Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

THƯ PLACUIT DEO (2)

IV.              Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ và Ơn Cứu Độ

8. Chẳng một phút giây nào trong dòng lịch sử, Thiên Chúa lại ngừng ban ơn cứu độ cho con cái A-đam (x. St 3,15), nhờ việc thiết lập giao ước của Ngài với toàn thể nhân loại qua ông Nô-e (x. St 9,9), và sau đó, với A-bra-ham và dòng dõi của ông (x. St 15,18). Vì thế, ơn cứu độ của Thiên Chúa mặc lấy trật tự thụ tạo vốn được toàn thể nhân loại chia sẻ, và ơn cứu độ ấy đồng hành cùng lộ trình cụ thể của nhân loại trong lịch sử. Bằng việc chọn một dân tộc và ban cho họ các phương tiện để chống lại tội lỗi và đến gần với Ngài, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho việc ngự đến của “một Vị Cứu Tinh quyền thế, từ nhà Đa-vít, tôi tớ Ngài” (Lc 1,69). Khi thời gian đến hồi viên mãn, Chúa Cha đã sai Người Con của Ngài đến thế gian; Người Con ấy đã loan báo Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 4,3). Những việc chữa lành mà Chúa Giê-su thực hiện, qua đó Người làm tỏ rạng sự quan phòng của Thiên Chúa, là dấu chỉ qui hướng về chính bản thân Người, Đấng được mặc khải trọn vẹn như là Chúa của sự sống và sự chết trong biến cố Vượt Qua của Người. Theo Tin Mừng, ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại bắt đầu bằng việc đón nhận Chúa Giê-su: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9). Tin Mừng cứu độ có một tên gọi và một khuôn mặt: Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. “Trở nên Ki-tô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng là kết quả của cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, cuộc gặp gỡ trao tặng cho đời sống một chân trời mới và một định hướng dứt khoát”.[1]

9. Qua dòng lịch sử hằng bao thế kỷ, với nhiều diện mạo, đức tin Ki-tô giáo đã làm tỏ rạng công trình cứu độ của Người Con Nhập Thể. Công trình cứu độ ấy được thực hiện mà không hề có sự tách biệt giữa chiều kích chữa lành của ơn cứu độ, nhờ đó Chúa Ki-tô cứu chúng ta khỏi tội lỗi, với chiều kích vinh thăng, nhờ đó Chúa Ki-tô làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, bằng việc thông phần bản thể thần linh của Người (x. 2 Pr 1,4). Khi nhìn viễn cảnh cứu độ theo hướng từ trên xuống, nghĩa là khởi sự từ Thiên Chúa, Đấng đến cứu độ con người, Chúa Giê-su là Đấng soi sáng và mặc khải, cứu chuộc và giải thoát, thần linh hóa và công chính hóa con người. Theo cái nhìn từ dưới lên, nghĩa là khởi sự từ con người qui hướng lên Chúa, Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế của Giao Ước Mới, dâng lên Chúa Cha việc thờ phượng hoàn hảo, nhân danh toàn thể nhân loại: Người tự hiến, đền tội và hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta. Bằng cách này, một sự hợp nhất lạ lùng giữa hành động thần linh và nhân loại tỏ hiện trong đời sống của Đức Giê-su, một sự hợp nhất chỉ cho thấy rõ lối nhìn cá nhân chủ nghĩa là không có nền tảng. Cái nhìn từ trên xuống làm chứng cho tính trổi vượt tuyệt đối của những hành động nhưng không của Thiên Chúa; vượt trước mọi hành động của chúng ta, sự khiêm nhường là điều thiết yếu để đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và là điều kiện cần thiết để lãnh nhận quà tặng của Ngài. Đồng thời, cái nhìn hướng lên nhắc nhớ rằng, nhờ những hành động hoàn toàn nhân loại của Người Con của Ngài, Chúa Cha muốn đổi mới hành động của chúng ta, để một khi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, chúng ta có thể thực hiện “những công trình tốt đẹp mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10).  

