Sidebar

Thứ Sáu
29.03.2024

Ông bõ đỡ đầu công cuộc Truyền Giáo ở cư sở Nước Mặn và Bà đỡ khai sinh chữ Quốc Ngữ

Giáo phận Qui Nhơn đã cử hành Năm thánh mừng kỷ niệm 400 năm loan báo Tin mừng (1618-2018). Mốc điểm để cử hành sự kiện ấy xuất phát từ việc Tháng Bảy năm 1618, Khám lý phủ Qui Nhơn – Cống Quận công Trần Đức Hòa đã đưa các thừa sai Dòng Tên đang gặp nạn tại Cửa Hàn (Đà Nẵng) về Nước Mặn, một thương cảng thuộc phủ Qui Nhơn. Ông bảo trợ các thừa sai, thiết dựng nhà cửa, cung cấp lương thực cho các thừa sai. Nhờ ông, Cư sở Nước Mặn chẳng những là Cư sở truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam của các thừa sai Dòng Tên được thành lập vào năm 1618 mà còn là nơi các thừa sai có điều kiện thuận lợi nghiên cứu, dùng mẫu tự Latinh ghi âm tiếng Việt để phục vụ cho nhu cầu truyền giáo. Nói cách khác, Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ.

mo_TranDucHoa.jpg
Mộ Trần Đức Hoà


I. CỐNG QUẬN CÔNG TRẦN ĐỨC HÒA

- "Trần Đức Hòa người Bồng Sơn, Bình Định. Ông nội là Ngọc Trách, làm quan cho nhà Lê, được tặng hàm Vinh lộc Đại phu. Cha là Ngọc Phân cũng làm quan cho nhà Lê, đến chức Phó tướng ở dinh Quảng Nam. Hòa vốn người hào mại, vì con nhà tướng nên buổi đầu tập ấm chức Hoằng tín Đại phu, sau đổi qua làm Đô chỉ huy sứ quyền nhiếp vệ Cẩm y. Nhờ có quân công. Được giữ chức Khám lý phủ Qui Nhơn, tước phong Cống Quận công". [1]

 

Về việc tập ấm[2] và được thăng tước Cống Quận công, các đạo sắc xác định ngày tháng:

 

- Đạo sắc Ngày 28 tháng 7Năm Chánh Trị thứ 7 (1564) đời Lê Anh Tông, bộ Lại triều Lê cấp cho Trần Đức Hòa được tập ấm chức Hoằng tín Đại phu : "…Giao cho quan trong bộ làm căn cứ mà cấp bằng cho: Trần Đức Hòa ở xã Bồ Đề huyện Bồng Sơn, là quan viên thuộc ban dưới, là con trưởng của Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân, nay phụng mệnh Hoàng đế xét cho thực thụ chức Hoằng tín Đại phu, thuộc ban dưới. Nay cấp cho Trần Đức Hòa, chức Hoằng tín Đại phu, theo đây mà thi hành." [3]

 

- Đạo sắc Ngày 12 tháng 6 Niên hiệu Quang Hưng thứ tám (1584), Trần Đức Hòa  được thăng tước Cống Quận công: "Vì từng phục vụ trong quân đội, dưới quyền Tả tướng Thái úy Trưởng Quốc công Trịnh Tùng, có công được triều thần đề nghị. Nay thăng Trần Đức Hòa, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ ở ty, Đô chỉ huy sứ, thự vệ sự, tước Cống Quận công, trụ quốc trật trên". [4]

 

Cống Quận công Trần Đức Hòa với chức danh Khám lý phủ Qui Nhơn

 

Trong việc tổ chức bộ máy hành chánh, chức Khám lý được chúa Tiên thiết lập vào năm 1602: "…Năm Nhâm Dần Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế thứ 45 (Lê Hoằng Định thứ 2 – 1602) đổi phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân (Nhơn), đặt các chức tuần phủ, khám lý vẫn lệ vào dinh Quảng Nam".[5]

 

Năm 1602, chúa Tiên cho mời khám lý phủ Hoài Nhân là Trần Đức Hòa (bấy giờ gọi là Cống quận công, là con Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân, phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết kiến, chúa đãi rất hậu. Rồi trở về Thuận Hóa.[6]

 

