phận Roma lần thứ 2)

Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các tân linh mục được luôn trung thành đi theo Chúa, nhiệt thành phụng sự Giáo Hội và chân thành phục vụ mọi người trong tình yêu thương như chính Chúa đã yêu thương.

Lm. Gioan Nguyễn Tiến Thiện

 

 

TRANG THIẾU NHI

 THIẾU NHI SỐNG NGHĨA KHÍ

Chị sống ở xứ kiểng, làm ghề chở cây con đem giao cho người ta.  Mấy năm gần đây, cây con bán có giá nên thu nhập gia đình chị cũng tăng lên. Thu nhập đó đủ để chị cất ngôi nhà mấy trăm triệu. Nhiều người trong vùng này cũng cất được nhà mấy trăm triệu, có khi mấy tỷ nữa nhưng nhà tâm hồn thì không có giá bằng chị. Chị là kitô hữu sốt sắng, là thành viên ca đoàn, nhiệt tình đóng góp vào công việc chung họ đạo theo hoàn cảnh của mình.

Ngày cả họ đạo làm con đường vào nhà thờ, chị không phụ được vì bận chở cây. Nhưng bù lại, chị bỏ bao thơ gởi tôi mấy trăm ngàn cho bà con uống nước. Con đường làm đến tối thiếu mấy bao xi măng, tôi gọi điện mượn ximăng nhà chị vì biết chị đang xây nhà. Chưa đầy 15 phút, mấy bao ximăng được chở lên. Chị có thằng con trai học lớp 10. Mỗi chiều, nó thường lên đá cầu với tôi và các bạn. Thông thường, tôi là người mua cầu cho mấy em thiếu nhi đá. Mua được một tuần, tôi thấy khó chịu, bực bội lắm, không phải vì lý do tốn tiền nhưng vì các em không biết gìn giữ của chung, chưa đầy một tuần mà xài hết mười mấy trái cầu.

Một chiều nọ, hết cầu, nghỉ chơi, nhưng mấy đứa nhỏ vẫn giăng lưới. Tôi hỏi: “cầu đâu mà giăng lưới?”. Mấy em trả lời: “của thằng Long”. Tôi hỏi thằng Long: “Con mới mua cầu hả?”. Long trả lời: “Thấy hết cầu, con mua cho mấy bạn đá”. Nghe Long trả lời, lần đầu tiên, tôi chú ý thật nhiều tới mối tương quan giữa thằng Long và mẹ nó: thằng Long có nghĩa khí là con của chị hát ca đoàn sống có nghĩa khí. Nhìn Long đang mở trái cầu mời các bạn đá, tôi thấy được nhiều hình ảnh đẹp trong tương lai nơi em thiếu nhi này:

- Hình ảnh một linh mục có nghĩa khí: Giữa đêm mùa đông lạnh giá, ông biện gọi điện thoại báo tin có người hấp hối xin cha xức dầu, người cha chung này đã đội cái lạnh của mùa đông làm công việc người mục tử. Chưa đầy mười lăm phút, cha đã ngồi cạnh bệnh nhân hấp hối ban Bí Tích Xức Dầu Thánh cho họ. Rồi một ngày nọ, người ta thấy cha bị sốt cao nằm trên giường, sốt mấy ngày, phải ăn cháo, thứ bảy vẫn chưa khoẻ, vậy mà Chúa Nhật hai lễ sáng chiều, cha vẫn làm đủ cho giáo dân tham dự. Chai nước suối luôn để kế một bên để tiếp sức cho cha những lúc cha thấy người nóng lên. Chỉ có một thánh lễ, cha phải ngồi nghỉ mấy lần để lấy sức. Bệnh nằm một chỗ thì thôi, khoẻ thì cha đi thăm viếng, lo cho người nghèo. Thông thường, các cha sử dụng quỹ người nghèo để giúp người nghèo, nhưng cha không có quỹ người nghèo, cha lấy tiền riêng của mình làm quỹ người nghèo. Có khi tiền riêng không còn, cha mượn nợ làm quỹ người nghèo …

- Hình ảnh một thầy giáo có nghĩa khí: Trong lớp học, thầy dạy học trò hết bài, hết trách nhiệm chứ không chừa lại kiến thức quan trọng nào để dạy thêm. Thầy dạy cho trò hiểu bài, tiến bộ chứ không dạy cho hết giờ, hết tiết. Khi kiểm tra, trả bài, thầy dám chấm điểm công bằng với những học sinh mà cha mẹ thường bỏ bao thơ, mang quà cáp tới biếu thầy...

- Hình ảnh một bác sĩ có nghĩa khí: Bác sĩ nhắm tới mục đích chữa cho bệnh nhân hết bệnh chứ không chữa cho lâu, kéo dài thời gian để thu tiền cho nhiều. Bác sĩ không xem việc chữa bệnh là một cái nghề kinh doanh kiếm tiền trên nước mắt người nghèo, người bất hạnh mà là hành động nhân đạo cứu người, cứu đời. Người nghèo và người giàu cùng đến chữa bệnh, bác sĩ đối xử, chăm sóc người nghèo cũng lịch sự giống như người giàu, và đối xử tốt với người nghèo hơn cả người giàu…

Nhìn em thiếu nhi mở trái cầu cho các bạn đá, tôi còn thấy được nhiều hành động rất đẹp trên cỏi đời này. Trong gia đình, tôi nhìn thấy con cái được cha mẹ chăm sóc, dạy dỗ thành người, ông bà cha mẹ đến lúc tuổi già được con cái hiếu thảo phụng dưỡng… Trong xã hội, tôi nhìn thấy những người bị tai nạn xe không bị bỏ rơi mà được đưa đi bệnh viện kịp thời, những đứa trẻ sống lang thang bụi đời có bàn tay chăm sóc, các công nhân bị bốc lột trong xí nghiệp được bảo vệ, nhiều ngôi nhà tình thương mọc lên… Trong giáo hội, tôi nhìn thấy những người tội lỗi được vác trên vai mang về đoàn tụ với Chúa và cộng đoàn…

Nhiều hành động bất nghĩa, sống ích kỷ, thủ thân… tồn tại trong xã hội mới như những đứa con hư ấp ủ trong lòng người mẹ là xã hội hiện đại. Nhìn tương lai xã hội, chúng ta lo lắng, ưu tư, thở dài nào có ích gì. Cần thiết nhất là mỗi người chúng ta hãy đóng góp phần của mình để cải tạo xã hội. Những người lớn, những bậc cha mẹ ý thức sống nghĩa khí phát sinh hiệu quả vừa cải tạo xã hội, vừa sinh sản, giáo dục nên những đứa con nghĩa khí từ gương sáng của mình. Tiến hơn một bước, trong việc giáo dục đức tin, cha mẹ cố gắng chỉ cho con cái thấy Chúa Cha là một người Cha nghĩa khí: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình” (Ga 3,16), và Chúa Giêsu là một người Thầy, người bạn nghĩa khí : “không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong câu chuyện, Long đã nhìn thấy được cách sống nghĩa khí của mẹ nên em đã quảng đại mở trái cầu ra mời các bạn đá. Nếu các em thiếu nhi hôm nay thấy được tấm gương nghĩa khí của Chúa Cha, của Chúa Giêsu qua cách giáo dục đức tin của người lớn, các em sẽ nghĩa khí mở cả cuộc đời của mình ra mà trao cho mọi người. Cách sống nghĩa khí theo gương Thiên Chúa Ba Ngôi không chỉ có hiệu quả xây dựng xã hội, mà còn phát sinh những ích lợi lớn lao: xây dựng Giáo hội, xây dựng Nước Trời.

Lm. Phaolô Phạm Thanh Sơn

 

TRANG GIỚI TRẺ

KHÔNG PHẢI MUỐN LÀ ĐƯỢC!

Trong cuộc sống không ít lần tôi quá dễ dàng buông tay trước những khó khăn, thử thách. Có lần dù được người khác cỗ vũ nhưng cuối cùng tôi lại lựa chọn con đường từ bỏ tất cả. Không ai sống trên đời lại không có những khó khăn, thử thách trên con đường mình đã chọn và công việc nào cũng có khó khăn riêng của nó. Tôi không nên so sánh với người khác để rồi buông tay một cách quá dễ dàng.

Có lần tôi nhìn thấy bạn mình buôn bán, làm ăn khá giả nên tôi từ bỏ công việc văn phòng xắn tay vào nghiệp chợ búa. Nhưng kinh nghiệm không có, năng khiếu kinh doanh không được trời ban, cuối cùng, vốn liếng hết sạch. Nghĩ rằng, người khác làm được thì mình cũng làm được nhưng để làm được điều đó thì tôi cần học hỏi thêm nhiều điều lắm…

Không phải muốn là được

Người xưa thường nói: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Chỉ cần trong tay có một nghề nghiệp vững chắc thì chắc chắn sẽ có ngày chúng ta đứng vững bằng đôi chân của mình. Đừng ảo tưởng rằng chỉ cần người khác làm được thì mình cũng làm được. Mỗi người có những khả năng, năng lực khác nhau. Mỗi ngành nghề lại cần có những năng khiếu, đam mê, trời phú khác nhau. Không phải bạn của tôi kinh doanh thành công thì tôi cũng sẽ làm được như thế.

Tôi cần phải đánh giá năng lực của mình một cách trung thực, đừng tự đánh lừa bản thân. Nếu không, một ngày nào đó tôi sẽ gặt hái nhiều thất bại cay đắng. Bỏ cuộc sẽ là điều không sớm thì muộn mà thôi. Tôi cần trang bị cho mình một ngành nghề giúp tôi trụ vững trong cuộc sống này thay vì “đứng núi này trông núi nọ”.

Mình còn phải làm bao nhiêu nữa đây

Mỗi khi gặp khó khăn tâm lý tôi  thường mệt mỏi và rã rời, ít có thời gian nhìn nhận xem mình đã làm được những gì mà chỉ quan tâm mình còn phải giải quyết những gì tiếp theo. Sự choáng ngợp bởi khối công việc đồ sộ là lý do khiến tôi dễ từ bỏ công việc của mình.

Khi tôi chỉ biết nhìn về con đường xa phía trước sẽ rất khó để có thêm động lực đi tiếp con đường đó. Khi ấy tôi cần quay lại và ngoái nhìn xem mình đã làm được những gì để thấy công sức mình bỏ ra không hề nhỏ. Tôi bỏ cuộc lúc này coi như uổng công sức từ trước tới nay .

Khi đi một mình trên con đường hoang vắng, tôi sẽ ngoái nhìn phía sau hay nhìn thẳng về phía trước? Tùy thuộc vào cách tôi nhìn nhận khó khăn mà tôi có vượt qua được nó hay không?

Đừng từ bỏ chỉ vì đường đi còn quá dài

Nếu tôi ngại khó khăn, tôi sẽ chẳng bao giờ vượt qua được chúng. Và con đường tôi đi cũng chẳng bao giờ đi đến cái đích mà tôi mong muốn. Cho nên, nếu tôi đối diện trước những khó khăn, vất vả mà tôi gặp phải trên đường thì tôi nhìn lại xem mình đã làm được những gì. Từ bỏ lúc này tôi sẽ đánh mất điều gì, liệu tôi có hối tiếc không?

Đừng bao giờ từ bỏ chỉ vì con đường phía trước còn rất dài, bởi bất kỳ ai cũng phải đi một quãng đường dài như thế trước khi chạm đến cái đích cần đến. Quan trọng là tôi sống, làm việc như thế nào trên con đường đó chứ không phải ở cái đích của nó. Chỉ khi tôi cố gắng vượt qua tất cả khó khăn để đi hết con đường mà tôi lựa chọn tôi mới có một cuộc sống hạnh phúc thật sự.

Từ bỏ con đường tôi đã chọn là một việc quá dễ dàng, bởi bất kỳ lúc nào tôi cũng có thể bắt đầu một con đường mới. Nhưng bắt đầu một con đường không quan trọng bằng việc tôi có thể đi hết con đường đó không. Vì vậy, tôi không nên nhìn cuộc đời của người khác để so sánh với chính mình, tôi cần phải biết mình muốn gì, cần gì và có thể làm được gì để quyết tâm hơn trong cuộc sống này.

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

TRỞ NÊN BÉ NHỎ ĐỂ

ĐÓN NHẬN LÒNG THƯƠNG XÓT LỚN

“Như con thơ trong lòng mẹ hiền .

Bao yêu thương ấp ủ trìu mến.

Này hồn con an vui êm đềm

Trong vòng tay Chúa tình yêu.