10. Hơn nữa, rõ ràng ơn cứu độ Chúa Giê-su mang đến nơi bản thân Người không xảy ra theo cách thức thuần tuý nội tại. Quả thực, Người Con đã mặc lấy xác phàm, để chia sẻ cho mọi người sự hiệp thông cứu độ với Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Bằng việc mặc lấy xác phàm (x. Rm 8,3; Dt 2,14; Ga 4,2), và sinh ra bởi người nữ (x. Gl 4,4), “Con Thiên Chúa đã trở nên con loài người”[2] và nên anh em của chúng ta (x. Dt 2,14). Như thế, vì đã trở nên thành phần của gia đình nhân loại, “Người đã liên kết với hết mọi người cách nào đó”[3] và đã thiết lập một thể thức tương quan mới mẻ với Thiên Chúa, Cha của Người, và với toàn thể nhân loại; chúng ta có thể được tháp nhập vào thể thức tương quan mới mẻ này và thông phần vào chính sự sống của Con Thiên Chúa. Bởi thế, việc mặc lấy xác phàm chẳng những không giới hạn hành động cứu độ, mà còn cho phép Đức Ki-tô trở nên trung gian ơn cứu độ của Thiên Chúa cho toàn thể con cái A-đam.

11. Tóm lại, để trả lời cho cả chủ thuyết giản lược mang tính cá nhân chủ nghĩa theo khuynh hướng Pê-la-gi-ô, lẫn lời hứa về ơn cứu độ thuần tuý nội tại theo khuynh hướng tân Ngộ đạo, chúng ta cần nhận biết cách thức nhờ đó Chúa Giê-su trở thành Đấng Cứu Độ. Người đã không tự giới hạn vào việc chỉ giới thiệu cho chúng ta con đường gặp gỡ Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể tiến bước trên nẻo đường riêng của chúng ta, bằng việc vâng nghe lời Người và noi theo gương Người. Đúng hơn, Chúa Ki-tô mở cho chúng ta cánh cửa tự do, và chính Người trở thành con đường: “Thầy là đường” (Ga 14,6).[4] Hơn nữa, lộ trình này không chỉ là một hành trình nội tâm ở bên lề các mối tương quan của chúng ta với người khác và với thế giới thụ tạo. Đúng hơn, Chúa Giê-su đã ban tặng chúng ta một “con đường mới và sống động qua bức màn chính là thân xác Người” (Dt 10,20). Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Độ vì Người đã mặc lấy toàn vẹn nhân tính của chúng ta và đã sống một cuộc sống nhân loại trọn vẹn trong sự hiệp thông với Cha của Người và với tha nhân. Vì thế, ơn cứu độ hệ tại việc tháp nhập chúng ta vào trong sự sống của Người, nhờ lãnh nhận Thần Khí của Người (x. 1 Ga 4,13). Người đã trở thành, “theo cách thế đặc biệt, nguồn cội của mọi ân sủng theo nhân tính của Người.”[5] Người vừa là Đấng Cứu Độ vừa là Ơn Cứu Độ.

V.          Ơn cứu độ trong Giáo hội, Thân Mình của Đức Ki-tô

12. Giáo hội là nơi chúng ta được đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giê-su thiết lập, đây là một cộng đồng gồm những người đã được kết hợp trong mối tương quan mới do Đức Ki-tô khởi xướng (x. Rm 8,9). Việc hiểu được tính trung gian cứu độ của Giáo hội là một trợ lực thiết yếu để vượt thắng mọi khuynh hướng của giản lược thuyết. Ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta không đạt được bằng những nỗ lực riêng của từng người chúng ta như thuyết tân Pê-la-gi-ô chủ trương. Đúng ra, ơn cứu độ có trong các mối tương quan nảy sinh từ Con Thiên Chúa nhập thể và các mối tương quan này tạo nên sự hiệp thông của Giáo hội. Giáo hội là một cộng đồng hữu hình bởi vì ân sủng Đức Ki-tô ban cho chúng ta không chỉ là ơn cứu độ nội tại như quan niệm tân Ngộ đạo đòi hỏi, song còn bởi vì ân sủng dẫn đưa chúng ta vào các mối tương quan cụ thể mà chính Người đã sống. Trong mầu nhiệm Giáo hội chúng ta được chạm đến các chi thể của Chúa Giê-su, đặc biệt nơi các anh chị em nghèo nhất và đau khổ nhất. Vì thế, tính trung gian cứu độ của Giáo hội, “Bí tích phổ quát về ơn cứu độ”,[6] bảo đảm cho chúng ta rằng, ơn cứu độ không hệ tại việc tự mình thực hiện đơn lẻ, cũng không hệ tại việc liên kết bên trong giữa cá nhân với thần thánh. Đúng hơn, ơn cứu độ hệ tại việc được kết hợp vào sự thông hiệp của những người cùng tham gia vào sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.

