Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Nguyệt san tháng 9/2016: Lòng Thương Xót: Động Lực Của Tân Phúc Âm Hóa Nền Kinh Tế Chính Trị

LỜI CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

LỜI NGUYỆN CHUNG

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TRANG GIA ĐÌNH

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

SỐNG LỜI CHÚA

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.08.2016

Kính gửi: Quý Cha

           Quý Tu sĩ nam nữ

               Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót trong tội phạm xã hội. Tháng nầy, tôi đề cập chủ đề Lòng thương xót trong đối thoại liên tôn (số 23).

Phạm vi đối thoại liên tôn này nói về mối quan hệ giữa chúng ta với Do thái giáo và Hồi giáo vì cả hai đều xem lòng thương xót là một trong những thuộc tính quan trọng của TC. Dân tộc Israel đã tiếp nhận mặc khải về Lòng thương xót. Những trang sách Cựu ước minh chứng điều đó (x. Tv 103; 146; 147): Thiên Chúa nhẫn nại và hay thương xót, Ngài không thích trừng phạt hay hủy diệt, Ngài thứ tha mọi lỗi lầm. Ngài giải thoát người bị áp bức. Ngài chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Và lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời (x. Tv 136). Ngài đã thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để cứu vớt dân tộc Israel, đã giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.

Nơi Hồi giáo, “Đấng Tạo Hóa cũng được gọi là Đấng Xót Thương Nhân Hậu” (số 23). Người tín hữu Hồi giáo cũng chấp nhận quan điểm nầy, họ cảm nghiệm được lòng thương xót luôn luôn bên cạnh họ. Người tín hữu Hồi giáo tin rằng : “Không ai có thể đặt giới hạn cho lòng thương xót của Thiên Chúa, vì những cánh cửa của lòng thương xót ấy luôn được rộng mở” (số 23). Cho nên, đối với họ, lòng thương xót của Thiên Chúa cũng vô bờ bến, không có điểm dừng trong không gian và thời gian.

Ước chi trong Năm Thánh này thúc đẩy chúng ta đối thoại với các tôn giáo và các truyền thống tâm linh khác nhau. Cuộc đối thoại nầy có thể làm cho chúng ta có khả năng tốt hơn để cởi mở và hiểu biết, loại bỏ trong chúng ta tất cả các hình thức của định kiến và khinh thường, cho sơ tán mọi bạo lực hoặc phân biệt đối xử (x. số 23).

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 9/2016

LÒNG THƯƠNG XÓT: ĐỘNG LỰC

CỦA TÂN PHÚC-ÂM-HOÁ NỀN KINH TẾ-CHÍNH TRỊ

1. Đức ái thúc đẩy thăng tiến con người trong lĩnh vực kinh tế-chính trị

Không có gì liên quan đến cộng đồng nhân loại mà nằm ngoài công cuộc Phúc-âm-hóa. Việc Loan báo Tin mừng sẽ thiếu sót nếu không xét tới các đòi hỏi liên tục của Tin Mừng đối với đời sống cá nhân và xã hội cụ thể của con người.[1] Giữa việc Loan báo Tin mừng và việc thăng tiến con người có những mối liên hệ sâu xa, “trong đó có mối liên hệ thuộc phạm vi thần học, vì chúng ta không thể tách rời bình diện sáng tạo với bình diện cứu chuộc. Bình diện cứu chuộc đụng chạm tới chính những tình huống bất công cụ thể cần phải đấu tranh và những tình huống công bằng cụ thể cần phải được khôi phục. Trong đó còn có mối liên hệ nổi bật thuộc phạm vi Tin Mừng, tức là phạm vi đức ái: làm sao có thể công bố điều răn mới mà không tìm cách thăng tiến con người một cách đích thực trong công lý và hòa bình?”[2] Bởi thế, Tình yêu – Lòng thương xót phải là động lực của công cuộc Phúc-âm-hóa mới cả trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, kinh tế-chính trị.

2. “Của Cêsar, trả về cho Cêsar. Của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa” (Mc 12, 16-17).

Đức Giêsu không chấp nhận đồng hóa Cêsar với Thiên Chúa, mà yêu cầu tách biệt Cêsar với Đấng Siêu Việt. Không thể đồng hóa hay lẫn lộn hai lĩnh vực, trái lại phải chu toàn một nghĩa vụ kép: Trả lại cho Cêsar những gì của Cêsar và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Khi phân biệt như thế, Đức Giêsu cũng đồng thời công nhận sự hiện hữu và tính độc lập tương đối của thực tại trần thế. Nhà Nước và các thực tại trần thế có vai trò và ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực riêng của mình. Nhân danh công ích, Nhà Nước có quyền ban hành luật pháp, thu thuế và đòi hỏi công dân nghiêm chỉnh chấp hành.[3] Bên trên Nhà Nước vẫn còn một thẩm quyền khác đó là Thiên Chúa.[4] Nhà Nước không thể tiếm quyền hay đòi hỏi người công dân những gì mà họ chỉ phải trả lại cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Nhà Nước không thể chống lại quyền lợi của Thiên Chúa, cấm đoán việc thờ phượng Ngài hoặc đi ngược lại chương trình của Ngài.

3. Lòng thương xót thúc đẩy dấn thân

Theo tinh thần nhập thế và Nhập thể của Đức Kitô, Hội Thánh Công giáo coi hành động dấn thân để xây dựng một xã hội phát triển, công bằng và nhân ái như thành phần của sứ vụ Loan báo Tin Mừng.[5] Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII khuyến khích người Kitô hữu tham gia vào sinh hoạt chính trị, cần phải hăng say thâm nhập vào cơ chế của cuộc sống, không chỉ về kinh tế mà cả chính trị và hành động cách hữu hiệu trong đó.[6]

Trước những phức tạp của bối cảnh kinh tế ngày nay, người tín hữu giáo dân cần được hướng dẫn bởi các nguyên tắc của Huấn Quyền về xã hội trong hoạt động, trên hết là nguyên tắc con người phải là trọng tâm của mọi hoạt động kinh tế. “Các nhà kinh tế, những người làm việc trong lĩnh vực này và những nhà lãnh đạo chính trị phải ý thức được nhu cầu cấp bách là phải xem xét lại nền kinh tế, một mặt là xét đến sự nghèo túng bi thảm về vật chất của hàng tỉ người, và mặt khác, xét đến một sự thật là “các cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa hiện nay không được trang bị đầy đủ để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển chính đáng”[7]. Những tiêu chuẩn phải gợi hứng cho người giáo dân trong hoạt động chính trị của họ phải là: theo đuổi công ích trong tinh thần phục vụ, phát triển công lý với sự quan tâm đặc biệt đến những tình trạng đói nghèo và đau khổ, tôn trọng quyền tự trị của các thực tại trần thế, nguyên tắc bổ trợ, cổ vũ đối thoại và hòa bình trong tình liên đới.[8]

Sau cùng, cũng cần nhắc lại rằng sứ mạng của Đức Kitô, xuất phát tự Lòng Thương Xót, truyền lại cho Hội Thánh, không phải thuộc phạm vi chính trị, kinh tế hay xã hội, nhưng là mục tiêu Người trao cho Hội Thánh là mục tiêu tôn giáo. Nhưng sứ mạng tôn giáo này có thể là nguồn động lực đưa tới những dấn thân, đường hướng và sức sống để Hội Thánh tìm cách thiết lập và củng cố cộng đồng nhân loại cho đúng với luật Chúa.[9]

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Tại sao người Kitô hữu phải quan tâm đến đời sống chính trị-xã hội-kinh tế của đất nước, của thế giới?

2. Cá nhân và cộng đoàn (gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận…) của anh chị đã và đang làm gì để loan báo Tin Mừng cách mới mẻ trong lĩnh vực xã hội, chính trị, nghề nghiệp, kinh tế?

3. Anh chị có ý kiến gì cho Hội Thánh trong vùng, và Hội Thánh toàn cầu trong mối quan tâm đến các thực tại xã hội này?

–––––––––––

[1] X. Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 29.

[2] Ibid. 33.

[3] Bất chấp kinh nghiệm đắng cay đối với nhà cầm quyền Do thái và Rôma,, thánh Phaolô vẫn khuyến khích các Kitô hữu tuân phục nhà cầm quyền, vì lý do lương tâm. Vì mọi quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. X. Rm 13,1-2.

[4] Đức Giêsu nói với Philatô: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông” (Ga 19, 9-11).

[5] CĐ Vatican II, Gaudium et Spes, 1.

[6] X. Gioan XXIII, Pacem in Terris 174.

[7] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, 564.

[8] Ibid.

[9] X. Gaudium et Spes, 42.

 Văn Phòng HĐGMVN

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa là Đấng Từ Bi và Hay Thương Xót, Ngài tha thứ để chúng ta có cơ hội phát triển đời sống ơn cứu rỗi, Tân Phúc Âm Hoá đời sống xã hội, Tân Phúc Âm Hoá nền kinh tế và chính trị. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh biết sử dụng hết khả năng mình mà làm cho mọi sự vật được thấm nhuần tinh thần phúc âm.

2.       Chúa phán: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu trở nên chứng tá của Lòng Thương Xót Chúa, để nhiệt thành tân phúc âm hoá nền kinh tế và chính trị.

3.       Chúa phán: “Thiên Chúa cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu biết thực hành lòng thương xót mà đem giáo lý phúc âm xây dựng nền kinh tế và đường lối chính trị.

4.       Chúa phán: “Thiên Chúa cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết lấy lòng thương xót mình mà cầu xin mưa hồng ân Chúa đến cho mọi sự vật.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa tỏ lòng thương xót Chúa đối với chúng con. Xin lại ban Thánh Thần giúp chúng con phát huy lòng thương xót đối với anh chị em mình, mà tân phúc âm hoá đời sống xã hội, nền kinh tế và đường lối chính trị….Amen

Lm. Phêrô Nguyễân Văn Hiền

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

CHỮ TÂM TRONG PHƯƠNG CÁCH LÀM GIÀU

Phát triển, làm giàu cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội làm một mưu cầu chính đáng của mọi người. Vì Thiên Chúa dựng nên con người, ban cho họ khả năng để sinh sôi phát triển, quản lý mọi loài thụ tạo Chúa tạo thành và cùng với mọi loài tiến lên tới mức thành toàn như ý Chúa.

Ngày nay, với những phát minh khoa học hiện đại phục vụ lợi ích cho con người trên mọi lĩnh vực: y tế, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…có thể nói con người đã nhận được những thành quả tốt đẹp bởi sự lao động không ngừng của mình.

Tuy nhiên, cùng với sự lạc quan về những thiện ích mà sự phát triển đem lại thì cũng có vô vàn những gam màu tối của sự phát triển đó là: người ta coi sự phát triển như là cùng đích, coi con người như phương tiện để làm giàu, người ta bất chấp tất cả để làm giàu cho bản thân mình, công ty mình, đất nước mình. Như lời cảnh bảo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi trả lời phỏng vấn báo “Vatican Insider” ngài nói: “Khi ở trung tâm hệ thống không có con người mà chỉ có tiền bạc, khi tiền bạc trở thành một thần tượng, thì con người nam nữ bị giản lược thành các dụng cụ đơn sơ của hệ thống xã hội và kinh tế có đặc thái là các mất thăng bằng sâu xa”.

Thật vậy, tại Việt nam trong thời buổi hiện tại, chủ đề mà mọi người dân đều quan tâm đó là môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc đầu tư các khu công nghiệp, các cụm kinh tế là những phương thế để phát triển đất nước. Nhưng đầu tư như thế nào, ảnh hưởng làm sao đến môi trường đến dân sinh…là những vấn đề cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và thật sự công tâm khi đầu tư những khu công nghiệp, những nhà máy, xí nghiệp… Bài học về môi trường của 4 tỉnh miền trung là một bài học quá đắt giá cho việc phát triển, cho việc làm giảu đất nước. Đầu tư ồ ạt, quản lý lỏng lẻo chồng chéo, đùng đẩy trách nhiệm, và  một số nguyên nhân khác nữa…để rồi gần 4 triệu người ở 4 tỉnh miền trung phải lao đao vất vả, nhận 500 triệu USD tiền bồi thường cho ngần ấy con người, cho cuộc sống của họ không biết phải đến bao giờ mới được xuống thuyền ra biển. Sống nơi mảnh đất được gọi là “biển bạc” mà không thể xuống biển thì phải sống bằng gì? Và cho đến bao giờ đây?.

Tương tự như vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng nóng không kém gì. Trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày nào cũng đưa tin những vụ ngộ độc thực phẩm khi thì ở đây lúc thì ở kia. Trên bàn ăn của người dân Việt nam hầu như khó mà tìm ra thực phẩm nào được gọi là an toàn. Từ hạt gạo, bó rau đến con cá, nước chấm…ở đâu cũng thấy thực phẩm bẩn, thực phẩm không an toàn. Vì mục đích làm giàu, mục đích lợi nhuận mà người ta sẳn sàng đánh đổi tất cả để đạt được nó, người ta không từ chối bất cứ một cách thức nào kể cả nguy hại cho môi trường, cho đồng loại và đôi khi ngay cả với chính mình.

Với hiện trạng môi trường cũng như an toàn thực phẩm nguy hại như hiện nay chúng ta cần phải làm gì? Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: Chúng ta hãy làm ơn dừng lại! Như vậy, để tìm trả lời cho câu hỏi tôi sẽ nói rằng chúng ta không coi tình trạng các sự việc này như là không thể đảo ngược được, chúng ta không được chịu trận. Hãy tìm xây dựng một xã hội và một nền kinh tế, trong đó con ngưởi và thiện ích của nó ở trung tâm, chứ không phải là tiền bạc. Phải nhớ rằng cần có luân lý đạo đức trong nền kinh tế, và cần có luân lý đạo đức trong chính trị nữa. Nhiều lần các quốc trưởng và hàng lãnh đạo chính trị, mà tôi đã có thể gặp gỡ sau khi tôi được bầu làm Giám Mục Roma, đã đề cập với tôi điều đó. Họ đã nói rằng: quý vị là các giới lãnh đạo tôn giáo, qúy vị phải giúp chúng tôi và cho chúng tôi các chỉ dẫn luân lý đạo đức. Phải, vị chủ chăn có thể đưa ra các nhắc nhở, nhưng tôi xác tín rẳng cần có những người nam nữ giơ tay hướng lên Thiên Chúa để cầu khẩn Ngài, ý thức rằng tình yêu và sự chia sẻ làm phát xuất ra sự phát triển đích thực, nó không phải là một sản phẩm do bàn tay chúng ta làm ra, nhưng là một ơn cần phải xin. Đồng thời tôi cũng xác tín rẳng các người nam nữ này cần phải dấn thân trên mọi bình diện, trong xã hội trong chính trị, trong các cơ cấu và trong kinh tế, đặt để thiện ích chung vào trung tâm. 

Theo lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng mọi người chúng ta hãy đưa chữ “tâm” vào trong các phương cách làm giàu của chúng ta. Sẽ không thể có một môi trường an toàn cho con người nếu ai cũng ích kỷ tìm vật chất cho bản thân mình. Làm kinh tế, phát triển xã hội là phải có lợi nhuận nhưng luôn nhớ đó không phải là mục đích tối hậu. Hạnh phúc con người mới là mục đích tối hậu của mọi sự phát triển.

Ước mong tất cả mọi người từ nhà đầu tư, nhà quản lý, nhà sản xuất cho đến tất cả mọi người hãy vì một môi trường trong sạch lành mạnh, những thế hệ con người lành mạnh...mà luôn đặt chữ “tâm” trong tất cả mọi sự.

Lm Philipphê Phạm Huy Phong

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TƯỚC VỊ ĐỨC ÔNG và TỔNG ĐẠI DIỆN

Hỏi: Thưa Cha, trong Giáo phận của chúng ta, Đức Giám Mục Giáo Phận mới vừa bổ nhiệm chức vụ Tổng Đại Diện (TĐD); mà người được bổ nhiệm vào chức TĐD đó là Đức Ông Barnabê. Vậy con muốn hỏi chức vụ TĐD và Đức Ông cái nào lớn hơn và khi trong nghi lễ trang trọng chúng con phải xưng hô thế nào cho phải khi nhắc tới ngài? Một giáo dân 

Trả lời:

Trước tiên, tôi xin cám ơn anh đã gởi cho chúng tôi một câu hỏi có tính thời sự. Đúng như anh đã nêu, cuối tháng 7 vừa qua, Đức Cha Phêrô Giám mục Giáo phận đã bổ nhiệm Đức Ông Barnabê làm Tổng Đại Diện cho ngài. Cũng trong vai trò mới của ngài, không riêng gì anh mà cũng có nhiều người thắc mắc và có những câu hỏi đại loại : "Đức Ông trong Giáo Hội có từ khi nào? Và chức Đức Ông có nằm trong phẩm trật của Giáo Hội không? Chức Đức Ông có bằng chức Đức Cha không?...” Nhân dịp này, tôi xin cùng với anh tìm hiểu về tước vị Đức Ông và vai trò Tổng Đại Diện, để hy vọng phần nào soi sáng cho thắc mắc của anh. 

Tước Vị “Đức Ông”

Nguồn gốc: Trong Tiếng Việt chúng ta gọi là “Đức Ông”, nhưng trong Tiếng Pháp và Anh thì gọi là “Monsignor”, viết tắt là Mgr, Msgr, Mons. Nó được xuất phát từ danh xưng trong tiếng Pháp “mon seigneur”. Danh xưng này xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ 14, vào thời kỳ Tòa Thánh đặt ở Avignon, Pháp (1309-1376), được dùng để gọi các vị luật sư trong Tòa án Công giáo. Những vị luật sư này tuy không thuộc hàng giáo phẩm của Giáo hội, nhưng trong tòa án họ cũng đeo dây đỏ và mặc áo chùng thâm có nút áo đỏ giống như các Giám mục.

Khi Tòa Thánh trở lại Roma vào năm 1377, người Ý bắt đầu dùng biến âm của danh xưng "mon seigneur" thành "monsignore" như một tước vị dùng cho các giáo sĩ phục vụ tại Giáo triều Rôma. Theo thời gian, tước vị này có nhiều thay đổi, với những khác biệt về cấp bậc, quyền lợi và trách vụ.

Phong tặng: ngày nay tước vị Đức Ông trong danh xưng Công giáo là một tước vị danh dự do Đức Giáo hoàng ban tặng theo đề nghị của các Giám mục địa phương cho một số linh mục có công trạng trong việc phục vụ Giáo hội tại các giáo phận trên toàn thế giới, hoặc cho các linh mục nhân viên của Tòa Thánh làm việc trong các cơ quan trung ương tại Giáo triều Rôma hoặc trong các phái bộ ngoại giao của Tòa Thánh ở các quốc gia trên thế giới.

Tước vị: Tước vị này không phải là chức thánh trong Giáo hội. Đức Ông vẫn là một linh mục. Vì vậy, tước vị Đức Ông không thuộc trong phẩm trật của Giáo hội.

Theo quyết định của Đức Thánh Cha, tên của các Đức Ông sẽ được ghi vào Niên Giám của Tòa Thánh (Annuario Pontificio). Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh sẽ gửi văn thư và văn bằng chính thức đến các Tòa Giám Mục để ấn định nghi thức trao văn bằng và phẩm phục cho các tân Đức Ông.

Cấp bật: Ngày 28 tháng 3 năm 1968, Đức Giáo hoàng Phaolô VI ra sắc chỉ Motu proprio Pontificalis Domus nhằm đơn giản hóa việc phân loại các tước vị Đức ông. Theo đó, các tước vị Đức ông có 3 bậc từ cao đến thấp như sau:

Bí thư của Tòa Thánh (tiếng Latin: Protonotarii Apostolicii). Cấp bậc này chia làm 2 bậc nhỏ hơn:

Chánh Bí thư (de numero): đây là cấp bậc cao nhất của tước vị, chỉ được phong cho 7 vị giáo sĩ thành Roma.

Phó Bí thư (supranumerarii): đây là cấp bậc cao nhất của tước vị có thể phong cho các giáo sĩ bên ngoài thành Roma.

Giáo sĩ Danh dự của Giáo hoàng (tiếng Latin Praelatos Honorarios Sanctitatis Suae).

Tuyên úy của Giáo hoàng (tiếng Latin Cappellanis Sanctitatis Suae).

Phẩm phục: Năm 1969, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh đã ra hướng dẫn quy định về phẩm phục dành cho tước vị Đức ông như sau:

Bậc Bí thư của Tòa Thánh: Phẩm phục chung là áo chùng ĐEN (soutane, cassock) dành cho Giám mục, có nút và viền màu ĐỎ, đai (sash) TÍM.

Bậc Chánh: Có thể sử dụng thêm áo choàng ngắn (mantelletta) mà TÍM và mũ biretta màu ĐEN với búi màu ĐỎ.

Bậc Phó: Có thể sử dụng thêm áo choàng dài (ferraiuolo) màu TÍM và mũ lụa TÍM trong các dịp lễ thường.

Bậc Giáo sĩ Danh dự: Phẩm phục thường là áo chùng ĐEN dành cho Giám mục, có nút và viền màu ĐỎ và đai TÍM. Trong các nghi thức phụng vụ trọng thể, phẩm phục là áo chùng TÍM có nút ĐỎ, viền ĐỎ và cổ tay áo ĐỎ.