Lòng con không kiêu căng, mắt con không hề tự mãn,

Chân con không chạy tìm những gì cao trọng lớn lao.

Bao cao xa vượt sức lòng con không hề mơ ước,

Chỉ ước mơ một điều, sống trong tình thương mến của Người…”

Trên đây là ý nghĩa của Thánh vịnh 130 mà Linh mục Thái Nguyên đã phổ nhạc nên bài Thánh Ca. Tình thương của Thiên Chúa thật bao la vĩ đại như tình thương của người mẹ. Mỗi người tín hữu như những đứa con thơ hạnh phúc trong vòng tay của mẹ là Thiên Chúa.

Để được sống trong tình thương của Thiên Chúa, người tín hữu rất cần trở nên bé nhỏ. Chúa Giêsu nói: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó" (Mc 10, 15b). Trẻ nhỏ hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ trong mọi sự. Gặp nguy hiểm cha mẹ là người trẻ nhỏ cầu cứu trước tiên.

Ngược lại, càng lớn tuổi người lớn dễ rơi vào cám dỗ tự đắc về những gì mình làm được, những gì mình biết được và những gì mình suy nghĩ ra được. Từ đó, nguy cơ không cần đến sự giúp đỡ của người khác ngay cả với Thiên Chúa sẽ lớn lên nơi những người không có tâm hồn trẻ thơ. Trong cái nhìn đức tin đây là điều nguy hiểm cho sự sống còn của người tín hữu.

Kiêu ngạo là mối tội đầu đầu tiên mà con người dễ sa vào. Những trang sách của Bộ Thánh Kinh cho thấy rõ điều đó. Tổ tông loài người vì kiêu ngạo mà để lại hậu quả thê thảm. (St 3, 1 – 19). Từ một đứa nhỏ chẳng ra gì trong gia đình, Đavit được Thiên Chúa tuyển chọn nâng lên ngôi vua. Nhưng có được quyền lực trong tay, ông bắt đầu sa lầy trong tội lỗi (2Sm 11, 1 – 27). Người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện tự mãn về những gì mình làm được nên Chúa Giêsu trách cứ nặng nề (Lc 18, 9 – 14).

Đang khi đó với những người biết để cho mình thật sự trở nên bé nhỏ được tình thương bao la của Chúa nâng đỡ phù trì. Để chiến thắng tên khổng lồ Goliat, Đavít biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa (1Sm 17, 34 -53). Người phụ nữ xứ Canaan thật sự để mình quá bé nhỏ trước Chúa Giêsu khi nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."  (Mt 15, 27). Chân phước Têrêsa Calcutta đã làm bao nhiêu công việc vĩ đại để giúp người nghèo. Dầu vậy, Mẹ luôn ý thức Mẹ chỉ là cây bút chì nhỏ bé trong bàn tay Thiên Chúa to lớn.

Tháng sáu hằng năm người tín hữu Công giáo được kêu mời chiêm ngắm tình thương Thiên Chúa được biểu lộ nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ước gì càng chiêm ngắm Thánh Tâm Chúa, người tín hữu càng thấy mình thật nhỏ bé nhưng luôn được bảo bọc trong một tình thương to lớn.

Lm. Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

TRANG GIA ĐÌNH

CHUYỆN TÌNH ĐẸP KHÓ TIN MÀ CÓ THẬT

Kính thưa quý bạn đọc,

Gần đây, giữa những scandal tình ái xôn xao rộn ràng nay nở mai tàn mọc lên như nấm, bổng xuất hiện những cuộc tình được xem như là chuyện lạ.

Với nhan đề “Chuyện tình đẹp khó tin mà có thật”, người viết xin mạn phép lược ghi lại vài ba câu chuyện đã được đăng tải trên website: giadinh.net.vn như một sẻ chia để quý bạn đọc có dịp thưởng lãm.

Tác giả Ngọc Thi lần lượt kể về:

1. Câu chuyện tình của Chàng tí hon ảo thuật, tên là Nguyễn Văn Thu, 31 tuổi (Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội), có chiều cao 70 cm, nặng 25 ký, và nàng Bạch Tuyết chân dài, Nguyễn Thị Ngọc Mai, 22 tuổi (An Hạ, Hoài Đức, Hà Nội), là cô gái trắng trẻo xinh đẹp, cao 1m63. Sự khác biệt về ngoại hình không thể cản lối tình yêu của họ. Dưới ánh mắt nghệ thuật sân khấu, thì tình yêu của họ được xem như một cuốn phim lãng mạn với hồi kết có hậu.

2. Tổ ấm của cô gái có nét mặt dễ thương, Cao Thị Mãi sinh năm 1988 (Chương Mỹ, Hà Nội) và chàng trai bị liệt cả hai chân, Nguyễn Công Đồng sinh năm 1983 (Phố Xốm, Phú Lương, Hà Nội), dám bỏ ngoài tai mọi lời gièm pha, nguyện nắm chặt tay nhau gắn bó suốt đời. Chuyện tình đẹp như mơ được họ viết bằng trái tim không tính toán.

3. Hạnh phúc của đôi vợ chồng Tạ Đình Hán và Vũ Hoài Thanh cả hai đều ngoài tuổi 30 (Xuân La, Hoàn Kiếm, Hà Nội), người chồng bị mù từ năm 10 tuổi, người vợ, trong một lần bị tai nạn giao thông lúc 16 tuổi, đã vĩnh viễn cướp đi chân phải của nàng. Duyên phận cuộc đời đã đưa dẫn họ trọn đôi sánh bước.

4. Tình yêu cổ tích của cô gái bé nhỏ giàu nghị lực Phạm Thị Khánh Xuân, 35 tuổi, trước đây quê Đồng Nai, chỉ cao 1m27 với ông chủ tiệm ôtô Freddie Scott (người Mỹ) sinh năm 1963. Hiện nay, họ chung sống hạnh phúc tại Missouri, nước Mỹ. Có thể nói, sức mạnh tình yêu đủ khả năng lôi kéo lại gần thật gần những gì là khác biệt tưởng chừng như khó có thể vượt qua.

Quý bạn đọc thân mến,

Những “Chuyện tình đẹp khó tin mà có thật” vừa mới kể chắc chắn không phải là “rộn ràng hỉ sự” của những “tiên đồng ngọc nữ”, mà là “tiểu thuyết ngôn tình” được viết nên bởi những trái tim đủ nồng nàn, dạt dào hy sinh, chân thành và cao quý.

So với bao người lành lặn, thân thể của người trong cuộc được nêu lên ở đây dĩ nhiên có phần không được vẹn nguyên, nhưng họ vẫn cố gắng vượt qua mọi cảnh khó, quyết nắm chặt tay nhau để giữ gìn tổ ấm.

Nếu không phải là tình yêu và lòng hy sinh thì có gì đủ lớn để khiến con người ta có thể sống vì người mình yêu lại khiếm khuyết hơn mình!

Bởi thế, những “Chuyện tình đẹp khó tin mà có thật” xứng đáng được tôn vinh là những biểu tượng hấp dẫn về tình yêu hy sinh, lòng gan dạ dũng cảm và sự bền bĩ nhẫn nại cho người thời nay.

Bên cạnh đó, những “Chuyện tình đẹp khó tin mà có thật” còn mang trong mình thông điệp vĩnh cửu như muốn gửi gắm đến các gia đình: Tình Yêu và sự Hy Sinh trong hôn nhân mãi mãi vẫn là điều cần thiết nhất; như con thuyền cần cánh buồm để đi tới, và chiếc bánh lái để đến được bến bờ hạnh phúc ước mơ.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

  MƯỜI ĐIỀU RĂN

Sách Giáo Lý lấy Mười Điều Răn như cái khung để trình bày luân lý Kitô giáo. Một vài người chống đối điều này, cho rằng chúng ta sống trong thời Tân Ước, không còn bị bó buộc bởi Mười Điều Răn là luật của Cựu Ước nữa, nhưng chỉ cần sống theo “điều răn mới” là điều răn yêu thương thôi. Những người khác lại cho rằng trong Kitô giáo, chúng ta nên chọn Đức Tin, Cậy, Mến, làm nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Thế nhưng, Mười Điều Răn (mười lời) dứt khoát được chọn để trình bày những đòi hỏi cụ thể cho đời sống làm người và làm Kitô hữu đúng đắn.

Có những lý do chính đáng cho việc chọn lựa này. Chính Chúa Giêsu thường xuyên quy chiếu về Mười Điều Răn: “Nếu con muốn có sự sống, hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Mười Điều Răn là những huấn thị dẫn đến sự sống, và thật sai lầm khi dựa vào công thức “Ngươi không được làm thế này, làm thế kia” để kết luận rằng đây chỉ là danh sách liệt kê những cấm đoán. Không phải thế, Mười Điều Răn chỉ cho chúng ta đường sự sống và giữ chúng ta xa tránh đường dẫn đến sự chết. Trên nguyên tắc, những gì Mười Điều Răn đòi hỏi cũng như cảnh giác chúng ta đều là những điều mà mọi người hiểu được bằng ánh sáng của lý trí.

C.S. Lewis, trong cuốn Sự Hủy Diệt Con Người, đã đóng vai một ngôn sứ khi tiên báo những hậu quả phát xuất từ sự chối từ những chuẩn mực khách quan và vững chắc về chân lý và luân lý. Khi chối từ như thế, cách nào đó, con người hủy diệt chính mình. Khi cái thiện và cái ác, cái thật và cái giả, chỉ còn là vấn đề sở thích cá nhân, tùy theo khẩu vị mỗi người, thì không những nó sẽ dẫn đến sự hủy diệt cộng đoàn mà còn hủy diệt chính nhân tính. Để khẳng định sự vững chắc phổ quát của Mười Điều Răn, C.S. Lewis đã liệt kê rất nhiều ví dụ cụ thể từ nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, cho thấy sự nhìn nhận chung đối với luật tự nhiên. Ông cũng giải thích rằng trật tự nền tảng được diễn tả trong Mười Điều Răn là một trật tự vững chắc, không phải vì khắp nơi trên thế giới nhìn nhận như thế, nhưng trước hết là vì nó đúng và thật. Chính vì thế Mười Điều Răn là sự bó buộc đối với mọi người ở mọi nơi và mọi thời (GLHTCG số 2072).

Nếu Mười Điều Răn đã được viết sẵn trong trái tim con người và là điều hiển nhiên đối với lý trí, vậy tại sao Thiên Chúa lại phải mặc khải Mười Điều Răn long trọng như thế? Thưa, “giữ các điều răn” như con đường sự sống, điều này không chỉ là “sống cho hợp lý”. Trước hết, đây là sự sống trong giao ước, trong mối hiệp thông với Thiên Chúa. Những điều răn của Chúa thường được bắt đầu bằng câu: “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi…” rồi sau đó mới nêu ra mệnh lệnh: “Ngươi phải…”. Giữ Mười Điều Răn chính là đáp lại sự thánh thiện của Thiên Chúa (số 2062). Vì chúng ta đã được đón nhận vào giao ước, nên toàn bộ cuộc sống chúng ta phải được đóng dấu bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Giữ các điều răn chính là gắn bó với Chúa bằng tất cả tâm hồn. Chính vì thế sống điều răn yêu thương (với Chúa và với tha nhân) là sự chu toàn lề luật (số 2055).

Chúa Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Nếu con muốn nên hoàn thiện… hãy theo Thầy” (Mt 19,21). Sống phù hợp với Mười Điều Răn là tốt, đó là nẻo đường dẫn đến sự sống. Nhưng Đức Kitô còn muốn hơn thế nữa. Tám Mối Phúc dẫn ta đi xa hơn. Bài Giảng Trên Núi đòi hỏi nhiều hơn, không chỉ là đừng giết người nhưng còn là yêu thương cả kẻ thù (số 2054). Khi chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chính Ngài trở thành bản hướng dẫn cách ứng xử của chúng ta; chính Ngài sống và yêu thương trong chúng ta (số 2074).

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

 

TRANG QUỚI CHỨC

CHO VỪA LÒNG NHAU

Trong tiếng Việt, chúng ta thường hay sử dụng từ ghép để diễn tả một sự vật hay một ý nào đó. Cái hay của nó là từ một từ gốc chúng ta có thể làm cho người khác bất ngờ về ý tưởng mà chúng ta sẽ biểu đạt khi ghép thêm vào đó một từ tiếp theo.

Chẳng hạn khi ta dùng chữ “đối” nó có thể ghép với nhiều từ khác như : đối ẩm, đối phương, đối tác, đối địch, đối thoại…..và như chúng ta thấy, từ một gốc có thể cho ra những cặp ý đối ngược nhau, giống như con tim có thể để thương hay để ghét một ai đó.