13. Cả hai quan niệm “duy cá nhân” và “thuần túy nội tại” về ơn cứu độ đều trái ngược với nhiệm cục bí tích, qua đó Thiên Chúa muốn cứu độ con người. Sự thông phần vào thể thức mới trong các mối tương quan do Chúa Giê-su khởi xướng, diễn ra trong Giáo hội nhờ vào các bí tích, trong đó Bí tích Thánh Tẩy là cửa vào,[7] và Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh.[8] Trong đó, chúng ta có thể nhận ra sự thiếu vững chắc của các chủ trương về tự thân cứu độ, vốn chỉ dựa hoàn toàn vào những nỗ lực của con người. Đức tin tuyên xưng rằng, chúng ta đuợc cứu độ nhờ Bí tích Thánh Tẩy, bí tích này đóng ấn vào chúng ta một dấu không thể phai nhạt là thuộc về Đức Ki-tô và Giáo hội. Sự chuyển đổi cách sống các mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với con người, và với tạo thành phát sinh từ Bí tích Thánh Tẩy (x. Mt 28,19). Quả vậy, được thanh tẩy khỏi tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khác, chúng ta được mời gọi vào sự sống mới đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô (x. Rm 6,4). Nhờ ân sủng của bảy bí tích, các tín hữu tiếp tục tăng trưởng và được canh tân về đời sống thiêng liêng, đặc biệt khi hành trình tâm linh trở nên khó khăn hơn. Khi từ bỏ tình yêu của mình đối với Đức Ki-tô bằng cách phạm tội, các tín hữu lại có thể được dẫn nhập vào các mối tương quan do Đức Ki-tô đã khởi sự trong Bí tích Hòa Giải, cho phép họ lại bước đi trên con đường Người đã đi(x. 1 Ga 2,6). Bằng cách này, chúng ta hy vọng hướng tới Cuộc Phán Xét Cuối, trong đó mỗi người sẽ được phân xử theo độ chân thực của tình yêu mình đã thể hiện (Rm 13,8-10), cách đặc biệt là đối với những người yếu đuối nhất (x. Mt 25,31-46).

14. Nhiệm cục cứu độ cũng đối nghịch với những khuynh hướng đề xướng một sự cứu độ thuần túy nội tâm. Thật vậy, thuyết Ngộ đạo tự liên kết với quan điểm tiêu cực về trật tự đuợc tạo dựng, trật tự này bị hiểu là sự giới hạn tự do tuyệt đối của tinh thần nhân loại. Vì thế, ơn cứu độ bị hiểu là sự giải thoát khỏi thể xác và các mối tương quan cụ thể mà con người đang sống. Ơn cứu độ đích thực, trái nghịch với tình trạng giải thoát khỏi thân xác, còn bao gồm cả việc thánh hoá thân xác (x. Rm 12,1) đến mức chúng ta được cứu độ nhờ “việc hiến dâng thân mình làm lễ tế của Đức Ki-tô Giê-su” (Dt 10,10; x. Cl 1,22). Thân xác con người đuợc Thiên Chúa nặn hình, Ngài khắc vào đó một ngôn ngữ mời gọi con người nhận biết các tặng ân của Đấng Tạo Dựng và sống thông hiệp với anh chị em của mình.[9] Đấng Cứu Độ tái lập và canh tân ngôn ngữ nguyên thủy này qua Mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Người, đồng thời thông truyền mầu nhiệm ấy trong nhiệm cục các bí tích. Nhờ có các bí tích, các Ki-tô hữu mới có thể sống trung thành với máu thịt Đức Ki-tô và nhờ đó, trung thực với thể thức tương giao mà Người đã ban cho. Thể thức tương giao này, đặc biệt đòi hỏi phải chăm sóc hết thảy nhân loại khổ đau bằng các công việc của lòng thương xót về phương diện tinh thần cũng như thể xác.[10]