Bậc Tuyên úy của Giáo hoàng: Phẩm phục là áo chùng ĐEN có nút và viền màu TÍM và đai TÍM trong tất cả các nghi lễ

Đến đây, chúng ta hiểu được tước vị Đức Ông là gì rồi, và tước vị này có gắn liền với giáo vụ nào hay không rồi. Hy vọng tháng sau, chúng ta tìm hiểu danh xưng của Tổng Đại Diện và giáo vụ của ngài thì sẽ trả lời trọn vẹn thắc mắc của anh. Xin cám ơn anh!

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ – tổng hợp 

 

TRANG LINH MỤC

ƠN GỌI LINH MỤC – ƠN GỌI CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều đang hân hoan sống trong Năm thánh ngoại thường của Lòng Thương Xót. Chắc chắn chúng ta đang có những trải nghiệm của niềm vui được thuộc về Giáo hội. Dù đang sống và phục vụ trong ơn gọi nào, chúng ta đều có ơn gọi chung là Kitô hữu. Chúng ta đều sinh ra từ lòng Dân Chúa qua phép Rửa tội và là quà tặng của Lòng Thương Xót. Quả vậy như Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi thứ 53, Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh rằng: “Giáo hội là nhà của Lòng thương xót, và là “mảnh đất” nơi ơn gọi đâm trồi và nảy lộc, trưởng thành và sinh hoa kết trái.”

 

Mở đầu cho bài chia sẻ về Ơn gọi linh mục - Ơn gọi của Lòng Thương Xót, cha Giuse nhắc lại ý tưởng về nguồn gốc của ơn gọi từ sứ điệp Ngày Thế giới lần thứ 53 cầu cho Ơn Gọi: “Mỗi ơn gọi trong Giáo hội đều xuất phát từ ánh mắt xót thương của Chúa Giêsu… Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên một phần tử của Giáo hội, và sau khi đã đạt được một sự trưởng thành nào đó trong Giáo hội, Ngài ban cho chúng ta một ơn gọi đặc thù. Hành trình ơn gọi được thực hiện cùng với các anh chị em Chúa ban cho chúng ta.”

Noi gương Đức Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa Đấng tự nguyện đi ra từ Lòng Thương Xót Chúa Cha để loan báo tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đức Giêsu đã bắc nhịp cầu giữa Thiên Đàng hạnh phúc và thế gian khổ ải. Ngài đã ra khỏi địa vị Thiên Chúa để sống như một người phàm. Ngài đã ra khỏi mình đến tận cùng đến chịu khổ hình, chịu giết chết trên thập giá để rồi ôm trọn mọi kiếp người trong Lòng Thương Xót Chúa Cha. Đặc biệt những mảnh đời bị hắt hủi, bị loại trừ, bị oan ức, bị bất công trong xã hội (x. Pl 2,6-11). Quả vậy Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông sắc Misericordiae Vultus : “Chúa Giêsu Kitô là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo xem ra được trình bày một cách chính xác trong câu nói ấy. Trong Chúa Giêsu thành Nazareth, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động và rõ ràng, và đã tìm thấy tột đỉnh điểm của nó”[1].

Ngày nay, với cái nhìn của thế gian, những thành tựu, những công trình nghiên cứu, những đáp ứng tiện nghi vật chất có thể khiến họ cho rằng mình đủ khả năng đem lại bình an, hạnh phúc, hay xây dựng “một thiên đàng theo cách của mình”. Nhưng kỳ thực thế gian đã sai lầm! Thực tế những gì họ hy vọng chỉ đem lại bất ổn, tàn phá, diệt vong…những vấn nạn về số phận, cuộc sống buộc họ phải chân thành nhìn nhận họ cần Lòng Thương Xót bao bọc. Lòng Thương Xót Chúa chính là cách thức Thiên Chúa cứu độ con người.

Đối với người môn đệ Chúa Kitô, họ phải noi gương Ngài “đi ra khỏi chính mình”, “ra khỏi gia đình êm ấm”, “ra khỏi những vỏ bọc của quan niệm trần gian”, “ra khỏi địa vị quyền lực”, “ra khỏi công việc để đến với con người”[2] và ôm trọn nhân loại trong Lòng Thương Xót. Nhưng trước tiên, người môn đệ phải cảm nhận Lòng Thương Xót đang bao phủ cuộc đời họ. Cuộc sống của họ là hành trình diễn tả niềm vui được Chúa yêu thương. Điều quan trọng là tin tưởng vào Lòng Thương Xót, can đảm ra khỏi quá khứ buồn tẻ, lỗi lầm để chỉ còn hướng về Lòng Thương Xót, phó thác vào tình yêu thương không bến bờ của Ngài cho nhân loại và từng người chúng ta.

Cuộc sống của chúng ta chỉ phong phú khi xây dựng trong những mối tương quan. Chúng ta cần để Chúa yêu thương chúng ta và để cho than nhân thông cảm với ta. Người môn đệ của Chúa Kitô luôn phải ý thức hành trình “ra đi” của mình không hề đơn độc, vì với Đức Kitô họ cũng mang trên vai hành trang ơn cứu độ, mang trong mình trái tim Lòng Thương Xót bao dung của Thiên Chúa để sưởi ấm nhân loại băng giá. Như chính Đức Giêsu đã nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em”. (Ga 15,16).

Chúa biết sức nặng của thực tại nhân sinh, Chúa biết sự mỏng manh, lâm lém của con người. Nhưng qua đó chúng ta sẽ thấy được sức mạnh của Lòng Thương Xót sẽ được gieo vào thế giới. Chúa cần có bàn tay cộng tác của chúng ta, những người sẵn sàng theo Chúa để tung gieo niềm vui ơn cứu độ và Lòng Thương Xót đến những mảnh đời còn vật vã trong những tiếng khóc than, còn mặc cảm trong những lỗi lầm, thống khổ… Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ những lỗi lầm cho con người. Có chăng chính con người mệt mỏi, ù lì, không dám đứng lên để trở về với ơn tha thứ. Chúng ta chỉ thực sự sống và cảm nghiệm được Lòng Thương Xót khi chúng ta để Chúa chạm đến và bao bọc bởi Lòng Thương Xót. Một điều đơn giản ta cần ghi nhớ trong đời sống Kitô hữu đó là đừng mặc cảm về những lỗi lầm để cứ thế khép kín và giết chết ý nghĩa đời mình. Nên nhớ, ta còn có một người Cha luôn mong chờ ta trở về nơi bí tích Hòa giải. Người môn đệ Chúa hãy trở thành dấu chỉ sự hòa giải giữa Thiên Chúa và con người. Mọi hành động của người môn đệ Chúa phải tỏa sáng Lòng Thương Xót Chúa tới bóng đêm của những số phận lầm than. Người môn đệ Chúa phải “mặc lấy Đức Kitô - Dung mạo của Lòng Thương Xót Chúa” để không ngại thấm đượm “mùi chiên” để mang trên vai những tội nhân trở về. Trước sự mờ tối của tội lỗi nhân loại, ngọn lửa tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa cần được thắp sáng và là sự khao khát đích thực trong trái tim người môn đệ Chúa Kitô để thiêu đốt, nung nấu, chữa lành thương tích nhân loại.

Như vậy, có thể nhắc lại rằng “ơn gọi linh mục xuất phát từ Lòng Thương Xót”. Ơn gọi đích thực của linh mục là khi họ sống và làm chứng Lòng Thương Xót. Để thực thi Lòng Thương Xót, họ cần cảm nghiệm được Lòng Thương Xót vì chính khi họ cảm nghiệm được Lòng Thương Xót, họ mới có thể diễn tả Lòng Thương Xót Chúa trong đời mình và lan tỏa tới mọi người. Tông sắc Lòng Thương Xót Chúa số 10: “Chiếc trụ đỡ nâng đời sống Giáo hội chính là Lòng Thương Xót. Toàn bộ hoạt động mục vụ của Giáo hội nên được bao bọc bởi sự trìu mến với nó, Giáo hội hướng về các tín hữu; việc loan báo Tin mừng của Giáo hội và chứng tá của Giáo hội với thế giới sẽ không thể diễn ra mà không có Lòng Thương Xót. Tính đáng tin của Giáo hội được xúc tiến trên con đường Tình yêu nhân hậu và cảm thông”. Cũng vậy người linh mục phải coi trụ cột nâng đỡ đời sống mình là Lòng Thương Xót Chúa. Lòng Thương Xót là động lực để ta sống thánh thiện, quy chuẩn ứng xử trong cộng đoàn, để củng cố tính cách đáng tin của Giáo hội, cách riêng của người linh mục giữa thế giới hôm nay.

Trong hành trình sống Năm Thánh, người Kitô hữu, cách riêng nơi người Linh mục cần chiêm ngưỡng Đức Maria, mẹ của Lòng Thương Xót để nhờ Mẹ cầu bầu, dẫn dắt, che chở ta trong Lòng Thương Xót. Chúng ta hãy xin mẹ chuyển cầu để Giáo hội trở nên một ngôi nhà cho nhiều dân tộc. Trong Lòng Thương Xót, chúng ta tin tưởng và hy vọng vững vàng: “Này, Ta làm mọi sự nên mới” (Kh 21,5). Cùng với mẹ Maria, chúng ta tiến bước, tin tưởng vào Lòng Thương Xót đối với thế giới xinh đẹp của chúng ta!

Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Điệp

Đại Chủng viện Vinh Thanh

---------------

[1] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông thư Misericordiae Vultus (Dung Mạo Lòng Thương Xót), ngày 11-04-2015, số 1.

[2] ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Tân Phúc Âm Hóa với Đức Thánh Cha Phanxicô, 115-119.

 

TRANG TU SĨ

LAN TỎA YÊU THƯƠNG

Trên chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua “khu vườn cổ tích” của bé, những đôi chân nhỏ xíu lon ton chạy cùng những tiếng cười, những khuôn mặt bé thơ như thiên thần tung tăng bên những luống hoa và các con thú bằng đất được tô vẽ nhiều màu sắc. Nhìn các bé vui chơi cô giáo trẻ thấy lòng mênh mang một cảm giác bình yên. Trẻ thơ, thế giới của chúng không có đấu tranh để loại trừ, không tiếng súng, không có giành giật đua chen, không hận thù giết chóc, không biết đến cái ma mị của đồng tiền hay vật chất…cô giáo cứ vậy mà chìm đắm chiêm ngưỡng vẻ đẹp tinh khôi ấy.

Bóng chiều dần chuyển màu, giờ đây trên khoảng sân rộng chỉ còn lác đác vài phụ huynh đi đón bé trễ vì công việc mưu sinh, nhưng ông vẫn chưa đến. bé Ti ngồi gọn lỏn trong lòng cô và thắc mắc:

-        Cô Don ơi, cô Don…

-        Lại không đúng rồi nè…gọi lại nào “cô Loan ơi”…

-        Cô Don ơi…

-        Hửưm…lại nào…cô Loan

-        Cô…cô Dooa..an

Nhìn cái miệng của bé chành ra hết sức, cái đầu cúi xuống, cổ thì lúc lắc, cô không khỏi bật cười, thế là cô thua bé mất rồi:

-        Ừa, Ti nói đi cô nghe nè!

-        Sao ông nội Ti chưa tới “gước” Ti nữa

-        Ông nội bận mà, chắc chắn ông nội sẽ tới, kìa mới nhắc ông nội tới rồi thấy chưa…

-        Aaaahhh!! Ông “noọi”! bật nhảy khỏi lòng cô giáo, bé như con chim sáo chạy về phía ông nội với tất cả yêu thương.

-        Chào ông bảy. bé Ti đợi ông bảy đó…

-        Ừa, tại hôm nay ở nhà bận lo cho bà nội đang bệnh nên tới rước Ti hơi trễ, Dì thông cảm nghen!

-        Dạ, không sao. Ah, Bà Bảy bị bệnh sao vậy ông Bảy?

-        Bả bị bệnh cảm sốt mấy ngày nay. Bây giờ thì đỡ nhiều rồi. Cám ơn Dì!

-        Vậy, ông Bảy vừa chăm lo cho bà bị bệnh vừa chăm sóc cho cháu … như vậy cực cho ông quá!

-        Hỏng sao,  tui quen rồi! Bà nhà tui lớn tuổi nên thường không khỏe, còn ba mẹ bé Ti thì phải đi làm lo cho cuộc sống. Bây giờ tui còn khỏe mạnh có thể làm được gì để giúp gia đình thì cố gắng làm thôi. Nhưng nhờ có các Dì dạy dỗ nên bé Ti càng lúc càng ngoan, tui thấy yên lòng lắm khi gởi cháu ở đây. Thiệt là cám ơn các Dì hết sức!

-        Dạ, đó là trách nhiệm của tụi con, ông Bảy không cần cám ơn đâu!

-        Vậy chớ sống trên đời mình phải có cái lòng từ bi ha Dì, chớ tui thấy có nhiều chỗ bây giờ không còn giữ được cái đạo làm người đâu, toàn chú tâm đi tìm của, đủ thứ xấu lắm. Cũng vì chạy theo mấy cái thứ giàu sang, quyền lực mà lương tâm con người ta có còn đâu, lương tâm nghề giáo cũng trôi tuột đâu mất nhường chỗ cho lương bổng, thành tích, giết người nhan nhản ra đó, rồi khủng bố, xâm lấn đất đai, giành giựt quyền lợi, rồi độc ác nhất là kẻ có quyền có tiền thì không thanh liêm để mang họa về cho dân nghèo…

-        Dạ, ông bảy nói làm con nhớ và thấy thương cho người dân vùng biển miền ngoài quá, hôm nọ con có xem trên tivi, cá chết trôi nổi đầy sông, làm ô nhiễm môi trường… cuộc sống người dân đã khổ nay lại càng khốn đốn hơn…

-        Thì đó, lương tâm, lòng từ bi có còn đâu, mà nếu người ta còn biết đến lòng xót thương nhau thì đất nước này, thế giới này sẽ tốt đẹp biết nhiêu mà nói…

Câu chuyện buông lửng ở đó… ông Bảy cùng cháu gái khuất dạng sau cánh cổng. Trong giờ kinh chiều hôm ấy bên những dòng thánh thi ngân nga là những giọt tâm tư của người nữ tu lặng lẽ, khao khát cho nhân loại nhận biết được lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng từ bi vô ngần, Đấng đã xuống tận cùng của thân phận làm người để trả lại và để nâng lên cao phẩm giá của mỗi con người, phẩm giá cao trọng mà ngày hôm nay chính con người lại quên lãng hay cố ý gạt xóa đi. Vì nhu cầu hạnh phúc con người ngày một tìm cách thăng tiến và phát triển nhiều hơn, cao hơn về kinh tế nhưng nếu lòng nhân ái, tình yêu thương cũng được thăng tiến và tỏa rộng thêm cùng chiều thì tuyệt vời biết bao.

MTG Cái Nhum

 

HÁI TIỀN CÁCH PHI NHÂN NGHĨA

“Chị Hai ơi! Hơn bốn năm rồi chị em mình không gặp nhau. Bây giờ cuộc sống gia đình em ổn định rồi. Năm nay em sẽ tổ chức ngày giỗ của cha. Chị em mình sẽ họp mặt ngày đó nha chị “.

Đọc tin nhắn của Dung, đứa em gái út khiến Dì Thu miên man nghĩ ngợi. Mấy năm nay do nuôi tôm thua lỗ, vợ chồng Dung phải tha phương cầu thực. Vậy mà hôm nay Dung nói cuộc sống đã ổn định rồi. Dì Thu rất mừng và dành dịp nghỉ phép lên thăm em gái của mình.

Ngày giỗ cha năm nay được Dung tổ chức khá lớn, có đông đủ bà con trong gia tộc. Lễ giỗ xong, Dì Thu còn ở lại chơi với gia đình Dung. Được biết nợ nần em đã trang trải xong, thấy nhà trọ tương đối thoáng rộng và mua sắm khá đủ tiện nghi. Dì Thu nói:

-        Thấy kinh tế của em ổn định, cuộc sống hiện tại của gia đình em khá hơn. Chị mừng lắm! Mà em làm nghề gì vậy?

-        Vợ chồng em thuê mặt bằng bán nước giải khát, bán chè, chỉ có vậy thôi.

Những ngày ở lại nhà Dung, cùng phụ công việc với em gái mình. Dì Thu mới biết rõ nguồn thu nhập mỗi ngày khá cao là do Dung nấu nhiều thứ chè và chế biến các loại nước trái cây bằng 50% đường hóa học. Trước khi về lại cộng đoàn Dì Thu ôn tồn nói với Dung:

-        Chị biết cách em hái ra tiền rồi Dung ạ! Nhưng khi làm thế em có nghĩ đến tội không?

-        Chị ơi! Làm ăn thì phải biết mánh mung. Lương thiện thì làm sao sống nỗi nơi đất Thành phố nầy.

-        Em à! Mình là người có đức tin và hiểu lẽ đạo. Chúa dạy ta phải yêu thương tha nhân như chính mình. Làm kinh tế cách nầy là giết người đó. Lương tâm em có bằng an không?

-        Người ta cũng làm ăn vậy thôi chị ạ.

Vâng! Xã hội hôm nay là thế. Người ta có đủ phương thế hái ra tiền thậm chí có nhiều cách làm kinh tế phi nhân đạo nữa. Hàng giả, tiền giả, thuốc giả, thức ăn giả và đồ dùng có chất độc hại tràn lan trên các thị trường. Nhiều người nói với nhau: làm sao phân biệt được cái nào giả, cái nào thiệt mà mua. Thật vậy, sống giữa nền kinh tế thị trường với một xã hội trọng tiền tài và coi thường đạo đức thì người nghèo luôn đón nhận sự thiệt thòi và gánh chịu hậu quả đau thương. Một xã hội kinh tế phát triển, người làm kinh tế cần có một con tim biết chạnh lòng thương, biết nghĩ đến quyền lợi của người tiêu dùng thì mới đem lại niềm vui, sự bình an và hạnh phúc cho chính mình cũng như mọi người.

MTG Cái Mơn

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ

Trong trình thuật Tin Mừng Marcô 8,31-37, sau khi quở trách thánh Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu cho biết thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”. Với Chúa Giêsu, từ bỏ và vác thập giá không phải là đi vào cõi chết, nhưng thực sự là con đường dẫn tới sự sống thật, sự sống trường cửu.

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Lời kêu gọi này của Chúa Giêsu vang vọng trong tâm trí những người muốn bước đi theo Chúa cách đặc biệt. Chúa không ép ta đi theo Ngài, Ngài cũng không buộc ta phải bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời gọi ta. Như thế, Ngài cho ta được hoàn toàn tự do: Nếu ta muốn theo thì hãy bỏ mình, vác thập giá. Nếu không, ta cũng có thể từ chối. Nhưng, vì yêu thương ta, nên Ngài cho biết những sự thật: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống” và “được lời lãi cả và thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì ?”

Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Dưới cái nhìn của con mắt đức tin, thập giá, đau khổ không phải là sự đày đọa mà con người phải gánh chịu nhưng là một phương thế để nên thánh.

Bước vào đời tu, chúng ta được mời gọi sống cho Chúa. Mà muốn sống cho Chúa thì cũng phải bước đi cùng một con đường của Chúa; đó là con đường thập tự, chất chứa sự từ bỏ và hy sinh. Từ bỏ lối sống cũ, những gì mình thích, những gì không phù hợp với đời tu, để đi vào một đời sống có tu luật quả thực là một thử thách không nhỏ. Tu là một chọn lựa mà có chọn lựa là có từ bỏ. Nếu như sự chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu đã là khó, thì sự chọn lựa giữa hai điều tốt lại càng là một thách thức đòi hỏi một sự phân định kỹ càng và sự từ bỏ quyết liệt.

Hành trình theo Chúa trong đời sống dâng hiến còn nhiều thách đố và nhiều điều cần luyện tập. Nhưng chúng ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vì Chúa luôn ở bên ta, vác thập giá chung với ta. Có Chúa thì thập giá sẽ trở thành Thánh giá đem lại sức sống và ơn cứu độ. Ngoài ra, còn có biết bao người trong Giáo hội đã, đang và sẽ còn tiếp tục yêu thương, nâng đỡ và cầu nguyện cho chúng ta. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta cảm nhận được Chúa Giêsu đang yêu thương chúng ta cách thiết thân và cá vị khi Ngài gọi chúng ta bước theo Ngài, để chúng ta biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích và không trông chờ một phần thưởng nào khác; ngoài điều này là chúng ta làm theo Thánh Ý Chúa.

Martinô Ngô Hoàng Lâm

Khóa V- ĐCV Xuân Lộc

 

TRANG THIẾU NHI

GIÁO DỤC HỌC TẬP CHO CON CÁI    

Vấn đề bức bách và quan tâm hàng đầu đối với các bậc cha mẹ ngày nay là vấn đề giáo dục học tập cho con cái. Điều này thật là ý nghĩa, cần thiết, là bổn phận và là nền tảng cho mỗi con người, cho gia đình và xã hội được tiến bộ. Nhưng làm thế nào để đạt được mục đích cao qúy này lại là vấn đề thật nan giải. Việc giáo dục bắt nguồn và phải bắt đầu từ đâu? Đây là vấn đề cần được đặt ra cho thông suốt, từ sự nhận thức cho đến những thực hành cụ thể thiết thực, trở nên “tri hành hợp nhất”, như vậy mới mong việc giáo dục đi đúng đường, đúng hướng và có hiệu quả thực sự.