Tuy chúng ta không phải là Thiên Chúa, có thể phán một lời thì từ không ra có, nhưng ở một mức độ nào đó lời nói của chúng ta cũng có sức ảnh hưởng chết người, cũng có thể làm cho người khác từ vui thành buồn hay ngược lại. Ngày xưa trong dân giã người ta có câu thơ như thế này: Một đêm nói chuyện thì thầm; Về nhà nghĩ lại, tức bầm lá gan. Câu thơ tuy mộc mạc đơn sơ nhưng ngẫm cũng cho thấy tác dụng của lời nói là thế nào !

Nếu ai có xem thời sự, ắt sẽ thấy ông Obama khi đến Việt nam được đón tiếp nồng nhiệt như thế nào. Các bạn trẻ dường như nuốt từng lời nói của ngài tổng thống nước Mỹ; khác hẳn với các tống thống Mỹ ngày xưa thời còn chiến tranh Việt nam, luôn bị người ta phản đối. Vì đâu ? Đơn giản thôi, vì thông điệp mà mỗi người họ mang đến cho Việt nam.

Ông bà chúng ta đã dạy chúng ta rằng: Lời nói chẳng mất tiền mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

 

Lời này nghe thì hay đó nhưng thực hiện thì… không dễ. Bởi con người ai cũng có cái tôi. Tôi thích thế, tôi muốn thế, theo tôi phải là như thế……vì thế nói cho vừa lòng tôi thì dễ hơn cho vừa lòng người khác. Chính vì thế mà chúng ta dễ dùng từ dao to búa lớn để nói cho thỏa thích, nói cho hả giận, dẫu biết rằng những lời như thế không làm người khác hài lòng, thuyết phục được nhân tâm, có thể khẩu phục nhưng tâm không phục.

Có một điều nghịch lý là những người ăn nói hùng hổ nhất, cứng rắn nhất lại là những người thích nghe những lời dịu dàng nhất, vì thế những lời dịu ngọt là một phương thế hoàn mỹ để nối kết mọi người lại với nhau, nó không vô hiêu ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Đó chính là lợi khí mà Chúa Giêsu đã dùng khi Ngài trả lời tổng trấn Philatô: nước tôi không thuộc chốn này, nếu nước tôi thuộc về chốn này thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp vào tay các ông….vậy thì vũ khí của Ngài là gì, ngài đã thông truyền kỷ năng nào cho học trò của mình ? Đó là : Hãy đến với Tôi và hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Đối diện với nhau, người ta không chỉ dùng lời nói mà còn hiểu nhau qua cử chỉ, hành động, nếu lời nói có ngọt ngào, dịu dàng nhưng có thái độ không khớp với lời nói thì đó chỉ là dối trá, lường gạt, vì thế để có thể đến với nhau thật lòng thì phải nói không chỉ bằng lời mà còn cả con tim mình nữa. Vì thế mà chúng ta phải đến với Chúa và học ở nơi Ngài.

Lm. Ant. Lưu Thanh Tâm

 

SỐNG ĐẸP

NỤ CƯỜI VÀ TIẾNG KHÓC TRẺ THƠ

Một gia đình nào cũng đều có cha, có mẹ và có một hay nhiều người con. Thiếu vắng những yếu tố trên hoặc không có đầy đủ ý nghĩa, hoặc gia đình trở nên buồn tẻ nhạt.

Hai cha mẹ tạo lập mái ấm gia đình với nhau. Nhưng không chỉ như thế là đủ ý nghĩa cho đời sống của họ. Họ hằng mong muốn và cần có con.

Con cái tuy có thêm vịệc bận rộn, có khi là tốn kém về của cải vật chất tiền bạc, nhất là về sắc đẹp thân xác, cùng hạn chế nhiều cho cha mẹ trong đời sống. Nhưng con cái lại là hạnh phúc của đời cha mẹ.

Nhiều vợ chồng từ ngày thành lập gia đình với nhau, họ đạt tới có đầy đủ của cải cùng danh vọng trong đời sống. Họ chỉ trông mong cầu xin khấn vái sao mau có nụ cười, tiếng khóc của trẻ thơ trong gia đình mình.

Nhiều cha mẹ tuy than vãn, con cái là gánh nặng làm căng thẳng thần kinh. Nhưng họ lại thầm cám ơn Trời cao đã ban cho họ con cái. Vì nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ tựa như bông hoa tươi cho không khí đời sống gia đình trở nên nhộn nhịp sống động.

Cũng có nhiều cha mẹ tâm sự mất ăn, mất ngủ vì con. Họ tìm đến nhà cha mẹ mình hay người thân quen để được có yên tĩnh. Nhưng họ nhận ra rằng, đến đó cũng không ngủ nghỉ yên được. Vì họ xa con thành nhớ nhung nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ con mình ở nhà.

Con cái cần cha mẹ và cha mẹ cũng cần con cái. Có thế đời sống mới lành mạnh và có hạnh phúc được. Vì hạnh phúc đời sống không chỉ toàn nụ cười, nhưng còn có cả tiếng khóc nữa.

Nhiều cha mẹ sau những năm tháng dài nuôi dậy đào tạo con cái nên người khôn lớn, chỉ mong sao có cháu bồng bế, được nhìn nghe nụ cười tiếng khóc của cháu bé trẻ thơ. Càng lớn tuổi họ càng cảm thấy nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ là niềm vui thiên đàng Trời cao ban cho con người.

Con cái là hoa quả phúc lộc Trời cao ban tặng cho gia đình. Chúng là người, theo cung cách tin tưởng suy nghĩ của con người chúng ta, thừa kế nối dõi tông đường. Suy nghĩ này tuy xem ra có vẻ như xa xưa không còn hợp thời. Nhưng suy xét kỹ cho cùng nó vẫn còn giá trị tích cực nhiều lắm cho đời sống xã hội, Giáo Hội, cho cộng đồng đoàn thể khắp mọi nơi vào mọi thời đại.

Ngày nay ở nhiều quốc gia đất nước, nhất làm bên xã hội Tây phương, đang bận tâm lo lắng về sự mất cân bằng trong đời sống xã hội. Vì ngày càng nhiều người lớn tuổi cao niên hơn trẻ con người trẻ.

Họ suy nghĩ bàn tính đến trong thời gian tương lai sắp tới thiếu tay nghề chuyên môn, thiếu người làm việc. Vì xã hội càng ngày càng ít trẻ con, thiếu ít nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ. Và họ đang đưa ra chương trình nhằm khuyến khích nâng đỡ sao cho có thêm trẻ con. Có thế tương lai đời sống gia đình xã hội mới được bảo đảm quân bình, mới có đời sống phúc lợi cùng niềm vui an bình nhờ nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ.

Đời sống trong Giáo Hội cũng chẳng khác hơn gì. Từ hàng chục năm nay, Giáo hội Công giáo bên Âu châu đang phải đối diện đến mức khẩn cấp lúng túng với tình trạng thiếu linh mục tu sĩ nam nữ. Vì trẻ con ngày càng ít, nên ít người trẻ đi tu, cùng ít người trẻ kế tục lớp người cao niên sống giữ đạo đang dần đi về đời sau.

Lời Thiên Chúa hứa ban cho Abraham và vợ ông là Sara có nụ cười tiếng khóc của trẻ thơ trong gia đình đã biến đổi đời sống gia đình vợ chồng ông có hạnh phúc, giầu có sung túc thêm. ( St 15,1-6 – 21,1-3)

Và Thiên Chúa, hiện thân qua Chúa Giêsu, đã làm người mang nụ cười tiếng khóc không chỉ cho cha mẹ là Thánh Giuse và Đức mẹ Maria, mà còn cho cả loài người: Thiên Chúa hằng yêu mến trần gian!

“Trẻ thơ chiếu tỏa niềm vui đời sống cách thế riêng của chúng. Thế giới đời sống không chỉ đơn thuần là một con đường.  Nhưng là một mái nhà, mà con người càng trải qua nhiều chặng thời gian năm tháng sống trưởng thành,  họ càng cảm nhận ra mái nhà đó là của riêng mình xây dựng nên.

Một con đường trải dài có đích điểm tới cùng tận. Nhưng trong đời sống giữa lòng thế giới con người từng bước xây dựng mái nhà của mình. Con đường dẫn ta đi tìm đến mái nhà đời sống.“ Rabindranath Tagore

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Thử Tìm Hiểu Về Sabat Và Chúa Nhật     

Có người cho rằng ''Sabat'' hay ''Chúa Nhật'' chỉ là ngày không được lao động, rằng đó là luật của ''con người'', chứ không phải của Thiên Chúa! Chính vì thế, dựa vào Kinh Thánh, Giáo Lý, tôi xin tóm tắt ý nghĩa của ''Sabat, Chúa Nhật'' và việc tuân giữ hai Ngày Ấy.         

I- Ý nghĩa của Sabat     

Chữ ''schbbath'' (Dothái), ''sabbaton'' (Hylạp) có nghĩa: sự nghỉ ngơi, sự ngưng việc, sự tạm nghỉ. Theo Cựu Ước, đó là ngày thứ bảy trong tuần mà người Dothái phải tuân giữ. Sáng Thế Ký 2,2-3 cho biết rằng, vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa hoàn tất việc Ngài làm, Ngài nghỉ ngơi vào ngày ấy, Ngài chúc lành cho nó sau khi Ngài tạo thành trời-đất. 

II- Tuân giữ Sabat

A- Xuất Hành 16,23-30

Xin tóm tắt như sau: "Này là điều Giavê phán bảo: Mai là Hưu Lễ lớn, Lễ Thánh kính Giavê. Dân cất giữ thức ăn cho sáng mai như Gavê đã truyền dạy. Môsê nói: Các người hãy ăn nó hôm nay vì hôm nay là Hưu Lễ kính Giavê, các người sẽ không tìm thấy gì ngoài đồng. Trong vòng sáu ngày, các người hãy nhặt lấy thức ăn; còn ngày thứ bảy, tức là Hưu Lễ thì sẽ không có đâu! Giavê phán với Môsê: Cho đến bao giờ nữa, các con sẽ từ khước, không giữ lệnh truyền và luật của Ta? Ngày thứ bảy đừng có ai ra khỏi chỗ mình. Vậy, dân đã nghỉ việc ngày thứ bảy.''

B- Nêhêmia 9,14 

''Ngài đã dạy cho dân biết Hưu Lễ Thánh của Ngài. Lệnh truyền và luật, Thánh Chỉ thì Ngài đã truyền dạy họ nhờ Môsê là tôi tớ của Ngài.''   

C- Chúa Giêsu cho ''kẻ giả hình'' biết Ngài là Chúa của Sabat

Ngài phán với nhóm biệt phái: ''Sabat được đặt ra cho người ta, chứ chẳng phải người ta cho Sabat. Vì thế, Con Người là Chúa (Chủ) của Sabat.'' (Xin xem trọn Marcô 2,23-28.)

III- Ý nghĩa của Chúa Nhật    

A- Ngữ nguyên    

Người Pháp dùng chữ ''Dimanche'', do ''Dies Dominica'' (*) là ''Ngày của Chúa: Jour du Seigneur.'' Người Anh, Đức dùng chữ ''Sunday, Sonntag'' là ngày của mặt Trời vì mặt Trời là biểu tượng cho Thiên Chúa và để nhớ ơn Ngài như Thánh Vịnh 135,8 có ghi: ''Vừng thái dương để cai ban ngày vì Ơn Ngài miên man vạn đại!''

B- Chúa Nhật là Ngày Chúa Phục Sinh     

Số 452 (trong Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý) ghi như sau: ''Chúa Nhật là Ngày Phục Sinh của Chúa Kitô. Là "ngày thứ NHẤT trong tuần" (Mc.16,2), Chúa Nhật gợi lại cuộc sáng tạo lần thứ nhất; là "ngày thứ tám" sau Sabat, Chúa Nhật có nghĩa là TÂN SÁNG THẾ được khai mạc bằng Sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Như thế, đối với Kitô hữu, Chúa Nhật trở thành ĐẦU HẾT của mọi ngày và của tất cả ngày lễ: Ngày của Chúa, nhờ cuộc Vượt Qua của Ngài, Chúa Kitô hoàn tất ý nghĩa Sabat của người Do Thái và loan báo sự an nghỉ đời đời của con người trong Thiên Chúa.'' 

