Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Ông bõ đỡ đầu công cuộc Truyền Giáo ở cư sở Nước Mặn và Bà đỡ khai sinh chữ Quốc Ngữ - tt

Quả vậy, chữ Quốc ngữ hôm nay chúng ta đang dùng đã có một khởi đầu. Việc khởi đầu sáng tạo chữ Quốc ngữ là một sáng kiến của các thừa sai Dòng Tên phát xuất từ nhu cầu truyền giáo cho người Việt. Công cuộc khởi đầu ấy là công việc được đóng góp từ công sức của nhiều người, trong đó thành phần chủ chốt đầu tiên là số thừa sai Dòng Tên làm việc tại cư sở Nước Mặn ở giai đoạn giữa năm 1618 đến đầu năm 1620. Trong đó Linh mục Buzomi với tư cách người bề trên, người anh cả, quảng đại gánh vác các công việc khác trong cộng đoàn như để tạo mọi thuận lợi cho hai người em của mình, Linh mục Pina và Linh mục Borri, chú tâm dùi mài học hỏi, nghiên cứu và sáng tạo ngôn ngữ địa phương.

 

Ngoài ra phải kể đến sự tham gia và đóng góp của những người Việt Nam mà người đầu tiên phải kể đến là Cống Quận Công Trần Đức Hòa, Khám lý phủ Qui Nhơn. Việc các thừa sai gặp nạn ở Cửa Hàn có thể ví như mấy anh em trong một gia đình đang lâm cảnh mồ côi, không nơi nương tựa. Cống Quận Công Trần Đức Hòa là một nhà hảo tâm quảng đại. Ông cưu mang, đùm bọc những con người "mồ côi" đang lâm cảnh đáng thương nầy. Ông lo cho những người nầy có điều kiện tốt nhất để đi tìm con chữ mà hôm nay chúng ta được thừa hưởng. Vì vậy danh tính của ông không thể thiếu trong danh sách những người đầu tiên chúng ta ghi ơn trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ. Trong số những người khai sinh chữ Quốc ngữ tiêu biểu ở giai đoạn phôi thai nầy còn có những vị Sãi, người thanh niên Việt Nam có tên thánh bổn mạng là Phêrô, anh Augustinô – thông ngôn người Đàng Trong của Linh mục Buzomi, những người buôn bán và bà con nông dân Việt Nam ở tại thương cảng Nước Mặn mà các thừa sai được tiếp xúc hằng ngày, những thương nhân Nhật Bản với vai trò thông ngôn dù chỉ biết lèo tèo một số từ cần thiết trong giao dịch thương mại.

Như thế, lúc bấy giờ Nước Mặn chẳng những là một trung tâm truyền giáo mà còn là nơi các thừa sai nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ trong giai đoạn mà Linh mục Léopold Cadière, nhà nghiên cứu khoa học, sử học, ngôn ngữ học và tôn giáo dân tộc học gọi là "hình thái tiên chinh của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ Quốc ngữ trước thời Linh mục Đắc Lộ. Những bút tích này của Linh mục Borri quả là một bổ ích lớn lao cho những ai khi đi sâu nghiên cứu về sự hình thành chữ Quốc ngữ ".
[51] Ngoài ra, theo báo cáo năm 1619, các thừa sai lập trường học tại cư sở và mời thầy giỏi về dạy ngôn ngữ. [52]  Như thế, Cư sở Nước Mặn cũng là “Trường Quốc ngữ” đầu tiên cho các thừa sai đến sau như Linh mục Emmanuel Borges (1622), Linh mụcGiovanni di Leira (1622), Linh mục Gaspar Luiz (1624), Linh mục Girolamo Majorica (1624). [53]

 

III. NHƯ NÉN HƯƠNG TRI ÂN

 

Khi còn sống, Khám lý phủ Qui Nhơn là người được quan chuộng dân yêu trong khắp nước. Ông là người được yêu chuộng vì ông thanh liêm, yêu dân, xét xử phân minh. Do đó, khi ông qua đời, có sắc lệnh không được tỏ ra đau khổ và buồn rầu vì ông xứng đáng được vinh dự thánh thiện và thiêng liêng, ngang hàng với thần thánh...[54]