Trong bản tường trình với nhiều chi tiết của Linh mục Borri về việc Khám lý phủ Qui Nhơn đưa các thừa sai từ Hội An về Nước Mặn có chi tiết: "Chúng tôi đi thuyền suốt mười hai ngày thật tuyệt vời. Sáng và chiều chúng tôi có mặt tại các bến thuyền. Các bến này gần các thị tứ và những phố của phủ Quảng Nghĩa (Quanghia), nơi mà ông có quyền như ở phủ Qui Nhơn (Pulucambì) của ông."[7] Như vậy, chi tiết này cho biết với chức Khám lý phủ Qui Nhơn mà Cống Quận công Trần Đức Hòa đang đảm nhận, ông vừa cai quản phủ Qui Nhơn vừa cai quản cả phủ Quảng Nghĩa.[8]

 

Đi tìm năm sinh và năm qua đời của Cống Quận công Trần Đức Hòa

 

Năm sinh và năm qua đời của Cống Quận công Trần Đức Hòa không được sử sách nhà Nguyễn cho biết.[9] Với sức hạn hẹp của mình, chúng tôi cố gắng tìm hiểu qua một số sự việc được các nguồn sử hiện chúng tôi tiếp cận được có liên quan đến Cụ, mong có thể minh giải được năm sinh và năm qua đời của Cụ.

 

Việc Đào Duy Từ  vào Đàng Trong tìm minh chúa

Theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí thì năm Ất Sửu, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ bảy (1625), Thanh Đô vương Trịnh Tráng xuống lệnh mở khoa thi chọn học trò, lúc ấy Đào Duy 
Từ được hai mươi mốt tuổi, thông kinh sử nhưng không được dự thi vì là con nhà ca xướng. 
Vì thế Đào Duy Từ phải nuốt giận trở về….Từ đó Đào Duy Từ ngày đêm suy nghĩ để tìm phương kế lập thân…Nghĩ vậy, nên khoảng trung tuần tháng mười, Đào Duy Từ một mình đốt hương vái biệt phần mộ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi lên đường vào Thuận Hoá, thuộc Nam triều.[10] Theo đây thì Đào Duy Từ  sinh năm 1604 (1625-21=1604). Tuy nhiên, theo Đại Nam Thực lục tiền biên thì Đào Duy Từ  bệnh nặng và qua đời vào mùa Đông năm Giáp Tuất (1634), thọ 63 tuổi .[11] Theo đây  thì Đào Duy Từ sinh năm 1571 (1634-63=1571). Như vậy theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí  thì Đào Duy Từ vào Đàng Trong năm 1625, thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng ở ngôi chúa (1623-1657). Tuy nhiên về năm sinh của Đào Duy Từ trong hai nguồn này để lại cho chúng tôi sự tồn nghi.

- Theo Phủ Biên Tạp lục thì Đào Duy Từ  là người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, đi thi khoa Ất Sửu đời Vĩnh Tộ (1625), Hữu ty thấy là con phường hát không cho thi, tức giận đi vào Thuận Quảng, nhờ Khám lý Cống Quận công tiến cử với Phúc Nguyên.[12]

 

- Theo Đại Nam Thực lục tiền biên thì Đào Duy Từ vào Đàng Trong vào năm Ất Sửu (1625).[13]

 

Việc cụ Trần Đức Hòa tiến cử tiến cử Đào Duy Từ

 

Vừa là dưỡng tử của chúa Tiên,[14] vừa là người được nhà chúa tín nhiệm giao cho những trọng trách, vừa là nghĩa đệ của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên,[15] Cống Quận công Trần Đức Hòa thường lui tới với chúa Sãi để cùng chúa bàn mưu định kế việc quân việc nước, trong đó có việc tiến cử Đào Duy Từ.

 

Việc Cống Quận công Trần Đức Hòa tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi được các sử sách ghi chép:

- Theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, vào năm Đinh Mão, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ chín (1627).
 
[16]

 

- Theo Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì nhân cuộc mừng chiến thắng quân Trịnh ở Nhật Lệ vào năm thứ 14 Hy Tông Hoàng Đế, Đinh Mão (1627)[17]

 

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì vào năm  Hy Tông thứ 11 (1623).[18]

 

Theo Đại Nam Thực lục tiền biên thì vào năm Đinh Mão (1627)[19]

 

Với các nguồn sử vừa nêu trên,[20]  chúng tôi nhận thấy có những tồn nghi về tuổi tác của Đào Duy Từ, về thời điểm Đào Duy Từ vào Đàng Trong và thời điểm Cống Quận công tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.[21] Theo Đại Nam Nhất Thống Chí  ít nhất Cụ Trần còn tại thế cho đến năm 1623 và Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, Đại Nam Thực lục tiền biên, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì cụ Trần còn sống ít nhất cho đến năm 1627. Tuy nhiên khi chúng tôi tiếp cận nguồn sử truyền giáo của các thừa sai, những người đương thời với Khám lý phủ Qui Nhơn, Cống Quận công Trần Đức Hòa thì cụ Trần đã qua đời từ năm 1619:

 

- Linh mục Borri dành một chương 4 trong phần 2 của Bản tường trình để viết về việc Cống Quận công qua đời.[22] Borri tường trình sự kiện nhưng không ghi rõ năm nào.

