Sidebar

Thứ Năm
18.04.2024

Nguyệt san tháng 7/2016: Công Lý Và Hòa Bình Trong Xã Hội: Khởi Đầu Cho Lòng Thương Xót

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.6.2016

Kính gửi: Quý Cha

           Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót được thực thi giữa người với người trong cuộc sống hằng ngày. Tháng nầy, tôi đề cập chủ để Lòng thương xót trong luật công bình (số 20-21).

- Luật Công bình và Lòng thương xót. Lãnh vực nầy không muốn nhắm vào tầm nhìn mang tính pháp lý: có tội thì phạt, nhưng muốn nói về sự biểu hiện của tình yêu thương xót.

Công bình là gì? “Công bình được hiểu là những gì thuộc về ai, thì phải trao cho người ấy” (số 20). Công bình chính trực trong kinh thánh là chu toàn việc tuân giữ Lề Luật, giữ luật nghiêm nhặt. Nhưng để tránh sự khắt khe nầy, “đức công chính chủ yếu được hiểu là sự phó thác đầy tin tưởng vào thánh ý Thiên Chúa” (số 20). Đâu là thánh ý Thiên Chúa?

Đối với Chúa Giêsu: thánh ý Thiên Chúa là ở đức tin hơn lề luật. Chúa cần lòng thương xót hơn lề luật căn cứ trên sự công bình. Công bình theo nghĩa là ai giữ lề luật là người công chính, còn ai không giữ lề luật là người tội lỗi. Làm như thế, chúng ta sẽ chia xã hội chúng ta đang sống thành hai nhóm người: Người công chính và người tội lỗi. Mỗi nhóm có sinh hoạt riêng của nhóm. Kết quả sẽ sinh ra những mặc cảm, sự phân biệt tốt xấu. Chắc Chúa mong muốn xã hội nầy chỉ còn một nhóm người sống không phân biệt, biết tha thứ thương yêu nhau, mọi người sống chung và nhìn nhau bằng cặp mắt yêu thương hơn.

Chúa Giêsu trích dẫn câu nói của tiên tri Ôsê: “Ta muốn lòng thương xót chứ không muốn hy lễ” (Os. 6, 6). Thật rõ ràng, Chúa muốn lòng thương xót, Chúa đặt nặng lòng thương xót, lấy lòng thương xót làm tiêu chuẩn để sống, chớ không dựa vào nghi thức của hy lễ, bởi vì nghi thức hy lễ là do con người đặt ra những qui định có thể thay đổi hoặc mất đi. Những qui định đôi khi khó thực hiện đối với một số người. Không thi hành thì không làm đúng luật qui định, họ sẽ trở thành người “bất chính”.

Vào một khoảng nào đó, Đền thờ đổ nát và những lễ hy sinh không còn, chỉ còn lòng thương xót là có giá trị như hy lễ trước mặt Chúa. “Lòng thương xót” theo nghĩa cụ thể là những “nghĩa cử bác ái” (nuôi dưỡng người nghèo, thăm viếng bệnh nhân...). Chúa Giêsu vượt trên lề luật và tiếp xúc ngay cả đối với tội nhân nói lên rất nhiều về lòng thương xót.

Lòng thương xót không hề đối nghịch với đức công bình, vì cả hai đều hướng tới tình yêu. Theo đức công bình thì ai có tội thì phải chịu phạt, hình phạt là sự công bình, nhưng hình phạt còn là điểm khởi đầu cho việc hoán cải, và khi con người hoán cải thì con người được tha thứ. Hình phạt như thế là để nhắc nhớ con người đừng tái phạm, hình phạt có tính cách sửa chữa. Từ hình phạt con người mới cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa (x. số 21).

Xin Chúa giúp chúng ta sống đức tin, sống sự công chính và đặc biệt là sống lòng thương xót một cách cụ thể: thương linh hồn bảy mối, thương xác bảy mối. Nhờ đó, cộng đoàn Họ đạo chúng ta mới cảm nghiệm được bầu khí yêu thương, mới cảm nghiệm được tình Chúa bao la đối với con người.

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 7/2016

CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH TRONG XÃ HỘI:

KHỞI ĐẦU CHO LÒNG THƯƠNG XÓT

 1. Sự dửng dưng toàn cầu hoá

 Dửng dưng là đóng kín con tim trước tha nhân, nhắm mắt không nhìn thấy xung quanh mình, hay tránh né không để bị đụng chạm bởi các vấn đề của người khác, nhất là của những người cùng khổ, gặp nạn. Đức Thánh Cha Phanxicô nói thái độ dửng dưng ngày nay đã vượt quá ngưỡng cá nhân, thềm gia đình, để mang chiều kích toàn cầu[1]. Đức Thánh Cha nêu lên vài hình thức dửng dưng ngày nay:

– Trước hết là sự dửng dưng đối với Thiên Chúa. Từ đó mà con người dửng dưng với tha nhân, với thiên nhiên, thế giới thụ tạo. Con người hiện đại, hậu hiện đại thường cho mình là tác giả của chính mình, của cuộc sống mình và của xã hội. Con người tự thấy mình đầy đủ không cần đến Thiên Chúa.

– Nhiều người có thông tin về thảm cảnh của đồng bào, đồng loại, nhưng mù mờ. Họ không cảm thấy được lôi cuốn, không sống cảm thương, nghĩa là không có lòng từ bi lân ái. Đó là thái độ của người biết, nhưng có cái nhìn, tư tưởng, hành động hướng tới chính mình. Thời đại của chúng ta, rất tiếc, gia tăng thông tin quá nhiều, nhưng rất thiếu sự quan tâm từ con tim biết liên đới, từ lương tâm rộng mở.

– Trường hợp khác: dửng dưng bởi thiếu chú ý đối với các thực tại xung quanh, đặc biệt là các thực tại ở xa. Không hỏi thăm tin tức, không tìm kiếm, họ điếc trước tiếng kêu than của nhân loại khổ đau, chỉ biết hưởng thụ của cải mình có. Không có khả năng cảm thương, chạnh lòng trước thảm cảnh, như thể tai hoạ, bất công xảy ra là trách nhiệm xa lạ của ai đó khác, không phải của tôi.

– Sống trong một Ngôi Nhà Chung là Trái Đất, chúng ta không thể dửng dưng về tình trạng sức khỏe của nó. Ô nhiễm môi sinh: nguồn nước, không khí, khai thác rừng không phân biệt, là hậu quả của sự dửng dưng đối với người khác.

 2. Hoà bình bị đe doạ

 Dửng dưng tạo thái độ khép kín, không dấn thân, rốt cuộc nó góp phần đẩy Thiên Chúa ra xa thế giới con người, làm vắng bóng hoà bình. Sự dửng dưng đối với Thiên Chúa ngày nay vượt quá phạm vi cá nhân lấn nhanh vào phạm vi đời sống công cộng xã hội.

 Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói có một nối kết mật thiết giữa việc làm vinh danh Chúa với việc xây dựng hoà bình của con người trên trái đất này[2]. Bởi thế, nếu “không rộng mở ra với Đấng siêu việt, con người dễ trở thành mồi ngon cho chủ thuyết duy tương đối và rồi sẽ khó mà hành động theo công lý và dấn thân cho hoà bình”[3]. Trước một số hiện tượng gây hấn, xâm lấn của một số thế lực lớn áp đảo dân nước nhỏ, ta thấy lời cảnh báo của Đức Giáo hoàng Bênêđictô là tiên tri: “Lãng quên và khước từ Thiên Chúa dẫn đưa con người tới chỗ không thừa nhận luật lệ cao hơn mình nữa, và chỉ lấy mình làm quy tắc, và chúng đã tạo ra sự tàn ác và bạo lực vô chừng mực”[4].

 Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở: “Trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, sự thờ ơ đối với tha nhân, con đẻ của sự dửng dưng đối với Thiên Chúa, mang dáng vẻ của sự bất động và không dấn thân, chúng dưỡng nuôi việc kéo dài các tình trạng bất công và mất quân bình xã hội trầm trọng. Tới lượt mình, chúng có thể dẫn đưa tới các xung đột, hay trong mọi trường hợp, làm nảy sinh một bầu không khí bất mãn có nguy cơ, mau hay chậm, bùng nổ thành bạo lực và bất an”[5].

 3. Liên đới: khởi đầu của Lòng Thương Xót

 Kỷ niệm 50 năm sau Công đồng hai tài liệu Nostra Aetate và Gaudium et Spes diễn tả cách hùng hồn ý thức liên đới của Hội Thánh với thế giới. Trong Tuyên ngôn Nostra Aetate Hội Thánh được mời gọi rộng mở cho việc đối thoại với các tôn giáo không Kitô. Trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, từ lúc “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, của người nghèo và nhất là của tất cả những người đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô”[6], thì Hội Thánh đã ước mong thiết lập một cuộc đối thoại với gia đình nhân loại liên quan tới các vấn đề của thế giới, như dấu chỉ của tình liên đới và sự trìu mến tôn trọng[7].

 

Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong sứ điệp gửi thế giới Ngày Hoà Bình Thế giới 2016: “Trong viễn tượng này, cùng với Năm Thánh Lòng Thương Xót tôi muốn mời gọi Hội Thánh cầu nguyện và hoạt động để mọi tín hữu Kitô có thể có một con tim chín muồi khiêm nhường và từ bi, có khả năng loan báo và làm chứng cho lòng thương xót, “tha thứ và cho đi”, rộng mở “cho những ai sống trong các vùng ngoại biên rải rác nhất của cuộc sống, mà thế giới hiện đại tạo ra một cách bi đát”, không “rơi vào sự dửng dưng coi thường, không rơi vào thái độ thói quen máy móc làm tê liệt tâm hồn và ngăn cản khám phá những sự mới mẻ, không rơi vào thái độ hoài nghi cay độc hủy diệt”[8].

 Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

 1. Trong gia đình, trong khu xóm, làng xã, trường học, trong giáo xứ anh chị, đã và đang có những hoạt động gì để làm sạch môi sinh? Có những “điểm nóng” nào cần thúc đẩy, cổ võ kêu gọi mọi người cùng hợp tác hơn nữa để kiến tạo công lý và hoà bình?

 2. Anh chị cảm thấy gì trước tiếng kêu gào của các nạn nhân trong thảm hoạ môi trường ô nhiễm, tiếng kêu thét của thiên nhiên bị tàn phá bởi dã tâm và sự ích kỷ của con người?

 3. Anh chị hiểu như thế nào về nối kết giữa việc người Kitô hữu chúng ta sống Lòng Thương Xót và bổn phận xây dựng công lý và hoà bình?

–––––––––––

 [1] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế giới 2016, 3

[2] Cf. ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn trước ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh, ngày 7.01.2013.

[3] Ibid.

[4] ĐGH Bênêđictô XVI, Phát biểu ngày liên tôn cầu nguyện cho công lý và hoà bình tại Assisi ngày 27.10.2011.

[5] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế giới 2016, 4.

[6] CĐ Vatican II, Hch. Gaudium et Spes, 1.

[7] Ibid. 3.

[8] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế giới, 2; cf. Misericordiae vultus, 14-15.

 Văn Phòng HĐGMVN

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Sống trong cộng đồng xã hội, người ta cần phải có tương quan với nhau. Mà Chúa dạy “Phải có lòng thương xót như Chúa Cha”. Và muốn có lòng thương xót thì người ta phải tôn trọng công ích và hoà bình. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết phục vụ cho hoà bình và công ích, hầu khởi đầu cho lòng thương xót được thực hiện.

2.       Chúa phán: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu biết dùng mọi khả năng Chúa ban, để phục vụ cho công ích và hoà bình, hầu thể hiện lòng thương xót đối với mọi người.

3.       “Xin Chúa thương xót chúng con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu cảm nghiệm được lòng Chúa thương xót đối với mình; từ đó mỗi người biết tôn trọng hoà bình và công ích, để loan báo lòng thương xót Chúa.

4.       Chúa Đức Maria nói: “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết mưu ích cho công bằng xã hội, biết loan báo lòng thương xót Chúa cho mọi người.

Kết thúc: Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, để Ngài thêm sức mạnh nội tâm, giúp chúng con tìm công ích và hoà bình trong xã hội, mà làm chứng cho lòng thương xót Chúa đối với mọi người trên trần gian. Chúng con cầu ….

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền

 

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

CÔNG ÍCH MỞ NGỎ CHO LÒNG THƯƠNG XÓT

Công ích là gì? Có ít nhất là ba ý được từ điển tiếng Việt định nghĩa về từ công ích. Ở đây, xin được dùng định nghĩa thông dụng nhất của Công ích là lợi ích chung của một cộng đồng, một tập thể. Như vậy, phục vụ cho công ích là phục vụ cho cộng đồng, cho tập thể. Nói đơn giản hơn phục vụ cho công ích là phục vụ cho một nhóm người sống trong một khu vực địa lý nhất định hay một nhóm người có chung những đặc điểm sắc tộc, tôn giáo… ở đây người viết chỉ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh con người cụ thể trong một cộng đồng hầu thấy được đâu là những nội dung mà con người có thể phục vụ để mưu cầu lợi ích cho nhau vươn tới hạnh phúc trọn hảo.

Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 nói rõ: "một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc ". Trong bản tuyên ngôn này ta thấy nơi xã hội loài người nhìn nhận con người có những quyền tất yếu, bất khả xâm phạm do tạo hóa ban cho như là một chân lý hiển nhiên, những quyền này không do một xã hội loài người nào tạo ra và càng không phải là do một tổ chức nào “ưu ái” ban tặng.

Tuyên ngôn cũng nêu ra ba quyền căn bản của con người đó là: quyền sống, quyền được tự do, và mưu cầu hạnh phúc. Những quyền căn bản này là của mọi người, ở mọi thời điểm, trong mọi hoàn cảnh vì là luật của tạo hóa.

Trước hết là quyền sống: Mặt tiêu cực của quyền sống là không ai có thể làm hại hay tước đoạt mạng sống của người khác vì bất cứ lý do gì. Tích cực hơn, quyền được sống mời gọi con người phát triển và gìn giữ sự sống, cùng chung xây một thế giới nhân loại ngày càng phát triển về vật chất lẫn tinh thần, từ “no cơm ấm áo” đến “ăn sang mặc đẹp”. Thế nhưng, nhìn vào xã hội ngày nay ta thấy biết bao nhiêu những hành động người ta xúc phạm đến quyền sống của con người. Con người kêu gọi bảo vệ chó mèo nhưng lại cổ xúy cho việc phá thai vô tội vạ, có những tổ chức xã hội coi phá thai như là một phương thức hữu hiệu để hạn chế sinh sản và phát triển đất nước. Vì tiền bạc vật chất người ta giết nhau bằng những loại chất kích thích gây ảo giác dẫn đến chết người, vì sự “an nhàn” cho bản thân người ta kêu gọi ủng hộ cho việc an tử… còn nhiều những vấn nạn xúc phạm đến phẩm giá và quyền sống của con người.

Kế là quyền được tự do: Tự do ở đây không phải muốn làm gì thì làm, hay tự do trong khuôn khổ nhưng là tự do trong chân lý, trong sự thật. “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8, 32), sống trong sự thật mới được thật sự tự do. Trên thế giới ngày nay chúng ta vẫn còn đó những quốc gia độc tài, đàn áp làm cho người dân mất tự do mà chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy được. Cũng có những hình thức nô lệ mới tinh vi hơn, khó nhận biết hơn như nô lệ cho tiền bạc vật chất, nô lệ quyền lực, nô lệ cho công nghệ, nô lệ cho những đam mê xấu, nô lệ tội lỗi…những hình thức nô lệ này làm cho con người không  thể vươn lên để dám sống cho tình yêu, cho chân lý trọn hảo.

Sau là quyền mưu cầu hạnh phúc: Con người vừa là thể xác vừa là tinh thần nên những gì chỉ thuộc vật chất không thể làm thỏa mãn được con người, không thể làm cho con người được hạnh phúc trọn vẹn. Quyền mưu cầu hạnh phúc là quyền được tìm kiếm con đường hạnh phúc cho mình trong thể xác và tinh thần, quyền bình đẳng “được theo hay không theo tôn giáo nào”. Trong thực tế nơi xã hội loài người, không phải lúc nào quyền này cũng được tôn trọng, lịch sử Giáo hội chứng minh điều đó cách rõ ràng nhất, hoặc cũng có thể là cách không minh nhiên chèn ép mưu cầu hạnh phúc này nhưng nếu ai không đi trên “con đường” thể chế vạch ra thì bị xem như là công dân hạng 2, những người đáng được để ý…

Chúa Giêsu, hiện thân của Lòng Thương Xót, Người đến trong trần gian để cho nhân loại thấy tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa khi dựng nên con người theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.  Người khơi lại cho nhân loại thấy con người chỉ hạnh phúc khi sống trong Thiên Chúa với những quyền do Thiên Chúa đặt để nơi họ. Thánh Irênê đã nói: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống”, con người càng sống dồi dào thì Thiên Chúa càng được vinh hiển, hay cũng có thể nói trước mặt Thiên Chúa con người giá trị biết bao.

Là người Kitô hữu, là người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu chúng ta được mời gọi làm cho vinh quang của Thiên Chúa được vinh hiển cụ thể nơi những con người đang sống bằng cách bảo vệ và làm cho các quyền căn bản của con người được tôn trọng nơi bản thân mình và nơi tha nhân, đồng thời làm cho các quyền ấy được phát triển nơi mọi cộng đồng xã hội nhân loại.

Khi chúng ta phục vụ cho công ích, phục vụ cho cộng đồng, phục vụ cho con người là chúng ta đang mở ngỏ để cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được tuôn tràn nơi nhân loại, nơi cộng đồng và trên mọi người chúng ta.

Lm. Philipphê Phạm Huy Phong

 

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM (tt)

C. Đức vâng lời

I/. Phương diện lịch sử

          1/. Đức vâng lời nơi các ẩn sĩ

          2/. Đức vâng lời nơi các đan sĩ cộng đoàn

3/. Đức vâng lời theo thánh Đa-minh và thánh Inhaxiô

II/. Đức vâng lời theo Kinh Thánh.

III/. Đức vâng lời theo phương diện thần học

IV/. Đức vâng lời theo phương diện giáo luật

Trong phần tìm hiểu đức vâng lời theo phương diện giáo luật, chúng ta nhận thấy Giáo hội dạy trong hai phương diện: nghĩa vụ của người tu sĩ phải vâng lời bề trên và những chỉ dẫn cho các bề trên trong cách thức thi hành quyền bính của mình.

Phương diện thứ nhất (nghĩa vụ của người tu sĩ), Giáo hội dạy như sau:

Lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, được đảm nhận trong tinh thần đức tin và đức ái để theo bước Đức Kitô là Đấng đã vâng phục cho đến chết,// đòi buộc ý chí một sự phục tùng các Bề Trên hợp pháp, khi các ngài đại diện Thiên Chúa ban lệnh hợp theo hiến pháp riêng (đ.601).

