Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Bài 16: Loan Báo Tin Mừng Tại Việt Nam_Bài Đọc Thêm


BÀI ĐỌC THÊM

Dân Việt đón nhận Tin Mừng từ bao giờ ?

Cuốn Lê Triều Thượng Cổ Truyền Giáo (Hồng Kông 1919) dựa vào Gaillaud (Gaillaud : Essai sur les origines du Chritianisme au Tonkin et dans les autres pays Annamites, Paris 1915) cho rằng : Từ thời Thánh Tôma Tông đồ :

"Ông thánh Tume giảng đạo nước Annam, mà nhà vua giữ đạo được bốn đời, đến đời thứ năm mới bỏ đạo, song không dám phá thánh giá các tiên đế đã dựng trong đền, thì truyền xây tường mà che khuất đi".

Thái thú sĩ Nhiếp (187-226) : "Sĩ vương là người hiền hậu, đức hạnh, hoặc có phải bởi ông ấy hiểu biết đạo thánh Thiên Chúa mà nên người nhân đức dường ấy chăng ?"

Năm 980, một giáo sĩ Cảnh Giáo (Nestorio) tên là Aboul Faradge "đi làm một cùng năm thầy khác, đến thăm bổn đạo Trung Hoa thì kể rằng : khi đến nước Lâm-Ấp, gặp vua Lư Kinh". Năm 980 vua Lê Đại Hành đóng đô ở Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Ngoài ra theo chân phước Odorico di Portunaon (+1331, Ofm) trên hành trình đến Trung Hoa, ngài có ghé vào Dondiin, Bình Định (Trần Phổ, Dòng Phanxicô trên đất Việt, 1975, tr.9-10).

Riêng thánh Phanxicô Xavie thuật lại trong thư rằng tháng 7-1549, trên đường đến Nhật, ngài gặp cơn bão ở biển Cochinchina, phái đoàn có tấp vào bờ để kiếm củi. Theo sử gia Gispert thánh nhân đã ghé vào cửa Bạng, Thanh Hóa (Monumenta Xaveriana q I, tr.89. Gispert : Historia de Las Misiones Dominicanas en Tungkin, Avila 1928).

GIA PHẢ CỤ ĐỖ HƯNG VIỄN

"Nhánh thứ hai, đời thứ bảy, ông tổ là Đỗ công Biều, đậu cống sinh khoa thi Hương năm Kỷ Dậu, đời vua Chính Trị năm thứ bảy (Lê Anh Tôn 1558-1571) ... Con đầu là Viên Đức, con thứ là Hưng Viễn theo đạo Hòa Lang"

Đó là một trong những người Việt đầu tiên trở lại đạo. Có lẽ ông là người đầu tiên chịu phép rửa tội, nhưng không để lại một người con cháu nào có đạo cả. Cũng dễ đoán tại lý gì. Được rửa tội tại Nam Dương hoặc Macao, nơi người Bồ Đào Nha không biết dùng tiếng Việt Nam, mà thâu thập một đôi điều đạo lý Thiên Chúa Giáo, bèn là nhờ dùng tiếng Bồ Đào Nha, mà thứ tiếng ấy hẳn ông cũng chỉ biết được một ít chữ thôi. Hết sức lắm thì cũng biết làm dấu Thánh Giá hoặc tôn kính một cái ảnh tượng nào người ta đưa cho ông, đọc đôi ba câu kinh là cùng...
(Trích Cadière, Lịch Sử Đạo TC ở Việt Nam
- Nxb Đại Việt, Huế, 1944, t. 126-130)

LÒNG ĐẠO ĐỨC CỦA DÂN XỨ BẮC

"... Họ có một đức tin sâu xa vững mạnh, không gì có thể nhổ khỏi lòng họ được ... Lòng mến chuộng đức tin đã được lĩnh nhận, cho họ một lòng kính trọng không thể tưởng được đối với tất cả những nghi lễ dù nhỏ mọn mà họ được dự. Họ coi các thừa sai đến giảng đạo cho họ như những thiên sứ và lấy làm hân hạnh được vâng phục các ngài trong cả những điều nhỏ mọn. Không lần nào tôi trình bày cho họ về Thánh Giá mà không thấy họ cảm động rơi lệ.