 

- Báo cáo về hoạt động của các thừa sai[23] tại Đàng Trong vào năm 1619 cho biết các thừa sai tại Cư sở Nước Mặn vẫn được Ông Đề Lĩnh, người con cả của Khám lý phủ Qui Nhơn đối xử tử tế với các thừa sai như cha của ông, sau khi cha của ông qua đời.[24]

 

Qua những gì đã nêu trên, chúng tôi thiển nghĩ nguồn sử của các thừa sai dòng Tên đã cho chúng tôi độ tin cậy xác thực về thời điểm Khám lý phủ Qui Nhơn- Cống Quận công Trần Đức Hòa qua đời. Bởi vì, Linh mục Borri kể rất tỉ mỉ từ lúc Cống Quận công hấp hối cho đến khi tắt thở, tẩm liệm, an táng. Ông kể được như thế vì ông là người chứng kiến, có mặt trong suốt tiến trình cuối đời người từ khi hấp hối cho đến tang lễ và đến hết thời gian cư tang (03 năm). Chính Linh mục Borri xác nhận " ba linh mục chúng tôi đều có mặt trong dịp long trọng này".[25] Mặc dù trong tường trình, Linh mục Borri không ghi rõ thời điểm Cống Quận công Trần Đức Hòa qua đời, tuy nhiên với chi tiết trong tường trình về đời sống và hoạt động của các thừa sai tại Nước Mặn sau khi Khám lý phủ Qui Nhơn qua đời: "Ba năm trôi qua như vậy,chúng tôi lâm cảnh thiếu thốn những nhu cầu vật chất nhưng đó không phải là nỗi đau khổ lớn lao… chúng tôi phải đau khổ nhiều vì trong ba năm đó, chúng tôi rất nỗ lực và nhọc công nhưng chỉ có một ít người theo đạo…".[26]  Năm 1622, Linh mục Borri trở về Châu Âu,[27]  làm việc ở Châu Âu và qua đời ở Châu Âu vào năm 1632.[28] Như vậy, các chi tiết vừa nêu trong tường thuật của Linh mục Borri cho ta biết Cống Quận công Trần Đức Hòa qua đời vào năm 1619, trước khi Linh mục Borri về Châu Âu 03 năm. Lại nữa, theo luật buộc và trở thành thói quen trong nhà Dòng, các giáo đoàn truyền giáo phải viết báo cáo hằng năm để tường trình về tình hình của giáo đoàn cho bề trên nhà Dòng. Báo cáo về tình hình của giáo đoàn Đàng Trong năm 1619, cách riêng về cư sở Nước Mặn (Della Residentia di Pulocambi) cho ta biết Cống Quận công Trần Đức Hòa qua đời vào năm 1619.

Về năm sinh của Cụ Trần, chúng tôi chưa tìm được nguồn sử liệu nào xác định chắc chắn rõ ràng, chúng tôi chỉ dựa vào Đạo sắc Ngày 28 tháng 7Năm Chánh Trị thứ 7 (1564) đời Lê Anh Tông, bộ Lại triều Lê cấp cho Trần Đức Hòa được tập ấm chức Hoằng tín Đại phu, chúng tôi phỏng rằng Cụ sinh trước năm 1564 khoảng 16-20 năm ?

 

II. KHÁM LÝ PHỦ QUI NHƠN CƯU MANG CÁC THỪA SAI

 

Ngày 18.01.1615, các thừa sai Dòng Tên đặt chân lên cửa biển Đà Nẵng. Các thừa sai còn chân ướt chân ráo, mùa thu năm 1616 trời hạn hán, không có nước làm mùa, nạn đói đe dọa. Dân chúng cho rằng trời hạn hán là vì các thần nổi giận khi thấy nhiều người bỏ đạo cũ theo đạo mới, để đền miếu hoang vu. Muốn làm cho các thần nguôi giận thì cần phải đuổi các giáo sĩ Tây dương đi khỏi xứ. Do đó, dân chúng yêu cầu chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trục xuất các thừa sai. Một đàng chúa Sãi muốn giữ các thừa sai lại để bảo đảm việc liên lạc thương mại với người Bồ, một đàng cần trấn an dân chúng. Chúa sãi chọn giải pháp an dân nên cho mời các thừa sai đến và thông báo ý của mình. Vào khoảng đầu tháng 06 năm 1617, tất cả các thừa sai đã xuống thuyền, nhưng thuyền không thể xuất bến vì gặp gió ngược. Các thừa sai phải lên bờ nhưng dân chúng không cho vào làng, đành phải trở lại sống lẩn lút trong một cánh đồng đầy nắng gió gần biển.  [29]