Như vậy, Chúa Giêsu không hủy bỏ Sabat vì Ngài phán thế nầy: ''Đừng tưởng rằng Ta đến để loại bỏ lề luật hay các tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ, mà để làm cho trọn.'' (Mt. 5,17)

C- Chúa Nhật là Ngày của Giao Ước Mới 

Trong ''2 Corintô 3,3'', Thánh Phaolô nói đến ''Giao Ước Mới'' trên ''bia mới'' như sau: ''Rõ ràng anh-chị-em là bức thư Chúa Kitô, được viết ra, bằng sứ vụ của chúng tôi, không phải bằng mực, nhưng với Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, chẳng phải trên những bia đá, mà ở bia lòng, bia thịt!''

D- Sự khác biệt chính yếu giữa Sabat và Chúa Nhật    

1- Sabat là Ngày tưởng nhớ đến ''sự nghỉ ngơi'' của Thiên Chúa: Đấng Tạo Hóa. Còn Chúa Nhật là Ngày ứng nghiệm Lời Chúa báo trước rằng Ngài sẽ sống lại, chẳng hạn: ''Phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh.'' (Lc.24,44 và nhiều nơi khác.)

2- Sabat là Ngày tưởng nhớ Việc Sáng Thế đã hoàn tất. Ngược lại, Chúa Nhật là Ngày Hân Hoan vì Ơn Cứu Độ (Tân Sáng Thế) đã thắng Satan. (x. Matth.28,1-8) Ngoài ra, đi Lễ Chúa Nhật là tôi đang có diễm phúc thánh hóa mình bằng Tiến Trình Mầu Nhiệm Cứu Rỗi như Lời Chúa hứa: ''Ta sẽ lập với Nhà Israel và Nhà Giuđa một GIAO ƯỚC MỚI, không giống như Giao Ước mà Ta đã lập với cha ông họ vào ngày Ta cầm tay họ để dẫn họ ra khỏi đất Aicập.'' (Giêrêmia 31,31)   

IV- Tầm quan trọng của việc sống Ngày-của-Chúa      

Thánh Ignatiô phát biểu rằng Kitô hữu sống kết hợp mật thiết với Ngày-của-Chúa (The Lord's Day) vì họ tụ họp vào Ngày Thứ Nhất trong tuần, sau Lễ Sabat của người Dothái, để ăn mừng Việc Chúa Kitô Phục Sinh! Thánh Tông Đồ Barnabas cũng dạy giáo dân thời ấy: ''Chúng ta hân hoan tuân giữ Ngày Thứ Tám là Ngày Chúa Giêsu phục sinh từ kẻ chết.''

Tin Mừng theo Thánh Matthêô 28,1-20 là Bức Tranh tuyệt vời về Khải Hoàn Phục Sinh vào Chúa Nhật. Còn Tông Đồ Công Vụ 20,7 cũng tường thuật việc tụ họp của Kitô hữu vào Ngày-của-Chúa.

V- Lời kết  

Thánh Phaolô dạy về Tin-Cậy-Mến, mà Mến là hàng đầu! Điều Răn thứ nhất ghi: Thờ phượng chỉ một mình Đức Chúa Trời và kính mến Ngài trên hết mọi sự. Điều Răn thứ ba được Chúa Giêsu (cũng là Thiên Chúa Hằng Hữu) KIỆN TOÀN bằng Giao Ước Mới vào Chúa Nhật: Tuân giữ Ngày-của-Chúa là tôi phải đi hiệp dâng Thánh Lễ Chúa Nhật cùng với Linh Mục Chủ Tế hay Đồng Tế, với Đại Gia Đình Giáo Xứ vì tôi được mặc lấy Chúa Kitô, nhất là để ''ăn Thịt Ngài và uống Máu Ngài'' (nếu tôi sạch tội trọng) như Lời Ngài dạy để tôi được sống đời đời. (x. Gioan 6, 22-59)         

Nếu lười biếng đi Lễ Chúa Nhật thì tôi chẳng yêu Chúa hết lòng, hết cả tâm hồn, hết trí khôn vì tôi coi mọi thứ khác quý báu hơn Tình Chúa yêu tôi!         

______________

(*) Ghi chú: Ngày trước, Giáo Hội viết ''dies dominica'' là hiểu theo nghĩa ''thời giờ của Chúa/thuộc về Chúa''. Với nghĩa ấy, ''dies'' có giống cái (féminin) nên tính từ ''dominicus'' phải thành ''dominica'' theo giống cái. (Từ điển Langenscheidtsworterbuch của Đức.) Chữ ''dies dominicus'' thì thông dụng hơn với ngoài đời và nhất là với học giả về Latinh ở Châu Âu bởi vì ''dies'' có giống đực: masculin.   

Đức Quốc, 28.4.2016    

Đaminh Phan văn Phước

 

SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN C

SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU

Lc 7, 36 - 50

“Yêu nhau mọi sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, thập ngũ đèo cũng qua”. Vâng tình yêu là như thế. Tình yêu đủ sức và đủ quảng đại để hai người nam nữ cỏ thể đến với nhau bất chấp những khác biệt, bất chấp đường xa, hay nhà gần, bất chấp những khiếm khuyết của cơ thể, củ ấu cũng tròn mà. Tôi muốn dùng hình ảnh hết sức đẹp đẽ này để nói về một tính yêu khác lớn hơn. Tình yêu vượt trên những bất toàn về tinh thần, tình yêu dành cho cả những tội nhân. Đó là tình yêu của Đức Kitô dành cho con người.

Chúa nhật XI này, tác giả phụng vụ cho chúng ta nghe một câu chuyện rất cảm động của Thánh Luca. Cảm động đến mức người ta đã gọi thánh Luca là một nghệ sĩ. Đức Giêsu được một người biệt phái, tên là Simon, mời dự tiệc. Trong khi đang dùng bữa thì có một cô gái – Luca cho hay đó là một cô gái điếm. Hạng này nhơ nhớp và đáng khinh lắm. Theo chú giải của cha Nguyễn Thế Thuấn, câu chuyện này không giống với câu chuyện xức dầu ở Bêthania (X. Mt 26,6t). Người phụ nữ này cũng không là Maria Madalêna (Lc 8,2) hay Maria em Matta (Lc 10,39). Cô gái điếm vào nhà ông biệt phái khóc nức nở đến nổi nước mắt thấm ước chân Chúa Giêsu, rồi cô lấy tóc lau, lấy dầu thơm xức lên chân. Việc làm ấy làm ngứa mắt ông chủ nhà và có thể là cả đám người đang dùng tiệc hôm ấy. “Thầy bà gì mà để cho con gái đụng chạm vào người mình như thế, mà lại là một cô bán hoa nữa chứ”. Đúng là không ăn thì phá cho hôi mà. Các ông lầm to rồi. Đừng có suy bụng ta ra bụng người. Không thể xếp Đức Giêsu vào chung hạng với Mã Giám Sinh được đâu. Tôi tin vào đạo đức chính chắn của thầy Giêsu. Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ. Ngài đã dùng chính tập tục của người Do thái mà cho ông chủ một bài học nhớ đời. Khi có khách đến nhà, người chủ phải làm 3 việc sau đây: thứ nhất, đặt tay lên vai khách và hôn bình an. Đây là cử chỉ tỏ lòng tôn kính. Thứ hai, rửa chân cho khách. Thứ ba, đổ một giọt nước hoa hồng lên đầu khách. Thế mà Simon ơi, ngươi đã làm điều đó cho ta chưa? Còn người đàn bà này đã làm tất cả không phải để thoả mãn cơn đam mê nhưng vì lòng yêu mến và kính phục. Ngươi quá xem thường ta rồi, ơi Simon. Nên dù ngươi có là chủ tiệc thì cũng chẳng được ta chiếu cố đâu. Còn người đàn bà này “Vì đã yêu mến nhiều, nên được tha nhiều, kể cả cái tội bán thân nuôi miệng ấy”.

Vậy mới là Giêsu chứ! Thâm thuý, sâu sắc mà quảng đại, bao la đến muôn trùng. Không phải cứ mâm cao cỗ đầy thì có thể trịch thượng, trân tráo, là lấy được lòng Thượng Đế. “Ta muốn lòng nhân từ chứ nào cần đâu lễ tế, vì Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính mà là những kẻ tội lỗi” (Mc 9,13). “Thiên Chúa chuộng lòng thành tín bên trong, diễn tả trong sự thương xót nhân nghĩa. Chứ không nơi thi hành bên ngoài chiếu theo luật”. Theo William Barclay, có thể người đàn bà này muốn dùng bạch ngọc xức chân Chúa, nhưng khi gặp Ngài vì quá xúc động nên chỉ khóc thôi. Bà xứng đáng để nhận lãnh tình yêu và lòng tha thứ của Thiên Chúa. Tình yêu của bà, thiện chí muốn vươn lên của bà, hy vọng được đổi đời của bà, lòng tin tưởng Đức Giêsu có thể nâng bà dậy không vượt ra được trái tim yêu thương của Đức Giêsu. Tình yêu xoá mờ tất cả, tha thứ tất cả. Tình yêu đủ sức để đóng cử hoả ngục và mở cửa thiên đàng. Một khi đã nhận ra được tình yêu ấy và sẵn sàng đáp trả thì đâu có gì là khó để Phaolô, Augustinô, Inhaxiô Loyola trở thành những vĩ nhân. Chẳng phải là Chúa Hài Đồng đã bảo Thánh Giêrônimô dâng cả tội lỗi của mình cho Ngài đó sao? “Chính vì để cho những tên cướp lên trời mà Cha trên trời đã gửi Con của Người xuống thế gian và chính cho cả những người xấu xa tội lỗi, những tên đao phủ và cả Giuda mà Đức Giêsu đã đổ máu Người ra”. Như mưa từ trời làm mát tươi vạn vật và rửa sạch mọi bợn nhơ, bụi bặm của mặt đất thế nào thì tình yêu của Thiên Chúa cũng làm tươi mới và rửa sạch tâm hồn ta như thế.

Hãy sám hối với lòng khiêm nhường để Thiên Chúa được tha thứ cho bạn.

Lm. Carôlô Đặng Đăng Nguyên

 

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN C

ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

Lc 9, 18 - 24

“Anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra trong bối cảnh mà trước đó vài ngày, Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Vì thế, khi được hỏi, các môn đệ lần lượt thuật lại những nhận xét của người khác về Thầy mình. Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ". Đó là những nhận xét của người đời. Trong các ông, dường như hình ảnh Chúa được khắc họa bởi người khác chứ không do sự cảm nhận của con tim gần gũi, gắn bó cùng Chúa. Nghĩa là theo Chúa nhưng không biết Chúa là ai, hay, có Đạo nhưng không có Chúa trong đời.

Lời nhận xét trên dù có hay, tên tuổi của Chúa dù có được đánh bóng vẫn chỉ là những lời bình phẩm bên ngoài, rồi gió sẽ cuốn trôi. Vì thế, Chúa muốn các ông phải đối diện với chính lòng mình, nhìn vào tự thâm sâu của tâm hồn để trả lời câu hỏi của Chúa: “Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúng ta cảm nhận được một bầu không khí im lặng trái ngược với câu hỏi trước của Chúa. Các môn đệ lẳng lặng nhìn nhau bằng những cái liếc mắt đùn đưa trách nhiệm. “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Không gian như vỡ òa niềm hạnh phúc. Câu trả lời của vị Tông Đồ trưởng đã xác định rõ căn tính của Chúa trong lòng các ông. Căn tính này không thể lẫn lộn với nhưng nhận xét trước đây. Lời tuyên xưng đã họa lại chính xác khuôn mặt của Ngài. Đây cũng là nền tảng cho Đức tin người Kitô hữu chúng ta. Đó là tin Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống, không chỉ là một vị Thần do người thế vẻ ra nào đó mà là Thiên Chúa hằng sống.

Trong một đoạn văn tương tự, thánh sử Matthêu cho thấy Chúa đã cất lời khen Phêrô. Nhưng Tin Mừng Luca hôm nay, Chúa đã không khen ông. Ngài cũng không trực tiếp chấp nhận lời ông tuyên xưng. Thậm chí Chúa “còn nghiêm giọng không cho các ông nói với ai”. Dường như Chúa còn muốn dạy các môn đệ hiểu thêm nữa và hiểu cho thật đúng. Bởi vì, khi công nhận Chúa là Đấng Kitô, các ông vẫn còn có thể ngộ nhận về Chúa, có một quan niệm không đúng về Đấng Kitô. Thật vậy, các ông có thể hình dung Ngài là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Chúa bằng những chiến công hiển hách, giải phóng dân tộc khỏi quyền lực đế quốc. Và ở đây là quan niệm của hầu hết mọi người, kể cả các môn đệ của Ngài. Họ nghĩ rằng Chúa sẽ phải sống mãi... và quả thật, với họ, Chúa như một bậc đại tiên tri đã sống lại để rồi không bao giờ chết nữa. Vì đã từng tin chắc như thế nên các con ông Dêbêđê mới đến xin được ngồi bên tả và bên hữu của Chúa trong vinh quang. Nhưng vinh quang ấy chỉ có được trên đồi Canvê với thập giá, đinh nhọn và mão gai.

