Sidebar

Thứ Ba
19.03.2024

Thánh Gioan Louis BONNARD HƯƠNG, Linh mục thừa sai Paris (1824 -1852)

 

Quê hương và trầm hương

 

Cuộc đời thánh Louis Hương, và nhất là cuộc tử đạo của Ngài gắn liền với tên gọi đã được Đức Cha Retordd Liêu đặt cho khi mới tới Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ ý của vị giám mục qua lá thư gởi cho thánh nhân ở trong tù. "Tôi đã chúc lành cho cha khi đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa là người cha của quê hương là hương trầm và là hương thơm. Chính lúc này đây quê hương yêu dấu đó đang xuất hiện cho cha trong ánh huy hoàng, vì cha sắp là một trong những công dân hạnh phúc. Chính lúc này đây hương trầm chuẩn bị đốt lên trên bàn thờ tử đạo và bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu, chính lúc này đây hương thơm đáng ca ngợi sẽ làm hài lòng Đức Giêsu như bình hương của cô Malađêna, sẽ làm cho Thiên Thần và loài người, trời và đất hân hoan vì hương vị ngọt ngào của nó."

 

Vậy đó, suốt đời thánh nhân đã rao giảng về quê hương trên trời, đã chịu đốt cháy trong lao khổ và tỏa hương thơm ngào ngạt cho ngàn muôn thế hệ.

 

Gioan Louis Bonnard sinh ngày 01-03-1824 tại St. Chisrtoten-Jarret, giáo phận Lyon, nước Pháp. Năm 12 tuổi, cha mẹ lo liệu cho cậu vào chủng viện Alixe. Tuy học hành không xuất sắc, cậu được mọi người mến thương vì tính hiền lành và đời sống đạo đức. Trong thời gian này, cậu được nghe nhiều tin tức và mẫu gương truyền giáo ở vùng Viễn Đông, nên cũng ước ao sang Việt Nam giảng đạo. Ngày 04-11-1846, Bonnard xin vào hội Thừa Sai Paris hoàn tất chương trình thần học và thụ phong linh mục ngày 14-12-1848. Đầu năm 1849, cha Bonnard lên đường sang Việt Nam.

 

Khi vừa đến Phố Mới (Singapour), các bề trên định cử cha sang Ai Lao. Nhưng vì đường bộ không thể đi được, cha phải vòng về Hương Cảng tìm đường khác. Cuối cùng các bề trên quyết định bổ nhiệm cha vào Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương và tạo điều kiện học ngôn ngữ và phong tục ngôn ngữ Việt Nam.

 

Trái chín của trời cao

 

Sau đó Đức Cha đặt cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời 5 linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Báng, nhiều tín hữu ở chung quanh cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một số tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về giúp cho xứ của mình. Khi đó vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt, nên cha lưỡng lự mãi nhận lời. Ngày 21-03-1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ cha ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em thì thấy quân lính đến bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện, quân lính đi nhanh quá cha nói với họ rằng: "Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội" lính mới đi chậm lại.

 

Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan huyện không tiếp. Đức cha gởi thư cho cha Hương như sau: "Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho miền truyền giáo. Có thể thấy rõ rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu của Đức Kito âkhổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha bỏ Kẻ Báng để chui đầu ngõ cụt Bối Xuyên?"

 

"Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái biết bao nhiêu thành quả. Những bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức « Thôi, tôi sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài cha là trái cây chín mọng giữa trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về."

 

Ngọt ngào biết bao đau khổ vì Đức Kitô

 

Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải Ngài đến Nam Định. Hơn một tháng tù cha bị đưa ra tra khảo bốn lần. Cũng như các vị thừa sai khác, quan Tổng Đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những gì làm tại Việt Nam . nhiều lần các quan đã hỏi những nơi cha đã đi qua hay đã trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp: "Các ngài muốn đánh thì cứ đánh, chư đừng mong tìm được một lời có hại đến tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết. Các ngài sẽ lầm to nếu tôi tiết lộ điều gì dù rất nhỏ". Khi các quan nói cha đạp lên Thánh Giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời: "Tôi đã nói tôi không sợ đòn đánh hoặc cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả.. Tôi không đến đây để chối đạo, hay làm gương xấu cho các Kitô hữu.."

 

Trong một lá thư cha Hương tâm sự rằng: "Nói chung trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức kitô: 'Các con đừng sợ phải trả lời những gì các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con'. (Mt.10,20). Thực vậy tôi không thấy bối rối chút nào, không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam dễ dàng và lưu loát như thế".

 

Thứ sáu tuần thánh năm đó, Đức Cha Liêu tìm gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục giải tội và đưa mình thánh. Cha Hương tâm sự: "Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến thế, khi mang trong mình vua các Thiên Thần. Quả thật phải vô tù mang gông xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô Đấng chúng ta hằng yêu mến, thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao ? Ồ, không ngược lại tôi thấy vui mừng vì có thể nói như thánh Phaolô: "Người tù của Đức Kitô'.

 

Cha Hương cũng viết tư an ủi song thân rằng: "Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mừng vì được phúc trọng ấy sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên Đàng, khi đó chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa."

 

Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo thì viết án gởi về kinh đô rằng: "Chúng thần đã tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây một loại trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử hình"

 

Nhận được tin về bản án, Đức Cha Liêu viết vào tù: "Xin cha cứ bình an. Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ. Cha xin tôi ban phép lành, nhưng tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến muôn đời, phải tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là "CỐ HƯƠNG » Nguyện xin sức mạnh của Chúa cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. Nguyện xin công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón nhận nghành vạn tuế tử đạo"

 

Trong tay ngài, lạy chúa!

 

Và đây là bảng di chúc của vị chứng nhân: "Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên trời. trông cậy vào lòng nhân từ của Đức Kitô, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội lỗi cho tôi, tôi tự nguyện hiến dâng mạng sống và máu vì yêu thương Người và vì những linh hồn yêu dấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai thứ 7, ngày 01-05, lễ thánh Philiphê và Giacôbê Tông Đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong tay Ngài lạy Chúa xin phó thác linh hồn con ngừơi tù của Đức Kitô".

 

Sáng ngày 01-05-1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi cha quỳ trên chiếu cầu nguyện. Cha phải chờ mộr giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông, phải chạy vền nhà kiếm. Sau đó họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kỷ niệm, nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu tử đạo được đưa lên thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó Đức Cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ và an táng vị tử đạo trong chủng viện.

 

Ngày 27-05-1900, Đức Giáo Hoàng Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

 

 

 


Lm. Đào Trung Hiệu, OP

1242    01-05-2017