 

Cuộc đời và sự nghiệp của Khám lý phủ Qui Nhơn – Cống Quận công Trần Đức Hòa gắn liền với sự nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sau khi Cống Quận công Trần Đức Hòa qua đời, chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn ban cho ông mỹ hiệu Phù Vận Thần (vị thần giúp cho vận nước vững bền lâu dài) , Đạo sắc đề ngày 6 tháng 6 năm Chính Hòa thứ 10 (1689), đời vua Lê Hy Tông.[55]

 

Nhân dân xã Bồ Đề, quê hương của ông, lập Đền thờ tại thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn.[56] Đền thờ bị sụp đổ trong chiến tranh, tại địa điểm di tích vẫn còn dấu tích Đền thờ và hiện nay, gia tộc Trần Đức vẫn còn giữ hình ảnh Đền thờ cũ. Mộ ông tại thôn An Đỗ, xã Hoài Sơn, được công nhận di tích cấp tỉnh năm 2005.

 

Sáng ngày 09/3/2018, UBND huyện Hoài Nhơn tổ chức cuộc họp thông qua phương án thiết kế phục dựng Đền thờ Cống Quận công Trần Đức Hòa tại Tài Lương, Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, nhằm tri ân, tôn vinh nhân vật lịch sử Bình Định có công với đất nước. Tham dự cuộc họp có đại diện Sở Văn hóa và Thể thao, Thường trực Huyện ủy, Thường trực HĐND huyện, lãnh đạo UBND huyện, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, UBND xã Hoài Thanh Tây, đại diện gia tộc Trần Đức…[57]

 

Tưởng nhớ Khám lý phủ Qui Nhơn-Cống Quận Cống Trần Đức Hòa qua đời 400 năm (1619-2019), chúng tôi xin thắp nén hương lòng tri ân Cụ, ông Bõ đỡ đầu công cuộc truyền giáo ở Cư sở Nước Mặn và là "Bà đỡ" khai sinh chữ Quốc ngữ.

 

            Lm. Gioan Võ Đình Đệ


------------

[1] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, Trần Đức Hòa tư liệu, nxb. Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội, 2004, trang 18.

Đại Nam Liệt Truyện tiền Biên (quyển thứ 3, tờ 9, tờ 10).

[2] Không qua thi cử hoặc được tiến cử bởi một vị quan lớn nhưng nhờ công trạng của người cha.

[3] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, sđd, trang 33.

[4] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, sđd, trang 36.

[5]VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Nhất Thống Chí, Bản đời Tự Đức, Quyển IX, tái bản lần thứ 2, nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, tập III,  trang 7.

[6] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, tái bản lần thứ nhất, nxb. Giáo dục, Hà Nội 2001, tập I,  trang 28.

[7] Xem CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione, sđd, trang 127-128. Borri dùng "Governatore di Pulucambi" để chỉ chức danh của Cống Quận công Trần Đức Hòa.

[8] Xem PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, nxb. Khoa học Xã hội, 2016, trang 350.

[9] Bảng trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm (1659 - 1739) đã soạn xong "Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí" vào năm 1719. Nội dung kể chuyện lịch sử từ năm 1558 khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá đến năm 1689 đời chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn. Tác phẩm đã được nhiều pho sử sau đó sử dụng. Trong quá trình biên soạn lịch sử của mìnhQuốc sử quán triều Nguyễn cũng dùng Nam triều công nghiệp diễn chí để biên soạn Đại Nam thực lục tiền biênĐại Nam liệt truyện tiền biên, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục (Xem Nam triều công nghiệp diễn chí , bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, nxb. Hội Nhà Văn, 2003, tr. 8)."Phủ Biên Tạp Lục" được Lê Quý Đôn biên soạn và hoàn thành khoảng năm 1776. Quốc sử quán nhà Nguyễn đã dựa vào "Phủ Biên Tạp Lục" để viết "Đại Nam Thực lục tiền biên" và "Khâm Định Việt sử thông giám cương mục" (Xem Phủ Biên Tạp Lục, nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1977,  trang 15).  Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên được biên soạn từ 1841-1852.  Đại Nam Nhất Thống Chí được biên soạn từ 1865-1882.
 
