Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Tính hài hước và sự thánh thiện theo Đức Phanxicô trong Tông huấn Gaudete et Exsultate tt

II. Tính hài hước và sự thánh thiện của con người

Thiên Chúa là Đấng Thánh và sự thánh thiện là một phẩm tính thuộc về bản chất của Ngài. Theo Thánh Kinh, con người được tạo thành giống hình ảnh của Thiên Chúa, mà nếu Thiên Chúa là Đấng Thánh thì bản tính con người cũng phản ánh sự thánh thiện của Ngài. Vì vậy ơn gọi nên thánh là ơn gọi chung của tất cả mọi người, để mỗi người phát huy sự thánh thiện vốn có nơi mình, như lời Thiên Chúa phán dạy: "Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 11,44) và theo nguyên mẫu là chính Ngài: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48).

Sự thánh thiện là ơn gọi siêu nhiên của con người, nhưng không đối nghịch hay loại trừ bản tính tự nhiên của họ, trái lại bao trùm và góp phần làm thăng hoa bản tính ấy. Từ đó sự thánh thiện của con người phải được thể hiện cả trên bình diện nhân bản tự nhiên lẫn trên bình diện siêu nhiên. Sự hài hước có thể phục vụ sự thánh thiện của con người trên cả hai bình diện ấy. Đặc biệt, sự hài hước của một người vừa biểu lộ niềm vui của chính mình và đem lại niềm vui cho kẻ khác; nụ cười và sự hài hước cũng nói lên tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa.

Sự hài hước biểu lộ và đem lại niềm vui, góp phần xây dựng nhân cách Kitô hữu

Nhân loại đang sống trong một thế giới thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ của nền văn minh vật chất và xã hội kỹ thuật. Đức Phaolô VI đã nhận định: "Xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui".[6] Nhiều người cho rằng "giải trí, thú vui, tiêu khiển và thoát ly thực tế mới làm cho đời vui", như lời Đức Phanxicô trong tông huấn Gaudete et Exsultate.[7]

Trong một thế giới như thế, Đức Phanxicô mời gọi các tín hữu hãy thể hiện sự thánh thiện bằng cách chiếu tỏa niềm vui đích thực: "Con đường thánh thiện là nguồn của bình an và niềm vui mà Chúa Thánh Thần ban tặng chúng ta".[8] "Đây không phải là niềm vui được quảng bá nơi nền văn hóa tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa ngày nay. Chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm phù nề trái tim. Nó có thể trao lạc thú chóng qua khi này khi khác, nhưng đó không phải là niềm vui".[9]

Khi nói đến việc nên thánh, người ta hay nghĩ đến khổ chế, hãm mình, hy sinh, và các vị thánh thường được diễn tả bằng những khuôn mặt nghiêm trang, trầm lặng, nếu không muốn nói là sầu bi. Tuy nhiên, để phản ứng lại cách diễn tả ấy, người ta vẫn thường nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn", bởi lẽ cười một cách lạc quan có lẽ là một trong những nét nổi bật của người có niềm tin, của một vị thánh. Thánh Phanxicô Assisi có lần đã nói: "Hãy trả lại sự buồn phiền cho ma quỉ, bởi vì chỉ có ma quỉ mới có đủ lý do để buồn phiền".

Trong tông huấn Gaudete et Exsultate, Đức Phanxicô viết: "Các thánh không rụt rè, rầu rĩ, chua chát hay u uất, cũng không mang một vẻ mặt thê thảm, các ngài rất vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh. Mặc dù rất thực tế, các ngài vẫn phản chiếu một tinh thần tích cực và hy vọng. Đời sống Kitô hữu thì "đầy niềm vui trong Thánh Thần" (Rm 14,17), vì "hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui; vì ai yêu thương thì vui mừng được kết hợp với người mình yêu… đức ái đem lại niềm vui".[10]

Sau đó, Đức Thánh Cha viết: "Niềm vui của Kitô hữu thường đi kèm với một cảm thức hài hước. Chẳng hạn, chúng ta thấy điều này rõ ràng nơi các thánh Tôma More, Vinhsơn Phaolô và Philipphê Nêri".[11] Cùng với niềm vui, sự hài hước cũng là một dấu chỉ của sự thánh thiện, vì nó vừa phát sinh từ một tâm hồn vui tươi, vừa đem lại niềm vui cho kẻ khác.