 SỰ NHẬN THỨC

Con người cá nhân được phát xuất từ gia đình, bởi vậy cái nền của xã hội cũng phải là từ gia đình, cho nên nguồn gốc của mọi cơ cấu xã hội được nhen nhúm hình thành bắt đầu từ trong gia đình. Câu nói “tu thân, tề gia” mang ý nghĩa nền tảng và quan trọng là thế, cũng như không ai có thể phủ nhận “Gia đình là tế bào của xã hội”. Do vậy, cá nhân và gia đình vô cùng cần thiết và quan trọng cho xã hội. Nhiều gia đình tốt thì xã hội tốt, ngược lại nhiều gia đình xấu thì xã hội xấu. Một gia đình tốt hay xấu lại khởi đầu từ cha mẹ, và được con cái tiếp thu một cách trực tiếp. Nó tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ để hình thành căn tính cho cá nhân, đến nỗi môi trường xã hội và giáo dục bên ngoài gần như vô hiệu, vì nhà trường chủ yếu chỉ là truyền dạy kiến thức nền về phổ thông, còn tổ chức xã hội chỉ là điều hành, thiết lập những định chế và luật lệ để bảo vệ quyền lợi cho người dân, mặc dù yếu tố giáo dục con người vẫn không thể thiếu trong nhà trường và xã hội.  Nhưng một số cha mẹ khi thấy con mình hư hỏng thì lại đổ lỗi cho bạn bè, cho nhà trường, cho xã hội là thiếu cơ sở, đôi khi chỉ là để bào chữa cho sự yếu kém hoặc vô trách nhiệm của mình. Điều này người xưa nói thật chí lý: “Phúc đức khán nhi tôn”, nghĩa là “Muốn biết phúc đức thế nào nhìn con cháu khắc rõ”.  Cũng như: “Ngưu tầm ngưu mã tầm mã”- lọai nào thì tìm đến lọai đó. Đây là sự nhận thức quan trọng đầu tiên về vấn đề giáo dục con cái. 

Tiếp đến là sự nhận thức về chính mình. Đây là một bổn phận và là trách nhiệm trực tiếp của các bậc làm cha mẹ, có thể nói nó thuộc về vấn đề luân lý và đạo đức của con người mà không ai có thể né tránh. Như một câu nói bất hủ: “Muốn giáo dục người khác thì trước hết phải tự giáo dục mình”. Điều này vô cùng quan trọng đối với việc giáo dục con cái, vì nếu cha mẹ thiếu những đức tính cơ bản thì chắc chắn con cái cũng sẽ khiếm khuyết như vậy. Con cái ươn lười, nhát đảm, dối trá, ích kỷ, gian tham, vô kỷ luật, thiếu trách nhiệm, phóng túng v.v…là do hấp thụ từ gia đình. Cha mẹ luôn luôn phải là tấm gương cho con cái, vì chúng chỉ tuân phục một khi người trên  xứng đáng là người mà  chúng muốn noi theo.

Ngoài ra trong giáo dục còn phải nhận thức và hội đủ một vài yếu tố cơ bản sau:

– Giáo dục cần có phương pháp và tâm lý:

Vấn đề này cha mẹ phải tự trau dồi học hỏi từ nhiều nguồn, như dự các khoá về giáo dục, học hỏi những người có kiến thức và kinh nghiệm, tìm đọc những sách về giáo dục, trải nghiệm từ bản thân và rút tỉa những thành bại của mình cũng như của người khác… Nếu thiếu phương pháp và tâm lý thì chắc chắn việc giáo dục sẽ lâm vào tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, tréo cẳng ngỗng, nghĩa là không có sự nhất thống, lúc thế này lúc thế khác. Nếu thiếu phương pháp và tâm lý thì giáo dục trở thành vô hiệu, phản tác dụng, người  thụ giáo sẽ bị lệch lạc, mất quân bình, bị ức chế, dồn nén, sinh ra nhiều chứng bất thường trong những phản kháng tiềm tàng cách nào đó, hoặc thụ động, hoặc sốc nổi vượt rào để chống lại những sợi dây vô hình mà người thụ giáo như cảm thấy đang trói buộc họ. Con người hay đi vào cảm tính do vui buồn sướng khổ của cuộc sống, có lúc thì thật khe khắt, khi thì lại như buông lỏng, nhất là tình yêu của cha mẹ đối với con cái hết sức chủ quan, dễ đi đến mù quáng trong sự nhận thức, đến nỗi sợ con cái nó buồn, nó giận, nó khổ, mà không cần biết việc đó đúng hay sai, lợi hay hại, làm tốt cho con hay làm hư con cái. Bởi vậy phương pháp và tâm lý cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục con cái, nó giúp cho người giáo dục không đi chệch đường nhờ vào phương pháp, nó giúp cho việc giáo dục có được một sự quân bình, êm xuôi, an hoà, đi vào chiều sâu nhờ vào tâm lý của giáo dục.

– Giáo dục còn là một nghệ thuật:

Vì nó đòi hỏi một sự khéo léo, một sự tinh tế, một sự uyển chuyển và linh động, một sự cao đẹp không thiếu vẻ thẩm mỹ, dù có đang ở trong tâm trạng buồn bực. Tất cả đều diễn tiến một cách nhịp nhàng và liên tục trong sự liên đới giữa người giáo dục và người thụ giáo. Nó khéo léo và linh động tuỳ nơi, tùy lúc, tùy mức độ trong mọi trường hợp, mọi tình huống. Nó diễn tiến trong khi ứng xử với sự việc trong cương có nhu và trong nhu có cương. Điều này nó đòi hỏi những bậc làm cha mẹ phải ý thức sâu xa cũng như biết tôn trọng nhân phẩm của con cái, và tuỳ theo tuổi tác của chúng mà ứng xử, qua những khuyến cáo, ngăn cấm, răn phạt, nhắn nhủ, chỉ bảo, góp ý, trao đổi, bàn luận v.v…, và điều rất quan trọng là phải biết khen tặng bằng lời và tưởng thưởng bằng nhiều hình thức khác, khi con cái tiến bộ hoặc có được những thành quả tốt đẹp. Lúc con cái lầm lỡ thì cha mẹ sửa dạy chúng phải biểu lộ được tình thương yêu, sau đó là sự nâng đỡ và khuyến khích, chứ không nóng cộc, có khi dã man với chúng. Chung quy tất cả nằm trong vấn đề nghệ thuật. Bởi thế cha mẹ rất cần phải học tập những điều này, “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý” là vậy. Một khi giáo dục có nghệ thuật thì hiệu qủa sẽ rất lớn, mà chính con cái tự động cũng học được những vốn liếng mà cha mẹ chúng có, nối tiếp sau này thành một dòng họ thịnh đạt.

– Sau cùng là sự nhận thức về lòng ước muốn:

Nếu thiếu sự ước muốn là thiếu một động cơ thúc đẩy quan trọng cho mục tiêu. Cha mẹ rất cần có sự ước muốn mạnh mẽ và liên lỉ cho con cái tiến bộ hơn mình, như câu tục ngữ “Con hơn cha thì nhà có phúc”. Nếu đối lại câu này thì phải nói “Con kém cha thì nhà vô phúc”. Hơn ở đây ai cũng hiểu là hơn về tài và đức. Muốn con ham học và học tốt thì như câu ca; “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, và phải lấy câu “Tôn sư trọng đạo” làm tôn chỉ. Muốn học như thế nào thì Khổng Tử đã chỉ dạy: “Học cho rộng, hỏi cho kỹ, suy nghĩ cho cẩn thận, phân biện cho sáng tỏ, làm cho hết sức” (Bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi). Những nhận thức này không phải là để vui mà là vấn đề của những ý niệm tư tưởng cần được quán thông trong việc xây dựng nền móng cho việc học tập của con em, xuất phát từ tư tưởng của cha mẹ. Muốn con cái tốt hơn mình thì cha mẹ phải nhận ra khuyết điểm của mình để tránh cho con cái, tìm ra ưu điểm và sở trường của con để giúp chúng trau dồi và phát huy tiềm năng sẵn có. Muốn con tài năng hơn mình thì luôn phải hướng chúng tới cái đích “Tiến vi quan, thoái vi sư”, để chúng tìm được cái học uyên thâm trong ngành của mình, quán thông về các lãnh vực khác, nhất là những lãnh vực liên quan.

 

PHƯƠNG THỨC VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ

Giáo dục con người là phải nói đến toàn diện, nhưng trong đề tài này chỉ nói riêng về việc học tập của con em, cũng là một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trọng việc hình thành nhân cách con người, đến nỗi người xưa đã nói: “Hiếu nhân bất hiếu học kỳ tế giã ngu” (có lòng nhân mà không ham học thì cũng sinh ra mờ tối, mê muội), hoặc như thành ngữ “vô tri bất mộ”. Để đạt được điều này, tất nhiên phải có những cách thức và điều kiện của nó. Như phòng học, không khí học tập trong gia đình, sự quan tâm của phụ huynh, tạo điều kiện cho con cái quan hệ với thầy cô và bạn bè ham học.

1- Phòng học là điều kiện quan trọng đầu tiên để cho con em học hành. Nếu thiếu phòng học riêng thì chắc chắn chúng sẽ khó tập trung vào việc học. Phòng học phải đủ ánh sáng, yên tĩnh, có bàn ghế, có tủ hoặc kệ sách, thông thường cũng là phòng ngủ riêng của các em. Nếu các em đã lên cấp hai và ba thì mỗi em cần có một phòng riêng để ngủ nghỉ và học tập. Cần gợi ý và giúp các em treo những câu danh ngôn, châm ngôn lên tường thuộc về lãnh vực học hành, và cũng cần có một bảng viết để các em tiện việc viết những câu, những công thức khó nhớ trong giáo trình.

Có người cho đây là việc xa xỉ, hoặc cho đây là điều kiện khó thực hiện. Nhưng thực ra với quyết tâm thì ai trong dù trong hoàn cảnh nào cũng thực hiện được. Nó đâu đỏi hỏi những điều kiện về tiên nghi vật chất đắt tiền. Một phòng học đơn sơ bằng bất cứ vật liệu nào, đồ dùng, bàn ghế, tủ kệ cũng vậy, đâu cần những thứ đắt tiền, thậm chí mấy miếng ván cũng là một cái bảng, một kệ sách hoặc thành cái bàn học. Nói chung vấn đề tốn kém không có gì đáng kể. Người ta có thể lãng phí nhiều tiền để làm việc khác, nhưng lại quên đi việc quan trọng là lo cho con cái có một phòng học riêng.

2- Không khí học tập trong gia đình cũng là điều thiết yếu. Nếu trong gia đình chỉ có những chuyện đam mê ồn ào về tiền bạc, về kế sinh nhai, về việc đua tranh ở đời, về giải trí, hưởng thụ, ca tụng vật chất, thèm khát vật dục… thì làm sao con cái yêu chuộng sự học được. Muốn tạo không khí học tập trong gia đình, thì cha mẹ phải là người chủ động nói chuyện, hỏi han, đánh đố nhau về sách vở, về kiến thức, về sự cần thiết, lợi ích và quan trọng của việc học. Hỏi con cái và lắng nghe chúng nói, chúng kể về những chuyện học hành, về những điều mới lạ trong những kiến thức chúng đã tiếp thu từ giáo trình học và trong sách vở liên quan. Nếu cha mẹ có ý hỏi con cái về kiến thức chúng đã học, thì chắc chắn chúng sẽ vui mừng và hãnh diện để kể, để khoe những điều chúng đã tiếp thu, đã học hỏi. Điều này thật dễ dàng, nhưng nhiều cha mẹ không thực hiện, có khi cho rằng không cần thiết, nhất là nại vào lý do không có thời gian – thực ra chỉ để tâm vào những chuyện vô bổ khác. Trong các môn học phổ thông thì có đủ chuyện để hỏi để kể, như: văn, sinh, sử, địa, lý, hoá… là những kiến thức rất phổ thông và thực tế trước đời sống con người.

3- Sự quan tâm việc học tập cho con cái là điều kiện tối cần thiết mà ai cũng nhận thấy. Nhưng quan tâm như thế nào mới là vấn đề quan trọng. Nhiều phụ huynh cho rằng đưa đón con đi học, cho tiền con mua sắm, cho học thêm, chạy vào trường điểm là đủ rồi, còn bao nhiêu thì giao khoán cho thầy cô, cho nhà trường là xong. Nếu chỉ có thế thì thật là khiếm khuyết, vai trò của cha mẹ không còn ý nghĩa gì,  bổn phận và chức năng của cha mẹ đã đi không đúng vào trọng tâm. Thực ra  kiến thức nền cho các em học tập thì bất cứ trường nào cũng đủ, sự quan tâm thực sự của cha mẹ mới là điều thiết yếu. Những vấn đề như theo dõi con cái học hành, giờ giấc sinh hoạt học tập, ngủ nghỉ, học bài, làm bài, khuyến khích, răn dạy, cảm thông, nâng đỡ, giải toả những sự cố bất trắc trong tinh thần, trong tâm lý. Tất cả phải tổ chức cho các em sống và học tập một cách hợp tình hợp lý theo tuổi của các em cũng như trong hoàn cảnh của gia đình. Việc giao khoán cho nhà trường cũng như cung phụng cho các em về vật chất có khi lại là làm hại các em, sinh ra một tâm trạng thụ động nguy hiểm, quen thói ăn sẵn, tạo cho các em một ý niệm lệch lạc về bổn phận và trách nhiệm của cha mẹ, về nhà trường. Còn nếu như cha mẹ hoặc nhà trường đua tranh, chạy theo thành tích, thì phải dùng phương cách học bằng những mẹo để đối phó, tạo nên một áp lực căng thẳng, làm cho con em mất quân bình, đôi khi  bị những triệu chứng tâm thần tiềm ẩn, rất nguy hại khi chúng buớc chân vào đời. Mặt tiêu cực nguy hiểm trái lại là phụ huynh không hề quan tâm đến việc học hành của con cái, để mặc chúng có học được hay không là tuỳ ý. Thường những phụ huynh này quan niệm rất bi quan và tiêu cực, như nghĩ rằng: học cũng chỉ để đi kiếm tiền mà thôi, học cũng thất nghiệp, học thì lương cũng chẳng hơn gì làm nghề… và nhiều suy nghĩ sai lầm lệch lạc khác.

4- Tạo điều kiện cho con cái quan hệ với thầy cô và bạn bè ham học. Vì cuộc sống không ai gần nhau mà không ảnh hưởng lẫn nhau, nhất là tuổi vị thành niên. Vì vậy cha mẹ rất cần khuyến khích và tạo điều kiện cho con cái gần gũi và yêu mến thầy cô, cũng như làm bạn với những người ham học. Không có thầy cô nào vô trách nhiệm tới mức bất cần học trò có học được hay không. Thầy cô là những người đã chọn cho mình một nghề, mang một sứ mạng có thể gọi là cao cả, là giáo dục con người, dạy làm người, thì đáng được phụ huynh và học trò kính trọng. Bởi vậy cha mẹ nếu không có điều kiện thì ít nhất cũng tạo điều kiện và nhắc bảo con cái năng gần gũi các thầy cô. Được vậy chắc chắn các em sẽ được các thầy cô quan tâm, sẵn sàng chỉ dạy cho những phương cách sống và học tập để đạt được những kết quả cao, hơn nữa còn được hấp thụ, lây nhiễm tinh thần về nhân phẩm, nhân cách của các thầy cô. “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, nhưng ít ra chiếc áo thầy cô cũng gìn giữ cho các vị không vượt quá phạm vi của người mang trọng trách là giáo dục con người.

Đối với bạn bè thì ai cũng nằm lòng câu: “Học thầy không tày học bạn”, và “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, cho nên phải “Chọn bạn mà chơi”. Cha mẹ cần lưu ý tới bạn bè của con cái. Bạn nào không tốt, lười biếng thì nhắc bảo con mình và ngăn chặn chúng quan hệ. Bạn nào tốt, ham học thì khuyến khích, tạo điều kiện cho chúng gần gũi nhau, tìm đến nhau. Như vậy tự động chúng sẽ đua tranh nhau học tập để tiến lên, và tự động chúng sẽ giúp nhau trong những khó khăn về việc học tập. Có những lúc cha mẹ phải nhờ bạn bè chúng khuyên bảo nhau, điều mà nhiều khi còn hiệu quả hơn là cha mẹ trực tiếp nói với con cái.

 KẾT

Con cái là kết quả của tình yêu cha mẹ, là sự kết tinh huyền diệu giữa hai tâm hồn, hai gen di truyền, hai bản thể mang tính rất thiêng liêng. Nói cách khác, con cái là một tác phẩm vô cùng cao quý của cha mẹ, và mỗi tác phẩm này đều độc nhất vô nhị, không thể như “nhân bản vô tính” ở các loài vật. Vì vậy con cái sẽ là triều thiên vinh quang của cha mẹ nếu nó trở nên người hay, người tốt, người giỏi, người có nhân phẩm nhân cách cao. Ngược lại chúng có thể là cái án phạt cho cha mẹ nếu chúng hư hỏng. Điều này những người làm cha mẹ càng ngày càng hiểu rõ và thấm thía hơn.

Vì vậy việc giáo dục con cái là cực kỳ thiết yếu và quan trọng. Mục đích giáo dục là cho con cái, nhưng cũng lại là cho chính cha mẹ. Nó là hệ quả của một nguyên lý chung giữa hai vế: cha mẹ và con cái. Cái chìa khoá để vào cửa của sự giáo dục hầu như nó nằm trong việc giáo dục học tập cho con cái, nó tiêu biểu và bao trùm nhiều khía cạnh để đào luyện một con người đi đến toàn diện cả về Trí, Đức, Tâm, Thể lý. Vì thế con cái hay – dở – tốt – xấu là từ cha mẹ, do cha mẹ và bởi cha mẹ, chứ không phải tại trời tại đất, tại nhà trường hay xã hội.

Người ta bỏ nhiều thời giờ, tâm huyết và tiền bạc để đầu tư vào chuyện làm ăn và tìm những giá trị nhất thời cho cuộc sống, nhưng lại quên đi điều quan trọng và có giá trị bất biến là giáo dục con người, trực tiếp và cụ thể là giáo dục con cái. Vì con người là tất cả, là chủ thể duy nhất để có được mọi sự. Điều này mới tạo được bình an và hạnh phúc thật cho các bậc làm cha mẹ.

Hàn Cư Sĩ

 

TRANG GIỚI TRẺ

LÒNG THƯƠNG XÓT MỞ RỘNG TẦM NHÌN

Một người được gọi là hoàn hảo không những có cái tâm mà còn phải có cái tầm nữa. Cái tâm luôn hướng về điều thiện trong mọi lĩnh vực và trong hết mọi người. Thật ra, khó kiếm được một người có được đầy đủ trọn vẹn như thế. Dù sao đây cũng là lý tưởng vươn tới của những ai thật sự tin vào Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót.

Chúa Giêsu mời gọi: “Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Isaia để nhắc nhở và mời gọi: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55, 6 – 9)

Để thay thế cho vua Saolê Thiên Chúa lại chọn một người dáng vẻ thấp bé là Đavit. Để chọn người làm xướng ngôn viên của Người, Thiên Chúa chọn Giêrêmia một người còn quá trẻ chưa biết ăn nói thế nào. Để chọn những người tiếp tục công cuộc cứu rỗi trần gian và nền tảng Hội thánh, Chúa Giêsu lại chọn 12 người hầu như là nông dân quê mùa.

Vì thế, Thiên Chúa luôn có tầm nhìn sâu xa xuất phát từ một tâm hồn rộng mở. Tầm nhìn ấy nơi Thiên Chúa là thể hiện của Lòng Thương Xót. Đang khi đó, con người lại nhìn Thiên Chúa và người khác lắm lúc còn rất hẹp hòi và nông cạn. Có thể vì con người chưa để cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mở rộng tầm nhìn của mình.

Có những người tín hữu nghĩ rằng lãnh Bí tích Hòa giải rồi thì cũng phạm tội nữa nên không còn siêng năng lãnh nhận. Có người tín hữu vì hoàn cảnh xa Chúa và xa Nhà thờ lâu năm nên đâm ra mặc cảm tội lỗi chẳng dám đến lãnh Bí tích Hòa giải. Và rồi lại có người tín hữu nghĩ rằng có nhiều người thường xuyên đến Nhà thờ và lãnh Bí tích nhưng vẫn không thay đổi gì nên họ cũng chẳng muốn đến Nhà thờ.

Những suy nghĩ trên vẫn còn mang tính cách con người chưa vươn lên được tới suy nghĩ của Thiên Chúa. Dầu con người có tội lỗi lớn bao nhiêu thì tình thương của Người lúc nào cũng lớn hơn. Con người ta không thể nào thay đổi ngay một sớm một chiều mà cách của Chúa thì tiệm tiến và chắc chắn.

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn dạy: "Các con cũng đã nghe dạy rằng: Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con” (Mt 5, 43 – 44). Chúa muốn người tín hữu cần có cái nhìn và cách sống tích cực ngay cả với những người làm hại mình. Đó cũng là việc cần thiết để mở rộng tầm nhìn nhờ Lòng Thương Xót Chúa.

Nguyện xin Lòng Thương Xót Chúa biến đổi tâm hồn và tầm nhìn của chúng con.