[10] Xem NGUYỄN KHOA CHIÊM, Nam triều Công nghiệp diễn chí, Bản dịch Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1990, Hồi thứ sáu, trang 44-46.

[11] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực lục tiền biên, Tập I, tái bản lần I, nxb. Giáo Dục, 2001, bản điện tử.

[12] LÊ QUÝ ĐÔN, Phủ Biên tạp lục, nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1977,  trang 52.

[13] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực lục tiền biên, Tập II, bản điện tử.

[14] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, sđd, trang 46. Chỉ thị của chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu, ngày 12 tháng 9 Vĩnh Thịnh năm thứ 12 (1715) về việc miễn sưu thuế cho con cháu Cống Quận ông Trần Đức Hòa: "…Khám lý Cống Quận công Trần Quí Công (Đức Hòa) từng được chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nhận làm dưỡng tử…"

[15] Việc chúa Sãi gọi Trần Đức Hòa là "nghĩa đệ" như Liệt Truyện chép đã cho chúng tôi tồn nghi: Khi Trần Đức hòa được tập ấm (1564) thì chúa Sãi mới được một tuổi (sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi, tức ngày 16 tháng 8 năm 1563). Như thế Trần Đức Hòa có độ tuổi lớn cách biệt chúa Sãi. Trần Đức Hòa là dưỡng tử của chúa Tiên. Như thế tương quan giữa chúa Sãi và Trần Đức Hòa là anh em nghĩa dưỡng chứ không phải "nghĩa đệ - em kết nghĩa".

[16] Xem NGUYỄN KHOA CHIÊM, sđd, Hồi thứ bảy, trang 50-52.

[17] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Liệt truyện Tiền Biên, tái bản lần thứ hai, nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, Q. 3, Các Bề tôi.

[18] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Nhất Thống Chí, tái bản lần thứ hai, nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, tập 3, Q.9 trang 60. 

[19]  Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực lục tiền biên, sđd,bản điện tử.

[20] Trong số các nguồn sử này, Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí là tác phẩm được soạn sớm nhất nhưng đã cách thời đại cụ Trần ngót nghét cả 100 năm.

[21] Thời điểm Đào Duy Từ vào Đàng Trong tìm minh chúa (1625), phải chăng các pho sử sau đều lấy nguồn từ " Nam Triều Công Nghiệp diễn chí" ?

[22] Xem CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione, sđd, trang138-155.

[23] Mỗi báo cáo được viết ít nhất ba bản (03), một bản lưu lại giáo đoàn, hai bản được gởi về cho bề trên bằng hai phương tiện khác nhau để tránh rủi ro thất lạc.

[24] Xem JOÃO RODRIGUES GIRÃO , Annua de Cochinchina de 619 , Archivum Romanum Societatis Iesu, Jap-Sin 71.

[25] Lúc bấy giờ tại cư sở Nước Mặn có 03 linh mục: Buzomi, Borri và Pina.

[26]CHRISTOFORO BORRI, sđd,trang 154.

[27] Xem L.CARDIÈRE, Annotations a la Lettre de Gaspar Luis, B.A.V.H. Juillet-Dec. 1931, trang 415.

[28] Xem OLGA DROR AND K.W. TAYLOR, editor and annotator,"Views of Seventeenth-Century Viet Nam Cristoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin", Cornell University, Ithaca New York, 2006, trang 57.

[29] Xem Cristoforo Borri, Sđd, tr. 64-71.