Điều 601 ở trên nêu lên hai phần: phần đầu liên quan đến thần học về đức vâng lời. Ở đây chúng ta không đề cập thêm vì đã trình bày trong phần thần học về đức vâng lời trong tháng trước. Trong phần giáo luật nầy, chúng ta đề cập đến phần thứ hai của điều 601, nghĩa là những yếu tố thuộc về pháp lý mà thôi. Những yếu tố đó là: “bề trên hợp pháp”, “truyền khiến thay mặt Thiên Chúa” và “hợp theo hiến pháp”. Lần lượt chúng ta tìm hiểu từng yếu tố đó:

1.       Bề trên hợp pháp

Mặc dù các tác giả tu đức khuyên nhủ người tu sĩ hãy vâng lời hết mọi người để rèn luyện đức bác ái, khiêm nhường và từ bỏ mình, nhưng giáo luật cẩn thận và đề phòng những lạm dụng có thể xảy ra. Do đó, giáo luật chỉ buộc các tu sĩ vâng lời các bề trên hợp pháp, tức những người nắm giữ quyền hành hợp pháp, trong giới hạn mà luật chung và luật riêng đã trao phó cho họ (đ.617). Điều nầy có nghĩa người tu sĩ chỉ buộc vâng lời bề trên riêng của mình, chứ không phải bất cứ bề trên nào, lại càng không buộc vâng lời các bề trên không thuộc dòng của mình.

Tuy nhiên, các nhà lập pháp đặt ra một khoản trừ ở điều 590§2, đó là tất cả các tu sĩ do lời khấn vâng lời có nghĩa vụ tuân phục Đức Thánh Cha như bề trên tối cao (cá nhân Đức Thánh Cha, chứ không nới rộng cho những cơ quan Giáo triều Rôma).

Đối với hàng giáo phẩm, các tu sĩ phải tỏ ra lòng hiếu thảo đặc biệt; phần các giám mục, giáo luật không cho phép các giám mục truyền các tu sĩ phải tuân phục nhân danh đức vâng lời, kể cả đối với dòng thuộc luật giáo phận, xét rằng các giám mục không phải là bề trên của dòng. Vì thế, các linh mục khác càng không có quyền để sai bảo các tu sĩ phải vâng lời.

Trong lãnh vực mục vụ của các tu sĩ, điều 678§1 nêu lên một vài quy định phải tuân phục Đức giám mục giáo phận: “Trong những gì liên quan đến việc coi sóc các linh hồn, việc cử hành công khai thờ phượng Thiên Chúa và các việc tông đồ khác, các tu sĩ phải tùy thuộc quyền của các Giám Mục, mà họ có bổn phận phải tận tình suy phục và kính trọng”. Bên cạnh đó, khoản 2 của điều 678 lại lưu ý rằng: “Khi làm việc tông đồ ở ngoài, các tu sĩ còn phải tùy thuộc quyền các Bề Trên của mình và phải trung thành với kỷ luật của tu hội; chính các Giám Mục phải nhớ thúc bách họ giữ nghĩa vụ ấy, khi hoàn cảnh đòi hỏi”. Vì vậy, để hài hòa giữa Đức Giám mục giáo phận và Bề trên Nhà dòng, Giáo hội lưu ý: “Trong khi tổ chức việc tông đồ của các tu sĩ, các Giám mục giáo phận và các Bề trên nhà dòng phải đồng lòng với nhau trong hành động” (678§3).

2.       Truyền khiến thay mặt Chúa

Ở cụm từ “truyền khiến thay mặt Chúa” có lẽ nhiều người sẽ than rằng “Bề trên cũng là con người”, có những ý muốn và sở thích riêng tư cá nhân, làm sao phân định cái nào là “truyền khiến thay mặt Chúa” còn cái nào là yếu tố con người với những ý muốn và sở thích riêng tư cá nhân của bề trên?

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Lời phải củ cải cũng nghe”. Điều đó nhắc nhớ chúng ta rằng con người có lý trí, mà lý trí được thu hút bởi sự thật. Vì lẽ đó, sự truyền khiến của bề trên và sự vâng lời của người tu sĩ cần phải được đặt trong khuynh hướng của con người tìm về sự thật, và chỉ có sự thật mới thu hút hoàn toàn con người.

Một cách dễ hiểu hơn, ví chúng ta như là những em bé chập chững đi tìm sự thật; chúng ta mò mẫm để biết sự thật, và chúng ta cần có những thầy dạy chúng ta. Vai trò của thầy không phải là dạy cái sở thích của họ mà là dạy sự thật, cố gắng giúp cho môn sinh nhận ra sự thật. Quan năng để nhìn nhận sự thật là lý trí chứ không phải là ý chí hay vũ lực. Hiểu như vậy, sự vâng lời không phải là chuyện hòa hợp các ý chí (tu sĩ hòa ý chí của mình theo ý của bề trên, biểu hiện của ý Chúa), cho bằng lồng tất cả trong tương quan với chân lý: cả bề dưới lẫn bề trên đều cần phải biết phục thiện, cởi mở đón nhận sự thật. Đừng ai vội đồng hóa sở thích của mình với chân lý, nhưng cả đôi bên đều cần phải khiêm tốn lắng nghe nhau và tìm hiểu chân lý.

Trong bối cảnh của mối tương quan đối với chân lý về đường trọn lành nói chung, chúng ta cũng có thể gắn chân lý về công ích của cộng đoàn. Đặt mối tương quan với cộng đoàn, cả bề trên lẫn bề dưới cố gắng tìm cách phục vụ cộng ích (của cộng đoàn tu viên, của dòng hay của Giáo hội) chứ không phải sở thích riêng gì của ai. Dưới cách nhìn đó, sự vâng lời trở thành sự thực thi bác ái: khi sai bảo, bề trên muốn giúp cho bề dưới được tiến hơn trong đức ái hoàn hảo; khi vâng phục, bề dưới tỏ ra tình yêu mến bề trên như một người anh/chị em mang trách nhiệm phải cáng đáng công ích cho cộng đoàn, chia sẻ gánh nặng với bề trên.

Ngày nay khi bàn tới sự vâng lời, các tác giả không những nói tới bổn phận của bề dưới mà còn nói tới bổn phận của bề trên nữa, tỉ như bổn phận phải cầu nguyện, phải đối thoại... Ngoài ra, bề trên còn có bổn phận phải thi hành chức vụ của mình nữa. Nếu như bề dưới lỗi đức vâng lời vì không tuân lệnh thì bề trên cũng lỗi vâng lời vì không ra lệnh, chứ không phải chỉ lỗi đức vâng lời khi ra lệnh độc đoán cá nhân. 

3.       Vâng lời theo Hiến pháp (tháng sau)

(Viết theo Cha Phan Tấn Thành, chú giải GL, q.2).

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ

 

TRANG LINH MỤC

ĐÔI BÀN TAY

Chức Linh mục được thiết lập như chiếc cầu nối giữa Thiên Chúa và con người, mang lại cho nhân loại hạnh phúc và niềm vui. Là người tín hữu, ai cũng hiểu Linh mục quan trọng như thế nào đối với các cộng đoàn đức tin. Linh mục là người đồng hành với người giáo dân, từ khi chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Trong những biến cố vui buồn của đời người, Linh mục luôn hiện diện để đem đến cho họ ân sủng, phúc lành và sự an ủi của Thiên Chúa.

 

Như thế, đôi tay Linh mục là dụng cụ Thiên Chúa dùng để chiếu tỏa ban phát chúc lành của Người cho trần gian. Ngày lãnh nhận chức Linh mục, đôi bàn tay của ứng sinh Linh mục được xức dầu thánh hiến. Đây là dấu hiệu cho phép Linh mục được ban các Bí tích biểu hiện cho sự gần gũi cùng lòng trung thành của Thiên Chúa với con người.

Trong suốt cuộc đời Linh mục, mỗi khi cử hành các Bí tích, Linh Mục đều dùng đôi tay đã xức dầu thánh hiến mà ban phát.

Khi ban Bí tích Rửa tội cho trẻ em, cho người lớn, Linh mục cũng dùng đôi tay đổ nước trên đầu cùng xức dầu thánh cho em bé, cho người lãnh nhận Bí tích rửa tội.

Khi dâng Thánh Lễ, Linh mục cũng dùng đôi bàn tay cầm tấm bánh, chén rượu lễ giơ lên, cầm Mình Thánh Chúa trao cho người tới tiếp rước Thánh Thể Chúa, rồi sau lễ ban phép lành kết lễ của Chúa cho tín hữu Chúa.

Ngày đôi bạn trẻ dắt tay nhau đến trước bàn thờ Chúa trao cho nhau Bí tích hôn nhân, Linh mục cũng giang đôi tay ra đọc lời chúc lành của Chúa cho họ.

Trong tòa giải tội, Linh mục giơ tay chúc lành đang khi đọc lời tha tội cho người đến xin hòa giải cùng Thiên Chúa.

Đến thăm người bệnh yếu đau, Linh mục dùng bàn tay xức dầu thánh xin ơn tha thứ và củng cố sức mạnh tâm hồn đức tin cho người đau yếu.

Chưa hết, Linh mục còn dùng đôi tay của mình xoa dịu an ủi những người trong bước đường lâm gặp cảnh sầu khổ họan nạn.

Đôi tay của Linh mục được xức dầu thánh hiến ngày chịu chức Linh mục cho công việc phụng tự thờ kính Thiên Chúa và phép lành của Người. Và qua đôi tay đó tình yêu thương lòng khoan dung của Thiên Chúa chiếu tỏa đến với con người trong trần gian.

Trong mỗi Thánh Lễ, Linh mục dang đôi tay đọc lời kinh nguyện Thánh Thể kêu khấn lòng khoan dung của Chúa: “Chúa đã cho chúng con được xứng đáng hầu cận trước tôn nhan và phụng sự Chúa“. Lời kinh này không chỉ nói lên tâm tình tạ ơn, nhưng còn nhìn nhận việc tế lễ phụng thờ Thiên Chúa bắt nguồn từ nơi Đấng đã kêu gọi ban cho chức Linh mục.

Trong lúc truyền chức Linh mục, Đức Giám Mục chủ tế thinh lặng nhân danh Thiên Chúa và Giáo Hội đặt đôi tay trên đầu ứng sinh Linh mục. Cử chỉ đặt tay, theo nguồn gồc trong Kinh Thánh Cựu ước là hành động của chúc phúc lành.

Cử chỉ này còn mở rộng ra hơn nữa: Không chỉ ứng sinh Linh mục nhận được chúc lành. Nhưng chúc lành của Thiên Chúa còn lan tỏa rộng sang tới những người khác từ đôi bàn tay chúc lành của Linh mục. Linh mục là người được Thiên Chúa đặt tay chúc lành, và cũng là người dùng đôi tay mang chuyển chúc lành của Thiên Chúa tiếp cho người khác nữa.

Như thế, đôi tay này gắn liền với việc mục vụ tế tự của Linh mục. Vì thế, Linh mục phải luôn nhớ rằng:

- Đôi bàn tay Linh mục là đôi bàn tay Thiên Chúa dùng chuyển mang chúc lành bình an từ trời cao đến cho tâm hồn con người.

- Đôi bàn tay cùng với tâm hồn của Linh mục là nhân chứng cho lòng khoan dung của Thiên Chúa giữa con người.

- Đôi bàn tay và môi miệng của Linh mục là phương tiện Thiên Chúa dùng cho việc rao giảng văn hóa phúc âm nước Trời giữa trần gian.

- Đôi bàn tay và cung cách sống tình người của Linh mục là nếp sống tình yêu lòng trung thành của Thiên Chúa luôn có mặt bên cạnh con người.

Lm. Giacôbê Hoà Bình

 

 

TRANG TU SĨ

HỒNG ÂN THƯƠNG XÓT

Tôi đi nhiều nơi, tham dự nhiều Lễ Thánh hiến và Tạ ơn của các Chị Nữ tu. Hầu hết đều rất hạnh phúc và tỏ ra sung sướng hãnh diện trong ngày ấy, nhưng tôi đặc biệt ấn tượng khi tham dự thánh lễ tạ ơn của một Nữ tu tiên khấn nọ. Cả dòng họ Chị là người ngoại đạo, chỉ có một mình mẹ Chị manh danh phận người tín hữu Kitô, thế nên cuộc sống của bà như cung đàn lạc điệu với gia tộc. Thế rồi khi sinh Chị, bà phải đấu tranh lắm mới được người mẹ chồng cho phép rửa tội cho con. Rủi thay chồng bà đột ngột ra đi, để lại hai mẹ con đơn côi. Cuộc đời bà những tưởng thế là bế tắc chuyện giữ đạo. Mà quả thật là thế, bà chỉ mới khuyến dụ được chồng theo dự lớp học giáo lý tân tòng không bao lâu thì ông mất, gia đình chồng vốn khác niềm tin lại không mấy thiện cảm với người Công giáo nên không muốn giữ hai mẹ con trong nhà.

Nhưng lạ lùng, bà mẹ ấy không những vượt qua được mà còn có thể làm thay đổi cái nhìn của gia đình chồng về đạo, lại còn có thể cho con gái độc nhất của mình đi tu. Bây giờ, Chị cầm tờ giấy viết những dòng chữ cám ơn mà rưng rưng nhắc đến cuộc sống bao đắng cay, cùng những hy sinh của bà mẹ để Chị có được hồng ân cao quý này. Hôm nay tham dự thánh lễ tạ ơn, có cả gia tộc, cả những người trước đây không thích mẹ con Chị, họ đến và chúc mừng. Lạ lùng quá!

Lân la hỏi chuyện, tôi lại càng thấy phục người mẹ ấy nhiều hơn. Sau khi chồng mất, bà không đòi cho được những quyền lợi về vật chất và cả việc tinh thần là được giữ đạo. Bà sống trong nhà chồng như người chỉ biết đến phục tùng và phục vụ. Đâu ai biết được mỗi đêm khi giấc ngủ mọi người còn căng tròn trên giường êm ấm, bà lặng lẽ đánh thức con gái mình dậy, dạy cho con những kinh trong đạo, Chị vẫn còn nhớ những lời kinh của Chị nhiều lần dang dở, gục gặc trên vai, trên ngực mẹ mình, nhưng dường như những lúc ấy các lời kinh theo tiếng đập của trái tim bà mẹ cứ từng nhịp, từng nhịp thấm vào lòng trí của chị. Vì gia đình chồng khá giả nên mẹ Chị cũng không phải cực nhọc theo kiểu lam lũ bần hàn nhưng thay vào đó là nỗi khổ tâm dai dẳng vì Đức tin.

Khi Chị được 13 tuổi, bà mẹ xin gởi con vào tu viện, gia đình chồng biết được, kẻ thì bĩu môi: “Phí của trời! có con gái độc nhất không để nó ở nhà phụng dưỡng mẹ, đạo gì mà ác nhân!”. Người thì chép miệng: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ ấy là chân tu…công tình nuôi nấng giờ phủi bụi cho gió cuốn, có công bằng với bà chăng?”. Chỉ riêng người mẹ chồng không chống mà cũng không thuận: “Cũng hên lắm vì nó là con gái, chứ là cháu đích tôn thì không có chuyện này đâu. Thôi lo liệu sao cho thuận đường thuận lối, gia đình đừng xáo động…”

Thế là Chị đi tu, bà mẹ vẫn ở nhà, từng ngày vẫn phục tùng và phục vụ, và rồi…người ta nhận ra công bằng là phần họ thiếu với bà, vì bà đã chẳng hề gây điều chi ảnh hưởng đến tình nghĩa gia đình mà còn là giây hòa giải những khi gia đình bối rối. Họ nhận ra rằng chính họ và thái độ của họ đối với niềm tin của bà là một sự thiếu bác ái và thiếu công bình.

Cho đến hôm nay, khi được vinh dự ngồi ở hàng ghế dành cho quý bậc sinh thành, được nghe những lời cám ơn của người cháu gái nữ tu, bà nội Chị thốt lên với bà mẹ: “Này con dâu, Thiên Chúa của con chắc tốt lắm hả? thấy con và con bé hạnh phúc mà…chỉ có bà già này đang thấy cần suy nghĩ rồi.”

Tôi thấy thật lạ lùng công trình do tay Chúa thực hiện bởi Lòng Thương Xót của Người. Việc Chị đi tu, đối với người không hiểu biết gì về đạo thì có vẻ như bất công, bất hiếu với bà mẹ nhưng đối với bà mẹ lại là một niềm hạnh phúc. Chị nữ tu học được nơi chính cuộc đời và con người của mẹ mình một đức tin son sắt, kiên cường và một niềm hy vọng lớn lao vào quyền năng, tình yêu của Thiên Chúa. Có thể đúng như có người nhìn thấy Chị dường như không công bằng khi bỏ lại mẹ hiền để ra đi, phục vụ những con người không ruột thịt, không họ hàng, hy sinh vì công ích của con người nơi nào đó xa xôi… nhưng trong Đức tin của bà mẹ, bà thấy tự hào và ước mong con bà phải luôn làm tốt được những điều ấy. Còn trong Đức tin của tôi, bà mẹ là cây bút vẽ lại những nét đẹp của Lòng Thương Xót Chúa nơi chính cuộc sống của bà, nơi tâm hồn trong sáng của người nữ tu bé nhỏ con bà. Ôi lạ lùng thay! 

MTG Cái Nhum

 

HÃY MỞ LÒNG RA

Trong những năm gần đây, khi bước vào hè, giới trẻ họ đạo của Dì Vân phục vụ đóng góp một việc gì đó đem lại công ích cho xã hội. Với trách nhiệm phụ trách giới trẻ của giáo xứ, nhân buổi họp các Huynh trưởng vào đầu hè, Dì Vân trình bày:

- Cha sở bận việc nên phải vắng nhà. Dự tính đầu năm của Cha là mùa hè nầy sẽ làm con đường nối liền Đất thánh tới xóm Chòi cho sạch sẽ để con em đi học.Vật tư Cha đã lo đủ rồi, các em cố gắng làm, để khi Cha về thì mọi việc tốt đẹp.

Một Huynh trưởng hỏi:

-        Thưa Dì! Xóm Chòi lương dân không hà, làm đường tốt cho họ đi có uổng công không?

-        Một Huynh trưởng khác tiếp lời:

-        Nhóm quậy phá Nhà thờ cũng ở xóm đó, làm đường tốt cho họ đi sướng chân à. Em đồng ý làm đường như Cha muốn, nhưng trừ lối đi của mấy nhà quậy phá. Chừa ổ voi, ổ gà cho nó đi ăn trộm té gảy giò cho biết.

 

Ánh mắt đượm buồn của Dì Vân nhìn từng em... Dì nhẹ nhàng nói:

-        Lời Chúa dạy chúng ta phải thương người, phải sống làm sao để lương dân nhận ra dung mạo của Chúa nơi chúng ta. Các em hãy mở lòng ra, hơn nữa các em là đàn anh của giới trẻ; phải nên gương sáng cho mầm non của họ đạo chứ! Dì mong các em quảng đại và tích cực hơn thì việc làm mới mang lại công ích cho dân chúng.

Trưởng nhóm từ tốn nói:

-        Xin Dì tha thứ cho sự nông cạn của chúng em, chúng em sẽ thay đổi tư tưởng và cố gắng làm tốt việc nầy.