Hơn nữa, nếu thánh nhân là con người được coi là siêu thoát, thì đồng thời cũng phải là con người biết hài hước, bởi vì sự hài hước ăn rễ sâu trong sự siêu thoát của nhân cách đối với hoàn cảnh sống. Theo nghĩa ngày, mỗi vị thánh trong tiềm năng là một người có óc hài hước, cả khi xem ra như ngài rất nghiêm nghị, ít nói, đối với những ai không đủ khả năng để hiểu sự hài hước của ngài. "Các thánh gây ngạc nhiên cho chúng ta, các ngài làm ta áy náy, vì bằng đời sống của mình, các ngài thúc bách chúng ta dứt bỏ một tình trạng xoàng xĩnh buồn tẻ và ảm đạm".[12]

Trong bài nói chuyện với giáo triều Rôma ngày 22.12.2014, Đức Phanxicô nói: "Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui, nó được minh chứng ngay lập tức! Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, óc hài hước, thậm chí tự cười mình, những điều đó làm cho người ta dễ mến ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Một chút hài hước thật là tốt dường nào. Chúng ta sẽ làm tốt nếu thường đọc kinh của thánh Tôma More. Tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày. Câu cuối trong kinh nguyện của More là: "Lạy Chúa, xin cho con một cảm thức hài hước tốt lành. Xin ban cho con ơn hiểu biết những trò đùa, để khám phá trong cuộc sống một chút niềm vui và có thể chia sẻ niềm vui với người khác". 

Ngày nay, trong một xã hội nặng về kỹ thuật khiến con người ngày càng trở nên như những cái máy, người ta muốn tìm lại cho mình một khuôn mặt nhân bản hơn, nên đã định nghĩa con người là một con vật biết cười, vì cười là nét đặc trưng của con người khác với các sinh vật khác. Và nếu theo mạc khải Thánh Kinh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì nụ cười cũng là một nét đặc biệt trong hình ảnh ấy, nụ cười cũng phát xuất từ Thiên Chúa, cũng như sự thánh thiện là phẩm tính của Ngài. 

Để có thể hài hước và tạo nên niềm vui và nụ cười cho kẻ khác, thì chính mình phải là người vui vẻ, thoải mái. Đó là điều kiện tiên quyết cho nghệ thuật hài hước. Vì vậy, người có tâm trạng buồn phiền, tâm hồn cằn cỗi, cố chấp, bất an, giận hờn, ganh ghét nhỏ nhen không thể có khả năng hài hước. Để có được khả năng đó, cần phải tu tâm, dưỡng tính, tạo nên một bản lĩnh đạo đức, cao thượng, với tâm trạng lạc quan, thanh thản, vui vẻ hòa nhã, cùng với một trí tuệ sáng suốt, bén nhạy, có khả năng ứng biến khôn khéo, với lời lẽ ý nhị đúng thời đúng lúc, từ đó mới có thể truyền được niềm vui cho kẻ khác. Như thế, sự hài hước cũng là một cách để tự đào tạo nhân cách của mình.

Nhân cách chúng ta đề cập ở đây không chỉ là nhân cách nói chung, nhưng là nhân cách Kitô hữu mà đỉnh cao là sự thánh thiện Kitô giáo. Nếu sự hài hước giúp phát huy sự thánh thiện nơi con người, thì nó cũng góp phần vào sự hoàn thiện nhân cách của họ, như lời Đức Phanxicô động viên và giải thích: "Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc ta phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của mình".[13]

Sự hài hước nói lên lòng biết ơn Thiên Chúa

Nụ cười là một trong những món quà tuyệt vời nhất Thiên Chúa gửi đến cho con người. Ngoài ra, nụ cười còn là dấu chỉ của ân sủng. Đức J. Ratzinger đã viết: "Ở đâu sự hài hước không còn, thì ở đó chắc chắn cũng không còn tinh thần của Đức Kitô, vì niềm vui là dấu chỉ của ân sủng".[14] Niềm vui của người tín hữu là một thái độ nói lên lòng biết ơn của họ đối với Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Ngài ban xuống cho họ. Vì thế Đức Phanxicô đã viết: 