 

May mắn thay, các thừa sai được Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn - Cống Quận Công Trần Đức Hòa, người có tương quan mật thiết với chúa Sãi, giúp đỡ.[30]Vào một ngày trong tháng Bảy năm 1618, ông đưa các thừa sai Dòng Tên đang gặp nạn về phố cảng Nước Mặn, một thương cảng thuộc quyền của ông. Linh mục Cristoforo Borri, người trong cuộc, kể lại câu chuyện thuở ban đầu ngày xưa ấy :

 

“Cha Buzomi, cha De Pina và tôi, chúng tôi bỏ Hội An để đi Qui Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó…ông giục chúng tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để dựng một nhà thờ. Chúng tôi liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là rất hợp và rất tiện để làm việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư dinh ở ngoài thành phố. Ba ngày sau, người ta đến cho chúng tôi biết là nhà thờ đã được đem đến...” [31] Nhờ sự bảo trợ đó, Nước Mặn là Cư sở đầu tiên của các thừa sai được thành lập.[32]Khoảng cuối năm 1619, Cư sở thứ hai được thành lập tại Hội An.[33] Năm 1625, Cư sở thứ ba được thành lập tại Dinh Chiêm, Quảng Nam.[34] Đây là ba trung tâm truyền giáo được các thừa sai Dòng Tên thiết lập, khai mở công cuộc loan báo Tin Mừng tại Đàng Trong.

 

Theo báo cáo thường niên năm 1620, các thừa sai tại Nước Mặn đã rửa tội được 180 người. Các thừa sai thường xuyên ở tại Nước Mặn trong những năm đầu: Linh mục Francesco Buzomi (Ý), Linh mục Cristoforo Borri (Ý), Linh mục Francisco de Pina (Bồ), Tu huynh Antonio Diaz (Bồ). [35]

 

Đầu năm 1620 địa bàn truyền giáo của Đàng Trong được chia làm hai vùng do hai nhóm thừa sai ở hai cư sở phụ trách.[36] Địa bàn cư sở Nước Mặn gồm ba tỉnh phía Nam của Đàng Trong : "Quagnin, Poulocambì, e Ranràn – Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên", dưới sự lãnh đạo của Linh mục Buzomi.[37] Phía Bắc Đàng Trong do các thừa sai tại Cư sở Hội An đảm trách do Linh mục Marques lãnh đạo.

 

Những người đầu tiên khai sinh chữ Quốc ngữ

 

Nhờ sự bảo trợ của Khám lý Qui Nhơn, các thừa sai ở cảng thị Nước Mặn được an cư lạc nghiệp. Việc ưu tiên mà các thừa sai tại cư sở Nước Mặn phải làm là việc học ngôn ngữ địa phương để phục vụ cho công việc truyền giáo. Lần theo các tài liệu chúng tôi đã tìm thấy, chúng tôi được biết:

- Bản báo cáo thường niên năm 1618 cho thấy các thừa sai Dòng Tên ở cư sở Nước Mặn đã soạn một quyển sách giáo lý bằng tiếng Việt (Nôm) với sự cộng tác của một văn nhân người Việt tên thánh rửa tội là Phêrô.
[38]

 

Tác giả thư báo cáo thường niên năm 1619 cho biết các thừa sai Dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ "địa phương" hơn bất cứ điều gì khác. Các thừa sai lập trường học tại cư sở và mời thầy giỏi về dạy ngôn ngữ[39]

 

- Mặc dù đến Việt Nam muộn hơn so với một số giáo sĩ khác, nhưng Linh mục Pina lại là giáo sĩ Châu Âu đầu tiên nói thành thạo tiếng Việt, điều này đã được các giáo sĩ đến sau như: Gaspar Luiz và Alexandre de Rhodes xác nhận.[40]

 