Lm. Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

CHIA SẺ VÀ CẢM THÔNG 

Nhiều lúc tôi giận dữ một ai đó bởi vì họ khiến tôi không hài lòng, nhưng có bao giờ tôi tự hỏi nguyên nhân vì sao họ lại không đáp ứng được yêu cầu mà tôi đưa ra! Sự cảm thông và sẻ chia trong cuộc sống tôi có nắm bắt được? hay chỉ suy xét mọi việc trên góc nhìn của tôi mà thôi?

Thường thì tôi có thói quen nhìn nhận công việc chỉ trên phương diện ca nhân mà ít khi soi vào những phương diện khác để thấu hiểu vấn đề! Nhiều khi tôi vội vã trách móc người kia khi chưa hiểu được lý do vì sao người đó lại làm như vậy! Tôi có thấy mình đang sống quá nhanh, quá gấp gáp không? Đôi lúc cũng phải dừng lại để hiểu thấu đáo những vấn đề mà những người xung quanh mình đang gặp phải! Từ đó, giúp đỡ và sẻ chia trách nhiệm và san bớt gánh nặng với họ!      

Nhiều lúc tôi sống chỉ biết nghĩ đến mình, làm lợi cho mình mà chưa từng nghĩ đến việc sẽ giúp đỡ người khác như thế nào! Việc cảm thông và chia sẻ không chỉ nằm trong phạm vi gia đình mà còn vươn ra ngoài xã hội, với những người bạn, đồng nghiệp của nhau! Tôi đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ cần mình sống tốt là được mà không quan tâm xem người khác đang gặp khó khăn gì!  

Tôi sống trên đời không phải lúc nào cũng đạt được như ý nguyện, có lúc sa cơ lỡ bước, những lúc ấy nếu không có người thân sẻ chia và san bớt gánh nặng với tôi thì tôi sẽ chỉ càng chìm hơn trong đống đổ nát của chính mình! Tôi đã lúc nào đó chia sẻ công việc gia đình với người thân của tôi chưa? Tôi sống cùng với bạn của tôi nhưng đã bao giờ tôi lau nhà, quét dọn hay ngồi lắng nghe người kia trút bỏ tâm sự của mình?      

Nhiều khi tôi có lối sống ỷ lại người khác, nghĩ rằng công việc gia đình nhỏ nhặt không đáng quan tâm dẫn đến việc người kia cảm thấy gánh nặng quá lớn. Họ không muốn tiếp tục mang gánh nặng đó đi hết cuộc đời và mâu thuẫn diễn ra! Tôi tự hỏi chỉ là nấu ăn, rửa chén, quét nhà và giặt đồ thôi mà có gì to tát đâu… nhưng ngày nào cũng làm những việc đó mà không có người khác sẻ chia họ sẽ cảm thấy mình đang làm osin cho người khác! Nếu là tôi thì tôi sẽ thấy thế nào!     

Nếu tôi đang mang những gánh nặng mà không muốn tiếp tục mang chúng hãy san sẻ bớt cho người khác, nếu họ không muốn thì tôi nên tìm cách khác có hiệu quả hơn! Khi tôi có chuyện không hài lòng về nhau, cách nhanh nhất để chấm dứt việc này là chia sẻ những cảm xúc tiêu cực về người kia! Hãy nói cho họ biết vì sao tôi cảm thấy như vậy và khi biết được điều đó người ta vẫn không chịu thay đổi thì giữa hai người đang thiếu mất hai chữ: cảm thông và chia sẻ! Không có hai chữ này tôi sẽ rất khó để sống cùng nhau dưới một mái nhà! Tôi có bao giờ tự hỏi vì sao tôi lại cảm thấy chán nản và thất vọng về người nào đó chưa? Hãy thử chia sẻ những cảm xúc của tôi với họ và lắng nghe những gì họ nói để có thể đồng cảm với nhau!

Khi tôi chia sẻ và cảm thông cho nhau, cuộc sống sẽ dễ chịu hơn rất nhiều! Ai cũng là cái tôi cần được tôn trọng và không ai không có lúc vô tình chạm và cái tôi ấy. Điều quan trọng là tôi phải biết quan tâm, chia sẻ và thấu hiểu cho người khác có như vậy cuộc sống mới tốt đẹp và lòng tôi sẽ bình an hơn!

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

TRANG GIA ĐÌNH

ĐỜI ĐANG CẦN NHỮNG TẤM GƯƠNG

Gia đình hôm nay ít con hơn ngày xưa, có lẽ do hoàn cảnh xã hội… Sống trong gia đình đông con tôi thấy sự thiệt thòi của những người con và sự hy sinh vất vả của cha mẹ gấp bội phần, nhưng bù lại tôi được không ít thuận lợi. Gia đình là một “đội bóng” nên làm việc gì cũng nhanh, ăn cũng nhiều và sự tương tác giữa các thành viên giống như một xã hội thu gọn làm cho chúng tôi dễ hòa nhập với mọi người.

Đặc biệt, chúng tôi may mắn có được người cha người mẹ mẫu mực. Cha mẹ tôi thường nói: “Các con hãy nhìn gương sống của cha mẹ mà sống với nhau và với mọi người”.

Cũng như bao gia đình khác cha mẹ tôi vẫn có những vất vả lo toan… nhưng không vì thế mà con cái chúng tôi phải chứng kiến cảnh lục đục trong gia đình. Các ngài luôn ôn hòa nhẫn nại, tận tụy chăm sóc dạy dỗ con cái với tấm lòng bao dung. Tôi còn nhớ những ngày mưa nhiều, nhà dột, không củi nấu cơm cả đám nhỏ nheo nhóc đói ăn. Mẹ tôi chạy vạy cả xóm mà chẳng có ai giúp được vì họ cũng thiếu trước hụt sau…

Là con gái duy nhất trong gia đình có mười (10) người con. Dĩ nhiên mẹ được ông bà ngoại rất cưng yêu, chỉ có học và dạy học. Mẹ tôi không phải làm gì nặng nhọc kể cả cơm nước bà cũng không cho đụng tay vào. Thời gian của mẹ là hội đoàn và công tác ở nhà thờ khi có việc… với chút nhan sắc mặn mà, mẹ tôi được nhiều thanh niên trong làng ngắm nghé và cũng không ít người ngỏ ý “làm cái đuôi”, nhưng mẹ đáp lại bằng nụ cười hiền lành, đầy trân trọng, chứ chưa buông lời quyết định.

Bỗng ngày kia, một bạn gái rất thân của mẹ giới thiệu chàng lính binh nhì đẹp trai cho mẹ làm quen. Giờ tan học mẹ đạp xe thẳng về điểm hẹn, thấy một thanh niên thanh tú đứng dưới tàn cây, chỉ vậy thôi không đối diện, không nói câu nào… mà đã phải lòng mẹ.  

Cha tôi thì vô tư, đường tương lai sáng rạng trước mắt với biết bao bóng hồng đua nhau thầm thương trộm nhớ. Thế nhưng một lời của ông nội đã cắt đứt con đường phiêu bạt lãng du của cha. Ông nội đi hỏi vợ cho cha. Tiêu chuẩn gia đình nho giáo có học thức lễ nghĩa. Và thế là ông bà nội tự ý khăn gói đi hỏi vợ cho con trai mà không cần biết ý con mình ra sao. Việc cưới mẹ là chuyện “bất đắc dĩ” đối với cha nhưng lại là niềm mơ ước của mẹ. Cả họ hàng bên ngoại không ai đồng ý vì diện mạo bóng bẫy của cha, sợ gặp đúng một anh chàng ăn chơi thứ thiệt, khổ cho mẹ về sau. Tuy nhiên, mẹ thì nhất mực chọn lấy cha, quá thương con nên dần dần ông bà ngoại cũng phải xiêu lòng chiều ý.

Cuộc hôn nhân này có thể nói tình yêu của mẹ tôi đối với cha tôi rất đong đầy ngay từ giây phút đầu tiên. Vì thế, mẹ tôi thay đổi rất nhiều khi về chung sống với cha; những thói quen, món ăn, sở thích, những sinh hoạt thường ngày… kể cả vì cha mà mẹ tôi ngậm ngùi trong cảnh nàng dâu với gia đình bên chồng. Vượt qua tất cả gian nan khốn khó, mẹ cùng cha ngày ngày gắng sức “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” lo cho các con từng bước từng bước xong hết tiểu học, đến trung học và cuối cùng là đại học.

Nay anh chị em chúng tôi đã lớn khôn và đều có chỗ đứng ở trong xã hội cũng như Giáo hội, biết nói sao cho cân xứng tình thương của cha và tấm lòng của mẹ!

“Ôi bao la, bát ngát trời mây,

Mênh mông, rộng lớn, cao dầy thiên thu.”

Tắt một câu như muốn nói thay cho lời kết, chúng tôi thương cha thương mẹ vô vàn, mãi đến ngàn đời, cảm kích, ngưỡng mộ và hãnh diện lòng thủy chung son sắt của cha mẹ.

Quý bạn đọc thân mến, một trong những báo động khẩn cấp hiện nay là ngoại tình, tình cũ, tình mới, sóng gió hôn nhân, mảnh tình chung mong manh đáng lo, đáng sợ… thiết nghĩ, cần lắm những câu chuyện tình đẹp, hầu đỡ nâng và làm thức tỉnh bao gia đình khác. Hy vọng, với câu chuyện tình đẹp vừa mới kể, góp phần nào đó vừa cảm thông vừa đồng hành với các gia đình đang thiếu lửa mến yêu nồng nàn.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

ĐIỀU RĂN THỨ III:  GIỮ NGÀY THÁNH, NGÀY CỦA CHÚA

Kitô hữu ngày nay có còn phải giữ luật ngày sabbat không? Cũng giống như lệnh cấm vẽ hình tạc tượng trong Cựu Ước, câu hỏi đặt ra ngày nay là phải chăng ngày sabbat đã thành “lỗi thời” trong trật tự tạo dựng mới? Đức Kitô đã sống lại vào “ngày thứ nhất trong tuần”, và các Kitô hữu cử hành ngày này như Ngày của Chúa (dies dominica, Chúa nhật); liệu chúng ta có thể chuyển luật giữ ngày sabbat thành luật giữ ngày Chúa nhật không?

Trước hết, như Sách Giáo Lý đã làm, chúng ta hãy nhìn vào luật giữ ngày sabbat. Mục đích đầu tiên của ngày sabbat là quy hướng tất cả công trình tạo dựng về Thiên Chúa (GLHTCG số 347). Thế giới này tự nó không phải là cùng đích, nó phải tìm ý nghĩa nơi ngày sabbat của Thiên Chúa. Chúng ta được dựng nên cho Chúa và chỉ nơi Chúa, tâm hồn chúng ta mới tìm được sự nghỉ ngơi (số 30). Điều răn giữ ngày sabbat không chỉ là lề luật bên ngoài (như vẫn bị hiểu lầm), nhưng đúng hơn, điều răn đó giúp chúng ta thoát khỏi sự nô lệ công việc và tôn thờ tiền của. Chính Thiên Chúa đã nghỉ ngơi trong ngày sabbat (Xh 31,17), thì con người cũng phải nghỉ việc và để cho người khác, nhất là các nô lệ và ngoại kiều, được nghỉ ngơi (Xh 23,12). Ngày sabbat nhắc nhở chúng ta rằng con người không chỉ đơn thuần là một con vật mang gánh nặng nên cần nghỉ một chút để thở, nhưng vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài, hạnh phúc mà chúng ta được nếm thử trong phụng vụ và sự nghỉ ngơi ngày sabbat (số 347).

Tất cả những gì đã trình bày ở trên đều đúng với ngày Chúa nhật. Hơn thế nữa, ý nghĩa sâu xa nhất của ngày sabbat nay được sáng tỏ nhờ ngày Chúa nhật, tức là: thế giới này được hoàn thiện trong công trình tạo dựng mới, đã bắt đầu với sự phục sinh của Đức Kitô và hiện diện trong cử hành Thánh Thể (số 2175).

Hơn bao giờ hết, các Kitô hữu ngày nay cần phải giữ ngày Chúa nhật cách ý thức, không những giữa người Công giáo với nhau, nhưng còn cho đời sống công cộng. Ý thức này bắt đầu bằng việc sử dụng từ ngữ: thay vì chúc nhau “ngày nghỉ cuối tuần” (nice weekend) thì hãy chúc nhau “Chúa nhật tốt lành”. Hình như chúng ta đã quên rằng Chúa nhật là ngày thứ nhất trong tuần, chứ không phải ngày cuối cùng, có lẽ vì phải đi làm vào thứ Hai nên cứ nghĩ thứ Hai mới là ngày thứ nhất trong tuần! Thật tốt đẹp khi chúng ta bắt đầu và kết thúc một tuần lễ bằng Ngày của Chúa.

Ngày nay, để tuân giữ ngày Chúa nhật, phải chống lại nhiều thứ trào lưu: đời sống gia đình bị cắt mảnh, khuynh hướng làm việc cả Chúa nhật, khuynh hướng đi du lịch vào Chúa nhật…

Việc cử hành Thánh Lễ Chúa nhật mang lại ý nghĩa chính yếu cho ngày Chúa nhật (số 2181). Thật đáng ước mong khi có nhiều người tham dự Thánh Lễ vào sáng Chúa nhật. Mỗi chúng ta nên giữ luật ngày Chúa nhật không chỉ như sự bó buộc bên ngoài, nhưng như nhu cầu gặp gỡ Đấng Phục Sinh trong bí tích Thánh Thể, đồng thời gặp gỡ hàng xóm láng giềng, nhất là những người già cả, đau yếu, các trẻ em, là những người cần đến thời giờ và tình yêu thương của chúng ta. Như thế, sự nghỉ ngơi ngày Chúa nhật lại làm cho cuộc sống chúng ta thêm phẩm chất và ý nghĩa.

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

TRANG QUỚI CHỨC

TƯỚI DƯA CHO NGƯỜI

(Cổ học tinh hoa )

Tống Tựu làm quan Doãn một huyện gần biên thuỳ nước Lương, chỗ giáp với nước Sở.

Người đình trưởng ở biên thuỳ nước Lương cùng người đình trưởng ở biên thuỳ nước Sở, hai người cùng trồng dưa. Người bên nước Lương chăm làm và tưới luôn nên dưa tốt. Người bên nước Sở biếng làm và tưới ít nên dưa xấu.

Quan Doãn ở ngay huyện biên thuỳ nước Sở, thấy bên Lương tốt, bên mình xấu, lấy làm tức giận lắm.

Người đình trưởng nước Sở thấy dưa bên Lương tốt hơn dưa của mình, cũng sinh ra ghen ghét, đêm đêm cứ lẻn sang cào vỏ dưa của bên Lương, đến nỗi dưa bên ấy phải héo chết mất một ít.

Sau người đình trưởng nước Lương biết mới nói với người trưởng trong huyện, ý cũng muốn lẻn sang cào vỏ dưa bên Sở.

Người trưởng lại đem việc ấy nói với Tống Tựu.

Tống Tựu bảo:

- Ôi! Sao lại thế! Thế chỉ là gây thù oán, chuốc tai vạ thôi. Này ta bảo ngươi, chớ sang cào dưa của người ta, cứ đêm lẻn sang tưới dưa cho người ta mà đừng để cho người ta biết.

Người đình trưởng cứ theo thế mà làm.

Sau dưa bên Sở mỗi ngày một tốt. Người đình trưởng nước Sở lấy làm lạ, xét mãi ra mới biết người đình trưởng nước Lương làm giúp.

Quan Doãn nước Sở biết rõ việc ấy, lấy làm vui lòng, tâu lên vua Sở.

Vua Sở biết chuyện, buồn và có ý thẹn, nghĩ rằng: Ngoài cái tội đi cào dưa của người ta, chắc còn có nhiều việc khác đáng tội với người ta nữa.

Vua bèn lấy nhiều của đưa sang tạ tội vua Lương và xin giao hiếu.

Vua Lương cũng tin lòng. Thành ra hai nước giao hảo với nhau được lâu.

Cổ ngữ có câu: “Chuyển bại nhi vi công, nhân hoạ nhi vi phúc” nghĩa là xoay cái bại mà làm nên công, nhân cái hoạ mà gây phúc. Lão Tử có nói: “Báo oán dĩ đức” nghĩa là đem đức để báo oán. Hai câu ấy tức như truyện này.

Ôi! Người ta đã làm không phải, sao ta lại còn bắt chước người ta!

Giả Tử Tân Thư

 

SỐNG ĐẸP

Biết Sao Cho Vừa Lòng !

Có một sự thật là trong mọi hành xử, ta thường có xu hướng muốn làm vui lòng người khác, đặc biệt là những người ta quan tâm. Lòng với lòng hòa hợp với nhau, ta mới thấy an vui và hạnh phúc. Mọi người đồng lòng với nhau, thì sẽ chẳng có hiềm khích, ganh tị, hãm hại nhau. Bởi thế, sống làm sao để vừa lòng nhau là một nỗ lực mà ta không ngừng cố gắng. Đó thực sự là một lý tưởng, nhưng cũng là một điều khó thực thi vô cùng! Bởi lẽ, thế giới này có biết bao con người. Số lượng con người mà ta gặp gỡ trong một ngày thôi đã không thể đếm hết được. Mỗi con người lại là một huyền nhiệm khôn tả. Họ có lối nghĩ, quan điểm, cách hành xử khác nhau. Bản thân ta cũng chẳng giống họ. Làm sao để có thể làm vừa lòng nhau trong tất cả mọi sự, mọi tình huống, mọi hoàn cảnh được? Hay đặt một câu hỏi thiết thực hơn: liệu đó có là điều khả thi?

Lòng người, miệng lưỡi con người, chẳng ai có thể kiểm soát nỗi! Khi ta làm điều xấu, chắc chắn là ta sẽ không được lòng nhiều người rồi. Nhưng cả khi ta sống tốt, ta cũng chưa chắc được “yên thân” trước xét đoán của người khác. Ta sống ngay thẳng thì họ bảo ta giả hình. Ta làm việc lành thì họ bảo là phô trương. Ta trung thực thì bị cho là ngu dại. Ta cứng rắn thì bị nói là bảo thủ. Ta mềm mỏng cũng bị đánh giá là thiếu lập trường. Ta mạnh mẽ thì bị cho là khô khan. Ta lãng mạn lại bị chê là ướt át… Những đánh giá của họ có thể đúng, có thể sai. Trong một số trường hợp, những nhận xét ấy có thể được kiểm chứng, nhưng phần lớn chỉ là quan điểm cá nhân. Trước hàng loạt những ý kiến đa chiều và phức tạp của người dưng, làm sao để có thể sống mà làm hài lòng được hết tất cả mọi người.

Lần dở lại các trang sử từ cổ chí kim đến nay, ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy một nhân vật nào, dù vĩ đại đến mấy, có thể làm hài lòng tất cả mọi người. Ngay cả những nhà sáng lập tôn giáo, hay các hiền triết khôn ngoan, các bậc tôn sư… dù đời sống của họ được cho là sáng như gương và không hề có tí tì vết nào, cũng bị người này người nọ chê trách. Chỉ nghĩ đến điều này thôi cũng đủ cho chúng ta thấy được sự phong phú trong cái nhìn và lối nghĩ của con người. Quả vậy, các vị thánh nhân ấy bị chê trách hay thậm chí là bị ghét bỏ, không phải là do họ, nhưng là do những ganh tị và hiềm khích của người đời. Bóng tối có bao giờ ưa ánh sáng? Sự xấu sao có thể hài hòa với sự lành? Họ càng sống tốt, càng đạo đức, càng làm nhiều việc có ích, họ càng bị những người đối nghịch xem là cái gai cần nhổ bỏ. Có rất nhiều người trong số các anh hùng này đã phải trả giá cho sự công chính của mình bằng cái chết vô cùng thương đau.

Nhưng những mẫu gương ấy nói cho chúng ta biết rằng điều quan trọng nhất để có được sự bình an trong tâm hồn không phải đến từ những cái bên ngoài, nhưng xuất phát từ chính nội tâm. Ta cần những đánh giá của người khác để giúp phản tỉnh và soi lại chính mình, nhưng ta cũng phải biết sàng lọc và làm chủ những lời ấy, chứ không hùa theo mọi điều người ta nói. Ta sẽ cảm thấy bình an, khi lương tâm ta không hề cảm thấy hỗ thẹn về bất cứ điều gì mình làm. Lương tâm nhắc bảo ta phải làm lành lánh dữ. Bất cứ khi nào ta làm ngược lại, ta sẽ cảm thấy có chút áy náy trong lòng. Cứ sự thường, khi ta làm điều lành, những người khác sẽ đồng tình với ta, và hành vi ấy của ta sẽ làm “vừa lòng” họ. Giả như có người bất mãn điều gì đó với ta, họ nói điều chống lại ta, nhưng lương tâm và lý trí ta không cảm thấy cắn rứt gì, thì ta chẳng cần bận tâm đến những chống đối ấy. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi một lương tâm đã được huấn luyện, thuận theo những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được người đời chứng thực.