Thế là con đường được khởi công, nhờ sự điều động và chịu khó của nhóm Huynh trưởng, của giới trẻ góp phần lao động; chỉ trong hai tháng con đường lầy lội được đấp lại và trãi đá sạch sẽ, người người phấn khởi đi lại. Ngày con đường hoàn thành cũng là ngày Cha sở đi xa trở về họ đạo. Giáo dân vui mừng đón chào Cha, nhất là giới trẻ phấn khởi khi thấy Cha rất vui vì con đường đã hoàn tất như ý Cha muốn.

Đang khi giới trẻ mừng Cha sở thì có người hốt hoảng chạy tới đưa tin:

-        Hai thằng xì ke say rượu, té máu me tùm lum, nằm bên lề đường gần cổng Nhà thờ kìa.

-        Cha sở vội vàng nói với Dì Vân:

-        Dì và vài huynh trưởng nhanh chân đến giúp nạn nhân. Mau lên!!!

Đến hiện trường thì thấy cả hai bị trầy xước xơ xát, Dì Vân lau chùi thương tích và nhờ các huynh trưởng đưa họ đến trạm xá. Mọi việc xong xuôi, nạn nhân được đưa về nhà ở cuối xóm Chòi, nơi tập trung của nhóm quậy phá. Được biết đây là hai tên chuyên ăn trộm vặt, kiếm tiền hút chích, xóm làng bất an vì những băng nhóm nầy.

 

Từ sự cố ấy, nhóm Huynh trưởng thường xuyên đến thăm hai bạn và giúp đỡ những gia đình thiếu lành mạnh do tệ nạn xã hội, đặc biệt quan tâm đến trẻ con thất học. Bước đầu cũng phải đối diện với sự cứng cỏi, ngang bướng của họ. Nhưng với sự kiên nhẫn và tấm lòng nhân ái của các Huynh trưởng đã làm thay đổi cả xóm Chòi: người già được chăm sóc sức khỏe, người trẻ có công ăn việc làm, trẻ con được học hành và trong xóm bớt đi những tiếng chưởi thề văng tục.

Lòng thương xót Chúa đã chạm đến con tim của các Huynh trưởng và giới trẻ trong họ đạo, khiến họ biết mở lòng ra, dốc hết tâm lực mình để mưu cầu lợi ích chung. Nhờ có con đường sạch sẽ giúp người qua lại không còn vất vả, nhất là tấm lòng nhân ái của nhóm huynh trưởng đã đem lại sự yên ổn cho xóm làng. Những ngày lao nhọc vất vả làm đường qua đi, các huynh trưởng và giới trẻ họ đạo cảm nhận được niềm vui khi thấy mình góp phần vào công ích xã hội và làm cho xóm làng được an vui.

MTG Cái Mơn

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

KIÊU NGẠO

Để nói về tính tự hào kiêu căng người ta thường hay kể truyện Con Ếch như sau: “Con ếch muốn rời khỏi vùng lạnh giá phía bắc để đến vùng phía nam vì mùa đông băng giá sắp tới rồi. Nhưng nó quá lười biếng không muốn nhảy hàng trăm cây số đường dài nên mới nghĩ ra một kế.

Nó thuyết phục được hai con ngỗng trời lớn. Theo kế hoạch, thì mỗi con ngỗng ngậm một đầu của một chiếc que gỗ, còn ếch thì cắn vào chính giữa. Như thế là cả ba bay lên trời về hướng nam. Ếch sung sướng nhìn xuống đồng ruộng và kiêu hãnh.

Tình cờ có một nhà nông làm ở ngoài đồng với đứa con trai. Cha con ngước mắt lên trời thấy hai con ngỗng bay mà ngậm ở hai đầu một que gỗ cho con ếch ngoạm vào. Người cha nói với con:

-        Con thấy gì không? Bố không hiểu ai đã thuyết phục hai con ngỗng đó mà chúng lại cho con ếch bay lên trời như vậy.

Ếch ta nghe được khoái chí lắm, nhưng không dám nói gì. Sau cùng không chịu được nữa nó nói thật to:

-        Ta đây chứ ai!

 Vừa lúc ấy nó rơi từ trên trời xuống và chìm sâu trong bùn, vùng vẫy mãi mới ngoi lên được.

Có kẻ nói rằng mỗi khi ai tự hào về một việc gì thì người ấy nên được cảnh cáo bằng câu này: "Cuối cùng rồi cũng hỏng việc. Vì kiêu căng đi trước thất bại theo sau”. 

 

Kinh Thánh cũng nói về điều này: “Thiên Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho người khiêm tốn” (x. Gc 4,6). Khi bị người đời chống lại còn nguy hiểm, phương chi bị Thiên Chúa đối địch thì khủng khiếp biết bao, khốn nạn biết bao. Lu-xi-phe khi trước là Thiên Thần nhất phẩm nhưng vì kiêu ngạo đã hoá thành tướng quỷ hoả ngục. Ông bà nguyên tổ cũng vì kiêu ngạo muốn biết sự lành sự dữ như Thiên Chúa nên đã mất mọi ơn lành và đưa nhân loại vào tình trạng khốn nạn đau thương.

Bản tính kiêu ngạo có thể phát sinh từ lúc nhỏ, có thể hình thành trong lối sống. Bên cạnh sự thành công, tự mãn chình là sự kiêu căng. Sự tự kiêu có nghĩa là đắc chí với cái mình có mà người ta không có, mình tài giỏi hơn người khác.

Đến đây làm cho tôi liên tưởng đến đời tu; Tu được là do Chúa chọn và con người đáp trả chứ không phải ai cũng tu được. Rồi sau những năm tu học không phải ai cũng học được. Rồi sau khi học xong không phải ai cũng được khấn, được thụ phong, được gọi bằng cha, được tung hô quá tài giỏi, quá đạo đức. Rồi khi ra họ đạo cha cũng tưởng mình là “Bách khoa toàn thư” nên việc gì chỉ có cha mới là đúng, là số 1… từ đó, hình thành nên một tính cách tự kiêu, tự đại.

Chúng ta vẫn thường hay nói trong ngày thụ phong: “tất cả là hồng ân” là do Chúa thì lấy gì mà tự kiêu tự đại. Được dạy dỗ trong chủng viện nhiều năm, được hít thở không khí và ở một môi trưòng đạo đức trước khi thực sự sống giữa lòng đời, nhưng với số vốn liếng trong bằng đó năm, so  với  va chạm đời linh mục sau đó, thực thì như muối bỏ biển, nghĩa là rất khiêm tốn, rất ít.

Thực chất trên đời này, không ai giỏi hơn ai hết, cái chính là ta phải biết kiên trì, siêng năng, nỗ lực, phải khiêm tốn, thật thà. Vì "khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ – tự kiêu một chút cũng là nhiều". Nhiều – ít không phải ở số lượng mà tự kiêu một lần sẽ tạo thói quen lâu dài làm ta tự đắc, tự mãn nhưng đó chỉ là "ếch ngồi đáy giếng", chỉ biết mình là nhất – một mộng tưởng làm mất chí phấn đấu trong cuộc sống, mà cuộc sống phải biết vươn lên, tìm tòi, học hỏi. Tự kiêu – một tính cách không tốt – một tương lai không bền.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra rằng: Chúng con cũng mang thân phận con người là hư vô, tội lỗi, có sự gì là bởi Thiên Chúa ban cho, do đó phải quy hướng về Chúa với tâm tình khiêm tốn và biết ơn. Để chúng con đừng bao giờ có lời nói hoặc thái độ khinh dễ người khác và biết dẹp tính khoe khoang, cậy mình và năng nhớ lời Chúa dạy: “Ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống được Chúa nâng lên”

Lm. Gioan Nguyễn Tiến Thiện

 

 

TRANG THIẾU NHI

 

 BÀI GIÁO LÝ QUAN TRỌNG

Bà mẹ quay đầu xe, nổ máy chuẩn bị về, thằng con trai 6 tuổi dậm hai chân phản đối, tay nắm chặt yên xe kéo lại. Tôi chụp tay thằng bé giải cứu cho mẹ nó. Chụp hụt, thằng bé nhanh hơn, buông yên xe chạy một hơi ra đường lớn, chạy thẳng về nhà. Tôiù tưởng bà mẹ thua cuộc chạy theo chở đứa con trai về. Lát sau, bất ngờ, tôi thấy bà ngồi trước lớp giáo lý rước lễ vỡ lòng canh thằng con trai. Tôi nghĩ thầm trong đầu, thì ra bà mẹ đã chiến thắng…

Chiều hôm sau, lớp giáo lý rước lễ vỡ lòng nhốn nháo lên vì một bạn vừa học vừa khóc. Tôi bước vào lớp nhắc nhở các em giữ trật tự cho giáo lý viên dạy, mới biết được bạn đang khóc là thằng bé tôi chụp hụt chiều hôm qua. Rút kinh nghiệm, tôi chụp tay nó trước khi nó chạy, rồi nháy mắt kêu ông ngoại nó về đi. Ông ngoại nhè nhẹ dắt xe ra lén lút như ăn trộm. Thằng bé như chủ nhà rình sẵn từ lúc nào khóc rống lên: “Ông ngoại hỏng được về, ông ngoại về là con về”. Giống thằng hề, vừa khóc, nó vừa quay sang nói với tôi: “Một chút, có thằng nào đánh con, con qua méc chị Huyền nhe?”. Chết mày rồi, tôi đoán biết yếu điểm khi nó nói câu đó: nó sợ bị người ta bắt nạt. Tôi ra lề luật vội vàng cho cả lớp: “Đứa nào đánh bạn này sẽ bị ăn 3 cây roi”. Luật tôi vừa ra thì thằng bé ra luật mới: “Ông ngoại hỏng được về, kêu ông ngoại con để chiếc xe đó, con thấy bảng số xe con mới ở”. Tôi dịnh tay thằng bé thật chắc như một chú công an. Thằng bé giữ ông ngoại nó kiên cố như một anh cai tù. Ông ngoại chỉ còn cách đứng tại chỗ, lấy điện thoại ra gọi viện binh tới cứu. Mười lăm phút sau, bà ngoại thằng bé chạy xe đạp lên yểm trợ cho ông ngoại rút lui an toàn. Bà tiếp tục sử dụng chiêu thức của mẹ nó hôm qua, ngồi lúp ló trước phòng giáo lý. Nhìn bộ dạng bà ngồi bệt dưới gạch cho cháu yên tâm học giáo lý, như một giáo lý viên, bà đã dạy tôi bài học hay về tầm quan trọng của giáo lý đối với trẻ em nói riêng và với người kitô hữu nói chung.

Khoá giáo lý hè 2016 đang mở ra dạy cho các em thiếu nhi biết Chúa. Bài học: “Tầm quan trọng của giáo lý” cần ông bà cha mẹ dạy kỹ lưỡng cho con cái mình trong những hoàn cảnh khác nhau:

1. Dạy khi trẻ tới tuổi học giáo lý: Có những bậc cha mẹ đợi con chín, mười tuổi mới đưa tới nhà thờ ghi tên học lớp giáo lý rước lễ vỡ lòng. Phụ huynh viện nhiều lý do khác nhau năn nỉ các cha. Các cha có thể thông cảm cho em thiếu nhi đó học ít rước lễ nhanh nhưng ai sẽ đứng ra lãnh trách nhiệm về những thiệt hại sau giáo lý? Ngoài việc lãnh Bí tích, học giáo lý là quá trình mở trí cho con cái nhận biết Chúa là cha, hiểu biết Chúa để sống đạo đàng hoàng tử tế. Học giáo lý ít thì ai dám bảo đảm sau này các em biết Chúa nhiều và sống đạo tốt? Mặt khác, trong thời gian học giáo lý, các em thiếu nhi được mời gọi tham dự thánh lễ, viếng Chúa trước giờ giáo lý, khuyến khích đọc kinh sáng tối, lần chuỗi yêu mến Đức Mẹ, … tập sống đức tin bằng những việc làm cụ thể. Ngoài bài hocï đức tin, các giáo lý viên còn dạy kỹ lưỡng các bài học nhân bản xen kẻ và nhiều bài học hay khác, trang bị hành trang cần thiết cho trẻ làm người và làm con Chúa. Hiểu được nhiều mục tiêu quan trọng của giáo lý, các bậc phụ huynh cần hy sinh sắp xếp công việc gia đình để đưa con cái tới nhà thờ học giáo lý đúng tuổi.

2. Dạy thường xuyên bằng việc quan tâm giáo lý: Khoá giáo lý hè đã mở mấy tuần nay nhưng các bậc cha mẹ có biết được những thông cần thiết về việc học giáo lý của con cái mình không? Sách Giáo lý con học dầy mỏng, nội dung thế nào, bao nhiêu bài? Con mình học lớp nào? giáo lý viên nào dạy? Con học giáo lý ngày nào trong tuần? Học giáo lý xong, con có đi lễ hay trốn về? Con trốn học giáo lý, trốn lễ đi chơi game ở tiệm game nào? Con học giáo lý về có học bài giáo lý hay không? Tình hình học giáo lý con mình ngoan hay làm biếng?... Các bậc cha mẹ quan tâm càng kỹ lưỡng, chi tiết việc học giáo lý hè thì con cái sẽ hiểu được sự quan trọng của giáo lý đối với cuộc đời nó và sẽ cố gắng học giỏi giáo lý hơn cả học các môn học trên ghế nhà trường.

3. Dạy trong hoàn cảnh khó khăn: Trời mưa ba mẹ mặc áo mưa chở con đi học giáo lý. Cha mẹ bận việc nhưng vẫn nhờ cô, cậu chở cháu đi học giáo lý. Cha mẹ dắt con đi thăm ông bà ngoại ở xa nhưng vẫn tranh thủ về sớm cho con cái đi học giáo lý kịp giờ. Học thêm tháng hè, cha mẹ bắt con chọn thời gian học không trùng với giờ giáo lý…Trong thời gian con cái đang ra sức học bài học lý thuyết giáo lý để sống đức tin, cha mẹ đóng vai trò thực hành lý thuyết đức tin cho con cái thấy: Cha từ chối độ nhậu khi chưa đi lễ, mẹ đi bán về mệt vẫn không bỏ lễ Chúa Nhật; Mùa Euro trùng mùa giáo lý, cha mẹ hy sinh bỏ những trận Euro khuya thứ bảy để dành sự tỉnh táo, sốt sắng cho thánh lễ sáng Chúa Nhật; Cha nhịn cử càphê sáng, mẹ hạn chế tha kem đánh phấn để đi lễ Chúa Nhật đúng giờ; Cha mẹ duy trì đọc kinh tối chung trong gia đình dù hoàn cảnh khó sắp xếp; … Hoàn cảnh càng khó khăn, cha mẹ càng tạo điều kiện thuận lợi cho con cái học giáo lý đầy đủ mỗi ngày, hoàn cảnh càng khó khăn, cha mẹ cần nổ lực sống đức tin tốt, đó là cách cha mẹ đang đào sâu bài học “tầm quan trọng của giáo lý” cho con cái mình.  

Giáo Hội như một con thuyền xuôi dòng thời gian mùa hè 2016 chở các em thiếu nhi Công Giáo tới gặp Chúa Giêsu. Ông bà cha mẹ được mời gọi trở thành một trong những cái mái chèo, vất vả cùng chèo, cùng chống với các cha, các dì, các thầy, các giáo lý viên,… đưa các em thiếu nhi về tới bến bờ đức tin cách an toàn và nhanh chóng. 

Lm. Phaolô Phạm Thanh Sơn

 

 

TRANG GIỚI TRẺ

VẠCH TRẦN "CÁI TÔI" VỪA BÍ VỪA HIỂM

Trước hết chúng ta truy nguyên xem "Cái Tôi" này được hình thành như thế nào? Một em bé khi bắt đầu nhận thức thế giới chung quanh cũng là lúc quá trình cài đặt bắt đầu… có thể nói người máy bắt đầu họat động. Tùy theo chương trình mà có những phản ứng khác nhau:

-        Nếu được khen thì phổng mũi lên!

-        Nếu bị chê thì cảm thấy mất mặt…

-        Nếu được ủng hộ thì vững tin hơn…

-        Nếu bị phản đối thi chán nản buông xuôi...

-        Nếu thành công thì trong lòng hớn hở tưng bừng…

-        Nếu thất bại thì buồn thúi ruột...

-        Nếu tình yêu được đáp lại thì như được bay lên chín tầng trời…

-        Nếu tình yêu bị từ chối thì thất tình muốn nhảy xuống sống tự tử cho rồi…

-        Nếu nổi bật giữa đám đông thì tự hào, vênh cái mặt lên…

-        Nếu bị cho ra rìa thì mặc cảm tự ti, muốn xa lánh mọi người…

Đó là chuyện trần gian, còn chuyện đạo đức cũng vậy:

-        Nếu được Cha Sở trọng dụng thì coi người trong xứ bằng nửa con mắt…

-        Nếu bị Cha Sở “đì” thì bực mình, bỏ luôn cả đạo, chằng cần Chúa, Bà gì nữa…

-        Nếu ca đoàn tôi hát hay hơn các ca đoàn khác thì chúng tôi hỉ hả với nhau… Nếu hôm nào bát bể thì chúng tôi cúi mặt không dám nhìn đời…

-        Nếu có ai nổi trội hơn tôi, tôi phải tìm mọi cách dìm tên đó xuống… kể cả cách giả bộ khoác cho nó một lý do rất đạo đức... nhưng ẩn trong đó là một một âm mưu hiểm độc đầy bỉ ổi, tăm tối...

-        Còn cả chục cái nếu khác... như những cái vòng kim – cô siết vào đầu chúng tôi, thậm chí đó là những cái siết mang mùi thánh thiện.

-        Nếu người ta coi tôi như người đạo đức thì hầu như lúc nào tôi cũng phải tỏ ra hiền lành như bụt, lúc nào cũng tỏ ra cao thượng, hy sinh công sức, tiền bạc để lo cho việc chung... dù đôi khi, tận thâm tâm, tôi chẳng muốn chút nào. Tôi chợt trở thành đạo đức giả lúc nào không hay...

Tóm lại "Cái Tôi" có thể được gọi là người máy đúng nghĩa. Phản ứng y hệt theo những gì chương trình đã cài đặt vào trí não mình.

Vậy làm sao có thể từ bỏ "Cái Tôi" này?

Vậy làm sao có thể giết chết "Cái Tôi" này?

Trước hết không thể lấy "Cái Tôi" giết chết "Cái Tôi" như lấy cái răng cắn chính nó!

Rất may, trong mỗi người còn có "Cái Tôi" tuyệt vời khác.

Nói theo ngôn ngữ của Phaolô trong thơ gởi Giáo đoàn Galatha: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.

Nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh, chúng ta có 2 cái tôi:

-        "Cái Tôi" vừa bí vừa hiểm được gọi là con người cũ, ngủ mê trong bóng tối sự chết – con người phàm hèn, yếu đuối , tội lỗi.

-        "Cái Tôi" tuyệt vời được gọi là con người mới, ánh sáng thế gian, con người Kitô hữu đích thực - con yêu dấu của Chúa, mạnh mẽ…

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5:14) Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. (2Tm 1:7)

Ở đây không có vấn đề "Cái Tôi" tuyệt vời đánh đấm, loại trừ, giết chết, tiêu diệt "Cái Tôi" vừa bí vừa hiểm.