Sau lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa muốn các môn đệ nhận biết sứ vụ mang ơn cứu độ của Chúa thông qua con đường khổ giá và mời gọi các ông bước theo con đường Chúa đã đi. Như thế, lời tuyên xưng chỉ là khởi đầu của niềm tin và niềm tin đó được thực hiện trong suốt hành trình khổ giá để hằng ngày bước theo Chúa. Dẫu rằng, có lúc yếu đuối, có khi lung lay, lắm lúc chán chường nhưng có Chúa luôn đồng hành, dõi theo.

Hôm nay, cũng câu hỏi xưa được lập lại cho chúng ta từng giây từng phút trong cuộc sống rằng : Theo con, Ta là ai? Xin Chúa cho chúng ta, cùng với thánh Phê-rô, biết tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Bởi khi tuyên xưng như thế cũng có nghĩa là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm thập giá. Chúa là Đấng Kitô, bởi vì Chúa đã chấp nhận đi qua con đường thập giá để cứu rỗi thế nhân.

Tuyên xưng mầu nhiệm ấy cũng là để mầu nhiệm được tỏ bày trong cuộc sống chúng ta. Thập giá là chọn lựa của mọi Kitô hữu, và do đó, chúng ta được mời gọi đi lại con đường tiến đến đồi Calvê, theo sau thập giá của Chúa, chúng ta phải đặt bàn chân mình lên dấu chân xưa Chúa đã in hằn trên mọi nẻo đường đời. Có như thế hơi ấm tình yêu thập giá sẽ là nguồn động lực để thúc đẩy chúng ta tiến bước, tiến lên và tiên xa hơn trong thẳm sâu tình Chúa. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Phong

 

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN

KÊU GỌI    ĐÁP TRẢ

Lc. 9, 51 – 62

Trong những năm gần đây, các cô gái VN được mời gọi kết hôn với người nước ngoài. Các cô được người dẫn mối kêu mời, hứa hẹn đủ thứ mọi việc tốt đẹp. Một số đông các cô đã nhận lời mời, nhưng một số khác tự tìm đến với những người may mối, tự nguyện chấp nhận yêu cầu của người ta.

Tất cả đã đạt ý nguyện ban đầu là được đưa đi xa. Sau một thời gian, có người thì được vui mừng vì đã đi đúng hướng. Một số không phải ít, đang tìm cách trốn về VN nhưng không thể được, vì họ đã được chăm sóc cẩn thận, không thể tự do làm việc gì một mình được. Một số khác may mắn hơn, đã trở về được mảnh đất quê hương và chắc một điều là họ sẽ không bao giờ ra đi như thế thêm lần nữa. Thế mà hiện tại cũng vẫn có những người đi mời gọi và cũng có rất nhiều người nghe theo và đáp trả.

Tất cả những người đó đã được kêu mời và họ đã đáp trả. Nhưng họ không hiểu được lời mời gọi đó như thế nào, họ cũng không hiểu được trên bước đường đi có những gì.

Bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là lời mời gọi và đáp trả.

Trước tiên là Chúa Giêsu. Ngài đã được mời gọi thực hiện chương trình cứu chuộc loài người. Ngài đã đáp trả cách trọn vẹn. Ngài đã nhìn thấy và hiểu biết rất rỏ con đường Ngài phải đi. Giờ đây Ngài quyết định lên Jérusalem, đó cũng là lời đáp trả trọn vẹn. Ra đi để hoàn tất chương trình đã mời gọi và Ngài đã đáp trả.

Những người Samaria . Họ không thể đáp trả được vì họ còn vướng mắc sự hiềm khích cá nhân, lòng thù hận và tự ái vẫn còn đó.

Các môn đệ chưa thể đáp trả trọn vẹn, vì còn theo ý riêng mình, còn nỗi nóng bất chợt, còn muốn trả thù.

Người xin theo. “Chim có tổ, chồn có hang Con Người không có nơi gối đầu”. Người nầy không hiểu gì về con đường mình muốn đi. Anh chỉ thấy sự ồn ào bên ngoài, bị kích động, ham vui. Đó là con người nông cạn.

Người thứ hai được kêu mời. Anh đưa lý do rất chính đáng. Nhưng không biết cha anh chết chưa, hay chờ chừng nào cha anh chết và chôn xong, chừng đó anh mới theo Ngài được. Một lý do chính đáng để thoái thác. Một người không thể đáp trả.

Người thứ ba còn vướng bận nhiều thứ tình cảm lê thê, dể bị tác động. Anh không thể quyết định dứt khoát điều gì được.

Đòi hỏi của lời đáp trả thật dứt khoát, không chần chừ, không luyến tiếc quá khứ, chỉ biết hướng tới mà đi.

Những lời mời gọi thống thiết cũng còn vang động cho đến ngày hôm nay. Trong suốt hai mươi thế kỷ qua đã có không biết bao nhiêu lời đáp trả xứng đáng.

Mỗi người trong chúng ta cũng được mời gọi, không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Mời gọi để bỏ đi những gì không tốt, mời gọi để bỏ đi con người ích kỷ hẹp hòi, mời gọi để bỏ đi những gì gian trá mưu mô, mời gọi để bỏ đi con đường lười biếng, ham mê lạc thú. Lời mời gọi để bước đi trên con đường ngay chính, đạo đức thánh thiện tốt đẹp hơn. Thế mà chúng ta có nhiều lý do để thoái thác:

Nào là vì một chút lợi lộc cá nhân mà mình không thể bỏ được.

Có khi vì một chút tự ái mà không thể tha thứ được cho người khác, nên mình không thể đến nhà thờ được.

Có khi vì một sự thù hằn nhỏ nào đó mà chưa giải quyết xong, vì chúng ta không thể bỏ qua hay tha thứ được.

Còn biết bao lý do rất chính đáng để từ chối bước đi trên con đường ngay chính: nào là vì nghèo khổ, bận công việc, đường đi không tiện, sức khỏe không cho phép, vì bạn bè. . . không biết bao nhiêu lý do. Chính vì những lý do ngụy biện như thế, mà cho đến bây giờ con người chúng ta chẵng những không tốt hơn, trái lại còn có chiều hướng xấu đi. Vì chúng ta không biết lắng nghe lời mời gọi và không biết đáp trả cách chân thành.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Tiếng Chúa và can đảm đáp trả, bước đi trên con đường Chúa kêu mời.

Lm. Gioan Baotixita Lê Đình Bạch

 

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN C

KHÍ CỤ BÌNH AN

Lc 10, 1 - 12, 17 - 20

Albert Schweitzer bỏ nghề âm nhạc đang rất thành công ở Âu Châu để trở thành một bác sĩ truyền giáo ở Châu Phi. Một hôm có người hỏi ông khởi đầu ông đã làm gì, để giới thiệu Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài cho những thành viên của bộ lạc Châu Phi. Ông trả lời: Khi tôi nói về những tâm hồn bất an và những tâm hồn bình thản, những người hoang dã nhất trong họ cũng biết được điều đó có ý nghĩa gì. Và họ cũng hiểu khi tôi phác họa chân dung Chúa Giêsu với tư cách là người đem đến sự bình an của Thiên Chúa.

Vâng, bình an là điều mà ai trong chúng ta cũng cần. Do vậy, trong mối quan hệ giữa những người đồng loại với nhau chúng ta cũng phải biết đem lại bình an cho nhau. Đây là một trong rất nhiều tư tưởng mà các bài đọc Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay gợi ý cho chúng ta.

1. Bài đọc I (Is 66,10-14c)

Babylon bị Vua Cyrus tiêu diệt, dân Do thái được Cyrus trả tự do. Không còn điều gì đáng vui mừng hơn là được trở về quê hương. Trong niềm vui quá đỗi đó, Isaia tuyên bố Thiên Chúa sẽ lại ban phước lành cho dân, mà phúc lành cao quý nhất là ơn bình an: "Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông".

2. Đáp ca (Tv 65). Tv này là tiếng mừng vui, ca tụng Thiên Chúa vì ơn lành Người đã ban.

3. Tin mừng: tác giả phụng vụ không chọn hết câu chuyện tin mừng từ câu 1 - 20 nhưng lượt bỏ các câu giữa (13 - 16), để chỉ tập trung vào câu chuyện Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi truyền giáo và kết quả của cuộc sai đi này. Trong những lời dặn dò trước lúc ra thì lời chào bình an được Được Đức Giêsu đặc biệt quan tâm.

Như vậy, xâu kết nội dung của ba bài đọc này, tư tưởng về một câu chuyện bình an sẽ là điểm nỗi bật của Lời Chúa tuần này.

 

Bình an cho anh em, là cách chào hỏi rất phổ biến trong người Do thái. Họ không phải sử sụng cách chào này cách trang trọng theo tập quán, với những người họ gặp trên đường;  nhưng họ phải sử dụng lời chào này cách trang trọng và nghiêm túc với những người trong nhà mà họ đến. Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào nhà nào là "Bình an cho nhà này". Tức là bình an cho tất cả những gì dưới mái nhà này, gia đình này, và tất cả những gì thuộc về nó. Tôi hiểu, bình an chắc chắn phải là một điều lành. Cho nên, khi trao ban bình an có nghĩa là trong suốt hành trình của chúng ta, chúng ta phải luôn mang bên mình điều lành, đó là điều có giá trị ảnh hưởng đến sứ vụ tông đồ của chúng ta.

Khi lên đường đi truyền giáo cho dân ngoại. Người môn đệ phải làm rất nhiều việc. Người môn đệ phải rao truyền sứ điệp của Chúa. Một tin mừng đem lại ơn giải thoát và cứu chữa linh hồn con người. Đức Giêsu ban cho họ quyền làm các phép lạ để cũng cố cho lời họ giảng rao. Cho nên, chính các môn đệ phải là hình ảnh của một điều lành, an vui nơi tất cả những nơi mà họ đến. Nếu không, họ sẽ là sự phản nghịch của sứ điệp tin mừng. Theo đó họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa. Họ là đại sứ hòa bình của những nơi nào mà họ được gửi đến. Bởi lẽ, sứ điệp của người tôi tớ dành cho những người tội lỗi tệ rạt nhất, chứ không phải là đi tìm kiếm những con người tốt nhất. Nó biến chúng ta thành người cầu nguyện cho tất cả, và hành xử cách lịch thiệp với tất cả kể cả với những người chống đối chúng ta. Vì sự an ủi của Thiên Chúa phải được công bố cho tất cả dù là người từ chối tham dự sứ điệp của Ngài.  

Người rao giảng tin mừng là người mang bình an cho người khác thật không phải là một điều xa rời thực tế. Vì xét cho cùng ai cũng có nhu cầu hưởng sự bình an, một nhu cầu tốt lành, đáng quý. Nhưng cũng từ một thực tế khá mâu thuẫn là người ta lại thích nhận bình an hơn là cho nhau bình an. Nói cách khác, con người ít quan tâm xây dựng bình an cho nhau. Bây giờ, ra đường thì thấp thỏm sợ tai nạn, lo lắng vì lỡ vô tình điều gì đó thì sẽ bị chém. Đi chợ thì nhìn đâu cũng hàng hóa nhiễm độc, rau dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, cá thịt ôi thiu được phù phép, hay toàn là những thứ được nuôi bằng hóa chất. Thậm chí, ở trong nhà cũng chẳng bình an, lúc nào cũng phải kín cửa rào chắn, không biết trộm chó, bắt gà, cướp tiền sẽ lúc nào viếng thăm, nó sẽ chém mình để lấy, mà lấy không được cũng chém để trừ manh mối. Hóa ra cái định nghĩa bình an mà các từ điển đưa ra: không có chiến tranh bay bạo lực trong một lúc nào đó lại chưa chắc trong thực tế. Cơ bản là như vậy, nhưng chúng ta đã thấy ngay cả lúc không có chiến tranh hay bạo lực thì chưa hẳn đã có bình an. Cuối cùng, ai trong số những con người được sinh ra trong cuộc đời này tránh được cái nắng bất an của thế sự?