Thường thì người khác sẽ hài lòng khi ta làm theo ý họ, nhưng đâu phải lúc nào ta cũng có thể chiều lòng hết tất cả mọi người. Có đôi khi ta làm người này vui thì lại khiến cho người khác buồn. Hay cũng có lúc ta làm mích lòng người này lại giúp cho người nọ vui. Đã đành là trong cách hành xử, ta phải khéo léo, tế nhị và khôn ngoan. Nhưng ngay cả khi ta rất giỏi trong việc lấy lòng người khác đi chăng nữa, ta cũng có thể bị đánh giá là ba phải hay lươn lẹo. Chính vì vậy, dù rằng có được tương quan tốt với người khác sẽ giúp ta hạnh phúc, nhưng không phải là ta bất chấp mọi thứ để làm người khác hài lòng. Cứ mãi chạy theo những đòi hỏi của người khác sẽ vô tình khiến chúng ta trở thành kẻ quỵ lụy và lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi, nặng nề. Đó là chưa nói đến việc trong một số trường hợp, ta phải luồn cúi, chạy chọt, nịnh nọt để được ưu đãi.

Đúng ra mà nói, đích điểm trong mọi hành vi của chúng ta không phải là cố lấy lòng người khác nhưng khuôn theo chân lý và thể hiện giới luật yêu thương. Ta sẽ an vui khi lương tâm ta thấy thanh thản, chứ không phải khi được người khác tán dương. Dĩ nhiên là nếu ta có thể làm hài lòng được nhiều người thì ta cũng sẽ thấy hạnh phúc, nhưng đó không phải là điều quan trọng nhất, bởi lẽ đó là những cái ở bên ngoài ta, không dính chặt với ta. Lương tâm là cái ở ngay trong ta. Nó sẽ luôn đi theo ta trên mọi nẻo đường, trong mọi khoảnh khắc, chẳng bao giờ xa rời. Nó là tiếng nói giúp ta biết phải làm sao, phải hành xử thế nào. Chính nó cũng là thẩm phán, chất vấn ta về những gì ta nghĩ ta làm ta nói. Vì lương tâm mọi con người đều hướng người ta đến sự lành, nên chỉ cần làm theo tiếng lương tâm, ta tự khắc sẽ thấy an vui và làm nhiều người hài lòng yêu mến.

Các bậc thánh nhân đã cho chúng ta thấy điều đó. Trong từng tư tưởng, lời nói hay hành động, các vị ấy luôn dựa vào chân lý và tình yêu. Chân thì cũng là Thiện, mà Thiện thì cũng có nét Mỹ. Bước đi trên con đường Chân-Thiện-Mỹ ấy, các vị luôn thấy lòng bình an, dù có khi bị một số người đối nghịch thù ghét. Người ta có quyền đối xử với mình thế nào tùy người ta. Còn mình, nếu muốn có hạnh phúc, mình phải trao ban cho họ tình yêu mến, không ghét bỏ, không kỳ thị, không loại trừ. Dĩ nhiên, để có thể hoàn thiện hơn, ta cần được người khác góp ý, dạy dỗ. Nhưng hãy lắng nghe và đón nhận những góp ý của người khác với một sự nhận định và suy xét thấu đáo, chứ đừng vội vàng hùa theo, cốt chỉ để làm hài lòng họ. Mình sống mà “vừa lòng” mình, nghĩa là không làm điều gì trái với lương tâm thì tự khắc hương thơm nhân đức sẽ lập tức lan tỏa và cảm hóa người khác, làm “vừa lòng” họ. Còn những ai vì ganh ghét hay đố kỵ mà không ưa mình, hãy cứ để họ ra bên ngoài tầm chú ý. Thời gian sẽ làm chứng cho ta, sự công chính sẽ biện hộ cho ta, lịch sử sẽ lên tiếng thay cho ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

ĐỨC TIN HAY NIỀM TIN

Có lẽ chỉ có đạo Công Giáo mới dùng chữ Đức Tin, nghe ra có vẻ rất đơn giản, cả về đối tượng tin cũng như về khái niệm của sự tin. Nhung thực sự nó lại là vấn đề không giản đơn chút nào. Ngay giữa lý thuyết và thực tế hay thực hành của đức tin, nó có một sự cách biệt và xa lạ rất lớn, giống như tình yêu trên lý thuyết và trên thực tế vậy. Điều này dẫn đến một sự ngộ nhận khá tai hại, nó ảnh hưởng đến cả đời sống đạo của con người, thậm chí đi đến sự lệch lạc tệ hại trong tâm linh, trở thành những bệnh hoạn về tâm thần, như chuyện đồng bóng, mê tín dị đoan, chuyện đặc sủng, mạc khải, thị khải, thị kiến, thánh thần soi sáng v.v…

Vậy mấu chốt vấn đề ở đâu?

Điều này thực sự cũng không phải là vấn đề khó hiểu, chung quy chỉ vì con người có thói quen hay dùng những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, niềm tin và lý lẽ tự nhiên để đánh đồng và khẳng định cho một nhân đức (đối thần) hoàn toàn siêu nhiên, rồi áp dụng trong đời sống đạo của mình, nên sự việc bắt đầu lủng củng từ sự nhận thức tiên khởi này. Giữa đức tin và niềm tin có sự khác biệt khá rành mạch, dựa trên phạm trù của hai lãnh vực tự nhiên và siêu nhiên.

NIỀM TIN

Nói đến niềm tin thì chẳng có ai là xa lạ, vì nó có có nơi mọi người, trong mọi khía cạnh, mọi lãnh vực của cuộc sống con người. Niềm tin vào cuộc đời, vào con người với nhau, vào tổ chức, vào tương lai, nhất là niềm tin trong tâm linh, trong tín ngưỡng, tôn giáo. Bởi vậy câu nói: “niềm tin trong Kytô giáo” cũng mang ý nghĩa đó trên phương diện khách quan theo nghĩa của “hội nhập văn hóa”, nhưng đối với kytô hữu thì nó là một nhân đức đối thần thuộc về siêu nhiên khác với niềm tin thông thường thuộc lãnh vực tự nhiên.

Ai cũng dễ hiểu rằng niềm tin là sự tin tưởng, hy vọng vào một chủ thuyết, một vấn đề tâm linh hay sự kiện, một lẽ sống, một đối tượng, trong hiện tại cũng như trong tương lai, để mong đạt được một mục đích cao đẹp nào đó. Bởi vậy ai không có niềm tin thì không còn sức sống và không còn muốn sống nữa. Niềm tin là một động cơ để sống và làm việc, để có lý do tồn tại và là điều kiện cốt yếu để có được hạnh phúc, ngay cả trong lúc con người gặp đau khổ nhất.

Niềm tin này nó được hình thành ngay từ trong căn tính của con người, nghĩa là được phú bẩm qua di truyền, qua giáo dục, qua văn hóa, qua môi trường sống, và thăng trầm qua những biến cố của đời sống. Con người có được đời sống tinh thần phong phú chính là nhờ vào những niềm tin chân chính đã được phú bẩm, cũng như do văn hóa và giáo dục mang lại, chứ không phải ở những yếu tố bên ngoài. Như vậy người ta cũng có thể căn cứ vào những niềm tin chân chính để làm thước đo ý nghĩa và giá trị của đời sống con người cũng như hạnh phúc của họ.

Vì vậy niềm tin là một lẽ hết sức tự nhiên, hoặc gọi là đức tính hoàn toàn tự nhiên của con người, có khác nhau là do những yếu tố thuộc về văn hóa và giáo dục mà thôi. Vì là lẽ tự nhiên, nên niềm tin được tồn tại và phát triển tùy thuộc vào mỗi cá nhân, mổi gia đình và xã hội, hoặc qua tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo. Cũng vì lẽ tự nhiên, nên niềm tin lệ thuộc vào sự nhận thức, vào tình cảm, vào cảm xúc, vào trí tưởng tượng, vào những quan năng hoạt động của thần kinh. Trong tín ngưỡng hay tôn giáo, niềm tin và tình cảm lên cao sẽ thành lòng mộ đạo hay sùng đạo. Tất cả diễn tiến trong tinh thần thuộc về lãnh vực tự nhiên, nó liên quan tới vấn đề tâm lý con người là chính yếu. “Trẻ vui nhà, già vui chùa”, hay “Bụt chùa nhà không thiêng không thờ, đi thờ Thích Ca ngoài đường”, chính là như vậy.

Để có được những niềm tin chân chính và cao đẹp, điều kiện cần và đủ là con người phải thông qua giáo dục dựa trên nhân bản. Bởi vậy những niềm tin lệch lạc không dựa trên cơ sở nhân bản, mà chỉ dựa trên trí tưởng tượng, trên những cảm xúc nhất thời, có nghĩa là niềm tin không có cơ sở, không được hướng dẫn, nên nó rất khiếm khuyết, thậm chí đi đến sai lầm, trở thành những bệnh tâm thần nguy hiểm. Một xã hội vũng bền và phát triển phần lớn là có được những niềm tin chân chính, tin vào con người với nhau, vào tổ chức, vào tín ngưỡng và tôn giáo chính đáng trong xã hội đó.

ĐỨC TIN

Ngươi Công giáo chẳng ai xa lạ với thuật ngữ Đức tin. Ai cũng được nghe, được bàn đến, hầu như nó bị sáo mòn và sơ cứng lúc nào không biết. Dù sao, không còn cách gì hơn là mỗi người muốn sống đạo vẫn phải tiếp xúc với từ ngữ này trong mọi tình cảnh của đời sống tâm linh, nhưng trong thực hành, con người gặp những vấn nạn không phải dễ dàng vượt qua. Cũng thực tế cho thấy, con người dễ dàng nhầm tưởng rằng minh đã hiểu, đã am tường về đức tin, nhưng khi đụng cham đến lại thấy nó mơ mơ hồ hồ như màn sương mù bao phủ cả bầu trời trước mắt.

Đạo Công giáo cũng được gọi là đạo của đức tin, nghĩa là chủ yếu phải tin vào một chuỗi những điều mà lý trí con người không thể hiểu thấu, được gọi là những mầu nhiệm trong đạo. Tin mà không hiểu, không hiểu mà lại tin. Đó là một quá trình, một vòng xoáy khiến tâm trí con người không dễ dàng dung nạp. Từ mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi đến mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể và Cứu Chuộc, tiếp đến là một chuỗi những mầu nhiệm về Thiên Chúa, về Đức Mẹ, về Giáo hội, về bí tích, về ân sủng và tâm linh v.v… Với ba nhân đức đối thần, con người phải chạm trán với một nhân đức cơ bản tiên khởi là đức tin. Tin là khởi đầu, đồng thời mới có và sẽ có mọi sự. Trong Tin Mừng, mỗi lần Đức Giêsu chữa bệnh, Người đều nói: “Lòng tin của con đã chữa con”.

 Mọi vấn nạn cần được đào xới để tìm ra manh mối những trở ngại đang vướng mắc trong đời sống đức tin của con người. Sự vướng mắc này là do chính con người khi thực hành việc tâm linh đã đặt cơ sở của đức tin sai chỗ, mặc dù vẫn hướng về đối tượng là Thiên Chúa. Điều này phát xuất do ý niệm về Thiên Chúa, gán những thuộc tính của con người cho một Thiên Chúa, dùng những cảm xúc, cảm giác, tình cảm, tâm tư, ước muốn của con người cho việc thờ phượng, việc cầu nguyện, việc thực hành tâm linh và việc sống đạo trong đời thường. Nhất là con người thường dùng những yếu tố thuộc về cảm giác và cảm xúc diễn ra trong tâm lý con người để hiểu, để đo lường, để đánh giá, dùng làm “kim chỉ nam” cho việc thực hành đức tin. Trong khi đức tin chân chính lại khác hẳn, như Giáo hội đã định nghĩa đó là một nhân đức “hoàn toàn siêu nhiên”, chứ không hoàn toàn tự nhiên như con người thường cảm nhận như vậy. Mấu chốt cần phải gỡ bỏ chính là ở chỗ này chứ không đâu khác.

Đức tin thuộc về siêu nhiên, nghĩa là lấy siêu nhiên làm gốc, làm cơ sở để căn cứ, chứ không phải dựa trên giác quan, mặc dù đức tin vẫn không loại trừ cảm xúc và cảm giác. Nhân đức siêu nhiên này được Thiên Chúa ban cho con người không điều kiện nếu con người khao khát, chứ không lệ thuộc vào tâm lý (giác quan) của con người, nó khác rõ ràng với niềm tin, là cái hoàn toàn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên và diễn ra nơi tinh thần và tâm lý con người. Nhân đức siêu nhiên này được diễn ra trong lý trí, trong ý chí, trong ý hướng, trong những cảm thức siêu hình (siêu thức) và trong sự tự do của con người – cảm giác là tự nhiên nhưng cũng là một sự nô lệ – mà chỉ có ai thực hành tâm linh qua đời sống đạo mới có thể trải nghiệm được phần nào, mới nhận ra sức sống của nó. Còn cảm giác, cảm xúc thì thay đổi, lúc có lúc không, nó lệ thuộc vào tâm lý nên thật chông chênh và bấp bênh, dễ hứng thú nhưng lại mau thất vọng, không mang lại ân sủng nào, vì đó không phải là đức tin. Có những người được ơn này ơn nọ, chưa hẳn là do họ có đức tin tinh tuyền, mà là do tình yêu của Thiên Chúa ban phát để cứu vớt họ thoát khỏi sự thất vọng, nguy hiểm đến linh hồn mà thôi.

Yêu người trong đức tin (chứ không theo cảm xúc), cậy trông và cầu khẩn trong đức tin, hành động trong đức tin, nhìn sự vật sự việc trong đức tin, phản ứng trước mọi biến cố trong đức tin…, tất cả được diễn tiến khác với tự nhiên trong tâm lý con người, nghĩa là nó được nhìn nhận, phản ứng và hành động theo thần khí của Thiên Chúa, chứ không phải như tính khí của con người. Có thể ai cũng biết điều này, nhưng thật mâu thuẫn, con người lại chỉ biết, chỉ thích, chỉ muốn căn cứ trên cảm giác, cảm xúc và tình cảm tự nhiên để đánh giá và thực hành đức tin mà thôi. Vì vậy những trào lưu hoặc phong trào trong đạo thường là bị xã hội hóa hay tục hóa, nên đức tin và sự thánh thiêng nó không còn nguyên vẹn nữa. Vướng mắc này làm cho con người đi trật đường mà không biết, nhưng nó đâu phải là khó gỡ bỏ, nếu con người thực sự có thiện chí đi tìm kiếm chân lý.

Con người Việt Nam thiên về cảm tính nên thích đắm mình vào những cảm giác trong khi thực hành tâm linh, nên ham chuộng hình thức, ngay cả trong những kinh nguyện cũng phải tạo sự khêu gợi giác quan, tạo sự xúc động thì mới gọi là có Thánh Thần (sự an ủi) hiện diện, như thế mới có giá trị đạo đức. Nếu rà soát lại, có thể thấy vấn đề này đi quá trớn chăng?  Không phải giáo lý mà là bài hát chầu được dịch từ La ngữ có câu: “ Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Câu này rất dễ làm người ta nhầm tưởng ở chữ  “nếu” và chữ “bù” (là sự phụ thuộc), vì khi phân tích ngữ nghĩa câu này, sẽ thấy giác quan được chọn làm cơ bản và nòng cốt cho đức tin, bởi vì chỉ cần có đức tin (bù đắp) khi không thấy cảm giác xuất hiện thôi (dịch theo cảm tính chăng). Có cần nên xác định: “Ta hãy lấy đức tin thay cho giác quan, chứ đừng căn cứ trên giác quan của chúng ta”. Nhưng đây là vấn đề của dịch thuật chứ không phải của giáo lý. Như ta biết Thánh Thể hoàn toàn thuộc về siêu nhiên, hoàn hoàn thuộc về đức tin, chứ không một chút mảy may nào của giác quan xen vào, cũng như sự biến thể của bánh và rượu thì hoàn toàn là vô cảm. Cảm tính thì thích được chiều chuộng, tìm đến sự an ủi và vuốt ve, nên thật tai hại cho vấn đề hiểu và thực hành đức tin, vì cảm giác luôn cho những tổ chức, những bài kinh, bài giảng nào có cảm xúc và sự vuốt ve thì mới là hay ho, là giỏi, là đạo đức.

KẾT LUẬN

Những bệnh hoạn về tâm thần, như chuyện đồng bóng, mê tín dị đoan, chuyện đặc sủng, mạc khải, thị kiến, thánh thần soi sáng v.v… Đó là căn bệnh của đạo đức, nó được khởi phát do cảm tính đạo đức quá mạnh, tiềm tàng những khao khát cái “vĩ đại” cho cá nhân trong tâm hồn, được trí tưởng tượng phong phú bày ra, được cảm giác và cảm xúc dẫn dắt, tạo nên những ảo ảnh và tiếng nói xuất hiện nơi họ. Nên người này tin tưởng và quả quyết như sống chết với điều mà họ thấy, họ nghe được. Đây là đỉnh cao của sự hồ đồ về đời sống tâm linh và sự nhận thức trong đức tin. Có lẽ trong mỗi Kytô hữu chúng ta đều có ít nhiều sự hồ đồ này chăng? Những chuyện nghiêm túc và đúng đắn về vấn đề này thì có Giáo hội điều tra, nghiên cứu và phán định. Nó được diễn tiến nơi một tâm hồn rất lành mạnh, rất quân bình, có đức tin chân chính, chịu được mọi thử thách và thời gian, chứ không theo một cảm giác nào cả.

Giáo hội kêu mời mọi tín hữu hãy quay trở về chính nguồn của đức tin là Đức Kitô, kêu gọi học hỏi giáo lý và văn kiện Công đồng về đức tin, để tái khám phá, để chỉnh đốn, uốn nắn lại những sai lạc, bù đắp sự thiếu hiểu biết về đức tin, cũng như để củng cố tòa nhà đức tin được xây dựng trên nền đá tảng Phêrô.

Nhưng dù học hỏi, dù có thuộc lòng giáo lý hay những giáo trình về đức tin, mà con người vẫn thích, vẫn nuông chiều theo cảm giác, theo cảm tính của mình thì cuối cùng cũng đâu vào đó, nghĩa là vẫn trì trệ trong đức tin, nếu không muốn nói rằng mỗi ngày mỗi xa lạc đức tin hơn. Theo nhiều tài liệu, từ hậu bán thế kỷ 20 cho tới nay, làn sóng mất đức tin và bỏ đạo lan rộng khắp nơi, nhất là ở Phương Tây. Từ thập niên 90, Đức Gioan Phaolô II kêu gọi tái rao giảng Tin Mừng cho Tây phương nói riêng, thế giới nói chung.

Thiết nghĩ, cần có sự cầu nguyện như các thánh tông đồ xưa: “Xin thầy ban ơn nhân đức tin cho chúng con”. Đồng thời sống theo đức tin tinh tuyền như Giáo hội dạy, cũng đồng thời trăn trở suy tư, thực hành tâm linh để trải nghiệm nhân đức siêu nhiên này, cộng với sự rũ bỏ, thoát khỏi những ảo tưởng trong những ý niệm lệ thuộc vào giác quan (cảm xúc, cảm giác) của con người, vì giác quan thường đánh lừa con người, chứ không thể tồn tại như một nhân đức, càng không như một chân lý.

Năm Thánh Lòng Thương Xót mang lại gì cho Giáo hội, cho mỗi Kytô hữu, là câu hỏi còn ở phía trước. Mọi người được hưởng ân phúc từ hoa trái của đức tin và Lòng Thương Xót Chúa hay phải chịu hậu quả cho tương lai?  Lời cảnh báo của Chúa Giêsu như đang vang dội, có làm cho mỗi người suy gẫm hay không: “Nhưng khi con Người ngự đến, liệu Người còn thấy Đức Tin trên mặt đất nữa không” (Lc. 18.8)

Hàn Cư Sĩ

 

SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN

ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA

Lc 14, 25 – 33

Theo suy nghĩ của con người, khi chúng ta  đi theo một người, hay theo đuổi một công việc, một lý tưởng nào đó thì điều trước tiên mà chúng ta nhắm tới đó là thu được lợi lộc vất chất hay được những địa vị danh giá nào đó. Đây là một điều hết sức tự nhiên của con người. Thế nhưng bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không hứa hẹn vinh hoa phú quý, những lợi lộc trần gian cho những ai theo Chúa mà Người cho thấy, để trở thành môn đệ của Người  chúng ta phải đi trên con đường mà Người đi qua đó là con đường từ bỏ chính mình và vác thập giá hàng ngày.

Điều kiện đầu tiên mà Chúa đòi hỏi những người muốn theo Chúa là tinh thần từ bỏ. Tại sao làm môn đệ Chúa thì chúng ta phải từ bỏ  ? Có tác giả đã so sánh hành trình theo Chúa giống như một cuộc leo núi, hành tranh càng gọn nhẹ thì bước đi sẽ vững vàng, nhanh nhẹn, không bị vướng những chướng ngại vật. Nếu chúng ta mang theo nhiều hành trang thì nó sẽ trở nên nặng nề, đường xa sẽ thấm mệt, và thậm chí chúng ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc.

Vậy người môn đệ của Chúa phải từ bỏ những gì ? Chúa Giêsu kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới gia đình ; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình.  Nhưng ta hãy hiểu cho đúng: Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải toàn tâm toàn ý mà đi theo Chúa. Phải đặt Chúa là trung tâm của đời sống mình. Chúa phải là “chỗ nhất” trong các chọn lựa của mình.