Cũng có nghĩa là chúng ta chẳng cần phải chiến đấu với cái tôi lì lợm của mình

Mà chỉ cần nhẹ nhàng cởi con người cũ, mặc con người mới.

Nói thì dễ lắm! nhưng làm sao để CỞI CON NGƯỜI CŨ?

Rất khó! rất khó! cực kỳ khó! Vì những lý do sau đây:

Nếp suy nghĩ mấy chục năm qua nó ăn vào máu, thấm vào tủy... làm sao có thể cởi bỏ được? Ví dụ: Tôi tin như đóng đinh vào cột: Tôi là con người phàm hèn yếu đuối tội lỗi... Bây giờ, nghe ai nói: Tôi là con yếu dấu của Chúa, tràn đầy sức mạnh Thần Khí của Ngài thì tôi cho người đó khoác lác, hoang tưởng, không thể chấp nhận được…

Thực vậy, trong giờ chia sẻ Lời Chúa chúng tôi thi nhau nhai đi, nhai lại những tư tưởng của người khác với tâm tưởng đầy bi quan: Con người mình chỉ mang nhân tính băng hoại, nhơ bẩn… nên không có cách nào kết hiệp được với Thiên Chúa. Chuyện sức mạnh Thần Khí trong mình chỉ để nói cho vui thôi... giống như chuyện thần thoại hoang đường!

Vì vậy, sau nhiều năm chia chia.. sẻ sẻ… Lời Chúa, chúng tôi vẫn còn mãi mãi ở lại lớp mầm, chưa lên được lớp lá… thì lấy gì trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.(Mt 13:32)

Rất nhiều năm qua, chúng tôi cứ thi nhau húp cháo… chưa biết miếng cơm, miếng thịt là gì...thành thử ra vẫn cứ èo uột như em bé 3 tuổi... trong cuộc sống Tâm Linh.

Thậm chí, tôi còn có thể kết án rằng: Sai Thần học, chẳng biết gì về Tín lý, Giáo lý, Chỉ có "tâm linh" tưởng tượng ra chuyện hoang đường, thiếu hiểu biết này mà thôi.

 

Rất cụ thể: Chúng tôi nhắc nhở nhau nên rước lễ hằng ngày...

Ấy thế mà lạ thay, sau nhiều năm rước lễ hằng ngày... tính ra vài ngàn lần, thế mà mối tương quan thân mật giữa tôi và Chúa vẫn lúc gần, lúc xa, cứ hâm hẩm, nóng chẳng ra nóng, lạnh chẳng ra lạnh...

Tại sao vậy?

Chỉ vì vòng kim-cô ra lệnh cho chúng tôi rằng: Dù nhà ngươi cố gắng thế nào đi nữa... thì giữa con người mang nhân tính băng hoại không thể nào hòa hợp được với Thiên Tính thánh thiện ngàn trùng của Thiên Chúa.

Đấy! "Cái Tôi" vừa bí vừa hiểm dẫn tới hậu quả tai hại khủng khiếp! Vì thế, nếu bao lâu tôi vẫn còn để cho cái vòng kim-cô quái ác này siết vào đầu... thì đừng mong cởi bỏ nổi con người cũ hay "Cái Tôi" vừa bí vừa hiểm!

Vậy, hiện tại tôi là con yêu của Chúa hay là con người phàm hèn yếu đuối nhỉ?!

(sưu tầm và bổ sung)

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

KHƠI DẬY SỰ ĐỒNG CẢM GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI

Sau một thời gian sống trong cảnh thời tiết nắng nóng gay gắt, người dân Việt nam đang được tận hưởng bầu khí dễ chịu mát mẻ hơn do những cơn mưa đem lại. Cách chung là nhiều sinh vật như cây cối, thú vật và con người đều có biểu hiện tích cực đón nhận thời tiết này. Thông thường trước nhiều cơn mưa hay có những luồng gió mạnh thổi đến.

Qua những luồng gió mạnh ấy những cây cối nào bám rễ sâu vào đất sẽ không bị ngã quỵ. Vài căn nhà sẽ bị siêu vẹo và mái nhà sẽ tốc đi nếu người ta chưa kịp gia cố hay chưa có điều kiện sửa chữa. Con người sống với nhau cũng cần được thiết lập bằng tình người bền chặt mới mong đứng vững khi gặp những trận cuồng phong của cuộc đời. 

Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy con người được dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa. Nghĩa là khi tạo dựng con người Thiên Chúa ban cho họ có trái tim biết yêu thương người khác như Chúa yêu thương mình.

Trông thấy một đoàn lũ dân chúng đông đảo Chúa Giêsu động lòng xót thương vì họ như những con chiên không người chăn dẫn (x. Mt 9, 36); Trông thấy người đàn bà goá thành Naim đau khổ, Chúa Giêsu đến an ủi và động viên bà (x. Lc 7, 13); Ánh mắt nhân từ của Chúa Giêsu nhìn Phêrô khi tiếng gà gáy khiến ông khóc lóc thảm thiết trong niềm hạnh phúc (x. Lc 22, 61 – 62).

Chúa Giêsu thiết lập mối tương quan giữa người với người. Trên nền tảng ấy Chúa thiết lập mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người. Mối tương quan này được xây dựng bằng sự đồng cảm. Con người cảm nhận được sự đồng cảm của người khác hay của Đấng Thần Linh với mình thì họ mới có thể sống cởi mở và chân thành. Thánh Phêrô sống hết tình và hết mình với Chúa cũng như anh em sau khi cảm nhận được sự đồng cảm nơi Thầy Chí Thánh.

Thế giới ngày nay, con người ngày càng đánh mất khả năng đồng cảm của mình với anh chị em đồng loại. Họ đang xây dựng và củng cố cho mình một lối sống dững dưng, vô cảm. Đức Thánh Cha Phanxicô mở đầu Sứ điệp Mùa chay năm 2015 như sau:  “Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta bất cứ điều gì mà trước đó chính Ngài chưa ban cho chúng ta. “Chúng ta biết yêu thương bởi vì Ngài đã thương yêu chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Ngài không phải là một người xa lạ với chúng ta. Ngài biết chúng ta qua từng tên gọi, Ngài quan tâm chúng ta và Ngài tìm kiếm chúng ta khi chúng ta lạc xa Ngài. Ngài yêu mỗi người chúng ta; tình yêu của Ngài không cho phép Ngài dững dưng trước những gì đang xảy ra cho chúng ta.

Thường, khi chúng ta khỏe mạnh và thoải mái, chúng ta quên người khác (điều đó Thiên Chúa là Cha chưa bao giờ làm như thế): chúng ta không quan tâm đến những vấn đề của họ, những đau khổ và bất công mà họ đang chịu… Con tim của chúng ta đang trở nên nguội lạnh. Bao lâu tôi còn khỏe mạnh và thoải mái, thì tôi không nghĩ về những người kém may mắn. Ngày nay, thái độ ích kỷ dững dưng đã lan khắp toàn cầu, đến nỗi chúng ta có thể gọi nó là toàn cầu hóa về sự dững dưng”.

Thật nguy hiểm biết bao khi con người sống với nhau không còn tình người nữa. Làm sao người kitô hữu có thể giúp nhau sống mối tương quan với Thiên Chúa khi họ chưa biết mở ra với người đồng loại. Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ trôi qua mà không tác dụng gì nếu người kitô hữu không tích cực mở lòng ra để cảm nhận tình thương của Thiên Chúa và quan tâm đến người khác bằng sự đồng cảm.

Lm. Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

 

TRANG GIA ĐÌNH

TRI ÂN TÌNH MẸ TÌNH CHA

Quý bạn đọc thân mến,

Cứ mỗi tháng Năm hằng năm, tháng kính Đức Mẹ, thế giới dành riêng một ngày để tôn vinh các bà mẹ (được gọi là Mother’s Day). Và đến tháng Sáu hằng năm, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thế giới cũng có một ngày dành để tôn vinh những người cha trong gia đình (được gọi là Father’s Day).

 

Tuy nhiên, tại Việt Nam, dường như ngày để tôn vinh những người cha và những người mẹ được cử hành một cách âm thầm và khiêm tốn hơn Phương Tây.

Sở dĩ, ngày để tôn vinh những người cha và những người mẹ không được tổ chức rần rộ và tưng bừng, chắc chắn không phải vì lý do con cái Dân Việt thiếu lòng hiếu kính đối với cha mẹ, nhưng rất có thể, bởi vì ngày của cha và ngày của mẹ rơi đúng vào “những ngày đậm đà tâm tình dâng hiến” của nam tu nữ tu, mà  thông thường hầu hết các giáo phận, các dòng tu khắp mọi miền đất nước Việt Nam đều chọn ngày lễ truyền chức, khấn dòng và tạ ơn hồng ân thánh hiến vào giữa độ mùa hè, nên đôi khi bị lãng quên, bị xù hay bị lép vế đó là điều cũng dễ hiểu.

Bởi thế, hôm nay mượn trang tâm tình này, người viết muốn gợi lại cho lòng mình niềm xúc cảm kính yêu và biết ơn cha mẹ; và nếu được phép, người viết cũng muốn thay lời cho những phận làm con, nhất là những đứa con sống bậc tu trì thành kính dâng lên Đấng Sinh Thành tâm tình luyến mến và tri ân thẳm sâu vì công cao phước cả của cha của mẹ.

Kính thưa cha mẹ,

Chúng con biết, khi còn thơ dại, “Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn, mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con”.

Đến lúc chúng con tập tễnh bước vào Tu Viện, cha mẹ vừa mừng lại vừa lo, ngày ngày không ngừng chấp chới nguyện cầu với ước mong chúng con mãi mãi bền đỗ; và cứ như thế, cha mẹ cố gắng sống đạo đức, âm thầm hy sinh dõi theo đường tu của chúng con.

 Thật,“Không tình yêu nào vĩ đại như tình yêu của mẹ,

Không sự quan tâm nào to lớn bằng sự quan tâm của cha.”

Ai trong chúng con cũng cần tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ lắm! Ấy vậy mà, trong giới nhà tu chúng con, có người diễm phúc còn cha còn mẹ, có vị cha mẹ đã khuất bóng từ lâu để lại một khoảng trống không thể lấp đầy, có những cha mẹ vẫn khỏe mạnh, cũng có Đấng Sinh Thành yếu đau bệnh tật, già nua hay đã xế chiều.

Nay được dịp nhớ về mẹ cha, dù cho cha mẹ còn sống hay đã về với Chúa, khỏe mạnh hay yếu đau, trẻ hay già … những người con sống đời tận hiến “Vạn cổ, thiên thu nghĩa trọng Đấng Sinh Thành”, mãi mãi ngưỡng mộ, kính yêu và tụng ca cha mẹ.

Thay cho tất cả tâm tình, trong tâm tưởng lúc này chúng con viết nên lời tha thiết cậy trông: Xin ơn Thánh Chúa tràn tuôn xối đổ cho cha mẹ chúng con, những cha mẹ còn sống được thêm tuổi, thêm hạnh phúc an khang trong ơn nghĩa Chúa, cho những cha mẹ đã qua đời được hưởng niềm hoan lạc thiên cung vĩnh cửu trên trời.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

Thế nhưng, bạn đã thực sự quan tâm đến cha mẹ của mình chưa?

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra hoa cỏ, cây cối trong vườn của cha mẹ mình đã hoang tàn;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện sàn nhà và tủ quần áo thường xuyên bám đầy bụi bẩn;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra mẹ mình nấu đồ ăn quá mặn rất khó ăn;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra mẹ của mình thường quên tắt ga;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra một số thói quen của cha mẹ mình đã thay đổi, giống như là họ đã không còn muốn tắm rửa hàng ngày nữa;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ của bạn đã không còn thích ăn những loại quả giòn cứng;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ bạn chỉ ăn những món ăn được nấu chín nhừ nát;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ bạn muốn ăn cháo;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ bạn đi trên đường hay các phản ứng đều chậm laiï;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ mình trong lúc ăn ho không ngừng, đừng nghĩ rằng họ chỉ đang bị cảm lạnh;

Nếu như có một ngày, bạn phát hiện ra cha mẹ mình không hề muốn đi ra cửa…

Nếu như có một ngày như vậy, tôi muốn nói với bạn rằng, bạn phải thật cảnh giác bởi vì cha mẹ bạn đã già rồi! Các cơ quan bộ phận đã thoái hóa đến mức cần người khác chăm sóc rồi.

Nếu như bạn không thể chăm sóc họ, bạn nên tìm người chăm sóc họ, bạn nên thường xuyên thăm nom họ, đừng để cha mẹ bạn cảm thấy mình bị bỏ rơi.

Tất cả ai rồi cũng sẽ già, cha mẹ chỉ là già trước chúng ta, chúng ta phải dùng trái tim yêu thương để chăm sóc cha mẹ, như thế mới có thể nhẫn nại, mới không nói những lời ca thán. Khi cha mẹ không thể tự chăm sóc bản thân, làm con phải luôn chú ý, cha mẹ có thể sẽ làm rất nhiều việc không hay, ví dụ như trong phòng có mùi khó chịu, có thể họ cũng không thể ngửi thấy, xin hãy đừng chê họ bẩn, phận làm con hãy dọn giúp cha mẹ mình. Cũng xin hãy luôn luôn duy trì sự yêu thương, kính trọng đối với họ.

Khi cha mẹ không còn muốn tắm rửa, xin hãy bớt chút thời gian lau rửa cho họ, bởi vì cho dù là họ tự tắm rửa được thì cũng không thể tắm rửa sạch sẽ được. Khi chúng ta thưởng thức đồ ăn, xin hãy chuẩn bị cho họ một phần đồ ăn lớn nhỏ phù hợp, một bát nhỏ sẽ dễ dàng ăn hơn. Bởi vì họ không thích ăn có thể là do hàm răng đã không thể cắn và nhai được nữa rồi.

 

Từ khi chúng ta cất tiếng khóc chào đời, mẹ là người cho chúng ra bú sữa, thay tã lót hằng đêm và còn không ngủ nghỉ để chăm sóc khi chúng ta ốm đau. Cha mẹ là người dạy cho chúng ta những kỹ năng sinh sống cơ bản đầu đời, cho chúng ta đi học, ăn uống, vui chơi và tập thói quen, luôn quan tâm không ngừng nghỉ.

Nếu như đến một ngày, cha mẹ đã không thể nhúc nhích được nữa, chẳng phải bạn nên chăm sóc cha mẹ mình sao?

Làm phận con hãy nhớ lấy, “xem cha mẹ chính là bản thân mình trong tương lai” mà hiếu thuận kịp thời, đừng để đến khi “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, “con muốn phụng dưỡng mà cha mẹ không còn”.

(Sưu tầm)

 

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

ĐIỀU RĂN THỨ I: TIN VÀO MỘT THIÊN CHÚA

“Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi” – điều răn thứ nhất truyền lại cho chúng ta được bắt đầu bằng công thức giáo lý như thế. “Ngươi không được có thần nào khác trước mặt Ta” – đây là nguyên văn những lời trong cả hai văn bản Cựu ước (Xuất hành 20 và Đệ nhị luật 5). Hàm ẩn bên trong lệnh cấm này là lời mời gọi tích cực phải yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi, và yêu mến Ngài với hết sức lực của con người.

Điều răn thứ nhất là điều răn nền tảng, trong đó chứa đựng mọi điều răn khác (như trong một nguyên tử), tương tự như trong Kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đầu tiên chứa đựng những hệ luận khác: “Tôi tin kính một Thiên Chúa” (GLHTCG số 199): “Vì bất cứ ai muốn đến gần Thiên Chúa thì phải tin rằng Ngài hiện hữu và Ngài thưởng công cho những kẻ kiếm tìm Ngài” (Dt 11,6).

Tin vào Thiên Chúa là đòi hỏi đầu tiên cho một đời sống tốt lành về mặt đạo đức cũng như cho những tình cảm và suy tư đúng đắn. Dieu premier servir, Phục vụ Thiên Chúa trước hết, đó là châm ngôn của thánh nữ Jeanne d’Arc. Bằng châm ngôn đó, thánh nữ tóm tắt điều răn thứ nhất cách rõ ràng và cô đọng. Vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất và trên hết, vì chúng ta mắc nợ Chúa về tất cả những gì mình đang có và đang là, cho nên thái độ thích hợp nhất đối với con người là tin vào Chúa. Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là quy phục Thiên Chúa hoàn toàn, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn (số 143). “Ngươi phải thờ phượng Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi”, Chúa Giêsu đã trả lời Satan như thế (Mt 4,10).

Không có thái độ nào thích hợp hơn thế đối với con người. Không có gì làm cho chúng ta được tự do hơn là thờ phượng Thiên Chúa. Bởi lẽ không ai xứng đáng để chúng ta hoàn toàn tín thác, không ai có thể là tảng đá và nền tảng không lay chuyển cho niềm hy vọng của ta. Chỉ một mình Thiên Chúa mới xứng đáng. Không có gì là nô lệ cả khi thờ phượng Thiên Chúa; đúng hơn, đó là tình yêu chan chứa dành cho Đấng đã yêu thương chúng ta trước (số 2083): “Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi Ai Cập, miền đất nô lệ” (Xh 20,2).

Càng suy niệm chân lý này và để cho chân lý ấy thấm vào tâm hồn, thì toàn bộ đời sống chúng ta càng có hướng đi, ý nghĩa, và sự vững chắc (số 222-227). Càng xác tín vào chân lý “Thiên Chúa hiện hữu” thì tình yêu chúng ta dành cho Chúa càng trở nên mạnh mẽ hơn, biến đổi toàn bộ cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Chính vì thế mọi công việc của một người đạo đức là sự nhìn nhận Thiên Chúa, còn mọi công việc của kẻ gian ác là sự xúc phạm đến sự thánh thiện của Thiên Chúa.

Tin, Cậy, Mến, là lời đáp thích hợp nhất đối với Đấng Thiên Chúa đã tự tỏ mình cho chúng ta (số 2086). Nếu trước hết chúng ta tìm kiếm điều duy nhất cần thiết là chính Thiên Chúa, thì chắc chắn cảm thức của chúng ta về điều thiện phải làm và cái ác phải tránh sẽ tăng tiến và trưởng thành. Khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng tuân giữ Mười Điều Răn chẳng là gì khác hơn yêu mến Thiên Chúa bằng con tim nồng nàn và gắn bó.

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

 

TRANG QUỚI CHỨC

PHẬN ONG VÀ BƯỚM

Một sáng đẹp trời nọ, khi chú ong non đã đến lúc phải thực thi thiên mệnh của mình, nó được những con ong lớn dẫn đi tìm mật.

Từ khi rời tổ, nó thấy cảnh vật xung quanh thật là đẹp. Trời xanh mây trắng, ánh sáng ban mai rạng rỡ với làn gió nhẹ mát mẽ, thật khác xa với những gì nó từng thấy trong ngôi nhà kín đáo mà trước tời giờ nó từng ở.