Có những người ở xa 15 ngày đường đến xưng tội chịu lễ. Còn những người ở xa nhà thờ không đuá năm hoặc sáu dặm đường, thì không bao giờ chịu mất lễ các ngày lễ buộc. Họ đến từ chiều hôm trước và ở mãi đến hôm sau, sau khi đã dự hết các lễ nghi rồi mới trở về, nghĩa là lúc chiều tà. Suốt cả ngày hôm đó, họ ở nhà thờ, quì gối, chắp tay cầu nguyện, khiêm nhượng sốt sắng hết sức. Thấy họ như thế, tôi cảm động đến rơi lệ"
Đắc Lộ, Lịch Sử xứ Đông Kinh, tr 102

THƯ BỔN ĐẠO XỨ BẮC NĂM 1630 GỬI BỀ TRÊN CẢ DÒNG TÊN

Đọc bản chữ nôm (Arch. SJ. Roma, Jap-sin, N. 80 F.12v-13r)

"An Nam quốc, các bổn đạo thần đẳng bái tạ Thiên Địa chân Chúa, thư túc trình Đại Sư tại Tây Phương, Ý-Đại-Lỵ-A quốc, sứ tôn sư vãng Đông phương giáo hóa chúng sinh. Hạnh ngộ hữu sự đáo An Nam quốc, giảng Thiên Chúa thánh đạo, cố bản quốc hâm mộ bất thăng. Văn đạo thậm tảo, kế đắc ngũ thiên dư nhân, kỳ như tín đạo dũ đa. Nhiên bản quốc quân thần thượng vị thông hiểu, phỉ báng bất đắc dĩ tắc viết sơ vị hữu kim hà xử đắc lai. Độc bản đạo tâm vô nghi nhị ý đốc kính nhạ. Vi thử cảm thư túc trình Đại Sư thùy lân mẫn chi dân tình, cứu man di chi tiểu quốc. Hữu hà kẻ sứ An Nam quốc, quý tiện cộng đắc thánh đạo, tận khí tha kỳ, dĩ thoát trầm luân thụ phúc chỉ tắc kỳ tứ hữu di hỉ.

Thần bổn đạo, đẳng, kê thủ, túc trình hư thư.
Tự Thiên Chúa giáng sinh chi kim nhất thiên lục bách tam thập niên

Bản dịch

Tất cả các bổn đạo nước Annam, đều lạy tạ Chúa thật Trời Đất, cúi mình dâng thư lên Đại Sư ở Phương Tây, nước Ý-Đại-Lị-A, xin sai thày đáng kính sang phương Đông dạy dỗ chúng sinh. Thực vạn hạnh chúng tôi được các thày đến Annam giảng đạo thánh Chúa Trời. Nước chúng tôi hân hoan khôn xiết. Nghe theo đạo rất sớm, kể được hơn năm nghìn người, mà còn nhiều người nữa muốn tin đạo. Dẫu vua quan nước chúng tôi chưa hiểu biết, có những lời phỉ báng, nhưng đến nay vẫn chưa lên án đạo. Còn bổn đạo chúng tôi không bao giờ nghi ngờ hai ý, vẫn rất mực tôn kính đạo.

Vì thế chúng tôi cả dám kính đệ lá thư này lên Đại Sư, đấng rất chân tình thương xót, xin cứu lấy nước nhỏ mọn này (man di chi tiểu quốc). Xin liệu cách nào sai đấng làm thày sang nước Annam, để chúng tôi hết thảy, sang hèn, đều được đạo thánh, bỏ hết đường tà, thoát khỏi chìm đắm (dĩ thoát trầm luân), được phúc lành tức là được ơn thanh nhàn vậy"
(Theo bản dịch của Nguyễn Hồng, Sđd, tr. 140-141)

CUỘC XỬ ÁN THÀY ANRÊ PHÚ YÊN (1644)