Từ bỏ những cái chúng ta đang có bên ngoài đã là khó, từ bỏ “chính mình” lại càng khó hơn gấp bội. Bỏ những thói quen xấu, bỏ những ham muốn bất chính, bỏ đi sự kiêu ngạo, ganh tỵ, tham lam  để sống những giá trị Tin Mừng quả thật không dễ chút nào. Bỏ những cái chúng ta muốn để làm theo những gì Chúa dạy, những điều anh chị em mình cần cũng là một thử thách cho người môn đệ của Chúa.

Điều kiện thứ 2: muốn làm môn đệ Chúa thì phải  vác thập giá mình. Nói đến thập giá là nói đến đau khổ, hy sinh. Vác thập giá chắc chắn sẽ không dễ chịu chút nào.

Có một giai thoại kể lại như sau: có 3 người đến xin Chúa để được theo Người, Chúa liền trao cho mỗi người 1 cây thập giá. Khi vừa nhận ai cũng hăm hở vác. Đi được 1 quảng họ cảm thấy mệt nên người thứ 1 nghĩ rằng có lẽ thập giá của mình nặng hơn người khác cho nên anh ta bèn lấy bào để bào bớt cho nó nhẹ. Người thứ 2 cũng nghĩ như người thứ nhất bèn lấy cưa cắt bớt cây thập giá. Người thứ 3 mặc dù đường xa cảm thấy cây thập giá mình rất nặng nhưng anh vẫn cố gắng. Bởi vì anh nghĩ mình đã hứa với Chúa ngay từ đầu. Cuối cùng cả 3 cũng tới được thiên đàng. Trước cửa thiên đàng có một vực thẳm, Chúa kêu 3 người hãy đặt thánh giá mình xuống để làm cầu đi qua. Người thứ 1 đặt thập giá xuống nhưng không dám đi qua vì anh đã bào nó, giờ nó quá mỏng đi qua sẽ gãy. Người thứ 2 cũng thế, cây thập giá của anh cũng không bắt tới vì anh đã cắt bớt. Chỉ có người thứ 3 là bước vào thiên đàng.

Mỗi người đều có những thập giá riêng. Thập giá đó có thể là những đau khổ vì bệnh tật, có thể là những thất bại trong làm ăn, những gánh nặng của bổn phận trong đời sống thường ngày. Đôi khi chính lời ăn tiếng nói, chính cách sống của người khác cũng trở thành thập giá cho chúng ta. Mỗi khi  gặp đau khổ thử thách, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá của Chúa Kitô, khi đến trần gian Người đã dùng chính đau khổ của thập giá để cứu chuộc con người. Người không loại bỏ thập giá, nhưng chính Người đã nằm trên đó, Người đã biến “thập giá” trở thành “Thánh Giá” để cứu chuộc chúng ta. Là những người bước theo Chúa chúng ta sẽ không thể đạt được ơn cứu độ mà không chấp nhận vác thập giá của mình.

Thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng khi chúng ta làm gì yêu mến. Một anh bốc vát, một bác nông dân sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong sự cực nhọc của mình bởi vì anh làm vì yêu thương vợ con. Một người mẹ phải hy sinh thức khuya dậy sớm để lo cho con của mình, đối với người khác nhìn vào thì đó là thập giá, nhưng đối với bà đó lại là hạnh phúc, vì sự hy sinh đó mang lại cho bà niềm vui vì nhìn thấy con mình ngày càng khôn lớn. Cũng vậy, chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn trước những đòi hỏi của TM nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa và muốn trở nên giống như Người.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi  con đường hẹp. Đó là con đường từ bỏ chính mình, là con đường vác thập giá theo Thầy Giêsu.  Đã gọi là con đường hẹp thì đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu. Chiến đấu với sự ương lười trong bổn phận với Chúa. Chiến đấu với tính ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến người khác. Hãy đi trên con đường mà Chúa đã đi qua. Đó là con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người. Phải hy sinh thời giờ, công ăn việc làm để đi lễ để thờ phượng Chúa. Phải hy sinh tiền bạc của cải để giúp đỡ tha nhân. Phải bỏ đi những cái mà mình rất thích nhưng nó không phù hợp với tinh thần của Chúa.

Hành trình theo Chúa đó là một con đường rất dài, đầy chông gay thử thách. Chúng ta theo Chúa không phải một sớm một chiều nhưng là suốt cả cuộc đời. Có lúc chúng ta cảm thấy rất hăng say nhưng cũng không ít lần chúng ta cảm thấy khô khan, chán nản. Niềm tin của người kitô hữu không dừng lại ở thập giá mà chúng ta phải vác hằng ngày nhưng đàng sau thập giá là niềm hy vọng là vinh quang phục sinh của Chúa Kitô. Sự vinh quang đó Chúa sẽ dành cho chúng ta nếu chúng ta biết từ bỏ và cùng vác thập giá theo Người.

Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết can đảm để buông bỏ những gì đang làm cản trở chúng ta bước theo Chúa. Biết nhận ra những đau khổ thử thách mà chúng ta đang gặp phải chính là những thập giá mà Chúa đang dùng để thanh luyện chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa, xứng đáng được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng với Người.

Lm. Philipphê Nguyễn

 

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN     

THIÊN CHÚA ĐANG ĐI TÌM CON NGƯỜI

Lc 15, 1 - 32

Có thể nói rằng tất cả các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều muốn diễn tả nỗi lòng của Thiên Chúa như người cha bị lạc mất con, và ông cứ miệt mài để tìm con, bất chấp những gian nan thử thách. Tin Mừng hôm nay đã cho thấy một hình ảnh rất người ở nơi Thiên Chúa, Ngài như một người cha mất con, như người phụ nữ mất của và như người mục tử bị mất chiên, tất cả đều đi tìm và khi tìm thấy thì người ấy vô cùng hạnh phúc.

 

Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho những người biệt phái, vì họ cứ xầm xì trách Chúa Giêsu vì Ngài giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, và khi kể cho họ những dụ ngôn này, Ngài mời gọi họ hãy mang tâm trạng của Chúa khi nói với họ: Ai trong các ông có một trăm con chiên mà khi lạc mất một con, lại không để chín mươi chín con trong hoang địa để đi tìm con chiên lạc sao? Chúa muốn nói rằng nếu thực sự là chủ chiên, nếu thực sự yêu mến đàn chiên, thì ai cũng sẽ hành động như thế.

Cũng vậy, như người phụ nữ có mười đồng mà mất một đồng bà cũng đã không ngại vất vả, cũng không cho rằng, một đồng chỉ là một xu lẻ không đáng, nhưng bà vẫn tìm mọi cách để tìm cho bằng được đồng bạc đã mất. Nếu như các dụ ngôn được kể đi từ tỉ lệ 1/100 con chiên đi lạc, đến tỉ lệ 1/10 số tiền đã mất, thì với câu chuyện người cha nhân hậu ông chỉ có hai người con mà có lẽ ông không chỉ mất đứa con thứ bỏ nhà ra đi, mà cũng đã mất người con cả dù thể xác không đi lạc, nhưng tâm hồn và tấm lòng của anh ta thì cũng đã đi lạc từ lâu rồi.

Thiên Chúa giống như người cha trong câu chuyện, ông mất đi một người con thứ vì nó đã nhất quyết bỏ ông để ra đi theo tiếng gọi của cuộc đời, nó không chỉ coi nhẹ tình thương của ông, mà nó còn coi ông như đã chết, nó quyết định ôm phần gia sản ra đi và dứt nghĩa đoạn tình với ông. Người cha này đã hoàn toàn tôn trọng tự do và quyết định của đứa con thứ, ông không cản được nó vì nó đã muốn ra khỏi nhà ông.

Khác với hai câu chuyện ở trên, con chiên đi lạc vì có thể nó yếu sức nên không theo được cả đàn, hoặc chỉ vì nó mải mê với một đám cỏ non mà bị lạc, hoặc như đồng bạc vô tri kia bị rơi lúc nào người đàn bà cũng không biết, còn ở câu chuyện này, đứa con đã hoàn toàn ý thức và chủ động quyết định ra đi, để lại đàng sau người cha đau khổ và ngôi nhà trống vắng. Vậy mà người cha này đã không hề giận dỗi với nó, ông cũng không từ nó, mà trái lại ông chỉ còn biết chờ đợi hết ngày này qua tháng nọ vì hy vọng con ông sẽ trở về. Vì hy vọng và vì không hề ghét bỏ nó, nên ông đã chuẩn bị sẵn mọi sự cho nó như thể là nó sắp trở về, ông đã vỗ béo một con bê để sẵn, và dù khi ra đi nó đã mang hết tài sản thuộc về nó, thì bây giờ ông lại chuẩn bị cho nó mọi thứ đầy đủ nào là nhẫn mới, áo mới, giày mới, và khi vừa nhìn thấy bóng nó từ đàng xa, dù nó chưa nhìn thấy ông, thì ông đã chạy ra để ôm nó và hôn lấy hôn để như tìm lại được một vật quý, và nhất là ông đã quên mọi quá khứ của nó, đón nhận nó như nó chưa hề sai lỗi, cho lại nó tất cả và còn mở cho nó một tương lai.

Đối xử với đứa con thứ bỏ đi như thế, ông cũng rất nhân từ quảng đại với đứa con cả còn ở trong nhà mà tâm hồn nó thì đã đi lạc từ lâu. Ông thừa biết, dù nó ở bên ông nhưng nó không nhận ra được tình thương của ông đối với nó, nó cũng không hiểu được nỗi lòng của ông khi đã mất đi một người con, nó vùng vằng giận dỗi kể lể công trạng với ông, nó còn quyết định từ chối không vào nhà để chung vui hạnh phúc với ông. Người cha này, một lần nữa ông không quản ngại hạ mình xuống để bước ra xin nó vào nhà: Con à con luôn ở cùng cha, và mọi sự của cha đều là của con, nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.

Thiên Chúa như người mục tử đi tìm kiếm chúng ta là những con chiên đi lạc, và Thiên Chúa cũng giống như người cha ngày ngày đợi cửa chờ chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, và Ngài cũng đang hạ mình xuống để xin, để mời chúng ta bước vào nhà và trở về với tình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa sẽ chẳng có thể tìm thấy và đem chúng ta về nếu chúng ta cứ tìm cách lẩn trốn Ngài, để có thể quay về được thì về phía chúng ta, cần phải ý thức rằng mình đã đi lạc và phải biết dừng lại thì ông chủ mới có thể tìm thấy chúng ta, trái lại không cho rằng mình đi lạc và cứ tiếp tục đi thì sẽ càng lạc xa hơn. Chỉ khi chúng ta biết dừng lại, dám để cho Thiên Chúa “nhìn thấy” chúng ta, và hãy để cho Ngài vác chúng ta trên vai và đưa chúng ta về, Ngài sẽ xóa đi mọi sợ hãi, sẽ đem chúng ta về xum họp trở lại với anh em. Cũng vậy, giống như người con, đừng thất vọng về tình trạng của mình, dù có những khi chúng ta như người con thứ, rơi xuống tận đáy của tình trạng tội lỗi hoang đàng, cho dù nhiều khi chúng ta đã để dục vọng và thú vui hưởng thụ làm chủ, tự biến cuộc đời mình trở thành ngang hàng với súc vật, cũng muốn ăn cám heo như người con thứ …, hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha để chúng ta trở về làm lại cuộc đời, Ngài vẫn luôn chờ đợi và sẵn sàng thứ tha. Hãy lao mình vào vòng tay của cha yêu thương, cho dù cuộc đời chúng ta đã trở nên hôi hám rách rưới vì tội lỗi và yếu đuối, chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha ôm vào lòng để tha thứ và để trả lại cho chúng ta vinh dự làm con của Ngài.

Nếu chúng ta thấy mình không đến nỗi tả tơi hoang đàng như người con thứ đã làm tổn thương đến Thiên Chúa là cha của mình, thì có thể chúng ta cũng đang mang tâm trạng như người con cả, chúng ta vẫn đi nhà thờ đi lễ, vẫn chu toàn các giới răn lề luật, không hề trái bao giờ, nhưng chúng ta lại không hiểu được lòng cha, không cảm nhận được tình yêu của Ngài, lòng chúng ta đã xa Ngài, và điều khiến người cha đau khổ hơn nửa đó là khi thấy những người con không hòa thuận với nhau. Có thể chúng ta cũng giống như người con cả khi chúng ta trách móc Thiên chúa không công bằng, khi chúng ta nhìn anh em xung quanh như là người xa lạ với mình như là người dưng nước lã, chúng ta ganh tị với nó: Còn thằng con của cha kia, sau khi đã ăn chơi phung phí hết tiền của thì nay trở về ông lại sai giết bê béo để ăn mừng.

Dù là con chiên hoặc dù là người con thứ hay con cả, thì mỗi người chúng ta cũng đều phải ý thức và biết rằng chúng ta thật hạnh phúc vì Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, mà Ngài vẫn luôn và đang đi tìm chúng ta, đang cất tiếng gọi chúng ta: hãy dừng chân, hãy quay về để hưởng tình yêu thương trong nhà Cha, còn phần chúng ta quyết định thế nào, chúng ta có dừng lại và có lên tiếng đáp lại tiếng gọi của Chúa và để cho Chúa ôm vào lòng như người chủ chiên ôm con chiên lạc, như đứa con lao vào vòng tay của cha mình hay không?

Lm Pr. Nguyễn Thanh Phong

 

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN

KHÔN NGOAN

Lc 16, 1 - 13

Khôn ngoan là gì? Người đời cho rằng: người khôn là người biết mưu mẹo, đường lối, biết làm thế nào để vượt thắng người khác, biết sống cho mình, biết hưởng thụ, đó là khôn. Đối với trần gian khi nói đến khôn ngoan người ta nói đến các học giả, những người có bằng cấp, những người có tỉ lệ thông minh gọi tắt là IQ cao. Nhưng đó không phải là khôn theo tiêu chuẩn hay đường lối của Thiên Chúa. Khôn ngoan thật sự là biết cư xử ở đời, là biết chọn điều tốt, làm điều tốt. Đức khôn ngoan mà Thiên Chúa dạy cho con người là thanh sạch, hòa thuận, tiết độ, chân thành, đầy lòng thương xót và kết quả công việc là tốt lành, hữu ích.

Nhiều người thế gian coi tiền bạc, chức vị là quan trọng nhất. Thật ra, tiền của, chức vụ, thú vui không phải luôn luôn xấu, vì nó cũng là nhu cầu bình thường của con người. Nó chỉ xấu khi chúng ta coi trọng nó quá mức và khi bất chấp lẽ phải, dùng những phương tiện bất chánh để đạt được điều đó. Đa số mọi người công nhận, ai chọn lối sống tham sân si, chọn vật chất của cải trên hết mọi sự là thiếu khôn ngoan. Vì của cải vật chất đời này chóng qua, không bảo đảm cho hạnh phúc đời đời, chết rồi mang theo được gì?

Nếu chúng ta chọn giàu sang, chức vị mà quên chuẩn bị cho đời sau thì có phải là khôn ngoan thật không?

Rõ ràng, sự khôn ngoan Chúa dạy chúng ta không phải là tìm của cải vật chất, sự khôn ngoan của chúng ta khác với khôn ngoan thế gian. Chúng ta không đặt của cải lên trên nhưng đặt Thiên Chúa là chủ cuộc đời mình, tiền bạc tuy cần nhưng chỉ là phương tiện giúp mình tiến bộ, giúp mình phục vụ anh em dễ dàng và có hiệu quả hơn.

Sự khôn ngoan của người quản lý trong bài Phúc âm là sự khôn khéo của con cái thế gian. Anh đã biết chuẩn bị cho quãng đời còn lại của mình được sung túc. Ít là sau khi chấm dứt quãng đời làm quản lý anh không đến nỗi đói. Cái đáng khen của người quản lý này là biết lo xa, biết chuẩn bị. Trong thời gian làm quản lý, anh có toàn quyền giảm nợ cho các con nợ, nhất là số lời. Anh đã biết dùng mọi phương tiện sẵn có trong tay tạo nhiều bạn hữu để khi mất chức rồi thì được họ đón về, giúp đỡ. Chính ông chủ cũng phải khen cách hành xử của anh. Đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắc chúng ta: hãy biết lợi dụng những cái mình có đời này để làm giàu cho cuộc sống mai ngày.

Chúng ta biết có đời sau, biết cuộc sống này có hạn, chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc sống đời sau hay chưa? Chúng ta có biết tạo mối liên hệ bạn hữu thân tình bằng việc giúp đỡ người nghèo, sống tốt …, hoà thuận thương yêu nhau, chúng ta có biết dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu để mai sau được Chúa đền bù và ban thưởng nước trời hay chưa? Nếu ai còn coi tiền bạc trọng hơn Chúa thì làm sao xứng đáng với nước Thiên Chúa? “Không ai có thể làm tôi 2 chủ”. Chúng ta biết Chúa là Đấng tốt lành, quyền năng vô song rất yêu thương chúng ta thì lẽ nào chúng ta lại bỏ Ngài mà chọn tiền bạc là cái tương đối tạm bợ, có đó rồi mất đó, không bảo đảm chi hết. Tiền bạc chưa chắc đã bảo đảm hạnh phúc đời này huống chi là đời sau!

Xin Chúa ban cho chúng con tràn đầy ơn khôn ngoan của Chúa thánh Thần để chúng con biết tìm đến Chúa, vì Chúa là nguồn hạnh phúc thật cho mọi người.

Lm Gioan Lê Tiến Thiện

 

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN

ĐỪNG BỎ VIỆC PHẢI LÀM

Lc 16, 19 - 31

1. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta vẫn thường nghe người nầy người kia bị tù tội vì trái phép công bằng. Nhưng dường như không nghe ai bị giam giữ vì thiếu bác ái. “Công bằng” và “bác ái” hai cụm từ thường được sử dụng trong cuộc sống. “Công bằng” thì buộc mọi người phải giữ, như phải tôn trọng của cải người khác, không được gian tham… Còn “bác ái” có thực hiện hay không tuỳ vào quan điểm của mỗi người, như giúp đỡ hay từ chối giúp đỡ một người nghèo khổ nào đó, xem ra không ai có quyền trách cứ ta. Thế nhưng, luân lý Kitô giáo dạy chúng ta vừa phải sống công bằng, nhưng đồng thời cũng không thể bỏ qua việc bác ái được. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho thấy rõ bác ái là việc cần thiết để vào Nước Trời. Ông phú hộ vì không lưu tâm giúp đỡ anh Ladarô nghèo khó, chính thái độ dững dưng, hững hờ này làm cho ông phải xa cách Thiên Chúa ngàn đời.

2. Vì giàu có nên ông phú hộ nầy ăn mặc lụa là, yến tiệc linh đình thì có gì đáng trách đâu? Biết bao người giàu xưa nay vẫn thế mà ! Còn tội không giúp Ladarô chăng ? Đọc kỹ bài Tin Mừng chúng ta chẳng thấy Ladarô mở miệng xin ông một điều gì cả ! Ladarô chỉ ước được ăn những mụn bánh bánh từ bàn ăn rớt xuống cho đỡ đói mà thôi. Ước cách âm thầm mà không nói ra nào ai biết mà giúp đỡ ! Vậy tại sao ông phú hộ nầy bị chê trách ? Thưa, điều đáng trách là ông có cơ hội để giúp đỡ Ladarô, người ăn xin nằm trước cổng nhà ông, mà ông lại không giúp ! Có thể ông hà tiện, có thể ông ích kỷ, có thể ông chỉ biết hưởng thụ, có thể ông không quan tâm đến… Dù lý do gì đi nữa, thì cách chung là ông đã bỏ qua việc phải làm cho Ladarô nghèo khó, mà việc đó ông có thể thực hiện được. Rất có thể vì không được giúp đỡ nên đói quá cho nên anh Ladarô này đã chết ! Ladarô chết vì đói, trong khi ông phú hộ quá dư thừa! Lỗi này thật đáng trách, rất đáng hình phạt hỏa ngục !

3. Như thế Lời Chúa hôm nay, nhắc nhở một điều mà ta hay quên trong cuộc sống, đó là bỏ qua việc phải làm. Hẳn chúng ta còn nhớ giáo lý mà chúng ta đã học, tội có thể đó là lỗi phạm trong tư tưởng, lời nói, việc làm haybỏ việc phải làm. Từ xưa sách Đệ Nhị Luật đã lưu ý điều nầy : “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em” (Đnl 15,7). Thái độ thiếu quan tâm giúp đỡ tha nhân đôi khi gây nên hậu quả nghiêm trọng, có thể trở thành lỗi nặng.

Nhưng không phải vì sợ lỗi mới làm việc bác ái, người Kitô hữu hãy luôn noi gương Thầy Chí Thánh là Đức Giêsu phải biết quan tâm, giúp đỡ nhau. Chúng ta thường thờ ơ trước đau khổ của người khác, hay sống theo chủ nghĩa “MACKENO” (mặc kệ nó). Mặc kệ những ai đau khổ mà ta gặp trên đường đời. Mặc kệ bạn bè, chòm xóm, những người sống cạnh ta hằng ngày mong chờ sự giúp đỡ của ta. Mặc kệ ngay cả những người mà ta phải có trách nhiệm giúp đỡ như cha mẹ già, anh chị em ruột thịt…!