"Chúng ta nhận dồi dào mọi sự từ Chúa “để hưởng dùng” (1Tm 6,17), đến nỗi sự buồn phiền có thể là một dấu hiệu của thái độ vô ơn. Chúng ta có thể quá bận tâm với chính mình đến mức không thể nhận ra những quà tặng của Thiên Chúa".[15] "Với tình yêu của người cha, Thiên Chúa bảo chúng ta: “Con ơi, hãy làm cho đời con tốt đẹp… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn chúng ta có thái độ tích cực, biết ơn và thoải mái: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng… Thiên Chúa dựng nên con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv 7,14.29). Dù gặp trường hợp nào, chúng ta cũng giữ thái độ tích cực và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học biết vui lòng với điều tôi có” (Pl 4,11). Thánh Phanxicô Assisi đã sống tinh thần này; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì khô, hay hớn hở ngợi khen Thiên Chúa chỉ vì một thoáng gió mát mơn trớn qua khuôn mặt mình".[16]

Các tín hữu không phải chỉ vui để bày tỏ lòng biết ơn khi được Chúa ban an lành hạnh phúc, mà còn vẫn có thể vui và thậm chí còn tỏ ra hài hước để nói lên lòng biết ơn Thiên Chúa cả khi gặp thử thách gian nan, như ông Gióp đã nói trong cơn quẫn bách: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa" (G 1,21). 

Cuộc đời của các Kitô hữu trên trần gian là một cuộc đời đầy gian nan thử thách, tuy nhiên họ vẫn luôn vui cười và thậm chí còn biết hài hước, vì họ ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương và đồng hành. "Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta: “Anh em sẽ ưu sầu, nhưng nỗi ưu sầu của anh em sẽ biến thành niềm vui… Thầy sẽ đến với anh em và lòng anh em sẽ vui mừng, và không ai có thể tước mất niềm vui của anh em” (Ga 16,20.22). “Thầy nói với anh em những điều này, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 15,11)".[17]

"Những thời khắc khó khăn có thể xảy đến, khi mà thập giá xuất hiện, nhưng không gì có thể phá hủy niềm vui siêu nhiên vốn “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn bền bĩ, ngay cả như một tia sáng phát xuất từ sự xác tín trong lòng chúng ta rằng, sau tất cả, chúng ta được yêu thương vô hạn”. Niềm vui ấy mang lại sự an toàn sâu xa, niềm hy vọng vững chắc, và một niềm vui thỏa thiêng liêng mà thế gian không thể hiểu hay quí trọng".[18]

Sở dĩ các tín hữu có thể vui cười và hài hước ngay trong thử thách như thế là vì chính niềm vui ấy là một ân huệ do Thiên Chúa ban, chứ không phải tự sức họ. "Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, vì khi người ta nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được ấy không thể do người ta xứng đáng".[19]

Niềm vui và nụ cười phát xuất từ một tâm hồn hài hước, khiến cho bất cứ điều tồi tệ nào cũng có thể vượt qua hoặc chấp nhận dễ dàng. Mahatma Gandhi viết: "Óc hài hước là cây gậy giữ thăng bằng khi chúng ta đang bước đi trên sợi dây cuộc đời. Nếu chúng tôi không có óc hài hước thì chắc chắn chúng tôi đã tự tử lâu rồi". 

Ai cũng ghê sợ bệnh phong cùi, nhưng khi cha Đamiên, vị tông đồ nổi tiếng của các bệnh nhân phong tại đảo Molokai, thấy mình bị nhiễm bệnh ấy thì vui vẻ nói: "Tuyệt, từ nay thay vì bắt đầu bài giảng bằng câu: anh chị em thân mến, tôi sẽ nói là: thưa các bạn phong thân mến của tôi". Các thánh dẫn ta tới sự thánh thiện trong tươi cười. Người ta kể lại rằng thánh Tôma More lúc lên máy chém đã nói với lý hình: "Xin hãy giúp tôi bước lên, còn lúc xuống thì tôi xuống một mình cũng được".

Sau thời cách mạng Pháp 1789, tinh thần bài giáo sĩ tại nước này đang lên cao. Một hôm có hai sĩ quan từ lâu đã mất đức tin đang đi trên đường thì nhìn thấy từ đàng xa cha thánh Gioan Maria Vianney với chiếc áo dòng đen đang đi ngược chiều về phía mình. Hai viên sĩ quan mới nói với nhau: "Nghe đồn rằng ông cha này đạo đức thánh thiện và bác ái, vậy chúng ta hãy thử xem ông ta thực sự có lòng thương người như người ta đồn đãi hay không!". Vậy khi cha thánh đến gần, hai chàng sĩ quan giả bộ người lỡ đường và nói với ngài rằng:

    - "Thưa cha, chúng con là những binh sĩ về phép, dọc đường bị trộm móc túi hết cả tiền bạc và phải nhịn đói, vậy xin cha giúp chúng con một ít tiền để mua thức ăn cho đỡ đói".