Đến một khu vườn, ôi đẹp biết bao nhiêu ! toàn là hoa, mùi hương thoát ra từ những bông hoa càng gần càng thơm, những cánh hoa lung linh dưới ánh nắng ban mai càng thêm rạng rỡ, bầu khí ở đây thật nhộn nhịp và vui vẽ nào là ong nào là bướm lượn lờ

Chú ong non càng ngây ngất trước cảnh đẹp chưa từng được thấy bao giờ. Thế nhưng, đang lúc nó tận hưởng hạnh phúc thì có tiếng nói khẽ bên tai: Thôi, vào việc đi nào, cậu bé !

Chú ong non đáp xuống một bông hoa, nhưng nó loay hoay mãi mà không thế nào hút được mật. Thấy thế ong lớn mới đến bảo:

Con phải chui sâu vào trong bông hoa thì mới có thể hút được mật hoa.

Ong con thắc mắc: Ơ, sao chị bướm ở ngoài mà vẫn hút được đấy bác ?

Tại vì loài bướm có cái vòi dài con ạ.

Vâng lời, ong cố gắng chui sâu vào trong. Ồ, mật đây rồi ! Nó hút thật thỏa thích, đến lúc trở ra, toàn thân từ đầu đến chân bám đầy phấn hoa, thật buồn cười quá đi !

Giờ đến lúc phải quay về tổ rồi, mau lên nào cậu bé !

Nhưng con muốn được bay lượn vui chơi như các chị bướm một chút được không ạ ?

Không được đâu con à.

Sao vậy bác ? Không kiềm được nữa rồi, ong non lúc này bắt đầu muốn được giải thích những thắc mắc mà nó không tự giải thích được, nó nói tiếp : sao chúng ta phải cực khổ chui vào trong mới lấy được mật rồi phải tất bật mang mật hoa về tổ mà không được thảnh thơi rong chơi như bướm vậy bác ?

Đó là sự khác biệt giữa chúng ta với loài bướm đấy con ạ.

Khác sao ạ ?

Chúng ta không được trời ban cho cái vòi dài như loài bướm, khiến chúng ta phải vất vã khi phải len lỏi chui sâu vào bên trong để hút mật, thân thể của chúng ta dính đầy phấn hoa trong có vẽ lem luốt buồn cười. Thế nhưng, khi chúng ta làm như thế thì chúng ta đã giúp hoa thụ phấn để kết trái, những trái ấy sau này rụng xuống đất hạt của nó sẽ mọc thành cây, cây sẽ ra hoa và ta sẽ cho ta mật.

Nhưng tại sao chúng ta phải vất vã tất bật mà không được thảnh thơi rong chơi như bướm ạ ?

Bởi vì chúng ta phải cố gắng sống có ích để được người khác yêu thương đón nhận con à. Con có biết số phận giữa chúng ta và loài bướm khác nhau không ? Chúng ta được mọi người yêu thương giúp đỡ, còn loài bướm thì ngược lại bị xua đuổi và tìm giết cả giống dòng đấy.

Bởi vì, khi chúng ta vất vã làm việc chúng ta đã giúp ích cho đời : nào là giúp hoa thụ phấn, nào là góp phấn hoa, tạo mật ong, tạo sữa ong, đó là những thứ rất quí mà người khác nhận được. Bởi thế, cây luôn chào đón chúng ta, con người nuôi dưỡng chúng ta những lúc không có hoa để lấy mật. Ngược lại, loài bướm chỉ biết hưởng thụ cho sướng bản thân mình, không chịu cực chịu khổ để giúp đỡ một ai, suốt ngày chỉ biết hưởng nhờ ân lộc người khác ban cho mà không biết đền ơn, trái lại càng không lo dạy dỗ con cháu để chúng cắn phá cây trái, chính là ân nhân của mình. Đó là một cuộc sống không có tương lai và không ai có thể chấp nhận được con ạ.

Chính vì thế mà con phải luôn ghi nhớ điều này : Tình thương là một món quà cho không, như mật hoa vậy. Nhưng, để có thể đón nhận món quà đó từ người khác, trước tiên chúng ta phải cố gắng để trở nên dễ thương con ạ !

Nào, về thôi, chúng ta sẽ phải làm việc cách nghiêm túc đấy !

Lm. Ant. Lưu Thanh Tâm

 

 

SỐNG ĐẸP

HIỂU ĐỜI – TÂM SỰ TUỔI GIÀ

Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, nhưng chỉ có hiểu cuộc đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.

Qua một ngày, mất một ngày .Qua một ngày, vui một ngày. Vui một ngày lãi một ngày...

Hanh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc và vui sướng là cảm giác và cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.

Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng có coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng ai mang nó đến, khi chết chẳng ai mang nó theo. Nếu có người cần bạn giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khoẻ và niềm vui thì tại sao không bỏ tiền ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đùng làm tôi tớ cho nó.

"Quãng đời còn lại càng ngắn ngủi thì càng phải làm cho nó phong phú". Người già phải thay đổi cũ kỹ đi, hãy chia tay với "ông sư khổ hạnh" hãy làm "con chim bay lượn". Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao phẩm chất cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của TUỔI GIÀ.

Tiền bạc rồi sẽ là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khoẻ là của mình.

Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một cái, hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào. Nhà cha mẹ là nhà của con; nhà của con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.

Ốm đau trông cậy vào ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu "cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử". Trông vào bạn đời ư ? Người ta cũng yếu, có khi lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư ? chỉ còn cách đấy.

Cái được người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong đời tuỳ thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người ta hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì cho mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.

Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình "Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư", biết đủ thì lúc nào cũng vui "tri túc thường lạc".

Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt mỏi, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.

Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như cống hiến, có thểyên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ người ta cũng nghĩ cả rồi, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra nghề cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.

Quá nửa đời dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc gì muốn làm thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình.

Sống trên đời không thể vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.

Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; tuổi không già tâm già, thế là không già lại thành già. Nhưng giải quyết một vấn đề thì nên nghe già.

Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá thanh đạm thì khôhg đủ chất bổ, quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu... mọi thứ đều nên "VỪA PHẢI".

Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn, tham

uống...) Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh...) . Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới chữa bệnh....ĐỀU LÀ MUỘN.

Phẩm chất sống người già cao hay thấp chủ yếu tuỳ thuộc vào cách suy tưởng : Suy tưởng hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng suy tưởng hướng lợi để xây dựng cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và tự tin, cuộc sống có hương, có vị. Suy tưởng hướng hại là suy tưởng tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết

"Chơi " là một trong những nhu cầu căn bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi yêu thích nhất, trong khi chơi hãy thử nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm lý và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.

"Hoàn toàn khoẻ mạnh" đó là nói thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh.. Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu...

Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị của mình đó là cách sống lành mạnh.

"Cuộc sống tuổi già nên có nhiều bạn gìà trong nhiều thành phần,nhiều mẫu người với nhiều màu sắc khác nhau trong xã hội. Có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình đẹp làm thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.

Con người ta chịu đựng, hoà giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất, quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống như thế nào.

Tại sao khi về già người ta hay hoài cổ "hay nhớ lại chuyện xưa?" Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân ga cuối. Tâm linh cần trong phòng, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thủa nhỏ, cùng bạn sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thanh là một niềm vui lớn của tuổi già.

Nếu bạn đã cố hết sức, mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó. Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt.

"SINH - LÃO - BỆNH - TỬ" là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình dấu chấm hết thật TRÒN.

(Sưu tầm)

 

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Về Việc Chủ Tế Khi Cử Hành Thánh Lễ

Đứng Đối Diện Với Cộng Đoàn

Hỏi: Tại sao, sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn ?

Đáp: Đây là một trong những cải cách phụng vụ thấy rõ nhất của Công Đồng Vaticanô II.

Thời thượng cổ, hầu hết các nhà thờ được xây hướng về phía đông, hướng mặt trời mọc, nơi tượng trưng cho sự Sống Lại. Hướng về phía đông khi cầu nguyện là một cách diễn tả rằng cộng đoàn cùng với linh mục chủ tế ngỏ lời với Chúa Kitô phục sinh.

Chúng ta cũng biết rằng người Do thái hướng về thành Giêrusalem khi cầu nguyện, và người Hồi giáo hướng về thành La Mecque.

Sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế không quay lưng về phía cộng đoàn theo truyền thống nữa, mà quay mặt về cộng đoàn trong suốt thánh lễ. Thông thường, chúng ta đối diện với người nào đó khi nói chuyện. Do đó thật là hợp lý khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn: chào đầu lễ, bài giảng... Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa Kitô nói với dân Người.

Nhưng khi cầu nguyện thì sao? Khi cầu nguyện, tất cả cùng thưa với Chúa. Do đó chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh mục đứng đối diện với cộng đoàn. Thật ra, bàn thờ được đặt giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt vị trí như thế có nghĩa là : Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở giữa chúng ta, như lời hứa của Chúa Kitô : “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ.”(Mt 18,20). Thánh Phaolô có nói : “Đức Kitô ở giữa anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang !” (Col 1,27).

(Trích từ tập sách "40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ" của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN C

CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ

Lc 10, 38 – 42

Mẹ Têrêxa Calcutta chia sẻ bí quyết: "Nếu chúng ta cầu nguyện thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Bí quyết sống của tôi hết sức đơn sơ. Tôi cầu nguyện. Và trong cầu nguyện, tôi say mê yêu mến Chúa Kitô, và tôi hiểu rằng cầu nguyện với Chúa là yêu mến Chúa, và điều này có nghĩa là chu toàn Lời Chúa dạy”.

Bài tin Mừng thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu viếng thăm gia đình ba chị em cô Matta, Ngài đến thăm gia đình này như đến với những người bạn, thánh Gioan cũng đã xác nhận Lazarô là bạn của chúa Giêsu, Ngài thường xuyên ghé thăm vì gia đình này là nơi luôn mở động cửa để chào đón Người và dành cho Người sự đón tiếp ân cần. Câu chuyện cho thấy mỗi người trong nhà có cách đón tiếp khác nhau, Lazaro cùng đồng bàn, Matta thì lo lắng chuẩn bị bếp núc, còn cô Maria lại chỉ ngồi bên chân Chúa để nghe lời người. Nhưng có điều, cô Matta đã tỏ ra khó chịu khi thấy mình vất vả tất bật còn cô Maria thì lại chỉ ngồi lắng nghe, và có lẽ vì quá thân thiết, nên cô mới trách Chúa: Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay? Nhân dịp này Chúa mới chỉ cho mọi người thấy đâu là việc đón tiếp cần nhất mà Chúa yêu thích, khi trả lời cho cô Matta: Chị lo lắng nhiều việc quá chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi. Đối với Chúa Giêsu, điều Ngài mong đợi không chỉ là những hình thức đón tiếp bên ngoài, nhưng phải là một thái độ thực tâm, chân thành muốn lắng nghe Lời của Chúa, và Chúa cho biết việc lắng nghe Lời Chúa là cần thiết nhất và là thái độ tốt nhất, và khi đã lắng nghe đã đón nhận Lời Chúa thì không ai có thể tách người ấy ra khỏi sự bảo vệ của Chúa.

Hình ảnh cô Matta và Maria còn là hình ảnh của hai nếp sống trong Giáo Hội, nếp sống hoạt động và nếp sống chiêm niệm cầu nguyện; Chúa Giêsu không chê bỏ việc hoạt động và làm việc cho Chúa và phục vụ Chúa, nhưng việc phục vụ và làm việc ấy cần được nuôi dưỡng và múc lấy sức mạnh từ việc ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Ngài.

Cầu nguyện và làm việc là hai nhịp đều đặn trong cuộc sống của người tín hữu, vì thế đừng chỉ làm việc, kể cả những việc bác ái, mà bỏ quên đời sống cầu nguyện mỗi ngày, vì khi cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa là lúc chúng ta làm mới lại cỗ máy cuộc đời, là sạc lại năng lượng cho đời sống đức tin của người tín hữu, vì thế đừng bao giờ quên nối kết chiếc máy cuộc đời chúng ta với nguồn điện là Thiên Chúa qua sợi dây cầu nguyện. Hãy bắt đầu ngày sống và làm việc của mình trong sự phó thác tin tưởng vào sự soi dẫn của Thiên Chúa, và kết thúc mỗi ngày bằng những phút tĩnh lặng hoặc những giờ kinh của cả gia đình để phó dâng cho Chúa những lao công khó nhọc của một ngày đã qua. Đừng bao giờ làm việc một mình, mà hãy làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa, và hãy đem Chúa vào trong các công việc của mình.

Chúng ta hãy mời Chúa về với gia đình của mình bằng việc tái lập lại các giờ kinh giờ cầu nguyện sớm tối, vì trong những phút giây thân tình ấy Chúa sẽ đến gặp gỡ từng thành viên trong gia đình. Nhiều gia đình đã để cho chiếc tivi nói quá nhiều đến độ cha mẹ vợ chồng chẳng còn lúc nào nói chuyện với nhau và cũng không còn giờ để cho Chúa nói với mỗi người, hãy để cho Lời Chúa được vang lên mỗi sớm tối tại gia đình, Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn, hòa giải những bất đồng và đem đến sự yên vui cho gia đình.

 

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc đời của mình và trở thành người đem Chúa đến cho anh chị em chung quanh.

Lạy Chúa Giêsu,

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.(Manna)

Lm Phêrô Thanh Phong

 

 

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN C -  CHÚA NƠI MỌI NGƯỜI      

Lc 11, 1 - 13

Tự bản tính con người là “một con vật xã hội” nghĩa là sống có tổ chức thành tập thể, thành cộng đồng và liên đới với nhau về mọi phương diện. Sống, đối với con người luôn luôn là sống với, là ở trong tương quan với người khác. Từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi lìa đời, con người luôn luôn cần đến người khác mới có thể sống, từ lòng mẹ cưu mang từ bàn tay cô đỡ đưa ra khỏi lòng mẹ, từ bầu sữa mẹ cho đến chén cơm do mồ hôi nước mắt cha mình làm ra, cho đến bao nhiêu công khó của một xã hội mới làm ra con người, và sau bao nhiêu công khó của cả một xã hội mới làm ra con người, và sau hết cũng bàn tay tha nhân khép mắt cho ta và đưa ta vào nghỉ yêu trong lòng đất. Như vậy ta luôn sống nhờ người khác và ngược lại ta cũng phải biết để cho người khác sống nhờ ta. Sống do đó còn có nghĩa chia sẻ và hiệp thông.

Nhưng phần đông chúng ta lại không sống với ý thức đó, mỗi người thường chỉ lo cho mình. Chúng ta luôn luôn sống nhờ người khác nhưng lại không thích để người khác sống nhờ mình. Mối tương giao thường chỉ có một chiều, tha nhân thường bị lợi dụng biến thành bàn đạp, thành bệ kê chân thành những bậc thang để ta bước lên. Con người luôn luôn sẵn sàng chà đạp tha nhân là chà đạp chính mình, bởi vì người khác, người ta cũng chính là mình: trong người có ta, trong ta có người. Các bậc vĩ nhân các bậc thánh hiền luôn ý thức điều đó. Bởi vì Ápraham đã không chỉ sống cho mình. Môisê cũng thế, không sống cho mình mà là sống cho toàn dân. Trong số con cái loài người thì Đức Kitô là con người sống trọn vẹn cho mọi người “Người đến không phải để được kẻ hầu người ha,nhưng ngài đến để làm giá chuộc cho muôn dân”. Người đã đến trong trần gian, đã sống hoàn toàn vì chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng chịu chết vì chúng ta. Và sau khi Phục Sinh Người cũng luôn ở cùng chúng ta, luôn là Đấng Trung Gian cầu thay cho anh em nhân loại của Người.

Người chính là người bạn tốt đang đêm khuya đến gõ cửa nhà Cha để xin bánh cho chúng ta là những kẻ lỡ đường. Người đã cho chúng ta tất cả cuộc đời cả mạng sống. Tương tự bài dụ ngôn hôm nay, cũng được gọi là “người bạn quấy rầy” bài dụ ngôn này không có ý hướng chúng ta vào người bạn đứng ngoài cửa,mà lưu ý đến người cha đang nằm ngủ chung giường với con cái trong nhà. Nếu dụ ngôn dạy chúng ta cứ kiên trì cầu nguyện vì “ cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho “(Lc 11,9). Thật ra kết quả xin được không phải do công trạng chúng ta “lải nhải” mà là vì Chúa Cha là người chủ nhà nhân hậu. Vì chính Đức Giêsu cũng đã từng cảnh cáo chúng ta đừng có “lải nhải” khi cầu nguyện . Vấn đề ở đây là tin vào tình Cha nhân hậu chứ không phải là chuyện gan lì. Mặc dù câu kết của dụ ngôn có thể khiến chúng ta nghĩ ngược lại.

Người môn đệ bước theo Đức Kitô nghĩa là phải sống như Đức Kitô. Mà sống như Đức Kitô chính là sống cho mọi người, là trở thành gạch nối trung thành giữa Thiên Chúa và anh em. Về phương diện lý thuyết điều đó không khó hiểu, và có lẽ cũng có nhiều người biết đến. Nhưng về phương diện thực hành thì không phải luôn luôn như thế.Nếu đi theo chỉ mong sao được thưởng công, được ngồi chỗ cao trong Nước Chúa ở trần gian này hay ở trên trời thì ai cũng thích làm, kể cả các Tông đồ hồi mới đi theo đức Giêsu cũng ảo tưởng như thế. Hoặc giả như đi theo Chúa mà có phải “vào sinh ra tử” cũng cam, miễn sao đi theo Chúa vẫn là theo Chúa, phục vụ Chúa vẫn là phục vụ chứ không phải là ai khác. Phục vụ Chúa là một công việc “đầu tư” có lợi, một mối lợi lớn lao hơn mọi lợi lộc trần gian đó là Nước Thiên Đàng. Bởi đó người ta sẵn sàng đi lễ, đi nhà thờ, đi đàng thánh giá, ăn chay hãm mình, sẵn sàng bố thí, giúp đỡ làm nhà thờ để chỉ nhằm tìm được kho báu trên Nước trời.

Người Do Thái xưa, không đón nhận Đức Kitô không phải họ không muốn, nhưng là do chính Người không đến như là Chúa mà họ suy nghĩ mà lại đến như một con Người, một con người ghét bỏ sự xa hoa của đền thờ, từ chối sự thánh thiện có tính kỳ thị, phân chia để sống thân mật gần gũi với cả những người tội lỗi, đến nỗi bị mang tiếng là “bạn bè của quân tội lỗi”

Nếu Chúa đến trần gian là vì mình và cho mình, nếu người đến trong tư thế là Đức Chúa, thì chắc hẳn người đã được đón rước linh đình, sẽ chẳng bao giờ thiếu thốn bất cứ điều chi, và chắc chắn Người không bao giờ bị giết. Nhưng Người đã đến vì chúng ta, đã sống đã chết cũng vì chúng ta để cứu độ chúng ta. Là Thiên Chúa đáng lẽ Ngài không thể đói, không thể khát và cũng không thể chết với chúng ta, để chúng ta từ nay thấy được Chúa đói, Chúa khát, Chúa chết trong những người anh em xung quanh chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho triều đại Chúa mau đến để mọi người được tự do no ấm và hạnh phúc. Đó là lời cầu nguyện mà mỗi ngày chúng ta phải đọc và phải ra sức phấn đấu để lời nguyện đó thành hiện thực trong xã hội chúng ta đang sống. Amen

Lm  Gioan Thiện

 

CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN C

HẠNH PHÚC NƠI ĐÂU?