Từ các chi tiết trong tường thuật của Linh mục Borri về các sự kiện "không có lụt thường xảy ra vào mùa thu để gieo lúa" dẫn đến việc các thừa sai phải "bước xuống thuyền nhưng không ra khỏi bến được vì gặp gió ngược, thứ gió mùa thổi dằng dai đến ba bốn tháng"; "Quan phủ Qui Nhơn đưa cha Buzomi về Qui Nhơn để chữa bệnh, suốt một năm", chúng tôi thiển nghĩ:

(1). Về sự kiện hạn hán xảy ra vào mùa thu năm 1616. Ở Nam Trung Bộ, mùa mưa dầm sinh ra lụt lội thường xảy ra trong khoảng thời gian từ giữa mùa thu cho đến giữa mùa đông (khoảng tháng 10 đến tháng 11 dương lịch). Theo kinh nghiệm dân gian, phải sau ngày 23.10 âm lịch, nông dân mới "xuống giống". Bởi vì kinh nghiệm cho biết "Ông tha Bà cũng không tha/ Cho nên có lụt hăm ba tháng mười (âm lịch). Có thể sau ngày 23.10 âm lịch năm 1616, nông dân Cửa Hàn chờ mãi mà không thấy mưa. Họ tìm lý do để lý giải hiện tượng bất thường của thiên nhiên. Cuối cùng, họ đổ trách nhiệm cho các thừa sai mà hậu quả là các thừa sai phải ra đi.

(2). Về việc ba thừa sai xuống thuyền theo lệnh chúa Sãi vào khoảng đầu tháng 06 năm 1617, xem thư báo cáo của Học viện Macao năm 1617 do Antonio de Souza viết xong tại Macao vào ngày 08.01.1618, đoạn cuối phần báo cáo về miền truyền giáo Đàng Trong.

- Trong khoảng thời gian này là cuối mùa gió nồm, gió từ biển (hướng Đông Nam) thổi vào vùng ven biển Nam Trung Bộ. Người địa phương thường nói "nồm già hay nồm săn" để chỉ những lúc gió nồm thổi mạnh. Những lúc đó sóng rất lớn, những con tàu buồm thô sơ thuở ấy không thể nào cưỡng gió để ra khơi được. Mùa gió nồm, thuyền từ biển vào bến thì thuận lợi vì thuận theo chiều gió, do đó ca dao trong vùng có câu: "Lạy Bà cho nổi gió nồm/ Chồng tôi còn ở ngoài khơi chưa về"; "Gió lên bớ bà Vọng Phu/ Chồng bà nhờ gió thuyền mau trở về". Ngoài ra, khi các thừa sai không thể ra khơi được vì sự cố "nồm già", dân chúng thua thiên nhiên, nhưng không cho ba thừa sai vào làng. Ba thừa sai phải "phơi mình liên tục dưới cái nắng nóng như thiêu của mặt trời xứ này", mùa nắng như thế chỉ có nơi tháng 06-07 của mùa hè ở xứ này.
 - Theo dõi các chuyến Linh mục Đắc Lộ theo tàu buôn Bồ Đào Nha từ Macao vào - ra Đàng Trong từ năm 1640-1645 (Vào: tháng 02.1640; 12.1640; 01.1642; 01.1644. Ra: tháng 08.1640; 07.1641; 07.1643; 07.1645), chúng ta thấy thời gian thuận lợi cho tàu xuất bến ra khỏi Đàng Trong là vào khoảng tháng 07 và tháng 08. Thời điểm này là mùa gió nam (gió Lào), gió từ đất liền thổi ra biển theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, thuận lợi cho tàu thuyền đi về Macao. Cư dân địa phương gọi là "nam cồ" khi gió nam thổi mạnh; khi gió nam thổi nhẹ gọi là "nam non".

[30] Khi biết được chúa Sãi bị giằng co, một đàng muốn giữ các thừa sai lại để bảo đảm việc liên lạc thương mại với người Bồ, một đàng cần an dân, nên với tư cách là người thâm tình của chúa Sãi, ông Trần Đức Hòa mạnh dạn đưa các thừa sai về Nước Mặn, một công việc vừa gói ghém tình nghĩa đối với chúa Sãi, vừa để an dân, vừa thể hiện đức nhân của bậc quân tử.