Xét cho cùng, nguồn gốc của những bất an là ở lòng muốn. Nếu tất cả mọi người đều thành thật, lương thiện, chấp nhận những quy luật tự nhiên như vốn có của nó, không hám lợi, ham danh đến xem thường tính mạng đồng loại, hủy diệt môi sinh, mạnh tay cướp đoạt...thì đã tránh được bất an rồi. Chung quy chính con người tạo bất an cho nhau và vô tình làm bình an trở thành món quà xa xỉ. Một thứ vốn rất thanh nhàn, đẹp đẽ từ Thiên Chúa ai cũng có quyền thụ hưởng, giờ lại bị chính con người bóp méo, và chẳng có ai được hưởng trọn vẹn.

Vì vậy, người môn đệ của Đức Kitô là khí cụ của bình an. Một thứ bình an vượt qua nỗi sợ hãi, ham muốn, ganh tỵ, chia rẻ, bất đồng. Muốn thế, chúng ta phải thanh lọc tâm can mình. Chúng ta không được để tâm hồn bị ô nhiễm, vạ lây từ những thứ sai lệch của cuộc đời, theo kiểu mọi người làm thế, tôi cũng làm thế. Đi xa hơn, chúng ta cần biết hành xử theo những giá trị đúng của cuộc đời và của lương tâm Chúa đã khắc ghi. Vì lẽ, chúng ta là khí cụ của bình an, chứ không là tác giả của bất an. Chúa sai chúng ta đem bình an chứ không phải để gieo rắc hiểm họa. Chỉ như thế, Chúa mới có thể dùng chúng ta là công cụ mang bình an. Chỉ như thế, chúng ta mới xóa bỏ được nỗi bất an nơi những người chúng ta gặp gỡ. Ngược lại, nếu chính người môn đệ mang tin mừng bình an mà không được bình an thì biết tìm an bình ở nơi đâu? 

Lạy Chúa là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, xin lấy bình an của Chúa mà phủ che mọi nơi đau khổ, bất đồng, chiến tranh và thù hận...để thế giới được bình yên và mọi người được an vui thờ phượng Chúa và xây dựng hạnh phúc cho nhau. 

Lm. Phêrô Nguyễn Minh Thái

         

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN C

“HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ THẾ”

Lc 10, 25 – 37

Trong bài giáo lý về Năm Thánh Lòng Thương Xót hôm 27 tháng 4 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” để chia sẻ với khách hành hương tụ về quảng trường thánh Phêrô. ĐTC nói rằng: “Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu không bao giờ trừu tượng hay xa lánh, tình yêu “nhìn thấy” và đáp ứng. Lòng thương cảm của người Samaritanô là hình ảnh của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn nhận biết những nhu cầu của chúng ta và đến gần chúng ta với lòng yêu thương”.

Năm Thánh Lòng Thương Xót là một cơ hội để toàn thể GH cũng như mọi người chúng ta cần nhìn lại mối tương giữa chúng ta với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vì thế giới đang đứng trước tình trạng “toàn cầu hoá sự vô cảm” (ĐTC Phanxicô, sứ điệp mùa chay 2015). Con người ngày càng trở nên vô cảm với Thiên Chúa và trở nên vô cảm với nhau. Báo chí gần đây đã cho thấy tình trạng vô cảm đáng sợ này. Hằng ngày tai nạn xảy ra trên đường, nhưng rồi cũng có những con người nhìn thấy mà như không thấy, để rồi vô cảm bước đi. Tệ hơn nữa thay vì cứu giúp nạn nhân thì họ lại lợi dụng để lấy đồ của người bị  nạn. Tình trạng bạo lực trong gia đình, trong học đường ngày càng gia tăng. Có những học sinh đánh nhau rất tàn bạo trước sự cổ võ của bạn bè thay vì can ngăn. Và còn biết bao cảnh vô tâm vô tình của con người đối với đau khổ của người khác.

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong tâm khảm của mỗi người một lề luật không thể tẩy xoá đó là luật yêu thương. Tiếc rằng xã hội ngày càng bị tục hoá, làm cho con người không còn nghe được tiếng Chúa, không còn nghe được tiếng nói của lương tâm mình nên họ đã đánh mất đi sự yêu thương trong cuộc sống hoặc đã giới hạn tình yêu đó trong một không gian vị kỷ của riêng mình.

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với người thông luật, để đạt được sự sống đời đời không có con đường nào khác ngoài ngoài con đường thực thi tình thương “yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương thân cận như chính mình”. (x Lc 10, 27). Thế nhưng người thông luật muốn biết người thân cận của ông là ai. Phải chăng là gia đình, dòng họ, hay dân tộc ông? Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người Samaritanô để cho thấy người thân cận chính những người cần sự giúp đỡ của chúng ta, những người khốn khổ bên cạnh chúng ta, không phân biệt huyết thống, dân tộc, màu da.

Nếu như người Samaritanô trong dụ ngôn coi người thân cận là những người trong gia đình, trong huyết thống, thì anh không cần phải dừng lại để giúp đỡ một  người không bà con thân thuộc. Tệ hơn nữa những người Do thái này là kẻ thù của anh, họ luôn  coi anh, dòng họ anh, dân tộc anh là dân ngoại lai, dân vô đạo. Vậy mà anh đã chạnh lòng thương, dừng lại cứu giúp người bị nạn, không so đo tính toán thua thiệt. Anh đã cứu giúp người bị nạn bằng một lòng quảng đại thật lớn lao, bằng một con tim đầy tình người “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10, 35). Trong khi đó  thầy tư tế và thầy lêvi cũng thấy và biết người bị nạn là người đồng hương của mình, cùng tôn giáo với mình, nói theo luật thì đây là người thân cận của họ. Vậy mà họ đã tránh qua bên kia mà đi, thấy như không thấy. Như thế họ có yêu thương đồng loại như chính mình theo lề luật mà họ vẫn thuộc nằm lòng không? hay là họ chỉ yêu thương bản thân mình?

Người Samaritanô tốt lành đó chính là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng giàu lòng thương xót. Biết bao lần Ngài đã chạnh lòng thương trước nỗi đau khổ của con người. Một cách nào đó, chúng ta là những nạn nhân bị đánh đập, cướp bóc, bị thương tích nửa sống nửa chết, bị bỏ rơi dọc đường trên cuộc hành trình tìm về sự sống vĩnh cửu. Chính Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta, săn sóc lo lắng cho chúng ta. Logô Năm Thánh Lòng Thương xót, đã diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc Chúa Giêsu đã vác Ađam trên vai. Nói cách khác chính Ngài đã vác chúng ta và cả nhân loại đầy thương tích trên vai để săn sóc và chữa lành.

Kết thúc bài dụ ngôn Chúa Giêsu nói với người thông luật “ông hãy đi và làm như thế”. Hãy đi và thực thi lòng thương xót đối với đồng loại của mình như người Samaritanô chứ không phải như thầy tư tế, lêvi vô tâm vô tình trước những người cần được xót thương.

Lời Chúa hôm nay chất vấn lương tâm của mỗi người chúng ta về giới luật yêu thương. Những người đau khổ, những người cần được giúp đỡ vẫn luôn có đầy dẫy bên cạnh chúng ta, có khi ngay chính trong gia đình của chúng ta. Sống chung với nhau trong một gia đình chúng ta có thật sự hiểu rõ những nỗi niềm, những đau khổ của cha mẹ, của chồng, của vợ, của con cái không? Hay chúng ta vẫn thường vô tâm vô tình với họ? Sống chung vách, chung đường, chung sở làm nhưng có bao giờ chúng ta thật sự quan tâm trước những thất bại, những khó khăn về vật chất cũng như tinh thần của người bên cạnh chúng ta chưa?. Hay chúng ta thấy như không thấy, để rồi chúng ta tránh sang đường khác để đi.  Phải chăng nhiều lần chúng ta cũng nại đến lý do này lý do khác để tránh thực thi tình thương đối với họ?

Xã hội, Giáo hội và gia đình hôm nay đang rất cần những người Samaritanô nhân hậu như thế, đang rất cần những hạt muối hạt men như thế. Luật yêu thương của Chúa không chỉ nằm trong tâm trí hay trên môi miệng chúng ta, nhưng nó phải đi vào trong cuộc hằng ngày,  ĐTC Phanxicô đã nói: yêu thương nó không là cái gì trừu tượng hay xa lánh nhưng yêu thương là nhìn thấy và đáp ứng.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta trở thành những  người Samaritanô nhân hậu, để qua cuộc sống bác ái yêu thương của chúng ta, lòng thương xót của Chúa tiếp tục đụng chạm và chữa lành những đau khổ, bất hạnh của  con người hôm nay.

Lm. Philipphê Nguyễn Minh Thới

 

THẦN HỌC KINH THÁNH

THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ

Rõ ràng Thánh Phaolô là nhà thần học quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội – có lẽ ngoài Thánh Gioan, tác giả Tin Mừng, là người được chính Chúa Giêsu trực tiếp dạy dỗ - bởi vì Thánh Phaolô là người đã diễn tả nhiều mầu nhiệm làm nền tảng cho Kinh Tin Kính và cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo.

Chìa khóa cho thần học Thánh Phaolô chính là cuộc gặp gỡ của ngài với Đức Kitô vinh hiển trên con đường Đamát. Cuộc mạc khải mà trong đó ngài bị mù suốt ba ngày đã biến Phaolô thành con người mới. Kẻ truy lùng Đức Kitô đã biến thành một tông đồ nhiệt huyết, loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế đã được hứa trước, là Đức Kitô, là Chúa (Kyrios) và là Con Thiên Chúa. Vì được nhìn thấy Đức Kitô vinh hiển, ngài đã biến đổi từ một kinh sư Do Thái giáo thành kinh sư Kitô giáo. Phaolô đã nhìn thấy Đức Kitô, được nghe và được Ngài mời gọi, được sai đi để hoán cải thế giới. Vì mang trong mình lời mời gọi và được sai đi, Thánh Phaolô đã mặc lấy cái định mệnh đau khổ vì danh Đức Kitô – bị chối từ, ghét bỏ, đòn vọt, chìm tàu, ngục tù và cuối cùng bị người Roma chém đầu.

Đức Kitô là chìa khóa để hiểu Thánh Phaolô. Thần học của ngài là Kitô quy (Christocentric). Tin Mừng theo Thánh Phaolô là lời loan báo rằng Con Thiên Chúa đã trở thành con người trong Đức Giêsu Kitô để hòa giải nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua cuộc sống, khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đối với Thánh Phaolô, Đức Kitô là Đức Kitô vinh hiển, hiện giờ đang hiển trị trên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.

Sau đây là vài điểm chính yếu trong thần học Thánh Phaolô:

1) Vì tội Ađam và tội cá nhân mỗi người, hết thảy con người là tội nhân và cần được cứu độ (Rm 3, 23[1]; 5, 12-21[2]).

2) Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã sai Người Con của mình đến thế gian, sinh bởi người nữ (Gl 4, 4[3]), như thế mới là sự đền bù xứng đáng để chuộc lấy tội lỗi con người.

3) Người Con ấy là Đức Giêsu Kitô đã thông ban ân sủng của mình và công chính hóa tất cả những ai tin vào Ngài và chịu phép rửa.

4) Ân sủng của Đức Kitô gồm có việc sai Chúa Thánh Thần đến để làm cho các tín hữu trở nên con nuôi (dưỡng tử) của Thiên Chúa, thành chi thể trong thân thể Đức Kitô và là người thừa tự cuộc sống vĩnh cửu.

5) Đức Giêsu Kitô là sự thực hiện các lời tiên tri trong Cựu Ước, Ngài đã thiết lập Giao Ước Mới để thay cho Giao Ước Cũ của ông Môisê; vì thế, các kitô hữu không bị  ràng buộc bởi những lề luật kiêng kỵ và các nghi thức hay luật cắt bì chứa đựng trong Lề Luật Môisê. Điều này có nghĩa là không cần phải trở nên người Do Thái mới được làm kitô hữu. Nhãn quan này của Thánh Phaolô đã biến Kitô giáo thành tôn giáo mở cho tất cả mọi người (xem 1 Tm 2, 4[4]).

Trong hầu hết các thư của mình cho đến lúc cuối đời, Thánh Phaolô lý luận rằng đức tin vào Chúa Kitô đòi hỏi một lối sống luân lý dựa vào Mười Điều Răn, luật tự nhiên và lệnh truyền yêu mến Chúa và người thân cận (Rm 13, 9-10[5]).  Ngài cũng đề cập đến những quy tắc dành cho các giám mục, trưởng lão, ông già bà lão, vợ chồng, cha mẹ con cái, chủ tớ. Các kitô hữu phải tránh những quan hệ tính dục bất luân, thờ ngẫu tượng và những thói xấu khác của người ngoại giáo. Họ phải làm gương tốt trong lời nói cũng như việc làm cho tất cả mọi người. Ngài thường nhấn mạnh đến sự tinh tuyền của giáo lý và bảo vệ kho tàng đức tin của các Tông đồ cũng như phản bác những sai lầm của các ông thầy dạy giả mạo (Thư 1 & 2 Timôthê; Thư Titô).