... Một toán 40 người lính dẫn thày ra pháp trường cách tỉnh lị độ nửa dặm. Thày vui vẻ ra đi, vai mang gông nặng mà chân đi vẫn mau, cha Đắc Lộ phải rảo bước mới theo kịp. Đến nơi, thày quì gối ngửa mặt lên trời miệng luôn kêu thánh danh Chúa Giêsu. Một tên lính cầm giáo đâm vào ngực thày một nhát mạnh, lưỡi thày lè ra đằng trước đến gần bằng một lòng bàn tay. Thày Anrê âu yếm nhìn cha Đắc Lộ như gửi lời vĩnh biệt cuối cùng, cha ra dấu bảo thày nhìn lên trời, nơi Chúa đang đợi trao cho thày triều thiên tử đạo.

Rút giáo ra, tên lính đâm nhát thứ hai rồi thọc tìm quả tim đâm nhát thứ ba. Lạ quá, thày Anrê vẫn quì ngay ngắn, mắt nhìn lên trời. Thấy thế một người lính khác vung đao chém cổ thày, lát thứ nhất chém hụt, lát thứ hai đúng cổ họng, đầu đứt ngả về phía bên phải chỉ còn dính lại một chút da cổ. Chính lúc đó cha Đắc Lộ, như chính ngài thuật lại "nghe rõ ràng tiếng kêu tên cực trọng Chúa Giêsu, vì không kêu bằng miệng được, đã thoát ra ở vết thương nơi cổ, và cùng một lúc, linh hồn bay về trời, còn xác thì ngã xuống đất" Đó là ngày 26 tháng 7 năm 1664.
Nguyễn Hồng, Sđd, tr 177-178

MAI HOA CÔNG CHÚA XIN RỬA TỘI - 1951

Trang 33-34:

Bà Chúa phán rằng : "Phàm sự việc ở đời có lúc chấp kinh có khi tòng quyền, lẽ đâu lại chấp kinh mãi ; những lúc này là lúc phải tòng quyền, nào việc khó gì ? thày hẵng tạm bỏ đạo đi mà kết bạn vuối ta thì xong, kết bạn rồi thày sẽ ăn năn lở lại, lúc ấy cả dân ăn năn lở lại đạo cả, thế là xuôi trơn như không, việc hay mọi đàng, thày đã nghe ra chưa ?

Ông Odonez thưa:"Thân bà chúa, tôi thà chết chẳng thà bỏ đạo"

Bà chúa thấy tâu cứng cát làm vậy, thì thở dài và nghĩ ngợi một chốc, đoạn cho ông Odonez về mà bàn lại...

Trang 51-52 :

Bấy giờ có một phi nữ đi lấy một bình nước. Mà bà chúa quì xuống; đoạn ông Odonez hỏi rằng :"Bà muốn nhận tên gì?"

Bà Chúa rằng : "Xin nhận tên Maria"
Ông Odonez rằng "Maria, có muốn đi đạo Đức Chúa Giêsu chăng?"
Bà thưa rằng : "Có, muốn"
Ông Odonez rằng : "Nếu vậy bà phải tin các điều hội thánh tin"
Bà ấy thưa rằng : "Xin tin như vậy"
Ông Odonez lại hỏi về các điều cần phải tin trong đạo, mà tra từng điều một, xem bà ấy tin thể nào ; vậy hễ ông Odonez hỏi về điều gì, thì bà ấy thưa ngay rằng : "Có tin cả"
Sau hết ông Odonez hỏi rằng :"Khi bà đã chịu phép rửa tội đoạn, dù người ta có dâng cho bà cả và thiên hạ làm của mình mà bỏ đạo, thì bà có bỏ đạo chăng ?"

Bà chúa thưa rằng : "Dù có phải chịu chết mặc lòng, thì cũng chẳng bỏ".

Đoạn ông Odonez làm phép rửa tội cho bà ấy nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Ngày ấy là ngày hai mươi hai tháng Mai (5) năm 1591.