Cha thánh lộ vẻ lúng túng, đoạn ngài bảo hai chàng chờ một chút, rồi ngài tiến đến một bụi rậm. Một ít phút sau ngài bước ra tiến lại gần hai chàng thanh niên với chiếc quần tây được xếp ngay ngắn trên tay và nói:

    - "Tiền bạc thì tôi không có, nhưng hai anh có thể cầm đỡ chiếc quần này của tôi đem bán, mặc dù nó cũ nhưng vẫn còn bán được đấy!"

Lúc ấy hai chàng sĩ quan quá xúc động mới thú thực rằng họ chỉ có ý thử ngài thôi. Hai chàng cũng cho ngài biết họ đã bỏ đức tin từ lâu, nay nhìn thấy tấm gương sáng của ngài, họ muốn xin xưng tội và hứa sẽ giữ đạo đàng hoàng. Bấy giờ cha thánh ngước mắt lên trời và nói:

    - "Lạy Chúa, Ngài thật quá ư quảng đại! Con chỉ hy sinh có một chiếc quần cũ mà Chúa lại ban cho con những hai linh hồn!"

Lời nguyện tạ ơn đầy tính hài hước của cha thánh Vianney đã bộc phát một cách hết sức tự nhiên từ một niềm tri ân sâu xa đối với Thiên Chúa.

Kết luận

Con người là con vật biết cười và nụ cười là một bông hoa mà Thiên Chúa đã sớm đặt trên môi miệng chúng ta ngay từ thời thơ ấu. Trước khi biết diễn tả bằng bất cứ cách nào, trẻ thơ đã biết nhoẻn miệng cười, và cái cười của nó làm cho mọi người được sung sướng. Trước khi con người làm bất cứ việc gì, họ đã biết nô đùa. Trong những lúc như thế họ cảm thấy thật là hạnh phúc.

Nhưng trong nền văn minh vật chất và khoa học kỹ thuật ngày nay, con người có nguy cơ trở thành những bộ máy vô hồn, phải vận hành theo một cơ chế đã được lập trình sẵn, cuộc sống bị ngột ngạt khó thở do ảnh hưởng của những chủ thuyết một chiều, đến độ không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn, tất cả những điều đó đã đánh cắp niềm vui của họ.

Ngày xưa, Chúa Giêsu đã phản ứng lại sự cứng ngắt của luật Môsê bằng cách giới thiệu con đường nên thánh qua bài giảng trên núi, mở đầu bằng Tám mối phúc thật chứa chan niềm vui, ngay cả trong đau khổ thử thách. Nay Đức Phanxicô cũng muốn phản ứng lại nền văn minh vật chất đầy tiếng động vô hồn buồn bã của máy móc, bằng cách hướng dẫn dân Chúa đi trên con đường thánh thiện bằng niềm vui mà Chúa Giêsu đã đem lại. Với sức mạnh của niềm vui này, con người có thể xây dựng sự thánh thiện của mình bằng những nụ cười khi được hạnh phúc, hay bằng những hài hước lúc gặp khó khăn, với tất cả tâm tình biết ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài ban khi bình an cũng như lúc gặp nghịch cảnh.

Nguồn: Giáo phận Qui Nhơn


[1] Xem “Humor” trong Encyclopedia Britanica, quyển 11, 1959, tr. 885-887.
[2] NGUYỄN DUY CẦN, Cái cười của thánh nhân, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1972, tr. 31-74.
[3] ĐỨC PHANXICÔ, Tông huấn Gaudete et Exsultate (Hãy vui mừng và hân hoan), số 111.
[4] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 122-128.
[5] J. RATZINGER, Thiên Chúa và trần thế, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2011, tr. 15.
[6] ĐỨC PHAOLÔ VI, Tông huấn Gaudete in Domino (9-5-1975), số 8.
7] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 75.
[8] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 164.
[9] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 128.
[10] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 122.
[11] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 126.
[12] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 138.
[13] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 32.
[14] J. RATZINGER, được trích dẫn trong B. HÄRING, Tự do và trung thành trong Đức Kitô (Free and faithful in Christ), tập III, do Lm Dom. Nguyễn Đức Thông dịch, tr. 533.
[15] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 126.
[16] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 127.
[17] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 124.
[18] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 125.
[19] Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 54.
Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi

519    20-09-2018