Thánh Phaolô là vĩ nhân trong số các Kitô hữu. Trong phần lớn thư của mình, ngài nói về lần đến thứ hai của Đức Kitô. Ngài thúc bách mọi người chuẩn bị và mong chờ điều đó. Điều này có nghĩa là những ai chia sẻ sự sống của Đức Kitô sẽ được vào Giêrusalem trên trời và mãi mãi được hạnh phúc cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, khi Đức Kitô lại đến trong vinh quang.

----------------------

[1] Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa

[2] Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội.14 Thế mà, từ thời A-đam đến thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới.15 Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.16 Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính.17 Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.18 Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống.19 Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.20 Lề Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.21 Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

[3] Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật

[4] Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý

[5] Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.

(Bản dịch Kinh Thánh của nhóm CGKPV)

Tác giả: Lm. Kenneth Baker, SJ

Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ

Nguồn: Gpquinhon.org

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

BÀI 6. THIÊN CHÚA ƯU TIÊN VÀ CHÚ Ý ĐẾN CUỘC SỐNG. THIÊN CHÚA ƯU TIÊN VÀ CHÚ Ý ĐẾN NGƯỜI NGHÈO KHỔ VÀ YẾU ĐUỐI

Sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước không chỉ có ý nghĩa thiêng liêng, mà còn rất gần với thực tế của cuộc sống, và với đời sống xã hội của con người. Vì tội lội đã phạm, nên con người đáng phải chết, nhưng với lòng thương xót Thiên Chúa đã tha thứ, gìn giữ con người trong sự sống, và còn ban tặng sự sống mới cho con người. Thiên Chúa của chúng ta không phải là Thiên Chúa của sự chết, mà là Thiên Chúa của sự sống. Ngài không bao giờ mong muốn con người phải chết, mà Ngài ước mong con người được sống và sống dồi dào hơn. Thiên Chúa chẳng bao giờ vui sướng về cái chết của những người tội lỗi, mà Ngài chỉ mong chờ sự ăn năn sám hối trở về của tội nhân, để họ tiếp tục sống là con cái được Thiên Chúa yêu thương. “Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng – Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?” (Ed 18,23). Chúa Giê-su đã đón nhận sứ điệp của Cựu Ước và luôn nhắc lại rằng: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống” (Mc 12,27).

Như thế, lòng thương xót của Thiên Chúa chính là sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh gìn giữ, khuyến khích, tái lập, xây dựng và thăng tiến sự sống. Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt trên cái lô-gíc công lý của con người, công lý luôn chú ý đến hình phạt và cái chết đáng ban tặng cho người có tội. Lòng thương xót của Thiên Chúa mong muốn sự sống. Trong sự trung tín với Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân của Ngài và với lòng thương xót của Ngài, Thiên Chúa gầy dựng lại tương quan giữa Ngài với dân của Ngài, tương quan đã bị tội lỗi làm cho đổ vỡ. Thật vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn ưu tiên cho sự sống. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã diễn tả rõ ràng rằng, Thiên Chúa chúng ta tin không phải như Nietzsche nghĩ: Thiên Chúa là kẻ thù của sự sống. Với chúng ta, Thiên Chúa là sức mạnh (x.Tv 27,1), Thiên Chúa là nguồn mạch của sự sống (x.Tv 36,10). Ngài là người bạn của sự sống: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,26).[1]

Sự ưu tiên đặc biệt của Thiên Chúa luôn là ưu tiên chú ý đến người nghèo khổ và yếu đuối. Khi dân tộc Ít-ra-en còn nghèo nàn và sống ở Ai-cập đã được Thiên Chúa chú ý thương yêu và cứu thoát, đưa ra khỏi Ai-cập và đến vùng đất Chúa hứa. Điều này vẫn luôn luôn ở trong tâm thức của dân Ít-ra-en. Khi dân Ít-ra-en đến được vùng đất hứa, thì Thiên Chúa lại chú ý đặc biệt đến những người khốn cùng, nghèo khổ và yếu đuối đang sống trong vùng đất hứa này. Điều này được diễn tả qua các giới luật cấm ức hiếp và bóc lột những người ngoại kiều, những phụ nữ goá bụa và các trẻ em mồ côi (x.Xh 22, 20-26), cũng như luật che chở người nghèo hèn trước toà án (x.Xh 23,6-8). Sách Lê-vi còn viết ra luật lệ giúp mọi người cần có thái độ tốt trong tương quan xã hội: “ Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là Đức Chúa. Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là Đức Chúa. Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”. (Lv 19, 13-18).

Trong bài ca tạ ơn của bà Hanna, mà Mẹ Maria sau này đã lấy phần nào để hát lên bài ca Magnificat, có câu: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng” (2 Sm 2, 8). Cũng cần nhắc đến lề luật của ngày Sa-bát: “Trong sáu ngày, ngươi sẽ làm công việc của ngươi; nhưng ngày thứ bảy, ngươi sẽ nghỉ, để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức” (Xh 23,12).

Còn trong sách Đệ Nhị Luật, có phác thảo về một dân tộc không có người nghèo và cô đơn lẻ loi: “Tuyệt nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì Đức Chúa sẽ chúc phúc dồi dào cho anh (em) trong miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu” (Đnl 15, 4). Và còn nhiều giới luật bênh vực người ngoại kiều, cô nhi quả phụ và người nghèo khổ. Sự chăm sóc của Thiên Chúa và sự chú ý của Ngài dành cho người nghèo cũng được diễn tả rõ rệt trong sách của các tiên tri. Thiên Chúa lên án những người bóc lột, và bênh vực những người nghèo khổ bị bóc lột và ngược đãi (x.Am 2, 6-8; 4, 1.7-12; 8, 4-7). Thiên Chúa luôn quan tâm chú ý đến người nghèo khổ và không bao giờ bỏ rơi họ: “Những ai nghèo hèn, khốn khổ, tìm nước không ra, lưỡi khô vì khát, Ta, Đức Chúa, Ta sẽ đáp lời, Ta, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ta sẽ không bỏ rơi chúng” (Is 41, 17). Tiên tri I-sai-a cũng nói rằng, Đấng Mê-si-a sẽ đến với những người nghèo khổ:

“Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi,

vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,

sai đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,

băng bó những tấm lòng tan nát,

công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm,

ngày phóng thích cho những tù nhân” (Is 61,1).

Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa giàu lòng xót thương luôn chú ý đặc biệt đến những người nghèo khổ bất hạnh và yếu đuối. Ngài sẵn sàng bênh vực và chở che họ. Trong nhà Ngài luôn có chỗ cho họ, ngôi nhà tràn đầy lòng xót thương của Thiên Chúa quyền năng và trung tín.[2]

__________

[1] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 62-63.

[2] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 63-64.

 

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

CON SẼ LOAN BÁO TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA

CHO ANH EM CON !

Hưởng ứng theo lời mời gọi của Vị Chủ Chăn Giáo Phận, tôi quyết định “ra khơi”. Cùng đồng hành, tôi có những người hỗ trợ đắc lực, hai ông biện sở dẫn đường, hai bà Legio, ba em thiếu nhi để có thể dễ tiếp cận các bạn thiếu nhi khác. Lần này, chúng tôi quyết định đến với người lương, những người “vùng sâu vùng xa” hơn, người có hoàn cảnh đặc biệt, nghèo khổ, thiếu thốn, những bệnh tật đặc biệt. Đó là gia đình của ông ba, người dân tộc, lương dân.

Hành trang chúng tôi mang theo gồm vật chất và tinh thần, gồm những gói mì tôm, kẹo bánh, những bao gạo và cả những câu kinh, lời nguyện truyền giáo thầm thĩ. Giống như những lần trước, chúng tôi qui ước nhau trước khi ra khơi: hễ người này làm việc (nói chuyện) thì người kia cầu nguyện. Thỏa thuận những qui ước, chúng tôi bắt đầu lên đường.

Nhà chúng tôi đến thăm lần này nằm trong một nơi rất xa so với quốc lộ, con đường đến đó phải mất hơn 45 phút. Những đoạn đường chúng tôi đi qua thì không giống nhau, càng đi vô sâu hơn thì đường càng xấu hơn, có khúc lồi lõm, có khúc cong quẹo.... nên lúc đó tôi cầm tay lái xe mà có lúc phải cố gồng mình để vượt qua như những chặng đường thử thách của bờ kinh, rồi bờ mẫu, rồi phải vượt qua hai ba cánh đồng bạt ngàn, khúc khuỷu. Có khi chúng tôi phải dắt bộ vì chặng đường không thể chạy xe. Bầu trời tháng này thì nắng chói chang làm cho dặm hành trình thêm mệt nhọc nhưng đầy ý nghĩa...

Vừa đi, mọi người vừa thầm thĩ đọc kinh, cầu nguyện. Lúc đó trí tôi nảy lên một suy nghĩ nhỏ: ở chốn này người nào có việc khẩn cấp mà muốn ra khỏi nơi này cũng không phải “dễ dàng” huống chi những người bệnh tật, những người trong tình trạng “thập tử nhất sinh” mà muốn ra khỏi chỗ này đến bệnh viện thì chắc là khó rồi đó!!!

Chúng tôi cứ tiếp tục hành trình,... và mới đó, nhìn đồng hồ lại thì đã hơn 45 phút, cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi mình muốn.

Khi bước vào nhà, ai trong chúng tôi cũng mệt lã, áo thấm đầy mồ hôi... Mấy em thiếu nhi đi theo thì mặt nó nhăn nhó trông thật tội nghiệp. Dù vất vả nhưng chúng tôi được an bình vì biết rằng đây là việc truyền giáo, là hành trình loan báo Tin Mừng nên chỉ thoáng qua chúng tôi có thể xác định lại phương hướng công việc. Sau những câu  chào hỏi xã giao, ông biện sở giới thiệu nhóm chúng tôi đến thăm viếng thì họ càng mừng rỡ, sẵn lòng đón tiếp.

Nói chuyện một cách thân tình, chúng tôi khám phá ra, hai người cao tuổi giữ nhà và trông chừng trẻ con, còn hai vợ chồng con của ông bà đi làm thuê làm mướn ở phương xa (mà ông bà già cũng không biết ở đâu vì hai vợ chồng nó không có nghề nghiệp ổn định, nó chỉ biết làm việc tay chân, ai mướn làm gì được thì làm !!!), nên nhiều tháng nó mới mang tiền về nuôi cha má và mấy đứa nhỏ. Gia đình rất nghèo, chỉ có nền nhà để ở, nhà máy lá, vách lá xiêu vẹo trống trước trống sau...Trong ngôi nhà lụp xụp nghèo nàn này, chúng tôi còn khám phá ra có một đứa cháu đang mắc“bệnh đau” nên cả nhà phải vất vả vì nó. Thế nhưng không phải vì vậy mà người nhà sống thiếu lạc quan, trái lại họ càng lạc quan hơn và như đang đổ dồn tình thương cho em này.

Khi chúng tôi trao đổi, nói chuyện về niềm tin và tín ngưỡng thì ông bà biểu lộ niềm tin thấy rõ. Họ xuất thân trong dòng tộc lương dân, cùng nhau tin tưởng ở Phật “tại tâm”. Mặc dù không có bàn thờ Phật trong nhà và cũng chẳng có đi chùa nhưng ông bà chia sẻ niềm tin vào số phận, duyên phận của mình vào “ơn Trên” nên quyết tâm sống “ăn ngay ở lành, ở hiền gặp lành”, không gian tham, không trộm cắp, không nói lớn tiếng, không chửi rủa nặng lời ai cả và tin tưởng vào một ngày mai số phận mình sẽ thay đổi, tốt hơn, tươi sáng hơn, một “kiếp sau” sung túc và hạnh phúc hơn. Nghe đến đây, không bỏ lỡ “cơ hội” nên chúng tôi trao đổi và nói cho họ biết điều mà họ nỗ lực quyết tâm sống tốt như vậy thì bên Công Giáo chúng tôi cũng đang “thực hiện” đang làm theo ý muốn của Thiên Chúa và chúng tôi nhìn nhận đó là giới răn, lệnh truyền của Chúa. Là con người, ai ai cũng có lương tri nên phải sống theo lương tâm ngay chính, “ăn ngay ở lành” và sống hoàn thiện con người của mình nhưng người Công Giáo cần ơn Chúa, ơn Trên để sống tốt, sống hoàn thiện điều đó.