... Khi làm các phép ấy đoạn, ông Odonez bảo bà chúa rằng: "Bây giờ ta có họ thiêng liêng vuối nhau, tôi là cha và bà là con riêng tôi"

Bà chúa nghe thì mừng rỡ lắm mà rằng : "Nếu vậy bây giờ tôi chắc cha chẳng dám quên tôi nữa, tôi sẽ gửi thư cho quan toàn quyền tỉnh Goa, để quan ấy cho cha làm khâm sai mà trở lại đây, bấy giờ tôi sẽ được xử vuối cha như người họ hàng chí thiết"
(R. Caillaud, Lê Triều Thượng Cổ truyền giáo, HongKong 1919)

CÁC TÁC PHẨM CHỮ NÔM CỦA CHA MAJORICA

Một mình cha Majorica đã biên soạn 48 cuốn sách bằng chữ nôm. Ta có thể kể những tác phẩm chính :
- Thiên Chúa Thánh Gia hối tội kinh
- Chuyện thánh I-nha-xu
- Ngắm lễ mùa Phục Sinh
- Thiên Chúa Thánh Mẫu
- Thánh Phanxicô Xavie chuyện
- Thiên Chúa thánh giáo khai mông
- Đức Chúa chi thu
- Những điều ngắm trong các ngày lễ trọng
- Những kinh lễ mùa phục sinh
(Võ Long Tê, Lịch sử Văn học Công Giáo VN, Nxb Tư Duy, 1965, tr 172-176)

TRÍCH CHUYỆN THÁNH I-NHA-XU

"Ban đêm, dù giá rét, ông thánh Y-na-xu nằm trên ván không mà thức suy nghĩ sự Đức Chúa Blời. Khi người đỗ nhà ông ấy tên là Giu-ông, hễ là đêm, thì ông thánh Y-na-xu khiến ông Giu-ông đi nằm trước. Mà ông Giu-ông có nhiều lần làm thinh, rình ngó xem, bèn thấy ông thánh Y-na-xu khi quì gối, khi sấp mình xuống đất, khi ngửa mặt lên, mà thấy người nổi lên không, chân khỏi (đất), ở mặt mũi có hào quang sáng láng mà than thở cùng Đức Chúa Blời rằng : "Chúa chữa lòng tôi, chớ gì thiên hạ biết Chúa tôi mà thờ".

Có kẻ thấy mặt mũi ông thánh Y-na-xu chẳng phải kẻ mọn thì mắng người rằng : Sao ông đi ăn mày làm vậy, hay là có sự lỗi chi trọng mà sợ người ta bắt mình thì ẩn, giả chước làm vậy chăng? Khi người ta mắng làm vậy, thì ông thánh Y-na-xu vểnh cổ trở lại, vui mặt mà nghe hết lời ấy, đoạn mới trả lời rằng "Ơn ông làm phúc cho tôi"
Võ Long Tê, Sđd, tr 179

GIOAN THANH MINH (1588-1663)

Thanh Minh là tên một làng thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Gioan Thanh Minh được coi là một trong những tác giả sách tôn giáo đầu tiên của Việt Nam.

Mãi đến năm 34 tuổi, nhờ đọc các sách giáo lý chữ nho, ông Gioan Thanh Minh mới xin rửa tội, sau vào nhà chung làm thày giảng. Năm 1629, ông bỏ nhà chung và được phái đi thu thuế mỏ cho triều đình. Giai đoạn này ông sinh ra tật nghiện rượu.

Năm 1648, ông được Đức Mẹ hiện ra (?) trách ông về việc lâu năm bỏ xưng tội, nhiều giáo hữu khác khuyên nhủ, ông thay đổi đời sống và tích cực hoạt động tông đồ. Mỗi ngày ông suy gẫm sự thương khó cả giờ, và mỗi khi nhớ lại chuyện cũ đều khóc. Cuối cùng ông tử đạo thời chúa Nguyễn Phúc Tần.