Lc 12,13 – 21

Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi, một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ bậc nhất của Singapore, mắc bệnh ung thư phổi. Anh đã qua đời ngày 18/10/2012, trên đỉnh cao của sự nghiệp và tiền bạc. Tuy nhiên, điều thú vị hơn hết, làm cho anh được chú ý nhiều trên các trang mạng xã hội là đoạn ghi âm tâm sự của anh gửi cho giới trẻ, trước khi anh mãi mãi ra đi.

“Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua. Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi, khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được chọn lựa, tôi sẽ sống là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất”.

Tuy anh không còn cơ hội chọn lại một phương thế sống cho mình, nhưng kinh nghiệm của anh lại giúp chúng ta hiểu rằng mục đích sống của cuộc đời chúng ta không đơn giản chỉ là danh vọng và giàu sang. Vì tất cả rồi sẽ lụi tàn, hay chẳng đem lại cho ta bao nhiêu hạnh phúc, thậm chí có khi còn là tai họa. Và rồi, khi cái chết ập đến chẳng có thứ gì được mang theo.

Vậy hạnh phúc của ta ở đâu? Ta sẽ “đầu tư” cho điều gì để không phải hụt hẫng trong thất vọng, mà đảm bảo một mai hậu vững bền? Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay sẽ giúp chúng ta có câu trả lời.

Bài đọc 1, Cohelet khám phá một khía cạnh rất thật mà cũng rất bi quan của cuộc đời. Một tư tưởng dễ làm người ta thất vọng: Phù vân, quả là phù vân. Cuộc đời này là cái vòng xoay lẩn quẩn và nhàm chán. Tất cả không có gì bền vững mà lại còn chóng qua như làn gió, làn khói. Theo đó, Cohelet đưa ý tưởng phù vân áp dụng cho thân phận con người. Con người lao động cực nhọc, vất vả ky cóp, thắt lưng buộc bụng từng đồng mà không biết để làm gì. Khi chết không mang theo được, phải để lại cho người khác chẳng nhọc nhằn một chút gì, chưa kể nếu rơi vào tay kẻ xấu thì thành đại họa. Lo âu đêm ngày cũng là phù vân. Đúng là “phú quý vinh hoa như mộng ảo. Sắc tài danh lợi tựa phù du” (Bùi Giáng). Cuộc đời quá bi quan và tuyệt vọng thế sao!

Đúng là tài sản đã không đem lại hạnh phúc mà còn trở thành đại họa. Nhiều anh chị em trong gia đình tranh chấp gia tài do cha mẹ để lại đến nỗi “nồi da xáo thịt”, xẻ nghé, tan đàn. Thánh Luca dẫn chúng ta đến với một câu chuyện như thế. Có hai anh em tranh giành tài sản. Cuộc chia chát không thành công, nên phải nhờ người phân xử. Đức Giêsu được thỉnh cầu.

Thời Đức Giêsu, các Rabbi có thể được thỉnh cầu để giải quyết những việc tranh chấp tài sản. Đức Giêsu được xem như một Rabbi nhưng Ngài đã từ chối đảm nhận công việc phân xử này. Vì đây là công việc mang tính thế tục, không thuộc lãn vực của Ngài. Hơn nữa, mục đích của Đức Giêsu không phải là tiền bạc, thứ không làm cho người ta có được sự sống thiêng liêng. Câu chuyện ngụ ngôn của Đức Giêsu nhằm làm nổi bật tư tưởng này. Có nhiều của cải vật chất không hẳn đã an toàn cho phần rỗi linh hồn. Từ đây, Đức Giêsu đi đến kết luận: Phải tránh mình khỏi mọi thứ gian tham, vì của cải không là điều kiện để vào Nước Trời. Nhưng hãy thu tích của cải trên trời.

Hình như một lúc nào đó chúng ta quên mình là con người đang nương náo trên cõi tạm của thế trần. Chúng ta không nghĩ mình phải chết, không biết mình phải trở về nơi mình phát xuất ra, nên chúng ta tự nhủ với lòng mình “ăn chơi, vui hưởng cuộc đời đi, tha hồ hưởng thú trần gian. Còn lâu mới chết, hay có chết cũng chẳng có thiên đàng hỏa ngục gì. Lo chi”. Nhưng cái nhà ba tất đất, nơi phải ở muôn đời muôn kiếp lại không tránh được. Liệu những cái vui thú trần đời có kéo dài mãi sang bên kia thế giới không. Bất cứ ai cũng thừa thông mình để hiểu mình phải chết, nhưng lại kém khôn ngoan để lo cho ngày ấy. Con người chạy ngược chạy xuôi để đầu tư cho nhiều thứ trên trần gian, ky cóp nhiều sự cho cuộc đời để rồi “không biết ai hay sẽ hưởng dùng”, hay để rồi ten sét, mối mọt sẽ gặm nát tất cả. Rồi tất cả như cơn gió thoảng, “ngay chỗ xưa mình ở cũng không biết mình”.

Chắc chắn, Đức Giêsu không dạy chúng ta ăn không ngồi rồi, hay kiểu sống lay lất, bừa bải, vô trách nhiệm chờ ngày “Chúa gọi về”. Ngược lại phải làm việc hết mình để có của nuôi thân. Song, Ngài phân định cho chúng ta thứ gì có giá trị vĩnh cửu. Để khi loay hoay tìm kế mưu sinh chúng ta không quên tìm kiếm hạnh phúc chân thật là quên trời. Chúng ta phải mặc cho mình tấm áo nhân đức thì không gì trên đất làm phương hại ta được.

 

Cho nên, chúng ta cần làm theo lời dạy của Thánh Phaolô: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki tô đang ngự” (Cl 3, 1). Điều này cũng có nghĩa là đừng quá chú tâm những thứ hạ giới. Hơn thế, còn phải loại bỏ chúng: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam (x. Cl 3,5).

De Lavigne nói: “Mỗi bước đi về cõi sống là mỗi bước đi về cõi chết”.  Muốn về cõi sống sau này hãy chuẩn bị hành trang. Bài học hôm nay có giá trị cho cả người nghèo lẫn người giàu. Vì dù nghèo hay giàu thì cũng phải qua cánh cửa sự chết như nhau. Nhưng số phận hạnh phúc của linh hồn lại không lệ thuộc điều kiện có của hay không tiền. 

Lm Phêrô Minh Thái

 

 

THẦN HỌC KINH THÁNH

Thánh Nữ Maria Mađalêna

Trong Tin Mừng Theo Thánh Lu-Ca

Tin Mừng theo thánh Mat-thêu chỉ cho ta thấy nhóm phụ nữ đứng đàng xa khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá, và cho biết “các bà đã đi theo Chúa Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người”. Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta danh sách các phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giê-su ngay từ chương thứ 8: “Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai, và mấy phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mac-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ”.

Trong cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm, bà Maria Mac-đa-la luôn đứng đầu danh sách các phụ nữ đi theo giúp đỡ Chúa Giê-su. Mat-thêu không cho biết lai lịch của bà. Lu-ca cho biết bà là người được giải thoát khỏi bảy quỷ. Trong Kinh Thánh thì con số bảy chỉ sự tròn đầy, bảy quỷ tức là toàn bộ quyền lực của quỷ. Ta không biết tình trạng của bà khi bị bảy quỷ hành hạ như thế nào, cũng không biết bà được Chúa cứu trong hoàn cảnh nào. (Mc 16, 9 cũng lặp lại thông tin này trong phần kết.)

Danh sách của Lu-ca theo ngay sau chuyện người đàn bà tội lỗi đến khóc dưới chân Chúa trong nhà ông Si-môn, có lẽ vì thế người ta đã quen đồng hóa hai bà, cho rằng Maria Ma-đa-le-na chính là người đàn bà tội lỗi sám hối kia, hoặc là người đàn bà ngoại tình trong Gio-an 8, 1-11. Nhưng trên cơ sở văn bản thì không có gì cho phép đồng hóa. Về phương diện quá trình bản thân, một người bị bảy quỷ hành hạ thì không thể nào trở thành “người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành” (Lc 7, 37) hay người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang (Ga 8, 3). Vậy thì xin cởi bỏ cái áo khoác lãng mạn người ta đã choàng lên cho Maria Mác-đa-la, và đi vào nguồn chính là các sách Tin Mừng, để chiêm ngắm dung nhan người phụ nữ tuyệt vời trong hàng môn đệ, được Hội Thánh tôn kính ngang hàng các vị trong nhóm Mười Hai tông đồ, và học biết những gì Tin mừng nói về ngài thay vì những phóng chiếu lãng mạn của chúng ta. Trong bài này tôi xin trình bày Maria Mađalena trong sách Tin Mừng Lu-ca.

Bản danh sách ở chương thứ 8 của Lu-ca cho thấy nhóm phụ nữ do Maria Mac-đa-la đứng đầu, đã đi theo Chúa Giêsu khi Chúa cùng với nhóm Mười Hai rong ruổi đường trường loan báo Tin Mừng. Nhóm Mười Hai là những người bỏ mọi sự mà đi theo Chúa và được Chúa chọn làm Tông Đồ (Lc 6, 13) để ở với Chúa (Mc 3, 14), còn nhóm phụ nữ thì đem theo của cải mà giúp đỡ Chúa Giê-su và các Tông Đồ. Vậy thì nhóm Mười Hai và nhóm phụ nữ là hai nhóm luôn ở bên cạnh Chúa Giê-su, tuy nhiên suốt cuộc hành trình của Chúa Giê-su ta không thấy các bà xuất hiện lần nào, cho tới khi Chúa bị treo lên thập giá ta mới lại gặp các bà trong tư thế “chứng nhân”: “Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su, cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23, 49). Bản văn nói đến hai nhóm cùng đứng đàng xa: “tất cả những người quen biết Đức Giê-su” và “những phụ nữ…”, nhưng khi nói về chứng kiến thì chỉ nói đến các bà [bản dịch ở đây theo đúng nguyên văn Hy lạp].

Sau đó, khi ông Giô-xép xin được xác Đức Giê-su, “ông hạ xác Ngài xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ… Cùng đi với ông Giô-xép, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền” (Lc 23, 53-56).

Lu-ca bố trí câu chuyện thật chặt chẽ ở đây: nhóm phụ nữ này chứng kiến cái chết của Chúa Gê-su trên thập giá, chứng kiến khi ông Giô-xép hạ xác Chúa Giê-su từ tên thập giá xuống, lấy vải gai liệm và đặt vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá…Các bà cùng đi với ông tới mộ, để ý nhìn ngôi mộ và xem xác người được đặt như thế nào. Các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền. Như vậy là các bà có mặt và ghi nhận mọi sự cho đến lúc bắt buộc phải nghỉ theo luật. Các bà chuẩn bị dầu và thuốc thơm [sau khi mặt trời lặn ngày sa-bát, là có thể mua sắm] là đã có ý trở lại mộ để ướp xác Chúa, chứ không phải tình cờ kéo nhau đi.“Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn”. Những chi tiết trên còn cho thấy các bà không chờ đợi chuyện gì khác thường, nhưng chỉ làm một chuyện rất đơn giản là đem dầu và thuốc thơm đến ướp xác, vì hôm trước là áp ngày sa-bat, và các bà cũng bị bất ngờ về cái chết của Chúa cũng như về chính việc được lãnh xác để mai tang.

Các bà thực hiện dự tính của mình. Nhưng các bà thấy gì ở mộ? “Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Họ không thể lầm, vì họ đã đi theo ông Giô-xép, đã nhìn xem ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Họ là một nhóm chứ không phải một người, và mới cách một ngày, không thể nói họ vào lầm một ngôi mộ khác. “Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả”. Lu-ca cho cảm tưởng họ không bị bất ngờ vì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ, thản nhiên bước vào. Chỉ khi không thấy thi hài Chúa Giê-su họ mới phân vân.

“Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê… Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói.”

Hai người đàn ông y phục sáng chói bỗng xuất hiện ngay bên cạnh họ ở ngay trong mộ. Họ sợ hãi là lẽ đương nhiên. Hai người này là ai? Lu-ca không nói là thiên thần nhưng là hai người. Để hiểu điều này, phải trở lại cảnh Chúa Giê-su tỏ vinh quang (hiển dung) trên núi: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc Xuất Hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.” Hai người đàn ông y phục sáng chói, gợi cho ta nhớ tới “hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển”, tức là Mô-sê và Ê-li-a. Hai vị đã đàm đạo với Chúa Giê-su về cuộc Xuất Hành người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem, nay đến xác nhận với các bà rằng Người đã hoàn thành cuộc Xuất Hành: Người không còn đây nữa, Người đã trỗi dậy rồi.

Hai người nói với các bà: “Hãy nhớ lại lời Người đã nói với các bà khi còn ở Ga-li-lê”. Mat-thêu nói trống : “như Người đã nói”; Mac-cô nhắc các môn đệ: “như Người đã nói với các ông”. Lu-ca nói rõ: Người đã nói với các bà khi còn ở Ga-li-lê. Một chi tiết nhỏ để lộ một sự thật lớn. Đọc các sách Tin Mừng khác, chúng ta có cảm tưởng Chúa Giê-su chỉ trực tiếp dạy dỗ các ông môn đệ về cuộc khổ nạn và phục sinh. Lu-ca lại cho thấy các bà cũng đã được trực tiếp nghe Chúa dạy những điều “bí mật”trọng đại, chứ không chỉ nghe các ông nói lại.

“Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. Khi từ mộ trở về, các bà kể cho nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Mấy bà nói đây là bà Maria Mac-đa-la, bà Gio-an-na và bà Maria, mẹ ông Gia-cô-bê, các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn nên không tin”.

Hai lần Lu-ca kể rằng Đức Mẹ ghi nhớ mọi điều ấy và suy niệm trong lòng (Lc 2, 19.61). Các nữ môn đệ cũng ghi nhớ những lời Chúa Giê-su đã nói, và chỉ cần “hai người y phục sáng chói” này nhắc một tiếng là các bà nhớ lại. Các Tông Đồ nghe các bà kể thì cho là chuyện vớ vẩn nên không tin, hẳn là vì bộ nhớ của các ông không tốt bằng. Chúa dựng nên người phụ nữ với bộ nhớ đặc biệt. Trong gia đình, cha nhiều khi quên cả sinh nhật của các con, thì mẹ là người ghi nhớ mọi sự. Bộ nhớ này đôi khi cũng gây phiền toái, vì “đàn ông không tha nhưng mà quên, đàn bà tha nhưng mà không quên”. Nhưng nếu dùng để ghi nhớ mọi lời Chúa nói thì mọi sự sẽ êm xuôi. Lạc đề rồi!

Trở lại câu chuyện trong Tin Mừng Lu-ca, sau câu kết luận về thái độ không tin của các Tông Đồ, Lu-ca tiếp tục kể cho chúng ta chuyện ông Phê-rô chạy ra mồ, rồi chuyện hai người môn đệ trên đường Em-mau. Sau khi nhận ra Chúa Giê-su lúc Chúa bẻ bành, hai người từ Em-mau vội vã quay về Giê-ru-sa-lem. Hẳn trong bụng hai ông phải thích thú với ý nghĩ mình là đàn ông, sẽ làm cho các ông khác phải tin. Nhưng khi về tới nơi và gõ cửa, thì các ông khác ở trong nhà vừa mở cửa đã reo lên: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Hai chữ thật rồi mang ý nghĩa rất đặc biệt ở đây: “thật rồi” quy chiếu vào chuyện lúc ban sáng các ông không tin lời các bà, vì cho là chuyện vớ vẩn. Bây giờ thì các ông đã tin. Tại sao? Chúa đã hiện ra với ông Si-môn! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa đã nói với ông Si-môn: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32). Bây giờ Chúa đã cho ông Phê-rô cơ hội thi hành sứ mạng. Anh em đã tuyên xưng: “Chúa trỗi dậy thật rồi”, vì họ đã nghe ông Phê-rô kể lại việc Chúa Phục Sinh hiện ra với ông.

Trong việc xác nhận vai trò của ông Phê-rô, Chúa Giê-su cũng xác nhận giá trị lời chứng của các nữ môn đệ, đứng đầu là bà Maria Mac-đa-la. Các ông cho chuyện các bà kể là chuyện vớ vẩn nên không tin. Đó là thái độ “nam trọng, nữ khinh”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một đứa con trai cũng là có, muời đứa con gái cũng là không). Trọng và khinh ở đây không phải là kính trọng và khinh dể, nhưng trọng là nặng, khinh là nhẹ. Trong Kinh Thánh, lời chứng của người phụ nữ không có giá trị trước tòa án, trừ trường hợp sinh đẻ (ta sẽ thấy trong Tin Mừng Gio-an). Việt Nam có câu “đàn bà trông gà hóa quạ”, các Tông Đồ coi lời chứng của các bà là “chuyện vớ vẩn”. Bây giờ nhờ lời chứng của ông Phê-rô, các ông cũng phải nhận là các bà đã nói đúng, chứ không phải chuyện vớ vẩn.

Kết luận: Tin Mừng Lu-ca trình bày rất chi tiết và chặt chẽ việc các phụ nữ đi theo Chúa Giê-su từ Ga-li-lê, đứng đầu là bà Maria Mác-đa-la, đã là những môn đệ đích thật, được nghe Chúa Giê-su dạy dỗ cả những điều bí mật về cuộc Thương Khó và Phục Sinh, ngang hàng các Tông Đồ. Trong khi các Tông Đồ và các môn đệ khác chạy trốn hết, thì các nữ môn đệ chứng kiến cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá; chứng kiến ông Giô-xép hạ xác và táng xác, biết ngôi mộ ở đâu, xác Chúa được đặt như thế nào. Các bà chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần các bà ra mộ và được thấy mộ đã mở, được hai người y phục sáng chói cho biết Chúa đã trỗi dậy, và được sứ mạng về báo tin cho các Tông Đồ. Các bà nhớ lại lời Chúa đã nói khi còn ở Ga-li-lê về cái chết và sự phục sinh của Chúa.

Các Tông Đồ vẫn giữ não trạng cổ truyền, coi lời các bà kể là chuyện vớ vẩn. Nhưng khi thánh Phê-rô làm cho anh em vững mạnh, thì cũng đồng thời xác nhận rằng về phương diện làm chứng cho Chúa Giê-su, lời chứng của các nữ môn đệ cũng ngang hàng lời chứng của các ông môn đệ và các Tông Đồ, và còn hơn thế nữa: các nữ môn đệ là những người đầu tiên đã nhớ lại những lời Chúa nói khi còn ở Ga-li-lê, đã gặp Chúa Phục Sinh, và nhận được sứ mạng đem Tin Mừng cho các Tông Đồ. 

Giê-ru-sa-lem 18/6/2016

Lm. Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.

Nguồn: dongten.net

 

 

 

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

SỨ ĐIỆP VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA TRONG MỘT SỐ DỤ NGÔN

Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta những dụ ngôn thật đẹp về Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót. Có thể nhắc đến hai dụ ngôn gây ảnh hưởng rất sâu rộng trong cuộc sống và lịch sử nhân loại. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) và dụ ngôn người Cha nhân hậu (x.Lc 15,11-32).