[31] Cristoforo Borri, sđd tr. 95 – 104.

[32]Xem Lettera Annuale del Collegio di Macao l'anno 1618 trong Lettere Annue del Jappone China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401. Thời điểm Cư sở Nước Mặn được thành lập, biên thùy phía Nam của Đàng Trong là phủ Phú Yên, được giới hạn tại  Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, Đèo Cả).

[33] Xem Annua de Cochinchina de 619, Japonica Sinica 71, Archivum Romanum Societatis Iesu

[34] Xem Báo cáo thường niên năm 1624, ARSI. JAP-SIN 68, trang 11-12. Và báo cáo thường niên năm1625, ARSI, JAP-SIN 71, F. 56-71.

[35] Đỗ Quang Chính SJ., Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt, Antôn & Đuốc Sáng, USA 6/2006, tr. 66.

[36]Daniello Bartoli, Dell' Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Libro Terzo, trang 327 .

[37]Daniello Bartoli, sđd., Terza Parte, Libro Quarto, trang 60 .

[38]Lettera Annuale del Colegio di Macao…l'anno 1618, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621.

[39]Xem JOÃO RODRIGUES GIRÃO, sđd, trang 008v, hàng 493-495.

[40] ALEXANDRE DE RHODES, Divers Voyages et Mission du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royaumes de   l’Orient…Paris 1653, p.72.

[41] JOÃO ROIZ, Annua de Cochinchina do anno de 1620 ARSI, JS. 72.f.3r. (Dẫn theo Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 79, chú thích số 1.)

[42]Xem CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione, sđd.tr. 156-159.

[43] DANIELLO BARTOLI, Sđd, Vol.17,  Libro Terzo, Torino 1825, trang 123-126.

[44] DANIELLO BARTOLI, Sđd, Vol.17, Libro Terzo, Torino 1825, trang 328-329

[45] ALEXANDRE DE RHODES, Les Divers Voyages et Missions du P. Alexandre de Rhodes, Sébastien Cramoisy, Paris 1653, trang 72.

[46] Xem ROLAND JACQUES, Công cuộc truyền giáo tại Quảng Nam năm 1623 và vấn đề ngôn ngữ: Bức thư của Francisco de Pina, Định Hướng số 42, Trung tâm  văn hóa Nguyễn Trường Tộ, Mùa Xuân 2005.

[47] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 396.

[48] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 262-263.

[49] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Annotations à la Lettre de Gaspar Luiz par Léopold Cadière, trang 410.

[50] Tác phẩm của Borri xuất bản năm 1631 nhưng phải hiểu là những chữ Quốc ngữ đó là thứ chữ ông viết vào năm 1620-1621.(Xem ĐỖ QUANG CHÍNH, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, nhà sách Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 29).

[51]BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 262-263.

[52]Xem JOÃO RODRIGUES GIRÃO, sđd, trang 008v, hàng 493-495.

[53] Cùng trên một chuyến tàu đến Đàng Trong vào cuối năm 1624, Linh mục A. De Rhodes và Linh mục De Fontes học tiếng Việt tại Dinh Chiêm; Linh muc Majorica và linh mục Gaspar Luis học tiếng Việt tại Nước Mặn.

Xem:

Đỗ Quang ChínhDòng Tên trong xã hội Đại Việt, tr. 65-69;
- Daniello Bartoli, Dell' Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Delle Asia, Libro Quarto, Torino 1825, tr.61;
- Wikipedia, the free encyclopedia, mục từ Jerônimo Majorica.

[54] Xem CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione, sđd. Trang 147

[55] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, sđd, trang 42

[56] Xã Bồ Đề thời Cống Quận công được phỏng ước địa bàn gồm các xã thuộc huyện Hoài Nhơn ngày nay: Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Châu Bắc, Hoài Phú, Hoài Hảo, Hoài Thanh, Hoài Thanh Tây…

[57] http://svhtt.binhdinh.gov.vn/view/189

552    21-11-2019