Ông viết tất cả 15 tác phẩm : hạnh tích thánh Constantinô Cả, thánh Giosaphát, thánh nữ Mađalêna, thánh Inhatiô, thánh Phanxicô, thánh Đôminicô, thánh Catarina... và cuốn "Tuần chay suy niệm Đức Giêsu trong sa mạc" ...
(Võ Long Tê, Sđd tr. 182)

BÀ THÁNH TIÊN-DU-LA TRUYỆN

Bà thánh này là gương cho kẻ phạm tội được xem, mà quê người sinh ra ở thành A-lê-xan-ri-a, trong nước I-gi-tô, là con nhà sang trọng. Đến khi đã lớn lấy chồng cũng là người sang trọng mà ở cùng nhau lâu năm thì một lòng một ý. Song le, ma quỉ thấy hai vợ chồng phụng thờ Đức Chúa Trời cùng yêu nhau, vì vậy nó giục lòng thằng kia, dỗ bà ấy làm sự lỗi nghĩa vợ chồng. Đến khi đã phạm tội đoạn thì bà ấy lo buồn lắm, sảy một chút nữa mà chết, nhưng mà Đức Chúa Trời đã chọn người làm thánh cả thì mở lòng lấy tội làm bực mà lên thiên đàng ...

Bỗng chốc có một ngày người cắt tóc đi cùng mặc áo đàn ông mà đi tu nhà thờ ngoài thành mười tám dặm đường, là nơi các thày tu hành trên rừng vắng vẻ, mà xin vào đấy dâng mình cho Đức Chúa Trời... Người làm mọi việc hèn trong nhà này : làm bếp, kín nước, coi sóc cùng mọi việc khác. Người chịu làm việc ấy cho được đền vì tội mình làm vậy tám năm. Người chịu lụy trong nhà mà vui mặt liên, cho nên các thầy thấy làm vậy thì hãi mà khen ...

Vậy thầy cả dạy người đem ca-mê-lô đi mà mua gạo cho các thày ăn, ví bằng chẳng có về đến nhà, thì đỗ nhà thờ giữa đường. Khi người mua gạo về thì đã tối, phải vào nơi ấy mà đỗ đêm, thì nằm tầu ca-mê-lô ở coi sóc nó. Bấy giờ gái kia ngờ là đàn ông, thì giục làm sự chẳng nên, thì người mắng lắm. Nó liền hỗ ngươi mà đi tìm kẻ khác ác nghiệp cùng, đến khi có thai, thì chờ cho đến ngày sanh mà đem con đến trước mặt các thày, cáo thày ấy là kẻ người ta khen có nết, rày làm sự xấu hổ cho các thày làm vậy. Người nghe sự lạ thì chối, song le muốn chịu khó cho được phúc hơn nữa, thì ở lặng chẳng chối, cho nên các thày giận xua người ra mà trao thằng bé ấy cho nuôi.

Bấy giờ người chịu sự xấu hổ làm vậy, nhưng mà chẳng dám lìa nơi nhà thờ, một làm chút lều ngoài ngõ mà ở nơi các thày ra vào, chịu nhiếc nhục xấu hổ. Thằng bé thì xin sữa chiên mà nuôi, mình thì ăn những rau cỏ trên rừng, đói khát liên, nước mắt chảy ra, gầy guộc võ vàng lắm, bởi người đi nắng thì đen như mực, mà quỉ thấy người mạnh sức làm vậy, thì nó làm nhiều chước cho bỏ lều ấy mà về nhà quê. Có khi nó xui lòng nhớ sự sang trọng nhà mình xưa, cùng tưởng chồng hãy còn trông vợ về, mà chồng khóc chẳng khi nào đừng vì chẳng biết tin vợ ở đâu...

Đoạn người biết ngày rình ra khỏi xác, thi nói tiếng cùng thằng nhỏ ấy : con tôi, đã đến ngày cha rình sinh thì, phó con cho Cha ở trên trời vì là Cha thật kẻ mồ côi, cùng phó thác cho các thày cả ở nhà này, mà con xem các thày bằng anh vậy, chớ muốn cho người ta khen, Đức Chúa Trời khen thì hơn ...

Song le Đức Chúa Trời đã tỏ mọi sự người ra cho thày cả biết, cùng cho thấy phúc đức người đã được trên trời. Bấy giờ, thày cả nói sự ấy ra, các thày liền vào phòng mà làm phúc cho người. Thiên hạ mới biết là đàn bà thì thương mà kính người lắm, khen phúc đức cùng tiếc để bảy năm chịu những sự khốn khó mà chẳng ai thương...


1853    02-02-2011 07:25:21