VI.       Kết luận: Thông truyền đức tin, mong đợi Đấng Cứu Độ

15. Việc hiểu biết đầy đủ về sự sống mà Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ giới thiệu cho chúng ta, sẽ thúc đẩy các Ki-tô hữu hướng tới sứ vụ loan báo cho mọi người niềm vui và ánh sáng của Tin Mừng.[11] Trong công trình này, các Ki-tô hữu cũng phải được chuẩn bị – để thiết lập với các tín hữu của các tôn giáo khác cuộc đối thoại chân thành và xây dựng – với niềm tin rằng Thiên Chúa có thể dẫn đưa “tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh tác động một cách vô hình trong tâm hồn”[12] tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô. Trong khi tận hiến mọi nỗ lực của mình cho công cuộc loan báo Tin Mừng, Giáo hội tiếp tục khẩn cầu cuộc quang lâm tất định của Đấng Cứu Độ, bởi chính trong “hy vọng mà chúng ta được cứu độ” (x. Rm 8,24). Công trình cứu độ nhân loại sẽ chỉ hoàn tất sau khi đã chinh phục được kẻ thù cuối cùng là sự chết (x. 1 Cr 15,26), khi ấy chúng ta sẽ tham gia cách đầy đủ vào vinh quang của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng sẽ đưa tới mức độ viên mãn mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với anh chị em của mình và với toàn thể tạo thành. Cứu độ cả xác lẫn hồn là định mệnh chung cuộc mà Thiên Chúa kêu gọi toàn thể nhân loại hướng đến. Được xây nền trong đức tin, được nâng đỡ nhờ đức cậy, và hoạt động trong đức ái, theo gương Đức Ma-ri-a, Mẹ Đấng Cứu Độ và là người đầu tiên trong những người được hưởng ơn cứu độ, chúng ta chắc chắn rằng “quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Ki-tô Giê-su từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang của Người” (Pl3,20-21).

Lá thư này được Phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo Lý Đức Tin thông qua ngày 24-01-2018, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã chuẩn y vào ngày 16-02-2018, và ban lệnh phát hành thư.

Văn phòng Bộ Giáo Lý Đức Tin,

Rô-ma, ngày 22-02-2018, dịp lễ kính Ngai Tòa Thánh Phê-rô

(đã ấn ký)

+ Luis F. Ladaria, S.J.

Tổng Giám Mục Hiệu Tòa Thibica,

Tổng trưởng

(đã ký)

+ Giacomo Morandi

Tổng Giám Mục Hiệu Tòa Cerveteri,

Thư ký

 

 

 

---------------------------------------------

Bản dịch của Uỷ ban Giáo lý Đức tin



[1] Bê-nê-đic-tô XVI, Thông điệpDeus caritas est (25/12/2005), 1: AAS 98 (2006), 217; x. Phan-xi-cô, Tông huấn  Evangelii gaudium, 3AAS 105 (2013), 1020.

[2] I-rê-nêAdversus haereses, III, 19,1: Sources Chrétiennes, 211, 374.

[3] Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay Gaudium et spes, 22.

[4]X. Âu-tinhTractatus in Ioannem, 13,4: Corpus Christianorum, 36,132: “‘Thầy là đường là sự thật và là sự sống’ (Ga 14,6). Nếu bạn tìm kiếm sự thật ấy, hãy đi theo con đường ấy, vì con đường ấy cũng chính là sự thật ấy. Đích bạn nhắm và con đường bạn đi là một. Bạn không thể đến đích bằng việc đi con đường khác, bạn cũng không thể đến với Chúa Ki-tô qua một con con đường khác. Bạn chỉ có thể đến với Chúa Ki-tô qua Chúa Ki-tô. Đến với Chúa Ki-tô qua Chúa Ki-tô có nghĩa là gì? Bạn đến với Chúa Ki-tô là Thiên Chúa qua Chúa Ki-tô là con người. Qua Ngôi Lời làm người, bạn đến được với Ngôi Lời mà ngay từ khởi nguyên là Thiên Chúa và ở với Thiên Chúa.”

[5]Tô-ma A-qui-nô, Quaestio de veritate, q. 29, a. 5, co.

[6] LG, số 48.

[7] X. Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 63, a. 3.

[8] X. LG, số 11; SC, số 10.

[9]X. Laudato si’, số 155: AAS 107 (2015), 909-910.

[10] X. Tông thư Misericordia et misera (20-11-2016), 20: AAS 108 (2016), 1325-1326.

[11] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris missio (7-12-1990), 40: AAS 83 (1991), 287-288; Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii gaudium, 9-13AAS 105 (2013), 1022-1025..

[12]Va-ti-ca-nô II, Gaudium et spes, 22.

376    22-05-2018