- Trong thư của Linh mục Joaõ Roiz viết bằng tiếng Bồ Đào Nha vào năm 1621 tại Macao gởi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả Dòng Tên tại Roma, báo cáo về Đàng Trong, Linh mục Joaõ Roiz xác nhận năm 1620 tại Đàng Trong đã có hai thừa sai nói thạo tiếng Việt đó là Linh mục Pina và Linh mục Borri.[41] Tuy nhiên, trong sự kiện bà vợ sứ thần của chúa Nguyễn xin học giáo lý gia nhập Kitô giáo trước khi theo chồng đi sứ sang Campuchia, Linh mục Borri xác nhận khả năng tiếng Việt của mình lúc bấy giờ: "… bởi vì tôi chưa biết đủ tiếng Đàng Trong để có thể trình bày các mầu nhiệm thánh trong đạo Kitô giáo của chúng ta. Do đó, tôi khuyên bà nên chờ cha Buzomi từ Đà Nẵng trở về cùng với người thông ngôn rất giỏi để có thể giúp bà hiệu quả hơn".[42]

 

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685), nhà sử học Dòng Tên nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Linh mục Buzomi, bề trên cư sở Nước Mặn: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó[Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốtđẹp” [43]Rất tiếc, tài liệu Linh mục Buzomi biên soạn hiện nay chưa được tìm thấy. Cũng chính sử gia Linh mục Daniello Bartoli cho biết sau khi linh mục Borri về châu Âu (1622),  Linh mục Francesco de Pina và Linh mục Buzomi là hai thừa sai ở Đàng Trong đã nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của địa phương , có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị Sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội. [44]

 

Linh mục Đắc Lộ cho biết khi ông đến Đàng Trong (cuối năm 1624), Linh mục Buzomi phải dùng thông ngôn.[45] Linh mục Pina giải thích lý do cần thiết khi Linh mục Buzomi phải dùng thông ngôn: Nếu có chuyện gì xảy ra phải giải quyết hoặc những thông tin quan trọng cần phải công bố, cha cử anh thông ngôn hoặc một trong các ông sãi; khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn  họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng. Thông ngôn người Đàng Trong chính là anh Augustinô, người thanh niên được Linh mục Buzomi ban phép rửa tội tại Cửa Hàn năm 1615. Linh mục Buzomi đã đào tạo anh thành người thông ngôn tín cẩn của ngài. Linh mục Buzomi đã thuê một gia sư dạy anh. Anh đã được học về ngôn ngữ và về các giáo phái. Bây giờ anh là ngôi sao tại Nước Mặn. Cũng tại đây, Linh mục Buzomi có được hai hay ba ông sãi giúp ngài làm mọi việc.[46]

 

Linh mục Cristoforo Borri đến Đàng Trong năm 1618 và rời khỏi Đàng Trong năm 1622.[47]  Ông chỉ ở tại Cửa Hàn trong thời gian rất ngắn để đi tìm các đồng sự. Trong suốt thời gian 1618-1622, ông sống và làm việc tại Nước Mặn. Linh mục Borri đã để lại cho chúng ta một số "chữ Quốc ngữ" trong tác phẩm "Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina" ông xuất bản năm 1631 tại Roma.

Linh mục Léopold Cadière, nhà nghiên cứu khoa học, sử học, ngôn ngữ học và tôn giáo dân tộc học đã nhận xét về tác phẩm của Linh mục Borri:

"Bản tường thuật của ông đã chứng tỏ ông có một kiến thức uyên thâm về thời đại và ngôn ngữ bản xứ của thời đại ấy. Một điều mà khiến cho bất cứ ai cũng phải nghĩ đến các khó khăn mà ông phải đối diện, ông chỉ nhận được sự giúp đỡ từ những người thông dịch kém cỏi, họ chỉ biết được lèo tèo một số từ cần thiết trong giao dịch mua bán. Ngoài thanh giọng của ngôn ngữ, ông còn cần phải phân biệt âm nầy với với nọ, phải giải quyết vấn đề ký âm tiếng Việt Nam bằng ký tự Âu châu".
[48] Linh mục Léopold Cadière tiếp tục nhận xét:"Dù rải qua thời gian ít ỏi ở Việt Nam, Linh mục Cristoforo Borri đã tạm nắm bắt được ngôn ngữ xứ nầy. Điều nầy được thể hiện qua những từ và những câu tiếng Việt trong bản tường trình của ông".[49]

 

Một số câu và hình thái chữ Quốc ngữ được Linh mục Borri sử dụng trong tác phẩm của ông:[50]

 

chuquocngu_1.jpg
chuquocngu_2.jpg
chuquocngu_3.jpg

795    21-11-2019