Trong dụ ngôn thứ nhất, Chúa Giê-su muốn giới thiệu cho chúng ta một ví dụ điển hình về lòng nhân hậu của người Samaritanô. Người Samaritanô trong đôi mắt của người Do Thái không phải là người đạo đức, mà họ bị coi thường như là người mang một nửa phần của dân ngoại. Với người Do Thái, người Samaritanô không phải là người thân cận của họ, bởi vì giữa những năm 6 và 9 sau Công Nguyên họ đã làm ô uế những vùng xung quanh đền thờ tại Giê-ru-sa-lem qua việc họ “rải xương người chết” trong thời gian của chính lễ vượt qua.[1]

Đọc lại đoạn Tin Mừng này, chúng ta thấy dụ ngôn kể về một người đàn ông trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giêricô đã rơi vào tay bọn cướp, bị lột sạch sẽ, và kế đó, bị bỏ nằm bên vệ đường nửa sống nửa chết. Có hai nhân vật vị vọng trong xã hội Do Thái được nhắc tới. Đó là một thầy tư tế và một thầy Lê-vi. Trên đường đi, lần lượt cả hai thấy người bị nạn nằm ở dọc đường, nhưng đều tránh qua một bên và đi tiếp mà không có một lời hỏi thăm. Lòng họ không một chút xúc động và cũng chẳng diễn tả một sự tội nghiệp nhỏ bé nào cả. Một sự vô cảm lạnh lùng của những con người được cho là đại diện cho những luật lệ luân lý và đạo đức, cũng như con người ở gần với bàn thờ Thiên Chúa nhất. Trong khi đó một người Samaritanô cũng đi qua, nhìn thấy nạn nhân bị hại nằm bên đường kia, thì ông làm gì?  “Có cái gì đó xảy ra: Trái tim ông ta đập thật mạnh và mở ra. Tin Mừng dùng thuật ngữ mà trong xã hội Do Thái nói về cung lòng và sự chăm sóc của người mẹ. Thấy người này trong tình trạng như thế là cú đánh vào ‘lục phủ ngũ tạng’ của ông ta, chạm đến linh hồn ông ta. ‘Ông ta chạnh lòng thương’, đó là cách mà ngày nay chúng ta dịch lại bản văn, cách này đã làm giảm bớt sinh khí nguyên thủy của bản văn. Tia chóa sáng của lòng thương xót đánh vào linh hồn ông ta, giờ đây, chính ông ta trở thành một người thân cận, không để ý đến bất cứ câu hỏi hay nguy hiểm nào cả. Vì thế, sức nặng của vấn đề thay đổi chỗ này. Vấn đề không còn là người khác có phải là thân cận của tôi hay không. Vấn đề là về bản thân tôi. Tôi phải trở nên người thân cận (của người gặp nạn), và khi tôi làm như thế, thì với tôi người khác được kể như chính tôi…Helmut Kuhn đề nghị một giải thích về dụ ngôn này, mà chắc chắn đi ra khỏi nghĩa đen của bản văn, dĩ nhiên, ông thành công trong việc chuyển tải sứ điệp tận căn của dụ ngôn. Ông viết: ‘Tình yêu bạn bè theo nghĩa chính trị hệ tại vào sự bình đẳng của các hội viên. Ngược lại, dụ ngôn biểu tượng về người Samaritanô tốt lành nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng tận căn của chúng: Người Samaritanô, kẻ xa lạ với dân chúng, đối diện với tha nhân vô danh. Người Samaritanô, người giúp đỡ nạn nhân vô vọng của vụ cướp bóc dã man. Dụ ngôn đề nghị rằng agape cắt ngang khỏi mọi đường lối chính trị, như được chúng thống trị bằng nguyên tắc do ut des (tôi cho, để bạn sẽ cho), và vì thế, trình bày đặc tính siêu nhiên của agape. Qua tính lô-gíc theo nguyên tắc của nó, agape không chỉ vượt ra khỏi những đường lối này, nhưng còn có nghĩa lật đổ chúng nữa: Người cuối sẽ lên đầu (x.Mt 19,30) và người hiền lành sẽ được đất làm gia nghiệp (x.Mt 5,5). Một điều khá rõ: Tính phổ quát mới đang đi vào bức tranh, và nằm trên yếu tố mà tận sâu thẳm bên trong, tôi đã sẵn sàng trở nên người anh em với tất cả những ai tôi gặp gỡ mà cần tôi giúp đỡ”.[2]

Trở về câu chuyện, chúng ta thấy nơi người Samaritanô một tâm hồn rung cảm trước con người khổ đau. Tâm hồn rung cảm đã thúc đẩy ông dừng bước, gác lại mọi chuyện ông đang cần lo trước mắt, và“ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10,34-35). Với câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn trả lời cho câu hỏi: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Không ai khác cả, mà chính là người đang rơi vào khổ đau, người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta hơn cả. Người thân cận đó vượt trên mọi yếu tố gia đình, bạn bè quen biết, hay chủng tộc. Người thân cận là người mà tôi đang nhìn thấy họ gặp nạn và họ đang cần tôi giúp đỡ. Tình yêu và lòng thương xót dành cho người thân cận này vượt trên mọi chuẩn mực và thước đo của con người đặt ra. Dụ ngôn này diễn tả mạnh mẽ về tầm quan trọng của lòng thương xót. Tuy nhiên, sẽ quá vội vàng, nếu ứng dụng dụ ngôn này ngay cho đời sống của tín hữu. Theo nhà Thánh Kinh học Bovon, trước hết người Samaritanô là hiện thân của Chúa Giê-su, Đấng có lòng thương xót nhân loại, và giúp đỡ nhân loại. Tinh thần của Đức Ki-tô được cấy rễ vào trong đời sống Đức Tin của mọi con cái Thiên Chúa, được nảy mầm trên mảnh đất Giáo Hội, và nhờ đó mà lòng thương xót của Thiên Chúa được thực thi trong hành trình sống Đức Tin của họ. Sự liên hệ này có ý nghĩa, vì dụ ngôn này được Chúa Giê-su đưa ra trong bối cảnh tranh luận với một người thông luật, với câu hỏi:“Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” (Lc 10,25). Tiếp đến, Chúa Giê-su đã đưa người thông luật vào trong tinh thần yêu thương đã được dạy trong sách luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10,27). Như thế, dụ ngôn về lòng thương xót này liên hệ đến tình yêu của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót và yêu thương chúng ta. Thiên Chúa đã đi bước trước, là mẫu gương cho chúng ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta biết ý thức thực thi và sống tinh thần của lòng thương xót với người thân cận.[3] Thần học gia Ratzinger cũng nhìn người Samaritanô là hiện thân của Chúa Giê-su, Đấng có lòng thương xót nhân loại, những người bị nạn trên đường. “Nếu nạn nhân bị tấn công là hình ảnh của mọi người, người Samaritanô cũng chỉ là hình ảnh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Thiên Chúa, đối với chúng ta là Đấng xa lạ và lạnh nhạt, đã lên đường để chăm sóc tạo vật bị thương của Người. Thiên Chúa, dù rất xa cách chúng ta, đã làm chính Người trở thành người thân cận của chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô. Ngài đổ dầu đổ rượu lên vết thương chúng ta, một cử chỉ được xem như một hình ảnh ân huệ chữa lành của các bí tích, và Ngài đem chúng ta tới quán trọ, Hội thánh, trong đó, Ngài bố trí sự lo lắng cho chúng ta và cũng trả trước cho cái giá của sự lo lắng này. Chúng ta có thể bỏ qua những chi tiết nhỏ của ngụ ngôn, đã thay đổi từ Giáo phụ này sang Giáo phụ kia. Nhưng cái nhìn cao cả đã cho thấy con người đang nằm cách xa lạ và vô vọng bên cạnh đường trong lịch sử, và chính Thiên Chúa trở nên người thân cận của con người trong Đức Giê-su, là cái nhìn mà chúng ta có thể giữ lại cách vui vẻ, như một chiều kích sâu xa hơn của dụ ngôn mà liên quan đến chúng ta. Vì lý do đó, mệnh lệnh cao cả được diễn tả trong dụ ngôn không bị yếu đi, nhưng giờ đây, chỉ xuất hiện trong uy quyền trọn vẹn của nó. Chủ đề quan trọng về tình yêu, là sức ép thật sự của bản văn, giờ đây chỉ được ban cho chiều sâu trọn vẹn của nó. Vì giờ đây, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cũng bị ‘loại trừ’, đang cần sự cứu độ. Tất cả chúng ta cần đến ân huệ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho chính chúng ta, để về phần chúng ta, chúng ta cũng có thể trở nên ‘những tình nhân’. Chúng ta luôn luôn cần Thiên Chúa, Đấng tự trở nên người thân cận của chúng ta, để chúng ta có thể trở nên những người thân cận”.[4]

Dụ ngôn khác cũng rất quen thuộc là dụ ngôn kể về người Cha Nhân Hậu. Nếu nhìn trong bối cảnh của đoạn văn, thì ở trong chương 15, Lu-ca đặt ba dụ ngôn vào trong một chủ đề lòng thương xót, với sự tranh luận giữa Chúa Giê-su và các người Pha-ri-sêu cùng các Kinh Sư. Họ đã lầm bầm về một chuyện mà họ không thể chấp nhận nơi Chúa Giê-su: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15,2). Tiếp đến Chúa Giê-su nêu dụ ngôn đầu tiên về con chiên bị mất (Lc 15,1-7). Dụ ngôn thứ hai nói về đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10), và dụ ngôn thứ ba quen thuộc và dài nhất nói về người Cha Nhân Hậu, mà cũng có người nói là dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15,11-32).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắc đến ba dụ ngôn này trong tông sắc về năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa: “trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót. Chúng ta biết rõ về những dụ ngôn này, đặc biệt là ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền bị mất, và người cha có hai người con trai (x.Lc 15,1-32). Trong những dụ ngôn này, Thiên Chúa luôn được mô tả là tràn đầy niềm vui, đặc biệt là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và đức tin của chúng ta, vì lòng thương xót được trình bày như là một lực vượt qua tất cả mọi thứ, làm đầy trái tim với tình yêu và mang lại ủi an qua sự tha thứ” (số 09).

Bây giờ, chúng ta đọc và suy niệm dụ ngôn thứ ba, chúng ta thấy từ ngữ thương xót và công bằng hay công lý không xuất hiện trong dụ ngôn, nhưng nội dung của câu chuyện lại diễn tả cách rõ rệt và mạnh mẽ chủ đề lòng thương xót, qua tình yêu của người Cha nhân hậu dành cho đứa con hoang đàng ngỗ nghịch. Lòng thương xót này của người Cha vượt trên sự công bằng mang tính cách lô-gic bình thường. Tất cả những cử chỉ cao cả và tuyệt vời của Cha, khi thấy con về diễn tả một cách sống động tấm lòng yêu thương của cha dành cho con mình: Trông thấy, chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Tiếp đến là những cách hành xử rất tuyệt vời khác, có thể nói tương phản hoàn toàn với thực tế cuộc sống, và cũng vượt trên mọi chờ đợi của người con hoang đàng: Mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân, bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng. Những thái độ cao cả này đã trả lại cho người con một thời đi hoang quyền làm con và phẩm giá làm người quý báu.

Những cử chỉ cao cả của người Cha và tương quan của Cha đối với người con đã từng bỏ nhà đi hoang không căn cứ vào sự công bằng, không căn cứ vào việc chia tài sản vật chất cho đúng đắn, mà căn cứ vào phẩm giá cao quý của con. Phẩm giá cao quý này chính là thước đo của tình yêu, của lòng thương xót. Ngoài dụ ngôn này, không có các dụ ngôn nào khác mà qua đó Chúa Giê-su diễn tả lòng thương xót cách nổi bật, rõ rệt, mạnh mẽ và sâu sắc. Thật vậy, trong dụ ngôn Cha Nhân Hậu, Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta rằng: Ta đã làm như vậy, thì Cha trên trời cũng làm như vậy. Lòng thương xót của người Cha trong dụ ngôn này là sự công chính ở cấp bậc cao hơn. Có thể nói mạnh hơn rằng, sống tinh thần lòng thương xót là sự thực hành sự công bằng cách hoàn hảo nhất. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ làm cho con người đánh mất giá trị của cuộc sống. Lòng thương xót của Thiên Chúa không để cho con người dù tội lỗi và lầm lỡ biết mấy, đánh mất phẩm giá cao quý làm người. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất tương hợp dụ ngôn của chúng ta: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33,11).[5]

Giờ đây, xin được suy niệm vào câu chuyện của dụ ngôn này. Chuyện kể về người Cha có hai người con. Người con lớn chăm chỉ làm việc, và một lòng tùng phục cha mình. Còn người con thứ thì ở tuổi thanh xuân, chuẩn bị bước vào cuộc đời, nên anh ta ham chơi, thích phiêu lưu mạo hiểm. Vì thế, dù mới ở tuổi 16 chưa có quyền để đòi của thừa kế, chàng thanh niên vẫn đòi Cha cho mình phần của cải mình sẽ được hưởng. Cậu ấy muốn biến món quà của tương lai xa xôi kia trở nên món quà của giây phút hiện tại. Tương lai cần phải được nắm trong tay ngay lúc này đây. Một kiểu tham lam không đáy của đời người, một cách cao ngạo và phung phí của con người trước những món quà cao quý. Nhưng Cha có cho không? Bình thường chẳng có cha mẹ nào chấp nhận trao món quà cao quý của tương lai cho đứa con chưa đủ lớn, chưa đủ trưởng thành. Nhưng chẳng hiểu sao, người cha trong câu chuyện lại “gật đầu” trước lời xin xỏ quá đáng kia. Phải chăng, người cha không thể từ chối đứa con yêu dấu bất cứ điều gì?

Khi “kho tàng tương lai” đã được nắm trong tay của giây phút hiện tại, điều gì đã xảy ra sau đó? Bước ra khỏi mái nhà thân yêu, lên đường đi phương xa. Chẳng biết có chào tạm biệt cha không, chẳng biết có đi khỏi nhà một cách đàng hoàng hay không, hay lén lút và kín đáo ôm “món quà tương lai” lẻn bước qua cửa sau của nhà mình, để đi vào cửa chính của thế giới vui nhộn đang chờ cậu ta trước mặt?

Ăn và chơi mà không làm, thì dù “món quà tương lai” có lớn kếch sù bao nhiêu, một ngày nào đó túi đầy tràn của ngày đầu tiên bước vào đời sẽ trở nên rỗng tuếch. Thê thảm thay phận người tham lam không đáy mà lại còn thích phung phí của trời! Rỗng tuếch sẽ hoàn rỗng tuếch. Cuối cùng, phận người đó đã rơi vào nơi mà anh ta chẳng bao giờ nghĩ tới, và cũng chẳng bao giờ muốn mơ tới. Nơi đó chẳng còn tiếng cười của bè bạn, nơi đó chẳng còn cốc rượu ngon của ngày nào, nơi đó chỉ còn bóng hình lam lũ cô đơn là chính anh đang ngồi bên cạnh những bóng hình không phải là người: một bầy heo. Con heo trong đôi mắt của người Do Thái là con vật dơ bẩn và gây nên biết bao ô uế. Vì thế, mọi người cần phải tránh xa con thú vật đó, nhưng phần anh ta, cũng là người Do Thái đấy, cũng là con cháu Áp-ra-ham đấy, lại phải sống chung với lũ heo kia. Vẫn biết rằng, anh ta là người chăn heo đấy, nhưng chưa chắc số phận của người chăn heo lại sướng hơn lũ heo đâu. Đọc kỹ, thì thấy đúng là vậy. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy cám heo mà ăn nhưng chẳng ai cho. Nhìn lũ heo ăn xong lăn ra ngủ với cái bụng tròn căng, mà lòng anh quặn đau. May thay, cái đau kia cộng với cái đói đang làm cho bao tử của anh “kêu oan” và đã đánh động lòng anh, bắt đôi mắt anh đang thèm thuồng nhìn bầy heo no say, phải ngẩng đầu hướng nhìn về mái nhà thân yêu của mình, về hình ảnh của người Cha yêu dấu. Chẳng biết tại sao lúc này anh lại nghĩ về Cha, về nhà mình? Phải chăng vì đói, vì ao ước có được bữa ăn no bụng của những người đầy tớ trong nhà anh, nên anh làm thế. Chắc chắn rồi ! Nhưng không chỉ thế. Điều sâu xa thúc đẩy anh hướng lòng về Cha, về ngôi nhà thân yêu của mình chính là tình yêu người Cha dành cho anh. Thật vậy, anh chính là một phần của người Cha. Vì thế, khi cho anh của thừa kế, người cha cũng cho anh chính tình yêu của Cha. Tình yêu đó đồng hành với anh không chỉ trong mái nhà thân yêu của những ngày ấu thơ, mà còn theo anh lên đường đến những nơi anh đi tìm hoan lạc. Và tình yêu đó cũng sẵn sàng chia sẻ số phận lam lũ nghèo hèn của anh, ngay tại chuồng thú hôi hám và dơ bẩn kia. Một tình yêu cao quý và trong sạch của Cha luôn ở bên người con yêu dấu, dù người con đó bị biến dạng như thế nào đi nữa.

Vì người con là một phần của Cha, nên khi người con về tới đầu làng, thì đã thấy bóng dáng của Cha đang đứng trước nhà như đang trông mong mình. Nhưng không chỉ là “như”, mà là thật vậy. Tình yêu đã thúc đẩy Cha hàng ngày ra trước cửa nhà để trông ngóng “một phần” của mình trở về. Và vui sướng biết bao nhiêu, sau bao ngày mong ngóng, thì hôm nay đôi mắt cha thấy bóng dáng kia đang lủi thủi trở về. Nhưng làm sao ông có thể nhận ra hình dáng lam lũ kia, không còn mang chiếc áo sạch sẽ của ngày nào, với tấm thân gầy còm không mang hình hài của người con ngày xưa, đang lê bước với đôi chân trần nặng trĩu của ngày hôm nay? Phải chăng tình yêu đồng hành của Cha luôn trong sáng, đến nỗi không có vết bẩn nào của cuộc đời có thể cản trở làm cho cha không còn nhận ra con mình, dù đứa con đó có ra thế nào đi nữa. Một phần của chính Cha vẫn là một phần của chính Cha mà!

Vì thế, cha đã chạy lại ôm cổ con mình và hôn lấy hôn để. Một tình yêu không sợ ô uế bởi cái mùi phảng phất của lũ heo đang ám ảnh trên thân phận lam lũ kia. Một tình yêu dù chẳng mắc nợ gì, nhưng vẫn trả lại cho con những nụ hôn nồng nàn. Những nụ hôn nồng nàn và không ngừng đó như là tất cả những nụ hôn được cộng lại, tính từ ngày đứa con lên đường đi hoang cho đến ngày trở về hôm nay. Nhưng cái cộng lại đó không chỉ mang tính cách số lượng, mà cao quý hơn còn mang tính cách chất lượng. Chất lượng của lòng, của tâm, của chiều sâu nhất trong Cha. Vâng, Cha đã ôm hôn con với tình yêu của lòng mình dành cho con. Tình yêu tỏa ngát hương thơm trên thân xác hôi hám của đứa con hoang đàng. Thật không có mùi nước hoa nào thơm bằng mùi nước hoa của tình yêu!