Như vậy, qua buổi gặp gỡ và trao đổi, chúng tôi nhận ra đây chính là sự quan phòng mà Chúa đã xếp đặt để chúng tôi có cơ hội nghe thấy, đón nhận và chia sẻ mà chúng tôi coi đó như việc ca ngợi Chúa, làm sáng danh Chúa, và có thể nói là “thả lưới” bắt cá. Vì thế, chúng tôi cố gắng trao đổi chân tình, cởi mở, chủ ý tạo tương quan tốt với họ để từ đó mong Chúa “làm những điều Ngài muốn”. Đồng thời chúng tôi cũng mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm “sống đức tin” bằng thái độ Mến Chúa Yêu người, không phân biệt người giàu nghèo, người có đạo Công Giáo hay chưa, chúng tôi còn cho họ biết mình kính sợ “Đấng Trên Cao” và quý trọng người đồng loại. Bên cạnh đó chúng tôi cũng không quên trao đổi, trao ban, chia sẻ những câu chuyện lương thiện và những phần quà vật chất cụ thể.

Sau chuyến gặp gỡ đó làm cho chúng tôi có thêm xác tín vào Tình Thương của Thiên Chúa, thêm nghị lực, lòng mến yêu tha nhân và Thiên Chúa hơn. Sau cuộc hành trình này, tôi nhận ra những bài học kinh nghiệm cho mình, xin được chia sẻ như sau:

Một là, Thiên Chúa yêu thương tôi và cũng luôn yêu thương những người lương dân nữa. Chúa đã để tiếng nói của Ngài nơi lương tâm ngay chính mỗi người, kể cả anh chị em lương dân. Đó là mẫu số chung để con người biết “làm lành lánh dữ, ở hiền gặp lành”. Vì thế, những người mà chúng tôi gặp hôm nay đã cho thấy điều đó.

Hai là, tôi nhận ra, Chúa để cho có người lương đang sống bên cạnh để tôi có cơ hội nhìn về Chúa và về anh em. Nhìn về Chúa để tôi cộng tác với Chúa đem ánh sáng của Chúa đến cho họ. Nhìn về họ để tôi coi tha nhân, đặc biệt người lương dân là anh chị em của mình. Nhờ đó tôi sống hết mình đáp trả tình thương Thiên Chúa bằng việc sẵn sàng giúp đỡ, yêu mến và kính trọng lương dân.

Ba là, tôi nhận ra, chung quanh tôi còn nhiều người nghèo, kém may mắn hơn tôi. Điều đó giúp tôi trân trọng những gì mình đang có và cũng biết mở lòng quảng đại, sẻ chia cho tha nhân. Hơn nữa dù gặp khó khăn, mình sẽ không nản lòng thối chí nhưng quảng đại tin tưởng vào tình thương của Chúa.

Bốn là tôi ý thức phải cầu nguyện và nỗ lực cùng với mọi người sống đời cầu nguyện để nhờ ơn Chúa duy trì đời sống liên lạc, gắn bó với Chúa và tha nhân.

Cuối cùng, tôi nhận ra rằng, mỗi bước tôi chân thành đến tha nhân, đặc biệt anh chị em lương dân là tôi càng được thôi thúc đến gần hơn với Chúa và chân thành chia sẻ tình thương của Chúa cho họ

Để kết thúc bài này, như một tâm tình tích cực muốn chia sẻ, tôi mượn lời của Thánh Vịnh 89 câu 2 để tự nhắn nhủ lòng mình luôn hưởng ứng và sống tâm tình theo lời kêu gọi của Đức Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long của tôi hiện nay như sau: “Con sẽ loan báo Tình Thương của Chúa cho anh em con” (Tv 89, 2). Bằng tâm tình Tạ Ơn, bằng cách sống đức tin, bằng tâm tình yêu mến và hăng say công việc truyền giáo, việc Loan báo Tin Mừng... để giới thiệu Chúa cho mọi người.

Xin Thiên Chúa hoàn tất những điều tốt đẹp Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.

Lm. Đamianô Lê Đình Khôi

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

KÍNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU

Tháng Sáu được Giáo hội dành kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm là Chúa Giêsu Đại dương Lòng Thương Xót của Ngài, nơi đã tuôn chảy Máu và Nước đến giọt cuối cùng, và là nguồn ân sủng cho các linh hồn.

Thánh LM Padre Piô Năm Dấu nói: “Chúng ta hãy nhớ rằng Thánh Tâm Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta không chỉ để thánh hóa chúng ta, mà còn vì linh hồn của chúng ta. Ngài muốn cứu độ các linh hồn”.

Sau cuộc Khổ nạn, Sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, các Kitô hửu thời sơ khai đã hiểu rõ tình yêu hy sinh của Chúa. Được Thánh Gioan hướng dẫn, các Tông đồ và các Thánh sử, kể cả Thánh Phaolô, và những người theo Đức Kitô đã truyền bá lòng tôn sùng Tình yêu Vĩ đại của thiên chúa. Họ ca tụng và tạ ơn Tình yêu vô điều kiện của Đức Kitô dành cho nhân loại qua biểu tượng Thánh Tâm bị đâm thâu. Thời đó người ta gọi là Tình Yêu Thiên Chúa.

Trong 10 thế kỷ đầu, người ta chưa biết sùng kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Đến thề kỷ XI và XII, các dòng Biển Đức và Xitô bắt đầu có cách tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Lòng sùng kính này được truyền bá nhưng không được phát triển.

Khoảng cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV, một nữ tu Dòng Xitô là Gertrude ở Saxony có một thị kiến vào ngày lễ Thánh Gioan. Bà được tựa đầu vào vết thương ở ngực Chúa và nghe được nhịp đập của Thánh Tâm Chúa Giêsu, bà cảm nghiệm được cảm xúc mà bà không thể diễn tả. Rất kỳ diệu. Lúc đó bà hỏi Thánh Gioan về cảm xúc của Thánh Gioan như thế nào khi được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly mà sao không thấy Thánh Gioan nói về điều đó. Thánh Gioan nói với bà rằng sự mặc khải được giữ lại cho thế hệ khác trong tương lai, khi nào thế giới trở nên lạnh nhạt và đắm chìm trong tội lỗi thì mới cần nhen nhóm lại tình yêu của nhân loại dành cho Thiên Chúa. Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu vẫn là lòng sùng kính riêng đối với 3 thế kỷ kế tiếp.

Thế kỷ XVII, đức tin Công giáo bị rung động dữ dội vì nhiều đợt tấn công chống lại Giáo hội. Tin Lành nổi lên và có thêm tà thuyết Jansen (*). Tuy nhiên, cũng có các áp lực mạnh chống lại những mối đe dọa này. Vào ngày lễ Thánh Gioan (cùng ngày Thánh Gertrude đã có thị kiến từ 3 thế kỷ trước), ngày 27-12-1673, một nữ tu người Pháp là Margarita Maria Alacoque (1647-1690) cũng đã thị kiến như Thánh Gertrude.

Trong thị kiến của bà, Chúa cho phép bà tựa đầu vào ngực và mặc khải cho bà những điều kỳ diệu của Tình Yêu Chúa, cho bà biết rằng Chúa muốn nhân loại nhận biết Tình Yêu Ngài qua Thánh Tâm Ngài. Điều này tiếp diễn qua những lần thị kiến khác kéo dài suốt 18 tháng. Khoảng 6 hoặc 7 tháng sau lần hiện ra đầu tiên, Chúa Giêsu yêu cầu được tôn kính qua hình tượng Trái Tim bằng Thịt. Hiện ra trong ánh hào quang và tình yêu, Chúa Giêsu yêu cầu lòng sùng kính này được tiếp nối bằng việc rước Mình Máu Chúa vào ngày Thứ Sáu Đầu Tháng và làm Giờ Thánh.

Tháng 6-1675, lần “thị kiến quan trọng” xảy ra là Chúa Giêsu bày tỏ Thánh Tâm có lửa và vòng gai quấn quanh. Ngài yêu nhân loại quá đỗi nhưng chỉ nhận lại được sự vô ân bội nghĩa. Ngài vừa chỉ vào Thánh Tâm vừa yêu cầu Thánh Margarita Maria Alacoque vận động Giáo hội mừng lễ Thánh Tâm. Ngài nói với Thánh nữ nói với LM Claude de la Colombrière để được hướng dẫn. Như vậy, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu chính thức bắt đầu với sự giúp đỡ của LM Gioan Eudes và LM Claude qua những bài viết về Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hai linh mục này là tu sĩ Dòng Tên, và cả hai đều đã được phong thánh.

Sau khi nữ tu Margarita Maria Alacoque qua đời năm 1690, lễ Thánh Tâm cũng chỉ được lan rộng cả Pháp quốc. Mãi tới năm 1856, lễ Thánh Tâm mới được lan rộng cả Giáo hội toàn cầu. Sau nhiều nghiên cứu của các thần học gia, ĐGH Lêô XIII mới ban sắc lệnh về việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu vào ngày 11-6-1899. Và rồi nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhiều giáo xứ, nhiều trường học, nhiều bệnh viện, nhiều dòng tu,… đã lấy tên Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được ĐGH Clêmentô XIII phê chuẩn năm 1765 cho một số các giáo phận, và được ĐGH Piô IX phê chuẩn cho sùng kính khắp thế giới từ năm 1856. ĐGH Lêô XIII đã dâng cả thế giới cho Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 1899.

Tại Philippines, việc tôn sùng linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu là việc thực hành thường xuyên ở hầu hết các gia đình, nhất là khi làm phép nhà. Việc tôn kính linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu kết hợp với lời nguyện ngắn: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài” (O Sacred Heart of Jesus, I place all my trust in You). Thật giống với việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài” (Jesus, I trust in You). Tuy hai mà một, đúng là một-trong-hai vậy!

Trong một lần hiện ra với Thánh Margarita Maria Alacoque, Chúa Giêsu đã trao 12 lời hứa dành cho những ai tôn sùng Thánh Tâm:

1.       Ta sẽ ban cho họ mọi ơn cần thiết cho đời sống của họ.

2.       Ta sẽ ban bình an cho gia đình của họ.

3.       Ta sẽ an ủi họ trong mọi cơn gian truân.

4.       Họ sẽ tìm thấy nơi Thánh Tâm Ta sự ẩn náu an toàn trong cuộc sống và nhất là trong giờ lâm tử.

5.       Ta sẽ đổ tràn phúc lành trên công việc của họ.

6.       Các tội nhân sẽ tìm thấy nơi Thánh Tâm Ta một Đại Dương Thương Xót bao la.

7.       Ccá linh hồn nguội lạnh sẽ trở nên sốt sắng.

8.       Các linh hồn sốt sắng sẽ mau trở nên trọn lành.

9.       Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày và tôn kính linh ảnh Thánh Tâm.

10.     Ta sẽ ban cho các linh mục sức mạnh lay chuyển các linh hồn chai đá nhất.

11.     Nhưng người truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm Ta sẽ được ghi tên trong Thánh Tâm Ta và không hề bị phai nhòa.

12.     Với lòng lân tuất của Thánh Tâm, Ta hứa rằng tình yêu toàn năng của Thánh Tâm sẽ ân ban cho những người rước lễ liên tiếp 9 thứ sáu đầu tháng được ơn ăn năn trong giờ sau hết, không phải chết thất nghĩa cùng Ta, lại được lãnh nhận các bí tích vì Thánh Tâm Ta sẽ nên nơi ẩn náu vững vàng trong giờ lâm tử.

Đọc lại những lời hứa này, chúng ta thấy rất giống những gì liên quan Lòng Chúa Thương Xót. Ngày nay, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu rất phổ biến trong Kitô giáo ở khắp thế giới. TạiPhilippines, người ta dâng lễ và rước lễ vào mỗi Thứ Sáu Đầu Tháng. Sức mạnh và lòng thương xót của Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được minh chứng qua thời gian và đang được tiếp tục.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, xin thương xót chúng con, xin giúp chúng con chân nhận tình yêu bao la và vô điều kiện của Ngài để chúng con có thể cảm nghiệm những nhịp đệp thương xót của Ngài. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Đức Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

--------------------

(*) Jansenism: Thuyết của Thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết Tiền định Luân lý (Moral Determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.

Trầm Thiên Thu

Nguồn : tinmung.net

1212    13-06-2016 01:58:49