4. Như đã nói, ông phú hộ này bị kết án không phải vì ông giàu, mà do ông không biết giúp đỡ người khác. Giàu có không phải là một tội, bởi tự tiền của không xấu cũng không tốt, điều quan trọng là ta có biết cách làm ra và dùng nó chính đáng không ? Đọc Tin Mừng dễ thấy có rất nhiều người khá giả biết dùng tiền của làm việc nghĩa thật là đáng khen, như: bà Gioanna, bà Susanna, ông Giuse Arimathia... Hạnh các thánh cũng cho thấy nhiều vị là vua chúa, quan quyền nhưng họ vẫn nên thánh, vì biết dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo khổ, chẳng hạn như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Luois, vua nước Pháp…

5. Nếu chúng ta thực sự quan tâm tới người khác, nhất là những người cần đến ta, thì ta vẫn có cơ hội để chia sẻ cho họ. Có thể chúng ta không giàu về của cải, nhưng lại giàu về kiến thức chuyên môn nào đó. Có thể chúng ta không giàu sức khỏe nhưng lại giàu niềm vui, thông cảm. Có thể chúng ta thiếu kinh nghiệm ở đời nhưng Chúa cho đầy lòng mến Chúa… Đó là những thứ mà chúng ta có thể chia sẻ với tha nhân để làm vơi đi những thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần của họ. Điều quan trọng là ta có lưu tâm tới họ và sẵn sàng chia sẻ cho họ không?

6. Đừng để sau này khi kết thúc cuộc đời trước mặt Chúa, Chúa lại hỏi chúng ta tại sao xưa Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống, Ta buồn rầu các người không an ủi (x.Mt 25), thì số phận của chúng ta cũng sẽ không khác gì ông phú hộ trên, đã bỏ qua việc phải làm trong tầm tay của mình. Những ai không rộng lòng đối với tha nhân, thì làm sao họ có thể ở trong tình yêu của Thiên Chúa được :”Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Ga 3, 17).

 

LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

XIN VÂNG NHƯ MẸ

Lc 1, 26 - 38

Hằng năm ,Giáo hội dành đặc biệt ngày 07.10 để mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo hội muốn con cái mình cùng suy ngắm Mẹ qua chuỗi Môi khôi. Cùng với Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên chúa, và noi gương Mẹ sống đức tin.

Mừng lễ Đức mẹ Mân Côi, Giáo Hội giúp chúng ta nhìn ra vai trò lớn lao của Đức Mẹ. Vai trò mà từ buổi đầu của Giáo hội sơ khai đã được các tông đồ nhìn nhận sự hiện diện của Đức Maria cần thiết không thể thiếu (Cv 1,12 - 14).

Thật vậy, lúc đó, các tông đồ bị hụt hẫng, hoang mang,.. vì Thầy mình đã bị giết chết. Và rồi niềm vui của việc sống lại chưa kịp thấm dậy nơi lòng các ông thì Đức Giêsu lại rời các ông mà lên trời. Chán nản, thất vọng pha lẫn những sợ hãi lo âu, các ông không biết phải làm gì. Chính giờ phút hoang mang tột cùng đó, Mẹ maria đã có mặt. Sự hiện diện của Mẹ, trong vai trò thân mẫu của Chúa Giêsu đã đem lại niềm an ủi, khích lệ, sự hợp nhất và nhất là không làm mất đi sự tin tưởng và phó thác vào chúa.

Phải, Chính Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, nên Mẹ cũng là mẹ của các Tông Đồ, của Giáo Hội, của mỗi ngưới Kitô hữu chúng ta. Và với tấm lòng của người Mẹ, làm sao Mẹ lại bỏ con cái mình, nhất là trong những lúc hoang mang lo sợ này.

Mẹ Maria đã thưa xin vâng, Mẹ đã sinh và giáo dục Chúa Giêsu, Mẹ cực khổ đem con đi trốn, Mẹ đau khổ khi đứng dưới chân thập giá nhìn con chết đau thương. Lòng mẹ tan nát. Nhưng Mẹ vẫn tin và phó thác cho Thiên Chúa.

Trong đời sống đạo của người Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta cũng gặp hoang mang, lo sợ. Nghèo đói, cơm - gạo - áo - tiền, sự dữ,... rình rập, theo đuổi, dòm ngó, tấn công, lôi kéo, dụ dỗ, mời mọc chúng ta. Những lúc đó, chúng ta cảm thấy khó khăn, cô đơn, chúng ta sống như muốn buông xuôi, bỏ cuộc,để cho số phận mình trôi dạt đến đâu thì đến. Chúng ta sống mất niềm tin, hết cậy trông. Sống như người thiếu đức tin, chúng ta nhìn và hành động theo cái nhìn thiển cận, tiêu cực, nguội lạnh. Những lúc đó, ta tưởng chừng như sống một mình, phải đối diện với sự dữ. Không! Người Kitô hữu có Mẹ Maria. Mẹ Maria luôn thương con cái, luôn có cách để chăm sóc, sẳn sàng giúp đỡ chúng ta, hổ trợ chúng ta.

“Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời chúa phán sẽ được thực hiện” (Lc1, 45). Mẹ đã tin và thực hiện theo ý Chúa thì hôm nay, Mẹ đã truyền lại cho chúng ta: suy gẫm các mầu nhiệm và lần chuỗi Mân Côi. Mẹ đã truyền cho thánh Đaminh cổ võ, loan truyền, Mẹ muốn con cái Mẹ thông phần vào hạnh phúc của Mẹ. Qua Kinh Mân Côi, ta không chỉ dạt dào tình mến khi lặp lại lời chúc mừng của sứ thần, làm vẻ vang và hiển danh Mẹ, nhưng còn được mời gọi noi gương Mẹ - suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu trong tương quan với Mẹ và Giáo hội.

Một vị thánh đã từng nói: Khi đọc kinh Kính Mừng, tôi thấy hết lo buồn, khô khan, thêm lòng mến Chúa.

Phúc thay ai nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Qua chuỗi kinh Mân Côi, Mẹ giúp chúng ta sống thực tế, sống gắn bó với Mẹ hơn và nên giống Chúa Giêsu Con Mẹ, Sống có niềm tin, đầy lòng trông cậy và dạt dào tình mến.

Xin cho chúng ta biết nhận ra giá trị cao quý của chuỗi kinh Mân Côi, để luôn biết siêng năng lần chuỗi và cổ võ mọi người cùng biết đến với Mẹ qua chuỗi kinh Mân Côi. Ước gì trong mỗi hoàn cảnh cuộc sống, chúng ta gắn kết cuộc đời mình trong sự che chở của Me Maria, để ta thấy được ý nghĩa và giá trị cuộc sống mà Chúa thương gởi đến mà can đảm sống đức tin.

Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Mẹ Maria, người Mẹ đầy ơn phúc, bởi Mẹ không chỉ để lại cho chúng ta mẫu gương vâng phục ý Chúa mà còn chỉ cho chúng ta một linh đạo, một con đường dẫn đến hạnh phúc thật: đó là suy niệm và lần chuỗi Mân Côi.

Xin cho mọi người Kitô hữu chúng ta biết quý trọng kinh Mân Côi, siêng năng và sốt sắng lần chuỗi mỗi ngày, để cùng với việc ngợi khen Mẹ, chúc tụng Chúa, chúng ta còn được Lời Chúa soi sáng thúc giục, từng ngày tránh xa tội lỗi, biến đổi đời sống, không ngừng tìm kiếm và thực hiện ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng con trên hành trình lần chuỗi Mân Côi.

 

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

THƯƠNG CHO KẺ ĐÓI ĂN, THƯƠNG CHO KẺ KHÁT UỐNG

Những hình thức thương và giúp đỡ thể xác người khác thì muôn hình vạn trạng. Chúa Giê-su tóm tắt tất cả trong một câu khuôn vàng thước ngọc nằm trong Bài Giảng Trên Núi: “Mọi điều các con muốn người ta làm cho mình, thì các con cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Như vậy, nếu tôi đói và muốn người ta cho tôi ăn, thì tôi hãy cho kẻ khác đang đói được ăn.

Nhớ lại thời gian còn là tập sinh, cha Giáo gởi tôi đến làm thực tập trong một trung tâm bác ái Công Giáo nằm trong nhà ga xe lửa của thành phố Munich, Đức Quốc. Một trong những công việc bác ái, là mỗi ngày chúng tôi nhận nhiều tấm bánh mì của các lò bánh mì xung quanh tặng. Sau đó, chúng ta tôi quét chút bơ, rắc chút muối trên từng miếng bánh và phân phát cho những người nghèo, cùng những khách bộ hành thiếu thốn ở trong nhà Ga. Công việc chẳng có gì đặc biệt và mệt nhọc, nhưng mỗi lần thấy những anh chị em nghèo khó đón nhận bánh mì với một ly nước trà nóng trong mùa đông lạnh lẽo, lòng tôi vui mừng lắm. Niềm vui đó mang chiều sâu, khi đọc lời của Chúa Giê-su: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,35). Chúa hiện thân trong chính người đói khát kia, và Chúa đang mong chờ những tấm bánh, những ly nước được trao ban. Ý thức được điều này, mà rất nhiều người đã hy sinh và dấn thân, để nâng đỡ biết bao người nghèo khổ không có của ăn. Khi học chuyên môn ở Paris, mỗi tuần một lần được đi làm việc tông đồ trong nhà dòng của các thầy Dòng Bác Ái theo tinh thần của Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta. Được cùng với các thầy và các anh chị em giáo dân hy sinh thời gian, lo nấu những bữa ăn trưa cho những người nghèo khổ, và sau đó dọn bữa ăn và phục vụ cho khoảng 40 người vô gia cư từ khắp mọi nơi của Paris kéo về để cùng ăn, lòng xúc động biết bao. Sự xúc động về sự hy sinh và về tình bác ái thương xót của các thầy và nhiều anh chị em giáo dân. Sự xúc động về lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện thật sống động dành cho những người bị bỏ rơi, những người vì nhiều lý do khác nhau đã rơi vào trong hoàn cảnh vô gia cư và mất tất cả: gia đình, nghề nghiệp, của cải, an toàn, tương lai… Nhưng dù họ mất tất cả, lòng thương xót của Thiên Chúa họ không bao giờ bị mất cả. Một nhà thần học đã nói: “Mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Thiên Chúa mãi mãi tồn tại”.

Các thầy và anh chị em phục vụ những người vô gia cư này làm tôi nhớ lại bài Phúc Âm kể việc Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa đã lên tiếng với các môn đệ, khi các ông nói với Chúa hãy cho đám đông về các làng mạc để kiếm cái ăn, vì trời đã chiều: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Lời mạnh mẽ của Chúa giúp cho chúng ta ý thức để sống tinh thần bác ái và thương xót những người nghèo khổ thiếu của ăn. Thật là một Xì-căng-đan, nếu các Ki-tô hữu lắc đầu từ chối giúp đỡ những người đói khổ. Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó trong Phúc Âm của Lu-ca là một lời cảnh báo đối với chúng ta. (x.Lc 16,19-31). Không có câu chuyện nào thê thảm hơn người phú hộ giàu có chỉ mong muốn được giải thoát khỏi sự khổ đau đời đời, sau khi đã sống một cuộc đời giàu sang với của cải vật chất, nhưng lại chẳng biết xót thương người đói khổ, chẳng màng tới một La-da-rô nghèo đói đang nằm ở trước cổng nhà ông ta: “La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16,20-21). Đó là thái độ vô cảm của người phú hộ. Thái độ vô cảm và sự giàu sang đã làm cho đôi mắt của ông ta đui mù khi còn sống, để rồi dù thật hối hận ở đời sau, nhưng đã muộn rồi. Phải chăng ông ta đã tự chọn cho mình số phận như thế?

Bài học của người phú hộ keo kiệt và vô cảm là một bài học đắt giá đối với chúng ta, những người có niềm tin vào Chúa và sống trong lòng Giáo Hội. Mỗi năm ít nhất hai lần, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết ý thức ăn chay, hãm mình và hy sinh phần nào bữa ăn và của cải, để hướng về những người đói khổ và chia sẻ với họ.[1] Đức Thánh Cha luôn luôn kêu gọi chúng ta trong các sứ điệp của Mùa Chay, cần biết ra khỏi mình và cái tôi ích kỷ của mình, để đến với người đói khổ và chia sẻ lương thực cho họ.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu xin với Chúa Cha: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều đặc biệt trong lời cầu nguyện này nằm ở chỗ: lời kinh của số nhiều (chúng con), chứ không phải lời kinh của số ít (con). Điều này có ý nghĩa gì?[2] Theo Hamman, điều đó muốn dạy ta phải cầu nguyện chung với những người thiếu thốn lương thực hằng ngày, cũng như phải cầu nguyện cho những người ấy. Đừng quên rằng phân nửa thế giới ở trong tình trạng kém dinh dưỡng. Lời cầu xin này vừa là lời cầu cứu Thiên Chúa, vừa là tiếng gọi những ai đang nắm giữ độc quyền của cải trần gian, vì Thiên Chúa ban cho của cải ấy là ban cho hết mọi người. Đó là lời nhắc nhở những người có của, những nước giàu rằng, họ chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, họ phải chịu trách nhiệm phân phối của cải sao cho công bình… Khi cầu xin lương thực như thế, người Ki-tô hữu càng đi sâu vào tấn bi kịch của thế giới, càng đi sâu vào giữa lòng nhân loại hôm nay. Không phải để đổ lỗi cho người Ki-tô hữu, mà để động viên họ luôn ý thức nhận ra khuôn mặt của Đức Ki-tô, Người là Đấng có đủ mọi sự giàu sang mà lại chấp nhận trở nên nghèo nàn, Ngài đang hiện diện nơi anh chị em đói khổ.[3] Chính tinh thần yêu thương, đoàn kết và chia sẻ với những người nghèo khổ là nền tảng để chúng ta có thể sống lời cầu nguyện này trong Kinh Lạy Cha một cách cụ thể hơn. Bằng cách chia sẻ lương thực vật chất thiết yếu cho người thiếu thốn. Trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có viết : “Nhưng sự tồn tại của những người đang đói cơm bánh cho thấy một chiều sâu khác của lời cầu xin này. Thảm kịch đói khát trên thế giới mời gọi các Ki-tô hữu đang cầu nguyện trong chân lý, phải có trách nhiệm hữu hiệu đối với các anh em, trong cách hành động cá nhân của họ cũng như trong sự liên đới của họ với gia đình nhân loại. Lời cầu xin này trong Kinh Lạy Cha không được tách biệt với các dụ ngôn anh Lazarô nghèo khó (x.Lc 16,19-31) và cuộc phán xét chung (x.Mt 25,31-46)”.[4]

Một hình ảnh khác thật hay nơi các em thiếu nhi học Giáo Lý rước lễ lần đầu ở một Giáo Xứ bên Đức mà tôi có thời gian được giúp. Khi học bài Giáo Lý về Bí Tích Thánh Thể, ngoài những ý nghĩa thiêng liêng, các em còn được hướng dẫn về ý nghĩa xã hội mang tính cách bác ái của Bí Tích Thánh Thể, và các em đã khám phá ra rằng: Mỗi em chính là tấm bánh cần được bẻ ra và chia sẻ cho người khác, đặc biệt cho những người đói khổ.

Tâm tình của các em bé thiếu nhi làm tôi nhớ lại câu chuyện của một người mẹ Công Giáo ở quê hương, mà một người quen đã kể. Câu chuyện kể về người mẹ này trong thời gian đói nghèo của quê hương vào năm 1945. Lúc đó người mẹ đã nhìn thấy bao con người nghèo khổ và đói rách từ miền quê lên Hà Nội, họ lang bạt khắp nơi, chỉ sao tìm được hạt gạo, chén cơm để lót cái dạ rỗng tuếch của mình. Đặt mình trong vị trí của họ và qua đó một cách thẳm sâu người mẹ đã hiểu được họ cần gì. Vì thế, một nồi bắp đã được bắt lên bếp. Bắp chín, mẹ cặm cụi ngồi gói từng cái bắp và lên đường ra đi. Lên đường, đó là một hành động cao cả một người mẹ. Những cái bắp trên rổ xe đạp của mẹ càng lúc càng vơi đi, khi mỗi lần mẹ dừng lại bên hè phố mà một người nghèo đói đang ngồi trông mong.

“Trông mong”. Đó chính là một động từ đi liền với hoàn cảnh của những anh chị em thiếu may mắn. Mẹ đã hiểu được cái ý nghĩa sâu xa của động từ này qua đôi mắt của bao người đau khổ trên quê hương và mẹ đã đáp lời. Cũng như dụ ngôn người Samaritanô tốt lành trong Phúc Âm được Chúa Giê-su kể sau lời kêu gọi: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình ngươi”. Mẹ đã hiểu được người thân cận, người bên cạnh của mình là ai và làm thế nào để chia sẻ tình yêu cho họ. Vì thế, tình yêu với Chúa và với anh chị em thúc đẩy mẹ tiếp tục lên đường. Nồi to lại được bắt lên bếp. Giờ đây không phải là những cái bắp mà là những nắm gạo. Trong đôi tay của Mẹ  những nắm gạo được vo tới vo lui, và cuối cùng một nồi cháo nóng “xuất hiện” trong nhà mẹ, và đang chờ mọi người đói khổ. Bao người tuôn đến. Để tránh mọi người xô đẩy và để cho có trật tự, mẹ đã để nồi cháo trong hàng rào và từng người có thể đến để nhận một chén cháo lót dạ. Của cho và cách cho đã đi đôi với nhau. Đó là tiếng nói của trái tim. Trái tim đã khơi dậy không chỉ một nghĩa cử bác ái là móc ra một vài đồng bạc cho người khác, nhưng trái tim còn nói mình phải làm sao để đồng tiền cho đi vẫn giữ được tình thân và làm thăng tiến con người.

Điều này mẹ đã diễn tả rất cụ thể qua hành động rất cao quý: Trong số những người nghèo đến lấy cháo mỗi ngày, mẹ để ý thấy một em trai khoảng 10 tuổi ngày nào cũng đến xin cháo, nhưng không ăn ngay, em cẩn thận bưng bát cháo về hướng đầu đường. Mẹ cho chị bếp đi theo thì thấy một cảnh tượng rất thương tâm: em bé đó đưa chén cháo về cho người mẹ mới sinh đứa con nhỏ còn yếu không đi được. Em ngồi đó nhìn mẹ húp từng miếng cháo, mẹ em hỏi ăn chưa thì em nói ăn rồi. Chị bếp về nói lại cho người mẹ. Mẹ nghe vậy và gọi em bé đến. Bây giờ em bé phải ăn chén cháo khác. Bao tử em cần phải được no đầy như chính tâm hồn của em tràn đầy tình yêu thương. Sau đó, người mẹ còn lấy cho em một cái bánh bích-quy. Thật tuyệt vời. Đã bao giờ bé thơ nghèo khổ kia được hưởng một tình người dịu ngọt được cụ thể hóa trong cái bánh  bích-quy ngọt ngào. Cảm tạ Thượng Đế nhân từ biết bao, cám ơn tâm hồn của mẹ dịu ngọt dường nào! “Nhưng mỗi ngày chỉ lo cho em như vậy chưa đủ. Làm sao để giúp em lo được cho chính mình? Làm sao để giúp cho tâm hồn non trẻ nhưng đầy trách nhiệm kia thăng tiến và lo được cho người mẹ mới sinh còn đang yếu?”

Đó chính là nỗi suy tư của mẹ. Cái bánh bích-quy đi liền với cái hộp của nó. Nhưng bây giờ bánh bích-quy cần phải biến dạng. “Người bạn” của hộp bánh giờ đây là những hạt đậu phộng rang. Mẹ đã rang đậu phộng và đã cho em bé đi bán mỗi ngày. Một sáng kiến của trái tim. Thật tuyệt vời! Sau mỗi ngày em bé đi bán trở về, mẹ đã cùng em tính toán sổ sách. Mẹ lấy lại vốn và cho em tiền lời. Em bé đã đưa tiền lời đó về và mua gạo nấu cháo cho mẹ của em và cho em bé mới sinh. Và cứ vậy, ngày ngày em lại đến với người “mẹ nhân từ“ để nhận “tiền vốn – đậu phộng rang” và lại lên đường.

Tiền – tiền vốn – tiền lời. Đó là một khía cạnh rất thương mại. Nhưng dưới con mắt và bàn tay của mẹ chúng đã trở thành một điểm sáng: Tiền đã biến thành tình yêu, tiền vốn đã biến thành dấn thân và tiền lời đã trở thành hoa quả của lòng thương xót. Mong sao lòng xót thương tiếp tục nở hoa qua biết bao nhiều tấm lòng nhân ái, để nhờ đó biết bao người đói khát được no đầy, những người rách rưới được có cái mặc và những ai đau yếu được chăm sóc.

--------------

[1] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.27-28.

[2] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.100-104.

[3] X. HAMMAN A. G., Abrégé de la prière chrétienne, Desclée, Paris 1987, t.60.

[4] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản tiếng Việt của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2009, số 2831, t.784.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

ĐÔI NÉT VỀ SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO

Dẫn nhập

Sứ vụ truyền giáo là mệnh lệnh cấp bách của Thầy Giêsu Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Ngài muốn chúng ta bung ra, dấn thân loan báo Tin Mừng, để mọi người trở thành môn đệ của Thầy Giêsu. Vâng, ngay từ buổi đầu trong sứ vụ truyền giáo, Thầy Giêsu không muốn Tin Mừng bị giới hạn trong đất nước Israel, nhưng cần được lan tỏa khắp cùng trái đất, (x. Mt 10,5). Ngày nào còn có người chưa nhận biết Danh Thanh Giêsu, ngày đó trách nhiệm của chúng ta vẫn còn. Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc: “Bằng cách làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Qua Bí Tích Thánh Tẩy, người ta sẽ trở thành môn đệ Thầy Giêsu, sống mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Lời Thầy Giêsu nói, không phải là lời hứa cho tương lai, mà cho những điều đang xảy ra trong hiện tại. Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, ở ngay trong tâm hôn họ, ở trong mọi ngả đường truyền giáo (x.Mc 16,20).