Chính lúc ở trong vòng tay của Cha, người con đã thành thật lên tiếng thưa với Cha lời mà anh đã chuẩn bị khi còn là người chăn heo. Anh ta nói gì ?”Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”. Một lời ăn năn phát xuất từ tấm lòng sâu thẳm của anh. Chính giây phút anh thốt lên lời này, hai tâm hồn đã gặp lại nhau và ôm hôn nhau thật thắm thiết. Tâm hồn của Cha với tình yêu giàu lòng thương xót, và tâm hồn thống hối ăn năn của người con một thời đi hoang đã tìm lại nhịp đập chung. Âm thanh của nhịp đập chung đó như muốn nói rằng : “con là một phần của chính Cha và Cha là một phần của chính con”. Nhưng tại sao lời nói của anh chỉ có vậy? Dấu ba chấm trong câu để lửng như mang một ý nghĩa gì đó. Đọc kỹ lại lời nói người con chuẩn bị trước đó, mới thấy rằng, phần cuối của câu đã bị cắt đứt. Phần đó diễn tả điều gì? “Xin coi con như một người làm công cho Cha vậy”. Đây là lời cầu xin mà người con chuẩn bị để thưa với Cha. Nhưng vì bị Cha cắt lời giữa chừng, nên người con không nói hết câu được. Tại sao lại vậy? Phải chăng người Cha thấu biết điều đứa con xin? Chẳng biết nữa, nhưng dù sao một lời cầu xin dù thành tâm đấy, nhưng chưa chắc là hợp lý. Cái hợp lý của tình yêu khác với lô-gic của cái đầu. Làm sao Cha có thể chấp nhận lời cầu xin của đứa con, dù đã từng một thời bỏ Cha, bỏ nhà đi hoang, giờ đây không còn muốn giữ phẩm giá cao quý là con, mà xin xuống làm hàng đầy tớ. Không, không thể chấp nhận được. Cái bỏ lửng với ba dấu chấm sao mà tuyệt vời đến vậy! Ăn năn thống hối và trở về với lòng thành tâm sẽ hoàn lại tất cả những gì đã mất. Hay nói đúng hơn, tình yêu của Cha không thể mất dù người con có “quay lưng”, có chối từ và bỏ đi. Mùi nước hoa tình yêu của Cha một lần đã xức lên thân xác và tâm hồn đứa con, thì mùi hương thơm đó sẽ tồn tại mãi mãi. Không có mùi nào khác trong cuộc đời, dù có hôi có nặng đến mấy, có thể “chiếm chỗ” của hương thơm tình yêu. Cũng thế, hương thơm tỏa ra từ ngày được làm con vẫn thế. Con mãi mãi là con, chứ không có gì đổi thay. “Đầy tớ”, hai chữ này không có chỗ trong tình yêu của Cha dành cho con.

Vì là con, và vì con là một phần của chính Cha nữa, nên giờ đây con phải được tỏ lộ vẻ đẹp cao quý của Cha nơi mình. Không chỉ là cái đẹp của lòng bên trong, mà mọi người cần phải nhìn thấy cả nét đẹp tỏ lộ ra bên ngoài. Cái đẹp của chiếc áo mới, mà lại là áo đẹp nhất nữa chứ. Áo đẹp nhất mới xứng hợp với hương thơm của nước hoa tình yêu đang tỏa ngát trên thân xác và con người cậu. “Cậu” chứ không phải là người xa lạ bên ngoài mới tới. Vì thế, các người làm công và đầy tớ cũng cần phải chú ý vẫn giữ một tấm lòng trân trọng đối với người con của Cha, dù đã một thời lầm lẫn đi hoang. Phải gọi người con đó là “Cậu”, chứ không thể thay đổi gì cả. Cuộc đời có nhiều quá khứ, quá khứ với cái đẹp, quá khứ với cái xấu, quá khứ với an bình, quá khứ với khổ đau. Dù xấu dù đẹp, dù an bình dù khổ đau, nhưng tình yêu vẫn là tình yêu. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Chúa mãi mãi tồn tại. Tình yêu của Cha không bao giờ chỉ thuộc về quá khứ. Tình yêu của Cha không bao giờ bị giam hãm trong “chiếc tủ” quá khứ. Tình yêu của Cha làm mới tất cả. Tình yêu Cha có sức mạnh làm cho người con vượt trên xấu và trên đẹp, trên khổ đau và trên an bình, để con vẫn luôn là con, để con vẫn được phép đeo vào chiếc nhẫn cao quý trên tay mình. Khi trở về lại với vị trí làm con, là người con nhận lại được “mảnh đất” cao quý và tràn đầy yêu thương trong nhà cha. Trên mảnh đất đó, người con cần được xỏ vào đôi dép của tình yêu. Đôi dép của lòng nhân hậu giúp cho con lại tiếp tục sống vui trong đời.

Mỗi niềm vui đến mà không được “ăn mừng”, thì sẽ nhanh chóng bị quên đi, bị đẩy lui vào dĩ vãng, và tiếc hơn vì giá trị của niềm vui đó vẫn chưa được khám phá cho đủ. Vì thế, cần phải mở tiệc ăn mừng. Làm sao không ăn mừng được? Đồng bạc đánh mất, và tìm thấy vẫn mở tiệc ăn mừng; con chiên lạc đàn, khi tìm lại, được ăn mừng lớn hơn. Còn người con “đã mất nay tìm thấy, đã chết mà nay sống lại”, thì phải ăn mừng sao cho đủ đây? Phải chuẩn bị bữa tiệc cho thật linh đình, nên cần phải đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Mà lạ thay tại sao lại là “con bê đã vỗ béo” ? Phải chăng, con bê này đã được chăm sóc, đã được “vỗ béo” một cách cẩn thận, và chỉ để dành cho bữa tiệc đón “Cậu” trở về? Một bữa tiệc của tình yêu, một bữa tiệc của lòng thương xót. Bữa tiệc mừng “một phần của chính Cha” đã tìm lại được. Bữa tiệc mừng sự hiệp nhất của tình yêu, bữa tiệc của sự trọn hảo của Cha – Đấng giàu lòng thương xót dành cho con mình.

Để cảm nhận sâu hơn lòng thương xót vô bờ của Chúa qua các dụ ngôn, thiết nghĩ cũng nên suy niệm thêm dụ ngôn về con chiên lạc. Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn ở bên, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an. Hơn nữa, sự hiện diện của Chúa còn mang một năng động lớn, là Ngài – vị Mục Tử nhân lành hay thương xót sẵn sàng lên đường khi cần phải cứu thoát một con chiên đang đi lạc. Thánh Luca diễn tả: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7).

Liên hệ đến đoạn Thánh Kinh này, chúng ta để một vị giáo sư kể dụ ngôn về con chiên lạc sau đây: Người kia có nuôi một đàn chiên. Một hôm có một con chiên tìm thấy một lỗ hổng ở hàng rào nó vội chui qua. Nó chạy nhảy bên ngoài, mải mê vui thú, nó đi xa quên cả đường về. Trời sắp tối, nó giật mình thấy bóng dáng một con chó sói đang rình rập từ một lùm cây bên cạnh. Vô cùng sợ hãi nó chạy bán sống bán chết, nhưng con sói dữ tợn vẫn nai lưng đuổi theo nó.

Khi con sói đã gần kề thì may mắn thay người chăn chiên vừa kịp về đến, đánh đuổi con sói và cứu lấy con chiên, ông vác nó trên vai đem về chuồng. Tất cả mọi người thấy vậy bảo người chăn chiên bít lỗ hổng nơi hàng rào lại đề phòng về sau. Nhưng người này từ chối và cứ để như vậy.

Con chiên lạc trong câu chuyện trên đây chính là mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương dựng nên con người chúng ta có tự do. Thật vậy, không tự do thì không có tình yêu, và tự do sẽ không thật là tự do, nếu thiếu vắng trách nhiệm, mà trách nhiệm thì luôn hướng về Chân Thiện Mỹ. Nhưng khốn thay, ngay từ đầu sự tự do Chúa yêu thương ban, đã bị nhiều người lạm dụng và tiếp tục lạm dụng, nghĩa là nhiều người đã và đang đui mù quay lưng với Chân Thiện Mỹ và chạy theo biết bao cám dỗ của sự dữ, của cái tôi. Hậu quả là sự dữ đã du nhập và tiếp tục du nhập vào thế gian.

Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương thì Ngài yêu thương cho đến cùng. Tình yêu đó được diễn tả mạnh mẽ và rõ ràng qua việc vị Mục Tử không chấp nhận sự nhàn hạ thảnh thơi, không hài lòng với khung cảnh thanh bình trong ngôi nhà và trong thánh đường của Ngài. Mà nếu chỉ nghỉ ngơi và thanh thản ngồi hưởng cảnh yên bình thư thái, thì làm sao có được niềm vui đích thực, vì còn biết bao con chiên đang lạc đàn và đang ở đâu đó trong góc phố đen đủi của cuộc đời chờ đợi ơn cứu rỗi.

Cần phải lên đường, cần phải đứng dậy và rời khỏi nơi yên bình thư thái, để đi tìm cho được con chiên lạc đàn. Thật vậy, niềm vui lớn lao của đời phục vụ là khi tìm thấy những con chiên lạc đàn. Một ngày vất vả ngược xuôi, lao công và vất vả, nhưng thật là vui mừng quên cả mệt nhọc, khi tìm được con chiên lạc và đưa trở về. Đêm về, người mệt lả nhưng lòng thì phấn khởi mừng vui, miệng nở nụ cười sâu lắng của lòng Chúa xót thương. Ôi đẹp thay, hình ảnh của người mục tử vác con chiên lạc đàn trên vai và đưa về lại đàn chiên yêu dấu. Con chiên đó giờ đây được ở bên Chúa, được ở trong thánh đường của Chúa, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an, vì Ngài chính là bình an đích thật, là Đấng giàu lòng thương xót vô bờ bến.

Đó là những dụ ngôn rất rất sống động diễn tả về hình ảnh của Thiên Chúa giàu lòng xót thương với muôn muôn người. Đức Clemens (*50 và +97), một Giáo Phụ đã nói về Cha trên trời giàu lòng thương xót như sau: “Cha tốt lành và nhân từ trong mọi sự luôn có trái tim cho những ai kính sợ Ngài. Cha nhân từ và tốt lành sẵn sàng và vui mừng ban tặng những ân sủng của Ngài cho những người biết chạy đến Cha với tâm hồn ngay thẳng”.[6] Các Giáo Phụ khác cũng luôn nhìn lòng thương xót là bản chất đặc biệt của Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội tiên khởi đã luôn chú ý đến lòng thương xót của Thiên Chúa mà Thánh Kinh đã diễn tả: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an” (2Cr 1,3). “Vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc 5,11).

Ở trên, chúng ta vừa tìm hiểu và suy niệm về lòng thương xót của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su rao giảng qua các dụ ngôn, và được sống động trong đời sống của Ngài. Khi Chúa Giê-su giảng dạy về Mối Phúc thương xót này, cũng là lúc Ngài đã hoạ lên một nét rất đẹp và rất quan trọng trong bức chân dung của chính Ngài (self-portrait). Cuộc đời của Chúa Giê-su đã ứng nghiệm với lời của ngôn sứ I-sai-a: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x.Mt 8,7 và Is 53,4).[7] Như thế, chúng ta nhận ra rằng, Chúa Giê-su với lòng thương xót vô bờ bến, Ngài luôn bênh vực cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta được Ngài giải thoát và cứu độ, chúng ta cũng được Ngài mời gọi sống tinh thần của lòng thương xót với mọi anh chị em khác.

___________

[1] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.235-236.

[2] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.237-238.

[3] X. BOVON F., Das Evangelium nach Lukas, 2.Teilband – Lk 9,51-14,35, Benzinger Verlag, Zurich 1996, t.82.

[4] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.240-241.

[5] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 74-77.

[6] Trích dẫn bởi KASPER W., Barmherzigkeit, t. 89.

[7] X. CANTALAMESSA R. O.F.M.CAP., Beatitudes, eight steps to happiness, t.65.

 

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

MỘT HÀNH TRÌNH LOAN BÁO

“Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Mt 10, 16). Là chiên chứ không phải đội lốt chiên (Mt 7, 15). Sai đi với lời dặn dò kỹ lưỡng: “đừng mang bao bị, giày dép, đừng mặc hai áo, chớ cầm gậy” (Mt 10, 9). Phải chăng một tâm hồn trống rỗng thơ thớilà môi trường tốt để Chúa chiếm ngự. Lại còn phải “đơn sơ như chim bồ câu” và “khôn ngoan như rắn” nữa. Vẫn biết hòa bình là trên hết nhưng để đạt được hòa bình cần phải khôn ngoan thông suốt nữa.

Muốn đến với người Khmer cần phải biết họ. Người Khmer nhìn Đức Phật như một vị Bổn sư, một Vạn thế sư biểu. Đối với họ, tôn giáo là một lời dạy luân lý, thực hiện luân lý với những phương tiện giống nhau. Khi đi tu, người tu sĩ Phật giáo giữ các giới luật khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục, người tu sĩ Công giáo cũng có ba lời khấn như vậy. Tuy giống nhau về đời sống nhưng khác nhau về ý nghĩa. Tu luật Biển Đức định nghĩa người tu là người đi tìm Thiên Chúa trong khi Phật giáo chủ trương mục đích của đời tu là đạt đến cái tự ngã mà bên kia là Niết Bàn vắng lặng.

Xét trong lịch sử cũng có những sự kiện mà ta cần lưu ý. Trường hợp Mgr Lareau muốn hàng linh mục của mình mặc áo cà sa vì thấy chiếc áo này làn nên thầy tu được kính trọng. Rôma trả lời rằng: không được, cả đến màu sắc nữa (negative, etiam quoad colorem). Không nên nôn nóng đốt giai đoạn. Một ngàn năm trước đây, Balamôn là quốc giáo của người Khmer mà bây giờ không còn bóng dáng đâu cả!

Khi một người Khmer nói: Tôi tin (Je crois) thì không như lời tuyên xưng đức tin của người Công giáo đâu. Họ công nhận đó là thật, là thích đáng nhưng không có gì nữa, không có gì liên quan đến Đấng là đối tượng của niềm tin ấy. Họ không hướng đến chiều kích siêu việt bởi vì cần thiết là chữa vết thương chứ không tìm mũi tên từ đâu bắn đến. Còn quan niệm về trời cũng khác. Trời đối với họ cũng chỉ là tình trạng tạm thời chứ không vĩnh viễn.

Trước những khó khăn đó có một lần nọ Đức Chaballier (vicaire apostolique) nói với bốn tu sĩ Biển Đức đang lưu trú tại Bình Đại rằng: “Cambốt là xứ sở của người tu. Họ chỉ bị thuyết phục bởi các tu sĩ mà thôi”. Phải chăng tu sĩ và sư sải là yếu tố quyết định?

Hiện trạng có một nhu cầu khẩn thiết là hãy gác qua dĩ vãng, đừng coi nhau như kẻ thù truyền kiếp nữa để có một cuộc đối thoại nghiêm túc và khoan dung. Người Khmer thích tụng niệm thì để thích hợp là cùng suy niệm và cầu nguyện với nhau. Hãy gỡ mối tơ lòng, đừng để mọi việc trở nên rối rắm. Trong cuốn sách được giải thưởng văn học “The things fall apart” tác giả kể rằng người Phi Châu trước đây sống yên lành nhưng từ khi các nhà truyền giáo Tây Phương đến thì mọi chuyện đổ vỡ tất cả, rơi vãi tứ tung. Nào là một Chúa mà lại có ba, nào là sinh con mà vẫn còn đồng trinh .v.v....

“Bước tới Trà Vinh buổi xế chiều

Thấy sao chen sải, sải chen sao”

Một hội dòng đã ra đi vì không chen vào được. Còn ai để ra đi nữa không?

Lm.  Phêrô Bùi Thanh Xuân

 

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Đôi Dòng Tâm Sự

Thấm thoát mới đó đã 5 năm, em Trương Thị Thanh Trúc học sinh lớp 12 nhận được học bổng Enfants Du Mékong đã chia sẻ nhân ngày họp mặt tại Trung Tâm hành hương Đình Khao.

Vốn sinh ra trong một gia đình khó khăn về kinh tế và đông anh chị em, Cả gia đình phải lệ thuộc vào đồng tiền làm thuê vác mướn của cha và vài đồng tiền bán bánh ít ỏi của mẹ. Nhưng nổi khó khăn ấy đã được vơi đi bội phần, làm nhẹ bớt gánh nặng trên đôi vai của cha và đôi mắt u sầu của mẹ. Em đã may mắn nhận được học bổng Enfants Du Mekong từ những con người ở tận trời Tây với trái tim tràn đầy yêu thương và đồng cảm. Lúc ấy, niềm hạnh phúc tràn ngập trong trái tim em hòa lẫn với những giọt nước mắt lăn dài trên má. Có thể nói rằng, cảm xúc đầu tiên của em là một nổi niềm hạnh phúc khôn tả. Với em, đây không chỉ là nguồn đông lực về vật chất mà còn là niềm an ủi lớn lao về tinh thần. Mặt khác, nó còn mang một ý nghĩa sâu xa vì đó không chỉ là sự quan tâm giúp đỡ của những con người giàu lòng nhân ái mà còn là động lực thúc đẩy em phải luôn phấn đấu học tập.

Tương lai của em là sự kỳ vọng của cha mẹ và anh chị em trong gia đình; đó cũng là niềm hạnh phúc của quỹ học bổng. Em sẽ không vì hoàn cảnh nghèo mà nản chí học hành, nhưng sẽ bước tiếp ước mơ được cắp sách đến trường, đời em được vẽ thêm mơ ước như các bạn đồng trang lứa. Bởi lẽ, tri thức là chìa khóa giúp em thành công và cũng là phương tiện giúp em thay đổi phận người. Cũng bởi lẽ, tri thức sẽ mang lại cho em biết bao điều hữu ích, biết phân định được điều hay lẽ phải, biết giúp đỡ những người xung quanh em. Bên cạnh đó, nó giúp em đầy tự tin và đầy bản lĩnh trong cuộc sống.

Giờ đây, đứng trước ngưỡng cửa của trường đại học mà em sắp thi vào, đó là mơ ước đã hình thành từ khi em học lớp 3: Lương y như từ mẫu. Cũng bởi Lương y là ngành cao quý, từ tâm, phục vụ với cả một tấm lòng nhân ái và cứu giúp con người. Chọn ngành y là ước mơ để làm nhẹ bớt cơn đau trên giường bệnh của biết bao phận người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội; đồng thời, em cố gắng vươn lên trong việc học để không phụ những tấm lòng vàng đã một đời yêu thương, giúp đỡ em cùng tất cả các bạn đang và sẽ là thành viên của quỹ học bổng Enfants Du Mékong.

Caritas Vĩnh Long

1259    05-07-2016 06:58:48