Khái niệm truyền giáo

Truyền giáo, không có nghĩa là phát tán giáo thuyết của một cá nhân, hoặc của một vị lãnh tụ trần thế nào đó. Mà là loan truyền Tin Mừng, loan truyền lời dạy của Thầy Giêsu cho dân ngoại, cho những người sống kế cận mình, để họ nhận biết Thầy Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đã nhập thế, làm người, sống với loài người để cứu độ loài người.

Sứ vụ thực tiễn của người môn đệ Thầy Giêsu, là rao giảng và làm chứng cho Ngài, làm chứng về cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Ngài, để mọi người nhận biết Thánh Danh Giêsu, để họ tin Thầy Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ nhân loại. Nỗi thao thức lớn nhất của Thầy Giêsu, là muốn qui tụ tất cả mọi người thành một cộng đoàn đức tin (Ad Gentes). Đó là sứ vụ, là bổn phận, là trách nhiệm của người Kitô hữu, cách riêng những người môn đệ, những Linh mục, Tu sĩ sống đời thánh hiến. Vì thế, mỗi người cần nhiệt tâm, dấn thân truyền giáo, loan bào Tin Mừng tùy theo khả năng, vai trò, địa vị của mình, hoạt động “tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho mình” (Rm 12,3).

Trong Giáo hội, với nhãn quan đức tin, tất cả mọi người, mọi giới, đều có bổn phận và được Thầy Giêsu mời gọi hưởng ứng, tích cực loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Danh Thánh Giêsu (x.1.Pr 3,15). Đó là sứ vụ cao cả, không một Kitô hữu nào được miễn trừ thực hiện, vì đó là là trách nhiệm, là bổn phận được bắt nguồn từ các Bí tích Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể,  được thúc đẩy bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Sứ vụ truyền giáo của người Kitô hữu 

Sứ mệnh loan báo Tin mừng, luôn là tiêu chí tiên phong. Vì thế, mọi người Kitô hữu cần ý thức trách nhiệm của mình để chu toàn bổn phận (x.Lumen gentium Gh 28). Việc rao giảng Thầy Giêsu cho thế giới, cho những người sống chung quanh mình, người Kitô hữu cần bắt đầu, khởi điểm bằng chính "cái có" của bản thân. Trước tiên, người Kitô hữu cần có “phẩm tính Thiên Chúa, phẩm tính mang tên Giêsu” ngay trong cuộc sống đời mình, có kinh nghiệm, có cảm nghiệm thực tế về Ngài.

Cụ thể; có lãnh nhận các bí tích, có sự hiệp thông trong đức tin với Giáo hội, có đi lễ, đọc kinh, rước lễ, có cầu nguyện, nói chuyện thân tình với Thầy Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm về Ngài và thực hành trong cuộc sống đời thường. Thứ đến, có tâm tình yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, được thể hiện một cách thực tiễn qua cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, ngang qua những người già yếu, người cô thế cô thân, có kinh nghiệm sâu xa về sự quảng đại tha thứ, có kinh nghiệm sâu sắc về bí tích hoà giải, có trải nghiềm về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Trong Tân Ước, tác giả thư Rôma nói: “Làm sao có thể kêu cầu Thiên Chúa, nều đương sự không có đặt niềm tin vào Thầy Giêsu trước ? Làm sao tin được, nếu họ không có những người tâm huyết để rao giảng ? Làm sao có thể giảng rao, nếu họ không được (Thần Khí Chúa) sai-phái lên đường ? (x.Rm 10,15)”.

Quả thực, khi có Chúa trong tâm hồn, có cảm nghiệm sâu sắc về tình thương của Chúa, người Kitô hữu dễ dàng đem Chúa đến cho tha nhân, chia sẻ cho họ những kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật, chân tình với Chúa. Những “cái có” ấy, chính là muối, là men, là ánh sáng cho đời, có sức mạnh thu hút và phản chiếu khuôn mặt của Thầy Giêsu cho đời. Mỗi người Kitô hữu cần trở nên tấm gương sáng, phản chiếu tình thương của Thiên Chúa cho người xung quanh. Mỗi người Kitô hữu, hãy là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho người chưa nhận biết Thầy Giêsu.

Sứ vụ truyền giáo của người môn đệ Thầy Giêsu, không phải là chiêu thức của cảm tính, vui thì làm, không vui thì miễn tham gia. Không phải vậy. Sứ vụ truyền giáo, đó là bổn phận hàng đầu của người tín hữu. Tất cả mọi thành phần dân Chúa, cần nhập cuộc, để chu toàn sứ vụ cao cả này trong khả năng mà mình có thể.

Sứ vụ truyền giáo trong thời đại hôm nay là vô cùng cần thiết, giống như hơi thở vậy. Từ khi cất tiếng khóc chào đời, có khi nào bạn ngưng thở đâu ? Trái lại, chúng ta hít thở suốt đêm ngày, hít thở cho tới khí chết. Sứ vụ ra đi truyền giáo của ngươi Kitô hữu, cũng cấp bách như hít thở vậy, cần được khởi đầu từ việc mạnh dạn ra khỏi địa lý, gia đình, nhà thờ, xứ đạo, ra khởi sự an toàn, an phận , ra khỏi chính con người ngại khó của mình để nhiệt tâm truyền giáo.

 Đối tượng ưu tiên trong sư vụ truyền giáo (người Tân Tòng)

Theo World Fact Book năm 2016, dân số hiện nay trên toàn cầu, có khoảng 7,3 tỷ người. Chiếu theo thống kê mới nhất của Giáo Hộ Công Giáo, hiện nay trên toàn thế giới, có khoảng 1 tỷ 253 triệu người Công Giáo. Tức là, mới chỉ có 1 phần 7 người Công Giáo. Qua số liệu thống kê về dân số tín hữu Công Giáo trên toàn thế giơi, chúng ta thấy rõ tính cấp bách của sứ vụ loan bao Tin Mừng là vô cùng cần thiết. Trong Tin Mừng Luca, Thầy Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy, anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,3).

Khái niệm “Lúa chín đầy đồng”, tác giả Luca muốn ám chỉ người ngoài Công Giáo, một con số rất đông, khoảng trên dưới 6 tỷ người chưa nhận biết Danh Thánh Giêsu, chưa được đón nhận Tin Mừng, chưa được biết Thiên Chúa là Cha. Họ là những gương mặt đang sống kề cận gia đình chúng ta, nơi công sở, trường học, giáo xứ, nới những người mà chúng ta gặp gỡ, giao tiếp hằng ngày. Đó là những nhân tố cần được nhận biết Tin Mừng, nhận biết Chúa Giêsu Kitô.

Cần loan bao cho họ biết Thầy Giêsu là Con Thiên Chúa, đã nhập thể, làm người, ở cùng nhân loại, nhằm cứu độ, giải thoát và phục hồi phẩm giá con người, mang lại hạnh phúc viên mãn cho con người. Đó là tiêu chí quan trọng mà người “Tân Tòng” cần được nhận biết.

Vậy, câu hỏi được đặt ra: ai là người được mời gọi ra đi rao giảng để gặt lúa về ? Dĩ nhiên, không phải chỉ có nhóm mười hai, nhóm bảy mươi hai, cũng chẳng phải chỉ có mười chi tộc nhà Israel, mà tất cả mọi người, mọi chi tộc, mọi dân nước, mọi thành phần trong Giáo Hội Công Giáo, bao gồm mọi giới, cấp bậc, địa vị, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, tất cả đều được sai đi, lên đường, tiến về đồng lúa chín là người “Tân Tòng” để làm thợ gặt, rao giảng, loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo Danh Thánh Giêsu cho dân ngoại, cho những người chưa nhận biết Thầy Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian. Dĩ nhiên, việc ra đi truyền giáo, cần có những phương pháp cụ thể, để đạt được kết quả cáo.

“Gương sáng”, là phương thức truyền giáo hiệu quả

Việc loan báo Tin Mừng trong thời hiện đại rất đa dạng, đòi hỏi người truyền giáo cần có những đối sách phù hợp với xu hướng thời đại, bằng những hành động thực tiễn, hài hòa với từng vùng miền, từng nền văn hóa, hợp với sự nhận thức của người tiếp nhận. Phương thức truyền giáo ở vùng đô thị, sẽ khác với vùng thôn dã. Nhà truyền giáo cần có những phương thức khả thi, thực tiễn, phù hợp, để công việc truyền giáo đạt kết quả tốt đẹp.

Một trong những mẫu thức sống chứng nhân giữa lương dân, đó là gương sáng, là tiêu chi tiên phong và là một thế mạnh của nhà truyền giáo. Nêu gương sáng bằng đời sống dấn thân có chiều sâu nội tâm đức tin, thể hiện qua lòng bác ái vô cầu, bằng đời sống đạo hạnh, thánh thiện, thanh thản, bình an. Phương thế này có sức chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho mọi thành phần, trong sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Những yếu tố ấy, sẽ dẫn người “Tân Tòng” tới chỗ nhận biết Danh Thánh Giêsu, giúp họ tin tưởng, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa. Việc loan báo Tin Mừng bằng gương sáng, bằng thái độ khiêm nhu, bằng ngôn từ hài hòa bao dung, mền dẻo v.v… thì luôn có sức thu hút, thuyết phục trái tim người khác, có sự ảnh hưởng trực tiếp trên giác quan và nhận thức của người nghe, giúp người “Tân Tòng” tin tưởng, khám phá tình Thiên Chúa, xuyên qua “gương sáng” của nhà truyền giáo. Tục ngữ có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương”. Nếu đạt được điều ấy, chắc chắn sẽ biểu tỏ “vẻ đẹp” tinh yêu Thiên Chúa cho người “Tân Tòng”. Cụ thể, với lời chào thân thiện khí thăm viếng người ngoại giáo, thể hiện qua lời chúc “Bình an cho nhà này”, bằng thái độ khiêm tốn, dịu dàng, siêu thoát, chắc chắn sẽ thâu lượm được hoa thơm trái ngọt. Thứ đến, nhà truyền giáo cần hiểu thấu nỗi khát vọng sâu xa của người “Tân Tòng”, cần biết diễn tả sao để họ hiểu được sự thiện chí của mình, cần có trái tim đồng cảm, để hiểu họ thực sự đang cần, và cố gắng sống sao cho phù hợp với những lời mình đã rao giảng.

Với nhãn quan đức tin, ngày hôm nay Thầy Giêsu vẫn đang sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng, hướng về đồng lúa chín là dân ngoại. Sứ vụ loan báo Tin Mừng, không dừng lại ở việc dạy giáo lý, với những lời giảng uyên bác. Nhưng, cần sống và làm chứng nhân giữa đời, bằng “gướng sáng”, đó là phương thức truyền giáo khả thi, có sức thu hút mạnh mẽ và thuyết phục lòng người. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI có lý khi nói: “Chứng nhân hơn thầy dạy”. Nghĩa là, những lời mình rao giảng, mà được được kiểm chứng bằng hành động, thì rất là thuyết phục, bởi nó có sức mạnh thu phục lòng người rất cao. Cho đến nay chúng ta vẫn cứ trăn trở hoài, làm sao để Tin Mừng thấm vào tâm hồn người nghe (Tân Tòng), làm sao đáp ứng được những khát vọng thầm kín trong tâm hồn của họ ? Họ khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, họ khát khao tình yêu huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông, để những việc làm ấy, có thể xoa dịu được phần nào nỗi đau của họ. Muốn đạt được điều ấy, nhà truyền giáo cần tạo các mối tương, tạo niềm tin, tạo sự hiểu biết và sự đồng cảm với người ngoại giáo. Đó là yếu tố cần thiết trong sứ vụ truyền giáo.

Tạo mối tương quan, niềm tin, chia sẻ, sự hiểu biết và đồng cảm

Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Khởi đầu nan”. Quả thực, trong bất cứ lãnh vực nào, bước đầu bao giờ cũng có khó khăn. Việc tạo mối tương quan với người lạ đã khó, để làm quen với người khác tôn giáo lại càng khó hơn. Tuy nhiên, với thiện chí, qua những mối tương giao cởi mở, bằng những cuộc thăm viếng thân tình thường xuyên, bẵng mối quan hệ bình đẳng bạn hữu. Sau một thời gian kiên nhẫn thăm viếng, sẽ có những kết quả tốt đẹp. Đúng là: “Trước lạ sau quen”. Từ lạ, trở thành quen, từ quen trở thành bạn, từ bạn thường, trở thành bạn thân. Và cứ như thế, cả hai cùng sống chân thành, chan hòa, cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm cuộc sống, chia sẻ đời sống tâm linh cho nhau, qua những dịp thăm hỏi, đón tiếp nồng hậu. Hình thức truyền giáo này, mô phỏng lại phương thức truyền giáo của Thầy Giêsu năm xưa. Nghĩa là, Ngài chủ động, lên đường viếng thăm con chiên. Từ phương thức viêng thăm ấy, đã tạo được những mối tương quan thân tình với người khác đạo. Tất nhiên, nhà truyền giáo, cần tôn trọng sự khác biệt của người ngoại giáo (Tân Tòng). Bằng cách, chăm chú lắng nghe họ, với thái độ chân thành, thanh thản, bình an, niềm nở, sẵn sàng tâm giao, chia sẻ, đồng cảm với những sự khó khăn của họ, nhiệt tâm giúp đỡ họ trong khả năng nhất định của mình, cùng họ giúp đỡ những người nghèo khổ, già yếu, neo đơn.

Môi tương quan thân tình này, với sự kiên nhẫn tiệm tiến, sẽ chuyển qua một trang sử mới. Dĩ nhiên, mối tương quan này cần được duy trì, thúc đẩy, vun đắp, để cùng nhau nhìn về một hướng, quý trọng những đức tính vàng “Chân-Thiện -Mỹ”, vốn được nhiều người, nhiều tôn giáo quý chuộng, trong đó có đời sống tâm linh. Cụ thể: lòng nhân ái, sự quảng đại, tình yêu chân thành, say mê đức công bằng, vị tha, sẵn sàng phục vụ vô vị lợi, mà không tự cho mình là cao thượng, đại nhân, đại nghĩa. Đó là một chuối các nhân đức nhân bản, các nhân đức ấy giống như men, như muối giữa đời, như hương thơm từ trời cào, từ nơi Thiên Chúa, tuôn đổ ngang qau tình yêu của Thầy Giêsu. 

Kết luận

Cần xác định rõ mục đích truyền giáo là gì ? Đó là sứ vụ loan báo Tin Mừng, loan truyền lời dạy của Thầy Giêsu cho muốn dân, cho những người ngoại giáo đáng sống kế cận mình, để họ có cơ may nhận biết Thầy Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian. Sứ vụ truyền giáo không phải là của riêng một cá nhân nào, mà là của cả Hội Thánh, mọi người Kitô hữu, trong đó có Linh mục, Tu sĩ và giáo dân. Đối tượng ưu tiên trong sư vụ truyền giáo, trước tiên: đó là người ngoại giáo (Tân Tòng),họ cần được đón nhận Tin Mừng. Về phương thức loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa, chưa nhận biết Thầy Giêsu. “Gương sáng”, là phương thức truyền giáo hiệu quả nhất. Để thể hiện những mẫu gương đó, nhà truyền giáo cần tạo các mối tương quan, niềm tin, chia sẻ, sự hiểu biết và đồng cảm. Đó là phương thức truyền giáo thuyết phục, có sức lôi cuốn lòng người.

Lm.Aelrêôlô Nguyễn Văn Mạnh

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

NGÀY HẠNH PHÚC NHẤT ĐỜI MẸ TÊRÊSA

Người ta thường nói rằng các vị thánh thường đi theo cặp. Thánh Phêrô và thánh Phaolô, Thánh Giuse và Đức Maria, thánh Phanxicô và thánh Clara, Lui và Deli Máctin, đây chỉ là một vài ví dụ của những cặp đôi như thế, hai vị thánh kết hiệp với nhau bằng tình bạn hay duyên vợ chồng.  

Có lẽ đôi bạn thánh được biết đến nhiều nhất của thời hiện đại là Mẹ Têrêsa và thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II. Cuộc đời của hai người đã có nhiều dịp hội ngộ dưới triều đại giáo hoàng của ĐTC còn Mẹ là Mẹ bề trên của dòng Thừa sai Bác ái.    

Khi đức thánh cha (ĐTC) Gioan Phaolô II đến thăm nhà của Mẹ Têrêsa trong lòng khu ổ chuột của Cancútta năm 1986, Mẹ đã gọi đó là “ngày hạnh phúc nhất cuộc đời mình”.

Khi ĐTC đến, Mẹ Têrêsa leo lên xe riêng và hôn lên nhẫn giáo hoàng của ĐTC, còn ĐTC thì hôn lên trán Mẹ, đó là cách chào hỏi họ thường trao cho nhau mỗi lần gặp mặt sau này.         

Sau khi chào hỏi thân mật, Mẹ đưa ĐTC tới nhà Thánh Tâm của Mẹ, vốn dành cho những người bệnh tật và hấp hối mà Mẹ đã xây dựng từ những năm 1950.

Những đoạn phim cũ ghi lại cuộc viếng thăm cho thấy Mẹ đã cầm tay ĐTC mà đưa đi thăm từng gian của ngôi nhà, còn Ngài thường dừng lại để ôm, chúc phúc và thăm hỏi các bệnh nhân. Ngài còn chúc phúc cho 4 thi thể, một trong số đó có một em nhỏ.

Các phóng viên đài BBC tường thuật về cuộc viếng thăm cho biết, họ có thể nhìn thấy sự xúc động sâu sắc của ĐTC, khi Ngài giúp các nữ tu đút ăn, chăm sóc cho các bệnh nhân và những người sắp sửa lìa đời. Đôi lúc lòng Ngài xốn xang trước những gì Ngài thấy đến mức Ngài không biết đáp lời Mẹ Têrêsa như thế nào.   

Khi kết thúc cuộc viếng thăm, ĐTC viết một dòng ngắn bên ngoài ngôi nhà, gọi nhà Thánh Tâm là “nơi minh chứng cho sự cao cả của tình yêu”.   

“Khi Đức Giê-su dạy các môn đệ cách tốt nhất để thể hiện tình yêu họ dành cho Người, Người nói: ‘Thật Thầy bảo thật các con, mỗi lần các con làm điều gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, là các con đã làm cho chính Thầy vậy.’ Thông qua Mẹ Têrêsa và dòng Thừa sai Bác ái, và qua rất nhiều người đã phục vụ ở đây, Chúa Giêsu đã được mến yêu tha thiết nơi những người bị xã hội coi là ‘những kẻ bé mọn nhất’.” ĐTC nhận xét.    

“Nhà Thánh Tâm khẳng định cho phẩm giá cao cả của mỗi con người. Sự quan tâm đầy tình thương được thể hiện nơi đây minh chứng cho chân lý rằng, giá trị của một con người không được đo lường bằng sự hữu dụng hay tài năng, bằng sức khoẻ hay bệnh tật, bằng tuổi tác hay tín ngưỡng hoặc chủng tộc. Phẩm giá của mỗi người chúng ta đến từ Thiên Chúa, Đấng tạo thành tất cả chúng ta theo hình ảnh của Người. Dẫu nghèo túng hay đau khổ đến đâu, phẩm giá này cũng không bao giờ bị tước đi, vì chúng ta luôn quý giá trước mặt Thiên Chúa”, ĐTC nói thêm.    

Khi viết xong, ĐTC chào đám đông tụ họp lại, và đặc biệt dừng chân để chào các chị em tươi cười ca hát của dòng Thừa sai Bác ái.

Ngoài việc gọi chuyến viếng thăm là ngày hạnh phúc nhất đời mình, Mẹ Têrêsa cũng nói thêm: “Đó là một điều kỳ diệu cho mọi người, vì cái chạm của ngài là cái chạm của Đức Kitô.”         

Cả hai người tiếp tục tình bạn thân thiết, họ còn ghé thăm nhau vài lần nữa. Sau khi Mẹ qua đời năm 1997, ĐTC quyết định không cần chờ thêm 5 năm như thường lệ mà mở án phong thánh cho Mẹ ngay. Vào lễ phong chân phước cho Mẹ năm 2013, ĐTC tôn vinh tình yêu Thiên Chúa của Mẹ, thể hiện qua tình yêu Mẹ dành cho người nghèo.

“Chúng ta hãy tôn vinh Chúa vì tình yêu người phụ nữ nhỏ bé này dành cho Người, một sứ giả khiêm nhường của Tin Mừng và một ân nhân không biết mệt mỏi của nhân loại. Nơi bà chúng ta vinh danh một trong những gương mẫu sáng ngời nhất của thời đại. Hãy đón nhận thông điệp của Mẹ và tiếp bước Mẹ.”

Mary Rezac

(Chuyển dịch: Truyền thông Đa Minh)      

http://www.catholicnewsagency.com         

1144    06-09-2016 08:20:20